Thủy Tiên

Hội viên
  • Số nội dung

    176
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Thủy Tiên

  1. Kiêng kỵ khi tìm đất và dựng nhà của người Nhật Phạm Minh Thảo biên soạn Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin Sách “Tác đình ký” của Nhật Bản cho biết, người Nhật cũng kiêng kỵ nhiều điều khi chọn đất.Về nước ở quanh nhà: Nước từ phía đông chảy đến rồi chảy đi theo hướng tây nam, là cái lợi nhất. Thanh long thủy đưa các ổ khí để cho Bạch hổ rửa sạch, thì chủ nhà không bị ốm đau vì nhiễm phải khí xấu, tâm tình nhàn nhã, vui vẻ. Do đó phải uốn nắn dòng chảy ở ngoại vi nhà ở. Nếu như từ hướng bắc chảy xuống thì phải làm cho dòng chảy rẽ sang phía đông rồi mới chảy sang phía tây. Dĩ nhiên, cứ để chảy theo hướng bắc nam cũng không xấu, lấy âm hội dương, vẫn phù hợp với lí lẽ của phong thủy. Ngoài ra, chỗ đất mà nước chảy quanh gọi là bụng rồng là đất lành. Kiêng ở vào chỗ lưng rồng vì đó là đất xấu. Về cây cối quanh nhà: Xung quanh nơi ở nên trồng cây để trở thành đất có đầy đủ bốn thần. Nước từ chỗ ở chảy về đông là thanh long, nếu không có dòng chảy thì có thể trồng chín cây liễu để thay Thanh long. Phía tây có đường lớn là Bạch hổ, nếu không có đường thì phải thay bằng cây thù. Phía nam có ao đầm là Chu tước, nếu không có ao đầm, phải thay bằng chín cây quế. Phía bắc có Huyền vũ, nếu không có núi, phải trồng ba cây khoai để thay Huyền vũ. Vậy là có mặt đủ bốn thần cư ngụ ở đây, đảm bảo có phúc lợi, không ốm đau, sống lâu. Trước khi dựng nhà, người Nhật đều mời thầy xem phong thủy, phải cử hành nghi thức địa trấn sát trước khi khởi công. Trước khi làm lễ, cắm bốn cành trúc còn cả lá ở bốn góc nền, ở chính giữa thì cắm thần li để làm nơi cúng tế. Sau đó, thỉnh thần chủ trừ yêu, tuyên đọc lời mừng và chôn hình nhân nhỏ bằng sắt và dao kiếm để loại bỏ điều dữ. Nhà sắp làm xong phải làm lễ thượng lương, trên nóc cắm một cây quạt để mời thần giáng lâm, lại dựng cung tên để bắn ma quỷ. Kiêng ngày xấu của người Nhật Người Nhật chú ý ngày tốt kiêng ngày xấu. Trên rất nhiều loại lịch ở Nhật, từ ngày thứ hai đến ngày thứ bảy đều ghi cát hung ở dưới hoặc ở bênh cạnh, như Đại an, Hữu dẫn, Tiên thắng, Xích khẩu, Tiên phụ, Phật diệt… Đại an, nghĩa là rất bình yên, là ngày Hoàng đạo, mọi sự điều tốt. Hữu dẫn, tức là ngày tốt một nửa, ban ngày xấu, ban đêm tốt, ngày này dứt khoát không được cử hành tang lễ, đề phòng linh hồn người chết dẫn bạn bè xuống âm phủ. Tiên thắng, tức là đến trước thì thắng, ngày hôm đó làm gì cũng phải tranh thủ làm trước. Tiên phụ, tức đến trước thì thất bại, ngày hôm đó làm việc phải thong thả, không được xuất đầu lộ diện. Ngày này, buổi sáng tốt, buổi chiều xấu, đến trước có thể thua cuộc. Xích khẩu, nghĩa là miệng vết thương đầy máu tươi, phải đề phòng xảy ra máu chảy. Ngày này sớm tối đều xấu, nhưng từ chín giờ sáng đến ba giờ chiều thì tốt. Phật diệt là ngày cực xấu, mọi người đều không được như ý, phải tránh ngày này. Kiêng gió thổi vào mộ Người Trung Quốc xưa tin rằng: “Trong phần mộ không có gió, khí sẽ không thoát ra, khiến thi thể yên ổn, ngàn năm không mục rữa. Ngược lại, nếu khí thoát ra, sâu bọ sẽ cắn nát thi thể, người chết thể phách không yên, họa đến cho con cháu”. Kiêng chọn ngày xây nhà thời Tống (Trung Quốc) Thời Tống, người dân cho rằng: Xây dựng nhà cửa có nhiều điều kiêng kỵ, phải chọn ngày lành tháng tốt, nếu không, sẽ bị tai họa. “Di Kiên chí” đã chứng minh cho điều kiêng kỵ này là đúng khi chép: Nam Tống, Hồng Hi nguyên niên (năm 1174), Vương Ngũ Thất là người xã Tân An, Phiên Dương làm nhà, có thầy phong thủy tên Tư Nhỡn nói rằng, chọn ngày không tốt, phạm sát (động vào hung thần), bất lợi cho chủ nhà. Vương Ngũ Thất không nghe, bị ngã chết. Từ đó, không còn ai dám phạm sát nữa. Thời Tống, người dân cho rằng: Xây dựng nhà cửa có nhiều điều kiêng kỵ, phải chọn ngày lành tháng tốt, nếu không, sẽ bị tai họa. “Di Kiên chí” đã chứng minh cho điều kiêng kỵ này là đúng khi chép: Nam Tống, Hồng Hi nguyên niên (năm 1174), Vương Ngũ Thất là người xã Tân An. Phiên Dương làm nhà, có thầy phong thủy tên Tư Nhỡn nói rằng, chọn ngày không tốt, phạm sát (động vào hung thần), bất lợi cho chủ nhà. Vương Ngũ Thất không nghe, bị ngã chết. Từ đó, không còn ai dám phạm sát nữa. Kiêng kỵ về xây nhà dưới thời Đường (Trung Quốc) Thời nay, người ta thường lấy họ ghép với phương vị về nhà ở để căn cứ vào đó mà dựng nhà. Chẳng hạn họ Trưng, họ Vương thuộc loại Thương. Những người này làm nhà không được mở cửa hướng Nam vì phương Nam thuộc hỏa. Hỏa họ Thương thuộc kim, trong ngũ hành hỏa xung khắc kim, nhà sẽ bị cháy rụi. Kiêng kỵ về địa hình thời Đường Thời Đường, người ta quan niệm “tam cát ngũ hung” và cho rằng: Thủy cố - dụng xấu – ngũ hung gồm: + Bạo (chảy ào ào) + Liêu (chảy lênh láng) + Trọc (đục ngầu) + Lại (chảy xiết) + Than (chảy xối xả) Sơn có 5 dụng xấu: + Đồng (trọc) + Đoạn (đứt đoạn) + Thạch (đá) + Quá (vượt quá hình thể) + Độc (đơn côi) Địa thế có ngũ hung: + Cát đụn đá chồng + Lũng sâu nước cạn + Cao nhọn chênh vênh + Lõm sâu nước đọng + Lộ liễu điêu linh Thôn xóm có ngũ hung: + Ao đầm tù hãm + Đồng ruộng chật hẹp + Mương hố nước đọng + Sa ghềnh nước réo + Soi bãi chuyển dịch Sơn thủy có ngũ hung: + Núi cao nước dốc + Núi ngắn nước thẳng + Núi dựng đứng nước bị cắt + Núi rối rắm nước chảy lung tung + Núi lộ ra hết nước chảy đi Âm dương có ngũ hung: + Dương phát âm hành + Âm lai dương tú + Âm kiềm dương lưu + Âm lưu dương triệt (đứt đọan) + Âm - một (biến mất) Sách “ngũ quỷ khắc ứng” thì cho rằng: + Hình như cờ rủ, không hẹn ngày về. + Chân co đầu ngoảnh lại, phát tích ở nơi khác. + Hình như trăng lưỡi liềm: tù đày cầm cố. + Hai sừng không nhọn: cửa vào không ra + Hình như vua nằm: mồ côi góa bụa + Đuôi rũ không vẫy: vậy là thế ngắn + Chặn ngang như cánh cung: cả đời khốn cùng + Hình như chữ y: lập thân không ra gì + Hình như thuyền lật úp: chết bởi vết thương
  2. Kiêng kỵ khi bố trí nột thất Phạm Minh Thảo biên soạn Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin Theo quan niệm của người Trung Quốc, nơi đặt bài vị trong nhà, tuyệt đối không được đối diện với phương Thái tuế, nếu không sẽ gặp tai họa.Đặt bài vị vào năm Tí, năm Sửu, năm Dần, năm Hợi, dứt khoát phải kiêng quay mặt về hướng bắc. Đặt bài vị vào năm Mão, năm Thìn, dứt khoát phải kiêng mặt quay về hướng đông. Đặt bài vị vào năm Tỵ, năm Ngọ, năm Mùi, dứt khoát phải kiêng quay mặt về hướng nam. Đặt bài vị vào năm Thân, năm Dậu, năm Tuất, dứt khoát phải kiêng quay về hướng Tây. Kiêng kỵ khi tìm nơi chôn cất Người Trung Quốc xưa có quan niệm riêng về chọn nơi chôn cất. Trong cuốn Mặc Tử - tiết táng có ghi: “Áo quan dày ba tấc, đủ để rửa xác; quần áo mớ ba đủ để che đậy. Còn như chôn cất, phía dưới không được có nước mạch, phía trên không thông với mùi xứ uế ở trên mặt đất, nếu có ruộng nước thì thôi”. Sách này dẫn ra khi chọn đất để chôn cất, chuyện được phúc cho hậu đại là có thể thấy trước. Thời Chiến quốc, em trai Tần Huệ Vương tên là Tật, khi còn sống đã chọn đất ở phía đông Chương Đài, Vị Nam, làm đất phần mộ cho mình và quả quyết rằng một trăm năm sau sẽ có cung điện của Thiên tử ở hai bên mộ mình. Quả nhiên, đến đời Hán, có cung Trường Lạc ở phía đông, cung Vị Ương ở phía tây mộ. Do đó, người ta căn cứ vào nơi để mộ - làng Sơ Lý - Vị Nam, đặt tên cho Tật là Sơ Lý tổ, và thờ làm Tổ sư thuật tướng trạch. Theo cuốn “Cửu ca thập quyết” có các điều kiêng kỵ về đất như sau: * Đất có mười điều không được táng: Không táng nơi có đá tảng lổn nhổn. Không táng nơi nước xiết, đầu ghềnh. Không táng nơi rãnh cụt, cảnh tuyệt. Không táng nơi núi đơn côi. Không táng nơi thần trước miếu sau. Không táng nơi xung quanh tù hãm. Không táng nơi nùi đồi tản mạn. Không táng nơi phong thủy buồn thảm. Không táng nơi dưới chỗ táng địa hình thấp nhỏ. Không táng nơi thủy khẩu bế tắc. * Đất có mười điều nghèo phải kiêng như sau: Thủy khấu không khóa. Thủy rơi vào không vong. Cửa thành vỡ lỡ. Nước phá vỡ cái chắn, chảy tuột đi. Sau lưng gió thốc. Tứ thủy đều không có tình. Nước phá thiên tâm. Nước cười róc rách. Nhìn bốn phía không chỗ nào hưởng ứng. Độc long. * Đất có những điều hèn phải kiêng tránh: Bát phong (tám phong) thổi vào huyệt. Chu tước tiêu sách. Thanh long bay đi. Lúc đầu cong đuôi. Thủy khấu chảy đi đôi ngả. Trước sau gió thổi xuyên qua. Tả hữu đều không có gì. Núi lở, nứt vỡ. Có chủ không có khách. * Đất có những điều sợ phải kiêng tránh: Long, sợ hung bạo. Huyệt, sợ khô lạnh. Sa, sợ quay lưng lại (phản bội). Huyệt, sợ gió thổi. Núi, sợ khô cằn nát vụn. Nước, sợ chảy thẳng. Sa, sợ nước tống đi như chuột chạy. Thủy, sợ phân cục chảy nghiêng. Núi đối diện với nhau, sợ ưỡn ngực. Long hổ, sợ chèn ép huyệt. * Đường (minh đường) sợ lệch lạc, phía trước sợ có giếng cạn, phía sau sợ có nhà cao hơn. Ổ huyệt, sợ bức bối. Đỉnh núi, sợ bát sát (tám sát). Thủy, sợ kiêm bát sát. Núi sợ tọa tiết quy. Minh đường, sợ quá thoáng. Trước huyệt, sợ trụng trai. Lai mạch, sợ thừa sát. Cao thì sợ tổn thương thổ ngưu. Thấo sợ mạch thoát khí. Mạch sợ lộ thai, sợ mòn đinh, sợ ướt đầu, sợ chặt chân. Huyệt sợ thừa phong, quan tài, sợ ải tử. Long, sợ nổi sóng. Hổ, sợ thử đường. Trên la bàn sợ hai chữ kim. Lập huyệt thừa khí, sợ hỏa khanh. * Như vậy, đất táng muốn tốt cho hậu thế phải có một số điểm sau: Phải hóa sinh khai trưởng. Phải hai tai chọc trời. Phải râu tôm mắt cua. Bên trái bên phải lượn vòng. Thượng hạ tam đình. Phải sa cước (chân sa) dễ xê dịch. Minh đường sáng sủa. Phải thủy khấu che chắn. Mình đường đón dương. Phải chín khúc quanh co. * Đất có mười điều phát phú: Minh đường cao to. Chủ khách ăn ý. Giáng long phục hổ. Mộc tước như chuông treo. Ngũ sơn cao vút đẹp đẽ. Nước bốn bề cùng chầu về. Các núi như đang xê dịch chân. Các đỉnh núi tròn trịa viên mãn. Rồng cao ôm lấy hổ. Thủy khấu lớp lớp. * Đất có mười điều phát quý: Thanh long song ủng. Long hổ cao sừng sững. Hằng nga thanh tú. Cờ trống tròn trịa, vuông vắn. Giá bút đặt trước nghiên mực. Quan cáo phục chung. Bạch hổ tròn trặn, sống động. Chấm phá thanh long. Bình phong tẩu ma. Thủy khấu lớp lớp. * Đất có hai mươi điều tốt: Long tốt: loan bay phượng múa. Huyệt tốt: tinh thần (trăng sao) tôn trọng. Sa tốt: dựa vào nhau như quân đồn trú. Thủy tốt: sinh động như rắn vừa ra khỏi hang. Long tốt: không bị vương tinh. Huyệt tốt: hung tinh bị chắn. Sa tốt: không có chầu có ảnh. Thủy tốt: như rắn vụt qua đường. Long tốt: đón, tiễn trùng trùng. Huyệt tốt: tàng bát phong. Sa tốt: ngàn đỉnh chen nhau. Sa tốt: hình đẹp như cây cung đặt nằm. Long tốt: như bút khi viết, như giáo khi vung. Huyệt tốt: bốn bên minh đường nghiêm chỉnh. Sa tốt: triều dương (châu về dương) sông chảy đẹp. Long tốt: như nhà sư tọa thiền. Sa tốt: như người ngồi viết. Thủy tốt: như cây cung lắp tên. Long tốt: có nắm có bệ. Huyệt tốt: có gói có bọc. Sa tốt: có nấm, có quả. Thủy tốt: có đóng có khóa. * Từ đó, người ta cho rằng đất tốt cần có: Long phải sinh vượng, phải nhấp nhô. Mạch phải mảnh, huyệt phải kín đáo, lai long (rồng đến) phải trực cục. Đường (bãi trống trước huyệt) phải sáng sủa, bằng phẳng. Sa phải sáng sủa, nước phải ngưng. Núi phải ôm vòng, nước phải chảy quanh, rồng phải ngủ, hổ phải thấp hơn rồng, nước phải tĩnh lặng. Phía trước phải quan, phía sau phải quỷ, lại phải gối đầu, hai bên nhìn vào nhau. Nước (sông, dòng chảy) phải gặp nhau. Thủy khẩu phải đóng mở. Huyệt phải tàng phong, lại phải tụ khí, bát quốc không được khuyết, la thành không được chảy tuột đi, núi phải không chỗ lõm, nước không được chảy tuột đi, đường cục phải trọn vẹn, nghiêm chỉnh. Núi phải nhô cao. Kiêng kỵ về chọn đất đời Thanh (Trung Quốc) Long phạm kiếp sát phản nghịch. Long có sống lưng sắc như lưỡi kiếm. Huyệt có hung sa ác thủy. Huyệt có phong khí thổi ra. Sa có hiện tượng vỡ lở. Sa quay lưng lại huyệt. Thủy như cây cung chĩa thẳng vào huyệt. Hoàng tuyền đại sát. Phương hướng phạm sinh khá vượng. Phương hướng phạm bế sát thoái thần. Theo phong thủy, các địa hình trên, nếu làm nhà, để mả đều không tốt. Ngược lại, đất có các địa hình dưới đây sẽ không phạm vào điều cấm kỵ: La thành châu mật. Thủy xung quanh huyệt. Sa thủy bay la liệt như sao trên trời, bảo hộ huyệt như thành trì. Vị trí cắm huyệt như đại tướng ngồi trong trướng, cờ quạt sĩ tốt sắp hàng hai bên, tám cổng thành khoa chặt chân khí. Sa thủy nội triều. Sa thủy bốn bên ốm lấy huyệt địa, các tỉnh đều hướng vào trong, tựa như rất có tình, lại có dáng như cúi chào. Minh đường rộng rãi. Trong cái địa thế được sơn thủy vây quanh, có một bãi phẳng, nhỏ thì lập được một thôn, lớn xây được một thành phố. Vượng khí bừng bừng, toàn bộ diện tích sinh cơ hừng hực, cây cối xanh tốt, mùa màng tốt tươi.
  3. Kiêng kỵ khi xây nhà Phạm Minh Thảo biên soạn Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin Theo quan niệm phong thủy; người Trung Quốc khi xây nhà kiêng kỵ một số điều sau:Mấy nhà xây cùng một dãy, phải cùng trên một đường thẳng, tục gọi là “xống”, còn gọi là long (rồng). Nhà cao thấp phải như nhau. Nếu nhà nào nhô ra trước, gọi là “cô nhạn xuất đầu” (chim nhạn một mình ló đầu ra) chủ nhà bị chết chồng hoặc vợ. Nếu nhô ra phía sau, gọi là “thác nha” (răng khểnh), vợ chồng không có êm thấm. Nếu cao thấp không đều, cao đè thấp. Nhà bên trái có thể cao hơn nhà bên phải, tuyệt đối không cho nhà bên phải cao hơn nhà bên trái. Tập tục quy định: tả thanh long hữu bạch hổ, thà rằng để thanh long cao vạn trượng, chứ không cho bạch hổ ngẩng đầu lên. Trong cùng một sân, dù là nhà của mình, cũng không được phòng bên lớn hơn và cao hơn phòng chính, phòng trước không được cao hơn phòng sau, nếu không đầy tớ sẽ khinh chủ. Trước nhà không được có ngôi nhà đổ nát dù có người ở hay không. Có nhà đổ nát trước cửa khiến người ta mất hướng: nhà đổ nát có nhiều vi khuẩn; nhà bỏ hoang dễ là nơi của kẻ lang thang trú ngụ; nhà xiêu vẹo dễ đổ sập, trẻ nhỏ chơi trong đó rất nguy hiểm. Ngoài ra, nhà bỏ hoang khiến người ta sẽ nằm mơ thấy ma quỷ, dễ bị ảo giác. Cổng nhà ở đối diện với góc nhà người khác, không tốt. Nếu góc của tường vây (tường rào) nhà người khác chĩa vào cửa nhà mình, thì gọi là nê tiêm sát. Nếu góc tường chĩa vào bên trái nhà, thì bất lợi cho đàn ông; nếu góc tường chĩa vào bên phải, thì bất lợi cho đàn bà. Nhà kiểu chữ bát: mồ côi, nghèo khổ, nhiều tật bệnh. Nhà kiểu chữ hỏa: bế kinh. Nhà kiểu cái quạt: vất vả, lênh đênh. Quá giang nhỏ cột to, cột bé tí: thường bị người áp đảo. Điệp đống (hai thượng lương chồng lên nhau) mà không có chái, nhà đổ bị ôn dịch. Nhà to không lưu gió, tan nát, người không có. Nhìn từ xa, nhà như ở dưới hồ, cô quả (góa vợ góa chống), nhân khẩu hiếm. Nhà trước cao nhà sau thấp, hại con, xung khắc vợ. Nhà sau cao, nhà trước thấp, già trẻ đều mê muội. Giữa cao, trước sau thấp, vợ chồng không hòa thuận. Giữa cao, trái phải thấp, hay bị chuyện thị phi. Chân tường rơi lả tả, sa sút và tai họa. Mặt bằng của nhà ở phải trước cao sau thấp, không được sau cao trước thấp. mặt bằng diện tích trước hẹp sau rộng thì cả phú lẫn quý. Mặt bằng diện tích trước rộng sau hẹp, của cải ít. Mặt bằng diện tích hình tam giác, không người lẫn của. Bốn góc mặt bằng đều có khiếm khuyết, tuyệt đối không được ở. Nhà quá to, nhân khẩu quá ít, không tốt. Nhà quá nhỏ, nhân khẩu quá đông, không tốt. Nhà ở của các con không được làm trong sân nhà cha mẹ. Nếu ghép hai nhà làm một thì không được nối liền mái hiên. Mặt tiền rộng hơn chiều dài, không tốt. Số phòng trong nhà, bao gồm phòng ngủ, phòng khách, bếp, nhà tắm, nhà xí v.v… có liên quan đến lành dữ. Một phòng là cát. Hai phòng không can hệ gì. Ba phòng là hung. Bốn phòng, hung. Năm phòng, cát. Sáu phòng, cát . Bảy phòng, cát. Tám phòng, hung. Chín phòng, cát. Số lượng cũng chỉ được là số lẻ, tránh số chẵn. Nhà ở nên dùng gỗ thuộc dương, như tùng, san, mai; không được dùng gỗ thuộc âm, như lật, nam, hòe. Từ bên ngoài mà có thể trông thấy cột cái thì sẽ có đứa con bất hiếu. Nhà xây dựng xong, ngoại hình không được như chữ sơn hoặc chữ đột. Nhà như vậy không đẹp, cũng không an toàn. Kho để chứa lương thực, thuộc Thổ, nền xây tại phương Thổ, tức phương sinh vượng, không được xây tại phương Mộc. Sương lang (hành lang) là một bộ phận của nhà ở. Thuật phong thủy coi hành lang như tay chân của nhà. Không có chân tay, không làm được gì. Hành lang có nhiều quy cách, không được ngộ sát, không được thiếu hành lang, không được xa tường. Có hậu lang (hành lang sau) tất phải có hành lang trước. Hành lan hai bên phải dài rộng bằng nhau. Thiên đỉnh là khoảng đất trống lộ thiên trong nhà. Thiên tỉnh không được có hình chữ nhất (-), không được làm nhà, phòng phía trên thiên tỉnh. Không được chứa nước ở thiên tỉnh, cũng không được xếp đá lung tung ở thiên tỉnh. Thiên tỉnh cũng không được quá sâu quá dài, tốt nhất là vuông vắn như bàn cờ. Nhà xí là nơi đại tiểu tiện, nhà xí kiêng các phương Càn Hợi Nhâm Tí Quý, lại kiêng xây ở chỗ lai mạch của ngôi nhà, kiêng ngay sau chính đường (phòng chính). Những phương vị này không được làm ô uế. Duy phương vị khắc với tọa sơn là hữu tù thì có thể đặt nhà xí, như Mão sơn thì Canh Thân là hữu tù; Nhâm sơn thì Cấn không là hữu tù. Trước cửa có bể phân thì sinh bệnh đường ruột, đất nhà xí ở lai mạch thì chết vì bệnh đậu mùa. Bản thân mỗi ngôi nhà là một “thế giới”. Tường rào là chỉ giới hạn của cái “thế giới” đó. Tường rào nhà ở không được nứt vỡ, gây cảm giác không an toàn, không phát huy được vai trò của tường rào. Dây leo không được bám đầy tường rào. Bởi dây leo dễ có sâu bọ và tăng quá mức độ ẩm cho ngôi nhà. Không trổ cửa sổ lớn trên tường vây, vì như vậy là “chu tước khai khẩu”, dễ bị điều tiếng. Tường vây mà trước rộng sau hẹp, không tốt. Tường vây trước hẹp sau rộng thì gọi là “Thoái điền bút”, tiền không vào nhà. Tường vây không được cao quá hoặc thấp quá, cũng không được áp sát nhà. Góc đông bắc của tường vây không được vỡ nứt. Không được xây tường rào trước, xây nhà sau, nếu không phạm vào chữ “tù”. Mái hiên trên tường vây không được rộng quá hai thước, nếu không vợ lẽ sẽ nắm quyền trong nhà. Hai bên cổng lớn, tường phải cao thấp rộng hẹp bằng nhau và phải đúng quy cách. Cửa là phụ kiện quan trọng nhất của nhà ở, vì cửa là bộ mặt, là yết hầu, là tiêu chí thịnh suy của ngôi nhà. Cửa khơi thông không gian trong với ngoài ngôi nhà, là thông qua cửa, trên có thể tiếp thiên khí, dưới có thể tiếp địa khí, đón lành tránh dữ. Vì thế người ta phân biệt cửa vượng và cửa suy: Cửa thông với đường cái lớn là rất quan trọng. Khí sinh ra ở trên đường, hễ mở cửa là khí tràn vào nhà. Nếu cửa bỏ vượng mà lấy sát, thì điều dữ sẽ ập đến. Hai nhà đối diện cửa, nhà nào cửa cao hơn thì nghèo. Cùng một dãy nhà, cửa nhà nào to hơn thì ăn nên làm ra. Đối diện với cửa quan, cửa ngục, cổng thành thì cực xấu (đại hung). Đối diện với triều môn (cổng hoàng cung), cổng kho lẫm, thì không yên ổn. Không được xây lầu trên cổng (môn lâu), nếu xây môn lâu phải hết sức đúng quy cách. Môn lâu sáng giá là môn lâu đem lại điều lành. Môn lâu không được lệch về bên trái hay bên phải, cũng không được cao quá hoặc thấp quá. Môn lâu phải lưng quay về hướng bắc, mặc quay về hướng nam, nói vậy có nghĩa là nhà ở phương Khảm thì phương Tốn (đông nam) là tốt nhất. Làm cổng là một nghệ thuật. Theo nguyên lý “tụ khí”, cổng phải đón được khí, lại có thể tụ khí, không để khí bị đè chết. Các cổng trong cổng lớn, đều căn cứ vào nguyên tắc tương sinh của ngũ hành, không được khắc chế lẫn nhau. Các cổng không được cùng một hướng, nếu không “khí” sẽ thoát đi mất. Cổng mà nhỏ thì không tốt, không khí không lưu thông, bất tiện khi ra vào, cũng thiếu vẻ đẹp. Nếu nhà nhỏ cổng to, cũng không tốt, không an toàn, không thực dụng. Nhất thiết không để tảng đá đối diện với cổng nhà ở. Đá tảng gây trở ngại, người già trẻ em dễ bị vấp ngã, cũng không thuận tiện cho việc quét dọn. Nếu cửa hoặc cửa sở mở ở mặt nam của nhà thì tốt nhất nên có hiên hoặc tấm che nắng, nếu không sẽ cãi nhau. Cửa trời (ô cửa lên tầng hộ thiên) của nhà mái bằng không được mở ở góc tây nam hoặc đông bắc của mái bằng. Cửa trời không được mở nhiều, nếu không, dương khí quá thịnh. Cửa sổ của nhà ở mở về hướng bắc, sẽ dẫn đến phụ nữ kinh nguyệt không đều. Những ngôi nhà riêng biệt, nhất thiết phải có cửa sau. Cửa trước cửa sau là để lưu thông không khí và thuận tiện cho việc đi lại ra vào và nếu cửa trước bị hỏa hoạn thì có thể ra khỏi nhà bằng cửa sau.
  4. Kiêng kỵ khi chọn đất làm nhà Phạm Minh Thảo biên soạn Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin Chọn đất làm nhà phải rất chú ý kiên gkỵ vì điều này liên quan đến những người sống trên mảnh đất đó. Người Trung Quốc xưa quan niệm:Nơi mà đông thấp tây cao thì phú, quý. Trước cao sau thấp môn hộ tuyệt diệt. Trước thấp sau cao trâu ngựa đầy đàn. Mặt đất bằng phẳng thì gọi là Lương thổ (đất Lương). Trước thấp sau cao thì gọi là Tấn thổ (đất Tấn) ở thì gặp chuyện lành. Tây cao mà đông thấp thì gọi là Lỗ thổ (đất Lỗ) ở thì phú quý, sẽ xuất người hiền. Trước cao mà sau thấp thì gọi là Sở thổ (đất Sở) ở thì gặp chuyện dữ. Bốn phía đều cao mà ở giữa thì thấp gọi là Vệ thổ (đất Vệ) ở thì trước giàu, sau nghèo khổ. Ngoài ra còn phải chú ý nhà ở không được làm ở cửa ngõ ra vào trên sườn núi hoặc thung lũng: như vậy tar1nh được lũ hoặc sét đáng. Nhà ở phải có bãi trống ở mặt nam: Nhà ở lưng quay về bắc, mặt quay về nam, thì mặt nam là nơi ra vào và hoạt động, có bãi trống rất tiện cho nghỉ ngơi, phơi phóng, vui chơi. Nhà ở không được làm trên giếng cũ. Giếng cũ thường là đất mới san lấp nên không chắc, rất dễ bị lún, đổ nhà. Giếng cũ có khi thoát địa khí hoặc rỉ nước mạch, bất lợi cho người ở. Xung quanh giếng cũ, nói chung ẩm ướt, người ở rất dễ bị phong thấp. Nhà ở không được làm ở ngã ba đường cái (chữ đinh) con đường đâm thẳng vào mặt tiền. Nhà ở chỗ ngã ba dễ bị tai họa bất chợt, xe hạy ban đêm, lái xe say rượu, bất cứ lúc nào cũng có thể đâm thẳng vào nhà. Những chuyện như vậy đã nhiều lần xảy ra. Ngoài ra, người ta đánh lộn cũng hay gây nguy hiểm cho những nhà kiểu này. Nhà ở không làm ở ngõ cụt: Ngõ cụt thì ra vào không thuận tiện, không lợi cho việc trai đổi tin tức và đi lại, sẽ dẫn đến tâm trạng cô độc và tâm lý hẹp hòi. Nếu có hỏa hoạn, không có đường chạy. Bên cạnh nhà ở có đền, miếu, thì không tốt. Đền, miếu tạo nên không khí u uẩn, lạnh lẽo, vắng vẻ đối với người ở. Nếu như ở đấy hương khói nhộn nhịp thì lại ồn ào, suốt ngày không có lúc được yên tĩnh. Có kẻ ra người vào, khó tránh được trộm cắp. Nhà ở nếu mặt nam có núi cao, thì nhà đó chắc chắn có người cuồng chữ. Trước cửa có núi che mất tầm nhìn. Gió bấc thổi vào núi rồi hồi chuyển vào nhà, không lợi cho sức khỏe. Trước cửa, sau nhà phải có đường cái. Quan niệm phong thủy cho rằng, phàm là đường đi mà có rẽ phải, rẽ trái, thì sát khí níu kéo, không liên quan đến lành dữ, nếu quá hẹp và thẳng đuột, nhà ở bị tù túng. Ở lâu trong ngõ cụt, con người sẽ cô độc, khổ sở, sẽ sa sút so với người ở ngõ dài. Ngõ không được chọc thẳng vào nhà, không được bên trong rộng bên ngoài hẹp, không được đoạn đầu to đoạn đuôi nhỏ. Cầu là công cụ để vượt qua dòng chảy. Trước nhà không nên có cầu chắn cửa. Cầu phải ở bên phương vượng của nhà ở. Cầu chặn trước cửa, thì nhà ở không an toàn. Phía tây nam nhà ở có ngã tư, thì nhà ấy phụ nữ tính tình cứng rắn. Đông bắc nhà có ngã tư, phụ nữ sinh đẻ bị ảnh hưởng. Bốn bên của nhà ở đều là đường cái, rơi vào chữ “tù”. Nhà đơn độc không có hàng xóm, thiếu sự giúp đỡ lẫn nhau và thiếu cảm giác an toàn, quần cư tốt hơn độc cư. Đường cái trước nhà hình cánh cung hoặc chữ S, làm ăn không khấm khá. Không được trồng dâu trước nhà. Theo “Sưu thần ký”: Có một người tên là Bão Viên, nhà nghèo lại hay ốm đau, bèn mời thuật sĩ đến xem bói. Thuật sĩ xem rằng xung quanh nhà ở có chuyện, vì phía đông bắc có một cáy dâu lớn. Trung Quốc kỵ trồng dâu trước nhà. Tục ngữ có câu: “Trước nhà không trồng dâu, sau nhà không trồng hòe”. Tang (dâu) trùng âm với tang (tang lễ). Cây dâu trước nhà, đọc lên có nghĩa trước cửa có đám tang, hung sát chủ trì chuyện chết chóc, khóc than v.v… cây cối quanh nhà được xem như xiêm áo, không có cây che chở, thì không thể bảo vệ sinh cơ. Thung lũng gió mạnh, không có cây che chở cũng không thể bảo vệ sinh cơ, không thể chống lại khí lạnh. Nơi thôn dã mà cây cối tươi tốt, tất nhà phát vượng: cây cối xơ xác, tất nhà suy bại. Cây cỏ tươi tốt sinh khí thịnh vượng, hộ ấm địa mạch, là phú quý hoàn cục. Như phía đông trồng đào, dương; nam trồng mai, táo; tây trồng thị, du; bắc trồng hạnh, lý sẽ đại cát lợi. Nếu như đồng hạnh, tây đào bắc táo, nam lý, trồng như vậy là thất nghi, sẽ có chuyện tà dâm. Người ta cho rằng phương Nhâm Tỵ Quý Sửu hợp với trồng dâu, trắc; phương Dần Giáp Mão Ất hợp với trồng tùng bách; phương Thân Canh dậu Tần, nên trồng thạch lựu; phương Tị Thìn Tốn hợp với rừng lớn; phương Tuất Càn Hợi hợp với rừng thấp. Ngoài ra, người ta còn kiêng trồng một số cây trước cửa nhà như sau: - Đào hạnh trước cửa nhà, trai gái rượu chè bừa bãi. - Cửa đối diện với cây thùy dương có người chết treo xà nhà. - Độc thụ (một cây) chặn cửa, mẹ góa con côi. - Cửa đối diện với giữa rừng cây, họa to bệnh nặng. - Hai cây song đôi trước cửa, súc vật ốm, người khỏe. - Cây một, trơ trụi, mẹ chồng con dâu bất hòa. - Cây to cổ quái, khí thống danh bại. - Rễ cây sưng phồng, đui điếc hôn mê. - Cây to góc tường, lắm chuyện kinh hoàng. - Bên trai có cây, bên phải không cây, lành ít dữ nhiều. - Cây bên phải ra hoa đỏ, nhan sắc làm tan cửa nát nhà. - Cây cong như bướu lạc đà, định tài đều giảm. - Cây khô trước cửa, cháy nhà chết người. - Cành cây bị dây leo quấn chặt, thắt cổ, đắm đò. - Cây khô nóc nhà, đàn bà chết chồng. - Cây to áp sát cửa, không có con gái, ít con trai. - Cây ăn quả chỉ tươi tốt nửa bên trái, ốm đủ thứ bệnh. - Cây ló r a phía ngoài, ắt bị tội đồ. - Ngọn cây nhúng nước, có người chết đuối. - Hai cây kèm hai bên nhà, chết người thân thuộc. - Cây như trâu nằm, dần sương lắm bệnh. - Cây tiêu thường xuyên ở trước cửa, góa phụ lênh đênh cơ khổ. - Trước cửa có cây chết, mất hết đường tiến thân. Theo quan niệm phong thủy, nước xung quanh nhà ở chia làm sáu loại: - Triều thủy, như sông chín khúa, như thủy triều. - Hoàn thủy, chảy vòng tròn như thắt lưng, như cánh cung. - Hoành thủy, như hình chữ nhất, dòng thắng. - Tà lưu thủy (chảy xiên). - Phản phi thủy (dội ngược lại). - Trực phi thủy (chảy tuột đi). Theo quan niệm của họ ba loại đầu chủ cát, ba loại sau chủ hung. theo luật phong thủy, nước xung quanh nhà ở có ảnh hưởng lành dữ đối với người. - Dòng nước gần nhà mà cắt trước cửa (cận thủy cát môn), thì người không yên ổn. - Dòng nước chảy thẳng vào trước cửa (thủy trực xung môn), chủ của mất người. Ngoài ra, có những cấm kỵ đối với rãnh nước, ao, hồ như sau: Rãnh (thủy câu) là rãnh ngầm thoát nước từ trong nhà ra ngoài, phải ngầm chứ không được lộ thiên. Đào rãnh thoát nước phải lựa thế đất, đào thường theo phương vị Tý vòng vèo dẫn ra thì khí không tản mát. Nếu chảy tuột đi, thì của cải không gom góp được. Mở cửa thải nước thì của cải tản đi không ở lại. Chỗ thoát nước ở chỗ đối diện với cửa, cũng không giữ được của. Nước ở hai bên, phú rất lâu bền. Hễ là hướng Bính Ngọ, rãnh nước phải từ bên phải Thiên tinh phía trước chảy vòng lại theo phương Tân; Thiên tỉnh giữa thì chảy vòng lại theo phương Canh Thiên tỉnh sau thì chảy vòng lại theo phương Càn. Nếu có vài nhà ở liền nhau, thì bên ngoài cửa được đào một rãnh ngang để thoát nước. - Ao, hào là nơi cấp thoát nước của nhà ở. Nhà to ao nhỏ, nam cô độc, nữ chết yểu. - Nhà nhỏ ao to, tài bạch lưu tán. - Ao to trước cửa, không thọ. - Ao to sau nhà, chết yểu từ nhỏ. Ngoài ra, ao trước thẳng và dài, ao sau hẹp và nhỏ, kẹp giữa ao trước và ao sau, ao to thôn tính ao nhỏ, ao trên lấn ao dưới, trong nhà có bể nước, giữa ao có thủy đình, trong ao có núi nhỏ, nước ao như bùn màu vàng, đều thuộc hung cách (xấu). - Ao trước nhà có góc nhọn chĩa vào cửa, dễ bị ốm đau. Giếng nước là dùng nước mạch ngầm dưới đất. Đào giếng, phải đào ở phương sinh vượng, kiêng phương quan sát. Trên phương vị địa chi thì không được. Hễ là phương Càn, Khảm, Sửu, dần, Thìn, Li, thân, đền không tốt. Hễ là phương Nhâm, Cấn, Tỵ, Tân thì có cát có hung về các mặt phát tài, quái tật, bị cướp, tuấn tú, quan cao, nhiều con. - Xây nhà cửa mà lấp nhiều giếng, rãnh thì khó bền.
  5. Kiêng kỵ khi chọn đất không tàng phong Phạm Minh Thảo biên soạn Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin Theo thuyết phong thủy của Trung Quốc, chọn đất tốt làm nhà là đất phải tàng phong, nếu gió thốc sau lưng, nhà sẽ nghèo. Nếu chọn đất đặt mộ, gió thổi vào huyệt sẽ hèn.Gió là sự chuyển động của không khí. Các triết gia thời xưa có đủ các loại nhận thức về gió. “Trang tử - Tiêu dao du” viết “Đất thở dài, hơi thở thành gió”. “Hoài Nam tử - Thiên văn huấn”: “Khí của trời, lúc giận là gió”. “Thuyết uyển”: “Khí của trời đất giao hòa thì sinh ra gió”. Gió giúp vạn vật thay đổi, cỏ cây tươi tốt, phấn hoa truyền đi. “Gió nhẹ làm cho đất ấm… Gió xuân làm cho vạn vật sinh sôi… Gió sa mạc khiến vạn vật khô héo”. Gió có quan hệ đến sự lành dữ của con người. Gió làm đổ nhà đổ cửa, tắc nghẽn giao thông. “Sử ký – Thiên quan thư” có ghi: “Gió từ phương nam đến: đại hạn; từ tây nam: hạn nhỏ, từ phương đông: nước lớn; từ đông nam: dân bị ốm đau, mất mùa." Tôn sùng gió, tất nhiên phải quan sát gió. Thời Hán rất thịnh hành phong giác. Phong giác là một thuận chiêm phong (quan sát gió). Do vậy, thuật xem đất, coi gió là một trong những nội dung quan trọng. Phong thủy cho rằng “thuyết về tám loại gió”: phía trước huyệt có ao phong (gió từ chỗ trũng thổi ra), minh đường (bãi đất phẳng trước mộ) tất sẽ hất đi, án sa không có, đường khí khó thu, đông đến trâu đất, chủ bần hàn bại tuyệt. Phía sau huyệt có ao phong, tất hai cánh tay bị lạnh, đương nhiên là không có chỗ dựa, huyệt tinh không thể khởi dậy, chết yểu không con. Bên trái huyệt có ao phong, thì long sa yếu ớt, chủ con trưởng lênh đênh, góa bụa. Bên phải huyệt có ao phong, tất bạchhổ khuyết, không nâng đỡ chi thứ, quặt quẹo, chết yểu. Hai vai huyệt có ao phong, tức phương vị chủ trì việc thai nghén bị thưởng tổn, dù các mặt khác đều là gió lành, thì cũng chủ bại tuyệt. Hai chân huyệt có ao phong, tất con cháu tế lễ nới thấp, lõm, mà thủy khẫu quay ngang, chủ tan cửa nát nhà, mất hết tài sản. Trong tám loại gió, thì gió Cấn ở hướng Cấn là dữ nhất, là vì cung Dần là cơ tinh, cơ sinh phong tinh. Dù là chỗ đất phong thủy sinh vượng, nếu cẩu thả ngồi cung Dần mà chiều gió Cấn, nhẹ nhất cũng bị bại liệt hoặc mắc bệnh điên, nặng thì nhà tan người chết. Do đó, khi chọn đất phải chú ý tới gió. Kiêng kỵ ốm đau bằng cách rửa xương cốt Thời Nam Tề, ở Hành Dương, nhân dân tin rằng ốm đau là do tiền nhân giáng họa, phải đào mộ tổ, mở nắp quan tài, đem xương cốt ra rửa, gọi là “tẩy cốt trừ xui” (rửa xương để giải xui). Sau này, Cố Hiến Chi người đất Ngô làm nội sử Hành Dương, tuyên truyền trong dân đạo lý về sinh tử, giải thích những chuyện ốm đau không liên quan đến người đã mất, cuối cùng mới thay đổi được tục đó. Kiêng kỵ táng ở chỗ đất trước đây đã táng Đất táng hoặc dở, được coi là có liên quan đến lành (cát) dữ (hung). Người Tống cho rằng không nên táng ở chỗ đất trước đây đã táng. Tiềm Hi Bạch chép rằng, vợ của Tiền Văn Bỉnh chết. Tiền thạo môn địa lý từ nhỏ, chọn được một huyệt trong rừng thông bên cạnh viện Báo Ân. Một nhà sư bảo Văn Bỉnh chỗ đấy là mộ cũ cửa thánh hiền, không thể sử dụng lại mộ huyệt. Văn Bỉnh không nghe, đào lên thì thấy mấy phiến đá, trong đá bay ra một mũi tên đen trúng vào lông mày bên phải của Văn Bỉnh. Đầu Văn Bỉnh sưng to bằng cái đấu, đêm hôm đó thì chết. Nghe nói đây là mộ của Do Dư không được động đến. Từ đó, người Tống luận rằng, mộ huyệt cũ của thánh hiền thì không được động vào, nếu không sẽ gặp chuyện dữ. Do đó dân gian hết sức coi trọng chuyện chôn cất. “Chu tử gia lễ” chép: người dân thường chết sau ba tháng mới chôn, vì đầu tiên là phải tìm đất, sau đó là chọn ngày đào huyệt. Kiêng kỵ chữ “Tù” khi xây nhà Đây là quan niệm về Phong Thủy đời Đông Hán. Quan niệm này ảnh hưởng rất nhiều đến đời au. Các thầy phong thủy rất kỵ chữ này, xây nhà không được xây trước rào nhà; phải thông với đường cái, phần mộ không được xây kín bốn bên, nếu không sẽ phạm vào điều cấm kỵ là chữ “tù”. Kiêng đất dữ bằng trấn trạch Người Trung Quốc xưa kia cho rằng: “xem đất làm nhà, phải xem hình thế khí sắc, cây cỏ đổi thay, họa phúc xen kẽ, lành dữ còn mất. Xem đất để mả, phải luận được thiện ác của núi đồi, chính tà của vùng đất, an nguy do qủy thần, hưng tuyệt của con cháu". Sách “Chư tạp thôi ngũ tính đẳng trạch đồ kinh” viết: “Âm trạch phúc tại nam, đức tại tây”. “Bắc có ao đầm, nam có đất cao, và có rừng cây xanh tốt, ở đất ấy thì tốt (cát) lành. Nếu đất dữ phải trấn trạch". Sách “Âm dương thư”, đề cập đến phép trấn trạch, như sau: “Phàm chỗ ở bất lợi, sinh bệnh, bỏ nhà đi, hao tài, thì lấy 90 cân đá xếp vào cửa quỷ sẽ đại cát lợi”. Kiêng kỵ dưới huyệt có nước hoặc đá ngầm Quan niệm của người Trung Quốc dưới huyệt có nước ngầm hoặc đá ngầm, nên đặt mộ tránh đi chỗ khác để cầu phúc. Theo các nhà âm dương thì đất bằng phẳng là tốt nhất, thứ đến nghiêng về đông nam, tây bắc cao. Đất dốc thì nước chảy không đọng xung quanh, đất cao thì đồi núi ôm lấy mà không bị khuyết. Nếu chọn đất đúng như thế thì lành, trái lại thì dữ.
  6. Cháu cám ơn Bác nhiều ạ. Mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp phải không Bác? Chúc Bác sức khỏe dồi dào, gia đình hạnh phúc.
  7. Triết học Đông Phương - Ứng dụng trong Đông Y I. Học thuyết Âm dương: 1. Khái niệm về học thuyết Âm dương: Học thuyết âm dương là một bộ phận trọng yếu trong y học cổ truyền. Người xưa nhận thấy sự vật trong thiên nhiên luôn luôn có sự mâu thuẫn, đối lập và thống nhất với nhau, không ngừng vận động đễ phát sinh phát triển và tiêu vong như: sáng tối, ngày đêm, trời đất, nóng lạnh, nước lửa v.v... gọi là âm dương. Trong y học cổ truyền học thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán điều trị và bào chế đông dược. 2. Các quy luật cơ bản của học thuyết Âm dương: a. Âm dương đối lập: là sự mâu thuẫn giữa hai mặt âm dương như: ngày đêm, ngủ thức, nước lửa, lạnh nóng, hưng phấn và ức chế. b. Âm dương hổ căn: là sự nương tựa vào nhau giữa hai mặt âm dương như : trong âm có dương, trong dương có âm. c. Âm dương tiêu trưởng: là quá trình vận động không ngừng của âm dươngmọi sự vật sinh ra, lớn lên, già cỗi, mất đi rồi lại sinh ra. d. Âm dương bình hành: là sự thăng bằng giữa hai mặt đối lập. Bốn mặt trên của sự vật nói lên các qui luật, mâu thuẫn nhưng thống nhất, thăng bằng nhưng vận động không ngừng, nương tựa nhưng chế ước lẫn nhau trong quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Người xưa tượng trưng học thuyết âm dương bằng hình vẽ như sau: 3. Ứng dụng học thuyết Âm Dương vào trong y học cổ truyền Bệnh tật sinh ra do sự mất thăng bằng về âm dương, biểu hiện dương thắng, âm thắng, dương hư, âm hư. Ðiều trị bệnh là điều hoà lại âm dương. Trong chẩn đoán người ta nương tựa vào các cương lĩnh để xác định bệnh trong hay ngoài (biểu lý) nóng hay lạnh (hàn nhiệt) suy sụp hay hưng thịnh (hư thực) mô tả trạng thái và xu thế chung của bệnh tật thuộc âm hay dương để dùng thuốc âm hay thuốc dương mà điều trị cho thích hợp.II. Học thuyết Ngũ hành: 1. Khái niệm về học thuyết Ngũ hành: Học thuyết ngũ hành là học thuyết âm dương được liên hệ một cách cụ thể hơn trong việc quan sát, quy nạp sự liên quan của các sự vật. Trong y học người xưa vận dụng ngũ hành để phân tích sự tương quan trong các hoạt sinh lý. Ngoài ra còn dùng để tìm tác dụng của thuốc để áp dụng vào việc bào chế. 2. Nội dung của học thuyết Ngũ hành: Người xưa cho rằng trong thiên nhiên có năm loại vật chất chính đó là :Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thuỷ (nước), Hoả (lửa), Thổ (đất). Mọi hiện tượng trong tự nhiên được xếp theo năm loại vật chất trên gọi là ngũ hành. 3. Bảng qui nạp thiên nhiên và cơ thể con người theo Ngũ hành: Trong điều kiện bình thường, thiên nhiên, vật chất và con người có liên quan mật thiết với nhau, tác động nhau chuyển biến không ngừng bằng thúc đẩy nhau (tương sinh) hoặc chế ước lẫn nhau (tương khắc) để giữ được mối thăng bằng âm dương. 4. Các qui luật hoạt động của Ngũ hành: a. Qui luật tương sinh: Mộc sinh Hoả = Can sinh Tâm Hoả sinh Thổ = Tâm sinh Tỳ Thổ sinh Kim = Tỳ sinh Phế Kim sinh Thuỷ = Phế sinh Thận Thuỷ sinh Mộc = Thận sinh Can. b. Qui luật tương khắc: Mộc khắc Thổ = Can khắc Tỳ Thổ khắc Thuỷ = Tỳ khắc Thận Thuỷ khắc Hoả = Thận khắc Tâm Hoả khắc Kim = Tâm khắc Phế Kim khắc Mộc = Phế khắc Can 5. Ứng dụng học thuyết Ngũ hành vào trong y học: Ðể xác định vị trí của một bệnh lý sinh ra từ tạng phủ nào, mà tìm cách điều trị cho thích hợp, người xưa qui định có thể do một trong năm vị trí sau đây : Chính tà : do bản thân tạng ấy có bệnh Hư tà : do tạng trước không sinh được nó Thực tà : do tạng sau nó đưa đến Vi tà : do tạng khắc nó quá mạnh Tặc tà : do nó không khắc được tạng khác. Trong điều kiện bất thường về bệnh lý, có nhiều tạng phủ quá mạnh hay quá yếu sẽ xảy ra hiện tượng khắc quá mạnh (tương thừa) hay chống lại cái khắc mình (tương vũ) Ðông y dùng qui luật tương thừa hay hay tương vũ để giải thích một số cơ chế sinh bệnh và áp dụng điều trị. III. Học thuyết Thiên nhân hợp nhất: 1. Khái niệm về học thuyết Thiên nhân hợp nhất: Học thuyết thiên nhân hợp nhất, nói lên giữa con người và hoàn cảnh thiên nhiên xã hội luôn luôn mâu thuẫn nhưng thống nhất, con người luôn luôn chủ động thích ứng với thiên nhiên để sinh tồn, phát triển. Thí dụ : Trời đất có sáng tối, con người có thức ngũ. Trời lạnh người co giữ ấm, trời nóng người đổ mồ hôi giải nhiệt. Trời có sáu khí : phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả. Ðất có ngũ hành : kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Người có ngũ tạng ứng với đất, lục phủ ứng với trời và thích nghi theo từng thời tiết bốn mùa. 2. Ứng dụng học thuyết Thiên nhân hợp nhất vào y học Học thuyết thiên nhân hợp nhất là nội dung của phương pháp phòng bệnh trong y học cổ truyền, nắm được nguyên lý của học thuyết sẽ giúp cho con người : - Cải taọ thiên nhiên bắt thiên nhiên phuc vụ đời sống. - Chủ động rèn luyện sức khoẻ. - Cải tạo tập quán củ, gìn giữ mỹ tục. - Rèn luyện ý chí chống dục vọng cá nhân. - Ăn tốt, mặc ấm, giữ vệ sinh cá nhân và hoàn cảnh. - Ðiều độ về ăn uống, sinh hoạt, lao động, tình dục. v..v. IV. Kết luận: Từ 3 học thuyết âm dương, ngũ hành, thiên nhân hợp nhất. Y học cổ truyền đi đến một quan niệm toàn diện và thống nhất chỉnh thể trong phương pháp phòng bệnh, chẩn đoán và điều trị bệnh tật. Người thầy thuốc phải thấy con người ở thể thống nhất toàn vẹn giữa các chức phận, giữa tinh thần và vật chất, giữa cá nhân và hoàn cảnh chung quanh để đi đến các vấn đề - Phòng bệnh sống lâu. - Chữa người có bệnh chứ không phải chữa bệnh. - Nâng cao chính khí con người là chính để thắng được mọi bệnh tật.
  8. Cẩm Linh - Tr.Sơn www4.thanhnien.com.vn Kỳ 1: “Ông Rồng” và chuyện “Thái sư hóa hổ” Tượng "Ông Rồng" được thờ tại Bảo Tháp - Ảnh: T.Sơn Cách đây hơn 15 năm, một pho tượng rồng đá có phần dị thường bị chôn vùi dưới lòng đất được phát hiện tại thôn Bảo Tháp (Đông Cứu - Gia Bình - Bắc Ninh). Tượng một con rồng “miệng cắn thân, chân xé mình” với vẻ đau đớn tột cùng, được chạm trổ công phu, tinh xảo không chỉ chưa từng thấy trong các hình ảnh rồng Việt qua các thời kỳ lịch sử mà còn gần như chưa từng xuất hiện trong khu vực. Nhiều câu hỏi về lai lịch của pho tượng bí ẩn cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp.Pho tượng rồng Theo lời kể của ông Phan Đình Phụ, con trai của cụ Phan Đình Phô (đã mất năm 1993) - thủ từ đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh tại thôn Bảo Tháp (Đông Cứu – Gia Bình – Bắc Ninh) thì pho tượng rồng này được cụ Phô tình cờ phát hiện ngay tại khu vực lối lên xuống dẫn vào đền vào cuối năm 1992. Số là trong một lần thu dọn gạch đá quanh đền cụ Phô chợt thấy một mảng đá nhô ra khỏi mặt đất ngay tại gốc cây bàng trước cửa đền, bươi rộng xung quanh thì thấy lộ ra miếng đá có chạm khắc, đoán đây là có thể là một pho tượng hoặc một hiện vật đá nào đó, cụ Phô đã gọi người làng tập trung đào xới và chẳng bao lâu sau hiện ra giữa nền đất là một pho tượng rồng đá “đầu cắn thân, chân xé mình”. Đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh tại thôn Bảo Tháp - xã Đông Cứu - huyện Gia Bình - Bắc Ninh. Tương truyền đây từng là nhà của Thái sư, sau khi ông bị đi đày đã chuyển thành chùa. Trong ảnh phần có dấu X là nơi đã phát hiện ra "Ông Rồng" Hàng chục trai làng đã phải rất vất vả, dùng trành tre, đòn xóc, xà beng mới nhấc được pho tượng nặng hơn 3 tấn lên khỏi mặt đất và khiêng đưa lên sân đền. Từ đó đến nay pho tượng rồng đá này đã được người dân địa phương rước lên thờ tại một gian bên cạnh đền Thái sư Lê Văn Thịnh và kính cẩn gọi là “Ông Rồng”. Quan sát bằng mắt thường người ta có thể nhận thấy pho tượng rồng đá được chạm khắc khá chi tiết, tỉ mỉ, chăm chút tới từng họa tiết nhỏ. “Ông Rồng” được thể hiện theo tư thế khoanh mình thành hình tròn, thân mình to lớn, gồm có đầu, hai chân trước và một phần thân. Chiều cao của tượng được xác định là 0,76m, chiều ngang là 1,12m, chiều dài từ trước ra sau là 0,96m. Điều đáng nói là hình ảnh của con rồng đá này rất đặc biệt, không hề giống với bất cứ hình ảnh rồng Việt ở bất cứ triều đại nào từng được biết đến và lại càng không giống với bất kỳ hình ảnh rồng Trung Hoa nào. Pho tượng rồng được tạc từ đá nguyên khối, toàn thân chạm vảy dày, hai mắt trợn tròn, hai chân trước xòe rộng, gân guốc, năm ngón với móng vuốt sắc nhọn bấu chặt vào khúc thân, đầu gục xuống, miệng há rộng với hàm răng lởm chởm, nhọn hoắt ngoạm vào mình như muốn rứt da rứt thịt với vẻ đau đớn tột cùng. Và lạ lùng nhất là đôi tai “Ông Rồng” được tạc rất rõ, nổi lên trên hai mang, bên tai phải thì kín đặc, tai trái lại rỗng, thể hiện một ẩn ý nào đó của người xưa. Ông Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra nhận định đây là pho tượng rồng đá có hình ảnh độc đáo nhất mà ông từng thấy, đồng thời cho rằng “Ông Rồng” có khả năng là một trong những pho tượng rồng đá lớn nhất ở Đông Nam Á. Và chuyện “Thái sư hóa hổ” Pho tượng rồng này được tìm thấy ngay tại quê hương của vị “trạng nguyên” đầu tiên của nước ta, Lê Văn Thịnh (1038/1050? - ?), người không chỉ nổi tiếng với tài năng xuất chúng trên nhiều lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được biết đến với vụ kỳ án mạng đầy màu sắc huyền thoại “Thái sư hóa hổ” tại hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) cách đây cả ngàn năm nên gần như ngay lập tức nó được cho là một tác phẩm nghệ thuật của người đương thời/hậu thế thể hiện hình ảnh của “Đỉnh giáp khai khoa” Lê Văn Thịnh đau đớn, phẫn uất với nỗi oan khiên trong vụ án mà cả nghìn năm còn chưa sáng tỏ(!). Điều này cũng phù hợp với ý kiến của ông Nguyễn Đức Khách, 71 tuổi (Bảo Tháp - Đông Cứu) người đã có nhiều năm phụ trách lễ hội thập đình (một lễ hội tưởng nhớ Thái sư Lê Văn Thịnh). Ông Khách cho biết khi "Ông Rồng" mới được phát hiện chưa ai lý giải được ý nghĩa của nó, nhưng sau đó người ta thấy bức tượng Rồng rất phù hợp với nỗi oan khiên, uất ức của "Thái sư hóa hổ". Lê Văn Thịnh là người làng Đông Cứu, huyện Gia Định (nay là Gia Bình – Bắc Ninh) là người đỗ đầu trong kỳ thi Nho học đầu tiên được tổ chức vào năm Ất Mão (1075) dưới đời vua Lý Nhân Tông và được cho vào hầu vua học. Chính vì lý do này mà ông được người đời sau suy tôn là vị “trạng nguyên” đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Còn danh hiệu trạng nguyên thực sự thì đến đời Trần Thái Tông (1246) mới có. Lê Văn Thịnh giữ chức vụ Thị lang Bộ Binh, đến 1085 nhờ có công lao lớn, được cất lên chức Thái sư vốn đã bị để trống từ khi Lý Đạo Thành qua đời (1081) và giữ vị trí này trong 12 năm cho đến khi xảy ra vụ án “hóa hổ” tại hồ Dâm Đàm (1096). Sự kiện kỳ dị này được Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại như sau: “Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi!". Người đánh cá là Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang (tức sông Thao – Phú Thọ. Còn theo Đại Việt Sử Lược thì ông bị đày đến vùng Lương Giang – Thanh Hóa). Thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp. Trước đấy Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch”. Tương truyền sau khi mãn hạn, trên đường trở về quê nhà Thái sư Lê Văn Thịnh đã qua đời tại Đình Tổ (Thuận Thành - Bắc Ninh) và được người dân lập làm thành hoàng làng. Hiện tại mộ phần của ông vẫn còn được lưu giữ tại Đình Tổ. Tượng Thái sư Lê Văn Thịnh tại hậu cung nghè Chi Nhị (xã Song Giang - Gia Bình - Bắc Ninh) Tuy bị chính sử lên án và ghi nhận như một tội đồ nhưng trong dân gian hình tượng của “Thái sư hóa hổ” lại hoàn toàn khác. Tại các huyện Gia Bình, Thuận Thành và Quế Võ (tỉnh Bắc Ninh) đã có tới 14 làng lập Lê Văn Thịnh làm thành hoàng. Cứ các năm có hàng chi Thân, Tý, Thìn 13 làng thuộc hai huyện Gia Bình và Quế Võ lại tổ chức Lễ hội thập đình để tưởng nhớ tới ông. Ngoài lễ hội chung tưởng nhớ tới vị các làng lại tổ chức những lễ hội riêng. Ngày 6.2 âm lịch hằng năm lễ tế diễn ra chính tại Đông Cứu (Gia Bình – Bắc Ninh), quê hương Thái sư Lê Văn Thịnh. Riêng đình Đình Tổ (Thuận Thành – Bắc Ninh) nơi có mộ phần của Thái sư Lê Văn Thịnh, lễ hội được tổ chức riêng 5 năm một lần, vào ngày 12.8 âm lịch.Còn tiếp
  9. "Nàng công chúa té giếng" Truyện ngắn của Trần Thùy Mai Nguồn www6.thanhnien.com.vn Quan ngự y Phùng Thất ngần ngừ mãi khi đặt bút viết thêm vị thuốc cuối cùng. Phá cố chỉ. Liệu đơn thuốc này có giúp được gì cho nàng công chúa nhỏ? Trước mặt ông, đệ tam phi yên lặng theo dõi từng cử chỉ. Ngồi trên chiếc đoản kỷ chạm xà cừ lấp lánh, nàng như đang ngồi trên một bụi gai. Đôi mắt to và đen dịu của nàng vẫn rất đẹp nhưng đầy mệt mỏi. Vẻ đau đớn câm nín này đã ở trên gương mặt nàng từ lâu, lâu lắm rồi. Vậy mà trong cung, người ta vẫn bảo trong ba người vợ chính thức của Hoàng đế, đệ tam phi Ngọc Bình là người được sủng ái nhất. Chẳng khó khăn gì mới nhận ra điều đó. Vì nàng trẻ hơn đức Hoàng đế đến hơn ba mươi tuổi, vì nàng đẹp như thế, vì cung Gia Ân của nàng luôn luôn được vinh dự đón Ngài đến nghỉ ngơi. Mời các bạn nghe toàn bộ tác phẩm: Nhưng lúc này đây quan ngự y Phùng Thất thấy rõ hơn bao giờ hết nỗi khổ tâm của Ngọc Bình. "Ông có tin lần này thuốc hiệu nghiệm không? Ngọc Ngôn đã uống nhiều thuốc lắm rồi mà bệnh không thấy giảm". Phùng Thất cúi rạp đầu: "Xin lệnh bà tạm bình tâm. Con người có số mệnh". Ngọc Bình nghe vậy, nhắm mắt như có một cái gai rất dài đâm thấu tim. Nàng lảo đảo đứng dậy, đi về cung. Ngọc Ngôn, nàng công chúa lên sáu đang giãy giụa trong tay hai nhũ mẫu và một bầy thị nữ. Tất cả đang xúm vào giữ không cho cô bé xé quần áo trên người. Càng bị giữ, cô càng tức tối, quay qua xé áo bọn thị nữ, làm họ ré lên khiếp sợ, chạy tán loạn. Ngọc Bình thấy cảnh tượng nhốn nháo, nàng vẫy tay ra hiệu cho hai nhũ mẫu lui ra, nhưng cả hai người đàn bà hầu như không nghe, cứ ra sức đè Ngọc Ngôn xuống. Ngọc Bình điên lên, lăn xả vào ôm chầm lấy con. Lúc ấy hai người đàn bà vạm vỡ mới chịu buông. Dường như vòng tay ấm êm của người mẹ dễ chịu hơn, Ngọc Ngôn bắt đầu dịu lại, cô bé như lả ra, cái đầu nhỏ ép sát vào ngực mẹ. Hai nhũ mẫu quay đi, nhưng không đi xa, chỉ lùi lại sau bức mành. Cũng có thể họ lo rằng công chúa sẽ lên cơn phá phách trở lại, cũng có thể vì đối với đệ tam phi họ đã quen chỉ vâng lời chiếu lệ. Ngọc Bình biết hai nhũ mẫu đều là người của hoàng hậu, họ phục vụ mẹ con nàng nhưng trong lòng âm thầm khinh thường nàng. Cả cung điện này khinh thường nàng. Khi Ngọc Ngôn ra đời đủ ba tháng mười ngày, theo lệ trong cung, nàng bồng con đến ra mắt vương hậu. Toàn bộ cung tần đều có mặt trong cung Khôn Thái. Nàng tiến vào, hai tay đưa con gái dâng lên cho vương hậu xem mặt. Tống nguyên phi, vừa được phong hậu nửa tháng trước, bồng đứa trẻ lên, rung rung âu yếm. Bỗng Nhị phi họ Nguyễn ngồi cạnh chợt như buột miệng: "Sao trông mặt công chúa giống...". Câu nói chỉ nửa chừng. Tống vương hậu lừ mắt, tất cả im thin thít. Ngọc Bình ngẩn ngơ không hiểu vì sao cả cung phòng chợt lặng đi ngột ngạt như thế. Sau này, nàng mới hiểu, trong cái lặng lẽ ghê sợ đó, trong óc mỗi người đều vang lên cùng một ý "Sao đứa con gái này mặt không giống nhà vua, mà lại giống hệt ngụy Toản?!". *** Nhà vua cùng Tiền quân Nguyễn Văn Thành băng qua những công trình đang xây dở. Cung điện Phú Xuân xây dựng từ thời các chúa Nguyễn, được xây thêm nhiều cung phòng dưới triều Tây Sơn Nguyễn Huệ. Những cung phòng ấy làm vua Gia Long không ưng ý, vào thịnh thời của Quang Trung hoàng đế, tiền bạc không thiếu, nhưng triều Tây Sơn mới nổi chưa tạo được cho mình một tầng lớp quý tộc thực sự biết hưởng thụ cái đẹp. Trong mắt Gia Long, ông vua sinh ra và lớn lên trong đền chúa, những đường nét kệch cỡm nặng chất nông dân trong những cung điện xa xỉ xây thời Tây Sơn thật khó chịu. Đến thời Quang Toản, hơn mười năm chiến tranh làm kiệt quệ ngân khố, những dinh thự vốn đã không đẹp lại bị bỏ mặc, nên càng ủ ê thô thiển. Gia Long bảo Nguyễn Văn Thành:- Mới xong binh lửa, lẽ ra còn nhiều việc phải lo. Nhưng cung điện không thể không xây lại. Cung điện cũ sẽ làm cho lòng người nhớ lại triều đại của Ngụy Tây, trẫm không cho phép điều đó. Lăng Đan Dương của ngụy Huệ đã bị tận phá, chỗ chết của y, ta còn không để lại dấu vết, huống hồ chỗ sống. Nguyễn Văn Thành nói ngay, không lưỡng lự, chuyện mà ông đã nói với vua nhiều lần: - Tâu bệ hạ, vậy mà vẫn còn một dấu tích sống của Ngụy triều, ngày đêm kề cận bệ hạ đấy thôi. Nhà vua cười gượng, biết ông đang nói đến Ngọc Bình. Không biết là lần thứ mấy mươi, Nguyễn Văn Thành nói đi nói lại về số phận người đàn bà này. "Xin bệ hạ đừng quên, để ngụy hậu kề cận mình rồng là một việc quá liều lĩnh, chẳng những can hệ đến chuyện an nguy mà còn ảnh hưởng đến thanh danh của người nữa". Đáp lại thái độ căng thẳng của Nguyễn Văn Thành, nhà vua thường chỉ cười xuề xòa, làm như chẳng có gì quan trọng: "Khanh đừng lo, một người đàn bà chân yếu tay mềm làm gì được ta? Chẳng qua là một cọng cỏ thôi mà". "Nhưng còn thanh danh của bệ hạ? Đến nay hạ thần vẫn còn phải sai quân tướng lùng tìm dư đảng của ngụy Tây Sơn. Các bộ tướng của thần sẽ nghĩ sao khi thấy ngụy hậu vẫn nhởn nhơ ngay giữa cung đình?". Nghe nhắc đến thanh danh, nhà vua sa sầm mặt, không giữ được vẻ cố tình vô tư nữa. "Tại sao khanh cứ một tiếng ngụy hậu, hai tiếng ngụy hậu? Khanh đừng quên, tam phi vốn là công chúa nhà Lê. Quang Toản trước đây cưới nàng làm hoàng hậu là nhằm mục đích ve vãn đám công thần cũ của triều Lê thôi. Bây giờ trẫm dung nạp nàng, cũng chính vì mục đích ấy". Nghe vua nói, Nguyễn Văn Thành im lặng một lúc, rồi không nhịn được, thốt lên: - Tâu bệ hạ, vua Lê Hiển Tông có đến mấy chục con gái, cớ sao bệ hạ nhất định phải lấy một người? Vua Gia Long tím mặt lại, nói dõng dạc từng tiếng: - Trẫm là vua, cả giang sơn này là của trẫm, tại sao lại không thể định đoạt số phận một người đàn bà? Biết không thể nói được nữa, Tiền quân Thành im lặng, cuộc chuyện trò giữa vua tôi bỗng gián đoạn. Cả hai sải từng bước dài qua những cung điện đang xây dở, chú mục nhìn vào thợ thuyền đang làm việc mà lòng trĩu nặng. Trẫm là vua, mấy tiếng ấy lâu nay vẫn thường chặn họng Tiền quân Thành những lúc ông nói năng sôi nổi quá. Trong lòng Nguyễn Văn Thành dấy lên một nỗi chua chát. Trẫm là vua. Ngày trước ông ta không nói thế. Ngày trước ông ta nói nhún nhường: "Quả nhân đức bạc, may nhờ chư tướng hết lòng phò tá...". *** Tả quân Lê Văn Duyệt thì khác, không thường căng thẳng như Tiền quân Thành. Kể về quyền bính ông cũng ngang ngửa với Tiền quân, kể về thời gian theo vua, ông còn phò vua trước. Nhưng ông không bao giờ nói ngang trước mặt vua. Vốn xuất thân là hoạn quan trong dinh chúa Nguyễn, ông hiểu rõ những trò trái tính trái nết của vua chúa: đấy là một đặc quyền của đế vương, nếu không thì người ta xây bức thành cao ngất vây quanh che khuất Tử Cấm Thành làm gì?Vốn là hoạn quan nên Tả quân Duyệt tiện việc ra vào nội cung, thường gặp Nhị phi trong viện Đoan Trang. Trước ba quân, ông là võ quan hét ra lửa, còn với Nhị phi thì ông vẫn là một ông Thái giám già để bà trút bầu tâm sự. Nhị phi theo vua từ lúc mười sáu tuổi, lúc vua đang còn bôn ba cơ hàn, mấy lần sanh xong phải bồng con chạy tránh nạn Tây Sơn, lúc nằm gai nếm mật chỉ mong cho đến ngày chiến thắng... "Cực thịnh thành suy, người xưa dạy thế, quả không sai?". Nhị phi lẩm bẩm, nhìn Tả quân Duyệt như chờ một chia sẻ. Tả quân hôm nay được Nhị phi vời vào để tặng cho ít bánh gai cung nữ vừa làm, nhân dịp ngồi chơi vài ván tổ tôm, rồi câu chuyện lan man, Nhị phi kể chuyện hôm qua gieo quẻ Mai hoa bốc. "Ông thấy có đúng không, cực thịnh thành suy. Những năm gian khổ chỉ mong đến ngày này. Tưởng là vinh hoa hạnh phúc, ai ngờ đến khi vui mừng tột bậc thì lại sinh mối lo buồn như thế". Tả quân Duyệt đặt quân bài xuống chiếu, nói khỏa lấp: - Lệnh bà lo buồn làm gì. Cơ nghiệp nay đã vững vàng trong tay bệ hạ, đó là điềm thịnh quá lớn. Chút chuyện nhỏ nơi phòng khuê sao có thể nói là suy? Nói thế chứ Tả quân cũng biết thừa, với ai thì là chuyện nhỏ, chứ với Nhị phi thì là chuyện lớn, lớn vô cùng. Trước nay lòng luyến ái của nhà vua đối với bà thực sâu nặng. Những năm gian nan, Nguyên phi Tống thị vì là vợ cả, phải giữ phận làm dâu, ở lại phụng dưỡng mẹ chồng. Theo sát mình rồng trong những lúc bôn ba chỉ có Nhị phi. Thế rồi đến ngày vinh hoa phú quý thì một người đàn bà khác trẻ hơn, đẹp hơn, dòng dõi sang cả hơn bỗng xuất hiện, chiếm hết bao nhiêu sủng ái. "Mà nào phải cao quý gì cho cam, cái phường phản chúa lộn chồng ấy. Nếu biết giữ gìn thể giá thì phải tự vẫn chết theo ngụy chúa mới phải?". Nhị phi nói, nỗi căm tức làm răng bà nghiến lại. Tính Nhị phi mạnh mẽ. Không chịu ngậm hờn nuốt tủi trong lòng, có gì tức tối cứ thế mà tuôn ra. Lê Văn Duyệt thì không thể như vậy được, ông biết mình phải giữ mồm giữ miệng. Không muốn kẹt vào những chuyện rắc rối trong nội đình, ông nán đợi xong ván bài rồi tìm cớ rút lui. Làm đại tướng, làm đại thần, ông đâu có thời gian rảnh rỗi, nể Nhị phi lắm ông mới ngồi hết ba ván tứ sắc. Tả quân Duyệt đi rồi, Nhị phi càng thấy ấm ức trong lòng, thầm nghĩ: "Ông này hỏng. Bây giờ chỉ biết lo giữ tướng ấn, đức vua phải quấy gì cũng mặc không can ngăn". Trong khi đó, Tả quân Duyệt sải những bước dài ra khỏi khu vực nội cung. Ông vừa đi vừa ngẫm nghĩ đến ván cờ quyền lực đang mở ra trước mắt. Hoàng hậu họ Tống đã lớn tuổi, không sinh nở được nữa, con trai là Hoàng thái tử Cảnh mất sớm. Nhưng Cảnh vẫn còn để lại hai con trai, sau này có thể kế thừa ngôi báu. Nhị phi cũng có hai con trai đã trưởng thành. Nhưng Nhị phi không phải là Hoàng hậu, con bà vẫn không thể xem là con đích. Giờ đây bà không phải là vợ cả, lại cũng không còn là vợ yêu. Vua đang sủng ái Ngọc Bình, nàng còn trẻ, có thể sẽ có con trai sau này. Tả quân Duyệt nghĩ thầm: Nhị phi không ăn ngon, ngủ yên, đâu phải chỉ vì ghen tuông thói thường của đàn bà. Tả quân chưa thấy mặt Ngọc Bình, nhưng cũng đoán chắc nàng đẹp lắm. Phải thế nào mới khiến một ông vua mẫu mực luôn nói đến đạo lý quân thần, phu phụ bỗng chốc quên hết những nguyên tắc của mình... Nhếch mép cười, Tả quân Duyệt bất giác ngâm khe khẽ câu thơ Hồ Xuân Hương: "Chúa dấu vua yêu một chút này...". *** Hoàng thành xây xong, đẹp tráng lệ, dân Phú Xuân mê mẩn ngắm những vọng lâu lộng lẫy nhô cao giữa trời xanh. Kể từ đấy, thế giới sau những cánh cổng thành đóng kín trở nên hoàn toàn bí ẩn. Hồi mới hết chiến tranh, người ta còn nghe gia nhân, đầy tớ nhà các quan, lính thị vệ trong dinh vua kháo nhau những chuyện vua quan. Giờ đây đã có lệnh cấm bàn tán chuyện trong cung phủ, nên chẳng ai biết gì xảy ra sau những bức thành cao ngất.Vua Nguyễn nương náu hơn mười năm ở phương Nam, quân tướng phần lớn chiêu mộ trong ấy, các hoàng tử công chúa ra đời rồi lấy vợ lấy chồng cũng trong ấy. Đương thời ở kinh đô, nghe giọng Nam là biết người sang, biết là nơi có thần có thế. Vì vậy nhiều người Huế cũng bắt chước nói giọng Nam lơ lớ, rốt cuộc cái giọng ấy trở thành một thứ thời thượng lúc bấy giờ. Sáng hôm nay trong cung Khôn Thái của Hoàng hậu Tống thị, người nữ quan hầu đọc sách cũng đang đọc bằng cái giọng nửa Nam nửa Huế ấy. Tống hoàng hậu thích truyện, bà thường vời hết phi tần rồi cho nữ quan đọc những chuyện về phi hậu các đời để làm gương. Thị nữ dâng bánh gai, bánh gấc để dùng trà, đặt trên mấy chiếc mâm chân quỳ trên sập. Trên sập, Tống hoàng hậu ngồi uy nghi, chiếc kỷ kê thấp hơn là dành cho Nhị phi, một chiếc thấp hơn nữa dành cho Tam phi Ngọc Bình. Dưới nữa là cung tần trong các viện. Nhị phi đang nói điều gì đó với nữ quan. Nữ quan ngửa trông lên hoàng hậu: - Bẩm hoàng hậu, đệ nhị cung muốn nô tỳ đọc truyện Ngu Cơ. Hoàng hậu gật đầu, tán thành: - Phải rồi. Truyện ấy, ta cũng thích. Hạng Vũ thất trận Bạch Đế thành/ Ngu Cơ tuẫn tiết, hồn thành cỏ thơm. Một cung tần khe khẽ thưa: - Bẩm, truyện này hôm trước chúng thần thiếp đã nghe rồi. Nhị phi bảo: - Nghe rồi thì nghe lại. Chuyện trung hiếu tiết nghĩa phải nghe nhiều lần để lấy làm gương. Hoàng hậu thì vô tình, mà Nhị phi thì hữu ý. Năm lần bảy lượt, Nhị phi luôn đòi nữ quan đọc hết truyện Ngu Cơ lại đến truyện Mỵ Ê. Ngu Cơ tự sát để khỏi rơi vào tay Hán vương, kẻ đánh bại chồng nàng. Mỵ Ê, vương phi Chiêm Thành, nhảy xuống sông để khỏi phải hầu hạ Lý Thánh Tông, người chiến thắng. Tất cả những tấm gương liệt nữ ấy được tấm tắc khen ngợi là nhằm làm cho Tam phi Ngọc Bình ngồi trên chiếc ghế cao kia mà như bị chôn xuống tận bùn đen. Suốt cả buổi đọc truyện bao giờ nàng cũng ngồi chết lặng, khuôn mặt dài ra, tái nhợt. Nàng cũng đã từng tự tử, nhưng không thành. Cuộc tình duyên ngắn ngủi với Quang Toản không cho nàng đủ can đảm để tự tử lần thứ hai. Cô bé Ngọc Bình mười sáu tuổi là công chúa nhà Lê, nhưng nhà Lê lúc ấy có còn đâu, một mảnh cung điện cũng không còn, Ngọc Bình theo mẹ về làng ẩn trong trang trại ở quê ngoại. Nhưng cuộc chiến máu lửa đã lan về tận làng quê Phù Ninh xa xôi ấy. Quang Toản và triều đình Tây Sơn thất trận ở Phú Xuân, kéo nhau chạy ra Bắc, tính chuyện lâu dài để chống lại quân nhà Nguyễn. Theo lời quần thần hiến kế, Quang Toản tìm công chúa út của nhà Lê, lập làm hoàng hậu để tranh thủ sự ủng hộ của các cựu thần nhà Lê ở đất Bắc. Mười sáu tuổi, Ngọc Bình bị lôi ra khỏi trang trại của mẹ, mặc áo thêu, đội mũ phượng ngồi bên mình ông vua trẻ mới hai mươi tuổi. Mọi nghi lễ vẫn cố giữ đầy đủ, thậm chí hơi khoa trương một chút, ồn ào một chút để cho bàn dân thiên hạ phải lưu tâm. Người ta bảo, xem ra triều Tây Sơn vẫn còn thịnh, đám cưới vua trẻ năm nay cũng chẳng kém huy hoàng so với đám cưới của đức Quang Trung hoàng đế và Ngọc Hân công chúa thuở trước. Nhưng người hiểu thời cuộc thì biết rõ, việc tuy giống mà nội tình chẳng giống chút nào. Thời cuộc đổi thay nhanh quá, mới ngày nào đức Quang Trung phò Lê diệt Trịnh, đại phá quân Thanh, uy danh lẫy lừng trong thiên hạ. Thoáng một cái, mới có hơn mười năm mà triều đại đã suy tàn, cả triều đình mục ruỗng như cây cột bị mọt đục đến tận tim. Vị vua trẻ, sau những lần thất trận hãi hùng, luôn bị ám ảnh bởi viễn cảnh rùng rợn của hồi chung cuộc, không còn nhuệ khí của tuổi hai mươi. Đêm đầu tiên làm vợ, Ngọc Bình chưa hết run sợ sau lần đầu chăn gối, bỗng giật mình khiếp hãi khi nghe tiếng ken két vang lên ngay trong màn... Quang Toản đang nghiến răng, vật vã trong giấc ngủ. Ngọc Bình thu hết can đảm nhìn vào mặt người chồng mới cưới, khuôn mặt nhăn nhúm tuyệt vọng, những tiếng ú ớ phát ra cùng với hơi thở gấp, ông ta đang giẫy giụa, gào thét không thành tiếng trong cơn mê. Chỉ ba tháng sau, quân Nguyễn vương đánh đến Bắc Thành. Triều Tây Sơn sụp đổ. Quang Toản bị giải về Phú Xuân rồi bị xé xác. Cái cực hình thảm khốc ấy, chắc chàng trai hai mươi tuổi đã mơ thấy trong đêm tân hôn của mình, ba tháng trước. Ngọc Bình lặng đi vì những hồi ức thê thảm, nàng ngồi đó mà hồn để tận đâu đâu. Nữ quan đọc dứt câu chuyện, Nhị phi lên tiếng: - Hạng vương biết mình sắp bị diệt, khuyên Ngu Cơ khéo thờ người mới. Ngu Cơ lấy gươm tự sát để tỏ lòng trung thành với chồng. Thiệt là tấm gương cho chị em mình noi theo. Đám cung tần im thít, trong đầu mỗi người đều liên tưởng đến Tam phi. Một vài cung tần thân tín của Nhị phi phụ họa: - Nghe chuyện Ngu Cơ nhiều lần rồi, mà lần mô em cũng không cầm được nước mắt. Vừa thương vừa cảm phục. Họ sợ uy hoàng đế nên không dám đá động gì đến Tam phi, chỉ hùa nhau ca ngợi Ngu Cơ để cho nàng phải nhột. Nhưng Ngọc Bình cứ thẫn thờ nhìn ra khoảng không phía trước, không thấy, không nghe gì cả. Nhị phi liếc nhìn mặt Tam phi, lòng không khỏi nghĩ thầm: "Quái lạ, ngụy nữ dạo này xuống sắc, mặt mũi bơ phờ, trông tiều tụy hẳn đi, sao hoàng thượng cứ ngự mãi ở tam cung không chán? Hay là nó có yêu thuật gì?". Bà nghĩ vậy mà lo âu cho đấng quân vương. Ý tưởng ấy, Nhị phi không dám nói với nhà vua, chỉ thầm thì tâm sự với Tống hoàng hậu. Cả chuyện vì sao Ngọc Ngôn mặt mày chẳng giống vua mà nghe đâu lại giống ngụy Toản. Ý Nhị phi muốn mượn miệng Tống hậu nói lại với vua. Nhưng Tống hậu chỉ gạt đi: - Phi lo xa quá... Sau khi ngụy Toản bị ta bắt đến sáu tháng sau Tam phi mới vào hầu hoàng thượng, một năm sau mới sinh Ngọc Ngôn. Làm sao mà có máu huyết của ngụy được. - Tâu, biết đâu được, cũng có khi trời đất sinh sự dị thường. Chuyện Tần Thủy Hoàng ngày xưa nằm trong thai mười hai tháng mới sinh, chắc lệnh bà còn nhớ. Tống hoàng hậu chỉ cười không nói. Bà hiểu tâm trạng Nhị phi. Làm gì mà chẳng hiểu. Hai mươi năm trước khi Nhị phi Nguyễn thị được tiến làm Tả cung tần cho Nguyễn vương, bà cũng đã xót xa đến chết đi sống lại. Bây giờ thì những xót xa đã chết hẳn. Bà tự biết cái đức lớn nhất mà tất cả những người vợ cả phải có, là không biết ghen. Vả lại, tự đáy lòng, bà cũng thấy thương nàng công chúa nhỏ. Từ lúc con trai bà, hoàng thái tử Cảnh mất, bà đã ngẫm nghiệm ra tất cả những hư vô của kiếp người và sự thảm khốc của chiến tranh. Không được Tống hoàng hậu tán đồng, Nhị phi buồn bực về cung, lòng vẫn hậm hực: "Yêu nữ có thuật gì mà bệ hạ say mê nó đến thế?". *** Đêm nay, cũng như rất nhiều đêm, cung Gia Ân lại được thắp đèn đuốc sáng choang, đón hoàng đế ngự đến.Viên thái giám theo xe vua đến trước thềm cung, vẫy tay ra lệnh cho đoàn tùy tòng lui ra, rồi đứng nghiêm chầu hầu. Sau buổi tiệc khuya, những lồng đèn đã được tắt bớt, ánh sáng dìu dịu tỏa trên những hàng hiên chạm trổ. Bảo mẫu già bồng một đứa bé gái rón rén bước ra, đứa con gái nhỏ bị bịt miệng giãy giụa. "Đi đâu?" - viên thái giám thì thầm hỏi. "Đưa sang cung Khôn Thái. Hoàng hậu bảo nếu hoàng đế đến thì đưa công chúa qua bên ấy cho khỏi kinh động mình rồng". Viên thái giám tránh sang bên cho bảo mẫu xuống thềm. Qua quan ngự y Phùng Thất, ông biết công chúa Ngọc Ngôn mắc chứng bệnh mà người ta thường gọi là bệnh té giếng. Nhà vua không thích nhìn thấy công chúa, bởi dù Hoàng hậu và Nhị phi không nói nhưng cũng đã lắm người trong tôn thất nói rằng công chúa trông giống ngụy Toản. Họ bảo: "Cái tà khí của ngụy còn sót lại trong bụng người mẹ đã ám ảnh thai nhi nên mới như thế". Ban đầu, ngài cười xòa gạt đi như khi nghe ai kể chuyện hoang đường. Nhưng một lần, hai lần, ba lần, ngài bắt đầu để vào tai. Bảo mẫu đi rồi, cửa cung đóng lại. Như lệ thường, tất cả thị nữ lui ra ngoài, trong khi viên thái giám già lùi vào trong, túc trực trong hành lang sát bên trướng gấm. Dưới ngọn đèn lồng, bóng người thái giám già đổ dài, đơn độc. Như mọi đêm ứng hầu ở cung Gia Ân, ông đã quen với tiếng hét hãi hùng của Tam phi. Giọng nhà vua ôn tồn: "Trẫm có làm nàng đau đớn đâu?". Không, nàng kinh sợ không phải vì đau, nhà vua là một người đàn ông trầm tĩnh, nhẹ nhàng và lịch lãm. Nhưng Ngọc Bình thét lên vì trong lúc ấy nàng vừa thấy Quang Toản hiện ra, người đầm đìa máu. Sâu thẳm từ bên trong, nhà vua thấy một cảm giác khoái lạc kỳ lạ khi ở bên nàng, điều mà không người vợ nào đem lại cho ngài được. Không phải vì tuổi trẻ, sắc đẹp của nàng, cũng không phải vì cảm giác nhục thể. Cội nguồn sự thống khoái ấy hình như bắt rễ từ đâu đó sâu kín vô cùng, từ trong vô thức. Có một lần trước đây ngài đã có được cảm giác như vậy, là khi đứng nhìn quân sĩ quật mộ ba vua nhà Tây Sơn. Cái cảm giác sướng khoái ngất trời, đã hóa giải hơn ba mươi năm cay cực gian nan trong đời ngài, kể từ lúc chín chúa tổ tiên nhà Nguyễn bị quân Tây Sơn hốt cốt đổ sạch xuống sông xuống biển. Nhưng sự sung sướng khi quật mộ kẻ thù chỉ có một lần. Còn với Ngọc Bình... Những đêm ở bên nàng, vua tận hưởng niềm sướng thỏa của mình, ngài cố ý kéo dài nó, lần này sang lần khác. Nó đáp ứng những khao khát báo thù sâu thẳm trong lòng ngài, khiến ngài không thể sống thiếu nó, không thể nào dứt ra được. *** Trong lúc đó, bên cung Khôn Thái, Tống hoàng hậu đã xong một ngày mệt mỏi. Địa vị đứng đầu tam cung khiến bà phải bận bịu từ sáng sớm cho đến bây giờ. Bà tự tay mở áo bào, tháo mũ phượng, trút bỏ đôi hài cánh trả thêu hoa lộng lẫy. Như lệ thường, mặc dù có thị nữ chầu hầu nhưng bà vẫn tự mình thay đổi y phục. Khi chỉ còn lại mấy người thân tín, bà khoác lên mình chiếc áo tràng lam, ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu trải giữa cung phòng.Có tiếng động. Bảo mẫu đưa Ngọc Ngôn vào. Cô bé vẫn giãy giụa, bảo mẫu nhét khăn vào miệng cô để khỏi vang tiếng kêu ồn ào trong nội điện. - Đưa hoàng nữ vào đây cho ta, Hoàng hậu hé mở đôi mắt đang nhắm nghiền, bảo. - Tâu lệnh bà, e hoàng nữ không chịu yên... Tống hoàng hậu vẫy tay, bảo mẫu lại gần đặt Ngọc Ngôn xuống rồi lùi ra. Không biết vì cái uy của bậc mẫu nghi thiên hạ, hay vì dáng vẻ hiền hòa thương xót trong mắt người mẹ kia, mà thần trí cô công chúa nhỏ bỗng nhiên dịu lại. Cô bé ngồi xổm, mở thao láo đôi mắt nhìn vào hoàng hậu. Tống hoàng hậu cầm hai bàn tay bé nhỏ trong tay mình. Bà nhớ lại bàn tay bé nhỏ của những đứa con mình đã mất. Bà nhớ lại tất cả những điêu linh, tan tác, oán thù trong nửa thế kỷ. Cởi vòng tràng hạt trên tay mình, bà đeo vào cổ tay Ngọc Ngôn, miệng thì thầm: "Xin Đức Phật từ bi chữa lành cho con tôi...".
  10. “Ông Rồng đá” ở Bảo Tháp - Kỳ 2 Cẩm Linh - Tr.Sơn www4.thanhnien.com.vn Tượng “Ông Rồng” được thờ tại Bảo Tháp - Ảnh: T.Sơn Một số ý kiến cho rằng pho tượng rồng đá là hình ảnh của Vua Lý Nhân Tông, với nhận định bức tượng biểu thị sự đau đớn, dằn vặt của ông vì đã nghe lời xiểm nịnh một phía (tai thông, tai đặc) mà bức hại vị đại thần. C húng tôi đã đặt câu hỏi về vấn đề này qua e-mail tới nhà nghiên cứu lịch sử Tạ Chí Đại Trường, hiện đang sống tại Hoa Kỳ, nhưng ông Trường từ chối bình luận với lý do ông không phải là nhà chuyên môn về các vật dụng điêu khắc, kiến trúc. Tuy vậy ông Trường cũng đưa ra một gợi ý quan trọng trong việc giải thích về "Ông Rồng", đó là "nên tìm hiểu nó như một tác phẩm nghệ thuật riêng biệt, đừng vướng víu gì về sự kiện Lê Văn Thịnh, bởi vì làm như thế là đặt cái thật (tượng) dính vào cái giả, chưa biết rõ, còn đang tranh luận (là cuộc đời Lê Văn Thịnh cùng "vụ án hóa hổ" mà ngay cả suy luận bình thường cũng không tin được)". Đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh tại thôn Bảo Tháp Còn theo nhà phê bình nghệ thuật Phan Cẩm Thượng, việc phát hiện pho tượng rồng trong khu vực đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh khiến người ta dễ thường quan niệm đó là hình tượng của chính ông. "Khi tạc tượng tức là người đời đã có ẩn dụ nào đó gửi gắm, nhất là tượng trong đền thờ thì bao giờ cũng có ẩn dụ thần thánh ở trong đó. Tuy nhiên ở những đền thờ riêng thì ngoài những ẩn dụ thần thánh nói chung cũng có những hình ảnh cá nhân được gửi gắm vào đó một chút. Ví dụ như (tượng) con hổ ở lăng Trần Thủ Độ (ở Thái Bình) thì cũng là hình tượng của Thái sư Trần Thủ Độ hay đôi rồng ở thành nhà Hồ cũng là hình ảnh của Hồ Quý Ly. Về pho tượng rồng ở đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, theo tôi, đó có lẽ là hình ảnh của đời sau khắc họa chân dung một người làm chính trị thất bại cùng với nỗi đau đớn của mình là Thái sư Lê Văn Thịnh", ông Phan Cẩm Thượng nhận định. Về niên đại của "Ông Rồng", nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng cho rằng hơi khó xác định được chính xác, nhưng đưa ra dự đoán rằng "Ông Rồng" có thể được hình thành vào thời Hậu Lê (thế kỷ 15) dựa trên tương quan với các di tích đá ở Bắc Ninh và việc “Ông Rồng” được tìm thấy trong cụm đền, kiến trúc Hậu Lê và có phong cách chạm khắc tương tự một số hiện vật thời kỳ này. Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội), người đã có một thời gian dài tìm hiểu về nhân vật Thái sư Lê Văn Thịnh thì "Ông Rồng" thực sự là một pho tượng độc đáo và ở Việt Nam ông chưa từng thấy có một hiện vật tương tự nào. "Tuy vậy tôi từng thấy (qua ảnh) một chiếc ấn đồng thời Tây Hạ có hình ảnh con rắn tự cắn vào mình tương tự như vậy trên "xà nữu" tức là cái núm cầm của ấn. Hình ảnh con rắn trên chiếc ấn đồng và hình ảnh "Ông Rồng" tương đối giống nhau, đặc biệt về phong cách, sự dữ dằn... Điều đáng chú ý là Tây Hạ, vương triều tồn tại từ năm 1032 đến 1227 tại địa bàn các tỉnh phía tây bắc Trung Quốc hiện nay, về mặt thời gian cũng tương đương với nhà Lý ở Việt Nam và nhà Tống ở Trung Quốc. Chính vì thế để có đánh giá chính xác về nguồn gốc pho tượng này thì cần phải liên hệ đến văn hóa trong khu vực chứ không chỉ riêng bức tượng đó", nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ nói. Cũng theo ông Vĩ, pho tượng được tìm thấy tại khu vực con đường trước ngôi chùa mà theo dân gian xưa vốn là khu nhà mà Thái sư Lê Văn Thịnh đã phải "hóa gia vi tự" (biến nhà thành chùa) trước khi bị đi đày sau khi xảy ra vụ án "hóa hổ". Theo nhận định của ông Vỹ, pho tượng này có thể từng được đặt dưới một nền giếng cũ vào đời Lý. "Thời kỳ này người ta thường chạm khắc rồng dưới giếng, ví dụ như ở (chùa) Phật Tích (Bắc Ninh) như một phương thức cầu nước cầu mưa nào đó. Tôi nghiêng về phía đó hơn giả thiết cho rằng pho tượng này là hình ảnh của Thái sư Lê Văn Thịnh hay Vua Lý Nhân Tông", ông Vĩ cho biết. Về niên đại của pho tượng này, ông Vĩ nhận định: "Tôi đã trực tiếp xem tượng này, nó làm bằng đá cát-kết, các nét điêu khắc, theo tôi là mang phong cách Lý hoặc trước đó nhiều hơn là phong cách Hậu Lê (mặc dù không có hiện vật tương tự để đối chiếu). Điều này thể hiện qua cách người ta chăm chút cho từng cái vảy, cái chân, mắt, những chi tiết nhỏ... còn thường điêu khắc Hậu Lê đến Trần người ta không tỉa tót nõn nà đến từng đường nét như vậy. Cách nhìn nhận của tôi thì niên đại của pho tượng là từ thời Lý đến Bắc thuộc". Khi chúng tôi đặt câu hỏi liệu có khả năng "Ông Rồng" là hình ảnh của Vua Lý Nhân Tông hay không vì đây là một con rồng 5 móng - biểu tượng của nhà vua, thì ông Vĩ đã cho rằng điều này không hoàn toàn chính xác. "Rồng trở thành biểu tượng cho vua cũng không hề sớm mà khá muộn đời. Đến đời Minh ở Trung Quốc, rồng 5 móng mới trở thành biểu tượng cho nhà vua. Rồng cũng có nhiều loại, theo sách vở Trung Hoa, trứng rồng nở thành 10 con trong đó chỉ có một con thành rồng chính thức và trở thành biểu tượng cho vua sau này, còn lại có rắn, kình, sấu... Điều này đã được sách vở Trung Quốc nói đến rất kỹ và có những quy định rất cụ thể. Không phải cứ hễ thấy rồng thì bảo là biểu tượng cho nhà vua. Ví dụ như cột đá Phật tích là con Cù (rồng Cù) chứ không phải rồng và cái đó hoàn toàn không tượng trưng cho nhà vua. Chính vì vậy tôi không tin đây là hình ảnh tượng trưng cho Thái sư Lê Văn Thịnh hay Vua Lý Nhân Tông", ông Vĩ nhận xét. Rồng hay rắn? Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ, pho tượng đá này thuộc dạng "độc nhất vô nhị", ít nhất là ở Việt Nam. Tuy vậy, ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh) người ta từng thấy những dấu tích của con Rồng thời Lý qua móng chân, bệ rồng ở đáy giếng. "Móng và khoeo chân của tượng Rồng tìm thấy ở Bảo Tháp tương đối giống Rồng thời Lý như phát hiện ở Phật Tích. Tuy nhiên theo tôi đây là một con rắn chứ không phải rồng", ông Nguyễn Hùng Vĩ nói. Nghè Chi Nhị (xã Song Giang, Gia Bình, Bắc Ninh) là nơi thờ Thái sư Lê Văn Thịnh. Tương truyền thuở hàn vi Thái sư từng dạy học ở đây Cẩm Linh - Tr.Sơn Nguồn: www4.thanhnien.com.vn
  11. Tích hợp Vật lý & Phật học? GS.TS. Cao Chi Liệu có thể tìm một dạng học thuyết mô tả được thống nhất các hiện tượng vật lý và những hiện tượng thuộc phạm vi tâm linh. Đó sẽ là một dạng lý thuyết thống nhất lớn mà con người có thể nghĩ đến. Trong hiện trạng những vấn đề tâm linh vẫn đang ở trong trong phạm trù triết học thì lý thuyết thống nhất đó có thể là một sự tích hợp giữa vật lý và triết học. Đây là một hình ảnh của đa vũ trụ Theo Einstein thì Phật học có thể là tiền thân của một sự tích hợp như vậy. Ông nói: "Nếu có một tôn giáo nào thích nghi được với những nhu cầu khoa học tiên tiến thì đó là Phật giáo". (If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism). Trong vòng hơn 2500 năm Phật học đã tích lũy quá trình suy tư của nhiều tu sĩ minh triết để hình thành một học thuyết sâu sắc về thế giới khách quan lẫn thể giới tâm linh. Có thể nói Phật học là một học thuyết về nguyên lý đã bao trùm cả vật lý học (chuyên nghiên cứu thế giới khách quan) và cả tâm linh học (chuyên nghiên cứu những vấn đề thuộc tâm linh - theo Phật học thì tâm linh là một phạm trù song đối với thể xác), vậy thì Phật học có thể nói là một học thuyết có tính thống nhất cao hơn cả vật lý. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phân biệt hai phương thức nghiên cứu giữa Vật lý và Phật học. A. Phương thức nghiên cứu của Phật học là hướng nội vào tâm linh con người Theo lịch sử Phật giáo thì Thái tử Tất Đạt Đa sau nhiều năm tu khổ hạnh trong rừng già đã tìm thấy chân lý của kiếp sống con người, của các quy luật trong vũ trụ. Liệu có một cơ sở khoa học nào cho phương thức hướng nội này chăng? Phương thức này có thể dựa trên cơ sở của nguyên lý vị nhân. Nguyên lý vị nhân là nguyên lý theo đó ta thấy vũ trụ như thế này bởi vì nếu vũ trụ khác đi thì ta không thể tồn tại được để mà quan sát nó. Nguyên lý vị nhân có thể là sự cộng hưởng, sự hòa âm, sự giao cảm giữa vũ trụ và con người. Nếu như nguyên lý vị nhân (anthropic principle) là đúng thì rất có thể tâm linh con người có một mối liên hệ mật thiết với vũ trụ, như thế biết khai thác tìm tòi trong tâm linh người ta có thể khám phá ra vũ trụ (so sánh với Socrate: biết bản thân con người sẽ biết được cả vũ trụ). Phương thức hướng nội vào tâm linh thực hiện qua thiền (meditation). Thiền có nhiều dạng thức tùy theo môn phái và lộ trình, giúp đạt nhiều mục tiêu: giác ngộ về lẽ sống, tư duy về quy luật của vũ trụ, kỹ thuật khí công, khơi dậy những tiềm năng kỳ lạ của con người,... Thực tế với phương thức nghiên cứu này Phật học đã đạt những thành quả về cả hai mặt liên quan đến con người và vũ trụ. Riêng về phần con người Phật học đã đi sâu vào những phần sâu thẳm của tâm linh, vượt xa giới hạn của tâm lý học, của học thuyết Freud. Hiện nay khoa thần kinh học (neuroscience) cho rằng các phát hiện sinh học của bộ não có thể tương hợp với nhau nếu được tích hợp với lý thuyết Freud, song điều đó cũng chưa thể giải thích được các khía cạnh sâu thẳm của tâm linh, các công năng của thiền. B. Phật học ngoài tâm linh con người còn phát hiện ra nhiều bản chất quan trọng của vũ trụ của thế giới bên ngoài nhờ sử dụng cộng hưởng của tâm linh với vũ trụ. 1. Vấn đề chân không Như chúng ta biết trong lý thuyết lượng tử có thể nói vấn đề chân không là vấn đề quan trọng số một. Chân không không phải là một "môi trường", trong đó không có gì cả, trái lại chân không là một loại "ether" đặc biệt chứa những thăng giáng phần lớn của trường lượng tử điện từ. Chân không có thể chứa 3 khả năng đối với vật lý hiện đại: - Vì chứa những thăng giáng điện từ, cho nên có thể tính được năng lượng chân không theo phương pháp phân tích Fourier (dao động tử) và thấy rằng chân không có một năng lượng khổng lồ. Một hiện tượng quan trọng xảy ra trong chân không là lực Casimir và công nghệ nanô không thể không tính đến lực Casimir. - Năng lượng chân không có thể là năng lượng tối gây nên quá trình giãn nở có gia tốc của vũ trụ. - Cuối cùng là một khả năng quan trọng, có thể đó là nguồn gốc để giải quyết bài toán thống nhất. Nhà vật lý người Nga Andrei Sakharov đã đưa ra một cách nhìn táo bạo vào năm1967: nguồn gốc của hấp dẫn có thể là những thăng giáng của chân không với sự hiện diện của vật chất, như vậy từ chân không ta có hấp dẫn và các tia sáng sẽ bị cong vì hiện tượng khúc xạ của chân không? Hiện nay nhiều nhà vật lý quan niệm rằng không - thời gian được hình thành từ những thăng giáng lượng tử của chân không ( hình 1). Như vậy từ chân không chúng ta có tất cả. Một điều kỳ diệu là Phật học cũng đi đến một kết luận như thế! Phật học cũng xem chân không như nguồn gốc của mọi hiện tượng và không phân biệt chân không với hiện tượng qua luận thuyết nổi tiếng "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc". Trong Bát nhã Tâm kinh, Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: "Này Xá Lợi Phất! Thế giới hiện tượng hay Sắc này là Không, và Không quả thực là thế giới hiện tượng. Không không khác với thế giới hiện tượng hay Sắc, thế giới hiện tượng hay Sắc không khác với Không. Cái gì là thế giới hiện tượng thì cái đó là Không, cái gì là Không thì cái đó là thế giới hiện tượng". 2. Vấn đề đa vũ trụ: Trong Vật lý học người ta nói đến những vũ trụ song song cấu thành đa vũ trụ. Người ta phân các vũ trụ song song thành 4 mức, ứng với 4 góc ở hình vẽ 1. Hình 1. Hình này có 4 góc I/ Góc trái trên: các vũ trụ song song mức I, cư trú trong cùng một bong bóng (bubble), quy luật vật lý giống nhau, các điều kiện ban đầu có thể khác nhau, sự tồn tại của chúng dựa trên CMB Þ vũ trụ vô cùng, vật chất phân bố đều trong vũ trụ. II/ Góc trái dưới: các vũ trụ song song mức II, cấu thành bởi nhiều bong bóng, có cùng những phương trình cơ bản vật lý song các hằng số vật lý, các hạt cơ bản, số chiều không gian có thể khác, sự tồn tại của chúng dựa trên lý thuyết lạm phát hỗn độn vĩnh cửu. III/ Góc phải dưới: các vũ trụ song song mức III: có các tính chất như ở mức I&II, có nguyên lý unitarity, nguyên lý này đúng ngay cả đối với hấp dẫn lượng tử; theo mối tương quan AdS / CFT có thể hiểu được rõ ràng hơn nghịch lý thông tin trong lỗ đen. Trạng thái sống, chết của con mèo Schrodinger thuộc 2 vũ trụ cổ điển song song. IV/ Góc phải trên: nhiều cấu trúc toán học khác nhau (với những phương trình vật lý khác nhau) sẽ cho những vũ trụ song song khác nhau, sự tồn tại mức IV dựa trên phỏng thuyết thực tại toán học º thực tại vật lý, có thể kiểm nghiệm nhờ một lý thuyết TOE. Trong Phật học, vũ trụ cũng mang tính đa nguyên. Phật giáo phân thế giới thành 3 loại: Tiểu thiên, Trung thiên & Đại thiên. Đại thiên thế giới gồm khoảng một tỷ thế giới. Cách đây hơn 2500 năm Phật học đã biết ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có hằng hà sa số thể giới khác. Tuy giữa các thế giới song song trong vật lý học và các thế giới Phật học chúng ta chưa thể thiết lập một mối tương hợp đồng cấu hoặc đẳng cấu. Điều đáng nói ở đây là khái niệm đa vũ trụ là quan điểm tạo nên sự thống nhất giữa vật lý học và Phật học trong nhận định về vũ trụ. Một điểm đáng chú ý nữa là trong vật lý học cũng như trong phật học người ta đều nói đến nhiều dạng hình học của vũ trụ 3. Tính vô thường: Các thăng giáng của chân không lượng tử (phóng theo tranh Bọt thời gian của hoạ sĩ Jean-Michenl Joy, L'Ecume du temps, Saint Etienne, 1990). Từ những thăng giáng đó đã hình thành vũ trụ Trong vật lý học người ta quan niệm rằng mọi vật đều luôn biến động. Ví như vũ trụ cũng luôn thay đổi, hiện nay vũ trụ đang giãn nở, xuất phát từ một bigbang. Lúc vũ trụ được 10-35 giây xảy ra quá trình nở lạm phát (inflation) và kết thúc vào thời điểm 10-32 giây. Đây là một quá trình giãn nở bộc phát của vũ trụ: trong một thời đoạn ngắn ngủi, kích thước của vũ trụ đã tăng lên 1050 lần. Quá trình nở lạm phát có thể bắt nguồn với một dạng năng lượng tối. Sau Bigbang 10-33 giây vũ trụ ở vào trạng thái plasma của quark và gluon (PQG ). Trong trạng thái này quark chuyển động tự do và tương tác với nhau bằng trao đổi gluon. Lúc vũ trụ được 10 - 6 giây thì hình thành các hadron. Lúc vũ trụ được 100 giây thì các hạt nhân nguyên tử được hình thành. Lúc vũ trụ được 300.000 năm tuổi thì bức xạ tách khỏi vật chất và dẫn đến CMB (Cosmic Microwave Background - bức xạ tàn tư của vũ trụ). Sau đó vũ trụ nguội dần và nhiều quá trình chuyển pha đã xảy ra. Vậy vũ trụ luôn biến đổi. Thậm chí các hằng số vật lý có thể thay đổi theo không gian và thời gian. Các phương trình vật lý đều chứa những hằng số như c-vận tốc ánh sáng, h-hằng số Planck, G-hằng số hấp dẫn. Người ta vẫn cho rằng đó là những đại lượng không thay đổi theo không gian và thời gian. Hai màng chuyển động trong một không gian nhiều chiều và va chạm nhau Theo nhiều kịch bản vũ trụ luôn tồn tại. Trước Bigbang vũ trụ có kích thước lớn vô cùng, sau đó co lại và vào thời điểm Bigbang trở thành nhỏ như để chui qua một lỗ kim xong giãn nở trở lại. Theo kịch bản của Gabriele Veneziano, vũ trụ nguyên thuỷ đã co lại từ những thăng giáng và tạo nên những lỗ đen, trong những lỗ đen này đã xảy ra những bigbang, trong số đó có Bigbang của chúng ta. Như vậy mỗi lỗ đen có thể tạo ra những vũ trụ riêng của đa vũ trụ. Một điều có thể khẳng định: quá trình chuyển tiếp giữa "tiền" và "hậu" bigbang vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Người ta cho rằng có thể có thông tin về thời kỳ tiền bigbang nhờ thu các sóng hấp dẫn phát sinh từ thời kỳ này, dấu tích của chúng sẽ là những thăng giáng trên phông của bức xạ tàn dư. Phật học có quan điểm vô thường khẳng định sự biến đổi thường trực của vũ trụ như trong vật lý học. Vô thường có nghĩa là không thường, không mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà luôn thay đổi hình dạng. Đi từ trạng thái hình thành, cao to, thấp nhỏ, tan rã v.v.. Đạo Phật gọi đây là những giai đoạn thay đổi: thành, trụ, hoại, không. Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ đến lớn như hạt cát, thân con người, đến lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trời, đều nằm trong định luật vô thường. Mọi vật trên đời này đều phải thay đổi và hoại diệt, không vật gì thường hằng dù chỉ trong phút giây (birth, maturity, transformation and destruction). Quan điểm vô thường của Phật học trùng hợp một cách chính xác với quan điểm mọi vật đều biến đổi trong vật lý học. C. Kết luận Phật học không những có những mối tương đồng với vật lý trong các lĩnh vực vũ trụ học, các hạt cơ bản, mà còn nhiều mối tương đồng khác với sinh học, tâm lý học, phân tâm học (psychoanalysis), tâm lý trị liệu (psychotherapy),... Tư tưởng Phật học có thể là suối nguồn dồi dào cho khoa học nói chung. Tích hợp các lý thuyết lớn trong vật lý với những tư tưởng Phật giáo hy vọng sẽ dẫn đến một "lý thuyết thống nhất" bao trùm vũ trụ và tâm linh con người. ---------------------- Tài liệu tham khảo: [1] Fritjof Capra, The Tao of Physics [2] S. Hawking, Lược sử thời gian, bản dịch của Cao Chi & Phạm Văn Thiều [3] Mark Solms, Scientific American, tháng 5 năm 2004 [4] Edward Conze, A short history of Buddhism
  12. Tinh thần - sức mạnh của bù chú TS Đỗ Minh Cao Khoa học & Đời sống Tuy bị coi là mê tín dị đoan nhưng bùa chú vẫn tồn tại từ xưa đến nay trong văn hóa các dân tộc. Tại sao vậy? Câu hỏi chỉ một, còn câu trả lời thì không bao giờ hết. Nhiều dân tộc có bùa chú Nói chung, bùa chú là dấu hiệu đặc biệt được con người sử dụng cho một mục đích cụ thể cho bản thân hay cho đối tượng có liên hệ với mình.Thực tế, trong sinh hoạt hàng ngày của nhiều dân tộc trên thế giới, kể cả các dân tộc Việt Nam, đều tồn tại bùa chú. Bùa là một hiện vật cụ thể, chú là một hay vài câu nói có nội dung nhất định được lặp đi lặp lại khi người ta dùng bùa. Dùng bùa chú có hai mục đích: tốt và xấu - tốt cho mình và cho đối tượng của mình còn xấu chỉ riêng cho đối tượng của mình. Người Việt thường có các loại bùa gần như hình xăm trên người, vẽ trên khăn, trên vải để mang và mặc, làm bằng sáp thơm đặt trong hộp gỗ, tượng phật bằng các chất liệu khác nhau để trong hộp hay đeo trên cổ, vẽ trên miếng chì mỏng, đeo theo người, làm bằng vàng bạc gắn trong người, hy vọng vết thương sẽ được chữa khỏi, viết trên giấy đeo theo người hoặc treo trên tường, khắc trên gỗ treo trên tường, vẽ vào không khí bằng khói hương… Thông thường, bùa chú dân gian được làm ra đều nhằm mục đích gìn giữ hạnh phúc con người: giữ gìn sức khoẻ, bảo vệ người thân và gia đình khỏi những tai ương, lôi kéo đối tượng theo ý muốn của mình: được yêu, được trả thù... Sức mạnh của bùa chú Bùa chú dân gian như đầ cập ở phần trên chỉ là một dấu hiệu có tác dụng nhắc nhở người sử dụng vững tin vào một điều tốt lành lườn sẽ đến với mình: tin có Phật phù trợ, tin không bị trúng gió, tin mình lôi kéo được người yêu, tin mình được yêu bay bị yêu, tin lực lượng xấu đã bị ngăn chặn không làm hại được mình… Mà niềm tin thì vô tận và trên thực tế niềm tin giúp nhiều người vượt qua được chính mình, vượt qua bệnh tật, khó khăn, đạt được mục đích của cuộc sống. Một thí dụ của niềm tin này là bùa chú của người Simba. Các chiến binh Simba ở Châu Phi nổi tiếng dũng cảm nhờ bùa chú. Bùa chú của họ là những vạch sơn có thoa nước bùa linh thiêng vẽ khắp người. Những chiến binh này tin họ được phù phép không sợ đau, không bị gươm giáo đậm nên chiến đấu rất dũng cảm. Trên thực tế, mỗi tiểu đội Simba đều có một "bác sĩ” riêng chuyên cho họ uống nước cần sa. Đây chính là mấu chốt "sức mạnh bùa chú Simba" để họ chiến đấu lăn xả như những chú sư tử châu Phi không sợ chết. Nhiều bài viết và nhiều lý giải của căn nhà khoa học thậm chí của các pháp sư - người làm ra những bùa chú mang tính ma thuật, đều nói rằng bản thân bùa chú không có sức mạnh siêu nhiên nào cả, sức mạnh thực sự của bùa chú chính là yểu tố tinh thần của người mang bùa và người bị bỏ bùa hay bị yểm bùa. Trên thực tế niềm tin của con người nhiều khi bị lừa dối. Những kẻ dùng bùa chú lừa bịp, gây hại tới người khắp là những kẻ bị lên án. Với tôi, bùa chú là một hộ phận của văn hoá tinh thần, nằm trong văn hoá dân gian của mỗi dân tộc. Vì vậy, khi dân tộc còn tồn tại thì bộ phận này - bùa chú - vẫn cứ còn. Bùa chú mang tính thần bí, với dụng ý xấu sẽ dần bị thải loại cùng với nhận thức ngày càng cao của con người. Bùa chú mang tính văn hoá dân gian, niềm tin tươi sáng sẽ luôn đồng hành cùng văn hoá dân tộc. Ông Hà Hùng Tiến - Nguyên Trưởng ban Văn hoá, Viện Văn hoá, Bộ VHTT: Mường là dân tộc giỏi nhất về bùa chú Người Việt Mường rất giỏi làm hùa chú. Từ thời mới bước chân vào nghề khảo cổ tôi được cử công tác ở khu vực có nhiều người Mường sinh sống, tôi có may mắn được một người Mường dạy cho bùa chú. Người thầy dạy có nói một câu mà tôi còn nhớ mãi. Đó là, chỉ được dùng bùa chú làm điều thiện, không làm điều ác. Nếu làm điều ác thì giỏi lắm chỉ làm được cho hai trường hợp sau đó thì bản thân sẽ chết. Suốt những năm 1968 - 1969 tôi đã thâm nhập rất sâu vào đời sống của bà con 8 xã Mường như Tân Lạc, Nhân Nghĩa, Quý Hoà, Thành Đạo và học được rất nhiều bùa. Người Mường có nhiều bùa như bùa yêu, bùa chài ếm, bùa chữa bệnh... Bên cạnh đó người Thái, Chàm, Tây Nguyên, Bana, Êđê cũng có rất nhiều cách yểm bùa. Đặc biệt người Êđê có rất nhiều bùa thuốc. Các loại bùa phần lớn được làm từ lá cây tự nhiên như đinh hương, hương nhu, quế chi, các loại vỏ cây trên rừng cũng chỉ ngũ sắc, sau đó dùng những lời chú để chú vào đó. Bùa cũng có thể làm bằng giấy dán lên tường, thường là bùa phép phật để linh hồn quấy phá trông vào thấy sợ. Nguồn: Khoa học & Đời sống
  13. Kiêng kỵ khi xây nhà ở Đài Loan Trích Bách khoa kiêng và cấm kỵ của Phạm Minh Thảo Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin Người Đài Loan hiện nay vẫn bảo lưu nhiều điều kiêng kỵ khi xây dựng nhà cửa và tuân theo cả các điều kiêng kỵ mới về nhà ở trong cuộc sống hiện đại. Cụ thể như sau: Kiêng mở cửa ra nhìn thấy mồ mả vì mồ mả thuộc âm địa, nên người trong nhà sẽ dễ bị ám ảnh không tốt cho sức khỏe. Kiêng lưng nhà dựa vào núi. Kiêng tường trắng ngói xanh vì đó là biểu hiện nhà có tang. Kiêng hành lang dài chạy xuyên nhà vì không lành. Kiêng vị trí lộ xung (hướng đường chĩa thẳng vào nhà) Khi động thổ, kiêng tuổi năm thái tuế vì ở trên đầu thái tuế sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm, rủi ro. Kiêng nhà ở cạnh đường nơi trũng thấp khí hỗn tạp, có hại. Kiêng góc mái nhà nhọn uốn lượn chĩa thẳng vào cửa ra vào hoặc cửa sổ vì dễ gặp tai họa nghiêm trọng. Kiêng tượng đồng, tượng đá cỡ lớn. Kiêng ở chung cư cao tầng gần đường cầu vượt hay đường cao tốc vì nó giống như thanh kiếm dài chém ngang sườn, tinh thần không yên, dễ gặp rủi ro. Kiêng nhà ở thấp dưới đường sắt vì vận khí thấp, khó gặp may mắn. Kiêng nhà cửa cao đuồn đuỗn sẽ không an toàn, làm ăn bị cản trở. Kiêng nhà cao tầng đứng chơ vơ, ở lâu sẽ bị cô lập, khó gặp may. Kiêng cỏ và cây cối mọc um tùm vì đó là biểu hiện vận mạt, khó phát triển. Kiêng nhà ở chỗ đường giao nhau, dễ gặp chuyện bất ngờ, không yên ổn. Kiêng cửa ra vào thấp vì đó là biểu hiện vật mạt, không tốt. Kiêng xây nhà trên mảnh đất hình tam giác nhọn vì đó là đại hung do thế đất bị cắt. Cách chống lại vị trí theo hình cái kéo này là chừa chỗ góc nhọn để trồng cây sẽ giải được sự không may mắn. Kiêng nhà ở hình tròn vì theo quan niệm của người Trung Quốc, nhà ở phải tĩnh, vì thế mà không được tròn vì tròn là động, dễ xảy ra chuyện biến động, không yên ổn. Kiêng nhà ở có tường che cao ngăn trước mặt vì không may mắn, nhất là khi có đường cao tốc chạy qua. Kiêng nhà ở bắt đầu từ đoạn xuống dốc vì khí cũng như nước chảy xuống chỗ thấp nên ở trong ngôi nhà đó sẽ không may mắn. Kiêng ở nhà chung cư cao tầng lồi lõm, nhiều góc nhọn vì dễ có điều tiếng, không thể có điều lành. Kiêng nhà ở phía sau đền vì đền là đất âm, khó tụ khí, ở sẽ gặp điều chẳng lành. Kiêng nhà ở có ao hồ nằm phía đông vì ánh sáng mặt trời chiếu lên mặt nước, phản xạ gây hoa mắt. Kiêng nhà ở có ao hồ ở phía tây vì ao hồ ở phía tây tức là “bạch hổ khai khẩu” sẽ gặp chuyện chẳng lành. Kiêng xây nhà trên lớp phù sa của dòng sông cạn kiệt vì cửa sông bao giờ cũng là nơi “tán khí”, ở lâu không có lợi. Kiêng dỡ mái nhà và xây thêm tường cho cao hơn vì như thế dễ gặp rủi ro. Kiêng xây nhà bên vực, trên sườn núi vì dẽ nguy hiểm, tâm lý bất an. Kiêng xây nhà mà mở cửa nhìn thấy núi vì khí bị cản trở đại hung. Kiêng xây nhà nhìn vào cổng nghĩa trang, không lành. Kiêng khung cửa nhà cong vênh, luôn có tai họa, bệnh tật. Kiêng xây nhà ở tận cùng ngõ hẻm vì mọi tia xạ như tên bắn xuyên vào nhà, đại kỵ. Người ở trong căn nhà đó dễ bị điều tiếng thị phi, gặp nhiều bất lợi, thậm chí phá tài. Kiêng nhà ở có cây leo bò trên tường rào, sẽ có chuyện không lành. Kiêng trước nhà có cây cầu chĩa thẳng vào theo hướng tây bắc, gia đình sẽ lụn bại, sức khỏe giảm sút, hao tài, tốn của. Kiêng trước cửa rác rưởi chất đống vì sẽ hẩm hiu. Kiêng nhà ở gần nhà tang lễ vì đất ở đây âm khí rất nặng, không thể tốt lành. Kiêng nhà ở có cửa lớn đối diện với đường thẳng tắp, kiểu nhà này gọi là nhà ở đầu đường chữ T, không tốt, đại hung. Kiêng nhà ở ngoài đê, sức khỏe và vận thế không tốt. Kiêng nhà hình tàu thuyền, khó ở được lâu. Kiêng làm phòng ngủ nếu căn phòng có góc nhà bên cạnh chiếu thẳng vào. Kiêng xây nhà trên đất cũ là nhà xưởng vì đại hung. Kiêng trước nhà có cây to chắn lối hoặc cây khô vì dễ lụn bại. Kiêng tường bao quanh nhà quá cao, nhất là có dây thép gai vì ở lâu sẽ cùng khốn. Kiêng trước nhà có đường đi cong như hình cây cung, mặt chính ngôi nhà như có cây cung chĩa vào đe dọa, dễ có sự rủi ro, không có lợi cho mọi người, đặc biệt là phụ nữ. Kiêng mở thêm cửa bên cạnh để ra vào vì nhà bị thoát khí, không tốt. Kiêng nhà hai đầu cao, giữa thấp, khó an cư, không lành. Kiêng sau nhà có tầng đá nằm kê sát, vận nhà khó phát triển, không lợi cho công danh phú quý. Kiêng khi tầng dưới làm nhà ở, tầng trên mở cửa hàng, không lành. Kiêng nhà ở bên cạnh cầu vượt hoặc đường cao tốc nhất là nằm ngoài vành cung tròn của đường vòng cầu vượt hay đường cao tốc trên cao vì nó giống lưỡi liềm cứa ngang lưng, rất xấu. Kiêng nhà ở kiến trúc như bức màn thủy tinh trong suốt, phạm điều kiêng kỵ “tiết” (thoát ra), trong nhà hay cãi cọ, đàn bà dễ sinh ngoại tình. Kiêng có cây to che hướng đông, hướng nam nhà, âm khí nặng nề, hại cho sức khỏe. Kiêng mở cửa sổ ở tường rào vì người ta gọi kiểu nhà đó là “chim sẻ mở mồm”, ảnh hưởng xấu, dễ sinh điều thị phi, luôn buồn phiền, rầu rĩ, khó chịu. Kiêng mở cửa thấy sông hoặc mương to thoát nước vì khí ẩm, môi trường không sạch, có hại cho sức khỏe, tài khí dễ mất mát. Kiêng nhà ở gần các tượng đài có nhiều góc cạnh nhọn gây xung sát, không lành. Kiêng nhà ở có cây to xuyên qua nóc nhà hoặc mái nhà, không lành. Kiêng nhà hai mái tháo đi một mái, thể hiện sự suy sụp, không lành. Kiêng nhà xây ở giữa hai cầu vượt, một cái cao, một cái thấp như hình lưỡi kéo, khó tránh điều dữ, buôn bán không có lợi. Kiêng vào nhà thấy ngay bếp, nhà ăn hoặc buồng vệ sinh, vận nhà sẽ suy khi ở một thời gian. Kiêng cửa chính đối diện cửa buồng ngủ vì sẽ khiến người trong đó đắm say sắc dục. Kiêng cầu thang đi trong nhà hình thành chữ lồi vì vận nhà gặp nhiều bất lợi. Kiêng xây nhà nghiêng theo đường dốc, sợ gặp vận thoái. Kiêng luồng phản quang chiếu đến như lưỡi kiếm, không tốt. Kiêng nơi làm văn phòng không có cửa sổ, sợ ảnh hưởng xấu đến tài vận và sự phát triển. Kiêng nhà ở đầu cùng ngõ cụt, sẽ có nhiều chuyện không hay, lắm điều thị phi, kiện cáo, trở ngại cho sự nghiệp. Kiêng song sắt, lồng sắt quá dày, sẽ cản trở vận thế, khó hưng thịnh. Kiêng tường sụt, vách lở vì bại vận. Kiêng trước nhà có nhiều kiến trúc, cột trụ lớn sẽ áp chế khí nhà mình, khó phát triển. Kiêng trang trí bừa bãi trên nóc nhà, sẽ gặp điều không lành. Kiêng xây nhà giữa hai ngôi miếu, sẽ gặp vận xấu, sinh nhiều chuyện không lành. Kiêng nhà ở ngõ cụt lộ xung, bất lợi cho việc học hành, thi cử. Kiêng đặt bếp giữa hai buồng ngủ, bất lợi cho người trong hai buồng đó. Kiêng lò bếp đặt dưới cầu thang vì lửa bếp thể hiện vận khí của nhà, nếu bị đè lên cả nhà sẽ khó phát triển. Kiêng xây nhà trên bãi tha ma sau khi mồ mả đã được di dời đi. Để an toàn, phải làm lễ siêu độ theo nghi thức tôn giáo nếu không dễ gặp hung. Kiêng nhà nhỏ bé nằm giữa các nhà to, cao vì sợ buôn bán khó vươn lên. Kiêng để buồng tân hôn chiếu thẳng vào cửa đền, cửa miếu sẽ không tốt cho chuyện hôn nhân và người mang thai. Kiêng kỵ về nhà ở của người Đài Loan xưa Nhà ở tuyệt đối không được xây dựng trên sườn núi, đường phân hai phần núi hoặc lối ra vào khe núi nếu không sẽ ảnh hưởng tới phúc trạch và dễ bị bệnh tật. Kiêng xây nhà ở chỗ giao nhau của hình chữ đinh tức là phần đường vuông góc chọc thẳng vào nhà, trước mặt nhà kiêng không có con đường hẻm chạy xộc thẳng vào nhà vì vô cùng đại họa. Người ta cho rằng hỏa tai thường đến với nhà loại này, tai họa có khi giáng từ trên trời xuống hoặc bệnh tật, buôn bán thua lỗ, gây ra kiện tụng. Kiêng xây nhà ở ngõ cụt, dễ xảy ra tai họa, thua kiện thị phi, phá sản, bệnh tật. Kiêng cây to án ngữ trước cửa chính, âm khí khó thải ra, dễ nguy hiểm. Kiêng trước cửa chính có cây chết khô, gia chủ sẽ nghèo hèn, không tốt với người già. Kiêng chặt cây to ở phía tây bắc nhà vì theo quan niệm xưa, tây bắc là căn, cây to là mộc tinh canh giữ cho người trong nhà, nếu chặt đi sẽ gây đại họa. Nhà ở độc lập kiêng xây cao hơn xung quanh vì sẽ không giữ được tiền tài, tâm lý không yên ổn, âm dương không cân bằng, dương thịnh âm suy. Kiêng xây nhà của con cái (trừ con trưởng) trong phần đất của cha mẹ vì cả hai nhà sẽ sa sút. Kiêng xây nhà, sửa nhà khi trong gia đình có người đang mang thai. Đặc biệt kiêng việc cải tạo bếp nếu không người chửa sẽ bị sảy thai Kiêng nền đất trước nhà cao sau thấp, đại hung. Kiêng phía tây bắc nhà khuyết một góc (lấy mặt nhà làm chuẩn) sẽ hãm đường con cái, mắc bệnh về đường hô hấp. Kiêng phía đông nam nhà khuyết một góc, không lợi cho việc sinh và nuôi dạy con cái. Kiêng phía tây nam khu đất của nhà khuyết một góc, sức khỏe sa sút. Kiêng khuyết một góc ở phía đông bắc khu nhà, sức khỏe sa sút. Kiêng đất ở hình tam giác, trước nhọn sau rộng, hao tổn người và của, bất lợi cho nữ giới. Nếu đất trước rộng sau nhọn gọi là “đuôi sao chổi”, đại hung, trong nhà có người tự sát hoặc gặp tai nạn. Kiêng khu đất ở hoặc mái nhà bên trái dài, bên phải ngắn sẽ tổn hại đến vợ con. Kiêng khu đất ở hoặc hình nhà bốn góc đều khuyết, đại hung. Kiêng đất ở hoặc hình nhà chữ nhật, mặt nhà quay về hướng đông tây, đại hung. Kiêng đất ở hoặc hình mái nhà phía nam, bắc đều khuyết, dễ có chuyện thưa kiện, bệnh tật. Kiêng khu đất ở hoặc hình mái nhà phía đông khuyết lõm, gia cảnh thiếu thốn. Kiêng khu đất ở hoặc hình mái nhà khuyết lõm phía bắc, rất dữ, đại hung. Kiêng khu đất ở hoặc hình mái nhà khuyết lõm phía nam, trong nhà thường cãi cọ, không yên. Kiêng khu đất ở hoặc hình mái nhà khuyết lõm phía bắc, rất dữ, đại hung. Kiêng trồng cây to trong khu đất ở, rất dữ. Kiêng giữa sân nhà ở khu đất trống (khu nhà kiểu hình móng ngựa) trồng cây hoặc làm bể nước, rất dữ. Kiêng rải sỏi, đá dăm mảng lớn trong sân vườn, sẽ có âm khí, gia cảnh sa sút. Kiêng dẫn suối vào khu nhà mình ở, rất dữ. Kiêng tường rào vây quanh nhà quá cao, người trong nhà như thú bị nhốt, dẫn đến cùng khốn. Kiêng nhà to, người ở ít, rất dữ, vận hạn sẽ nghèo khó. Kiêng nhà ở dài ngoẵng, người ở bệnh tật. Kiêng chia số phòng trong nhà làm 3, 4, 8 phòng, rất dữ. Kiêng nhà ở có phòng chia đôi sàn, rất dữ, con cháu hư hỏng, tiền tài thất tán, hoặc gia cảnh sa sút. Kiêng giữa nhà có khoảng không gian không sử dụng, rất dữ. Kiêng nhà ở mà cửa chính thành một đường thẳng, không tốt. Kiêng nhà ở có cửa hàng mà quay về hướng đông bắc hoặc tây nam, rất dữ, nhà có khí âm, buôn bán kém, địa vị, tiền tài sa sút. Kiêng nhà ở độc lập mà không có cửa sau, vợ chồng không sống với nhau dài lâu. Kiêng phòng ngủ sát vách bếp, rất dữ, nhất là với trẻ nhỏ. Kiêng đặt tủ quần áo quá cũ trong phòng ngủ, đại hung. Kiêng đặt nhà bếp quay về hướng tây nam. Kiêng bệ bếp quay ra cửa để ngọn lửa ở bếp lộ ra ngoài, làm ăn không thuận lợi, hao tài tốn của. Kiêng đặt phòng tắm ở hướng tây nam, đông bắc, rất dữ. Kiêng đặt phòng vệ sinh giữa nhà ở, chủ nhà đau ốm, bệnh tật. Kiêng bệ xí cùng hướng với cửa chính, rất dữ. Kiêng cầu thang đặt chính giữa nhà, đại hung. Kiêng nhà ở mở cửa sổ hướng bắc, phụ nữ kinh nguyệt không thuận. Kiêng để bàn thờ lộ ra ngoài, người ngoài đi lại nhìn thấy. Kiêng hiên nhà có cây to xuyên qua, rất dữ. Kiêng trong nhà có bốn cột bốn phía, sát cửa, đại hung, người nhà dễ mắc bệnh. Kiêng từ ngoài vào nhìn thấy cột chính lớn nhất của nhà, đại hung, con bất hiếu. Kiêng dầm nóc nhà không phải là một cây dài suốt mái, đặc biệt là nhà mái bằng, đại hung. Kiêng sàn trong nhà thấp hơn sàn ngoài nhà, dễ bị bệnh, tai họa, cãi cọ. Kiêng từ chính diện nhìn vào nhà, mái có hình lồi, chữ sơn có hỏa tai, tán tài, không tốt. Kiêng mái nhà ở có hình lồi chữ sơn, dầm nóc giữa cao, trước sau đều thấp dẫn đến hao tài, cô độc. Kiêng nền đất nhà tơi mềm, đại hung, người ở thường sa sút. Kiêng xây nhà trên ruộng cạn đã lấp, không lành vì ma quỷ thường quấy nhiễu. Kiêng xây nhà trên đất cỏ mọc tốt tươi. Phải nhổ cỏ tận gốc nếu không sẽ có tai họa, vận hạn, khổ sở liên miên. Kiêng xây nhà từ ngoài vào trong, phát triển không tốt. Kiêng sửa nhà cục bộ khi có người đang ở, gia cảnh sa sút, con cháu không thuận, có thể mất giống. Kiêng xây thêm tầng của một tầng với móng nhà cũ, đại hung. Kiêng nối hai ngôi nhà riêng biệt thành một, nối hai giọt gianh lại, đại hung. Vận nhà sa sút, gia sản khuynh bại. Nếu nối giọt gianh mà dỡ cột thì càng nguy hiểm, có thể dẫn đến chết người. Kiêng nhà ở có các khe hở giữa bốn bức tường, đại hung, trong nhà có người ốm, thường có ác mộng. Kiêng treo trên tường quá nhiều đồ trang trí, đại hung. Kiêng khi cất nhà, quay ngược đầu vật liệu để sử dụngm chẳng hạn quay gốc cây (gần rễ) lên trên, ngọn xuống dưới để sử dụng, người trong nhà sẽ gặp bất trắc. Kiêng khuôn cửa hoặc trụ cửa cong, người trong nhà sẽ mắc bệnh khó chữa. Kiêng nhà nhỏ mà cửa lớn, không tốt. Kiêng nhà ở có sân vườn, hệ thống thoát nước đặt ở phía tây nam, không tốt. Kiêng rác đổ ở phía tây nam sân vườn, đại hung. Kiêng lò bếp gần sát giường, có họa hư hao. Kiêng phòng ngủ có dầm bắc qua giữa căn phòng, đại hung. Kiêng cửa kính nhà ở chiếu thẳng vào góc nhà của người khác, đại hung. Kiêng bắc cây tre để phơi quần áo trên kệ bếp, đại hung, dễ bị tai họa. Kiêng mở cửa mái ở phía tây nam, đông bắc, đại hung. Kiêng mở cửa mái quá lớn, dưỡng khí quá thịnh, dễ gặp tai họa. Kiêng bố trí bếp lò để sưởi ấm ở vùng giữa nhà ở, chủ nhân dễ gặp tai họa. Kiêng trổ cửa đi, cửa sổ phần phía nam nhà ở mà không có mái che, tình cảm vợ chồng đổi thay, không cãi cọ. Kiêng làm kho chứa dưới giường, đại hung. Kiêng kê giường hướng thẳng ra cửa, tối hay nằm mê thấy ma quỷ. Kiêng gương soi của bàn trang điểm chiếu thẳng vào giường không tốt. Kiêng phía trước bếp có đường cái, phía sau có đường ngang. Kiêng sau bếp có giếng, hại cho phụ nữ. Kiêng đặt bếp ở quay ra ngoài hai mái, dễ gây thị phi, thất tán tiền của. Kiêng phía trên bếp đặt dằm, phụ nữ sẽ sinh lắm bệnh. Kiêng mở cửa sổ lớn trên tường rào, thì phi, phiền phức. Kiêng tường bao trước rộng, sau hẹp, đại hung, người nhà có thể bị bệnh nặng hoặc tự sát. Kiêng tường bao phía trước nhọn, sau rộng dài, gọi là “thái điền bút”, người trong nhà kinh doanh thua lỗ. Kiêng tường bao nhà người khác thành hình góc nhọn hoặc góc nhà của người khác chĩa vào nhà mình, bất lợi, góc chĩa bên phải, nữ bị đau, người nhà hao tổn về vật chất và tinh thần. Kiêng trên tường bao có mái hiên kiểu cổ quá rộng, thành hình hành lang, sẽ có chuyện kiện tụng. Tường bao xung quanh ngoài cửa ra vào kiêng khuyết góc, sẽ ốm đau, kiện tụng. Kiêng tường bao quanh nhà cao quá hoặc thấp quá vì sẽ có con gái thọt. Kiêng xây nhà, mà xây tường bao trước, sẽ dẫn đến tù tội, hoặc gặp trắc trở. Kiêng nhà có cầu chọc thẳng vào nhà, sẽ mất hết tài sản. Kiêng trước nhà có rãng nước mà người ta bắc cầu qua đó, đời sống tinh thần của người trong ngôi nhà đó sẽ bị quấy rầy. Kiêng cầu gỗ chọc thẳng vào nhà từ phòng phía tây bắc, chủ nhân ngôi nhà sẽ khuynh gia bại sản, tổn thọ. Kiêng trước nhà có đền miếu, gia đình không yên ổn, làm ăn thất tài, phụ nữ bị quỷ thần quấy nhiễu. Kiêng nhà xây lọt vào bốn phía xung quanh là núi cao, không tốt. Kiêng phía nam nhà có núi cao, học không thành đạt. Kiêng trước nhà có núi chạy liên tục từ phải sang trái, có nhà cũ nát, bất yên, hay gặp chuyện kiện tụng. Kiêng cổng nhà có đá chắn ngang đối diện với cổng, con cái gặp nạn. Kiêng trước nhà ở có đống đá, có thể mắc bệnh hô hấp. Kiêng trong cửa hoặc trong nhà có đống đá, sợ người chửa trong nhà bị sảy hoặc mắc bệnh về mắt. Kiêng trước nhà có đá mọc, phụ nữ trong nhà mắc bệnh đau tim. Kiêng quanh nhà, đặc biệt trước cửa có đá chắn ngang, chó trong nhà hay cắn người, người thường xuyên bị bệnh. Kiêng trồng cây cối ở giữa sân vườn, hay bị bệnh tật. Kiêng rễ cây trước cửa lộ trồi ra, tổn hại sức khỏe. Kiêng trước cửa nhà có bụi trúc, rừng trúc, người trong nhà không vui vẻ. Kiêng hướng tây hoặc tây nam gần nhà có cây, sợ trẻ con ngã từ trên cây xuống đất chết. Kiêng cây mọc gần nhà quấn nhiều dây leo, sẽ có chuyện thị phi, cãi cọ, tự sát. Kiêng hành lang nhà phụ có mái che nối với nhà chính vì sẽ có tai họa, gia đình không yên. Kiêng xây lầu hiệu cao lớn hơn nóc nhà vì sẽ thất tài, hỏa tai, trộm cắp, mất quan lộc. Kiêng gần nhà có ngã tư hướng về đông bắc, vợ vô sinh. Kiêng trước nhà có đường hình vòng cung vòng ra phía ngoài, sợ đàn ông trong nhà chết, phụ nữ dâm loạn, thua kiện, buôn bán thất bát. Kiêng trước cửa nhà có ao hồ hình dáng có góc nhọn chọc thẳng vào cửa nhà, người nhà có bệnh về mắt, phụ nữ mắc nhiều bệnh. Kiêng trước cửa nhà bên phải có ngã tư đường, đường ngang qua ngã tư lại là đường cong hướng ra ngoài, sẽ có người tự sát, tổn thất tiền của, kiện tụng. Kiêng trước cửa nhà có đường rẽ hai bên, lại có hồ nước, nhà ở rất dữ, bệnh tật, người nhà bị chết. Kiêng trước cửa nhà có nhà cũ nát, cửa không đóng được, sẽ có nhiều chuyện không hay, bệnh tật, ma quỷ quấy nhiễu. Kiêng nhà ở bốn phía là đường, sẽ rơi vào chữ “tù”, khó phát đạt. Kiêng dầm trong nhà là số chẵn, sợ tai họa, bệnh tật, phá sản hoặc chết người. Kiêng nhà cao lại nối với một nhà nhỏ thấp, sợ hao tổn tiền của, tai họa, bệnh tật. Kiêng phòng ngủ phía trước, phòng khách phía sau, sợ thoái tài, làm ăn sa sút. Kiêng cửa ra vào chiếu thẳng ra cổng, dễ ham muốn, dâm dục. Kiêng phòng ngủ vuông góc với hành lang hoặc đường qua lại, vợ dễ tư thông với trai. Kiêng nhà ở phía tây, có một gian làm thành hai tầng, các gian khác một tầng, người trong nhà ham mê tửu sắc. Kiêng tường bao quanh nhà dây leo phủ kín, sợ âm khí, kiện tụng. Kiêng nhà có tường và cổng đối diện nhà khác mà lại thấp hơn, sẽ suy thoái. Kiêng nước thải từ trong nhà ra chảy từ phải qua trái, đại bại. Kiêng đặt thần vị theo hướng thái tuế, tai họa rất nặng. Những năm thái tuế, kiêng đặt thần vị lưng quay về hướng nam, mặt nhìn ra hướng bắc, nguy hại đến tính mạng. Những năm sửu, kiêng đặt thần vị ngồi ở tây hoặc nam, mặt nhìn ra hướng bắc, bệnh tật hoặc chết người. Những năm mão, kiêng đặt thần vị ngồi ở tây, mặt quay về hướng đông, nhà có tang hoặc suy thoái. Những năm thìn, kiêng đặt thần vị ngồi ở phía tây hoặc tây bắc, nhìn ra hướng đông hoặc đông nam, con cái không tốt. Những năm tỵ, kiêng đặt thần vị ngồi ở bắc hoặc tây bắc, mặt quay về hướng nam hoặc đông nam, nhà không yên. Những năm ngọ, kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng bắc, quay mặt về hướng nam, sẽ gặp thủy hỏa. Những năm mùi, kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng bắc hoặc tây bắc, mặt nhìn về hướng nam hoặc tây nam, họa không lường được. Những năm thân, kiêng đặt thần vị ngồi ở đông bắc, quay mặt về hướng tây, tây nam, đặc biệt hại cho nam giới. Những năm dậu, kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng đông, mặt quay sang hướng tây, sợ sẽ khóc quanh năm. Những năm tuất, kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng đông hoặc đông nam, mặt nhìn ra tây hoặc tây bắc, đàn ông bị tổn hại. Những năm hợi, kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng nam hoặc đông nam, mặt nhìn về phía hướng bắc hoặc tây bắc, bệnh tật quanh năm. Kiêng làm nhà bằng loại gỗ nhiều mắt, sợ mụn nhọt. Kiêng dùng gỗ âm khi xây nhà, chẳng hạn kiêng dùng các loại cây như dẻ, hòe. Kiêng tường đất hai bên cổng chính to nhỏ, bên trái lớn, sẽ thay đổi vợ, bên phải lớn, sẽ tổn thọ. Kiêng làm hai cửa nhỏ ra vào hai bên cổng chính, trong nhà không có trật tự, kỷ cương, lớn bé coi khinh lẫn nhau. Kiêng dùng tường bao hoặc lan can ở ngoài trời, sợ bị bệnh tim, đau mắt. Kiêng phòng ngủ đặt cạnh kho chứa, sẽ bệnh tật. Kiêng các phòng trong nhà hình chữ T hoặc tam giác, sợ bệnh tật, sống phải chạy vạy.
  14. Kiêng kỵ khi thiết kế văn phòng Trích Bách khoa kiêng và cấm kỵ của Phạm Minh Thảo Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin Người Đài Loan hiện nay vẫn rất chú ý đến sự kiêng kỵ khi thiết kế văn phòng. Theo quan niệm phong thủy xưa, người ta cho rằng trong việc dựng một văn phòng, cần chú ý nên tránh một số điểm sau: Kiêng đặt văn phòng ở cuối hành lang trung tâm vì sát khí của tòa nhà đó sẽ gây ảnh hưởng không tốt đối với người trong văn phòng. Nếu ở vào vị trí bất lợi nay, có thể hóa giải nó bằng cách dùng màn chắn lại như vậy có thể khiến cho sát khí chuyển hướng không trực tiếp truyền vào văn phòng. Bàn làm việc của giám đốc phải đặt vào vị trí phù hợp với tuổi của người đó. Kích thước của bàn cũng cần phù hợp để đem lại sự cát lợi. Một số công ty người ta còn cố định chân bàn xuống sàn nhằm để cho vận may không mất đi. Kiêng kỵ khi bố trí nội thất Người Đài Loan hiện nay khi bố trí nội thất, bày biện đồ đạc trong phòng, đặc biệt là giường ngủ, rất chú ý tới quan niệm phong thủy. Cách bài trí theo quan niệm phong thủy do xuất phát từ quan niệm muốn cho con người sống trong nhà bình an, vui vẻ, luôn gặp may mắn và hấp thu được nhiều tinh túy của đất trời. Người ta kiêng kê giường ngủ thẳng hàng với hai cửa đi vì cho kê như thế, giường sẽ là một vật cản ngăn chặn dòng không khí, khiến khí không lưu thông mà sẽ lẩn quẩn trong nhà. Kiêng đặt giường đối diện với tấm gương lớn dễ gây ảnh hưởng đến tinh thần, tạo cảm giác khó chịu. Phòng vệ sinh là nơi nước vào nhà và thoát đi nên nó tượng trưng cho sự chi tiêu, thu nhập của chủ nhà, bởi vậy phải đặt càng xa cửa chính càng tốt. Điều đó có nghĩa việc chi tiêu của chủ nhà sẽ hợp lý, có cân nhắc. Nếu phòng vệ sinh đối diện với cửa ra vào, phải treo một bức mành để không nhìn thấy cửa trực tiếp. Bếp và phòng ăn là nơi tượng trưng cho của cải vì thế không nên bố trí gần cửa ra vào vì như vậy sẽ mất hết tiền bạc và hao tổn sức khỏe. Kiêng bức tường sát phòng ngủ dùng làm chỗ thờ vì mắc tội bất kính, sẽ không được tổ tiên phù hộ. Kiêng đặt bàn thờ trên cao, dưới để rác hoặc đặt thùng rác, không những phạm tội bất kính mà còn mang họa. Kiêng xà ngang đè đầu, ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần. Nơi làm việc phải xoay mặt ra cửa chính hoặc chếch với cửa chính, kiêng quay lưng ra cửa dễ làm hiệu suất công việc sút kém, phát sinh bệnh tâm thần. Kiêng dùng làm buồng ngủ có góc nhọn, không theo quy tắc nào vì vợ chồng lấy nhau lâu sẽ không có con. Kiêng giường nằm bằng kim loại vì khó có con. Kiêng đặt gương chiếu vào giường vì không ngủ ngon. Kiêng nhà vệ sinh bẩn thỉu, hôi thối vì hôn nhân dễ biến đổi theo chiều hướng xấu. Kiêng để cạnh bàn thu tiền có rãnh nước, không lợi vì để của ra đi. Kiêng phòng ngủ đối diện với buồng tắm, dễ sinh chán chường. Kiêng kỵ hoa đặt ở bàn thờ thần tài, không có sức sống, làm ăn sẽ giảm sút. Kiêng các phòng thông cống đến tận cùng, vì dễ có nhiều sự phát sinh. Kiêng kỵ nhà tắm bẩn, không phát tài. Kiêng kỵ những thứ như đồ chơi, chuông gió quá nhiều, không có lợi cho tình cảm. Kiêng buồng vệ sinh đặt gần buồng ngủ lõm vào, sẽ bất lợi cho chủ nhà. Kiêng bày biện trong phòng ngủ nhiều thứ đẹp, dễ gây mê muội. Kiêng phòng ngủ ẩm thấp, không có không khí lưu thông, trai gái dễ bị bệnh ác tính, khó kết lương duyên. Phòng ngủ của nam nữ chưa kết hôn, tránh dùng nhiều vật sắc nhọn sẽ bị ảnh hưởng xấu của góc nhọn gây ra dễ xung nhau, tình cảm xấu. Kiêng để cửa sổ quá thấp hoặc điều hòa nhiệt độ thổi thẳng vào người trong buồng ngủ sợ sinh hoạt bất lợi khó sinh đẻ. Kiêng cửa thông các buồng nối liền nhau sẽ sinh chuyện ngoại tình, lăng nhăng, khó bình yên. Kiêng làm tủ lõm vào tường ở đầu giường, ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần. Kiêng các vật trang trí như chim ưng, cú mèo sẽ bất lợi cho phụ nữ có mang. Kiêng trang trí đổ cổ, đặc biệt mặt nạ dùng trong nghi thức tôn giáo vì rất không lành với phụ nữ mang thai, trẻ em, người ốm. Kiêng kỵ nóc nhà đặt hình bát quái. Xưa bát quái thường dùng làm phù chú, đuổi tà ma nên phải đặt chính xác phương vị. Vị trí bát quái sai sẽ bất lợi. Kiêng treo bảo kiếm lâu dài vì bảo kiếm ngày xưa phải vấy máu người do chém giết thì mới tốt, dùng để trừ tà ma. Đó là hung khí, treo lâu ngày trong nhà không lành. Kiêng treo quần áo lót không sạch trên ban công vì quần áo lót sẽ đè vận thế nhà, không vươn lên được. Kiêng đặt những thứ tạp nham lên bàn thờ Phật, sẽ mắc tội bất kín và gặp tai họa. Kiêng đặt bàn thờ đối diện với nhà vệ sinh vì mắc tội bất kính, sẽ gặp rủi ro. Kiêng thay quần áo hoặc phơi quần áo trước bàn thờ vì như vậy là bất kính, không hay. Kiêng cửa nhà bếp đối diện với nhà vệ sinh, không lành. Kiêng bàn thờ thần tài có nước dò rỉ từ mái nhà xuống, làm ăn sẽ không may, thất tài. Kiêng bốn góc nhà bị lệch hoặc thiếu góc, hình nhà kiểu chữ thập, đại hung, tuyệt đối tránh. Kiêng cửa nhà, cửa buồng nối liền nhau chĩa thẳng vào cầu than điện, không lành. Kiêng có góc cột quá nhiều trong các buồng vì dễ làm tâm thần mất ổn định, không yên tĩnh, kỵ nhất là vợ chồng mới cưới hoặc học sinh chuẩn bị thi cử. Kiêng nhà ở nhỏ mà làm hình tròn hoặc hình vòng cung vì trong nhà sẽ không yên lành. Kiêng cửa buồng tân hôn có ao bẩn hoặc cây khô, không có lợi cho tình cảm, nhất là vợ chồng mới cưới. Kiêng buồng vệ sinh đặt ở tận cùng hành lang, đại hung. Kiêng để chậu cây cảnh héo úa, xơ xác dễ làm vận chuyển khí xấu. Phòng họp hoặc chỗ ngồi của lãnh đạo không nên mở cửa sau lưng, không dựa vào đâu nên sẽ có quyết định sai hoặc do dự không có quyết định. Kiêng nhà vệ sinh sát nhà bếp vì sợ vận nhà sẽ lùi. Kiêng văn phòng làm việc sát với nhà vệ sinh vì sẽ trở ngại cho sự phát triển. Kiêng trong nhà có nhiều đèn thạch anh, dễ gây căng thẳng thần kinh. Kiêng phòng ở có các tiêu bản động vật, nhất là các động vật lớn nếu không sẽ gặp ngang trái, không lành. Cửa được coi như miệng của ngôi nhà, do đó người ta rất coi trọng việc đặt cửa, để tiếp thiên khí, đón lành, tránh dữ. Cửa đón được vượng khí của đất trời mới mang lại vượng khí cho gia chủ. Cửa phụ phải nhỏ hơn cửa chính, nếu cửa hậu lớn hơn cửa chính, khí thoát đi nhiều hơn khí vào nhà, sẽ có sự suy giảm về sức khỏe và thất thoát về tài chính. Góc nhà phải chạy theo hình bát giác để khí lưu thông tốt và các góc lỗi được xem là kém may mắn thì phải đặt gương vào chỗ đó để khí lưu chuyển dễ dàng. Cầu thang không được chạy thẳng ra hướng cửa chính vì người ta cho rằng làm như vậy sẽ làm thất thoát tiền bạc và vượng khí trong ngôi nhà.
  15. 3 vật khí tăng cường tài lộc trong kinh doanh Tỳ hưu, cóc 3 chân, cây nho đá quý đều là những vật khí phong thủy giúp tăng cường tài lộc trong kinh doanh. 1. Tỳ hưu Theo truyền thuyết thì nó là 1 loài thú có sừng đầu hơi giống kì lân, có bờm uốn cong rất dài nên còn có tên gọi là "hươu trời" hai cái sừng của nó có tác dụng "trừ tà", về sau nó có xu hướng phát triển thành con thú một sừng. Người ta nói rằng Tỳ hưu có tác dụng hút tài lộc bốn phương về cho gia chủ. Tỳ hưu nên đặt trên bàn làm việc, quầy thu ngân, bàn thờ thần tài hoặc ở huyệt tài lộc trong nhà và phải hướng đầu ra cửa chính hoặc cửa sổ. 2. Cóc 3 chân Trong phong thủy, cóc là sinh vật được cho là mang lại điềm lành. Người Trung Quốc xưa tin rằng, nếu họ nhà cóc ở dưới giếng, ao, hồ sau nhà bạn, thì gia đình bạn có thể tránh khỏi những nguy hiểm rình rập. Cóc 3 chân được xem là biểu tượng rất may mắn. Nó thường ngậm ba đồng tiền xu trong miệng, tượng trưng cho việc cóc mang vàng vào nhà. Tuy nhiên, đừng để cóc đối diện với cửa chính. Điều này tượng trưng cho vàng ra khỏi nhà. Vị trí tốt nhất để đặt cóc 3 chân là ở góc đối diện chéo với cửa chính, mặt hướng vào bên trong như thể cóc đang nhảy vào nhà. Cóc cũng có thể nằm bên dưới gầm bàn, bên trong tủ hoặc giấu dưới ghế, những đồ đạc khác… 3. Cây nho Đá quý Cây nho kết quả tượng trưng cho sự thu hoạch, sự kết quả hoặc sự đầu tư mang lại lợi lộc lớn. Cây nho trong kinh doanh sẽ đem lại cát khí lớn lao cho ngôi nhà, văn phòng hoặc cửa hàng kinh doanh. Nó mang lại sự đầu tư sáng suốt và thu được nhiều tài lộc. Trong phong thủy, những trái nho bằng đá sẽ mang lại cát khí cho ngôi nhà hoặc căn phòng. Cũng có thể dùng để kích hoạt khí của Sơn tinh trong ngôi nhà để đem lại quan hệ gia đình thuận hoà, êm ấm, con cái hiếu thuận, thành đạt. Quả nho được làm bằng đá quý mang tinh chất thổ nên cát khí của nó rất lớn, có tác dụng rất hiệu quả trong Phong Thuỷ, tăng cường Thổ Khí đem lại tài lộc. Nó được dùng trong phòng khách hoặc văn phòng, trong các cửa hàng kinh doanh buôn bán, trưng bày và giới thiệu sản phẩm. Vật này nên bày ở góc phía Đông Bắc, Chính Tây hoặc giữa phòng. Tuấn Anh Nguồn: www.nguoilanhdao.vn
  16. Thiên nhiên nước ta ở buổi đầu của dân tộc Lê Văn Hảo Trích Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước Tổ tiên ta đã khéo chọn cho mình một miền đất độc đáo ở vào vị trí tiếp xúc của nhiều hệ thống địa lý: nước Văn Lang nằm trong vòng đai nhiệt đới mà lại không đơn thuần là một nước nhiệt đới. Từ ngàn xưa, gió mùa đã ảnh hưởng sâu sắc đến thiên nhiên nước ta, một thiên nhiên muôn màu muôn vẻ với nhiều rừng rậm núi cao, sông dài biển rộng, với vùng cao, vùng trung du và miền đồng bằng. Ngày nay rừng rậm đã lùi dần lên vùng cao về phía tây, sau một quá trình đấu tranh dài hàng nghìn năm giữa con người với thiên nhiên, nhưng ở thời đại dựng nước, rừng còn lan khắp vùng trung du và cả một phần lớn đồng bằng. Nhiều vùng gò đồi trọc hiện nay xưa kia đã phủ rừng dày đặc. Ngay tại đồng bằng còn giữ được nhiều di tích của rừng: mỏ than bùn thấy ở nhiều nơi như Thạch Thất (Hà Tây), Lỗ Khê (ngoại thành Hà Nội); rừng gỗ tứ thiết ở Sặt (Tráng Liệt, Bắc Giang), rừng Báng (Đình Bảng, Bắc Ninh), đồi Lim, làng Lim, phà Rừng... Trong các di tích khảo cổ ở đồng bằng, đã tìm thấy xương cốt nhiều loại thú rừng. Cư dân nước Văn Lang sống tập trung trên những đồng bằng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; quá trình kiến tạo đồng bằng chưa hoàn thành thì bàn tay con người đã sớm dựng lên những công trình thủy lợi để khai thác trồng trọt trong những điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp với nghề trồng lúa nước. Chiến thắng của Sơn Tinh chính là chiến thắng lũ lụt của những người Việt cổ trị thủy tài giỏi, đã gây dựng nên những cánh đồng màu mỡ ven những dòng sông lớn. Nhìn chung, mọi người đều nhất trí là tổ tiên ta đã dựng nước trong một khung cảnh thiên nhiên thích hợp, thuận lợi, trên một dải đất nhiều núi rừng, nhiều sông ngòi, hồ ao, đường giao thông thuận tiện, giàu khoáng sản, lâm sản, hải sản, trên những đồng bằng màu mỡ thích hợp với nghề nông. Những yếu tố thiên nhiên tích cực này đã góp phần đẩy mạnh quá trình tiến bộ kinh tế và văn hoá, đưa đến việc dựng nước Văn Lang, một nước có đủ sức chống ngoại xâm, có nền văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ ở vùng Đông Nam Á cổ đại. Thế giới thực vật thời đại dựng nước Nghề trồng trọt đã giữ một địa vị quan trọng trong đời sống kinh tế của cư dân Việt cổ từ buổi đầu dựng nước. Di tích thực vật thu thập được từ các địa điểm khảo cổ tuy chưa được nhiều lắm như cũng đủ cho thấy sự phát triển của nghề trồng trọt. Con người thời đó đã quen với những loại cây dương xỉ, tùng bách... Trên nương rẫy, vườn ruộng của họ đã có mặt những loại cây thiết thân với các cư dân nông nghiệp cổ đại. Đó là những cây na, cây trám, cây đậu, cây dâu tằm, cây bầu, cây bí, cây cải cúc, cây tre, và nhất là cây lúa. Ở di chỉ Đồng ĐẬu, đã tìm thấy những hạt thóc đã cháy thành than cách đây trên dưới 3300 năm. Ở di chỉ Gò Mun đã phát hiện được cả một hầm chứa ngũ cốc. Ở di chỉ Gò Chiền, dấu vết của những vỏ trấu, than trấu còn thấy khá rõ. Đặc biệt ở di chỉ Hoàng Ngô còn tìm thấy một hạt đậu nguyên vẹn. Người Việt cổ còn biết trồng khoai, trồng bông, trồng dưa, trồng trầu và cau. Các sách cổ của Trung Quốc như Nam Phương thảo mộc trạng, Giao châu ký, Tam đô phủ, Thủy kinh chú, Tề dân yếu thuật, Ngô lục địa lý chí... đều có ghi chép về việc người Lạc Việt biết trồng khoai, đậu, dưa, bông, trồng dâu nuôi tằm, mặc dù sách ghi chép những sự việc trong thời Bắc thuộc nhưng chắc chắn những loại cây trồng này đã có từ trước. Truyền thuyết của nhân dân ta về thời đại Hùng Vương có nói đến một vài loại cây trồng như cây lúa trong truyện Bánh chưng bánh giầy, cây cau trong truyện Trầu cau, cây dưa dấu trong truyện An Tiêm. Hình ảnh sống động của cây lúa còn thấy ở nhiều truyền thuyết, cổ tích của các dân tộc anh em như truyện Nàng tiên trứng của đồng bào Tày, truyện Khả Sắc Sia của đồng bào Thái, truyện Nam A-lách của đồng bào Gia-rai, truyện Đum Đú với nàng tiên của đồng bào Ê-đê, truyện Cô gái thứ mười của đồng bào Hơ-rê, truyện Phu-man của đồng bào Ba-na... Nông nghiệp thời đại Hùng Vương là nông nghiệp trồng lúa trong đó việc trồng lúa nước chiếm vị trí chủ đạo. Nghề trồng lúa xuất hiện ở nước ta khá sớm và có thể coi đó là một truyền thống của dân tộc ta. Cho đến nay nguồn gốc cây lúa còn là một vấn đề đang được tranh luận sôi nổi trên thế giới. Ý kiến của các nhà nghiên cứu rất khác nhau, trong đó có một số người cho cây lúa có nguồn gốc từ Việt Nam, ví dụ như Cô-xven (Liên Xô) trong tác phẩm Sơ yếu lịch sử văn hoá nguyên thủy hay như Tùng Vinh Hiếu Linh (Trung Quốc) trong công trình Nghiên cứu tổng hợp về cây lúa. Các sách cổ của Trung Quốc và của ta đã nói đến nhiều giống lúa có ở Việt Nam. Đặc biệt là nhà bác học Lê Quý Đôn ở thế kỷ 18, trong bộ bách khoa toàn thư Vân đài loại ngữ đã kê ra hơn 100 giống lúa tẻ và lúa nếp, đồng thời ông đã mô tả một cách tương đối chi tiết đặc tính của các giống lúa, những kinh nghiệm gieo trồng và năng suất. Không phải ngẫu nhiên mà có thể kể ra một số lượng phong phú các giống lúa và đặc tính của giống lúa như thế. Bởi vậy, rất có khả năng là từ thời Hùng Vương đã có một số giống lúa khác nhau. Điều này đã được phản ánh trong phong tục tập quán cổ ở vùng đất Tổ: Tại Đền Hùng, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhiều màu: xôi trắng, xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau đã trồng được ở thời đấy, đánh dấu những tiến bộ vượt bực của nền nông nghiệp Việt cổ. Sách cổ của ta đều thống nhất ghi lại sự kiện trồng lúa hai vụ từ xưa ở nước ta: "Lúa ở Giao Chỉ chín hai mùa". Dựa vào địa bàn phân bố của những nơi cư trú thời Hùng Vương, có thể nói cư dân thời này trồng lúa chủ yếu trên 3 loại ruộng: ruộng phù sa ven sông, ruộng trũng quanh các đầm hồ, ruộng rộc trên các gò đồi miền trung du. Kinh tế nông nghiệp đã trở thành một truyền thống của dân tộc ta. Chính truyền thống ấy đã ảnh hưởng và chi phối mọi hình thái ý thức, và ngay cả tâm tư tình cảm của dân tộc ta và đã là cơ sở cho sự phát triển của nông nghiệp sau này. Để trở thành những người nông dân trồng lúa giỏi, tổ tiên ta đã phải khai sơn phá thạch, đấu tranh gian khổ với cái thiên nhiên vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt đã được hình tượng hoá trong câu chuyện Sơn Tinh-Thuỷ Tinh. Trong cuộc đấu tranh đó, phần thắng đã về phía tổ tiên ta. Thế giới động vật thời đại dựng nước Trong các di chỉ khảo cổ thuộc thời đại dựng nước, chúng ta đã tìm thấy di tích của vài loại động vật không xương sống như cua đồng, ốc vặn, và của hàng chục loài động vật có xương sống từ những con cá chép, cá quả, rùa vàng, ba ba, những con gia súc bạn thân của người như gà, lợn, chó, trâu, bò, đến những thú rừng như: hươu, hươu sao, nai, hoẵng, khỉ, tê giác, voi, hổ, lợn rừng, nhím, cầy hương, rái cá... và nhiều loại chim (1) Trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn chúng ta còn thấy hình ảnh của cóc, ếch, nhái, thằn lằn, cá sấu, cá nhám, cáo, sóc, hươu, bò u, voi, chó săn... Trong giới động vật phong phú của thời đại dựng nước nổi bật lên các loài chim mà hình ảnh đã trở nên rất phổ biến trên các trống đồng, thạp đồng, những văn vật tiêu biểu cho văn minh thời đại. Ví dụ như: Trên mặt và thân trống Ngọc Lũ có đến 50 hình chim. "Trống Hoàng Hạ (Phú Xuyên, Hà Tây) 34" "Trống Sông Đà (Khai Hóa, Hòa Bình) 24" "Trống Miếu Môn (Mĩ Đức, Hà Tây) 32" "Trống Vũ Bị (Bình Lục, Hà Nam) 22" "Trống Pha Long (Mười Khương, Lào Cai) 19" "Trống Duy Tiên (Hà Nam) 18" v.v... Những con số trên đây nói lên sự quen thuộc của các loài chim đối với thế giới quan của người Việt cổ. Hình ảnh của chim trong thiên nhiên đã được nhào nặn qua tư duy mỹ thuật và trí tưởng tượng của ngưởi xưa và được thể hiện với những nét cách điệu cao. Từ những hình nét cách điệu đó chúng ta vẫn có thể tìm lại được bóng dáng hiện thực của các loài chim. Dạng phổ biến nhất là những con chim bay có mỏ dài, nhọn, chân dài, cổ thanh và nhỏ, đầu có mào, lông xuôi về phía sau. Đây là những con chim thuộc loài cò, vạc, diệc... Trên trống đồng, chúng ta còn gặp một dạng chim giống như loài cò thìa, đang đứng tư lự, chân cao, đôi cánh khép lại, chiếc mỏ dài mềm mại hơi cong xuống phía dưới và bè ra ở phần cuối mỏ thành một hình thoi. Loài cò thìa này ngày nay vẫn thấy ở một số vùng đồng bằng và trung du miền Bắc nước ta. Một dạng chim khác cũng thường được trang trí trên trống đồng là loài bồ nông mỏ rất to, chân ngắn, đang trong tư thế bắt một con cá từ dưới nước lên. Những con chim bơi theo thuyền trên thạp Đào Thịnh là loài xít, mỏ tù, thân tròn, trên thân có điểm các chấm nhỏ, khi bơi chỉ thấy phần đầu và thân nổi lên mặt nước, loài này hiện nay vẫn thường sống ở những vùng đồng lầy và cửa sông. Trên mái nhà sàn ở trống Ngọc Lũ và Hoàng Hạ thấy khắc những con gà lôi mỏ ngắn, mào nhỏ, chân ngắn, trên thân có những vạch nhỏ, ngắn; những con gà lôi lớn thì có bộ lông đuôi to và dài, đó là những con trống, còn con nhỏ trong mỗi đôi là con mái. Riêng trên mái nhà kho (nhà cầu mùa) ở trống Hoàng Hạ lại có một đôi gà: một trống một mái đang quay đầu vào nhau. Trên trống Ngọc Lũ có một dạng chim khá đặc biệt đó là loài công, mỏ tù, dạng mỏ của loài ăn hạt, trên đầu có hai mào, lông khá lớn dựng đứng, đuôi dài, chân cao. Công là một loài chim quý có khắp nơi ở nước ta trước đây. Đền vua Thục An Dương Vương ở Diễn Châu (Nghệ An) được xây dựng cạnh một khu rừng có nhiều công gọi là rừng Cuông (tiếng địa phương đọc trại công thành cuông) và đền vua Thục quen được gọi là đền Cuông. Trên trống Ngọc Lũ còn có hình đôi chim công lớn nhỏ đang cõng nhau. Trên một cán dao găm đồng tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn có hình một con chim gõ kiến có mỏ to, chân đang bám chắc vào thân cây ở tư thế đặc biệt của những loài chim thuộc họ gõ kiến. Trong những hình thú vật thể hiện trên trống đồng và đồ đồng, phổ biến hơn cả là hình hươu. Những đặc điểm của loài hươu được thể hiện khá đầy đủ ở những con đi đầu đàn trên mặt trống đồng với cặp sừng mỗi bên 4 nhánh và những đốm nhỏ rải rác trên thân. Đó là những con hươu sao đực. Trong đàn hươu đang thong thả nhịp bước, người nghệ sĩ Việt cổ đã cố ý sắp thanh từng cặp: một đực một cái, và hươu cái cũng có cặp sừng như hươu đực. Như chúng ta đã biết, trong họ hươu chỉ có những con đực mới có sừng, những con cái không có, phải chăng nghệ sĩ xưa đã cho mỗi con hươu cái thêm một cặp sừng để làm tăng thêm vẻ đẹp trang trí của tác phẩm? Thêm các trống đồng Đồi Ro, Làng Vạc có hình những con bò nhà thuộc loại bò u (hay bò Ấn Độ) với thân hình cân đối, cặp sừng cong vút khỏe, cổ có yếm mỏng, trên lưng có một bướu nhô lên ở phần vai khá rõ. Loài bò u này có mặt ở Việt Nam từ 2000 đến 3000 năm trước đây. Trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn có khắc nhiều dạng chó ở những tư thế và trạng thái khác nhau: đó là loài chó nhà, con thì đang đuổi theo con mồi (chó săn hươu, nai...), con thì đang cùng người vượt qua muôn trùng sóng gió trên những con thuyền lớn (như trên trống Ngọc Lũ). Trên nắp thạp Vạn Thắng (Chí Linh, Hải Dương), trên lưỡi đồng Sơn Tây, ta thấy hình hổ và báo trong tư thế đang vồ mồi. Ở một lưỡi qua đồng khác, dễ dàng nhận ra hình dáng một con voi với thân hình to khỏe, đặc biệt là chiếc vòi dài thả xuống phía dưới, đầu vòi cuộn tròn lại. Ở một lưỡi giáo đồng Đông Sơn có khắc hình hai con cáo đối xứng nhau, mõm dài, tai to, đuôi dài và cuộn tròn lại, toàn thân và 4 chân đều có vẻ hình rất linh hoạt. Trên thạp đồng Đào Thịnh có hai con cá sấu đang giao nhau. Những kiến thức đầu tiên về thế giới tự nhiên của người Việt cổ Nhìn ngắm những hình thú, hình chim khác nhau khắc trên đồ đồng Đông Sơn, chúng ta hẳn phải ngạc nhiên trước tài mô tả hiện thực của người xưa. Ví dụ, chim luôn luôn được thể hiện với nhiều hình dạng và tư thế khác nhau. Những con chim đang nối nhau lượn vòng trên mặt trống, trên thân thạp gợi cho ta cảm giác về đàn cò trắng đang thẳng cánh bay về những phương trời xa thẳm. Trên hình thuyền trang trí ở thạp Đào Thịnh có cả một bầy chim đang bay lượn: con đang lao vút từ mặt nước lên, con đang vùn vụt bay về phía trước, con đang đập cánh chơi vơi trên không, con đang từ từ đỗ nhẹ nhàng xuống khoang thuyền... chỉ trong một khoảng không gian nhỏ bé giới hạn trong một khoang thuyền mà chúng ta đã chứng kiến một cách đầy đủ những dáng bay cơ bản của loài chim. Những dạng chim đậu cũng được thể hiện công phu: con đang co ro chăm chú rình mồi dưới nước, con đậu trên nóc nhà, có chỗ thành từng đôi chụm đầu vào nhau như đôi bạn tri kỷ, con đậu trước mũi thuyền đang bập bềnh trên sóng nước. Chim còn được thể hiện linh hoạt trong lúc đang bắt mồi hay đang ghép đôi (2). Chim được thể hiện ở nhiều nơi, nhiều chỗ trên bầu trời, trên mặt nước, chim sà vào đậu trên nóc nhà, đậu xuống khoang thuyền hay bay lượn bên người đang giã gạo, đánh chiêng... Chim và người, người và chim, cùng với nhiều sinh vật quen thuộc khác: chó, hươu, bò, voi, cóc, ếch nhái... nói lên cuộc sống gần gũi, hài hoà, gắn bó với thiên nhiên của tổ tiên ta. Hiểu biết được tự nhiên chính là nguồn sức mạnh to lớn khiến con người có thể chinh phục và tiến tới làm chủ tự nhiên. Người Việt cổ đã ghi lại sự hiểu biết về tự nhiên của mình một cách cụ thể sinh động và sự khái quát hoá nhận thức của mình bằng những hình tượng nghệ thuật tài tình. Tác phẩm nghệ thuật của người xưa giúp chúng ta sống lại với thiên nhiên từ buổi đầu dựng nước, một thiên nhiên giàu có và tươi đẹp trong đó thiên nhiên với con người, con người với thiên nhiên chan hoà làm một. Những kiến thức phong phú của tổ tiên ta về thiên nhiên, về giới thực vật và động vật là một phần trong toàn bộ kho tàng nhận thức về tự nhiên mà tổ tiên đã có được và đã tạo nên sức mạnh vĩ đại khiến người xưa viết nên những trang sử văn minh rực rỡ đầu tiên mà ngày nay chúng ta còn thắm thiết tự hào. ----------------------------- (1) Vũ Thế Long và Trịnh Cao Tưởng, Tìm hiểu những di tích động vật và thực vật thuộc thời kỳ Hùng Vương, trong Hùng Vương dựng nước tập IV. tr. 169-71. (2) Vũ Thế Long , Hình và tượng động vật trên trống và các đồ đồng Đông Sơn, tạp chí Khảo cổ học, số 14 (1974) tr. 9-17.
  17. Tục thờ Mẫu ở Việt Nam Phan Hòa http://www.phongthuyankhang.com/create_image.php?thumb_size=130&dir=news&file_name=Lieu_Hanh.jpg Đất nước ta hình thành trên cơ sở một nền nông nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp. Bị các thế lực ngoại bang xâm chiếm, cảnh nội chiến phân tranh đã đẩy dân tộc đến chỗ bế tắc bị kìm hãm triền miên… Trước hoàn cảnh bất thuận ấy, người Việt cổ cùng các thế hệ kế tiếp đã có sự đấu tranh sinh tồn; vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, sáng tạo ra nền văn hóa, văn minh riêng trong đó có tục thờ Nữ thần nông nghiệp. Việc thờ Phật ở Việt Nam cùng một số nước Đông Nam Á cũng có sự ảnh hưởng của tục thờ Mẫu bản địa, cụ thể là sự xuất hiện của Phật Bà Quan Âm, một dung hợp màu sắc giữa Phật giáo Việt Nam với Ấn Độ, Trung Hoa, Triều Tiên. Còn Man Nương trong huyền thoại Tứ Pháp là nét riêng trong của dân tộc Việt với sự hài hòa của sứ đạo Thiên Trúc. Riêng tục thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh là nét độc đáo mang bản sắc của dân tộc vùng lúa nước, vùng châu thổ sông Hồng và các tỉnh trong cả nước có mối liên quan. Từ trên năm thế kỷ nay, tục thờ Mẫu Liễu Hạnh song song tồn tại cùng Đạo Phật, cũng như tín ngưỡng thờ Thành Hoàng, thờ danh nhân, danh tướng có công với đất nước. Tâm thức dân gian tôn vinh Mẫu Liễu Hạnh trong hàng “Tứ bất tử” Việt Nam, công đức lớn lao như Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử tiên ông và Tản Viên Sơn Thánh là những bậc thánh thần cao đạo, đức trọng, công lớn với nước, với hậu thế từ buổi bình minh lịch sử, mãi mãi tồn tại trong đời sống tinh thần dân tộc. Người xưa đã ghi nhận hiện tượng nữ thần Liễu Hạnh công chúa là một sự kỳ lạ, qua sách “Truyền kỳ tân phả” do nữ sĩ tài danh Đoàn Thị Điểm viết. Nguyễn Công Trứ viết “Liễu Hạnh công chúa diễn âm” cùng nhiều tác giả viết một số bài về Thánh Mẫu Liễu Hạnh…Song trong ý niệm dân gian thì lai lịch của Mẫu trên lãnh thổ Việt Nam vô cùng phong phú. Nó không bó hẹp trong thư tịch Hán Nôm, bi ký mà lan rộng trong truyền thuyết khắp các lũy tre xanh, trong các bài văn chầu, thơ ca cùng những hoạt động tín ngưỡng, lễ hội…Nó không chỉ thể hiện ở Phủ Dầy – Nam Định, Sòng Sơn, Phố Cát, Phủ Tây Hồ, Lạng Sơn, Ninh Bình…mà xuất hiện khắp moi nơi. Hình bóng bà chúa Liễu như cây tùng, cây bách bao trùm cho tất cả các vi thần linh khác, giúp các vị âm thần, dương thần dựa bóng Mẫu để âm phù cho nước cho dân, cứu chữa cho dân gian khỏi bệnh tật, đói nghèo…Dân gian tôn vinh Mẫu là mẹ của thiên hạ, sánh cùng Hưng Đạo Đại Vương thời Trần, hoặc Bát Hải Vua cha là những danh thần, danh tướng hơn Mẫu hàng trăm, hàng ngàn năm tuổi. Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện khi xã hội có đủ yếu tố chủ quan, khách quan của tâm thể xã hội. Nó biểu hiện truyền thống tín ngưỡng văn hóa nguyên thủy của dân tộc. Nó cũng thể hiện xu hướng bài trừ “vọng ngoại” do đó mà diện mạo tục thờ Mẫu Liễu Hạnh vừa phong phú, đa dạng, vừa có ý nghĩa độc lập tự chủ. Và mặc dù dân chúng đã, đang cảm nhận sự hư hư, thực thực, có sự bán tín bán nghi với thần tượng Mẫu Liễu mờ mờ ảo ảo. Ấy vậy mà theo dấu vô hình vẫn tìm hương sắc, tiềm ẩn một sử thi vĩnh cửu văn hóa Việt Nam. Đạo Mẫu xuất phát từ tín ngưỡng dân gian nguyên thủy, với sự tiếp nhận văn hóa nhân loại, biến thành một tôn giáo bản địa, cùng các tôn giáo khác song song tồn tại nhằm đấu tranh đòi quyền sống, đòi sự công bằng, bình đẳng trong xã hội nên được dân chúng bảo tồn, đời đời bất tử.
  18. Chào Bác Thiên Sứ! Cháu là nữ, sinh năm Giáp Tý, giờ Tý Bạn của cháu tuổi Thân (29 tuổi) Tụi cháu đã chia tay nhau 4 năm rồi. Liệu bây giờ anh ấy có muốn quay lại với cháu không? Và liệu tụi cháu có lấy nhau được không? Cháu cám ơn Bác rất nhiều! Chúc Bác và gia đình vui khỏe!
  19. Xin chào các ACE và Cô Chú! Thấy các ACE và Cô Chú đoán hay và hào hứng quá nên thuytien cũng bon chen, xin cac ACE và Cô Chú đoán giúp bằng LVĐT. Sinh ngày 11/12 năm Giáp Tý (DL) 19/10 năm Giáp Tý (ÂL) Sình vào giờ Tý Xin cám ơn các ACE và Cô Chú, chúc sức khỏe va thành đạt.
  20. Kính gửi Bác Thiên Sứ! Nhân tiện cháu cũng muốn hỏi Bác, dưới 2 lòng bàn chân của cháu đều có nốt ruồi đen, chân phải thì 1 nốt lớn, chân trái thì 2. Không biết như vậy thì thể hiện về điều gì hả Bác? Cám ơn Bác rất nhiều!
  21. Nhặt lại ngày xưa Cho tôi nhặt lại những ngày xưa yêu dấu Mái tranh nghèo chiều xuống thỏang hương cau Bụi trầu xanh mơn mởn tược đâm chồi Như thấp thóang bóng Mẹ già - tóc lơ thơ vờn trong gió Cho tôi tìm lại quãng đời xưa thơ ấu Nắng chiều về chễm chệ gối lưng trâu Gió đong đưa tiếng sáo vọng ngang trời Bờ đê nhỏ tiếng à ơi về kịp tối Cho tôi sống lại một thời như thế Bữa cơm chiều cha trải chiếu trên sân Nồi ngô khoai bốc khói dưới trăng mờ Mẹ chia bát từng củ khoai mùi thơm lựng Đêm thanh vắng tiếng ai ru buồn vời vợi Ông trăng tròn ngất ngưỡng ngọn tre xanh Bui chuối tiêu xột xọat- chia bóng mảnh trăng đầy Mẹ kể chuyện à ơi …xưa chú cuội Trăng say giấc – mộng đêm lành quê mẹ Gió thu vờn bông lúa trĩu tình ai Đời xa ơi tôi lại muốn đi về Tìm nhặt lại những ngày xưa yêu dấu *** Tình mùa đông Em ở nơi nào em đến đây Mang về mấy lọn gió heo may Cho anh cứ ngỡ mùa thu tới Đã mấy chiều qua vạt nhớ đầy Tình đã xa rồi xa quá xa Nỗi lòng theo gió gọi mưa qua Gửi bao thương nhớ về nơi ấy Có giọt chiều hoang bóng nhạt nhòa Màu nắng thu về trong mắt em Trời pha sắc nhớ trên môi mềm Chiều nay hoang vắng làn mây tím Gợn bóng hòang hôn chút nỗi niềm Đêm rũ xuống đời những ước mong Sương mờ phủ lối trắng long đong Cho anh xao xuyến màu thu úa Để mảnh tình riêng mãi giá đông *** Ta lắng nghe Ta lắng nghe đời rơi xuống tay Đôi bàn tay nhỏ mềm như mây Sần sùi chai sạn theo năm tháng Gai góc trần gian đã phủ đầy Ta lắng nghe hồn đang xót xa Mảnh hồn bé bỏng nhẹ như hoa Lặng thầm đưa đẩy cùng mưa gió Cơn lốc ngày qua xóa nhạt nhòa Ta lắng nghe tình chia đắng cay Nửa hồn như tỉnh nửa như say Chơi vơi biển nhớ con thuyền mộng Ngọn sóng ân tình xiết ngất ngây Ta lắng nghe lòng gợi nhớ nhung Một thời đã mất tưởng như quên Bao nhiêu ngày tháng trôi trên tóc Là bấy thương yêu với lạnh lùng Ta lắng nghe thân đượm rã rời Mỏi mòn trần thế chốn rong chơi Dòng sông nào chẳng quay về biển Cát bụi cũng là cát bụi thôi ... *** Tự tình Trong bất chợt Anh nhìn em như là huyền thoại Kỉ niệm xưa Trôi về .. Tưởng đã như quên Ba mươi năm hơn Thóang qua như cơn gió Ngó lại mình Giờ tóc đã úa rêu Trời vẫn xanh nắng vẫn ấm xuân vẫn nồng nàn Nhưng sao.. Lòng anh nghe trống trải Trống nỗi lòng Và trống cả mảnh đời hoang Từng giọt sầu rơi Mỗi lúc bóng đêm về Như thông cảm Như sẻ chia … ..Ôi giá như mà anh có em bên cạnh Sẽ ấm lòng .. mình kể chuyện ngày xưa *** Nếu Nếu em là ngọn gió Anh sẽ là bóng mây Để gió quyện mây ngàn Vào vùng trung tâm bão Nếu em là biển cả Anh là chiếc thuyền nan Để sóng mãi dập vùi Thuyền say trong lòng biển Nếu em là bờ đá Anh sẽ là sóng xô Ngày đêm nước vỗ về Đưa em vào cơn mộng Nếu em là hồ nước Anh sẽ là ánh trăng Đêm thu gợn sóng mềm Nước ôm trăng say giấc Nhưng em vẫn là em Và anh vẫn là anh Và đời chia hai lối Nên tình mãi lao xao
  22. Bài thơ không tên thứ hai Có lẽ nào em chỉ trong thơ ? Là câu thương nhớ chữ mong chờ Là trăng là gió là mây tím Là bóng đêm dài với ước mơ Có lẽ nào em chỉ trong mơ ? Cho mưa tí tách giọt đàn tơ Cho giai điệu lạc bên đời lỡ Cho nắng thu rơi với hững hờ Tôi biết là em rất thích thơ Và hay đi dạo dưới trăng mờ Cài hoa lan tím pha màu tóc Khẽ hát thì thầm bên suối mơ Mỗi lúc chiều về vẫn nhớ em Nắng loang nhè nhẹ bóng qua thềm Tìm trong nỗi nhớ về nơi ấy Nên viết bài thơ chẳng có tên … *** Dẫu không anh.. Dẫu không anh –Em –dẫu là cô phụ Dẫu nhọc nhằn –vẫn thắm một màu hoa Cuộc đời thường làm mẹ lẫn thay cha Thân bồ liễu vượt trên ngàn cay đắng Ngày không anh –em ngỡ mình ngã quỵ Mỗi đêm về nghe trống vắng một niềm đau Nhìn con thơ say giấc mộng thiên thần Lòng chợt tỉnh ..không thể nào gục ngã Rồi thời gian cứ trôi qua lặng lẽ Con chúng mình giờ lớn lắm anh ơi Đứa năm cuối – đứa tốt nghiệp ra trường Chúng ngoan lắm –vẫn hay thường nũng mẹ Che ngấn lệ em thấy lòng mãn nguyện Bao năm rồi chờ đợi đến hôm nay Lòng bâng khuâng nghe kỉ niệm tuôn tràn Trong khỏanh khắc .. giá có anh bên cạnh ... *** Ta và Em Em Con chiên ngoan Ta Tên ngoại đạo Lỡ yêu thầm –ta nhớ trộm từ lâu Muốn làm quen nhưng chẳng biết từ đâu Nên tò tò đến giáo đường xem lễ Ta tỉnh bơ làm như mình có đạo Lặng lẽ quỳ nghiêm chỉnh cạnh bên em Vì thông minh nên bắc chước thật nhanh Cũng đọc kinh cũng tay thì làm dấu Chung quanh ta mọi người không ngờ vực Một vài tuần rồi cũng thấy quen thôi Còn trên cao xin Chúa hãy thưong tình Vì tình yêu nên con đành làm thế Rồi thời gian cứ trôi qua lặng lẽ Giáng sinh nào lại đến giáng sinh nay Quỳ bên em ta chẳng nói một lời Trong mắt em ta thấy điều khác lạ Ta đã biết là em đang thắc mắc Sao lần nào xem lễ ..cũng bên ta ? Người gì đâu .. nghiêm khắc đến lạnh lùng Nhìn đã quen nhưng sao mà thấy ..ghét ...... Chiều cuối năm thời gian như chậm lại Giữa Giáo đường ta chẳng thấy em đâu Cho nỗi lòng nặng trĩu một mùa ngâu Nghe hi vọng tan dần trong đêm Thánh.
  23. Nếu lỡ mai này lạc mất nhau Nếu lỡ mai này lạc mất nhau Ngừơi ơi có nhớ nụ hôn đầu Tay đan tay –mắt chìm trong mắt Mình đã say nồng giấc mộng sâu Lối nhỏ vườn tràm trải đá hoa Có còn ai nữa chỉ riêng ta Bờ môi e thẹn lên màu mắt Em nói tình em chẳng nhạt nhòa Mình đã cho nhau những ngọt ngào Hòa câu ân ái buổi chiều nao Vòng tay xiết chặt –chia môi ấm Thế giới riêng ta tỏa sắc màu Ngoài trời tí tách tiếng mưa rơi Hòa nốt nhạc yêu đọan cuối đời Lặng lẽ hồn nghe tim thổn thức Nao lòng chợt nghĩ chuyện đầy vơi Đã mấy tuần rồi em biết không ? Chiều mưa đan lối mộng ươm hồng Hai năm gom nhớ vào năm tiếng (giờ) Mình tỏ cho nhau cạn tấm lòng Chuyện mình sao giống chuyện liêu trai Từ Thức gặp Tiên chỉ một ngày Cho mãi đời sau là kí ức Tỉnh rồi mà giấc mộng còn say… *** Tình anh bán chiếu Tôi ở bến đò dệt chiếu hoa Cho người qua lại -khách đường xa Đông về gió rét - khi mưa hạ Sưởi ấm tình xuân đến mọi nhà Chiếu thì lúc bán -lúc cho không Chớ ngại làm chi chớ bận lòng Thật chỉ mong cho ai hạnh phúc Xin người đừng phụ để tôi trông Đã mấy thu rồi gánh chiếu hoa Chờ người bến hạ ghé thăm qua Nỗi lòng u uẩn bao năm tháng Nhìn cánh bèo trôi lệ ướt nhòa Con nước chiều nay sủi đục ngầu Mây trời tím rịm giữa mùa ngâu Nhấp nhô cuối bãi hoa bèo dạt Da diết lòng ai một nỗi sầu *** Bài thơ không tên thứ nhất Em muốn quên thì em cứ quên Riêng tôi vẫn nhớ những chiều êm Buổi trưa góc phố che mưa hạ Bên tách cà phê riêng với em Bây giờ trời đã bước sang đông Nhìn chiếc lá rơi chợt héo lòng Thầm nghĩ tình ai như chiếc lá Xanh rồi cũng úa nhạt chờ mong Tôi chẳng trách em -chẳng trách đâu ! Cuộc tình ai biết được nông sâu Bể dâu rồi cũng là dâu bể Còn lại trong tim một vết sầu Người đã cho tôi kỉ niệm hồng Cùng bao nhung nhớ lẫn chờ mong Nửa đêm về sáng nghe xao xuyến Những giấc mơ hoa ngập cả hồn Cảm ơn em đã cho tôi biết Cái nghĩa tình yêu của một đời Nỗi xót xa chen mùi vị ngọt Và nhiều chua chát lẫn chơi vơi Khép lại từ đây giấc mộng này Ta về đỉnh nhớ một chiều say Bao nhiêu kì niệm như huyền thoại Ôm mối tình riêng chốn đọa đày
  24. Như dấu yêu xưa Nhớ quá đi thôi sợi nắng vàng Mình về thăm ngoại đất tân an Bên em anh thấy lòng ấm áp Một sáng bình minh gió rộn ràng Gió lén tung bay chiếc váy vàng Thẹn thùng em khẽ liếc đưa sang Làm ngơ anh giả đò chẳng thấy Nghe rộn trong lòng chút xốn xang Mái tóc em bay sợi nắng viền Thóang mùi hương sớm thuở trinh nguyên Liếc mắt lén nhìn gương chiếu hậu Ngỡ mình đang chở một nàng tiên Em sánh hai ta giống vợ chồng Về quê thăm ngoại một ngày đông Một chút xôn xao ..rồi chợt tỉnh Anh biết mình đang phút ngả lòng Nắng sớm nhạt nhòa những giọt sương Đường bờ làng cũ gợi thân thương Xanh xanh ruộng lúa vàng nặng trĩu Gợi nhớ tình quê bao vấn vương. .......... Mỗi sáng nhìn em chạy ngang nhà Trước sau yên nhỏ mấy bông hoa Nhọc nhằn cuộc sống em làm mẹ Bỏ lại bên đường ánh mắt qua Như dấu yêu xưa chợt trở về Trong tiềm thức ấy một cơn mê Mái tóc xanh mây giờ nhuốm bạc Quán trọ trần gian ai chẳng thuê *** Như giấc mơ qua Cũng chỉ như là một giấc mơ Lời yêu theo gió thoảng xa mờ Thuyền đi để lại hồn thơ vỡ Lối mộng trăng sao bóng vật vờ Đêm tàn soi bóng mảnh trăng khuya Lẻ bước chân hoang gót nhạt nhòa Lóe ánh sao băng rồi vụt tắt Giấc mơ chưa trọn đã chia lìa.. Người đã quên rồi phải thế không ? Quên đôi mắt dại chiếc hôn nồng Quên vòng tay chặt bờ môi ấm Quên những hẹn hò những nhớ mong… Ta về nhặt lại nét thơ xưa Vườn nhớ hôm nào đợi dưới mưa Chiếc chõng tre đan còn chút ấm Đường hoa trải đá dấu chân thừa Lắng nghe em hát chợt se lòng Mấy độ thu rồi bao nhớ mong.. Thỏ thẻ bờ môi anh khẽ nói . Cho tình anh mãi –một mùa đông .... Người đã cho tôi những ngọt ngào Để rồi trả lại với trăng sao Cho đêm héo hắt vì hoang tưởng Nhớ bóng người thương một thuở nào... *** Giấc mộng đời Đắp chiếc khăn tang phủ mộ tình Ta về gói lại một niềm tin Chờ đêm buông xuống đem làm gối Ngấn lệ buồn vui chỉ một mình Tình trót xa đưa tận cuối trời Còn đây nửa mảnh nhớ chơi vơi Vần thơ ngày ấy còn in đậm Mà cõi lòng như đã nát rồi Nửa thấy bâng khuâng nửa hững hờ Nửa hồn như thật nửa như mơ Nửa treo đỉnh nhớ hồn trăng vỡ Một nửa buồn tênh với nửa chờ Có lẽ chỉ là một giấc mơ Với người ta đó mối tình thơ Vui thôi một chút rồi quên lãng Đành để cho ai mãi ngóng chờ Thôi thế cũng đành phải thế thôi Xem như ngõ rẽ chốn rong chơi Ta về nhặt lại vần thơ cũ Trau chuốt .. ừ đây giấc mộng đời
  25. Người bán giấc mơ Sao người Vội bán giấc mơ Cho ta Ôm lấy ngẩn ngơ tháng ngày Bao giờ Cho nỗi đau này Trôi vào kí ức Đong đầy nhớ nhung Bài thơ ngày ấy Mông lung Lời yêu trót muộn Đã từng cho nhau Nghe chiều Nhạt nắng xôn xao Biển pha màu nhớ Lao đao sóng đùa Ta về Tìm dấu chân xưa Nhạt nhòa nắng lụa Lưa thưa gió vàng *** Chào Nắng mới Nắng mới hồi sinh vạn sắc hoa Nàng thơ đủng đỉnh dạo muôn nhà Sương đêm bẻn lẽn câu từ giã Có chú chim non vui hót ca Xanh ngát trời xanh mây trắng bay Có làn gió nhẹ thổi hây hây Đong đưa phiến lá con ong đậu Trên nhụy hoa vàng say ngất ngây Tháng tám thu nồng hương lúa thơm Bông vàng trĩu hạt nắng ru mơn Như cô thôn nữ vừa đang tuổi Tà áo bay bay sợi gió luồn Tóc rối mây cài hoa nắng mai Em về hôm ấy gió thu say Lối xưa lộng gót hài nhung mới Xào xạc lá vàng nghe nhớ ai *** Trả lại trường xưa Gió hạ vi vu mầu nắng mới Phượng hồng đan lối nhỏ mùa thi Tóc mây buông rối bờ vai thả Bài vở chuyền tay mộng ước khi .. Ngưỡng cửa đường mây đã đến rồi Sân trường còn lại cánh hoa rơi Mười hai năm- thóang như cơn gió Tuổi mộng hoa niên- kỉ niệm đời .. Áo trắng bay bay tuổi học trò Hàng me xanh ngát –mấy vần thơ Bạn bè trốn học đi chơi phố Nhớ quá đi thôi những hẹn hò Đứa áo công nhân đứa gõ đầu Kẻ thời danh toại kẻ lo âu Rồi đâu ắt hẳn cũng vào đấy Có khác nhau chăng cảnh khó giầu Trả lại trường xưa những ngọt ngào Ta về tìm lại với trăng sao Vui câu năm tháng vần thơ cũ Ngấn lệ vui chung ngấn lệ sầu