kyte

Dịch Học

4 bài viết trong chủ đề này

Dịch trong tử vi của TRẦN ĐOÀN

Trong tử vi có rất nhiều cách mà Trần Đoàn áp dụng trong Dịch học, chính vì thế tôi học dịch qua tử vi và học tử vi qua dịch.

Trước hết xin nói về cục ngũ hành ,âm dương tiến thoái mà Trần Đoàn áp dụng một cách tài tình . Cục ngũ hành cùng ngày sinh là yếu tố quyết định để an sao tử vi.

Theo Dịch thì Thiên sinh ở Tý, Địa sinh ở Sửu và vạn vật sinh ở Dần nên các cục ngũ hành Trần Đoàn bố trí ở cung Dần. Như thủy nhị cục số 2 để ở Dần, mộc tam cục số 3 ở Dần, kim tứ cục số 4 ở Dần, thổ ngũ cục số 5 ở Dần và hỏa lục cục số 6 cũng ở Dần, số này tương ứng với số ngày sinh .

Thế nhưng để tìm ngày mồng 1 thì Trần Đoàn áp dụng phương pháp thoái nhất, tiến tam, thoái ngũ, tiến thất, thoái cửu, phần này giống như trong Lục Nhâm khi tìm ngôi Thiên Cương thì thoái nhất và cùng 1 giờ mà có 3 người xem thì biến quẻ theo cách âm tiến tam ,dương thoái ngũ.

Như thủy nhị cục mồng 2 ở Dần thì thoái nhất để mồng 1 ở Sửu.

Mộc tam cục mồng 3 ở Dần thì thoái nhất để mồng 2 ở Sửu, tiến tam tới cung Thìn để ngày mồng 1.

Kim tứ cục mồng 4 ở Dần thoái nhất để mồng 3 ở Sửu tiến tam để mồng 2 ở Thìn , thoái ngũ để mồng 1 ở Hợi.

Thổ ngũ cục mồng 5 ở Dần thoái nhất mồng 4 ở Sửu, tiến tam mồng 3 ở Thìn ,thoái ngũ mồng 2 ở Hợi và tiến thất mồng 1 ở Ngọ.

Hỏa lục cục mồng 6 ở Dần , thoái nhất mồng 5 ở Sửu, tiến tam mồng 4 ở Thìn,thoái ngũ mồng 3 ở Hợi , tiến thất mồng 2 ở Ngọ và thoái cửu mồng 1 ở Dậu.

Như vậy Trần Đoàn đã dùng các số lẻ trong cửu cung bát quái Hậu Thiên là 1-3-5-7-9 các số này chính là các số biến trong dịch học mà tôi đã có đề cập.

Bây giờ xem lại cách của Trần Đoàn , ông đã đổi số của thủy và hỏa còn các hành khác như mộc số 3, kim số 4, thổ số 5 vẫn giử nguyên như trong số Hà Đồ. Có phải vì tiến thoái biến dịch của ngũ hành mà ông cho Thủy lấy âm số của hỏa là số 2 và hỏa thì lấy âm số của thủy là số 6.

Sau này tôi phát hiện ra nhiều thú vị trong dịch học nhờ sự áp dụng Dịch học của Trần Đoàn trong tử vi.

Tôi chắc rằng khi an vòng trường sinh trong tử vi ai cũng an theo sách đã dẫn là Thổ cục trường sinh an theo thủy cục, nhưng tôi thấy Trần Đoàn khéo léo dùng hành thổ ăn theo Hỏa chứ không theo Thủy như cách an sao Lộc Tồn như sau; Gíáp – Ất thuộc mộc sao Lộc tồn an tại Dần ,Mão. Bính Đinh thuộc hòa nên Lộc tồn an ở Tỵ-Hợi, Mậu-Kỷ thuộc thổ cũng an ở Tỵ -Hợi như vậy với Lộc tồn Trần Đoàn đã cho hành Thổ ăn theo hỏa chứ không ăn theo thủy, vì hỏa sinh ra thổ nơi nào có hỏa thì thổ sẽ sinh ở đó, về sau tôi theo cách này khi an vòng trường sinh trong lá số tử vi nếu thổ cục tôi xem âm hay dương thổ, nếu là dương thổ tôi an trường sinh ở Tỵ còn âm thổ tôi an trường sinh ở thân ăn theo thủy, như vậy dương trường sinh Thổ ăn theo Hỏa và âm trường sinh thổ ăn theo thủy. Tuy nhiên càng về sau này có nhiều cách an sao trường sinh khác nhau không có thống nhất ngay cả âm – dương trường sinh cũng an khác nhau.

Tôi cũng dùng phương pháp của tử vi để áp dụng trong phong thủy vì tôi thấy Dịch trong tử vi rất chặt chẽ , tôi dùng thủy và hỏa cũng theo cách trong tử vi.

Phong là gió là nguyên khí của trơì- Khí theo lửa mà tới cho nên Hỏa trong phong thủy quan trong lắm.

Thủy là nước, trong nước có không khí- Khí theo nước mà đi –nước thảy từ trong nhà đi ra. Xem phong thủy hai vấn đề này cực kỳ quan trọng nó như hô hấp của con người ta hít vào thở ra. Nếu đặt sai vị trí có thể bị tán khí ,thậm chí có thể bị bế khí .Con người ta mà như vậy là bệnh . Nhà ở mà như vậy thì khó hanh thông.

Hỏa là nói đến cái bếp trong nhà, phòng ốc ở đó khi bật lửa bếp lên nó sẽ ấm và nóng dần hơn các phòng khác trong nhà, khí nơi khác và bên ngoài sẽ ùa vào cho nên người xưa nói –Khí theo lửa mà tới.

Thủy là nước xài ở trong nhà khi dùng xong thảy ra ngoài ,người xưa nói –Khí theo nước mà đi.

Trong từ vi có sao Phượng các, sao này khởi từ Tuất thuộc tây bắc quẻ Càn. Phượng các có nghĩa là gác phượng , ở cung đình xưa người ta cho xây gác phượng về phương tây-bắc để vua chúa cùng cung phi , mỹ nữ ăn chơi suốt đêm ở đó. Người Trung Hoa còn cho treo đèn lồng đỏ trên cao gác phượng tượng trưng cho mặt trời không bao giờ tắt ở phương tây bắc . Khí dương không bao giờ tuyệt , đèn lồng đỏ tượng mặt trời trong đêm tối.

Đối diện với sao Phượng các là sao Long trì xuất phát ở cung Thìn. Sao Long trì còn gọi là ao rồng , cung thìn thuộc Đông nam nơi thấp nhất nên nước chảy về đó mà mộ -tuyệt nên người ta đặt ao rồng hay hòn non bộ có chứa nước để cho nước không bao giờ tuyệt vì nước là tài lộc. Cũng có nghĩa là khí theo nước mà ra cũng không hết tuyệt vì hết tuyệt đồng nghĩa với sự chết.

Long trì-Phượng các cũng là thủy và hỏa nằm trong Tứ Linh. Phong thủy luôn luôn đặt tứ linh làm trọng , bên trái là thanh long bên phải là bạch hổ phía trước trồng cây Bàng có tán rộng như cái lộng tượng cho Hoa Cái để trong nhà con cháu học giỏi ,đỗ đạt cao…Tứ linh trong tử vi là Long ,Phượng ,Hổ ,Cái.

Từ ngữ của hai chữ Tử vi cũng hàm chứa thủy và hỏa pha trộn nhau. Tử là đỏ tía màu của hỏa đỏ và thủy đen trộn lẫn nhau và Vi là nhỏ li ti.

Cuối cùng tôi thấy trong tử vi áp dụng dịch học rất hoàn hảo,tôi xem cách trình bày các sao ,an năm sanh các tuổi tôi biết vạn vật sinh ở đâu và tử ở đâu, Tôi lấy thí dụ tuổi Thân ,Tý ,Thìn thuộc Thủy cục an năm sinh ở Tuất là vỉ Tuất là thổ của phương Kim-Thân Dậu Tuất là phương Kim- tuổi Dần ,Ngọ,Tuất thuộc hỏa cục an năm sinh ở Thìn vì Thìn là Thổ của phương Mộc, Hợi Mão Mùi là mộc cục an năm sinh tại Sửu vì Sửu là thổ của phương Thủy và Tỵ Dậu Sửu thuộc kim cục an năm sinh ở Mùi vì Mùi là thổ của Hỏa mà nơi đó Thổ được sinh ra. Cho nên an trường sinh Thổ ở hỏa cũng không có gì là sai biệt.

Có sinh tất phải có tử nên Thân Tý Thìn thuộc thủy cục sinh ở Tuất thuộc phương kim và tử ở phương mộc Dần Mão Thìn . Dân gian quen gọi là Tam Tai nghĩa là 3 tai nạn lớn Tang, Tù , Tử cho người có tuổi thủy cục Thân Tý Thìn gặp năm Dần Mão Thìn là gặp hạn tam tai. Các hành khác cũng vậy, điều này chứng minh rằng cho dù nói là tang ,tù,tử nhưng thật sự không hẳn như thế nhưng chắc rằng những tuổi Thân Tý Thìn gặp năm Dần Mão Thìn hoặc tiểu hạn về Dần Mão Thìn thì sẽ gặp nhiều lận đận bất an.Không tin, mời quí vị thẩm tra lại xem sao.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào anh, Kyte

Dịch trong tử vi của TRẦN ĐOÀN

Trong tử vi có rất nhiều cách mà Trần Đoàn áp dụng trong Dịch học, chính vì thế tôi học dịch qua tử vi và học tử vi qua dịch.

Trước hết xin nói về cục ngũ hành ,âm dương tiến thoái mà Trần Đoàn áp dụng một cách tài tình . Cục ngũ hành cùng ngày sinh là yếu tố quyết định để an sao tử vi.

Theo Dịch thì Thiên sinh ở Tý, Địa sinh ở Sửu và vạn vật sinh ở Dần nên các cục ngũ hành Trần Đoàn bố trí ở cung Dần. Như thủy nhị cục số 2 để ở Dần, mộc tam cục số 3 ở Dần, kim tứ cục số 4 ở Dần, thổ ngũ cục số 5 ở Dần và hỏa lục cục số 6 cũng ở Dần, số này tương ứng với số ngày sinh .

Thế nhưng để tìm ngày mồng 1 thì Trần Đoàn áp dụng phương pháp thoái nhất, tiến tam, thoái ngũ, tiến thất, thoái cửu, phần này giống như trong Lục Nhâm khi tìm ngôi Thiên Cương thì thoái nhất và cùng 1 giờ mà có 3 người xem thì biến quẻ theo cách âm tiến tam ,dương thoái ngũ.

Anh cũng nói đó mà: âm tiến tam ,dương thoái ngũ - nghĩa là âm thì tiếndương thì thoái thì anh xem lại những con số lẽ (dương) vừa tiến vừa thoái

sau đây có nhất quán không?

Như thủy nhị cục mồng 2 ở Dần thì thoái nhất để mồng 1 ở Sửu.

Mộc tam cục mồng 3 ở Dần thì thoái nhất để mồng 2 ở Sửu, tiến tam tới cung Thìn để ngày mồng 1.

Kim tứ cục mồng 4 ở Dần thoái nhất để mồng 3 ở Sửu tiến tam để mồng 2 ở Thìn , thoái ngũ để mồng 1 ở Hợi.

Thổ ngũ cục mồng 5 ở Dần thoái nhất mồng 4 ở Sửu, tiến tam mồng 3 ở Thìn ,thoái ngũ mồng 2 ở Hợi và tiến thất mồng 1 ở Ngọ.

Hỏa lục cục mồng 6 ở Dần , thoái nhất mồng 5 ở Sửu, tiến tam mồng 4 ở Thìn,thoái ngũ mồng 3 ở Hợi , tiến thất mồng 2 ở Ngọ và thoái cửu mồng 1 ở Dậu.

Như vậy Trần Đoàn đã dùng các số lẻ trong cửu cung bát quái Hậu Thiên là 1-3-5-7-9 các số này chính là các số biến trong dịch học mà tôi đã có đề cập.

Giở quyển sách: Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng - Thái Thứ Lang ở phần An Sao cho Tử Vi tinh Hệ có vẽ mấy cái Địa Bàn và các con số cho các Ngũ Hành Cục (2,3,4,5,6) thì dễ nhìn ra cái pattern như anh vừa nói; các độ số Cục (2,3,4,5,6) đều hiện diện ở cung Dần.

Tuy nhiên, cách anh ghi nhận lại là các Số LẼ: 1 Th. -3 Tn. -5 Th. -7 Tn. -9 Th. (Th. - Thoái; Tn. - Tiến)

Nếu như anh nhìn ở góc cạnh khác thì sẽ thấy có CHẴN có LẼ, lý Dương Nghịch Âm Thuận và sau đó Tử Vi Tinh Hệ (Dương an Nghịch) với Thiên Phủ Tinh Hệ (Âm an Thuận) nhất quán trong phương pháp vậy. Vậy, thấy như thế nào?

__ Các CỤC số chẳng qua là những NHÓM Ngày xếp vô một CỤC; ví dụ:

Nhị Cục - thì cứ 2 ngày là một Nhóm hay Cục

Tam Cục - thì cứ 3 ngày là một Nhóm hay Cục

Tứ Cục - thì cứ 4 ngày là một Nhóm hay Cục

Ngũ Cục - thì cứ 5 ngày là một Nhóm hay Cục

Lục Cục - thì cứ 6 ngày là một Nhóm hay Cục

(*) Nếu như, Nhất Cục thì không mang được ý nghĩa Lập Cục vì cứ như mọi ngày, một mình phân phối an trí cho ai ...

Mỗi CỤC có cấp số nhân, lần lượt từ cung Dần đi lên như sau:

Nhị Cục - (2) Dần, (4) Mão, (6) Thìn, (8) Tỵ v.v...

Tam Cục - (3) Dần, (6) Mão, (9) Thìn, (12) Tỵ v.v...

Tứ Cục - (4) Dần, (8) Mão, (12) Thìn, (16) Tỵ v.v...

Ngũ Cục - (5) Dần, (10) Mão, (15) Thìn, (20) Tỵ v.v...

Lục Cục - (6) Dần, (12) Mão, (18) Thìn, (24) Tỵ v.v...

Nghĩa là mỗi CỤC cai quản con SỐ ngày của CỤC đó và có nhiều Đội CỤC như thế Trấn Giữ ở các nơi; ngoài ra còn phân phối những ngày trong Đội CỤC đó theo vị trí thông qua công thức: Dương Nghịch, Âm Thuận. Ví dụ: (sinh ngày 25 thuộc Tứ Cục)

[16][20][24][28]

[12][][][]

[08][][][]

[04][][][]

Đội I Tứ Cục ở Dần lấy 4 làm Đội trưởng thống lãnh (1,2,3)

Đội II Tứ Cục ở Mão lấy 8 làm Đội trưởng thống lãnh (5,6,7)

Đội III Tứ Cục ở Thìn lấy 12 làm Đội trưởng thống lãnh (9,10,11)

Đội IV Tứ Cục ở Tị lấy 16 làm Đội trưởng thống lãnh (13,14,15)

Đội V Tứ Cục ở Ngọ lấy 20 làm Đội trưởng thống lãnh (17,18,19)

Đội VI Tứ Cục ở Mùi lấy 24 làm Đội trưởng thống lãnh (21,22,23)

Đội VII Tứ Cục ở Thân lấy 28 làm Đội trưởng thống lãnh (25,26,27)

Do đó, ngày 25 dưới sự quản hạt của Đội VII Tứ Cục lấy 28 làm chuẩn để tính sự SAI BIỆT => |28-25| = 3 .

SAI SỐ là 3 (LẼ) Dương nên phân phối NGHỊCH 3 cung từ cung Thân nơi 28 làm chuẩn - nghĩa là ngày 25 an ở cung Tị

Nếu là ngày 26 thì sự SAI BIỆT => |28-25| = 2;

SAI SỐ là 2 (CHẴN) Âm nên phân phối THUẬN 2 cung từ cung Thân nơi 28 làm chuẩn - nghĩa là ngày 26 an ở cung Tuất

Nếu là ngày 27 thì sự SAI BIỆT => |28-27| = 1;

SAI SỐ là 1 (LẼ) Dương nên phân phối NGHỊCH 1 cung từ cung Thân nơi 28 làm chuẩn - nghĩa là ngày 27 an ở cung Mùi

Bây giờ xem lại cách của Trần Đoàn , ông đã đổi số của thủy và hỏa còn các hành khác như mộc số 3, kim số 4, thổ số 5 vẫn giử nguyên như trong số Hà Đồ. Có phải vì tiến thoái biến dịch của ngũ hành mà ông cho Thủy lấy âm số của hỏa là số 2 và hỏa thì lấy âm số của thủy là số 6.

Đây là anh lý luận kiểu đồng tình với những gì đã được ghi tải: 3,4,5 là Mộc, Kim, Thổ rồi vì tiến thoái biến dịch của ngũ hành kiểu nào mà anh kết luận gọn lẹ: Thủy lấy 2 - Hỏa lấy 6 ??

Sau này tôi phát hiện ra nhiều thú vị trong dịch học nhờ sự áp dụng Dịch học của Trần Đoàn trong tử vi.

Tôi chắc rằng khi an vòng trường sinh trong tử vi ai cũng an theo sách đã dẫn là Thổ cục trường sinh an theo thủy cục, nhưng tôi thấy Trần Đoàn khéo léo dùng hành thổ ăn theo Hỏa chứ không theo Thủy như cách an sao Lộc Tồn như sau; Gíáp – Ất thuộc mộc sao Lộc tồn an tại Dần ,Mão. Bính Đinh thuộc hòa nên Lộc tồn an ở Tỵ-Hợi, Mậu-Kỷ thuộc thổ cũng an ở Tỵ -Hợi như vậy với Lộc tồn Trần Đoàn đã cho hành Thổ ăn theo hỏa chứ không ăn theo thủy, vì hỏa sinh ra thổ nơi nào có hỏa thì thổ sẽ sinh ở đó, về sau tôi theo cách này khi an vòng trường sinh trong lá số tử vi nếu thổ cục tôi xem âm hay dương thổ, nếu là dương thổ tôi an trường sinh ở Tỵ còn âm thổ tôi an trường sinh ở thân ăn theo thủy, như vậy dương trường sinh Thổ ăn theo Hỏa và âm trường sinh thổ ăn theo thủy.

Nói đến Âm Thổ hay Dương Thổ thì Mộc cũng có Âm Mộc và Dương Mộc vậy, thì anh Kyte lý giải sao thông cho hành Mộc vậy?

Tuy nhiên càng về sau này có nhiều cách an sao trường sinh khác nhau không có thống nhất ngay cả âm – dương trường sinh cũng an khác nhau.

Tôi cũng dùng phương pháp của tử vi để áp dụng trong phong thủy vì tôi thấy Dịch trong tử vi rất chặt chẽ , tôi dùng thủy và hỏa cũng theo cách trong tử vi.

Phong là gió là nguyên khí của trơì- Khí theo lửa mà tới cho nên Hỏa trong phong thủy quan trong lắm.

Thủy là nước, trong nước có không khí- Khí theo nước mà đi –nước thảy từ trong nhà đi ra. Xem phong thủy hai vấn đề này cực kỳ quan trọng nó như hô hấp của con người ta hít vào thở ra. Nếu đặt sai vị trí có thể bị tán khí ,thậm chí có thể bị bế khí .Con người ta mà như vậy là bệnh . Nhà ở mà như vậy thì khó hanh thông.

Anh Kyte nói về GIÓ kiểu này thì các em nhỏ học trong trường được giảng rằng: GIÓ - là không khí di chuyển từ nơi khí Áp Cao về nơi khí Áp Thấp; mà Khí thì lại là tập hợp của các nguyên tử hoặc phân tử v.v... sẽ khó mà lãnh hội đi mất!

Hỏa là nói đến cái bếp trong nhà, phòng ốc ở đó khi bật lửa bếp lên nó sẽ ấm và nóng dần hơn các phòng khác trong nhà, khí nơi khác và bên ngoài sẽ ùa vào cho nên người xưa nói –Khí theo lửa mà tới.

Thủy là nước xài ở trong nhà khi dùng xong thảy ra ngoài ,người xưa nói –Khí theo nước mà đi.

Anh nói vậy, thì khi cái bếp trong nhà chưa được MỞ lên - khí gì đang ở đó? Khí lạnh phải chăng? Các phòng đều có khí lạnh như thế ... ?? Bếp MỞ lên, không khí ẤM dần và lan tỏa đi đến các phòng khác nên cả nhà ẤM lên hết ... thì lý ra là khí ẤM di chuyển theo kiểu Nóng trưởng Lạnh tiêu, đến khi củi cháy tàn Nóng tiêu Lạnh trưởng chứ không chỉ Khí theo lửa mà tới ... Khí theo nước mà đi đâu. Thiết nghĩ, Tới/Đi chẳng qua đó là lý Tiêu/Trưởng vậy thôi, chứ gì mà Lửa tới, Nước đi v.v...

Trong từ vi có sao Phượng các, sao này khởi từ Tuất thuộc tây bắc quẻ Càn. Phượng các có nghĩa là gác phượng , ở cung đình xưa người ta cho xây gác phượng về phương tây-bắc để vua chúa cùng cung phi , mỹ nữ ăn chơi suốt đêm ở đó. Người Trung Hoa còn cho treo đèn lồng đỏ trên cao gác phượng tượng trưng cho mặt trời không bao giờ tắt ở phương tây bắc . Khí dương không bao giờ tuyệt , đèn lồng đỏ tượng mặt trời trong đêm tối.

Đối diện với sao Phượng các là sao Long trì xuất phát ở cung Thìn. Sao Long trì còn gọi là ao rồng , cung thìn thuộc Đông nam nơi thấp nhất nên nước chảy về đó mà mộ -tuyệt nên người ta đặt ao rồng hay hòn non bộ có chứa nước để cho nước không bao giờ tuyệt vì nước là tài lộc. Cũng có nghĩa là khí theo nước mà ra cũng không hết tuyệt vì hết tuyệt đồng nghĩa với sự chết.

Vụ Đông-Nam phương hướng này đã có lần hỏi anh ở đây mà vẫn chưa thấy anh giải thích gì thêm cho sáng nghĩa:

http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...amp;#entry48623

Anh Kyte có thế tiếp tục được không?

Long trì-Phượng các cũng là thủy và hỏa nằm trong Tứ Linh. Phong thủy luôn luôn đặt tứ linh làm trọng , bên trái là thanh long bên phải là bạch hổ phía trước trồng cây Bàng có tán rộng như cái lộng tượng cho Hoa Cái để trong nhà con cháu học giỏi ,đỗ đạt cao…Tứ linh trong tử vi là Long ,Phượng ,Hổ ,Cái.

Từ ngữ của hai chữ Tử vi cũng hàm chứa thủy và hỏa pha trộn nhau. Tử là đỏ tía màu của hỏa đỏ và thủy đen trộn lẫn nhau và Vi là nhỏ li ti.

Cuối cùng tôi thấy trong tử vi áp dụng dịch học rất hoàn hảo,tôi xem cách trình bày các sao ,an năm sanh các tuổi tôi biết vạn vật sinh ở đâu và tử ở đâu, Tôi lấy thí dụ tuổi Thân ,Tý ,Thìn thuộc Thủy cục an năm sinh ở Tuất là vỉ Tuất là thổ của phương Kim-Thân Dậu Tuất là phương Kim- tuổi Dần ,Ngọ,Tuất thuộc hỏa cục an năm sinh ở Thìn vì Thìn là Thổ của phương Mộc, Hợi Mão Mùi là mộc cục an năm sinh tại Sửu vì Sửu là thổ của phương Thủy và Tỵ Dậu Sửu thuộc kim cục an năm sinh ở Mùi vì Mùi là thổ của Hỏa mà nơi đó Thổ được sinh ra. Cho nên an trường sinh Thổ ở hỏa cũng không có gì là sai biệt.

Anh lý luận:

(tuổi Thân ,Tý ,Thìn thuộc Thủy cục an năm sinh ở Tuất là vỉ Tuất là thổ của phương Kim-Thân Dậu Tuất là phương Kim)

Tuổi (Thân-Tý-Thìn) thuộc tam hợp Thủy dùng cung Tuất (Thổ) để khởi năm SINH ở phương Tây (Thân-Dậu-Tuất) :: KIM

Kim sinh Thủy ư? Tuất THỔ sinh KIM phương - Ngũ Hành phương sinh tam hợp tuổi thuộc THỦY ???

(tuổi Dần ,Ngọ,Tuất thuộc hỏa cục an năm sinh ở Thìn vì Thìn là Thổ của phương Mộc)

Tuổi (Dần-Ngọ-Tuất) thuộc tam hợp Hỏa dùng cung Thìn (Thổ) để khởi năm SINH ở phương Đông (Dần-Mão-Thìn) :: MỘC

Mộc sinh Hỏa ư? Thìn THỔ sinh MỘC phương được ư - Ngũ Hành phương sinh tam hợp tuổi thuộc HỎA ???

(Hợi Mão Mùi là mộc cục an năm sinh tại Sửu vì Sửu là thổ của phương Thủy)

Tuổi (Hợi-Mão-Mùi) thuộc tam hợp Mộc dùng cung Sửu (Thổ) để khởi năm SINH ở phương Bắc (Hợi-Tí-Sửu) :: THỦY

Thủy sinh Mộc ư? Sửu THỔ sinh THỦY phương được ư - Ngũ Hành phương sinh tam hợp tuổi thuộc MỘC ???

(Tỵ Dậu Sửu thuộc kim cục an năm sinh ở Mùi vì Mùi là thổ của Hỏa mà nơi đó Thổ được sinh ra)

Tuổi (Tỵ-Dậu-Sửu) thuộc tam hợp Kim dùng cung Mùi (Thổ) để khởi năm SINH ở phương Nam (Tỵ-Ngọ-Mùi) :: HỎA

Thổ sinh Kim ư? Mùi THỔ sinh Hỏa phương được ư - Ngũ Hành phương Hỏa sin Mùi THỔ sinh tam hợp tuổi thuộc KIM ???

Duyệt lại lý luận trên, lý anh Kyte muốn nói lý nào cho Nhất Quán?

Có sinh tất phải có tử nên Thân Tý Thìn thuộc thủy cục sinh ở Tuất thuộc phương kim và tử ở phương mộc Dần Mão Thìn . Dân gian quen gọi là Tam Tai nghĩa là 3 tai nạn lớn Tang, Tù , Tử cho người có tuổi thủy cục Thân Tý Thìn gặp năm Dần Mão Thìn là gặp hạn tam tai. Các hành khác cũng vậy, điều này chứng minh rằng cho dù nói là tang ,tù,tử nhưng thật sự không hẳn như thế nhưng chắc rằng những tuổi Thân Tý Thìn gặp năm Dần Mão Thìn hoặc tiểu hạn về Dần Mão Thìn thì sẽ gặp nhiều lận đận bất an.Không tin, mời quí vị thẩm tra lại xem sao.

Thẩm tra lại thì thấy như sau:

- Các tuổi (tam hợp THỦY) Thân, Tí, Thìn: Tam tai tại các năm : Dần, Mão, Thìn (Đông phương MỘC).

- Các tuổi (tam hợp HỎA) Dần, Ngọ, Tuất: Tam tai tại các năm : Thân, Dậu Tuất (Tây phương KIM).

- Các tuổi (tam hợp MỘC) Hợi, Mão, Mùi: Tam tai tại những năm : Tỵ, Ngọ, Mùi (Nam phương HỎA).

- Các tuổi (tam hợp KIM) Tỵ, Dậu, Sửu : Tam tai tại những năm : Hợi, Tý, Sửu (Bắc phương THỦY).

Nếu chi tiết hơn:

- Các tuổi (tam hợp THỦY) Thân, Tí, Thìn:

SINH ở Thân, Dậu Tuất (Tây phương KIM) : TỬ ở Dần, Mão, Thìn (Đông phương MỘC).

- Các tuổi (tam hợp HỎA) Dần, Ngọ, Tuất:

SINH ở Dần, Mão, Thìn (Đông phương MỘC) : TỬ ở Thân, Dậu Tuất (Tây phương KIM).

- Các tuổi (tam hợp MỘC) Hợi, Mão, Mùi:

SINH ở Hợi, Tý, Sửu (Bắc phương THỦY) : TỬ ở Tỵ, Ngọ, Mùi (Nam phương HỎA).

- Các tuổi (tam hợp KIM) Tỵ, Dậu, Sửu :

SINH ở Tỵ, Ngọ, Mùi (Nam phương HỎA) : TỬ ở Hợi, Tý, Sửu (Bắc phương THỦY).

thì có sự liên quan nhất quán gì, anh Kyte có thể đi sâu hơn?

Sapa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào anh, Kyte

Anh cũng nói đó mà: âm tiến tam ,dương thoái ngũ - nghĩa là âm thì tiếndương thì thoái thì anh xem lại những con số lẽ (dương) vừa tiến vừa thoái

sau đây có nhất quán không?

Giở quyển sách: Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng - Thái Thứ Lang ở phần An Sao cho Tử Vi tinh Hệ có vẽ mấy cái Địa Bàn và các con số cho các Ngũ Hành Cục (2,3,4,5,6) thì dễ nhìn ra cái pattern như anh vừa nói; các độ số Cục (2,3,4,5,6) đều hiện diện ở cung Dần.

Tuy nhiên, cách anh ghi nhận lại là các Số LẼ: 1 Th. -3 Tn. -5 Th. -7 Tn. -9 Th. (Th. - Thoái; Tn. - Tiến)

Nếu như anh nhìn ở góc cạnh khác thì sẽ thấy có CHẴN có LẼ, lý Dương Nghịch Âm Thuận và sau đó Tử Vi Tinh Hệ (Dương an Nghịch) với Thiên Phủ Tinh Hệ (Âm an Thuận) nhất quán trong phương pháp vậy. Vậy, thấy như thế nào?

__ Các CỤC số chẳng qua là những NHÓM Ngày xếp vô một CỤC; ví dụ:

Nhị Cục - thì cứ 2 ngày là một Nhóm hay Cục

Tam Cục - thì cứ 3 ngày là một Nhóm hay Cục

Tứ Cục - thì cứ 4 ngày là một Nhóm hay Cục

Ngũ Cục - thì cứ 5 ngày là một Nhóm hay Cục

Lục Cục - thì cứ 6 ngày là một Nhóm hay Cục

(*) Nếu như, Nhất Cục thì không mang được ý nghĩa Lập Cục vì cứ như mọi ngày, một mình phân phối an trí cho ai ...

Mỗi CỤC có cấp số nhân, lần lượt từ cung Dần đi lên như sau:

Nhị Cục - (2) Dần, (4) Mão, (6) Thìn, (8) Tỵ v.v...

Tam Cục - (3) Dần, (6) Mão, (9) Thìn, (12) Tỵ v.v...

Tứ Cục - (4) Dần, (8) Mão, (12) Thìn, (16) Tỵ v.v...

Ngũ Cục - (5) Dần, (10) Mão, (15) Thìn, (20) Tỵ v.v...

Lục Cục - (6) Dần, (12) Mão, (18) Thìn, (24) Tỵ v.v...

Nghĩa là mỗi CỤC cai quản con SỐ ngày của CỤC đó và có nhiều Đội CỤC như thế Trấn Giữ ở các nơi; ngoài ra còn phân phối những ngày trong Đội CỤC đó theo vị trí thông qua công thức: Dương Nghịch, Âm Thuận. Ví dụ: (sinh ngày 25 thuộc Tứ Cục)

[16][20][24][28]

[12][][][]

[08][][][]

[04][][][]

Đội I Tứ Cục ở Dần lấy 4 làm Đội trưởng thống lãnh (1,2,3)

Đội II Tứ Cục ở Mão lấy 8 làm Đội trưởng thống lãnh (5,6,7)

Đội III Tứ Cục ở Thìn lấy 12 làm Đội trưởng thống lãnh (9,10,11)

Đội IV Tứ Cục ở Tị lấy 16 làm Đội trưởng thống lãnh (13,14,15)

Đội V Tứ Cục ở Ngọ lấy 20 làm Đội trưởng thống lãnh (17,18,19)

Đội VI Tứ Cục ở Mùi lấy 24 làm Đội trưởng thống lãnh (21,22,23)

Đội VII Tứ Cục ở Thân lấy 28 làm Đội trưởng thống lãnh (25,26,27)

Do đó, ngày 25 dưới sự quản hạt của Đội VII Tứ Cục lấy 28 làm chuẩn để tính sự SAI BIỆT => |28-25| = 3 .

SAI SỐ là 3 (LẼ) Dương nên phân phối NGHỊCH 3 cung từ cung Thân nơi 28 làm chuẩn - nghĩa là ngày 25 an ở cung Tị

Nếu là ngày 26 thì sự SAI BIỆT => |28-25| = 2;

SAI SỐ là 2 (CHẴN) Âm nên phân phối THUẬN 2 cung từ cung Thân nơi 28 làm chuẩn - nghĩa là ngày 26 an ở cung Tuất

Nếu là ngày 27 thì sự SAI BIỆT => |28-27| = 1;

SAI SỐ là 1 (LẼ) Dương nên phân phối NGHỊCH 1 cung từ cung Thân nơi 28 làm chuẩn - nghĩa là ngày 27 an ở cung Mùi

Đây là anh lý luận kiểu đồng tình với những gì đã được ghi tải: 3,4,5 là Mộc, Kim, Thổ rồi vì tiến thoái biến dịch của ngũ hành kiểu nào mà anh kết luận gọn lẹ: Thủy lấy 2 - Hỏa lấy 6 ??

Nói đến Âm Thổ hay Dương Thổ thì Mộc cũng có Âm Mộc và Dương Mộc vậy, thì anh Kyte lý giải sao thông cho hành Mộc vậy?

Anh Kyte nói về GIÓ kiểu này thì các em nhỏ học trong trường được giảng rằng: GIÓ - là không khí di chuyển từ nơi khí Áp Cao về nơi khí Áp Thấp; mà Khí thì lại là tập hợp của các nguyên tử hoặc phân tử v.v... sẽ khó mà lãnh hội đi mất!

Anh nói vậy, thì khi cái bếp trong nhà chưa được MỞ lên - khí gì đang ở đó? Khí lạnh phải chăng? Các phòng đều có khí lạnh như thế ... ?? Bếp MỞ lên, không khí ẤM dần và lan tỏa đi đến các phòng khác nên cả nhà ẤM lên hết ... thì lý ra là khí ẤM di chuyển theo kiểu Nóng trưởng Lạnh tiêu, đến khi củi cháy tàn Nóng tiêu Lạnh trưởng chứ không chỉ Khí theo lửa mà tới ... Khí theo nước mà đi đâu. Thiết nghĩ, Tới/Đi chẳng qua đó là lý Tiêu/Trưởng vậy thôi, chứ gì mà Lửa tới, Nước đi v.v...

Vụ Đông-Nam phương hướng này đã có lần hỏi anh ở đây mà vẫn chưa thấy anh giải thích gì thêm cho sáng nghĩa:

http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...amp;#entry48623

Anh Kyte có thế tiếp tục được không?

Anh lý luận:

(tuổi Thân ,Tý ,Thìn thuộc Thủy cục an năm sinh ở Tuất là vỉ Tuất là thổ của phương Kim-Thân Dậu Tuất là phương Kim)

Tuổi (Thân-Tý-Thìn) thuộc tam hợp Thủy dùng cung Tuất (Thổ) để khởi năm SINH ở phương Tây (Thân-Dậu-Tuất) :: KIM

Kim sinh Thủy ư? Tuất THỔ sinh KIM phương - Ngũ Hành phương sinh tam hợp tuổi thuộc THỦY ???

(tuổi Dần ,Ngọ,Tuất thuộc hỏa cục an năm sinh ở Thìn vì Thìn là Thổ của phương Mộc)

Tuổi (Dần-Ngọ-Tuất) thuộc tam hợp Hỏa dùng cung Thìn (Thổ) để khởi năm SINH ở phương Đông (Dần-Mão-Thìn) :: MỘC

Mộc sinh Hỏa ư? Thìn THỔ sinh MỘC phương được ư - Ngũ Hành phương sinh tam hợp tuổi thuộc HỎA ???

(Hợi Mão Mùi là mộc cục an năm sinh tại Sửu vì Sửu là thổ của phương Thủy)

Tuổi (Hợi-Mão-Mùi) thuộc tam hợp Mộc dùng cung Sửu (Thổ) để khởi năm SINH ở phương Bắc (Hợi-Tí-Sửu) :: THỦY

Thủy sinh Mộc ư? Sửu THỔ sinh THỦY phương được ư - Ngũ Hành phương sinh tam hợp tuổi thuộc MỘC ???

(Tỵ Dậu Sửu thuộc kim cục an năm sinh ở Mùi vì Mùi là thổ của Hỏa mà nơi đó Thổ được sinh ra)

Tuổi (Tỵ-Dậu-Sửu) thuộc tam hợp Kim dùng cung Mùi (Thổ) để khởi năm SINH ở phương Nam (Tỵ-Ngọ-Mùi) :: HỎA

Thổ sinh Kim ư? Mùi THỔ sinh Hỏa phương được ư - Ngũ Hành phương Hỏa sin Mùi THỔ sinh tam hợp tuổi thuộc KIM ???

Duyệt lại lý luận trên, lý anh Kyte muốn nói lý nào cho Nhất Quán?

Thẩm tra lại thì thấy như sau:

- Các tuổi (tam hợp THỦY) Thân, Tí, Thìn: Tam tai tại các năm : Dần, Mão, Thìn (Đông phương MỘC).

- Các tuổi (tam hợp HỎA) Dần, Ngọ, Tuất: Tam tai tại các năm : Thân, Dậu Tuất (Tây phương KIM).

- Các tuổi (tam hợp MỘC) Hợi, Mão, Mùi: Tam tai tại những năm : Tỵ, Ngọ, Mùi (Nam phương HỎA).

- Các tuổi (tam hợp KIM) Tỵ, Dậu, Sửu : Tam tai tại những năm : Hợi, Tý, Sửu (Bắc phương THỦY).

Nếu chi tiết hơn:

- Các tuổi (tam hợp THỦY) Thân, Tí, Thìn:

SINH ở Thân, Dậu Tuất (Tây phương KIM) : TỬ ở Dần, Mão, Thìn (Đông phương MỘC).

- Các tuổi (tam hợp HỎA) Dần, Ngọ, Tuất:

SINH ở Dần, Mão, Thìn (Đông phương MỘC) : TỬ ở Thân, Dậu Tuất (Tây phương KIM).

- Các tuổi (tam hợp MỘC) Hợi, Mão, Mùi:

SINH ở Hợi, Tý, Sửu (Bắc phương THỦY) : TỬ ở Tỵ, Ngọ, Mùi (Nam phương HỎA).

- Các tuổi (tam hợp KIM) Tỵ, Dậu, Sửu :

SINH ở Tỵ, Ngọ, Mùi (Nam phương HỎA) : TỬ ở Hợi, Tý, Sửu (Bắc phương THỦY).

thì có sự liên quan nhất quán gì, anh Kyte có thể đi sâu hơn?

Sapa

Chào bạn,

Dịch như nàng con gái đẹp, mỗi người đều CẢM cái đẹp rất khác nhau và tôi luôn tôn trọng cái Cảm đó của mọi người.

Bạn nói gió là sự vận chuyển của không khí thì thời nay em bé cũng biết điều đó nhưng vào thời những người làm Dịch thì họ gọi đó là THẦN.Thần Gió , Thần núi , thần sông ...

Dịch là bộ Kinh nói về bói toán ,, Vu thuật không phải là bộ Kinh tranh luận về khoa học hay định nghĩa khoa học. Nếu như bạn nói về khoa học nguyên tử thì bạn không nên đọc Kinh Dịch mà nên xem các sách viết về khoa học, không chừng bạn sẽ nổi danh về lãnh vực này. Điều mà tôi cần nói là HỌC DỊCH NÊN HỌC BẰNG TÂM.

Nhữngn gì bạn hỏi thì bạn đã tự trả lời . Tôi miễn bình luận.

Thân ái kính chào!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào bạn,

Dịch như nàng con gái đẹp, mỗi người đều CẢM cái đẹp rất khác nhau và tôi luôn tôn trọng cái Cảm đó của mọi người.

Bạn nói gió là sự vận chuyển của không khí thì thời nay em bé cũng biết điều đó nhưng vào thời những người làm Dịch thì họ gọi đó là THẦN.Thần Gió , Thần núi , thần sông ...

Dịch là bộ Kinh nói về bói toán ,, Vu thuật không phải là bộ Kinh tranh luận về khoa học hay định nghĩa khoa học. Nếu như bạn nói về khoa học nguyên tử thì bạn không nên đọc Kinh Dịch mà nên xem các sách viết về khoa học, không chừng bạn sẽ nổi danh về lãnh vực này. Điều mà tôi cần nói là HỌC DỊCH NÊN HỌC BẰNG TÂM.

Nhữngn gì bạn hỏi thì bạn đã tự trả lời . Tôi miễn bình luận.

Thân ái kính chào!

Tôi thấy rất nhiều người học bằng cái "tâm" như anh Kate. Ít nhất thì họ nói như thế. Và cũng đạt đến cái vô thượng - ít nhất họ nói như thế. Và thiên hạ cũng chỉ biết đến đấy, vì chỉ nghe được họ nói như thế.

Share this post


Link to post
Share on other sites