hkeikun

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    379
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by hkeikun

  1. 7- TRUYỆN CÂY CAU Thời thượng cổ có một vị quan lang sức vóc cao lớn, nhà vua ban tên là Cao cho nên lấy Cao làm họ. Cao sinh hạ được hai người con trai, con cả tên là Tân, con thứ tên là Lang. Hai anh em giống nhau như đúc, trông không thể phân biệt nổi. Đến năm 17, 18 tuổi, cha mẹ đều từ trần, hai anh em đến theo học đạo sĩ Lưu Huyền. Nhà họ Lưu có người con gái tên là Liên, tuổi cũng khoảng 17, 18. Hai anh em thấy nàng thì rất vừa ý, muốn kết làm vợ chồng. Nàng chưa biết người nào là anh, mới bày một chậu cháo và một đôi đũa, cho hai anh em cùng ăn, Người em nhường anh ăn trước. Nàng về nói với cha mẹ xin làm vợ người anh. Khi cùng ở với nhau, người anh thường lạt lẽo với em. Người em tự lấy làm tủi hổ, cho rằng anh lấy vợ rồi thì quên mình, bèn không cáo biệt mà bỏ đi về quê nhà. Đi tới giữa rừng, gặp một dòng suối sâu mà không có thuyền để qua, đau đớn khóc lóc mà chết, hóa thành một cây mọc ở cửa sông. Người anh ở nhà không thấy em bèn đi tìm. Tới chỗ đó, gieo mình chết ở bên gốc cây, hóa thành phiến đá nằm ôm lấy gốc cây. Người vợ đi tìm chồng, tới chỗ này cũng gieo mình ôm lấy phiến đá mà chết, hóa thành một cây leo cuốn quanh thân cây và phiến đá, lá có mùi thơm cay. Cha mẹ nàng họ Lưu đi tìm con tới đây, đau xót vô cùng, bèn lập miếu thờ. Người trong vùng hương hỏa thờ cúng, ca tụng anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa. Khoảng tháng bảy tháng tám, khí nóng chưa tan, Hùng Vương đi tuần thú, nhân dừng chân nghỉ mát ở trước miếu, thấy cây lá xum xuê, giây leo chằng chịt, tự đưa lên miệng nhai, nhổ bọt lên phiến đá, thấy có sắc đỏ, mùi vị thơm tho, Vương bèn sai đốt đá lấy vôi mà ăn cùng với quả và lá dây leo, thấy mùi vị thơm ngon, môi đỏ má hồng, biết là vật quý, bèn lấy mang về. Ngày nay cây thường trồng ở khắp nơi, đó chính là cây cau, cây trầu không và vôi vậy. Về sau, người nước Nam ta phàm cưới vợ gả chồng hay lễ tết lớn nhỏ đều lấy trầu cau làm đầu. Nguồn gốc cây cau là như thế đó.
  2. 6- TRUYỆN MỘC TINH Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây chiên đàn cao hơn ngàn trượng cành lá xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn rậm. Có chim hạc bay đến đậu nên đất chỗ đó gọi là đất Bạch Hạc. Cây trải qua hàng mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay đổi hình dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật. Kinh Dương Vương dùng nhạc mà đánh thắng yêu, yêu hơi chịu nhún nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ, hàng năm tới ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, dân mới được yên ổn. Dân thường gọi yêu là thần Xương Cuồng. Biên giới tây nam giáp liền với nước Mi Hầu, vua Hùng Vương sai dân man Bà Lô (nay là phủ Diễn Châu) hàng năm bắt giống người lão tử sống ở khe núi tới tiến, không thể thay đổi được lệ ấy. Kíp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu làm quan lệnh ở Long Xuyên, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận. Đến đời vua Đinh Tiên Hoàng có pháp sư Văn Du Tường vốn người phương bắc, đức hạnh thanh cao, đã từng đi qua nhiều nước, biết được tiếng các dân man, học được thuật làm nanh vàng và răng đồng, năm hơn 80 tuổi sang nước Nam ta. Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư bèn dạy cho nghề tạp kỹ để làm trò vui cho thần Xương Cuồng xem mà giết y. Đoàn tạp kỹ này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Hiểm, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Câu. Hàng năm tới tháng 11 lại dựng lầu Phi Vân cao 20 thước, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây chão dài 136 thước, đường kính rộng 2 tấc, lấy mây mà quấn ngoài rồi chôn hai đầu dây xuống đất, giữa gác lên cây. Thượng Kỵ đứng lên trên dây mà chạy nhanh 3,4 lần, đi đi lại lại mà không ngã. Kỵ đầu đội khăn đen, mình mặc quần đen. Dây của Thượng Can dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba. Can hai tay cầm hai cán cờ. Hai người đi trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì lại tránh, lên xuống mà không ngã. Khi thì Thượng Đát lấy một tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên trên cây cao 17 thước 3 tấc, Đát đứng ở trên nhảy 2, 3 cái, tiến tiến lùi lùi điên đảo. Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng hình như cái lờ bắt cá, dài 5 thước, tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà lăn. Khi thì Thượng Câu vỗ tay nhảy nhót, la hét kêu gào, chuyển động chân tay, vỗ đùi vỗ bụng, tiến lùi lên xuống, hoặc cưỡi ngựa bôn tẩu, cúi mình xuống lấy vật ở dưới đất mà không ngã. Khi thì Thượng Hiểm ngả mình nằm ngửa lấy thân đỡ một cái gậy dài rồi cho đứa trẻ trèo lên mà không rớt xuống. Khi thì cho bọn ca hát gõ trống khua chiêng, ca múa rầm rĩ. Lại giết súc vật mà tế. Thần Xương Cuồng tới, thấy thế bèn đến xem, pháp sư đọc mật chú rồi lấy kiếm mà chém. Thần Xương Cuồng cùng bộ hạ đều chết hết, không thể trở lại thành yêu nữa. Lệ tiến lễ hàng năm bèn bỏ, dân lại sống yên lành như xưa.
  3. 5- TRUYỆN NHẤT DẠ TRẠCH Hùng Vương truyền tới đời thứ ba thì sinh hạ được người con gái tên là Tiên Dung mỵ nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy chồng mà chỉ vui chơi, chu du khắp thiên hạ. Vua cũng không cấm đoán nàng. Mỗi năm vào khoảng tháng hai tháng ba lại sắm sửa thuyền bè chèo chơi ở ngoài bể, vui quên trở về. Hồi đó ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử, cha từ con hiếu, nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn lại một khố vải cha con ra vào thay nhau mà mặc. Kíp tới lúc cha lâm bệnh, bảo con rằng: "Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con". Con không nỡ làm theo, dùng khố mà liệm bố. Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở bên sông hễ nhìn thấy có thuyền buôn qua lại thì đứng ở dưới nước mà ăn xin, khi thì câu cá độ thân không ngờ thuyền Tiên Dung xốc tới, chiêng trống nhã nhạc, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử rất kinh sợ. Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm ba cây, Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên mình. Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây màn ở khóm lau mà tắm. Tiên Dung vào màn, cởi áo dội nước, cát trôi mất, trông thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu, thấy là con trai bèn nói: "Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là do trời xui nên vậy. Người hãy đứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn mừng". Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa từng có. Đồng Tử bảo: "Đâu dám như vậy!" Tiên Dung ta thán, ép làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: "Đây do trời chắp nối, sao cứ chối từ?". Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng Vương nói: "Tiên Dung không thiết tới danh tiết, không màng tới của cải của ta, ngao du bên ngoài, hạ mình lấy kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa". Tiên Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ, lập phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ Thám, còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới buôn bán tấp nập, thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu nói rằng: "Quí nhân bỏ một dật vàng ra ngoài bể mua vật quí, sang năm có thể thành mười dật". Tiên Dung cả mừng bảo Đồng Tử: "Vợ chồng chúng ta do trời tác thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho, nay hãy đem vàng cùng phú thương ra bể buôn bán". Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé lại đó uống nước. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên gọi Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử lưu học ở đó, giao tiền cho lái buôn mua hàng. Sau lái buôn quay lại am chở Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng: "Linh thiêng ở những vật này đây". Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật. Tiên Dung bèn giác ngộ, bỏ phố phường, chợ búa, cơ nghiệp, rồi cả hai đều tìm thầy học đạo. Trên đường viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ ở giữa đường, cắm trượng che nón mà trú thân. Đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, vàng bạc châu báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ, la liệt trước mắt. Sáng hôm sau, ai trông thấy cũng kinh lạ, đem hương hoa, ngọc thực tới dâng mà xin làm bề tôi. Có văn võ bách quan chia quân túc vệ, lập thành nước riêng. Hùng Vương nghe tin, cho rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới đánh. Quần thần xin đem quân ra phân nhau chống giữ. Tiên Dung cười mà bảo: "Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó thôi, sinh tử tại trời, há đâu dám chống lại cha, chỉ xin thuận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm chém giết". Lúc đó, dân mới tới đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân cũ ở lại. Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì trời tối không kịp tiến quân. Nửa đêm, gió lớn thổi bay cát nhổ cây, quan quân hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay tản lên trời, đất chỗ đó sụt xuống thành cái chằm lớn. Về sau, dân lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi chằm là chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù, gọi chợ là chợ Thám còn gọi là chợ Hà Lương. Sau vua Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đêm quân xâm lược phương Nam. Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục đem quân nấp ở chằm. Chằm sâu mà rộng, quân địch vướng mắc, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: "Ngày xưa nơi đây là chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp đoạt người". Nhân gặp loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tì tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt, Quang 29 30 Prev Page 13 Next Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: "Hiển linh còn đó, ngươi có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn". Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo: "Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt". Đoạn bay lên trời mà đi. Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn ở trước trận, giặc Lương phải lùi. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Triệu Việt Vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh.
  4. 4- TRUYỆN ĐỔNG THIÊN VƯƠNG Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận Bắc phương. Vua nhà ân mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng: sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp! Vua nghe lời, bèn lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày. Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa. Những người trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng không nói năng. Vua nhân hỏi: "Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp". Cụ già ngồi im một lúc, rút thẻ ra bồi, bảo vua rằng: "Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy". Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói dỡn rằng: "Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm". Người con nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo: "Mẹ gọi sứ giả tới đây". Người mẹ rất lấy làm kinh ngạc, kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ giả hỏi: "Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?". Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: "Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa?". Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói rằng: "Ta không lo nữa". Quần thần tâu: "Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?". Vua nổi giận nói: "Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón". Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng: "Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo". Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy cao hơn mười thước (có chỗ nói là trượng) ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: "Ta là thiên tướng đây!" rồi đội nón cưỡi ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy máy đã tới trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy thiên tướng rồi cùng đến hàng phục. ân vương bị chết ở trong trận. Đi đến đất Sóc Sơn huyện Kim Hoa, thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, hôm đó là ngày mồng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa. Nhà ân đời đời, 644 năm không dám ra quân. Sau Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần Vương, lập miếu ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ. Tới đời vua Thuần Đế nhà Lê, ở xã Phù Lỗ có người con gái tên là Ngô Chi Lan chăm đọc sách, rành văn chương, thơ ca điêu luyện, nhân đi dạo chơi tới núi này có đề bài thơ rằng: Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn, Vạn tía muôn hồng rỡ thế gian. Ngựa sắt bay rồi tên vẫn đó, Anh hùng sống mãi với giang san. (Dịch ý)
  5. 3- TRUYỆN HỒ TINH Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi thượng cổ không có người ở. Vua Thái Tổ nhà Lý chèo thuyền ở bến sông Nhĩ Hà, có hai con rồng dẫn thuyền đi, cho nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô ở đấy, ngày nay tức là thành Kinh Hoa vậy. Xưa ở phía tây thành có hòn núi đá nhỏ, phía đông gối lên sông Lô Giang. Trong hang, dưới chân núi, có con cáo trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể hóa thành yêu quái, thành người hoặc thành quỉ đi khắp nhân gian. Thời đó, dưới chân núi Tản Viên, người Mán chôn gỗ kết cỏ làm nhà. Trên núi có vị thần rất linh thiêng, người Mán thường thờ phụng. Thần dạy người Mán trồng lúa, dệt vải làm áo trắng mà mặc cho nên gọi là Bạch Y Man (mán áo trắng). Con cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập vào giữa đám dân Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái trốn vào trong hang núi. Người Mán rất khổ sở. Long Quân bèn ra lệnh cho lục bộ thủy phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy, quân thủy phủ đuổi theo, phá hang bắt cáo mà nuốt ăn. Nơi này trở thành một cái vũng sâu gọi là "đầm xác cáo" (tức Tây Hồ ngày nay). Sau lập miếu (tức Kim Ngưu Tự) để trấn áp yêu quái. Cánh đồng phía Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng trọt làm ăn, nay gọi là Hồ Đỗng (hang cáo). Đất ở đây cao ráo, dân làm nhà mà ở nay gọi là Hồ Thôn (thôn Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ Khước Thôn.
  6. 2- TRUYỆN NGƯ TINH ở biển Đông có con tinh ngư xà (còn gọi là Ngư Tinh) dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người nên ai cũng sợ. Đời thượng cổ có con cá dung mạo như người, đi tới bờ Đông Hải, sau biến thành người, biết nói năng, dần dần lớn lên, sinh ra nhiều con trai con gái, hay bắt cá, tôm, sò, hến mà ăn. Lại có giống Đản Nhân sống ở một cái gò dưới bể, chuyên nghề bắt cá, sau cũng biến thành người, giao dịch với man dân đổi lấy thóc gạo, dao, búa, thường qua lại ở Đông Hải. Có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, ở dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở trong đó. Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở một đường đi khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền của nhân dân đi qua chỗ này thường hay bị Ngư Tinh làm hại. Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi để cho hành nhân có chỗ qua lại. Ngư Tinh bèn hóa làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng ngỡ rằng đã rạng đông bèn cùng bay lên trời. Tới nay người ta gọi lối đi ấy là Phật Đào Hạng (ngõ Phật đào). Long Quân thương dân bị hại bèn hóa phép thành một chiếc thuyền của thường dân, hạ lệnh cho quỉ Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ còn cái đầu trôi ra ngoài bể biến thành con chó. Long Quân bèn lấy đá ngăn bể rồi chém nó. Nó biến thành cái đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, chỗ đó nay gọi là Mạn Cầu Thủy (còn gọi là Cẩu Đầu Thủy).
  7. 1- TRUYỆN HỒNG BÀNG THỊ Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi. Lại phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để trị đất Nam, lấy hiệu nước là Xích Quá. Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất. Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! sao không lại cứu chúng tôi". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị Bắc phương. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quần thần là bọn Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam. Khi đó, Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có chúa. Đế Lai bèn để ái nữ là âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc... các thứ đá quý, các cây trầm, đàn cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng, Đế Lai rất ái mộ, vui quên trở về. Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân". Long Quân đột nhiên trở về, thấy âu Cơ có dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống. Cung điện tự nhiên dựng lên. âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu âu Cơ ở Long Đài. Nham Đế Lai trở về, không thấy âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm hình vạn trạng yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi... làm cho bọn đi tìm đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về. Truyền ngôi đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết. Long Quân lấy âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy Quốc vợ con thường muốn về đất Bắc. Về tới biên giới, hoàng đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con âu Cơ không thể về được bèn quay về nước Nam mà gọi Long Quân rằng: "Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này". Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương. âu Cơ nói: "Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình". Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia lá. Ta đem năm mươi con về Thủy Phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên". Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt mà đi. âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: "Giống sơn man và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó". Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó, dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy. Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đó trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.
  8. 1. Lạc Long Quân và Âu Cơ Cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên Sùng làm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lâm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi. Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng. Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ. Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hóa thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn. Lạc long quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó. Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ. Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn. Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống làm nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng. Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! " Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về. Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi, hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc. Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời. Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thủy phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về, nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: "Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này". Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng: - Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não. Lạc Long Quân nói: - Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên. Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương. Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.
  9. 7. Trái Dưa Hấu Ngày xưa, Vua Hùng Vương thứ 18 có nuôi một đứa trẻ thông minh khôi ngô, đặt tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm. Lớn lên, vua cưới vợ cho An Tiêm, và tin dùng ở triều đình. Cậy nhờ ơn Vua cha, nhưng An Tiêm lại kiêu căng cho rằng tự sức mình tài giỏi mới gây dựng được sự nghiệp, chứ chẳng nhờ aị Lời nói này đến tai vuạ Vua cho là An Tiêm là kẻ kiêu bạc vô ơn, bèn đầy An Tiêm cùng vợ con ra một hòn đảo xa, ở ngoài biển Nga Sơn (Thanh Hoá, Bắc Việt). Người vợ là nàng Ba lo sợ sẽ phải chết ở ngoài cù lao cô quạnh. Nhưng An Tiêm thì bình thản nói: "Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta, việc gì phải lo". Hai vợ chồng An Tiêm cùng đứa con đã sống hiu quạnh ở một bãi cát, trên hoang đảọ Họ ra sức khai khẩn, trồng trọt để kiếm sống. Một ngày kia, vào mùa hạ, có một con chim lạ từ phương tây bay đến đậu trên một gò cát. Chim nhả mấy hạt gì xuống đất. Được ít lâu, thì hạt nẩy mầm, mọc dây lá cây lan rộng. Cây nở hoa, kết thành trái tọ Rất nhiều trái vỏ xanh, ruột đỏ. An Tiêm bảo vợ: "Giống cây này tự nhiên không trồng mà có. Tức là vật của Trời nuôi ta đó". Rồi An Tiêm hái nếm thử, thấy vỏ xanh, ruột đỏ, hột đen, mùi vị thơm và ngon ngọt, mát dịụ An Tiêm bèn lấy hột gieo trồng khắp nơi, sau đó mọc lan ra rất nhiềụ Một ngày kia, có một chiếc tầu bị bão dạt vào cù laọ Mọi người lên bãi cát, thấy có nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đó, tiếng đồn đi là có một giống dưa rất ngon ở trên đảọ Các tầu buôn tấp nập ghé đến đổi chác đủ thứ vật dụng và thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống phong lưụ Vì chim đã mang hột dưa đến từ phương Tây, nên An Tiêm đặt tên cho thứ trái cây này là Tây Quạ Người Tầu ăn thấy ngon, khen là "hẩu", nên về sau người ta gọi trại đi là Dưa Hấụ Ít lâu sau, Vua sai người ra cù lao ngoài biển Nga Sơn dò xét xem gia đình An Tiêm ra làm sao, sống hay chết. Sứ thần về kể lại cảnh sống sung túc và nhàn nhã của vợ chồng An Tiêm, nhà vua ngẫm nghĩ thấy thầm phục đứa con nuôi, bèn cho triệu An Tiêm về phục lại chức vị cũ trong triều đình. An Tiêm đem về dâng cho Vua giống dưa hấu mà mình may mắn có được. Rồi phân phát hột dưa cho dân chúng trồng ở những chỗ đất cát, làm giầu thêm cho xứ Việt một thứ trái cây danh tiếng. Hòn đảo mà An Tiêm ở, được gọi là Châu An Tiêm.
  10. 6. Trọng Thủy Mỵ Châu Thời vua AnĐương-Vương, dân chúng xây thành Cổ-Loa ngăn chặn giặc phương Bắc. Xây mãi không xong, nhà vua bèn lập đàn cầu tế. Trong lúc đó, một vị thần hiện ra dưới bóng con rùa vàng - tục ngữ gọi là thần Kim-Quy - và dạy nhà vua cách xây thành. Thành xây xong, thần Kim-Quy còn tặng nhà vua chiếc nỏ thần để bắn địch. Giặc phương Bắc lại ùn ùn kéo quân xâm nhập nước ta, nhưng lần nào cũng rước lấy thảm bạị Tướng giặc là Triệu Đà vô cùng tức giận. Hắn bèn nghĩ ra một kế. Xin giao hòa với nước ta rồi sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu hôn với con gái vua AnĐương Vương tên là Mỵ-Châụ Thâm ý của Triệu Đà là sẽ dùng con trai mình làm mật thám trong việc đánh chiếm nước tạ Ngày tình, vua AnĐương-Vương chấp thuận điều nghị -hòa và bằng lòng nhận lời cầu hôn của Trọng Thuỷ. Trong luc' hàn huyên, Mỵ-Châu kể lại cho chồng nghe chuyện xây thành Cổ-Loa và chiếc nỏ thần. Một hôm, nhân lúc Mỵ - Châu sơ ý, Trọng Thuỷ lấy trộm chiếc nỏ thần và thay một chiếc giả vào đó, rồi xin phep vua An Dương Vương về thăm cha mẹ Lúc ra đi, Trọng Thuỷ căn dặn Vợ : - Trong lúc anh vắng nhà, nếu có chiến tranh em hãy mặc áo lông ngỗng vàọ Khi chạy giặc, em đừng quên rắc lông ngỗng xuống đường. Anh sẽ theo vết lông nghỗng đi tìm em. Về tới nhà, Trọng Thuỷ liền giao chiếc nỏ thần cho chạ Nắm được chiếc nỏ thần trong tay, Triệu Đà lập tức kéo quân sang đánh nước tạ Thấy giặc kéo đến, An Dương-Vương không tỏ vẻ sợ hãi, bình tĩnh lấy nỏ thần ra bắn. Nhưng lạ thay, đoàn giặc vẫn ào ào xông tới trước các mũi tên bắn rạ Nỏ thần đã trở thành vô hiệụ Hoảng sợ, nhà vua bèn ôm Mỵ-Châu lên sau yên ngựa chạy trốn về hướng Nam. Mỵ Châu ngồi sau yên ngựa, rứt lông ngỗng rải xuống đường. Nhà vua chạy đến đâu, giặc theo vết lông ngỗng rượt theo đến đó. Đến núi Mộ Dạ cụt đường, nhà vua định tự tử thì thần Kim Quy hiện lên bảo: - Tâu bệ Hạ, giặc ngồi ngay sau lưng Bệ Hạ kìa ! An Dương Vương quay lại, thấy Mỵ Châu, hiểu ra sự việc, bèn tức giận rút gươm chém đứt đầu con gáị Sau đó, nhà vua phi ngựa nhảy xuống biển tự tử. Theo dấu lông ngỗng, Trọng Thuỷ tới được chân núi Mộ Dạ thì thấy Mỵ-Châu chỉ còn là một xác không hồn. Quá hối hận về việc mình đã làm, Trọng Thuỷ ôm xác vợ khóc nức nở, rồi gieo mình xuống một giếng gần đó. Hiện nay gần thành Cổ-Loa (Bắc Việt) giếng đó vẫn còn. Khách bộ hành đi qua dừng chân nhìn xuống đáy giếng nước trong veo, không khỏi bùi ngùi nhớ lại câu chuyện thương tâm của cặp vợ chồng Mỵ Châu Trọng Thuỷ.
  11. 5. Chử Đồng Tử Ngày xưa, vua Hùng Vương thứ ba có một người con gái nhan sắc như tiên, đặt tên là Tiên Dung. Tiên Dung rất đẹp, song tự nguyện không lấy chồng, chỉ ham thích phong cảnh, thường đi du lịch khắp nơi trong nước. Được vua cha nuông chiều, mỗi năm vào độ mùa xuân Tiên Dung ngồi thuyền du ngoạn, có khi ra tận ngoài biển, lắm lúc mê cảnh đẹp quên về. Thuở ấy, ở làng Chử Xá (thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay) có người tên là Chử Cù Vân và con trai tên là Chử Đồng Tử. Hai cha con thương mến nhau rất thắm thiết. Nhà họ Chử vốn nghèo lại càng thêm sa sút sau một trận cháy, trong nhà chỉ còn mỗi một chiếc khố. Hai cha con phải thay phiên nhau mà mặc mỗi khi ra ngoài. Khi người cha bị bệnh nặng sắp mất, dặn con giữ khố lại, còn cứ chôn mình xác trần. Chử Đồng Tử không nỡ để cha chết trần truồng, dùng chiếc khố độc nhất liệm cha mà đem chôn. Từ đó Chử Đồng Tử không có gì che thân, đợi đến đêm mới đi ra câu cá, ban ngày thì dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền để bán cá hoặc xin ăn. Một hôm, thuyền rồng chở công chúa Tiên Dung đến vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy cờ quạt, người hầu rầm rộ, Chử Đồng Tử hoảng sợ, chui vào bụi lau ở bãi cát bờ sông, nấp mình xuống đó rồi phủ cát lên che người. Thuyền rồng ghé vào bờ, Tiên Dung lên chơi trên bãi, thấy cảnh thanh tú, sai người hầu quây màn ở bụi lau để làm nơi cho mình tắm, đúng ngay vào chỗ Chử Đồng Tử nấp. Đến khi Tiên Dung xối nước, cát trôi để lộ thân hình trần truồng của người trai lạ. Nàng ngạc nhiên hỏi chuyện mới rõ tình cảnh của Chử Đồng Tử, nghĩ ngợi bảo chàng: "Tôi đã định không lấy chồng, nay tình cờ gặp anh thế này, chắc do là trời xui khiến. Anh dậy mà tắm rửa đi!" Rồi Tiên Dung lấy quần áo trao cho Chử Đồng Tử mặc để cùng xuống thuyền ăn uống. Người ở trên thuyền hiểu chuyện, cho là một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Tiên Dung nghĩ là duyên tiền định, đòi kết làm vợ chồng. Chử Đồng Tử cho là phận mình thấp hèn, không dám nhận lời, Tiên Dung nói: "Đây là do trời tác hợp, sao anh lại từ chối"? Rồi hôn lễ giữa nàng công chúa với anh chàng trần như nhộng cử hành ngay trên sông. Tin đưa về kinh đô, Hùng Vương giận dữ nói với triều thần: "Con gái ta không kể danh tiết, hạ giá lấy kẻ nghèo hèn, còn mặt mũi nào mà trông thấy ta nữạ Từ nay mặc cho nó muốn đi đâu thì đi, không được về cung". Tiên Dung biết vua cha tức giận, sợ không dám về, bèn cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Lâu dần mở mang thành chợ lớn, gọi là chợ Hà Thám, có phố xá khách buôn nước ngoài lui tới giao thương ngày càng phồn thịnh. Một hôm có khách buôn bán đến rủ Tiên Dung đem vàng cùng ra nước ngoài mua hàng về bán sẽ có lãi tọ Tiên Dung mới bảo chồng rằng: "Chúng ta lấy nhau là do trời định, cơm áo cũng do trời cho. Vậy việc này âu cũng là trời xui khiến, chúng ta nên làm". Chử Đồng Tử bèn cùng khách buôn nọ ra đị Đến một hòn núi giữa biển gọi là núi Quỳnh Tiên, thuyền ghé lấy nước ngọt, Chử Đồng Tử vui chân trèo lên cái am nhỏ trên núi gặp một đạo sĩ trẻ tên là Phật Quang. Chuyện trò ý hợp tâm đầu, Chử Đồng Tử theo lời Phật Quang giao vàng nhờ khách buôn đi mua hàng còn mình thì ở lại đây học đạo. Đến khi thuyền trở lại, Chử Đồng Tử theo về đất liền. Khi từ giã, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cái gậy, một cái nón và bảo: "Đây là vật thần thông". Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán để cùng chồng đi tìm thày học đạo. Một hôm trời tối, hai vợ chồng đi đã mệt mà chưa thấy nhà cửa đâu, mới dừng bước lại, cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ. Vào khoảng nửa đêm, tự nhiên chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu ngọc và kho tàng đầy đủ của cải, màn gấm chiếu hoa, không thiếu một thứ gì. Lại thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xum xít quanh hai vợ chồng. Sáng hôm sau, dân ở quanh vùng đều lấy làm kinh dị, mang hương hoa thực phẩm đến xin làm tôị Họ vào thành thấy các quan văn võ, lính tráng tấp nập đông đảo như một nước riêng. Hùng Vương được tin báo cho là con gái làm loạn, vội phái quân đi đánh. Đoàn quân sĩ nhà vua gần tới nơi, bộ hạ Tiên Dung xin ra chống cự, nàng cười mà bảo rằng: "Tất cả mọi việc đều do ở trời chứ không phải tự tạ Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống hay chết đều nhờ ở trời, dẫu ta có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận". Trời đã tối, quân của Hùng Vương không kịp tấn công, dừng lại đóng ở bãi Tự Nhiên, cách đối phương một con sông lớn. Đến nửa đêm trời bỗng nổi bão, sóng gió cuồn cuộn, nhổ cây ở bãi, đại quân của Hùng Vương rối loạn. Trong chốc lát thành quách cung điện và bộ hạ của hai vợ chồng Tiên Dung đều bay cả lên trờị Sáng hôm sau, người ta kinh dị thấy chỗ đó đã hóa thành một cái đầm lớn. Dân chúng bèn lập đền thờ để cúng tế hàng năm, gọi đầm ấy là đầm Nhất Dạ (Một đêm), thuộc phủ Khoái Châu (Hưng Yên). Về sau, Triệu Quang Phục chống nhau với quân nhà Lương, lấy đầm này làm chỗ ẩn nấp để đánh nhau trong mấy năm trờị Đêm đêm quân của Quang Phục cỡi thuyền độc mộc tiến ra đánh úp làm cho quân giặc mỗi ngày một hao tổn. Một hôm Quang Phục lập đàn cầu thần phù hộ, bỗng thấy Chử Đồng Tử cỡi rồng giáng xuống hứa giúp diệt giặc, rồi trao cho Quang Phục một chiếc móng rồng bảo gắn vào mũ để làm bùa thiêng. Trận đó quả nhiên đại thắng, Quang Phục giết được tướng nhà Lương, quân giặc tan vỡ. Họ Triệu tự lập làm vua, tức là Triệu Việt Vương.
  12. 4. Sơn Tinh - Thủy Tinh Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên gọi là Mỵ Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Mỵ Nương được vua cha yêu thương rất mực. Nhà vua muốn kén cho nàng một người chồng thật xứng đáng. Một hôm có hai chàng trai đến, xin ra mắt nhà vua để cầu hôn. Một người ở vùng núi Ba Vì, tuấn tú và tài giỏi khác thường: chỉ tay về phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi. Nhân dân trong vùng gọi chàng là Sơn Tinh. Còn một người ở mãi tận miền biển Đông tài giỏi cũng không kém: gọi gió, gió đến, hò ma, ma tới - Chàng này tên gọi là Thủy Tinh. Một người là chúa của miền non cao, một người là chúa của vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng cả. Hùng Vương băn khoăn không biết nhận lời ai, từ chối ai. Nhà vua cho mời các quan lạc hầu vào bàn mà vẫn không tìm được kế hay. Cuối cùng, Hùng Vương phán rằng: - Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người nào? Ngày mai, nếu ai đem đồ sính lễ đến đây trước: một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, thì được rước dâu về. Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước và được phép đưa dâu về núi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo, một hai đòi cướp lại Mỵ Nương. Thủy Tinh hô ma, gọi gió, làm thành dông bão đùng đùng rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn tiến đánh Sơn Tinh. Nước ngập lúa, ngập đồng rồi ngập nhà, ngập cửa. Sơn Tinh không hề nao núng, dùng phép màu bốc từng quả đồi, di từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời liền, cuối cùng Thủy Tinh đuối sức phải rút quân về. Từ đó, oán ngày càng thêm nặng, thù ngày càng thêm sâu, không năm nào Thủy Tinh không làm mưa làm bão, dâng nước lên đánh Sơn Tinh và lần nào Thủy Tinh cũng thua, phải bỏ chạy. (Sưu tầm)
  13. 3. Sự Tích Trầu Cau Trichtu: http://www.vietxinhxinh.com/truyencotich/sutichtrau.htm Thời xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến lỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh ai là em. Năm hai anh em mười bảy mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết cả. Hai anh em vốn đã thương yêu ngau, nay gặp cảnh hiu quạnh, lại càng yêu thương nhau hơn trước. Không còn được cha dậy dỗ cho nữa, hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai anh em học hành chăm chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Ông Lưu có một cô con gái tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi tắn, con gái trong vùng không người nào sánh kịp. Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền, người con gái đem lòng yêu mến, muốn kén người anh làm chồng, nhưng không biết người nào là anh, người nào là em. Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái lấy một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người em nhường người anh ăn, người con gái mới nhận được ai là anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm chồng. Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng người vô tình không để ý đến Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với em hơn trước. Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi. Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Ði đến một con suối rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Ðêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá. Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tản đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá. ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của nàng. Ðêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá. Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay? Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ. Tình duyên của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mới lương duyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên tục cố hữu của dân tộc Việt Nam.
  14. 2. Bánh Dầy Bánh Chưng Trích từ http://VietMedia.com Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho". Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng. Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu (còn gọi là Lang Lèo) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nàọ Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con ngườị Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành" Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầỵ Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cáị Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18. Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
  15. Bình vôi - nét văn hoá cổ Việt Nam 28-6-2008 Căn nhà của Giáo sư Hà Tôn Vinh có thể coi như một bảo tàng về các cổ vật. Đặc biệt, bộ sưu tập bình vôi độc đáo với 300 chiếc thuộc những niên đại khác nhau không chỉ là thú chơi riêng của ông mà còn là di sản quý của văn hoá Việt Nam. Giáo sư Hà Tôn Vinh sưu tập các loại bình vôi với tâm niệm giản dị: bình vôi là đồ vật mang nét văn hóa - lịch sử đặc biệt, nó gắn liền với sự tích trầu cau và văn hóa ăn trầu của người Việt Nam. Trong các gia đình Việt Nam, nhất là những gia đình ở nông thôn, chiếc bình vôi thường được sử dụng nhiều trong sinh hoạt hàng ngày. Khi đã sử dụng lâu, vôi trong bình cứng hoặc bình rạn nứt thì chủ nhà sẽ mua bình mới. Bình vôi cũ được mang ra đặt cạnh các cây đa cổ thụ hoặc cạnh miếu thờ, đền thờ. Chiếc bình vôi gợi cho ta nhớ đến hình ảnh thân thương của người bà, người mẹ, nhớ đến những đám cưới hỏi mọi người quây quần xúm lại bổ cau, quệt vôi, têm trầu với tiếng cười, câu chuyện râm ran. Để có được bộ sưu tập bình vôi độc đáo này, Giáo sư Hà Tôn Vinh đã nhiều năm đi khắp các vùng, miền tìm tòi và sưu tầm các loại bình vôi. Trong bộ sưu tập của ông, có nhiều bình vôi cổ với hoa văn trang trí phong phú. Hình ảnh hoa cau, quả cau, lá trầu và các dây cau trên bình vôi vẫn giữ nguyên được nét màu. Cũng có loại bình mang hình cái ấm tích, hay chiếc lọ tùy theo ngẫu hứng của nghệ nhân làm bình vôi. Những bình vôi này được làm bằng gốm, sứ, có tráng men trắng hoặc xanh, trang trí bằng những hình vẽ màu nhẹ nhàng, thơ mộng. Cũng có chiếc khắc họa mấy nét cỏ cây, một dáng mây và một vẻ thôn xóm yên bình. Các hoa văn vẽ rồng cũng rất nhiều, biểu hiện sự vương giả, giàu sang, uy quyền và những điềm lành. Hoa văn trang trí xung quanh bình vôi thường là phong cảnh làng quê, cảnh chùa chiền, núi sông, con người trong lễ hội... Một số bình vôi màu men lục Chiếc bình vôi hơn 10 kg Kích cỡ bình vôi cũng khá đa dạng, có những chiếc cầm lọt tay nhưng có những chiếc phải dùng sức mạnh của tay mới nâng lên được. Bộ sưu tập hiện nay của Giáo sư Vinh có hai chiếc bình vôi to "kỷ lục", nặng trên 10kg, niên đại thế kỷ XIX và một chiếc bình vôi "độc nhất vô nhị" không phải vì hoa văn và kích cỡ mà vì cái bình này lại có lỗ cao đến hơn 20cm, vượt quai xách đến cả gang tay. Ông Vinh đã góp một số cổ vật cho các cuộc triển lãm ở Mỹ. Ông dự định mở một triển lãm ở trong nước mang tên "Văn hóa cổ của Việt Nam qua bình vôi" và đưa bộ sưu tập bình vôi ra nước ngoài triển lãm. Những chiếc bình vôi chứa đựng dấu ấn văn hoá gia đình, cộng đồng đã được tập hợp thành bộ sưu tập. Đó là tâm huyết, tình yêu của Giáo sư Hà Tôn Vinh góp phần gìn giữ di sản quý của Việt Nam. Theo Báo Ảnh Việt Nam
  16. Gặp gỡ vua bình vôi ở Tây Đô Anh Đoàn bên bộ sưu tập đồ cổ Trong nhóm người chơi cổ vật ở Tây Đô, anh Trần Quốc Đoàn, 50 tuổi ở phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn - TP. Cần Thơ là người được mệnh danh “Vua” bình vôi trên đất Tây Đô, vì anh đang sở hữu bộ sưu tập bình vôi cổ rất độc đáo. Trò chuyện với anh mới biết, “kho báu” cổ vật anh có được là nhờ vào cơ sở sản xuất tương chao gia truyền của gia đình. Anh Đoàn cho biết, anh chơi cổ vật cách đây 12 năm. Trong một lần tình cờ đọc được một tài liệu nói về cổ vật, nhất là tài liệu của nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển về những giá trị văn hóa của cổ vật nên rất mê. Từ đó, anh vừa sản xuất chao vừa lặn lội khắp vùng ĐBSCL để tìm mua cho bằng được những cổ vật xưa của người dân Nam Bộ. Anh cố công đi tìm từ chỗ những người bán ve chai lông vịt cho đến những cơ sở thu mua phế liệu những món đồ cổ, chủ yếu là bình vôi mà theo cách gọi linh thiêng của những cụ bà xưa là “Ông bình vôi”. Vì “Ông” có mặt hầu hết ở các gia đình người Việt cổ, không những “Ông” giữ cho vôi luôn được dẻo để giúp các cụ ăn trầu ngon miệng mà “Ông” còn là người chứng kiến bao thăng trầm của nhiều thế hệ gia chủ”. Bình vôi được sản xuất theo cấp bậc: gốm sứ xanh trắng, có hoa văn, họa tiết cầu kỳ dành cho chủ cả, bá hộ; loại trơn tru dành cho dân thường; loại màu xanh có nguồn gốc từ Trung Quốc dành cho quan lại, địa chủ, có cả những loại được làm bằng đồng thau. Bình gốm Cây Mai hình chim dùng trang trí bàn thờ Bình gốm Cây Mai hình con kỳ lân dùng để cắm nhang Bình vôi cổ Việt Nam thế kỷ 19 Bình vôi màu đỏ Hiện nay, bộ sưu tập “Ông bình vôi” của anh Đoàn có trên 200 cái với đủ loại kích cỡ, màu sắc và chất liệu, hầu hết được sản xuất từ thế kỷ 18 và 19 ở Việt Nam, Trung Quốc và kể cả của người Chiêm Thành. Hầu hết các bình vôi đều có quai xách được chạm vẽ hình nhiều loài hoa, loài cá, long - lân - quy - phụng, hổ, kỳ lân… Cái nào cũng có cái miệng để đổ vôi vào và lấy vôi ra ăn bằng cây chìa vôi (được làm bằng đồng, phía trên có nút gù vừa để cầm vừa để bịt kín miệng bình vôi không cho gió lọt vào làm đông vôi; còn phía dưới chìa vôi giống bàn chân chim Chìa Vôi, tiện cho việc têm vôi, quết trầu). Anh Đoàn cho biết thêm: Khoảng 3 năm trở lại đây, việc mua cổ vật, nhất là bình vôi, ở ĐBSCL rất khó. Một phần do người dân khá lên nên không còn mang đồ cổ gia truyền ra bán nữa; một phần do qua các phương tiện thông tin đại chúng, người dân biết thêm nhiều về giá trị lịch sử văn hóa cổ vật nên càng quý và không muốn bán. Nếu như khoảng 5-10 năm trước, những loại bình vôi cổ nầy từ vài chục đến vài trăm ngàn đồng/ cái, thì bây giờ mua cả triệu đồng chưa chắc được. “Tôi có được bộ sưu tập bình vôi cổ như bây giờ, quả là một sự may mắn lớn”, anh cười. Ngoài ra, anh Đoàn còn sở hữu trên 100 tấm sắc phong là những tấm văn bản do vua chúa triều Nguyễn phong thưởng cho các vị quan thần; bộ gốm men Lâm Quế trên 100 món gồm: tô, chén, đĩa, tách… có từ thời Vua Gia Long về sau; hàng trăm món cổ vật khác từ các loại ché rượu, bình hoa, mặt rồng, mặt bợm… thuộc dòng gốm Cây Mai của đất Sài Gòn xưa, gốm Biên Hòa sản xuất năm 1960, gốm Bát Tràng thế kỷ 19 với men rạn ngũ sắc được đắp nổi tinh xảo. Nhiều đĩa gốm sứ dạng phong cảnh treo tường có xuất xứ thời đầu thuộc Pháp, nhiều bình cắm nhang hình con kỳ lân, rồng thuộc dòng gốm Cây Mai. Đặc biệt, cái đôn tứ quý “Mai, Lan, Cúc, Trúc” - gốm Cây Mai được chạm khắc công phu với nhiều họa tiết, hoa văn được coi là hàng “độc”; nhiều khay cổ cẩn ốc xà cừ, trên chục cái đèn “tọa đăng”, đèn đế cao của Pháp, nhiều tấm liễn cẩn ốc xà cừ có nội dung dạy đạo làm người của những bậc tiền bối. Bình vôi, gốm Việt Nam thế kỷ 18 Bình vôi có quai cầm cá tiên Bình vôi bằng đồng - Cung đình Huế Đôn độc chiêu - gốm Cây Mai Khi được tham quan ngôi nhà anh Đoàn, chúng tôi cảm giác như đang bước vào một bảo tàng cổ vật. Anh tâm sự: “Tôi chơi cổ vật là muốn lưu giữ lại những kỷ vật gia truyền của người Nam Bộ xưa, nhằm góp một chút công sức lưu giữ những nét văn hóa của người xưa cho con cháu các thế hệ sau được biết đến và có ý thức bảo tồn những giá trị văn hóa đẹp đẽ của dân tộc”. TRƯƠNG CÔNG KHẢ
  17. Điếu bát – “tuyệt thú” bị lãng quên Một thời, hút thuốc lào bằng chiếc điếu bát được nâng lên thành một trong những “tuyệt thú” không thể thiếu trong những dịp thù tiếp bạn bè, quan khách của các “tao nhân mặc khách”, giới quan lại quý tộc và cả tầng lớp bình dân của xã hội Việt Nam xưa. Khách đến nhà, mời nhau điếu thuốc, trong làn khói mờ ảo, nhấp ngụm trà ướp hương hoa, khách và chủ vừa đàm đạo vừa ngắm nhìn, bình phẩm những hoạ tiết cầu kỳ, đặc sắc hay những tích tuồng trên chiếc điếu bát bằng gốm sứ…Thực sự là một thú chơi tao nhã, nó khiến người ta thanh tao thoát tục, mà cũng rất trần thế: “Nhớ ai như nhớ thuốc lào; Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”… Điếu bát thể hiện “đẳng cấp” của chủ nhân Đến nay, để trả lời chính xác những câu hỏi về chiếc điếu bát thật khó. Nó có mặt từ bao giờ, có nguồn gốc ra sao…Chỉ biết rằng, từ xa xưa, người Việt đã sử dụng thuốc lào như một phần trong cuộc sống, họ dùng thuốc lào hàng ngày, dùng để tiếp khách, và trong các hội hè đình đám…Cùng với điếu bát, người ta còn hút thuốc lào bằng chiếc điếu cày (loại điếu làm bằng tre, dài khoảng 40 cm, chủ yếu được dùng trong tầng lớp lao động. Có người giải thích, do những người nông dân mang theo hút sau những buổi ra đồng cày cấy nên được gọi là chiếc điếu cày). Ngoài ra còn có điếu ống, loại này dùng cho tầng lớp quý tộc, được làm rất cầu kỳ, ít phổ biến. Điếu bát là loại điếu được sử dụng phổ thông nhất, vì thế nó đa dạng về kiểu dáng, chủng loại, tương ứng với mỗi đối tượng sử dụng. Đối với tầng lớp bình dân, chiếc điếu bát bằng gốm với những hoạ tiết đơn giản, lõ điếu bằng gỗ; những chiếc điếu bát của tầng lớp quý tộc thực sự là một tác phẩm nghệ thuật, với trang trí cầu kỳ, tứ linh, tứ quý, lõ điếu làm bằng bạc hay vàng, chạm trổ tinh vi, để chứng tỏ “đẳng cấp”, địa vị xã hội và trình độ thẩm mỹ của chủ nhân. Điếu bát hình voi Những năm đầu thế kỷ XX, vật dụng không thể thiếu trong phòng khách một gia đình trung lưu đất Hà thành bao gồm sập gụ, tủ chè, trên đó bày biện bộ ấm chén Bát Tràng và chiếc điếu bát. Thế nhưng, cho đến nay, thú hút thuốc lào bằng điếu bát gần như biến mất, những chiếc điếu bát dù là một tác phẩm đặc sắc, được ngưỡng vọng một thời, hay chỉ là một vật phẩm bình thường…cũng thật khó tìm trong đời sống hàng ngày. Có lẽ, hút điếu bát là một thú chơi lỗi thời vì nó quá cầu kỳ trong việc thưởng thức. Theo covat.net
  18. (Bài viết của anh nhatminh - tuvilyso) Đại bản doanh Điếu ngư đài Một nhà tướng số từng là thực khách của "bè lũ bốn tên", đã chạy sang Hong Kong (ông này người Sơn Đông, trước giải phóng có biệt hiệu là "Cư sĩ Thiên Sơn") tiết lộ: hồi trẻ khi học nghề đã nghe thầy nói, phong thuỷ phương Bắc có kỳ khí tất sẽ có nhiều vĩ nhân, Bắc Kinh cũng không ngoại lệ, nhiều địa điểm đáng để xem xét. Thầy còn cho biết, Lại Bố Y (nhà tướng số nổi tiếng thời Tống) thời trẻ từ phương Bắc xuống phương Nam từng làm bài thơ đại ý ở phía Bắc Trường Giang có một nơi có thể làm cho người ta quyền thế ngút trời, được nó thì quyền lợi che cả bầu trời, hưởng cái vinh trên vạn người. Nhưng ở địa điểm này phải chính xác, hơi sai lệch cũng có thể dẫn đến tan cửa nát nhà. Cư sĩ Thiên Sơn khi 30 tuổi tìm thấy nơi đó, 32 tuổi trở thành "thực khách tướng số" bên cạnh Vương Hồng Vân, theo Vương về ở Bắc Kinh. Năm đó, khi Vương Hồng Văn trở thành phó chủ tịch Đảng, ông tới chúc mừng ở Điếu ngư đài, cảm thấy ở đây rất quen thuộc cứ như là đã từng đến, về nhà ngẫm nghĩ mãi mới ngộ ra rằng địa thế của Điếu ngư đài chẳng phải khớp với bài thơ của Lại Bố Y đó sao ? Sau này có dịp tham dự tiệc đêm của Vương Hồng Văn ở Điếu ngư đài mới thấy về đêm mát lạnh, nước trong như tấm gương, in hình chòm sao Đại Hùng (hay chòm sao Bắc đẩu gồm 7 ngôi sao), biết rằng đây là huyệt "thất tinh bạn nguyệt", là đất tốt để kết huyệt. Song ông lại thấy ngoài cửa huyệt đâu cũng có lính canh giữ, sát khí mù mịt, phía Đông có tấm biển khắc chữ "Điếu ngư đài". Ông mang phát hiện này nói với Vương Hồng Văn. "Bè lũ 4 tên" cũng rất tin tướng số phong thuỷ nên cả mừng và quyết định đặt đại bản doanh ở đây. "Cư sĩ Thiên Sơn" nhờ đó mà được một món tiền thưởng lớn. Đất này là cái thế "thất tinh bạn nguyệt" của tể tướng, song tên gọi Điếu ngư đài, nếu làm tể tướng thái bình thì được, còn muốn đoạt quyền cả nước thì sẽ bị khắc chết. Điếu ngư đài là một di tích vườn cổ ở Bắc Kinh, Kim Chương Tông từng câu cá ở đây, người sau gọi là "Điếu ngư đài Kim Chương Tông". Danh nhân đời Kim là Vương Du từng ở đây và xây đài câu cá. Đầu nhà Nguyên, tể tướng Liêm Hy Hiến cho xây biệt thự ở đây, gọi là "Phương Liễu đường", trở thành thắng địa du ngoạn một thời. Sau này tuỳ theo vong suy hưng thịnh của các thời đại mà lúc hưng lúc phế. Hiện tại kiến trúc vườn tược bó cục cơ bản là của thời hành cung vua Thanh Càn Long. Năm 1814, Càn Long tu hành ở đây và cho khơi cái đầm thành hồ, trồng cây và xây đình đài ở xung quanh, giữ được long khí trước đây, song long khí ở đây tác động ít thì mới có thu hoạch, nếu muốn làm chuyện lớn cuối cùng sẽ bị nước nhấn chìm. Giang Thanh sau khi vào Trung Nam Hải, thường xuyên họp cùng Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn ở Điếu ngư đài, mưu tính chiếm quyền. Xung quanh "Bè lũ 4 tên" tuy có nhiều mưu sĩ và nhà tướng số phong thuỷ, nhưng chẳng ai xem xét cho kỹ càng vì họ đang có thế. Do đó mà họ tự đặt mình vào đất đó, mảnh đất nhỏ mưu việc lớn, không bại sao được. Trên hồ nhỏ của Điếu ngư đài có một hòn đảo có cái thế rất đặc biệt, bề mặt tứ phía hơi cao, ở giữa hơi thấp, như thể một con cá kình trắng. Cư sĩ Thiên Sơn cho biết rằng đây là cái thế "mặt biển phi kình", trong phong thuỷ có câu: "Kình ngư xuất thuỷ, Tứ tài quý địa" không những là đinh vượng, tài vượng và quý cũng vượng. Song giữa những nơi kết huyệt không nên xây gì, chỉ có thể làm đầm nước nhỏ, nếu không thì phú quý được rồi lại mất. Thế nhưng "Bè lũ 4 tên" ngang nhiên cho xây 4 cái nhà mái bằng trên khoảng đất bằng của hòn đảo đó, 4 mái nhà xếp theo hình lăng, chúng cho rằng đỡ bị người ta soi mói, có thể nhìn từ cao xuống, lại có thể chăm nom nhau. Cư sĩ Thiên Sơn biết là vậy, nhưng đã không khuyên Vương Hồng Văn dỡ nhà đi, mà quyết định lợi dụng phong thuỷ giúp Vương Hồng Văn phá Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều... Dùng phong thuỷ hại người cùng hội cùng thuyền Sau khi xem xét kỹ, Cư sĩ Thiên Sơn hiến kế cho Vương Hồng Văn, trước hết làm cho sự tin cậy của Giang Thanh đối với Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều không bằng Vương Hồng Văn. Muốn vậy phải có những chiêu hợp lý mà người ta khó phát giác. Kế của ông ta là dùng chiêu "nấm hầm chay", "gậy chống tim". Luận về tướng mạo, Vương Hồng Văn có hơn Trương và Diêu, vì tướng của Vương ngũ quan đoan chính, tuy có sẹo ở sơn căn có thể cản trở tiền đồ, nhưng khéo ra thì có thể tránh được. Cư sĩ Thiên Sơn nói với Vương: "Âm phủ của Diêu Văn Nguyên không phải là kém, do vậy phải triệt để làm cho đối phương mất tự tin, nay có cách là dựng một cột điện trên con đường nhỏ ở trước cửa Diêu Văn Nguyên". Vương Hồng Văn nghĩ mãi rồi một lần sau cuộc họp cố ý nêu ra một số vấn đề liên quan đến an ninh và nói với Diêu Văn Nguyên: "Nhà của anh hướng Tây, chân núi phía Tây có một vạt cỏ, không biết anh cần sử dụng không ?". Diêu Văn Nguyên không biết ý của Vương bèn nói không cần làm gì. Vương Hồng Văn đưa ra một đề nghị dựng một cột điện tạm thời tại bãi cỏ phía Tây của cửa phòng Diêu Văn Nguyên, đề tăng cường ánh sáng, tăng cường an ninh. Vì ở Điếu ngư đài, để bảo vệ văn vật tiên triều và khí thế nguyên sơ nên không làm những gì có biến động lớn, nhà ở của "Bè lũ 4 tên" thuộc kiến trúc tạm, cung cấp về điện rất yếu. Vương nêu lý rằng, ở đây tuy có bảo vệ nhưng về đêm vẫn rất tối, các chiến sĩ 8341 (đơn vị đặc biệt bảo vệ các vị lãnh đạo trọng yếu) đi tuần tra phải dùng đèn pin, như vậy thiếu an toàn. Ba người kia nghe vậy đều tán thành, họ nghĩ tăng thêm điện đèn ánh sáng cũng là điều thuận lợi. Thế là chiếc cột điện được trồng. Chiếc cột điện này khác với loại bình thường: cột thẳng, phía trên có một lưới sắt hình ô và lắp bóng đèn. Xong việc, thầy phong thuỷ để ý quan sát nét mặt của Diêu Văn Nguyên, quả nhiên không quá 10 ngày, mặt mày ủ rũ, mệt mỏi. Hoá ra, chiếc cột điện này là chiêu "gậy chống tim". Trong phong thuỷ có câu: "Nhà sợ chống tim, người sợ chống họng, nhà hỏng người chết, thảm thêm thảm". Diêu Văn Nguyên bị gậy chống tim chống lên họng, khí huyết không điều hoà được, người lộ rõ vẻ mệt mỏi. Song ông ta vẫn khen nhờ có đèn đường thấy thuận lợi hơn, ngủ yên tâm hơn. Giang Thanh ngày càng tỏ ra không hài lòng với Diêu Văn Nguyên, tin tưởng Vương Hồng Văn hơn, Vương mừng thầm bèn mời Cư sĩ Thiên Sơn tính chuyện tấn công Trương Xuân Kiều. Bề ngoài thì Vương vẫn nhiệt tình ân cần với Trương, luôn miệng nói nhờ Trương mình mới từ Thượng Hải lên Bắc Kinh, Trương khác nào cha mẹ sinh ra Vương lần thứ hai, việc gì cũng nhất nhất theo Trương. Cư sĩ Thiên Sơn cho rằng, Trương Xuân Kiều nhờ vào cây bút mà thành danh, hẳn có âm tổ rất lớn, dùng biện pháp tấn công nóng vội có thể hiệu quả ngược lại. Người này tâm thuật bất chính, chuyên hại người bằng bài viết, song cũng có cách làm cho vì gieo gió phải gặp bão. 10 ngày sau, trước cửa Vương Hồng Văn được lắp thêm 2 chiếc đèn cửa, đối diện vào cửa của Trương Xuân Kiều. Giang, Diêu, Trương hỏi Vương sao tự nhiên lắp đèn ở cửa, từ khi dựng cột điện, có đèn đường, điện mạnh hơn trước, cửa đã sáng trưng rồi. Vương Hồng Văn đã chuẩn bị câu giải thích từ lâu, ông ta chìa ra một mảnh giấy trao tặng lễ vật, nói là một đại sứ tặng, để bày tỏ hữu hảo mới mang lắp ở trước cửa. Ba người kia cũng chẳng thắc mắc gì hơn nữa. Không lâu sau, Trương Xuân Kiều người như mất hồn, 2 mắt trông khô héo không còn thần sắc. Chiêu này của Cư sĩ Thiên Sơn gọi là "nấm hầm chay", ông ta đã đề nghị Vương Hồng Văn lắp 2 chiếc đèn ở cửa đối diện cửa của Trương Xuân Kiều, chiếu rọi suốt ngày đêm, hình dáng của cái đèn như cái nấm, mỗi khi Trương Xuân Kiều về nhà coi như bị hầm một lần. Có câu rằng: "nấm hầm chay, hầm đến khi dầu cạn", vì thế mà âm tổ của ông ta bị hầm đến cạn kiệt. Trong lúc Giang Thanh chỉ còn tin tưởng Vương Hồng Văn, khí thế của Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều bị phong thuỷ làm cho yếu dần, Vương cũng không muốn động đến Giang làm gì. Song lúc này Mao Trạch Đông tựa như người bừng tỉnh lại, cho gọi Đặng Tiểu Bình quay về Bắc Kinh để sử dụng. Giang Thanh bực tức lắm, tưởng Vương Hồng Văn làm phó chủ tịch Đảng có tác động vào việc đó nên măng Vương Hồng Văn thậm tệ. Vương về nhà, càng nghĩ càng hận, nghĩ mình là một người đàn ông mà phải chịu người đàn bà đó nhục mạ, bèn cho gọi Cư sĩ Thiên Sơn dùng phong thuỷ để ép Giang Thanh. Cư sĩ Thiên Sơn đề nghị Vương Hồng Văn hãy tác động ở trong nhà. Một lần mượn cớ sửa nhà, Vương sai tâm phúc của mình khi sửa xà chính, làm một cái quan tài nhỏ đặt trong xà chính, hình thành thế đầu nặng chân nhẹ. Giang Thanh hễ ở trong nhà đó là tâm thần bất ổn. Vương Hồng Văn dùng phong thuỷ hại 3 người cùng hội cùng thuyền, mục đích một là muốn hả giận và cũng muốn đầu cơ nữa, để xem gió chiều nào che chiều ấy nhưng cuối cùng cũng phải chết thảm. Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Giang Thanh cáo già hơn nhưng bị phong thuỷ của Vương làm cho mơ hồ, lại hay tụ tập ở Điếu ngư đài (đang trở thành mảnh đất chết) do đó mà không cựa quậy được, khi bị bắt đều trong tình trạng lúng túng, bất ngờ. (Theo Danh nhân và Phong thuỷ - Thế giới mới 576)
  19. 14. Nhà ở có bao nhiêu phòng là thích hợp. Phong Thủy học truyền thống cho rằng số phòng trong một ngôi nhà có ảnh hưởng lớn đến sự may mắn và sức khỏe của người ở. Điều đáng chú ý là ở đây chỉ số phòng trong nhà, chứ không phải chỉ riêng về số phòng ngủ. Vì dựa vào sách cổ, chỉ cần là một không gian có bốn tường bao quanh và có cửa sẽ được gọi là “phòng”. Cho nên, phòng khách, nhà vệ sinh, nhà bếp, phòng ngủ, phòng sách, nhà kho, thậm chí phòng giặt đồ cũng được gọi là một gian phòng, có thể được xếp vào danh sách tổng số các phòng trong một ngôi nhà. Thật ra, sự phán đoán cát hung của số phòng trong nhà ở của Phong Thủy học đã được quan niệm kiến trúc hiện đại kiểm chứng, đạo lý cũng giống như nhau. Gia đình hiện đại thường là hai vợ chồng và một đứa con hợp thành một nhà ba người; vì thế, một nhà có 3-4 gian phòng sẽ không đủ dùng. Thế thì rốt cuộc một ngôi nhà có bao nhiêu phòng mới thích hợp? Sự bố trí các gian phòng nên bao gồm bốn không gian dưới đây: a) Không gian ngủ: bao gồm phòng ngủ của chủ, phòng trẻ em. Nếu có người già cùng chung sống cần phải chuẩn bị thêm một phòng ngủ cho họ, gọi là phòng người già. :( Không gian ăn uống: gồm phòng ăn và nhà bếp. c) Mỗi một gia đình nên có phòng vệ sinh tương ứng kèm theo. d) Không gian có công dụng khác: gồm phòng khách, phòng sinh hoạt chung, phòng sách, phòng cho khách ở, ban công, nhà kho, nhà xe… thậm chí nếu nhà ở to còn có thêm phòng tập thể dục, phòng nghe nhạc, phòng tập hát… Bốn loại không gian kể trên nếu diện tích nhà ở to, lý tưởng nhất đương nhiên là mỗi loại đều phân chia ra, nhưng trước mắt số người sống trong ngôi nhà có diện tích to như thế là có hạn. Dùng một ngôi nhà của người bình thường để nói, khi không gian có hạn, khi không có cách nào bố trí nhiều phòng, có thể xem xét các loại không gian và hợp chúng lại sử dụng chung. Như phòng ăn, phòng khách, phòng sinh hoạt chung có thể dùng chung, nhưng phòng ngủ của mỗi người phải riêng biệt. Vì thế, một ngôi nhà chỉ có ba hay bốn phòng khó thỏa mãn được các nhu cầu về cuộc sống, vui chơi, nghỉ ngơi của người hiện đại. Nếu số phòng trong một ngôi nhà vừa vặn rơi vào con số 3, 4, 8 tượng trưng cho “hung” - chỗ này không hiểu sao tác giả lại không giải thích rõ – không nên vì thế mà lo lắng quá, một là làm tăng hoặc giảm công dụng của một số phòng là điều không cố định, có thể thay đổi. Hai là có mấy phòng là thích hợp đều do điều kiện gia đình và tình trạng nhu cầu quyết định. Phòng ốc là “chủ hung hay chủ kỵ”, cũng có liên quan đến tâm lý và nhận biết của bạn, không vì thế mà căng thẳng lo lắng, chủ yếu là có phù hợp với nhà ở hay không.
  20. 13. Nhà ở tại sao cần to nhỏ vừa phải. Ngày nay, có rất nhiều người một mực theo đuổi nhà ở to, không gian rộng, thậm chí có người sống một mình trong ngôi nhà hơn 200 mét vuông. Nhưng cũng có người do điều kiện kinh tế hạn chế nên cả nhà phải sống trong một ngôi nhà có diện tích nhỏ hẹp, thậm chí chưa tới 60 mét vuông. Đây hiển nhiên là điều không thích hợp. Ai ai cũng biết, ngôi nhà quá nhỏ không khí sẽ không lưu thông, hô hấp không thuận, điều này tự nhiên sẽ có hại đến sức khỏe con người. Nói theo Phong Thủy học, không gian quá chật hẹp cũng dễ tạo nên sự ngưng tụ và lưu thông không trôi chảy của khí, đây là điều cấm kỵ. Trong tình huống có đầy đủ về điều kiện kinh tế, mua nhà có diện tích to hơn một chút, sống ở một nơi rộng rãi thoải mái một chút, đây cũng là điều thường tình, nhưng cũng cần phải có hạn chế. “Trạch tướng” nói, phòng lớn sẽ nhiều âm, nghĩa là phòng lớn nhưng người ít thì âm khí sẽ nặng. Phong Thủy học cho rằng, nhà ở cần phải tụ khí, diện tích quá lớn nhân khẩu lại ít, ắt nhân khí sẽ tản, không cát lợi, dễ hình thành nhân không thắng phòng - tạo nên kết cấu “phòng hiếp nhân”. Sống lâu ngày, trường khí của con người sẽ tản mà không tụ, âm khí nặng, dương khí suy, sẽ dẫn đến sự mất cân bằng trường thái. Cho nên, người xưa cho rằng người đông là điều cát lợi, như thế dương khí của con người mới có thể áp được âm khí của phòng. Xét ở khía cạnh thực tế, diện tích nhà ở và tỷ lệ nhân khẩu vừa phải sẽ có một cảnh tượng hưng thịnh, giữa trẻ con và người lớn dễ có cảm giác thân thiện, dễ tăng sự hòa thuận trong gia đình, khích lệ người trong gia đình đoàn kết và hăng hái, hơn nữa mỗi một gian phòng đều có công dụng, có thể sử dụng hết công năng của nó. Phân tích theo sinh lý học, một trong những công việc chủ yếu của người nữ chủ nhân trong mỗi nhà là quét dọn, nếu diện tích quá lớn, sẽ gánh vác công việc quá nặng. Dựa vào một bảng điều tra chứng tỏ một người nữ chủ nhân quét dọn diện tích khoảng 60-100 mét vuông là thích hợp. Thế thì, nhà ở cần diện tích bao nhiêu là thích hợp nhất? Ở đây đưa ra hai cách tính: a) Tổng số tuổi của mọi người trong gia đình nhân với 1.1 ra diện tích nhà ở: ví dụ như nam chủ nhân 35 tuổi, nữ chủ nhân 30 tuổi, hai đứa trẻ 10 tuổi và 5 tuổi; tổng số tuổi là 80 tuổi, 80 nhân với 1.1 là 88; vậy diện tích nhà ở thích hợp là trên dưới 88 mét vuông. :( Cách tính ba đời: vợ chồng hợp lại tính là 50 mét vuông, đứa trẻ chưa đến tuổi đi học là 10 mét vuông, đứa trẻ học cấp 1 đến cấp 3 là 15 mét vuông, sinh viên và người già mỗi người 20 mét vuông. Trên thực tế, diện tích nhà ở có thích hợp hay không chủ yếu là dựa vào số người ở để quyết định, không có tiêu chuẩn nào cả. Nguyên tắc tổng thể là: lớn nhưng không trống trải, nhỏ nhưng không chật chội, thuận tiện thoải mái, sống với nhau hòa thuận, vui vẻ. Nếu nhà ở hiện tại của bạn quá lớn, cách hóa giải là có thể mời bạn bè đến hội tụ thường xuyên, hoặc mời bố mẹ hay anh chị em đến ở chung; nếu nhà ở hiện tại của bạn quá nhỏ, ắt cần phải nhanh chóng tìm cách thay đổi hiện trạng. Tóm lại, chỉ cần bạn dựa vào các phương pháp trên, nắm vững chính xác tiêu chuẩn diện tích nhà ở, nhà ở to nhỏ vừa phải tự nhiên sẽ đem đến cho bạn sự may mắn và tâm tính tốt.
  21. 12. Tại sao nhà ở có hình vuông là tốt. Từ trước người phương Đông đều bị ảnh hưởng bởi quan niệm “trời tròn đất vuông”, khi xây nhà bất kể là tường ngoài hay trong phòng, đa số đều là hình vuông, tứ bình bát ổn, không nghiêng không lệch. Trong Phong Thủy học, nhà ở hình vuông là tốt nhất. Cũng có thể nói, nhìn từ vị trí của phương chính, hình dạng nhà ở hình vuông hoặc hình chữ nhật, bốn bên không khuyết góc, trái phải tương xứng với nhau, là dạng nhà ở lý tưởng nhất. Nếu nhà ở dài hẹp hoặc hình dạng không có quy tắc sẽ cho là không cát lợi. Đây là vì theo nguyên tắc Phong Thủy học, nhà ở hình vuông có thể khiến năng lượng của khí sinh ra dòng chảy tuần hoàn cân bằng, sẽ không xảy ra nhiều tai họa hoặc tai họa bất ngờ, từ đó ảnh hưởng tốt đến sức khỏe cơ thể và tâm lý người ở. Còn nhà ở dài và hẹp hoặc khuyết góc, khí trong nhà sẽ ngưng tụ, hoặc chảy không có quy luật, sự phân bố trường năng lượng sẽ mất cân bằng, có ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống thường ngày của người ở. Nhìn theo quan điểm hiện đại, tính thực dụng của ngôi nhà hình vuông cao, trang trí nội thất cũng tiện, hơn nữa dễ thỏa mãn các nhu cầu về thông gió, ánh sáng… Sống trong ngôi nhà này tự nhiên sẽ cảm thấy thoải mái, tâm bình khí hòa, gia đình hòa thuận. Tuy rằng như thế, do điều kiện đất đai hạn chế, nhà ở nhiều khi phải xây dựng trên những mảnh đất khuyết góc, hoặc việc chọn mua nhà trở nên khó khăn. Cho nên khuyên các bạn khi mua nhà nhất định phải chú ý đến hình dạng của nhà, cần cố gắng chọn nhà ở hình vuông. Nếu thật không có lựa chọn nào khác, thì ít nhất cũng chọn môi trường nào có không gian bù đắp. Nhà ở trong thành phố hiện đại đa số là dài và hẹp. Tức là chiều dài thường gấp đôi chiều ngang. Như nhà có chiều dài 10m, chiều ngang chỉ có 4m, gọi là dài và hẹp. Đối với nhà ở dài và hẹp, cách giải quyết tốt nhất là dùng tủ đứng, bàn trang điểm… chia phòng khách ra làm đôi, cắt chiều dài ra làm hai nửa không gian vuông, để khi nhìn vào không có cảm giác dài và hẹp. Khi bài trí các đồ vật nội thất, cần chú ý các điểm sau: * Bộ phận phân cách nên cố gắng dựa vào đường tuyến giữa, vì như thế hai phần được chia ra mới có dạng hình vuông, nếu không sẽ mất đi ý nghĩa của việc làm này. * Nên cố gắng dùng các tủ thấp hoặc đồ trang trí nội thất thấp để phân cách, như chiếc tủ thấp hơn 1m hoặc bàn trang điểm là lý tưởng nhất, vì như thế mới có thể làm cho không khí của hai phần phân cách được tương thông. Nếu dùng tủ cao hoặc tường để phân cách, hiệu quả sẽ giảm đi nhiều. * Đồ dùng để phân cách nên cố gắng tránh đối diện với cửa chính, càng cần phải lưu ý không để tủ phân cách đối diện với cửa phòng của trẻ em, tránh trẻ em ra vào không thuận tiện, hoặc sinh ra đụng chạm ngoài ý. Nếu không thể tránh được, chỉ có thể bày một chậu kiểng trên đầu tủ để cứu chữa. Có một số nhà ở mang đến cho con người cảm giác tinh thần thanh thản; mà có một số nhà ở lại khiến con người cảm thấy áp bức, u buồn, đứng ngồi không yên, một trong những nguyên nhân của nó là ưu khuyết điểm về bố cục kết cấu của nhà ở không giống nhau. Kết cấu bố cục bốn phía rộng rãi, bố trí hài hòa là sự chọn lựa tốt nhất. Vì thế, khi bạn chọn nhà ở, bạn cần đứng tĩnh lặng trong nhà khoảng 10 phút, cảm giác một chút xem thử nhà ở này có mang lại tâm tình tịnh khí ngưng thần cho bạn hay không.
  22. 11. Tại sao nhà ở thường phải chọn tọa bắc hướng nam. Nhà ở tọa bắc hướng nam là một trong những nguyên tắc trong lý luận Phong Thủy truyền thống. Trong “Dịch chiêm học” nói, phương nam thảo mộc sinh sôi nhiều, dương khí đầy đủ, hướng nam được xem là hướng thịnh vượng nhất. Người xưa cho rằng bắc là âm, nam là dương, nơi có Phong Thủy tốt là âm dương phải hài hòa. Thời nguyên thủy, tổ tiên đã xây dựng thôn xóm tọa bắc hướng nam. Khảo cổ học hiện đại phát hiện đa số các ngôi nhà cổ đều có cửa chính hướng nam. Cho đến ngày nay, nhà ở tọa bắc hướng nam cũng là điều đầu tiên để chọn mua nhà ở. Sau đây là 3 lý do để chọn nhà ở tọa bắc hướng nam: a) Ánh sáng tốt. Trong “Trạch kinh” nói, phàm cửa sổ hướng nam, đông nam hoặc tây nam, ánh sáng trong nhà sẽ tốt. Nhà ở tọa bắc hướng nam lợi dụng được triệt để ánh sáng mặt trời, giữ không khí ấm khi mùa đông, mát mẻ khi mùa hè. :( Sự thông gió tốt. Tọa bắc hướng nam sẽ khiển không khí nhà ở được lưu thông một cách đầy đủ. c) Tránh gió bắc. Tọa bắc hướng nam không chỉ vì ánh sáng, thông gió mà là còn để tránh gió bắc. Từ ngày xưa con người đã có nhận thức về sự thay đổi của thời tiết, phân gió ra thành gió âm và gió dương. “Địa học chỉ chính” viết “Dương yên ổn vốn không sợ gió, tự nhiên có sự khác nhau về âm dương, hướng nam hướng đông là gió ấm, gió chậm, gọi là gió dương. Hướng tây hướng bắc là gió lạnh, gió hàn, gọi là gió âm, nên có bình phong chắn gió, nếu không sẽ bị gió thổi nhiễm lạnh”. Cách nói này chính là cần phải tránh sự xâm hại của gió bắc. Nói chung, nhà ở tọa tây nam hướng đông bắc, không phải là sự lựa chọn lý tưởng. Vì ngoài điều kiện ánh sáng không tốt ra còn dễ hấp thu những vật chất âm và ẩm trong không khí, có hại cho sức khỏe cơ thể con người. Trên thực tế, phương vị hướng nam không dễ tìm, vì thế dùng hướng chính nam làm nguyên tắc, hơi nghiêng về hướng đông hoặc hướng tây cũng không có trở ngại gì. Nếu nhà ở không có cách nào xây dựng theo hướng nam, thì cần phải mở nhiều cửa sổ ở hướng nam hoặc xây giếng trời, tăng thêm ánh sáng, khí ấm, hoặc trồng nhiều cây ở hướng bắc để bù đắp. Thành thị ngày nay khi xây dựng chịu nhiều hạn chế về các mặt, nhà ở không thể tọa bắc hướng nam, nhưng các kiến trúc sư không ngừng tạo mọi điều kiện để chúng ta có một môi trường nhà ở lý tưởng, thay đổi một cách có hiệu quả vấn đề hướng nhà không tốt, để thỏa mãn nguyện vọng sống khỏe mạnh của chúng ta.
  23. 10. Nhà ở tại sao không nên quá gần mồ mả. Trạch, bản thân tên gọi của nó đã có ý nghĩa Phong Thủy. Trong quyển “Giải thích tên” có viết: “Trạch, khi chọn cần phải chọn nơi cát”. Con người trên thế giới đều không rời khỏi căn nhà, dù ở trong khách sạn, nhà trọ, thì căn nhà trọ này cũng có khác nhau về thiện, ác. Nhà ở to có cách nói của nhà to, nhà nhỏ có cách lý luận của nhà nhỏ. Nhà ở là nơi hai khí âm, dương giao hội với nhau, là mặt quan trọng trong sinh hoạt của các thành viên trong gia đình có an toàn, khỏe mạnh hay không. Phong Thủy học truyền thống có cách nói của âm dương trạch, mà dương trạch nếu ở trên “đất Phong Thủy tốt” thì “khí sắc” của nó sẽ vô cùng “quang minh”, có thể đem đến điềm phúc cho chủ nhà. Nhưng nếu nó gần âm trạch, tức quá gần mồ mả, sẽ sinh ra ảnh hưởng không tốt. Cách nói này có các lý do sau đây: * Nhà ở không phân biệt cũ, mới, tuy là bách niên lão trạch (nhà có tuổi thọ lâu dài), nhưng nó thông gió hướng dương; trước của rộng rãi, chủ nhà thường cảm thấy cuộc sống sẽ sáng sủa, đặc sắc; tuy nhà ở là nhà mới nhưng cách mồ mả quá gần, khiến con người dễ cảm thấy cuộc sống u ám không có ánh sáng, cuộc sống của chủ nhà thường vắng vẻ, buồn tẻ, cô độc. * Xem phòng khách của chủ nhà. Khi nhà ở cách xa mồ mả, một phòng khách sáng sủa khi không có người cũng không có cảm giác cô tịch, lạnh lẽo mà vẫn có không khí ấm cúng náo nhiệt. Nếu cách mồ mả quá gần, ắt khi phòng khách có người thì không khí trong phòng này cũng âm u, thưa vắng. Có một số người muốn được tổ tiên phù hộ nên thích xây mồ mả gần nhà ở để được gần gũi với tổ tiên, như thế thì “con cháu đời đời hưởng phúc”. Cho rằng khí của tổ tiên và khí của con cháu là một mạch tương thông, an táng xong hài cốt của tổ tiên thì các đời sau sẽ được tổ tiên phù hộ, con cháu đời đời được phúc khí & vận khí. Thật ra, việc này là điều không có căn cứ. Vì mồ mả quá gần, âm khí sẽ nặng, nơi này không thích hợp xây nhà ở, xây công viên cũng sẽ không cát lợi, thường sẽ mang một cảm giác không may mắn, ảnh hưởng sức khỏe cơ thể & tâm lý con người. Nhà ở coi trọng sự hài hòa của âm dương, sống quá gần mồ mả, âm khí sẽ nặng, dương khí của con người tất nhiên sẽ bị xâm hại, dương khí dần dần suy yếu, cơ thể dễ bị bệnh. Nhìn theo đạo lý dưỡng sinh của khoa học hiện đại, nếu chủ nhà mỗi ngày ra ngoài đi dạo, nhìn thấy sẽ nghĩ đến đều có cảm giác có liên quan đến con người của một thế giới khác, đều có áp lực đối với tâm sinh lý, không có lợi cho sức khỏe. Từ trước đến nay sách lý luận về Phong Thủy nhà ở có rất nhiều, quan điểm chủ yếu cũng giống nhau nhiều, khác nhau ít, lý luận của nó rõ ràng, thâm thúy & sâu xa. Phong Thủy phạm vào điều cấm kỵ tất nhiên có tai hại, cần có biện pháp hóa giải, tai hại sẽ dừng lại. Điều này giống như lấy thuốc chữa bệnh thì bệnh sẽ khỏi. Vì thế nói sống ở “nhà thịnh vượng” là an toàn cho sức khỏe & sinh mệnh. Con người sống trong một ngôi nhà yên ổn mới có thể cát tường, thịnh vượng, nếu không sẽ dẫn đến gia môn suy bại, lạnh lẽo. Cho nên lý luận Phong Thủy nhà ở cho rằng môi trường nhà ở tốt là nơi có lợi cho sức khỏe cơ thể & tâm lý, an cư lạc nghiệp. Từ đó có thể thấy, nghiên cứu Phong Thủy nhà ở là một phương pháp khoa học, nhà ở nhất định không được chọn nơi quá gần mồ mả.
  24. 9. Nhà ở tại sao không nên đối diện với con đường hình cong. Phản cung giốn như khi chúng ta đang giương một cây cung, lắp tên lên cung, vị trí phần cong của cây cung hướng về được gọi là “vị trí phản cung”. Phong Thủy học cho rằng hình phản cung giống như hình hai vai của một người thò ra ngoài, hình phát tán quyết định khí sẽ phát tán, nhà ở như thế không có lợi cho sức khỏe con người. Truyền thống cho rằng con đường hình cong trước nhà có hướng cong đối diện với nhà ở, giống như một con dao cong, nhà ở như thế sẽ bị quấy nhiễu có hại đến tâm lý con người, dẫn đến những bệnh về tâm lý, sự nghiệp không trôi chảy, thậm chí có lúc phá tài, kiện tụng không ngừng. Trước nhà ở cũng không thể có vòng cung hướng độ cong ra ngoài, lại thêm một con đường thẳng hướng ra ngoài, điều này vừa vặn hình thành hình cung tên đã lắp mũi tên, Phong Thủy học cho rằng đây là điều không cát lợi. Nếu trước nhà có một con đường cong & độ cong hướng vào, tuy không phải đối diện với cửa chính, nhưng mặt bên nhà có một con đường thẳng và con đường cong đan với nhau cũng là điềm không cát. Đối với con đường bên ngoài nhà ở, dù không phải là hình cung hướng phần cong ra ngoài, nếu là ở giữa phần cong có cột điện, ống khói, tòa tháp cao… ắt cũng là điều không cát lợi. Dựa vào nguyên lý quang học, kính lồi sẽ tản quang. Phong Thủy học xem các đường phản cung là đường tản khí. Cho nên khi mọi người chọn mua nhà , trước tiên nhất định phải xem xét kỹ bên ngoài, xem thử có con đường phản cung nào hay không; nếu có, nhất định phải suy nghĩ cẩn thận. “Thuận cung” chính là khi chúng ta giương cung, tên lắp vào cung, phần bên trong mũi tên chính là thuận cung. Đường có hình thuận cung tựa như người mẹ ôm ấp con mình, khiến con người cảm thấy ấm áp, an toàn vì đường có hình bao bọc sẽ tụ khí. * Nước phản cung là chỉ dòng sông phía trước nhà có hình phản cung. * Đường phản cung là con đường hình uốn cong, mà phần cong đối diện với nhà mình. * Kiến trúc phản cung là chỉ kiến trúc hình tròn, như nhà ở gần các siêu thị lớn, các tòa nhà có hình dáng cong cong, đều bị phần cong phản chiếu. Nếu nhà ở trong một môi trường chỉnh thể có bố cục tương đối tốt, nhưng chính con đường phía trước nhà có hình phản cong sẽ làm tản mất trường khí tốt. Đối với các kiến trúc hình phản cung nên dùng biện pháp nào thì tốt đây? Dựa vào nguyên lý Phong Thủy học: bạn phản tôi cũng phản. Bên cạnh các kiến trúc hình tròn, cũng thiết kế một phản cung thuận theo chiều cong kiến trúc, đây là các tiêu trừ “phản cung sát” rất hiệu quả. Nhưng yêu cầu vật kiến trúc là thiết kế hình cung cần phải có độ cong giống với độ phản cung của nó. Hoặc là bạn là phản cung tô sẽ lồi. Bên cạnh kiến trúc hình cong, đối với độ cong của phản cung, thiết kế vật kiến trúc có độ cong dạng lồi giống như vậy, phản cung ngược lại phần phản cung tiêu trừ lẫn nhau. Nguyên lý khoa học của cách nói này đã được chứng thực từ bấy lâu nay.
  25. 8. Nhà ở tại sao phải tránh “Phản quang sát” Phong Thủy học đặc biệt nhấn mạnh phản quang là đại hung, gọi là “phản quang sát”. Vào thời cổ đại, phản quang phần nhiều là do ao đầm, sông ngòi bên ngoài vật kiến trúc tạo thành thuộc về phản quang tự nhiên, có lúc không có cách nào tránh được. Khi ảnh ánh nắng lay động chiếu vào phòng thì hình thành “phản quang sát”. Nếu là phản quang của sông ngòi chiếu vào phòng tức sản sinh ra ảnh sóng lay động không ổn định. Trên trần nhà trong phòng sẽ hình thành bóng nắng lay động, sẽ kích thích đến tinh thần con người khiến tinh thần căng thẳng. Thời gian dài con người sẽ sinh ra ảo giác khủng hoảng, đó là điềm báo trước của tai nạn. Theo quan điểm khoa học hiện đại ngày nay, tần số từ trường sóng quang và tầng số từ trường bình thường cơ thể con người khác nhau rất lớn; đặc biệt là khi có sóng quang mãnh liệt kích thích mắt, từ trường sinh ra của nó sẽ phá hoại từ trường bình thường của cơ thể con người, tức sẽ giống như một bình phong chắn hết sinh khí của tự nhiên ngoài cửa nhà, trên cơ bản phá hoại sự ngưng tụ & đường vào của sinh khí. Phản quang trong đô thị hiện đại có một phần lớn là do con người tạo ra thuộc về ô nhiễm quang. Đặc biệt có rất nhiều tòa nhà có kiến trúc tường bằng kính, ánh sáng phản chiếu của nó chiếu vào nhà ở đối diện, từ đó hình thành quang khúc xạ đối với các tòa nhà kiến trúc bên cạnh. Còn một số ô nhiễm ánh sáng là tầng trệt của tòa nhà dùng các loại đèn màu để làm bảng hiệu, công suất của bóng đèn làm bảng hiệu quá lớn, quá mạnh sẽ hình thành “phản quang sát”. Nhìn trực quan, một số phản quang tường thủy tinh và đèn quảng cáo bảng hiệu đều rất mãnh liệt, nó không chỉ kích thích mắt khiến con người cảm thấy khó chịu dẫn đến tinh thần con người nôn nóng, dần dần sinh ra tâm lý tinh thần trốn chạy. Dựa vào nghiên cứu khoa học hiện đại, có sóng quang có hại sẽ làm tổn thương đến tế bào não, tạo nên những bệnh phụ khoa ở phụ nữ như kinh nguyệt không đều. Vì thế, chọn nhà ở cần phải tránh sự xâm hại của các quang tuyến có hại. Nếu nhà ở có phản quang mãnh liệt chiếu vào phòng, cách chữa là: dùng rèm cửa dày & có màu tối. Bản thân màu tối cũng có thể hút một phần ánh sáng phản xạ, khiến ánh sáng phản xạ chiếu vào phòng ít đi. Cũng có thể dùng kính mờ làm giảm ánh sáng phản quang chiếu vào phòng. Nhưng cách tốt nhất là đặt chậu cây cảnh ở cửa sổ làm một bình phong tự nhiên che chắn ánh sáng phản xạ, lại có thể làm đẹp môi trường nhà ở, có thể nói là một công đôi việc.