kyte
Thành viên diễn đàn-
Số nội dung
31 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by kyte
-
Tuần Trung Không Vong Ít ai hiểu được chữ Trung trong tuần trung không vong vì các sách xưa nay chỉ đề cập rất sơ sài, hình như chẳng có sách nào nói một cách tường tận , rõ ràng. Trung có nghĩa là chính giữa, Tuần dĩ nhiên vẫn xem nó là một ngôi sao, nó nằm giữa QUÍ và GÍAP. Giữa cuối và đầu của một thời kỳ, nó tương ứng với Thai và Dưỡng trong vòng trường sinh, nên nó còn tăm tối giống như hạt mầm khô nằm trong đất chưa ra khỏi đất để ngắm ánh mặt trời. Nó chưa có sự sống hoàn toàn. Trong Kinh Dịch quẻ Chấn có dương làm chủ thời kỳ đầu- Giáp, quẻ Đoài có âm làm chủ thời kỳ cuối- Qúi- thì từ Dậu cho tới trước Mão đó là thời kỳ tăm tối của ban đêm. Quẻ của nó là Lôi Trạch Quy Muội, Muội có nghĩa là tối tăm. Tuần là như thế đó. Tuần là hình ảnh của Gíap Và Ất trong tương lai nên hào Lục ngũ trong quẻ Quy Muội viết rằng ‘Đế Ất qui muội, kỳ quân chi quệ, bất như kỳ đệ chi quệ lương, nguyệt cơ vọng , cát.’ Dịch nghĩa ‘ Vua Đế Ất gã chồng em gái, vạt áo của vua nó không đẹp bằng vạt áo của vợ lẽ nó. Mặt trăng hầu tuần vọng ,tốt. Như vậy Tuần cần có Thái Âm sáng sủa hoặc Thái Dương sẽ trở nên tốt đẹp vì ban đêm mà có trăng rằm. Quẻ Qui Muội là nghĩa lớn của trời đất, trời đất giao nhau mà muôn vật chẳng dấy lên. Quẻ Qui Muội là chót và đầu của loài người vậy.Đó là lời thoán của quẻ Qui Muội trong Kinh Dịch. Tuần có nghĩa là chờ đợi như hạt khô chờ nẫy mầm , hào lục tam có nói về sự đợi chờ của người con gái nên chưa lấy ai, cuối cùng sợ ế chồng nên lấy đại người con trai già- Chấn- nên Đoài mới bảo là vợ lẻ lấy trai già như vậy là nết không thuận , không đáng ngôi và đức không chính. Đó là lời của quẻ Qui Muội trong kinh dịch. Trong tử vi Tuần cũng có nghĩa tương tự như vậy, thí dụ những người tuổi có sao Lộc Tồn nằm trong Tuần như tuổi Gíap Thìn – Ất Mão hay Mâu Tuất.v.v…thường có của thừa kế của cha, mẹ hay ông ,bà để lại cho , nghĩa là khi sinh ra họ có phần tài sản thừa kế rồi nhưng chưa được hưởng , phải chờ về sau này mới có thể hưởng cho dù tài sản đó ít hay nhiều mà thôi, chứ nhất định những tuổi này đều có của thừa tự. Đó có thể là đất đai hay tiền bạc mà cha mẹ cho để tạo dựng tài sản riêng.Bên chồng cũng như bên vợ. Quẻ Qui Muội thường nói về sự chờ đợi và lỗi hẹn như hào chín tư , không phải là không đắt chồng nhưng chờ đợi kẻ tốt đôi mới đi. Chiêm một quẻ Bát Môn cũng vậy, khi quẻ lâm Tuần không thì phải đợi xuất không quẻ mới có tác dụng. Tuần là sự chờ đợi, chậm trễ, kéo dài nhưng nó không làm mất đi ảnh hưởng của những sao nằm trong Tuần. Có sách nói Tuần lâm hoả địa là cách tốt của Tuần, thật ra không như thế, Tuần chỉ tốt khi có Thái Dương , Thái Âm nằm trong Tuần mà thôi vì hai sao này làm mất đi sự tối tăm của Tuần như quẻ Qui Muội nói ; Nguyệt cơ vọng , cát. Tức là trăng rằm , còn gọi là Tuần Vọng…..Vì Trăng rằm nằm giửa đầu tháng và cuối tháng. Tất nhiên sao Tuần còn rất nhiều ý nghĩa khác bởi các sao nằm trong Tuần rất đa dạng , phong phú. Sự luận đoán dành riêng cho mỗi người. Kyte.
-
Chào Tuấn Dương Hành thổ trong 12 địa chi là Thìn , Tuất, Sửu , Mùi được an trong 4 tháng cuối mùa theo nguyên tắc 1/5 . Theo lý thuyết mỗi mùa có 90 ngày , vì hành Thổ có tới 4 vị trí nên mỗi mùa hành thổ chỉ có 18 ngày vào cuối tháng tứ quí.Vậy 18 ngày ngày là 1/5 số ngày trong 1 mùa.Gom 4 mùa lại thì hành thổ vẫn đủ 72 ngày như các hành khác. Hành thổ cũng chiếm 1/5 trong ngũ hành. Hành thổ để vào cuối mùa là vì Thổ sinh ra cuối cùng trong Tiên Thiên Bát Qúai- Nhất sinh thủy- nhị sinh hỏa- tam sinh mộc – tứ sinh kim – ngũ sinh thổ. Do đó hành thổ là hành đứng sau cùng chứ không phải đứng giữa cuối và đầu như Tuần Trung Không Vong. Hành thổ đứng trung tâm điểm của 1 vòng tròn, trong khi Tuần đứng giửa cuối và đầu của vòng tròn tạo thành một sự kết nối của 10 hạt ngọc lại với nhau thành một chuỗi. Tuần có thể ví là một hạt ngọc lớn nhất trong chuổi ngọc mà từ đó các nhà sư sẽ nhận biết có bao nhiêu chu kỳ đã được đếm qua. Nếu tinh ý bạn sẽ thấy Tuần luôn luôn đối cung với Mậu –Kỷ, vậy TUẦN không thể là hành thổ đứng trung gian như thìn , tuất , sửu , mùi như bạn nghĩ. Về hành của Tuần theo các sách thì không có hành cơ hữu và cố định nó ở cung nào thì tính hành của cung đó. An ở hai cung thì sẽ có hai hành khác nhau, mỗi hành tương ứng với 1 cung . Như vậy Tuần có tới 5 hành- theo Nguyễn Phát Lộc Tử vi hàm số, trang 222. Thân
-
Nói đến ngũ hành thì người phương tây gọi là 5 yếu tố rắc rối, mà thật vậy cho tới bây giờ vẫn là sự khó khăn khi tìm hiểu về ngũ hành , sự xung đột vật chất này nhiều người nghiên cứu vẫn còn chưa tường tận để mà tính toán sao cho hợp lý và chính xác trong suy luận . Để tìm hiểu ngũ hành chúng ta chỉ có cách nhờ vào Dịch Thuyết qua Tiên Thiên Bát Qúai và Hậu Thiên Bát Qúai. 1- Nói về Tiên Thiên; Tiên thiên là cái học khởi đầu về vạn vật , vật chất , lúc mà trời đất vừa mới tạo dựng lên, bấy giờ chưa có con người nên chưa có đạo tam tài . Chỉ có trời đất và vật chất mà thôi và rõ ràng Tiên thiên khẳng định như sau; Số trời 1 Thủy hợp với 6 đất hóa thành nước Số đất 2 Hỏa hợp với số trời 7 hóa thành lửa Số trời 3 Mộc hợp với số đất 8 hóa thành gỗ Số đất 4 Kim hợp với số trời 9 hóa thành sắt Số trời 5 Thổ hợp với số 10 đất hóa thành đất. Như vậy tiên thiên chỉ nói đến Trời đất và vật chất mà thôi và cũng chính vì thế Tiên thiên đã lý luận rằng vật chất đã có trước con người ‘ Thiên sinh ư Tý, địa sinh ư Sửu’. Khi mà chưa có con người thì vật chất chưa có sự tác động để xung đột như lý luận Kim khắc Mộc vì Búa rìu đốn chết cây, nói rõ hơn là không có kim sinh thủy hay mộc sinh hỏa mà tất cả 5 yếu tố này tuần tự được trời đất sinh ra. Nhất sinh thủy- Nhị sinh Hỏa – Tam sinh Mộc – Tứ sinh Kim – Ngũ sinh Thổ. 2-Nói về Hậu Thiên; Đây cũng là câu trả lời rằng là tại sao có Hậu Thiên Bát Qúai, bởi vì Nhân sinh ư Dần để hoàn thành cái Đạo tam tài, lúc mà có con người hiện hữu nên Kinh Dịch nói ‘ Kiền Khôn sinh lục tử’ Như vậy Hậu Thiên Bát Qúai là nói về lúc con người được sinh ra và cũng từ đó vật chất đã có sự thay đổi nên Hâu Thiên Bát Qúai chủ về sự biến đổi, Có gì làm cuộc biến đổi bằng Lửa và Nước , nóng và lạnh, ngày và đêm tạo ra mùa màng thời tiết cho nên Kiền lui về Tây Bắc, Khôn lui về Tây Nam nhường cho Trung Nam Khảm và trung nữ Ly thay thế cha mẹ để điều hành vũ trụ. Mà thật vậy khi Sắt còn ở lòng đất là sắt của tiên thiên chưa được tác động của con người nên còn thô sơ vô dụng , điều này Dịch gọi là Thể, để có chỗ dùng gọi là Dụng thì con người tác động vào nó bằng lửa và nước mà người thợ rèn đã tạo nên thanh gươm sắc bén hay lưỡi dao cái búa để có chỗ dùng. Hạt lúa ngoài đồng là gốc của Tiên Thiên chưa dùng được-gọi là Thể- con người tác động thủy và hỏa vào để biến đổi hạt gạo thành cơm và cơm chính là hậu thiên là cái Dụng của Dịch vậy. Bất cứ vật dụng mà chúng ta thấy trước mắt có vật nào mà không qua tác động của thủy và hỏa chăng? Cái chén , cái bát là cái dùng của đất tiên thiên qua tác động của thủy và hỏa nhào nặn lên thành cái dụng của hậu thiên . Kinh Dịch có 64 quẻ khởi đầu bằng Kiền Khôn mà chấm dứt bằng Thủy Hỏa Ký Tế và Hỏa Thủy Vị Tế . Chính lửa và nước , mặt trời mặt trăng làm ra thời tiết mùa màng làm ra cuộc biến đổi ...và chính chúng ta cũng đang biến đổi từng ngày. Luận ngũ hành thật không dễ dàng chút nào , người thầy thuốc chữa bệnh phải ôn hòa bởi hàn và nhiệt bởi thủy và hỏa bởi nóng và lạnh trong cơ thể con người. Thầy phong thủy phải biết cân bằng thủy và hỏa như tôi đã có trình bày trong bài Dịch trong tử vi của Trần Đoàn, trong đối đãi tự nhiên cũng phải biết ôn hòa giữa các hành với nhau sao cho thuận thảo, dài lâu. Để thoát ra khỏi cái suy luận Kim khắc Mộc hay Thổ khắc Thủy hoặc như Thủy sinh Mộc và Mộc sinh Hỏa mà từ trước tới giờ chúng ta vẫn thấy các sách suy luận ngũ hành theo cách giản đơn và quanh quẩn bởi cái vòng tròn tương sinh ,tương khắc ấy, chúng ta bây giờ hãy luận ngũ hành bằng con mắt thực tế và khoa học hơn... Kyte viết cho Lý Học Đông Phương.
-
À cò anh nói bài viết Ngũ Hành Luận này lấy của Dã Hạc thì không phải. Tôi chưa từng biết tác giả này và cũng chưa từng xem bài của Dã Hạc.
-
Kính anh THIÊN SỨ,Bài tôi viết về Tốn và Khôn cũng như bài Tốn và Càn với nhân sinh quan cũng ở trong mục này. Tôi nghĩ anh cũng đã đọc rồi chứ nhưng cho tới bây giờ anh chưa biết thì tôi cũng không hiểu tại sao. Các bạn tôi vào mục này cũng hoàn toàn không thấy bài viết của tôi, cho nên tất cả những bài viết cho Lý Học Đông Phương tôi có sao lại và cho đăng trên Blog của tôi cũng như trên trang SCRIBD cộng đồng nhưng tất cả đều có ghi chữ Kyte viết cho Lý Học Đông Phương. Kính anh.
-
Chào Thiên Sứ,Vấn đề thay Tốn đổi Khôn tôi đã có bài viết trong Bát Quái Văn Vương nói gì phần 2.
-
Quẻ Tốn và Càn với nhân sinh quan Quẻ Tốn thuộc phương đông nam , thìn –tỵ ứng hợp với người ở Gia Định thành . Trong Tô Thức Ký có câu ‘ Tứ thời câu thị Hạ, Nhất vũ tiện thành Thu’- 4 mùa đều nóng như mùa Hạ, một trận mưa trở thành mùa Thu. Lại có câu ‘Lĩnh nam vạn vật giai xuân sắc’ – Muôn vật ở lĩnh nam đều có sắc xuân. Khí hậu Gia Định giống như thế. Bởi vì Tốn nằm sau Chấn ảnh hưởng khí xuân và nằm gần Ly nên tứ thời có hơi nóng. Theo sách CHU LỄ , thiên Chức phương thị nói-‘Vùng đông nam dân số cứ có 2 người trai thì có 5 người gái, địa khí thì âm ít mà dương nhiều, trong thân người thớ thịt thưa, chim muông thì ít lông , tánh chịu được nắng nóng. Vùng Gia Định nước Việt ta đất rộng,thực vật phong phú, không lo đói rét nên dân ít dự trữ quen thói xa hoa,phong cách của kẻ sĩ thì hiên ngang do người 4 phương tụ lại... Gia Định là nơi chứa khí Khiên dương, tích tụ khí thấp nhiều, trong một năm gió mưa lạnh ấm, ít khi theo đúng thời tiết, cho nên có nhiều luồng gió nghịch mùa, mà con người thì sớ thịt thưa hở, dễ bị ngoại tà cảm mạo, bởi bệnh phát thường từ gió, rồi gió độc ấy nhiễm sâu vào trong, thành ra bệnh phong. Xem chữ phong có chữ PHONG – gió- thì biết rõ bệnh ấy- trích trong Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Đó là nói về thời tiết và con người ở địa danh mà quẻ Tốn chi phối rất nhiều vào đời sống con người Gia Định. Ngoài ra trong khoa tử vi cũng định rõ cái khí thất thường ấy của quẻ Tốn và quẻ Càn vì cái khí chí cực của nó vào bộ sao Địa Không – Địa Kiếp. Hể người nào sinh vào quẻ Tốn- Tháng Tư và quẻ Càn tháng 10 thì trong Mệnh ,thân ,tài, quan ,di chắc chắn có sao Không Kiếp ở đó, nhất là tháng 10 luôn luôn có sao Không –Kiếp thủ mệnh Mà sao này nói lên cái tính khí cũng như công danh sự nghiệp của người có sao này đều là sự thăng trầm , bất thường lắm, luôn luôn may rủi đi liền nhau, có giàu cũng không bền, có quan cao chức trọng cũng không giữ được lâu. Bởi vậy các phương bàng như Đông nam , Tây Bắc , Đông Bắc , Tây Nam là những phương âm dương không bao giờ đối xứng, Khí của nó cũng thất thường thay đổi mà con người sinh ra và lớn lên cũng ảnh hưởng bởi cái khí âm dương sai lệch này...
-
Hậu Thiên Bát Qúai Văn Vương nói gì? Phần 2. Hậu thiên bát quái 4 phương chính đối xứng âm dương nhưng 4 phương bàng thì không là tại sao? Bởi vì Xuân Phân tháng 2 ở Chấn , Thu Phân tháng 8 ở Đoài ngày và đêm dài bằng nhau nên âm dương đối xứng . Ly và Khảm là mặt trời , mặt trăng điều hành vũ trụ , biểu thị ngày , đêm qua lại , nên âm dương đối xứng . Tốn tháng 4 ngày dài đêm ngắn , Càn tháng 10 ngày ngắn đêm dài âm dương sai khác nên không thể đối xứng .Nếu đối xứng thì bảo trời không có mùa Hè đất chẳng có mùa Đông , thiên hạ sai lầm lắm vậy. Các phương bàng không đối xứng âm dương vì mặt trời đi lệch mà tạo ra âm ,dương, dài,ngắn khác nhau. Dịch có quan niệm rất thô sơ , thấy sao nói vậy thực tế mà chính xác. Kim khắc mộc là vì thấy búa rìu đốn chết cây, Thấy mặt trời mọc lệch mà bảo rằng có tứ tượng , bốn mùa. Thay Tốn đổi Khôn ví bằng thay trời đổi đất khác chi có lưỡng tượng mà thôi sao? Tốn phương Đông Nam đối Càn phương Tây Bắc là cái học từ ngàn năm bất biến. Kyte viết cho lý học đông phương. Quẻ Khôn năm Kỷ Sửu.
-
HẬU THIÊN BÁT QUÁI CỦA VĂN VƯƠNG NÓI GÌ Tiên thiên bát quái nói về cái khí vô hình thì Hậu thiên bát quái nói về cái hữu hình . Thiên thiên vì là khí nên âm dương đối xứng nhau. Hậu thiên vì là hình nên âm dương bất đối xứng . Các số của Tiên Thiên có từng cặp chẳn lẻ như 1-6 , 2-7 , 3-8 , 4-9, 5-10. Thể hiện cái Thành. Số trong Hậu thiên thiếu đi 1 số là số 10 . Thể hiện cái Chưa Thành . Vì là chưa Thành nên Hậu Thiên chủ biến đổi. Cũng vì biến đổi nên âm dương không đối xứng. Vì là chủ biến đổi nên lấy số 5 không có quẻ. Biểu diễn sự biên đổi nên các số trong Lạc Thư cũng biến đổi như sau; Qủe Khảm số 1 , quẻ Chấn số 3 dương quẻ mang dương số. Qúa số 5 quẻ Càn số 6 , quẻ Cấn số 8 quẻ dương mang âm số. Qủe Khôn số 2 , quẻ Tốn số 4 âm quẻ mang âm số . Qúa số 5 quẻ Đoài số 7 , quẻ Ly số 9 âm quái mang dương số . Đó là luật biến đổi của Dịch được biểu diễn qua Lạc Thư. Có biến động để trở về cái bất động ngừng nghỉ. Tháng giêng khởi Dần cung Cấn tháng chạp trở về Cấn để ngừng nghỉ Các cung trong Lục Thập Hoa Gíap khởi cung nào cuối cùng cũng về cung ấy là cùng một qui luật. Mà kinh Dịch gọi là thiên hạ chi động, trình phù nhất, hay đồng qui nhi thù đồ, nhất tri nhi bách lự - từ nhiều hướng nhưng cùng về một chỗ; cùng một mục đích những có trăm nghìn mối nghĩ. Vì động, cho nên có thiên sai vạn biệt; nhưng tất cả chúng khởi đi từ cái một và trở về trong một cái. Lạc thư nói về vạn vật đã định hình Đế xuất hồ chấn, tề hồ tốn, tương kiến hồ ly, trí dịch hồ khôn, duyệt ngôn hồ đoài, chiến hồ càn, lao hồ khảm, thành ngôn hồ cấn. (Đấng chủ tế ra ở phương chấn (phương đông), muôn vật đều thanh khiết ở phương tốn (đông nam), cùng thấy nhau ở phương ly (nam), làm việc ở phương khôn (tây nam), vui nói ở phương đoài (tây), đánh nhau ở phương kiền (tây bắc), khó nhọc ở phương khảm (bắc), làm xong là nói ở phương cấn (đông bắc). . Lạc thư là phương vị chứ không phải là hướng nên quẻ Ly để lên trên . Bậc Đế Vương mặt ngó về Nam lưng tựa vào Bắc nên gọi là tương kiến hồ Ly. Lạc thư định hình nên Lục Thập Hoa Gíap do đó mà thành, lịch số , bốn mùa theo đó mà thay đổi nhưng tất cả chúng khởi đi từ cái một và trở về trong một cái.....
-
Dịch trong tử vi của Trần Đoàn –phần 2 Bài vừa rồi có người nghe tôi nói ‘ Gió là nguyên khí của trời – gió theo lửa mà tới… thì cả cười mà chỉ cho tôi biết gió là sự vận chuyển của không khí ,gió là nguyên tử hay phân tử gì đó theo khoa học bây giờ . Nhưng cũng có người gửi mail cho tôi hỏi thêm về Dịch, nói rõ thêm về cái bếp trong nhà nên tôi mới viết bài này dựa theo Dịch học, để anh em cần tìm hiểu về cái bếp có dịp chiêm nghiệm thêm. Trong Kinh Dịch có quẻ Phong Hỏa Gia Nhân , Tốn trên và Ly dưới nghĩa của quẻ là người nhà. Bản dịch của Ngô Tất Tố chép truyện của Trình Di bàn như sau ‘ …Nó là quẻ ngoài Tốn trong Ly , tức là gió tự lửa ra , lửa mạnh thì gió sinh , gió sinh thì lửa tự trong gió mà ra .’’ ‘’ Hào hai và Hào năm trung chính ngôi trai gái ở trong và ngoài ,ấy là cái Đạo người nhà …’’ Hào sáu hai , Dịch nghĩa là ‘Không thửa thỏa, ở trong , chủ việc ăn uống , chính tốt’. Quẻ trong là Ly thuộc hỏa cũng có nghĩa là cái bếp , truyền thuyết của nó nói về hai ông một bà cũng giống như quẻ Ly có hai hào dương và 1 hào âm giửa. Hào âm này làm chủ quẻ Ly ,nên việc bếp núc trong nhà chi do đàn bà , con gái đảm trách , vì làm chủ quẻ Ly nên khi xem cái bếp trong nhà Phong Thủy gia ngày xưa chỉ coi tuổi nữ gia chủ mà định vị cái bếp vào phương hướng hợp tuổi nữ gia chủ ấy. Trần Đoàn dùng chữ Phượng Các cũng nói lên cái nữ tính ấy rồi. Quẻ Gia Nhân ta thấy Tốn là gió ở trên và Ly là lửa ở dưới vì thế mà tôi gọi là nguyên khí của trời, nhưng ở quẻ Thủy Phong Tỉnh là cái giếng để dùng nước xài thì quẻ Tốn lại ở dưới hàm ý của nó là khí ở đất vì thế nên tôi mới nói ; Khí theo nước mà đi… Quẻ Tỉnh, Dịch nghĩa là ‘ đổi làng chẳng đổi giếng , không mất không được , đi lại giếng giếng ‘ Nước là nguyên khí của đất , là tài lộc nên nước không bao giờ để tuột mất . Chữ không mất , không được có thể hiều là giếng múc hoài mà không mất , nhưng giếng thì không bao giờ đầy tràn nên gọi là không mất và cũng không được . Đi lại gì cũng là giếng , khí có theo nước mà đi cũng không đi hết nên mới gọi là giếng giếng .Phương đông nam là nơi nước mộ ,tuyệt nên để giếng ở đó cho thủy được lưu giử không mất . Quẻ Tỉnh nói đổi làng chẳng đổi giếng thì xem ra giếng quan trọng lắm vậy. Kinh Dịch 64 quẻ nói xa cũng được mà nói gần đời sống quanh ta cũng được nói về ngàn năm trước cũng được , nói về ngàn năm sau cũng phù hợp với đời sống con người . Gió từ phương Đông Nam thổi tới nhiều hơn các phương khác nên quẻ Tốn nằm về phương đông nam – thìn ,tỵ cho nên trong quyển Gia Định thành thông chí Trịnh Hoài Đức chép rằng phương đông nam gió thổi rất nhiều , thổi lên hướng tây bắc nên vùng Gia Định xưa nay không hề có bão tố vì khí bão sẽ bị đẩy đi lên . Phương đông nam cũng là phương thấp để nước chảy về đó . Ôi khí đi , khí lại gì cũng từ phương Tốn mà ra. Khí theo lửa mà tới – Phong Hỏa Gia Nhân- Khí theo nước mà đi – Thủy Phong Tỉnh có gì bí ẩn mà Trần Đoàn lại cho Long Trì , Phương Các khởi từ hai chỗ này / chuyện tứ linh còn dài….
-
Ảnh hưởng Triệt trong tử vi Có lẽ tôi viết bài này hơi thừa vì ai có nghiên cứu khoa Tử Vi đều biết ý nghĩa của Triệt. Nhưng theo thiển nghĩ mỗi kinh nghiệm đều có nét đặc thù riêng , ở đây tôi xin đưa ra những kinh nghiệm của mình ,hầu làm phong phú thêm ý nghĩa của Triệt , từ đó việc luận đoán tự tin hơn và quyết đoán hơn. Sách của Việt Nam hay của Trung Hoa ý nghĩa không dị biệt cho lắm . Có người cho rằng Triệt ảnh hưởng chỉ 30 năm đầu và 30 năm sau Triệt có khuynh hướng giảm dần, không đáng lo ngại lắm. Có người cho rằng Triệt ảnh hưởng suốt cuộc đời- như cụ Vũ Tài Lục viết trong sách của mình. Tôi đồng ý với cụ Vũ Tài Lục về điểm này và cụ cũng không đồng ý về lý luận Triệt đáo kim cung là tốt hơn so với Triệt các cung khác. Có lẽ cụ từng trãi và có kinh nghiệm – xem Tử Vi Tinh Điển trang 172. Triệt là mối đe doạ , tiềm tàng trong suốt cuộc đời , bất kỳ lúc nào Đại hạn xấu là nó tác hoạ ngay , không riêng gì ở cung nó toạ thủ ,mà nó tác hoạ trực tiếp vào con sao nằm trong cung đó,khi xem cho một lá số tôi thấy người nào tuôi có Thiên Can Bính hay Qúi thì tôi đoán ngay là trong đời họ sẽ có ít nhất 1 lần sụp đổ tài chánh , tiền bạc thậm chí phá sản, chính vì sao Lộc Tồn của tuổi Bính và Qúi luôn bị Triệt. Qua kinh nghiệm tôi thấy không có trường hợp ngoại lệ. Người nổi tiếng về tiền bạc như ông Nguyễn Tấn Đời chủ ngân hàng Tín Nghĩa tuổi Qúi Hợi cũng bị sụp đổ. Cho dù nó không hề ở cung tài bạch. Nó ở bất kỳ cung nào hể có Lộc Tồn bị Triệt là tác hoạ về tài chính ngay. Cũng như trường hợp Lộc Tồn , Triệt làm cho dang dở tình cảm hay phải thay đổi tình cảm nếu lá số nào có sao Đào Hoa ở cung có Triệt cho dù cung đó không phải là cung thê thiếp hay cung phu quân. Có nhiều người sụp đổ tài chính hay phá sản mà Lộc Tồn không bị Triệt là do cách khác , riêng trường hợp có Lộc Tồn bị Triệt thì hầu như chắc chắn là bị tác hoạ bởi Triệt. Có một điều những người có sao Lộc Tồn bị Triệt thường làm ra tiền một cách nhanh chóng hay ít ra cũng là những người từng tạo ra đồng tiền. Cho nên Triệt ở cung nào thì ảnh hưởng vào vận hạn cho những năm nó toạ thủ, đặc biệt hơn nó làm hư hao , thay đổi ngay chính những con nào sao gặp nó như Lộc Tồn, Đào –Hoa hoặc những sao khác trong tử vi. Triệt không căn cứ vào độ tuổi , thời hạn mà tác hoạ mà nó căn cứ vào vận hạn, niên hạn xấu và cũng không có gì ngoại lệ khi nó ở kim cung.
-
Chào Vui Vui,Dịch nói hoài chẳng hết , nói hết thì không còn là Dịch. Chấn phương đông hay Khảm phương Bắc ai là người hiểu hết và nắm hết đây. Tôi nói Dịch như một kẻ phàm phu, nói ra mà biết mình không nói hết được nhưng vẩn nói cho vui vui cái sự đời. Khổng phu tử còn ước gì sống thêm vài năm nữa để học Dịch thì tôi học cho cả đời sau cũng chưa bằng ai. Dịch là cả trời đất , vũ trụ, tôi chỉ là một hạt bụi của thế gian...
-
Tại sao có Tuần – Triệt Hai sao Tuần và Triệt khi nghiên cứu tử vi thì ai cũng đều biết ý nghĩa cũng như hành của nó. Triệt là cắt đứt , làm thay đổi từ tốt ra xấu và ngược lại. Tuần thì trì hãm dây dưa, ý nghĩa này cũng không sai, nhất là khi luận đoán tử vi các sách đều có nói tới. Nhưng để hiểu Tuần –Triệt vì sao mà có hay nói về nguồn gốc của Tuần –Triệt thì hầu như còn nhiều bí ẩn. Nhiều người nghiên cứu còn tranh cãi về hai sao này. Trong các sách của Tàu hiện nay , nhất là tác giả Thiệu Vỹ Hoa có nhắc tới, có nói nguồn gốc nhưng cũng không rõ và tường tận cho lắm , chưa làm thoả mãn người tìm tòi , học hỏi. Tôi xin mạo muội nói ra đây về ý nghĩa của Tuần Triệt, nếu quí vị chưa hài lòng thì cứ xem đây như là một cuộc trao đổi, trò chuyện trong những lúc thư nhàn. Trước hết xin bàn về Triệt. Tên đầy đủ của Triệt là Triêt Lộ Không Vong, Không là khoảng không còn Vong là mất, vậy thì ở đây có gì để mất? Đó là thời gian đã bị mất khi tính toán lịch số trong năm, xin trình bày như sau; Một tháng có 30 ngày , một mùa có 90 ngày , một năm có 4 mùa tổng cộng là 360 ngày , nhưng thực tế có nhiều tháng chỉ có 29 ngày trong 1 năm , như vậy vòng tròn 360 bị mất đi rất đáng kể nhưng không thể bù ngay trong năm đó được, vậy khi tính toán chúng ta bị mất đi một số thời gian. Tôi lấy thí dụ Bàn Tay Đại An có 6 cung , cung Không Vong ở cung thứ 6 là vì sao? Trong 1 tháng tôi lấy thí dụ tháng thiếu có 29 ngày, thì 5 ngày gọi là 1 hậu – 5 ngày có 60 giờ tương ứng 1 lục thập hoa giáp- cứ 5 ngày tương đương với 1 cung trong bàn tay ĐẠI AN khi hết 5 cung cũng là đúng 25 ngày , cung cuối cùng là cung Không Vong sẽ bị mất 1 ngày, vì vậy nơi đó gọi là KHÔNG VONG. Con số 25 ngày cũng vừa tương ứng với các số dương của Lạc Thư 1-3-5-7-9 hợp lại thành 25. Ý nghĩa của Không Vong là cắt đứt cũng rất đúng vì nó cũng vừa chấm dứt 1 tháng này để qua tháng khác mà cũng là sự biến đổi như sau; Tôi lấy thí dụ ngày đầu tháng này là ngày Gíap Tý nếu là tháng đủ thì đầu tháng sau sẽ là Gíáp Ngọ, nó chỉ đổi phương chứ không cắt đứt trục Tý Ngọ để qua trục khác thuộc âm. Nhưng nếu là tháng thiếu , thì đầu tháng này là Gíap Tý đến ngày 25 sẽ là ngày Mậu Tý qua mồng 1 tháng sau sẽ là ngày Kỷ Tỵ, đến đây các ngày đầu tháng sẽ qua trục Tỵ -Hợi thuộc âm. Chính cái thiếu 1 ngày trong tháng mà làm thay đổi trục và từ trục dương biến sang trục âm. Nếu không có cái thiếu 1 ngày này thì trục Tý –Ngọ sẽ không bao giờ thay đổi, vạn vật sẽ không trưởng thành. Do vậy cung Không Vong trong bàn tay Đại An có ý nghĩa công việc cần tiến hành sẽ bị thay đổi hoặc sẽ bị mất đi nếu người xem cho công việc của của mình tốt xấu ra sao. Cũng trong cái thiếu 1 ngày này thuộc Không Vong nó còn nói lên thiên can ngũ hợp. Như ngày 25 là ngày Mậu Tý trong tháng thiếu thì mồng 1 tháng sau là ngày Kỷ Tỵ ở đây ta thấy sự phối hợp giữa Mậu và Kỷ hoặc nói cách khác đi, nếu ngày 25 là ngày Bính Dần trong tháng thiếu thì mồng 1 tháng sau là ngày Tân Mùi. Đó là nơi Bính Tân gặp nhau, Trong cái mất của Không Vong còn có cái hợp của thiên can. Triệt cũng tính từ thiên can ngũ hợp mà ra, như năm Gíap Kỷ an Triệt ở Thân Dậu… Như vậy Triệt chính là cái thiếu và mất đi trong một chu kỳ thời gian , nó làm thay đổi từ âm ra dương hoặc từ dương ra âm , Cho nên Triệt rất cần thiết cho sự tiến hoá, thay đổi . Đó cũng là cái cốt lõi trong ‘ sinh sinh chi vị Dịch’… Tôi hy vọng rằng qua bài này các bạn sẽ thấy thêm nhiều điều về sự biến đổi của Dịch và nhất là biết được phần nào ảnh hưởng của Triệt. Bài sau sẽ nói về Tuần trung không vong….
-
Kính chào Thiên Sứ, Câu hỏi của ông thật là thú vị. Tôi xin trả lời ngay rằng là ở đâu cũng có sấm, ở đâu cũng có thuỷ, ở đâu cũng có mộc.vv... Có điều thuỷ ở trên cao ,ở chỗ vừa hay ở chỗ thấp, ở chỗ rộng hay ở chỗ hẹp mả thôi. Tôi lấy Lục thập hoa giáp dẫn chứng cho ông thấy thí dụ như thuỷ ở thân dậu là Tuyền trung Thuỷ, ở Tuất hợi là Đại hải thuỷ, ở tý sửu là Giản hạ thuỷ, ở dần mão là Đại khê thuỷ, ở thìn tỵ là Trường lưu thuỷ và ở ngọ mùi là Thiên hà thuỷ. Dịch còn chi ly hơn ta nghĩ là thuỷ ở trên cao như Thiên hà thuỷ ở dưới thấp như Giản Hạ thuỷ, trường lưu thuỷ ở chỗ vừa là Tuyền trung thuỷ, Đại khê thuỷ....Bát quái chỉ có tính cách ước lệ, họ để Thuỷ ở phương bắc quẻ Khảm là họ lấy cái khí của nó làm biểu tương. Họ để Chấn ở Phương Đông là do sấm khởi đầu cho mùa mưa chứ ở phương nào cũng đều có sấm cả đó , thưa ông. Trăng thì tháng nào cũng có nhưng ánh trăng đẹp và sáng nhất chị có trung thu , rằm tháng 8 mà thôi. Nếu biết dùng Dịch thì ở đâu cũng có chỗ dùng của Dịch không riêng gì ỡ bên Tàu. Thân chào
-
Thiên Đồng kính mến,Ngày xưa khi làm Dịch cổ nhân chĩ lấy mắt thường ngữa xem ,cúi xét vạn vật, thấy nước Tàu ở giửa chứ không thấy bằng vệ tinh như bây giờ. Nói thế đủ biết Bát Quái chỉ có tính chất cục bộ địa phương không bao hàm ta bà thế giới. Số thì vô số vạn cực, Kinh Dịch chỉ lấy 10 số tiêu biểu cho vạn cực số. Nếu bạn biết thế bạn sẽ không hỏi câu này. Thân
-
Kính chào Thiên Sứ Theo lời ông hỏi nói về cái bếp thì tôi xin thưa rằng dùng quẻ Ly có hào âm làm chủ , ngay giửa , trung chánh thì cứ lấy tuổi của người trung chánh tức là chính thiếp đấy ạ. Còn các thứ thiếp thì ứng vào quẻ Đoài rồi. Đà Nẳng thì ai cũng biết đó là miền trung , như vậy Đà Nẳng là trung ương , chính bắc là Hà Nội chiếu theo bản đồ VN. Thân ái,
-
Dịch trong tử vi của TRẦN ĐOÀN Trong tử vi có rất nhiều cách mà Trần Đoàn áp dụng trong Dịch học, chính vì thế tôi học dịch qua tử vi và học tử vi qua dịch. Trước hết xin nói về cục ngũ hành ,âm dương tiến thoái mà Trần Đoàn áp dụng một cách tài tình . Cục ngũ hành cùng ngày sinh là yếu tố quyết định để an sao tử vi. Theo Dịch thì Thiên sinh ở Tý, Địa sinh ở Sửu và vạn vật sinh ở Dần nên các cục ngũ hành Trần Đoàn bố trí ở cung Dần. Như thủy nhị cục số 2 để ở Dần, mộc tam cục số 3 ở Dần, kim tứ cục số 4 ở Dần, thổ ngũ cục số 5 ở Dần và hỏa lục cục số 6 cũng ở Dần, số này tương ứng với số ngày sinh . Thế nhưng để tìm ngày mồng 1 thì Trần Đoàn áp dụng phương pháp thoái nhất, tiến tam, thoái ngũ, tiến thất, thoái cửu, phần này giống như trong Lục Nhâm khi tìm ngôi Thiên Cương thì thoái nhất và cùng 1 giờ mà có 3 người xem thì biến quẻ theo cách âm tiến tam ,dương thoái ngũ. Như thủy nhị cục mồng 2 ở Dần thì thoái nhất để mồng 1 ở Sửu. Mộc tam cục mồng 3 ở Dần thì thoái nhất để mồng 2 ở Sửu, tiến tam tới cung Thìn để ngày mồng 1. Kim tứ cục mồng 4 ở Dần thoái nhất để mồng 3 ở Sửu tiến tam để mồng 2 ở Thìn , thoái ngũ để mồng 1 ở Hợi. Thổ ngũ cục mồng 5 ở Dần thoái nhất mồng 4 ở Sửu, tiến tam mồng 3 ở Thìn ,thoái ngũ mồng 2 ở Hợi và tiến thất mồng 1 ở Ngọ. Hỏa lục cục mồng 6 ở Dần , thoái nhất mồng 5 ở Sửu, tiến tam mồng 4 ở Thìn,thoái ngũ mồng 3 ở Hợi , tiến thất mồng 2 ở Ngọ và thoái cửu mồng 1 ở Dậu. Như vậy Trần Đoàn đã dùng các số lẻ trong cửu cung bát quái Hậu Thiên là 1-3-5-7-9 các số này chính là các số biến trong dịch học mà tôi đã có đề cập. Bây giờ xem lại cách của Trần Đoàn , ông đã đổi số của thủy và hỏa còn các hành khác như mộc số 3, kim số 4, thổ số 5 vẫn giử nguyên như trong số Hà Đồ. Có phải vì tiến thoái biến dịch của ngũ hành mà ông cho Thủy lấy âm số của hỏa là số 2 và hỏa thì lấy âm số của thủy là số 6. Sau này tôi phát hiện ra nhiều thú vị trong dịch học nhờ sự áp dụng Dịch học của Trần Đoàn trong tử vi. Tôi chắc rằng khi an vòng trường sinh trong tử vi ai cũng an theo sách đã dẫn là Thổ cục trường sinh an theo thủy cục, nhưng tôi thấy Trần Đoàn khéo léo dùng hành thổ ăn theo Hỏa chứ không theo Thủy như cách an sao Lộc Tồn như sau; Gíáp – Ất thuộc mộc sao Lộc tồn an tại Dần ,Mão. Bính Đinh thuộc hòa nên Lộc tồn an ở Tỵ-Hợi, Mậu-Kỷ thuộc thổ cũng an ở Tỵ -Hợi như vậy với Lộc tồn Trần Đoàn đã cho hành Thổ ăn theo hỏa chứ không ăn theo thủy, vì hỏa sinh ra thổ nơi nào có hỏa thì thổ sẽ sinh ở đó, về sau tôi theo cách này khi an vòng trường sinh trong lá số tử vi nếu thổ cục tôi xem âm hay dương thổ, nếu là dương thổ tôi an trường sinh ở Tỵ còn âm thổ tôi an trường sinh ở thân ăn theo thủy, như vậy dương trường sinh Thổ ăn theo Hỏa và âm trường sinh thổ ăn theo thủy. Tuy nhiên càng về sau này có nhiều cách an sao trường sinh khác nhau không có thống nhất ngay cả âm – dương trường sinh cũng an khác nhau. Tôi cũng dùng phương pháp của tử vi để áp dụng trong phong thủy vì tôi thấy Dịch trong tử vi rất chặt chẽ , tôi dùng thủy và hỏa cũng theo cách trong tử vi. Phong là gió là nguyên khí của trơì- Khí theo lửa mà tới cho nên Hỏa trong phong thủy quan trong lắm. Thủy là nước, trong nước có không khí- Khí theo nước mà đi –nước thảy từ trong nhà đi ra. Xem phong thủy hai vấn đề này cực kỳ quan trọng nó như hô hấp của con người ta hít vào thở ra. Nếu đặt sai vị trí có thể bị tán khí ,thậm chí có thể bị bế khí .Con người ta mà như vậy là bệnh . Nhà ở mà như vậy thì khó hanh thông. Hỏa là nói đến cái bếp trong nhà, phòng ốc ở đó khi bật lửa bếp lên nó sẽ ấm và nóng dần hơn các phòng khác trong nhà, khí nơi khác và bên ngoài sẽ ùa vào cho nên người xưa nói –Khí theo lửa mà tới. Thủy là nước xài ở trong nhà khi dùng xong thảy ra ngoài ,người xưa nói –Khí theo nước mà đi. Trong từ vi có sao Phượng các, sao này khởi từ Tuất thuộc tây bắc quẻ Càn. Phượng các có nghĩa là gác phượng , ở cung đình xưa người ta cho xây gác phượng về phương tây-bắc để vua chúa cùng cung phi , mỹ nữ ăn chơi suốt đêm ở đó. Người Trung Hoa còn cho treo đèn lồng đỏ trên cao gác phượng tượng trưng cho mặt trời không bao giờ tắt ở phương tây bắc . Khí dương không bao giờ tuyệt , đèn lồng đỏ tượng mặt trời trong đêm tối. Đối diện với sao Phượng các là sao Long trì xuất phát ở cung Thìn. Sao Long trì còn gọi là ao rồng , cung thìn thuộc Đông nam nơi thấp nhất nên nước chảy về đó mà mộ -tuyệt nên người ta đặt ao rồng hay hòn non bộ có chứa nước để cho nước không bao giờ tuyệt vì nước là tài lộc. Cũng có nghĩa là khí theo nước mà ra cũng không hết tuyệt vì hết tuyệt đồng nghĩa với sự chết. Long trì-Phượng các cũng là thủy và hỏa nằm trong Tứ Linh. Phong thủy luôn luôn đặt tứ linh làm trọng , bên trái là thanh long bên phải là bạch hổ phía trước trồng cây Bàng có tán rộng như cái lộng tượng cho Hoa Cái để trong nhà con cháu học giỏi ,đỗ đạt cao…Tứ linh trong tử vi là Long ,Phượng ,Hổ ,Cái. Từ ngữ của hai chữ Tử vi cũng hàm chứa thủy và hỏa pha trộn nhau. Tử là đỏ tía màu của hỏa đỏ và thủy đen trộn lẫn nhau và Vi là nhỏ li ti. Cuối cùng tôi thấy trong tử vi áp dụng dịch học rất hoàn hảo,tôi xem cách trình bày các sao ,an năm sanh các tuổi tôi biết vạn vật sinh ở đâu và tử ở đâu, Tôi lấy thí dụ tuổi Thân ,Tý ,Thìn thuộc Thủy cục an năm sinh ở Tuất là vỉ Tuất là thổ của phương Kim-Thân Dậu Tuất là phương Kim- tuổi Dần ,Ngọ,Tuất thuộc hỏa cục an năm sinh ở Thìn vì Thìn là Thổ của phương Mộc, Hợi Mão Mùi là mộc cục an năm sinh tại Sửu vì Sửu là thổ của phương Thủy và Tỵ Dậu Sửu thuộc kim cục an năm sinh ở Mùi vì Mùi là thổ của Hỏa mà nơi đó Thổ được sinh ra. Cho nên an trường sinh Thổ ở hỏa cũng không có gì là sai biệt. Có sinh tất phải có tử nên Thân Tý Thìn thuộc thủy cục sinh ở Tuất thuộc phương kim và tử ở phương mộc Dần Mão Thìn . Dân gian quen gọi là Tam Tai nghĩa là 3 tai nạn lớn Tang, Tù , Tử cho người có tuổi thủy cục Thân Tý Thìn gặp năm Dần Mão Thìn là gặp hạn tam tai. Các hành khác cũng vậy, điều này chứng minh rằng cho dù nói là tang ,tù,tử nhưng thật sự không hẳn như thế nhưng chắc rằng những tuổi Thân Tý Thìn gặp năm Dần Mão Thìn hoặc tiểu hạn về Dần Mão Thìn thì sẽ gặp nhiều lận đận bất an.Không tin, mời quí vị thẩm tra lại xem sao.
-
Chào bạn,Dịch như nàng con gái đẹp, mỗi người đều CẢM cái đẹp rất khác nhau và tôi luôn tôn trọng cái Cảm đó của mọi người. Bạn nói gió là sự vận chuyển của không khí thì thời nay em bé cũng biết điều đó nhưng vào thời những người làm Dịch thì họ gọi đó là THẦN.Thần Gió , Thần núi , thần sông ... Dịch là bộ Kinh nói về bói toán ,, Vu thuật không phải là bộ Kinh tranh luận về khoa học hay định nghĩa khoa học. Nếu như bạn nói về khoa học nguyên tử thì bạn không nên đọc Kinh Dịch mà nên xem các sách viết về khoa học, không chừng bạn sẽ nổi danh về lãnh vực này. Điều mà tôi cần nói là HỌC DỊCH NÊN HỌC BẰNG TÂM. Nhữngn gì bạn hỏi thì bạn đã tự trả lời . Tôi miễn bình luận. Thân ái kính chào!
-
Chào Liêm Trinh,Tôi hết sức cân nhắc khi trả lời cho bạn đây vì sở học của tôi chẳng thấm vào đâu so với các vị tiền bối đi trước như Nguyễn Duy Cần ,Nguyễn Hữu Lương v.v…hoặc như trên diễn đàn này còn nhiều vị ẩn danh nên tôi rất ngại khi đưa ra ý kiến riêng tư của mình , mà nếu không trả lời cho bạn thì tôi khó yên tâm. Tôi có nghiên cứu Liên Sơn Dịch cũng như có nghiên cứu sơ qua Quy Tàng Dịch. Liên Sơn Dịch thì lấy quẻ Cấn làm đầu vì cho rằng Khí trong núi tuông ra bất tận không bao giờ dứt, khí ấy nuôi dưỡng vạn vật. Quy Tàng Dịch thì cho rằng vạn vật sinh từ đất và trở về đất nên lấy quẻ Khôn làm đầu. Tuy nhiên sau nhiều thế kỷ chiêm nghiệm các bậc tiền nho dùng Chu Dịch vì cho rằng lý luận có phần chặt chẻ hơn, tôi không biết có đúng như thế không vì tôi cũng chỉ tìm hiểu qua sách vở mà thôi chứ không phải là nhà nghiên cứu. Việt Nam mình có rất nhiều sách để bạn có thể tham khảo , theo tôi cuốn “ Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông Phương “ của Nguyễn Hữu Lương là cuốn sách để tìm hiểu Kinh Dịch hay nhất từ trước tới giờ. Bạn có thể hỏi mua ở mấy nhà sách cũ ở đường Nguyễn Thị Minh Khai. Thân ái
-
Kinh Dịch là bộ Kinh duy nhất trên cõi đời này vì đó là bộ Kinh không có chữ, chỉ có vạch là chấm tròn đen trắng mà thôi. Những chữ viết về sau tới Khổng Tử mới có trong Kinh Dịch nên gọi là Hệ Từ tức là đèo lời vào. Phục Hy lập đức, Văn Vương lập công và Khổng Tử lập ngôn. Có trách là trách Khổng Tử sau lắm lời chứ Dịch chẳng có lời nào!
-
Tôi nghiên cứu Dịch , đọc tất cả những sách nói về Dịch ( sách tiếng Việt thôi chứ tiếng Tàu thì tôi thua) lặng lẽ nghiên cứu và không có người bạn nào trao đổi hay tranh luận về Dịch. Thế nhưng để luận 1 quẻ Dịch thì vô cùng bối rối, có lúc tôi bỏ qua 1 thời gian dài, rồi cầm lên đọc lại. Tôi thấy Trung Cung của Lạc Thư mang số 5 mà không có quẻ, ở đó sách nói là chủ để biến, tôi tra Lục Thập Hoa Giáp tôi thấy đúng là số 5 chủ biến đổi. Thí dụ như Giáp Ngọ vì Ngọ ở cung Ly nên mang số 9 vậy Giáp Ngọ thuộc cung Ly kế đến Ất Mùi (hết 9 về 1 vì Hậu Thiên Bát Quái có 9 cung) nên Ất Mùi mang số 1 cung Khảm, Bính Thân mang số 2 nên là cung Khôn, Đinh Dậu tiếp số 3 nên là cung Chấn ,Mậu Tuất tiếp theo là số 4 nên là cung Tốn bây giờ tới số 5 Kỷ Hợi nằm số 5 trung ương chủ biến đổi tôi thấy Kỷ Hơi là Thiên can Địa chi âm nên lấy Cấn làm cung của mình nên Kỷ Hợi cung Cấn rồi dến Canh Tý là vị trí thứ 6 nên mang cung Càn, Tân Sửu thứ 7 nên mang cung Đoài, Nhâm Dần thứ 8 nên mang cung Cấn và Quí Mão số 9 nên mang cung Ly. Vậy các cung trong Lục Thập Hoa Giáp đi theo số thứ tự Lạc Thư. Khi vào trung ương số 5 Dương chi sẽ lấy Cung Khôn và Âm chi sẽ mang cung Cấn. Điều này tôi thấy Âm chi mang quẻ dương và dương chi mang quẻ âm. Cấn - Khôn thuộc thổ đại biểu cho hành ở Trung Ương! Riêng Giáp Tý Dịch lấy số 3 làm tiến số nên Giáp Tý mang cung Chấn rồi theo thứ tự mà tiến. Tôi thấy vạn vật biến ở giửa như Lạc Thư và Lục Thập Hoa Giáp đã chỉ ra nhưng tôi vẫn chưa ngộ ra điều gì về cách biến quẻ và luận quẻ. Tôi lại xem sách Chu Dịch lại nghe nói Dịch là 1 vòng tròn , Thăng giáng qua lại mà thôi! Có bấy nhiêu thôi sao? Mà thật vậy Dịch trống không chẳng có gì, tại tôi nghĩ quá nhiều rồi tẩu hỏa nhập ma! Tôi chợt thấy rằng lúc mặt trời mọc ở đằng Đông chầm chậm lên cao tới giửa trời là lúc đi xuống, như vậy có lúc đi lên( là thăng) tới giửa biến đổi chiều rồi đi xuống ( là Giáng) À thì ra biến đổi ở giửa là vậy! Tôi nhìn trên lòng bàn tay 12 cung từ Tý tới Hợi tối thấy người xưa xếp Hỏa Cục Dần Ngọ Tuất , Trường Sinh khởi từ Dần đi lên tới Ngọ ( Đế vượng) rồi đi xuống Tuất để mộ có 9 cung tương ứng với Hâu thiên Bát Quái 9 cung. Tôi vẽ thành 1 hình tam giác Dần Ngọ Tuất có mũi tên hướng lên. Tôi cho rằng lửa từ dưới bốc lên cao. Tôi phát hiện thêm Thủy cục Thân Tý Thìn có mũi tam giác từ trên cao là Thân đi xuống Tý và mộ ở Thìn có hình tam giác mũi nhọn hướng xuống. Thật tuyệt vời! Lửa bốc lên cao nước chảy xuống thấp theo nguyên lý tự nhiên! Tôi khâm phục vô cùng! Lại thấy Mộc cục Hợi Mão Mùi có tam giác mũi nhọn từ Tây sang Đông rồi Kim cục Tỵ Dậu Sửu từ Đông sang Tây! Ôi lên xuống qua lại, hay cái Thăng Giáng Vãng Lai mà Dịch nói giờ tối đã thấy! Tôi bắt đầu hiểu Dịch, tôi luận quẻ Lục Nhâm mà tôi học được xem như thế nào! Tôi luận chính xác từng sự việc! Anh chị em đọc tới đây có tin không? Tôi sẽ viết cách luận 1 quẻ Dịch vào bài sau mà tôi đã hơn 30 năm nghiền ngẫm! Chính xác vô cùng và cũng đơn giản không ồn ào như các sách đã viết, Đúng như sách Dịch nói Dịch chỉ là 1 cái vòng tròn, mặt trời ,mặt trăng theo đó mà lên xuống qua lại thay đổi chỗ cho nhau.
-
Bài viết thêm không liên quan gì tới - Làm sao luận 1 quẻ Dịch Sự thay đổi Hỏa và Kim giữa Hà Đồ và Lạc Thư Đây là đề tài tốn rất nhiều giấy mực ,song vẫn chưa có câu trả lời hài lòng. Thuyết cho rằng Văn Vương trong ngục Dũ Lý phát minh ra Lạc Thư, từ đó Dịch luôn nói tới Đồ -Thư giống như hai vật không thể tách rời. Mục Đích như vậy để làm gì đến nay vẫn còn bao trùm bí ẩn cho dù có biết bao nhiêu bậc hiền triết ,tiên nho bàn bạc. Có lẽ vì khó học hay người xưa muốn cho hậu thế mai sau thích thú mà tìm tòi, dù sao mặc lòng sự thay đổi của Văn Vương chế tác ra Lạc Thư –Hậu Thiên Bát Quái quả chỉ có bậc thánh mới làm được . Hãy nhìn Hà Đồ có Nhất sinh thủy ở Bắc , Nhị sinh Hỏa ở Nam, Tam sinh mộc ở Đông và Tứ sinh Kim ở Tây sau cùng Ngũ sinh Thổ ở Trung Ương để dung hòa tránh sự xung đột các vật chất. Nói rõ hơn là Thủy muốn khắc Hỏa thì Bị Thổ chận, Kim muốn khắc mộc thì bị thổ kiềm chế cho nên tuy khác tính nhưng nhưng cùng vận hành với nhau. Hà Đồ rõ ràng mang tính tương khắc nên dùng 5.10 ở giửa để dung hòa. Có khắc tất có sinh nên Văn Vương rút đi số 10 trung ương thổ rồi biến đổi giữa Hỏa và Kim thành tương sinh cho nên hậu thiên bát quái là vòng tương sinh 4.9 thuộc Kim ở nam sinh 1.6 ở Bắc thủy ,3.8 ở Đông sinh 2.7 ở tây Hỏa. Sắp xếp các con số lại cho thành tương sinh nhưng ngũ hành các phương vẫn không đổi. Trung ương Thổ mang số 5 chủ để biến. Từ đây vòng trường sinh được ra đời một cách tinh vi mà vẫn phù hợp với Hà Đồ. Thật là tuyệt diệu thay! Số 5 ở giửa, 3 cho dương số để tiến và 2 cho âm số để tiến,sự vận hành được biểu diễn như sau: Cung Ly là Hỏa cục mang số dương 9, âm số là 4 ở nam. Sinh ở Dần ,vượng ở Ngọ và Mộ ở Tuất. Dương trường sinh khởi ở Dần đi thuận , dần thuộc Cấn số 8 đến mão thuộc Chấn số 3 cộng là 11 đến Thìn ,Tỵ thuộc Tốn số 4 cộng là 15, đến Ngọ ( Đế Vương ) thuộc cung Ly số 9 cộng là 24 đến Mùi ,Thân thuộc Khôn số 2 công là 26, đến dậu thuộc Đoài số 7 công là 33 ,đến Tuất (Mộ) thuộc Càn số 6 cộng là 39. Số 3 là dương số để tiến số 9 là hành hỏa. Âm trường sinh khởi từ Dần đi nghịch ,khởi từ Cấn sửu, dần số 8 đến Tý thuộc Khảm số 1 cộng là 9 đến hợi,tuất thuộc Cán số 6 cộng là 15 ,đến Đoài số 7 cộng là 22 đến thân,mùi thuộc Khôn số 2 cộng là 24. 2 là số âm để tiến 4 là số thuộc âm hỏa 4. Như vậy dương và âm trường sinh hỏa vẫn mang số 4.9 Tại sao dương trường sinh chỉ tính tới Mộ? Xin thưa rằng dương là sự sống không phải là sự chết nên quẻ Kiền có 3 dương không có âm nên chỉ tính đến Mộ mà thôi. Bát quái Hâu Thiên có 9 cung số 9 cũng là số lớn nhất của dương số phù hợp từ trường sinh đến mộ có 9 cung. Âm trường sinh đi nghịch nhưng chỉ tính từ trường sinh đến Tử cả thảy 8 cung ,Vì số 8 là số âm lớn nhất trong Lạc Thư. Âm là sự chết nên quẻ Khôn không có dương nào. Mặt trăng thuộc âm có hai ngày không trăng. Như vậy dương mộ và âm tử. Các Cục khác cứ theo lối tính này mà suy ra như Thủy cục 31 số dương và 26 số âm. Mộc cục có 33 số dương và 28 số âm ,kim cục có 22 số âm và 37 số dương . Đồ Thư đến đây hợp nhất rồi đó quí vị ạ! Các tính toán khác về vòng trường sinh sẽ không phù hợp với số của Hà Đồ -Lạc thư. Cũng như các các sắp xếp khác về quẻ cũng không phù hợp với số của Hà Đồ và vòng trường sinh.