hkeikun

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    379
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by hkeikun

  1. hkeikun thêm hình minh họa cho phongan nha :angry:
  2. Úi chà, ghen tị với các huynh trong Nam lúc nào cũng được phục rượu sư phụ á :P Đẹp "chai" nhứt là huynh vothuong, lớp trưởng lớp mầm non LVĐT :rolleyes: , phải hok huynh nhỉ. Đợt này về Vn, hkeikun sẽ lên thăm Đền Hùng để cảm nhận 5000 năm lịch sử của nước Đại Việt ta. Năm mới kính chúc sư phụ và toàn thể các sư huynh an khang, thịnh vượng!
  3. Người tuổi Sửu hợp với người tuổi Ngọ, theo quẻ... "đầu trâu mặt ngựa". Người hai tuổi này mà cưới nhau chắc chắn sẽ thành công, tấn tới nếu cả hai vợ chồng cùng làm việc trong lĩnh vực… xã hội đen, đâm thuê chém mướn. - Người tuổi Sửu và người tuổi Ngọ hợp với người cùng tuổi, theo quẻ "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã". Những người này cưới nhau sinh con đẻ cái đảm bảo con cái chắc chắn sẽ… thuần chủng - Người tuổi Mão hợp với người tuổi Dậu, theo quẻ "mèo mả gà đồng". Người hai tuổi này đi với nhau chắc chắn có một tình yêu mãnh liệt và… hoang dại ! Sưu tầm
  4. trong khi chờ đợi file gốc thì huynh xài tạm file upload trên diễn đàn nha Huynh dùng phần mềm hỗ trợ download nào đó (ví dụ IDM) và link movies ở đây http://www.lyhocdongphuong.org.vn/tuananh/...ong-nvh1505.wmv Nhưng trước đó huynh xin phép sư phụ và anh nncuong về bản quyền sao chép đã nhé :rolleyes:
  5. Xuân này... Xuân này khác hẳn mấy xuân qua. Chứng khoán thua đau khắp mọi nhà. Cơ quan thưởng tết...vài kí gạo. Tết nằm ăn cháo với ... khoai ta! *** Tết đến xuân về thêm nhức xương. Cái vụ tiền thưởng với tiền lương. Long lanh đôi mắt, nhân viên đợi. Đỏng đảnh làm duyên sếp bảo chờ. *** Tết đến xuân về, chán với chê. Tiệc tùng đình đám tới phủ phê . Lơ thơ tháng chạp vài đám cưới. Xuân này, thôi nhé ở nhà chơi! Sưu tầm. PS: bác nào tác giả bài này đọc được xin lên tiếng ạ
  6. Đánh Cờ Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc, Ðét đồn lên đánh cuộc cờ người. Hẹn rằng đấu trí mà chơi, Cấm ngoại thuỷ không ai được biết. Nào tướng sĩ dàn ra cho hết, Ðể đôi ta quyết liệt một phen. Quân thiếp trắng, quân chàng đen, Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa. Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa, Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên. Hai xe hà, chàng gác hai bên, Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ. Chàng lừa thiếp đương khi bất ý, Ðem tốt đầu dú dí vô cung, Thiếp đang mắc nước xe lồng, Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu. Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu, Thua thì thua quyết níu lấy con. Khi vui nước nước non non, Khi buồn lại giở bàn son quân ngà. Sưu tầm
  7. Trâu cũng như bò là những gia súc được thuần hóa sớm nhất, sống gần gũi với con người và rất hửu dụng tại các quốc gia nông nghiệp như VN. Ở đồng bằng, trâu giúp nông gia cày bừa, kéo xe, kéo mật, đạp lúa. Tại vùng ngược, trâu được sử dụng trong việc tải gổ, chuyển vận. Ðối với chủ, trâu là con vật ngoan ngoản dể dạy lại ăn uớng giản dị sau một ngày làm lụng vất vã cực nhọc. Thit trâu tuy dai nhưng cũng bổ dượng như thịt bò. Nước ta từ ngày các Tổ Hùng dựng nước tới nay vẫn là một quốc gia nông nghiệp chuyên trồng lúa nước. Vì vậy hình ảnh của con trâu luôn luôn gắn liền với đời sống của quê hương nơi làng quê thôn dã. Tóm lại trâu được nhân gian phản ảnh như một biểu hiện thân thương tốt đẹp, một hình ảnh tượng trưng cho sức sống và tạm hồn VN bao đời, nên trong tâm thức của mọi nhà, luôn coi trâu như là một người bạn đường một đời đồng chung gian khổ, hơn là một con vật được nuôi để làm việc trả nợ. Không có trâu, nhà nông sẽ vô cùng khổ sở vì họ phải thế nó để kéo cày : ‘ Trời xám thấp, rặng tre già trút lá đầy ngõ thuôn hun hút gió chiều đông sương mù bay phơi phơí tỏa đầy đồng hơi lạnh cắn vào làn da cóng buốt trong thửa ruộng chân đê tràn ngập nươc đôi bóng người đang chậm bước đi đi người đàn ông cúi rạp bước lầm lì người vợ cố đẩy bừa theo sát gót họ là những nông dân nghèo bậc nhất không có trâu nên người phải làm trâu.. ’ ’ (Thơ TVÐ Người Trâu). Do đó trâu là một đề tài rất được phổ biến trong hầu hết ca dao tục ngữ, thi ca bình dân lẫn bác học, điển tích kể cả truyện ngắn truyện dài. Trong cuộc sống hằng ngày của người VN nhất là tại nông thôn, trâu được coi như là một gia tài lớn. Vì thế trâu chẳng những là ‘ đầu cơ nghiệp ‘ mà còn là một hảnh diện để chưng diện khoe khoang, nên ‘ tậu trâu lấy vợ làm nhà, trong ba việc ấy lọ là khó thay ‘ Còn gì đẹp hơn cái cảnh ‘ mục đồng ngồi trên mình trâu thổi sáo ‘ nơi dòng tranh dân gian Ðông Hồ, hay hình ảnh của trâu được nhắc qua tiếng thơ của Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến.. nói lên cảnh sống êm đềm hạnh phúc nơi thôn dã, tuy rất bình dân mộc mạc nhưng lại là niềm mơ ước ngàn đời của dân tộc Việt.. tiếc thay tới nay vẫn chưa toại nguyện : Rũ nhau đi cấy đi cày bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu trên đồng cạn, dưới đồng sâu chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa (ca dao) Quả thật trâu-bò đã đi vào tâm thức của người Việt bao đời, nên không có gì phải ngạc nhiên khi ta thấy trong hầu hết mọi tác phẩm về thi ca, nghệ thuật, điêu khắc.. kể cả những pho truyện kiếm hiệp Trung Hoa nổi tiếng của Kim Dung .. mỗi lần nhắc tới cảnh thôn quê, lủy tre xanh, bờ dậu cỏ, luống mạ non đồng lúa vàng, bác nông phu, chàng mục tử.. thì không thể nào không nói tới trâu bên cạnh vì nó là con vật luôn hiện diện bên người, qua nhiều lãnh vực với một chổ đứng trân trọng và đầy thiện cảm.
  8. + Trâu Trong Thi Văn VN : Trong LỤC SÚC TRANH CÔNG : Ðây là một tác phẩm văn vần cổ, khuyết danh gồm 453 câu, diển tả sự tranh chấp giữa 6 con vật nuôi trong nhà là trâu, chó, ngựa,gà,dê và heo. Hiện vẫn chưa biết ai thực sự là tác giả, đã ra đời vào lúc nào nhưng không phải vì thế mà nó mất đi giá trị. Tác phẩm được viết theo lối tuồng, biền ngẩu với nhiều cặp đối nhau, bên cạnh các câu văn bình dân giản dị lại được xen kẻ các câu văn bác học, điển tích và thành ngữ. Riêng Trâu được đề cập tới trong truyện từ câu 13-122 mà phần mở đầu là lời kể công với chủ : ‘ lúc canh gà vừa mới gáy tan chủ đã gọi thằng trâu vội vã dạy rằng đuổi trâu ra thảo dã cho nó ăn ba miếng đở lòng.. ’ ’ Rồi khi mặt trời vừa mới mọc cho tới lúc chuông chùa điểm tiếng thu không, trâu phải : ‘ cày ruộng sâu ruộng cạn cho no lại vườn đậu vườn mè khiến trở lúa gặt cắt lên đã có xe trâu lúa chất trở lại để dành trâu đạp lại xe gổ dân công liên khói bắt luôn xe rào, xe củi.. ’ ’ Và cũng nhờ có sức trâu cáng đáng nên chủ mới dựng nên cơ nghiệp đồ sộ hôm nay : ‘ trâu dựng nên nông nọ nồi kia, trâu làm đặng lăn trên bồ dưới.. ’ ’ Nhưng vì thói đời quen ‘ ăn chén đá bát, đặng cá quên nôm.. ’ ’ nên chẳng ao thèm để ý tới trâu. Ðã vậy khi trâu già yếu chết đi thì chủ lại nhẩn tâm phanh thây trâu để chia thịt : ‘ khi thác lại đoạn tình siêu độ, bảo nhau sắm con dao cái rổ, khiến nhau vơ nắm củi cáo mè .. ’ ’ Trong Tác Phẩm CON TRÂU của TRẦN TIÊU (1900-1945) : cũng là tên thật và bút hiệu, ông sinh tại làng Cổ Am huyện Vĩnh Bảo tỉnh Hải Dương, em một cha khác mẹ của Khái Hưng Trần Khánh Giư, có chân trong Tự Lực Văn Ðoàn, chuyên viết về đồng quê miền Bắc với văn phong giản dị chân thực nên rất được nhiều người ưa chuộng. Ðã để lại các tác phẩm như Năm Hạn (1939), Con Trâu (1940), Chồng Con (1941), Truyện Quê (1942) và Sau Lủy Tre (1943).. trong các tác phẩm trên, truyện dài ‘ Con Trâu ‘ được xem là tiêu biểu nhất. Qua nhân vật bác xã Chính trong tác phẩm, ta biết được cuộc sống cực khổ lầm than của người dân quê miền Bắc, ngày đêm đầu tắt mặt tối nhưng rốt cục vẫn phải trắng tay vì thiên tai bảo lụt, các tệ đoan hủ tục của làng xã phong kiến. Thảm nhất là lúc lìa đời, con trâu mà cả gia đình bác đã đổi lấy bằng mồ hôi máu mắt kiếm được, cũng lăn chết vì bệnh dịch. Tóm lại toàn bộ tác phẩm ‘ con trâu ‘ của Trần Tiêu đã nói lên đời sống lầm than của nông dân miền Bắc trong suốt thời Pháp thuộc. + Trâu Trong truyện Vỏ Hiệp Của Kim Dung : Các tác phẩm vỏ hiệp của Kim Dung đều được hư cấu với mục đích phản ảnh về thế giới của các kiếm khách. Tuy nhiên vì các câu chuyện đều lấy đất nước Trung Hoa làm bối cảnh nên tác giả cũng đã ghi lại một phần hình ảnh nông thôn trong đó có nhắc tới con trâu. Trong ‘ Thần điêu hiệp lữ ‘ Kim Dung có viết đoạn Dương Quá cởi trâu bị đốt đuốc phía sau, phóng thục mạng vào vòng vây quân Mông Cổ để nhắc lại cuộc khởi nghĩa của người dân thành Tương Dương vào các năm 1281-1282. Trước đó Quách Tĩnh trong ‘ Anh hùng Xạ Ðiêu ‘ cũng đuợc thầy là Hồng Thất Công đặt cho biệt danh ‘ Trâu Nước (thủy ngưu) ‘ vì tính tình cục mịch, quê mùa chậm hiểu biết. Còn ‘ Lục mạch thần kiếm ‘ thì nói bọn quần tiên tại 36 động 72 đảo, trước khi tấn công lên cung Linh Thứu trên núi Phiêu Diêu, đã ‘ ăn như ngựa, uống như trâu (mã thực, ngưu ẩm). Kim Dung cũng nhắc tới thứ trống được bịt bằng da trâu, được Lệnh Hồ Xung trong ‘ Tiếu Ngạo Giang Hồ ‘ sử dụng làm tín hiệu khi cùng với quần ma tấn công chùa Thiếu Lâm để cứu Nhậm Doanh Doanh. Lại còn có roi làm bằng đuôi trâu, chum uống rượu bằng sừng trâu vì nó có chất tanh tanh có thể chế ngự được độ nồng của rượu trắng. Sau cùng ai cũng nói dơ, ngu như trâu nhưng Kim Dung thì ngược lại vì hầu hết trong các tác phẩm của ông, những gì tốy đẹp hay ho đều dành cho trâu như các nhân vật Hồ Thanh Ngưu (ngoại hiệu của Diệp Cốc Y Tiên), Tăng A Ngưu (Trương Vô Kỵ) trong ‘ Ðồ Long Ỷ Thiên Kiếm’.. đều ngoại hạng. Tóm lại người Việt nuôi trâu mục đích để lo việc đồng áng, kéo xe, tải gổ . Nó cũng là hình ảnh thân thương đặc biệt trong tâm thức mọi người, một con vật hiền lành có tình nghĩa nên xưa nay chưa thấy ai nói trâu phản bội con người. Trong kho tàng văn học dân gian VN, có 2 câu chuyện được đánh giá hay nhất là truyện ‘ Trâu Nhà Trâu Rừng và Trâu Cày Trâu Cột ‘ đã phản ảnh sự trung thành của trâu với người chủ, qua các lời đối thoại, đồng thời để nói lên cái nhân sinh quan muôn đời của dân tộc Việt : ‘ Sống sao cho đáng sống, sống phải có trước có sau, đừng bắt chước thói đời đốn mạt ăn chén đá bát, vong ơn bội nghĩa .. ’ ’ Bổng dưng nhớ lại thật nhiều những ngày xưa thân ái thời tuổi nhỏ nơi chốn học đường, ngày ngày cắp sách tới trường cùng bạn bè nghêu ngao ca hát bài ‘ Ai bảo chăn trâu là khổ , chăn trâu sướng lắm chứ ‘.Nhưng sự thật chỉ là tưởng tượng mà thôi vì sau tháng 5-1975, qua cuộc đổi đời khiến cho người khôn kẻ dại của Miền Nam hầu hết đều trở thành mục tử nơi chốn tù ngục, vùng kinh tế mới và những chốn dung thân bắt đắc dĩ ở nông thôn.. mới thấm thía về thân phận kéo xe, kéo cày của kiếp ‘ trâu bò ‘ ‘..Ðem sức người đi phá núi dời non đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn thay trời dẫn nước vào sông đã cạn thay trâu kéo cày phá vở ruộng hoang.. ’ ’ Xóm Cồn Hạ Uy Di Vào Ðông 2008 MƯỜNG GIANG
  9. + Trâu trong thành ngữ, điển tích : - NGƯU ÐỈNH, PHANH KÊ : Dùng cái vạc to có thể luộc cả con trâu để nấu con gà , ám chỉ người có tài trí lớn lại không được sử dụng đúng chổ. - NGÔ NGƯU SUYỂN NGUYỆT : Ðiển tích này được chép từ tân thư nói chuyện Mản Phấn làm quan dưới thời Tấn Võ Ðế (Tư Mã Viêm) có tật sợ gió bấc như cọp. Một hôm Phấn vào cung chầu vua, vì cửa sổ phía bắc làm bằng pha lê trong suốt nên ông ta tưởng cửa mở, vì vậy sợ quá tới nổi phát run bần bật khiến nhà vua cũng tức cười. . Ðể chửa thẹn, Mản Phấn tâu ‘ thần cũng như loài trâu ở đất Ngô nhìn thấy trăng là lên cơn suyển ‘.Từ điển tích trên, người Ngô khi diễn tả sự sợ hải quá đáng thì nói ‘ ngưu Ngô suyển nguyệt ‘.Thành ngữ trên còn có dụng ý khuyên ta khi gặp phải bất cứ chuyện gì, trước khi hành động phải xem xét và suy nghĩ cẩn thận để khỏi bị thất bại và làm trò cười cho thiên hạ. - KÊ KHẨU NGƯU HẬU : Ý nóí cái miệng con gà tuy nhỏ nhưng dùng để ăn các món ngon lạ, còn hậu môn của loài trâu tuy rất to nhưng lại là chỗ để bài tiết những chất cặn bã dơ dáy trong người trâu.Thành ngữ trên được rút từ điển tích Tô Tần đi du thuyết vua nước Hàn trong kế hoạch liên minh 6 nước chống Tần. Ông ta tâu với Hàn vương ‘ nước Tần tuy mạnh nhưng Hàn có thể chống cự được bằng cách liên minh với 6 nước thù địch của Tần . Bằng nếu chưa đánh mà đầu hàng Tần một cách nhục nhã thì Hàn đâu khác gì một thứ ngưu hậu. Cùng nghĩa với thành ngữ trên, tục ngữ VN cũng có câu ‘ thà làm đầu ruồi còn hơn làm đuôi con chuột ‘.Cả hai câu trên đều có chung ý nghĩa nhắc tới phong cách sống của con người ‘ nghèo cho sạch rách cho thơm ‘ để không bị đời khinh miệt cười chê. - PHONG MÃ NGƯU BẤT TƯƠNG CẬP : Tả truyện có chép việc Tề Hoàn Công đem quân chinh phục nước Thái nhân đó muốn tấn công luôn Sở nên vua nước này sai sứ mang thư sang trách vua Tề ‘ quân xử Bắc Hải, quả nhân xử Nam Hải, dung thi phong mã ngưu bất tương cập dã ‘.Ý nói ‘ ông ở phương bắc, tôi ở phương nam, không có liên hệ và đụng chạm gì, tại sao lại phải đem quân xâm lấn ? ‘ Từ điển tích mới rút ra câu thành ngữ trên. - CỬU NGƯU NHẤT MAO : Ðời Hán Vũ Ðế (Lưu Triết) sai Lý Lăng đem quân đánh Hung Nô. Lúc đầu quân Hán thắng trận nên được vua quan ngợi khen hết lời. Nhưng sau đó Lý Lăng vì khinh địch nên trúng kế và bị Hung Nô bắt . Lý Lăng vì muốn bảo toàn mạng sống quân sĩ dưới quyền nên giả đầu hàng giặc. Ðược hung tin, vua Hán vì nghe theo lời xiểm ninh của bọn triều thần nên phán tội Lăng là phản quốc. Trong buổi chầu có mặt Tư Mã Thiên nên Hán Vũ Ðế hỏi ý kiến thì được Thiên tâu rằng ‘ Lý Lăng chỉ có 5 ngàn binh sĩ trong lúc Hung Nô có tới 8 vạn kỵ binh nên Lăng phải trá hàng nên nếu xét công tội, thì công của Lăng nhiều hơn tội, mong nhà vua châm chế. Lời tâu trên đã làm cho Hán Ðế càng thêm giận dữ, kết tội Lăng và Thiên là đồng lỏa, đem Thiên ra thiến còn toàn bộ gia đình Lý Lăng bị tru di. Trong ngục, Tư Mã Thiên uất ức muốn tự tử chết nhưng nghĩ lại mình làm vậy đối với nhà vua và bọn nịnh thần, cũng giống như chín con trâu chỉ mất có một sợi lông. Bởi vậy ông cố nén đau nhục để moi tim óc hoàn thành một tác phẩm vô tiền khoáng hậu lưu truyền tới ngày nay. Ðó là bộ ‘ sử ký Tư Mã Thiên ‘ . Ngoài ra lúc còn trong ngục, ông có viết thư cho người bạn tên Nhiêu Thiếu Khanh có câu ‘ cửu ngưu vong nhất mao ‘ diễn tả tâm trạng mình, quyết quên cái tiểu tiết để hoàn thành đại nghiệp, lưu danh thiên cổ, mới không uổng kiếp người. - HỎA NGƯU TRẬN : Tướng Yên là Nhạc Nghị chỉ trong 6 tháng đã chiếm của Tề 70 thành trì và sắp dứt điểm hai cứ điểm cuối cùng là Cử Châu cùng với Tức Mặc do Ðiền Ðan chỉ huy. Ðể giữ thành, ông ngày đêm hòa mình với dân chúng và binh sĩ tại đây nên dù bị vây khổn, thành vẫn được bình an suốt 3 năm. Không làm gì được nên Nhạc Nghị đành rút quân khỏi Tức Mặc 9 dặm và lập đồn lủy ngăn chặn. Thừa cơ hội trên, Ðiền Ðơn cho gián điệp sang Yên phao tin Nhạc Nghị vì muốn làm vua nước Tề nên không tấn công Tức Mặc. Vua Yên vì đã có lòng nghi kỵ lại bị gian thần dèm pha sàm tấu nên ra lênh bãi chức Nhạc Nghị rồi cử Kỵ Kiếp cầm quân tấn công Tức Mặc. Ðưọc tin trên, Ðiền Ðơn cho người giả làm thần nhơn nữa đêm tới dinh Yên phao tin ‘ tướng trời sẽ xuống giúp Tề tiêu diệt Yên vì tội xâm lấn nước người ‘.Kế này đã làm giao động quân địch. Ðể nung thêm lòng quyết tử của quân dân trong thành Tức Mặc, Ðiền Ðơn lại phao tin Kỵ Kiếp sẽ tàn sát cả thành này khi chiếm được, làm cho nguời Tề rất căm hận nên quyết lòng tử chiến với quân Yên. Ðiền Ðơn còn dùng vàng bạc hôi lộ cho Kỵ Kiếp và các tướng lảnh khác không đề phòng, chỉ lo mở tiệc ăn mừng chờ ngày Tề đầu hàng Thấy thời cơ đã đến, Ðơn tập trung tất cả số trâu đang có trong thành hơn ngàn con, cho chúng mặc áo giáp đỏ vẽ thêm các màu loè loẹt , buộc gươm giáo mác bén nhọn trên hai sừng còn phía sau đuôi trâu cột cỏ khô tẩm dầu chai. Lại chọn 500 quân cường tráng can đảm , mặc quần áo đỏ mặt mày vẽ dử tợn, tay cầm trường thương chạy theo sau trâu. Thế rồi màn đêm vừa buông xuống, trong lúc đại quân Yên đang say sưa trong giấc điệp sau một ngày tiệc tùng, thì Ðiền Ðan ra lệnh mở đại tiệc thiết đãi tam quân, thề đuổi Yên ra khỏi bờ cỏi. Sau đó cho lùa bầy trâu ra khỏi thành đốt lửa, trâu bị nóng rống lên khủng khiếp và cắm đầu chạy tông vào trại Yên, 500 quân cảm tử chạy theo sau còn quân dân trong thành thì nổi chiên trống trợ oai. Cảnh tượng lúc đó chẳng khác gì trời long đất lở trong lúc quân Yên đang ngủ say không trở tay kịp bị 1000 con trâu điên và 500 quân cảm tử tàn sát gần hết, Kỵ Kiếp cũng bị Ðiền Ðơn chém chết. Thừa thắng quân Tề đánh đuổi quân Yên tới tận bờ nam sông Hoàng Hà, Ðiền Ðơn chỉ trong một đêm thu hồi lại được 70 thành đã mất. Hỏa ngưu trận còn được Hô Diên Chước ở Lương Sơn Bạc và Nhạc Phi đời Tống dùng rất có hiệu quả
  10. 2 - TRÂU TRONG VĂN CHƯƠNG VÀ ÐIỂN TÍCH : Trong hàng gia súc sống kề cận bên người, trâu-bò cũng là loài vật có nghĩa tình nên được đưa vào ca dao tục ngữ, điển tích và trở thành những đề tài quan trọng trong nền thi ca VN. + Trâu Trong Ca Dao Tục Ngữ : - Con trâu là đầu cơ nghiệp - Lộn con toán, bán con trâu. Hai câu trên nói tới sự quan trọng của con trâu trong mọi gia đình VN tại nông thôn. Bởi vậy khi đi tậu trâu, mọi người rất cẩn trọng vì nếu sơ ý tin lời bọn lái trâu bất lương, mua nhằm trâu xấu thì tán gia bại sản là cái chắc - Ngưu lực đại, năng canh điền, năng vãn xa : nói tới sức mạnh của trâu. - Nhà anh chín đụm mười trâu Lại thêm ao cá, bắt cầu rửa chân Lời khoe khoan giàu có của các chàng trai đồng quê khi tỏ tình với bạn gái. - Ruộng sâu, trâu nái : Chỉ sự giàu có trong làng. - Làm ruộng mạnh có trâu - Làm dâu mạnh có chồng. - Tậu trâu lấy vợ làm nhà, Trong ba việc ấy, lọ là khó thay Nói tới sự quan trọng của trâu trong công việc đồng áng. - Phùng phình lớn giữa lớn ra Mẹ ơi con chẳng ở nhà được đâu Ở nhà làng bắt mất trâu : cũng có ý nghĩa giống như trên. - Muốn giàu thì nuôi trâu nái muốn lụn bại thì nuôi bồ câu : Trâu cái vừa giúp người vừa sinh nghé có lợi cho chủ nhà.nông. - Trâu ơi ta bảo trâu này trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta cấy cày vốn nghiệp nông gia ta đâu trâu đáy ai mà quản công.. chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.. Diển tả sự quan hệ mật thiết giữa trâu và người. - đàn gảy tai trâu : nghĩa bóng diển tả sự lì lợm của người đời - Ngưu đầu, mã viện : nghĩa bóng chỉ bọn người chuyên làm chuyện xấu. - Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã : chỉ bọn người xấu tìm tới nhau để lập bè nhóm.
  11. + Trâu Trong Phong Tục Tập Quán : Trước đây ở mỗi phủ huyện miền xuôi thường có chợ trâu là nơi họp mặt để mua bán trâu. Một số chợ nổi tiếng như chợ Gồi (Nam Ðịnh), chợ Thủy Nguyên, Thủy Tú, Thủy Tề (Hải Phòng), chợ Thanh Hà (Hải Dương) . Tại đây nghề lái trâu ra đời đúng như thành ngữ ‘ miệng lưỡi lái trâu ‘ mà đa so giới này là những kẻ lừa đảo , khiến cho thiên hạ tin theo phải tán gia bại sản, khi nghe theo lời đường mật nên mua lầm, vì con trâu là đầu sự nghiệp. Người Thái Trắng ở vùng lòng chảo Mường Lò (Tây Bắc) mừng Tết Xíp Xí vào tháng 7 Âm lịch, có liên quan tới vụ mùa. Dịp này người ta tổ chức cho Trâu ăn Tết. Hôm đó trâu được tắm rữa sach sẽ, dắt tới buộc ở chân cầu thang nhà sàn, chủ nhà sau khi nói đôi lời cám ơn trâu, rồi mang xôi thịt cả rượu đãi trâu. Hôm đó cũng là ngày Tết Mục Ðồng, bọn trẻ chăn trâu được tự do dắt trâu và mang thit xôi tìm tới một nơi ưa thích để nô đùa, ăn uống, ca hát. Téạt trâu cũng là một phong tục cổ truyền ở các vùng nông thôn VN. Tại Hoằng Hoá, Nga Sơn (Thanh Hóa), Vĩnh Linh (Quảng Trị), vài ngày trước Tết , người ta tìm thứ cỏ thật ngon và mớ rơm khô để thưởng trâu ăn tết. Trâu được tắm rữa sạch sẽ, chuồng cũng quét dọn kỹ càng. Sáng mùng một Tết, mỗi con trâu đều được dán trước trán một lá bùa đỏ để trừ tà, xua đuổi vận rũi trong năm cũ cũng như chúc cho trâu năm mới sức khoẻ dồi dào, ăn no cày mạnh. Sau khi cúng thần chuồng, trâu cũng được ăn cổ với các món bánh chưng, thịt cá, xôi chè.. Ðồng thời chủ cũng chọn ngày tốt dắt trâu thưởng xuân và cày thử để lấy hên. Với người Chàm ở Ninh-Bình Thuận, con trâu là loài vật có liên hệ tới các lễ nghi phong tục đồng thời cũng là lễ vật dâng cúng thần linh, ông bà, cha mẹ.. Theo phong tục tập quán từ xưa truyền lại, cứ 7 năm một lần, vào tháng 7 lịch Chàm, dân làng cúng thần linh tại núi đá trắng (Giang Patao) thuộc làng Như Bình, Phước Thái, Ninh Phước (Ninh Thuận) một con trâu trắng. Riêng lễ đâm trâu vẫn còn tồn tại với người Chàm theo đạo Bà La môn và BàNi vào dịp có tang lễ. Người Việt gốc Miên ở Nam Phần từ xưa đã có tục rước trâu bò nhân ngày Tết đến. Theo tập quán cũ, cứ vào đầu năm mới, nông dân nặn tượng trâu bò và lực điền bằng đất sét. Những tượng đất này được đặt vào kiệu để du hành trong cuộc rước lễ, do vị chức sắc đứng đầu trong sóc gọi là A-Cha chủ xướng. Ðoàn kiệu có giàn nhạc tháp tùng, khởi hành từ làng ra ruộng và đặt tất cả những tượng đất ở đó với ngụ ý là các tượng sẽ gánh hết bệnh tật và sự xui sẽo trong năm cho dân làng. Cuối cùng là xẽ thịt trâu bò để mừng năm mới. Về tục chọi trâu, trước khi xãy ra cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân Việt (1946-1954) nhiều làng xã ở Bắc Phần đã có và được cử hành vào dịp Tết. Nổi tiếng nhất vẫn ở Ðồ Sơn (Kiến An) và vùng Vĩnh-Phúc Yên. Tại đây Hội Chọi Trâu khai diễn 2 lần vào ngày 28 tháng Chạp và 17 tháng Giêng Âm lịch với 8 cặp trâu tham ự. Càng về sau do tình trạng chiến tranh, loạn lạc và đoí kém nên chỉ còn 4 cặp trâu hay it hơn tuỳ thuộc tình hình kinh tế. Theo truyền thống thì trước ngày khai hội một năm, làng xã chọn các chàng trai nuôi trâu qua bốc thăm. Người trúng tuyển được nhận 50 đồng bạc Ðông Dương để tự mua trâu về nuôi. Thời gian chăm sóc trâu cũng vô cùng vất vã cực nhọc, từ ăn uống tới chuồng trại và canh chừng không cho trâu đực sút chuồng nhảy cái. Riêng người nuôi trâu cũng bị cấm cử gắt gao từ việc ăn uống (cấm thịt chó, hành tỏi sống) và sự gần gũi đàn bà. Rồi ngày Hội Chọi Trâu cũng tới, thu hút dân chúng trong vùng và các tỉnh lân cận tham dự rất đông vui. Với những con trâu đực sung sức bị nhốt lâu ngày, nay được thả ra tha hồ chém húc chí mạng, giữa tiếng hoan hô cổ võ của con người. Thật là sung sướng vô cùng cho những chàng trai có trâu thắng cuộc nhưng cũng vô cùng bất hạnh cho ai có trâu làm biếng không chịu đấu. Chàng trai đó ngoài việc phải trả lại 50 đồng cho làng xã, mà còn bị mang tiếng là không chịu giữ trai giới nên bị thần thánh quở phạt. Trên cao nguyên Trung Phần, từ trước tới nay người Thương chỉ đốt rừng làm rẩy trồng lúa khô, nên trâu bò nuôi phần lớn chỉ dùng vào việc cúng tế lễ lạc vào các dịp Tết và lễ mừng mùa gặt mới. Trong ngày Hội Ðâm Trâu, một cây nêu cao từ 5-6m đuợc trồng, phía trên thiết một bàn thờ nhỏ để cúng thần núi và ông bà bản địa. Quanh thân cột được chạm trổ tinh vi cắm nhiều lưởi dao. Con trâu tế thần bị cột ở đó. Sau khi pháp sư hành lễ xong, một chàng trai lực lưởng ra sân chém trâu. Mọi người trong thôn bảng đều có mặt hôm đó và vây kín sân lễ, giữa tiếng chiêng trống nổi lên phá tan sự im vắng hằng ngày của núi rừng, như để cổ võ tinh thần của người trong cuộc. Ðầu tiên chàng ta chạy vòng theo con trâu, thừa dịp dùng dao bén chém vào bốn gót chân con vật. Trâu bị thương té quị giữa sân lễ, để rồi hứng chịu thêm nhiều mũi giáo nhọn đâm lũng tim tới chết. Sau cùng đám thanh niên khác a vào phanh thây trâu, đem nướng trên đống lửa đang bùng cháy dữ dội, miệng tu rượu cần và ca hát vui vẽ. Nam Dương là một quốc gia hải đảo sống về nông nghiệp trồng lúa nước. Tuy vấn đề chủng tộc rất phức tạp tại đây nhưng dù là người Batak, Minang Kabaus hay Toradjas.. đều tôn trọng trâu sau sự thờ cúng tổ tiên, vì chinh con vật tại đất nước này được xem như là một biểu tượng giúp họ đắc lực trong đời sống hàng ngày. Ngoài ra trâu còn được nhắc nhớ từ truyền thuyết của người Minang Kabaus ở tây bắc đảo Sumatra, đã nhờ một con trâu giỏi, phá đuợc dã tâm sáp nhập vùng này vào Mã Lai. Tên bộ tộc này đuợc đặt theo tên của con trâu đã chiến thắng từ đó (Minang ốKabaus) có nghĩa là trâu chiến thắng. Người địa phương đã lấy sừng trâu để trang trí các mái nhà. Còn người Batak thì có tục chọi trâu với ý nghĩa nhờ đức tính của trâu sẽ truyền sang những đôi trai gái vừa mới cưới. Trâu cũng được dự phần trong thực đơn của vua chúa Trung Hoa từ trước tới nay vẫn nổi tiếng ăn uống rất cầu kỳ tốn kém. Món ‘ Da Tây Ngưu (Trâu Tây Tạng)’ được xếp trong thập trân gồm : gan rồng, chả phụng, bao tử cọp, vi cá gáy, thịt cú, môi đuời ươi , bàn tay gấu, nem cóc và da tây ngưu. Tây ngưu hay Tê ngưu (Seaigan) thuộc bộ bò, nhóm phụ tây ngưu rất giống trâu về vóc dáng nhưng đặc biệt chỉ có một sừng mọc trên sóng mũi, bén nhọn như mũi mác làm bằng thép cứng dài khoảng 0, 70m, là vũ khí lợi hại dùng để tấn công kẻ thù như voi, cọp, sư tử.. Nó rất hung dữ, đa tình, sống thành từng đàn tại vùng tây nam Trung Hoa, trong những khu rừng thưa sình lầy có khí hậu ẩm thấp. Trên cao nguyên Tây Tạng có nhiều loại tây ngưu như hắc tây ngưu da đen một sừng, bạch tây ngưu lông trắng hai sừng và sơn tây ngưu chỉ sống trên núi cao. Loài tây ngưu chân có ba móng như heo, đặc biệt là da rất dày trên một tât (10 cm) lại dai như gân, cứng như sắt thép nên không có thứ vũ khí nào kể cả đạn xuyên thủng được. Tây ngưu săn mồi vào ban đêm, ăn cây cỏ thực vật, uống nước bùn và ngủ li bì ban ngày. Sừng tây ngưu là thuốc quý chửa các loại bệnh ung nhọt nhưng chính da mới là một trong mười món thập trân cao lương mỹ vị của vua chúa và giới hào phú Tàu. Nhưng hạ con vật này là một công việc hiểm nguy đầy khó khăn không thua gì sự chế biến da tây ngưu thành món thập trân cho vua chúa. Da tươi trước hết đem cạo hết lông, lóc bỏ phần mỡ rồi đem phơi nắng ban ngày, tối sấy khô liên tục trong 200 ngày. Sau đó đem da tẩm rượu mai quéạ lộ loại thượng hạng trong một tháng, vớt ra phơi khô và cất kỹ trong một chiếc hộp làm bằng vàng hay bạc, để giữ mùi thơm. Lúc ăn đem da ngâm trong nước tro thảo mộc loại quý suốt 7 đêm ngày mới vớt ra, rữa sạch rồi đem chưng cách thủy cho chín. Cuối cùng thái thành từng lát mỏng, nấu với các vị thuốc bổ thêm vào các gia vị hảo hạng. Lúc này da tây ngưu trở thành giòn như thạch, có mùi thơm ngát tựa hoa hồng. Da tây ngưu chữa dứt được hôi nách và nhiều loại bệnh thời khí.
  12. Ðược biết các bộ tranh Chăn Trâu của Phật Giáo Ðại Thừa và Thiền Tông Trung Hoa đều xuất hiện vào đời Nhà Tống (thế kỷ XII), nội dung nói chung chỉ khác biệt chút ít về quá trình đốn ngộ (giác ngộ tức thì) và tiệm ngộ (giác ngộ từ từ) . Yếu điểm cách tu trì của Thiền Tông là những công án được đề xướng như nhát búa cuối cùng đập vỡ những suy tưởng mà con người dựa vào đó để biện luận cho nhân sinh quan của cuộc đời. Ðó là lý do tranh chăn trâu của Thiền Tông đã không dừng lại ở giai đoạn ‘ quên cả vật và ta’ mà lại quay về cái bản thể chân thật, để rồi rong chơi trong cõi thực tại này. Các bộ tranh chăn trâu trên được du nhập vào VN từ lâu nhưng tới thời Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719) mới xuất hiện một bộ tranh chăn trâu do thiền sư Quảng Trí ở chùa Trấn Hải sáng tạo, dựa theo 10 bức tranh chăn trâu của Phật Giáo Ðại Thừa, ngoài ra ông còn vẽ thêm những cảnh giới để đạt tới tâm thức gọi là phép luyện tâm. Ðây là một công trình quý báu của Phật Giáo VN, đã được khắc in vào thời Vua Tự Ðức nhà Nguyễn. Tóm lại dù có xuất xứ từ Nhật Bổn, Trung Hoa hay VN, 10 bức tranh chăn trâu hay Thập Mục Ngưu Ðồ trước sau vẫn là một công trình tu tập của Phật tử, đi từ giới tới định và huệ, từ thanh vân, duyên giác đền Bồ Tát, Phật và cuối cùng đạt tới đỉnh của hửu tâm trở thành vô tâm, tất cả là không và đó là cõi niết bàn.. như bài kệ của một thiền sư đời Lý đã đốn ngộ : ‘ Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không Vừa xem bóng nguyệt lòng sông Ai hay không có, có không là gì ? Ðó mới chính là mục đích mà các vị chân tu khi sáng tạo ‘ Thập Mục Ngưu Ðồ Tụng ‘ chỉ mong Phật tử tu tập để biến Trâu Ðen (ô trọc) thành Trâu Trắng (Ngộ) thế thôi. - Huyền Thoại về Mục Tử VN : Trong dòng Việt Sử từ buổi bình minh lập quốc tới ngày nay, đã có không biết bao nhiêu danh nhân xuất thân từ mục tử, làm nên sự nghiệp an dân giúp nước rất hiển hách, lưu danh thiên cổ, ai đọc tới cũng cúi đầu ngưỡng mộ. ÐINH TIÊN HOÀNG ÐẾ : Tên thật Ðinh Bộ Lĩnh người Ðộng Hoa Lư, thuộc huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình (Bắc Phần). Lúc bé cha mất sớm nên ông sống với mẹ ở nông thôn, ngày ngày cùng lũ trẻ chăn trâu, thường bắt chúng khoanh tay làm kiệu rước mình . Lại lấy hoa lau làm cờ lệnh, chia phe dàn trận đánh nhau ngoài đồng. Lớn lên ông theo Trần Minh Công dẹp yên loạn sứ quân trong nước, nên được xưng tụng là Vạn Thắng Quân. Năm 968 lên ngôi hoàng đế , lập nhà Ðinh xưng hiệu Ðinh Tiên Hoàng đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình). QUỐC TRIỀU TÁ MỆNH CÔNG NGUYỄN CHÍCH : Tá Mệnh Công tên thật là Nguyễn Chích, người Mã Trạch Ðông Sơn tỉnh Thanh Hóa (Trung Phần) . Mồ côi cha mẹ rất sớm lại phải nuôi nấng hai em còn thơ dại nên phải bán mình làm kẻ chăn trâu trong làng. Từ thuở nhỏ, ông đã có biệt tài nuôi và dạy chim bồ câu đưa tin trong chiến trận. Lớn lên theo Bình Ðịnh Dương Lê Lợi suốt 10 năm kháng chiến đánh đuổi giặc Minh, lập được nhiều chiến công hiển hách nên được vua ban quốc tính và phong tới chức Tá Mệnh Công . Ông mất ngày 26/11/1449 được an táng tại quê nhà. LƯỞNG QUỐC TRẠNG NGUYÊN NGUYÊN TRỰC : Ông là con cháu công thần đời Trần nhưng vì loạn lạc nên gia đình lui về sống ẩn dật tại quê nhà ở Phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây. Thuở nhỏ phải chăn trâu giúp cha mẹ nhưng bản tính thông minh hiếu học nên ông thường dùi mài kinh sử trên lưng trâu. Năm 26 tuổi thi đổ trạng nguyên dưới triều vua Lê Thái Tông (1442) . Năm 1445 ông đi sứ sang Tàu, gặp lúc nước này đang mở khoa thi nên xin ứng thí và đổ trạng nguyên, mới được gọi là ‘ lưởng quốc trạng nguyên ‘. NHÀ QUÂN SỰ LỪNG DANH ÐÀO DUY TỪ : Ông người Thanh Hóa, vì thuộc gia đình ‘ xướng ca’ nên không được phép dự thi, vì vậy phải bỏ vào Nam Hà để lập thân. Là người thông suốt kinh sử, giỏi thuật số và sáng tạo nhưng sống nơi xứ lạ không có người tiến dẫn phải xin vào chăn trâu cho một phú ông ở xã Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn tỉnh Bình Ðịnh. Tại đây ông được phú ông mến tài nên gã con gái và tiến cử với Sải Vương Nguyễn Phúc Nguyên. Từ đó ông được chúa trọng vọng giao hết binh quyền nên một lòng giúp Nam Hà ổn định chính trị, kinh tế, quân sự, đắp luy Trường Dục (Quảng Bình) ngăn giặc Trịnh phương Bắc, đồng thời mở đầu cho cuộc nam tiến, nhờ vậy bờ cỏi nước ta mới được rộng lớn như hiện nay.
  13. 1- HUYỀN THOẠI VÀ TẬP QUÁN LIÊN HỆ TỚI TRÂU : + Nguồn gốc và phân loại Trâu : Trâu VN có cùng xuất xứ với loài trâu Ðông Nam Á thuộc nhóm trâu đầm lầy (Swamp Buffalo) có vóc dáng vạm vở, bụng to chân ngắn, lông màu xám đen, sừng dài nhưng cong ngược về phía sau như hình bán nguyệt. Ðặc biệt có một miếng vá xám trắng gần góc trong của mỗi con mắt và luôn luôn có hai đai trắng (chevron), một ở dưới cổ gần cuống họng, còn cái kia ở ngực. Trâu cái mang thai từ 11-11,5 tháng mỗi lứa 1 tới 2 nghé. Từ các di chí tìm được tại Phú Lộc,Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa, cho thấy trâu đã được dân Lạc Việt thuần dưỡng từ thời các vua Hùng trị nước Văn Lang. Theo nhà động vật học K.Kenler (1920) thì trâu là con vật cổ xưa thuộc nhóm thú có sừng đầu tiên trở thành gia súc. Trâu thuộc bộ Bò (Bos) loài nhai lại có sừng rổng chân mang móng guốc chẳn. Tuy cùng họ với bò, linh dương, sơn dương, dê.. nhưng trâu có những sự khác biệt về cấu tạo sinh học với nhóm thú tương cận trên. Loài trâu hiện có 3 nhóm : trâu Anom, trâu Châu Á và trâu Châu Phi. + Trâu trong lãnh vực tín ngưỡng, huyền thoại và quân sự : - Trong Lãnh Vực Tín Ngưỡng : Theo lòng tin của các tín đồ Phật Giáo đồ Ấn Ðộ, Tích Lan và các nước Ðông Nam Á, thì ngay từ buổi khai sinh lập địa, Ngọc Hoàng Thượng Ðế phái Kim Quang Bồ Tát đem hai loại hạt giống ‘ cỏ và lúa’ xuống trần gian tạo thức ăn cho người và súc vật với số lượng 5 lúa 1 cỏ. Nhưng Bồ Tát lại làm trái lời Thượng Ðế, gieo 5 lần cỏ trước và lúa thì gieo sau chỉ một lần. Bởi vậy khắp trần gian cỏ mọc tràn lan làm cho con người thiếu thực phẩm để sống nên phải làmviệc cực nhọc khi đốn cỏ cây dọn sạch đất mới trồng lúa đuợc. Vua trời biết giận dữ nên đày Kim Quang xuống trần làm trâu để ăn hết cỏ. Từ huyền thoại trên, ta thấy loài trâu-bò ngoài việc phải làm việc rất cực nhọc ban ngày, đêm tới còn phải nhai cỏ bõm bẻm như muốn chuộc lại lầm lỗi đã gây ra. Ðó cũng là lý do tín đồ Phật Giáo cử không ăn thịt trâu. Thật ra người VN dù theo bất cứ tôn giáo nào, cũng đều không thích giết trâu ăn thịt vì thương con vật có nghĩa tình lại giúp họ làm nên cơ nghiệp, ngoại trừ đồng bào Thượng sống trên cao nguyên Trung Phần. Ðại Việt ngay từ thời Lý Trần (thế kỷ XI-XIV) lấy nông nghiệp làm nguồn kinh tế chính cả nước, do đó đã ban hành chính sách phân chia ruộng đất cho nông gia để khuyến khích việc đồng áng tăng gia sản xuất. Ðồng thời chính quyền cũng rất quan tâm tới ‘ con trâu ‘ vì nó là động lực giúp nhà nông trong mọi nông vụ. Bởi vậy năm 1123 vua Lý Nhân Tôn đã xuống lệnh ‘ Cấm Giết Trâu Ăn Thịt ‘ ai vi phạm sẽ bị phạt nặng theo luật pháp. Tiếp đến thời Nhà Trần cũng noi theo Luật Hình Thư (đời Lý) mà sửa đổi thành Hình Luật , trong đó qui định hình phạt về các tội ăn trộm và giết hại trâu bò. Hàng xóm hay bất cứ ai biết mà che chở không tố giác cũng bị xử đánh Trương rất nặng. Vào những ngày đầu xuân, nhà vua thân chính tới lễ đàn để tế Thần Nông và cũng tự mình cầm cương dắt trâu làm lễ cày ruộng tịch điền, tuy chỉ là một hình thức tượng trưng nhưng lại vô cùng ý nghĩa về sự quan tâm của chính quyền đối với nên nông nghiệp của nước nhà. Tịch điền là một thửa ruộng dành riêng để nhà vua cử hành nghi thức cày ruộng đầu năm. Riêng con trâu cày ruộng tịch điền, cũng được nuôi dưỡng đặc biệt và là loài trâu đực thiến. Ngày làm lễ, trâu được tắm rữa sạch sẽ, mặc gấm vóc. Vua sau khi tế thần xong, thì bước xuống ruộng cày một đường tượng trưng, mở đầu cho vụ mùa năm mới cầu cho cả nước được ‘ phong đăng, hòa cốc ‘ làng nước thanh bình, muôn dân an cư lạc nghiệp. Một giáo sĩ người Ý tên AdrianoDi Santa Tecla thuộc giòng Augustin truyền đạo Thiên Chúa tại Ðàng Ngoài từ năm 1738-1765, kể chuyện ‘ Ðám Rước Trâu Ðất Trong Lễ Lập Xuân ‘ dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh ‘ cách đây 300 năm. Tài liệu quý giá này là một bản viết tay, hiện được lưu trữ tại thư viện quốc gia Pháp (Bibliothèque Nationale) bằng tiếng Latin dưới tựa đề ‘ Opusculum de sectic apud Sinenseset Tunkinenses ‘, được tham khảo từ hai bức thư của vị linh mục Tây Ban Nha tên Francisco Gil de Frderich có tên Việt là Tế, đã ghi lại những phong tục tập quán ngày xưa ở Bắc Hà, khi ông bị giam trong ngục từ năm 1737-1745. Phan Huy Chú cũng ghi lại đám rước Trâu và Mục Ðồng trong dịp lễ tế Lập Xuân hàng năm vào dịp Tết Nguyên Ðán gần giống như tài liệu của các vị giáo sĩ Thiên Chúa Giáo từng truyền đạo tại Ðàng Ngoài. Cũng liên quan tới Trâu trong lãnh vực tôn giáo và tín ngưỡng, ngoài việc các dân tộc Trung Á và đồng bào thiểu số ở cao nguyên Trung Phần tới nay vẫn giữ nguyên tục lệ giết trâu để tế thần linh hay tổ chức lễ lat. Nhà toán học Ấn Ðộ là Pythagore cách đây gần 25 thế kỷ, đã tìm được định lý mang tên ông để tính các cạnh trong một tam giác vuông ‘ bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương của hai cạnh góc vuông : a2 + b2 = c2. Ðồng lúc nhà Chu bên Tàu cũng tìm được công thức số học tương đương với định lý hình học trên ‘ 3x3 + 4x4 = 5x5. Ðể ăn mừng phát minh trên, nhà Chu đã giết trâu theo công thức trên vào các dịp tế lễ nếu nhỏ thì 25 con còn lớn thì dùng tới 100 con cũng dưa theo công thức số học : 6x6 + 8x8 = 10x10. THẬP MỤC NGƯU ÐỒ : Tám trăm năm trước, một vị thiền sư người Nhật đã vẽ 10 bức tranh Trâu gọi là ‘ Thập Trận Ngưu Ðồ ‘ dùng làm tài liệu Phật học để các đệ tử chiêm ngưỡng phá Công Án. Sau đó nhưng búc tranh trên được vẽ lại và truyền sang Trung Hoa, phổ biến trong các thiền viện qua cái tên mới là ‘ Thập Mục Ngưu Ðồ ‘.Ðây là mười bức tranh ‘ chăn trâu’ duợc giới Phật Học Tàu dùng để tượng trưng cho cái tâm của con người, rất khó điều ngự (tâm viên ý mật) ý nói tâm con người luôn nhảy nhót như con vượn, vì vậy cần phải tu dưỡng để đưa nó trở lại con đường chính đạo.
  14. 2 Anh em và con trâu hạnh phúc I Ngày xưa có một người đàn ông, vợ mất sớm, ở vậy mà nuôi con. Ông có hai đứa con trai còn nhỏ dại, đứa lên năm và đứa thì lên tám. Ông nói với hai con rằng: — Mẹ các con mất sớm. Nhưng Ba sẽ hết lòng nuôi nấng và dạy dỗ các con. Ước mơ sâu sắc nhất của Ba là thấy hai con thương yêu nhau. Thằng Lớn thương em như là thương chính mình. Thằng Nhỏ thương anh chẳng khác gì thương Ba mình. Tiếc thay, hai anh em không hiểu lời ông dạy. Anh em tranh giành với nhau từng ly, từng tí; từ miếng ăn cho đến chỗ ngủ. Ngày hôm đó, người đàn ông bệnh nặng, và biết rằng mình không còn sống lâu nữa. Ông gọi hai con đến bên giường, mà nói: — Ba thất bại rồi. Cả đời mình, Ba chưa hề thấy hai con thương nhau. Bây giờ Ba chết đi, hai con sẽ tranh giành gia tài, mà mất hết tình anh em. Nghĩ đến đó, Ba đau lòng muốn chảy máu mắt. Thằng Lớn nói: — Con sẽ thương thằng Nhỏ. Con sẽ nuôi nấng nó như Ba đã thương yêu và chăm sóc cho chúng con. Xin Ba trao lại gia tài, ruộng nương cho con. Thằng Nhỏ lại nói: — Xin Ba cứ chia đều tài sản làm hai phần. Con sẽ siêng năng làm lụng, giúp đỡ anh Lớn khi anh cần đến con. Vậy là đến phút cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn còn thấy hai đứa con của mình tranh giành, hơn thua với nhau. II Người cha qua đời, hai anh em chia căn nhà ra làm hai. Ruộng nương chia ra làm hai. Đồ dùng trong nhà cũng chia đều thành hai phần. Chỉ có con trâu, hai anh em không biết chia chác làm sao cả. Người anh nói: — Anh lớn, con trâu thuộc về anh mới phải. Người em không đồng ý, đòi chia con trâu ra làm đôi. Nhưng con trâu là vật sống, chia nó làm đôi có nghĩa là phải giết nó đi, và hai anh em lấy gì mà cày ruộng. Hai anh em đang cãi vã, chưa biết làm gì, thì đột nhiên con trâu nói: — Tôi sẽ cày ruộng cho cả hai ông. Lâu nay, tôi vẫn làm việc siêng năng, cày tất cả ruộng nương của gia đình, chứ đâu có cày một nửa. Hai ông cứ nuôi tôi đàng hoàng, thì tôi sẽ làm việc cho cả hai ông. Hai anh em nghe con trâu nói chuyện thì ngạc nhiên quá chừng. Người anh hỏi: — Mày biết nói từ lúc nào? Con trâu trả lời: — Xưa nay tôi vẫn biết nghe, biết nói. Chẳng qua là tôi thích im lặng, nên các ông tưởng tôi không biết nói đó thôi. Người anh lại hỏi: — Mày sẽ làm việc cho hai anh em tao. Điều đó thì tốt rồi. Nhưng mày muốn ở với ai? Ai sẽ là người nuôi nấng mày? Và hai anh em lại cãi với nhau thêm nửa ngày nữa. Không ai muốn nuôi con trâu cả. Con trâu nói: — Tôi biết tự chăm sóc cho tôi. Từ nay, không ai cần phải quan tâm đến tôi. Đến mùa cày, tôi sẽ ra sức làm việc cho hai người. Cuối cùng, chỉ có con trâu là biết sống hài hoà với hai anh em. Còn thằng Lớn và thằng Nhỏ thì cả ngày cứ tranh giành với nhau những chuyện nho nhỏ. Anh em họ khổ đau vì những chuyện nhỏ đến không ngờ. III Hai anh em không có hạnh phúc chỉ vì tánh ưa tranh giành. Con trâu thấy hết, nghe hết, nhưng không nói gì. Nó ăn bờ, ngủ bụi, cả ngày lang thang trên những cánh đồng cỏ rộng bao la của hai ông chủ trẻ. Một buổi chiều nọ, người em hỏi: — Cả ngày hôm nay, mày ăn cỏ trên cánh đồng của ai? Tao để ý, thấy mày thường lai vãng trên đồng cỏ của tao nhiều hơn. Mày có thấy là mày không biết điều hay không? Con trâu trả lời: — Từ ngày không còn ở trong chuồng nữa, tôi thấy mình thật tự do. Đi chơi trên những cánh đồng, tôi chưa từng phân biệt đây là cánh đồng của ai. Khi cày bừa, tôi cũng không hề phân biệt là đang cày đất của ông Lớn, hay là của ông Nhỏ. Đó là hạnh phúc của tôi. Ông có thể xem đó là hạnh phúc của một con trâu. Nhưng hạnh phúc của một con trâu lớn lắm. Lớn lắm. — Tao không biết mày học đâu những danh từ như hạnh phúc, tự do. Mày là một con trâu, thì suốt đời mày vẫn là một con trâu. Mày hiểu không? Mày sẽ không bao giờ được diễm phúc làm một con người. Con trâu hỏi: — Làm người có hạnh phúc không, thưa ông Nhỏ? Câu hỏi làm người em suy nghĩ. Nó nhớ tới những khó khăn, bực bội mà nó phải chịu đựng lâu nay. Nhất là từ khi cha qua đời, hai anh em nó thường xuyên lớn tiếng với nhau. Không, nó không thấy hạnh phúc. Nó không thấy tự do. Người em nói: — Tao phải chịu nhiều khổ đau. Mà nguyên nhân chính là do anh Lớn không thương tao. Anh Lớn hơn thua với tao từng chút một. Tao làm người, nhưng không có hạnh phúc. Con trâu nghe vậy thì cười lớn: — Vậy thì ông đừng khinh tôi nữa. Ông làm người mà không có hạnh phúc, thì đâu bằng tôi làm con trâu nhưng có rất nhiều niềm vui. Câu nói của con trâu thật có lý. Cả ngày hôm đó, nó để tâm tư mình chìm đắm trong sự suy tư. Càng nghĩ, nó càng giận anh mình. Phải chi anh nó rộng lượng hơn, thì nó đã không phải khổ đau như vầy. Nó quên mất rằng chính nó cũng gây ra nhiều khổ đau cho người anh. Anh em nó khổ đau vì những chuyện rất nhỏ. IV Con trâu phải làm việc cực nhọc, nhất là trong những ngày mùa, nhưng không đau khổ như hai anh em ông chủ. Hai anh em ông chủ có thật nhiều của cải, giàu có, không phải làm việc như con trâu, nhưng lại không có hạnh phúc. Một hôm, người anh chợt nhớ đến cha mình. Điều ông ao ước nhất ở trong cuộc đời mình là hai anh em thương yêu nhau. Người anh nghĩ: — Giàu có để làm gì, trong khi mình sống không có hạnh phúc. Cha ao ước mình biết thương em, nhưng mình làm không được. Con trâu không giàu có, nhưng sống có tình nghĩa, hạnh phúc. Mình hãy hỏi con trâu, làm cách nào để hai anh em sống hoà thuận với nhau được. Người anh nghĩ vậy, và tìm đến con trâu, đang dạo chơi trên cánh đồng cỏ xanh. Từ đàng xa, nhìn thấy con trâu, người anh lại nghĩ: — Phải chi mình có được niềm hạnh phúc của con trâu. Nó đến gần, vuốt ve lưng con trâu rồi nói: — Mày may mắn, không có người em để mà cãi cọ. Mày cũng không có của cải để mà giữ gìn. Tao công nhận là mày có hạnh phúc. Mày ăn cỏ trên đồng xanh, ngắm mây trắng bay trên nền trời bao la. Mày có trí tuệ gì, giúp hai anh em tao hoà thuận, thương yêu nhau được thì tao đối xử tốt với mày. Tao nuôi mày suốt đời mà không cần cày cấy gì nữa cả. Con trâu nhìn người anh lâu lắm, mà không nói câu nào. Người anh sốt ruột, hỏi; — Mày hiểu những gì tao nói không? Con trâu gật đầu: — Tôi hiểu. Tôi nghĩ nếu nghe được lời nói này, thì cha của ông sẽ hạnh phúc không biết bao nhiêu mà kể. Tôi đã từng nghe cha của ông tâm sự nhiều lần, muốn anh em ông sống hoà thuận, biết thương yêu nhau. Ông ta sợ là ước mong của ông không được toại nguyện. — Tao muốn được như mày. Mày sống thật thong dong, không lo lắng gì cả. — Đó là vì tôi chấp nhận cả hai ông chủ. Tôi thương hai người chứ không thương riêng một người. Nếu chọn phe, tôi sẽ đánh mất sự thảnh thơi, nhẹ nhàng của tôi. Tôi sẽ cho rằng cỏ ông chủ Lớn ngon hơn cỏ của ông chủ Nhỏ. Ông chủ Nhỏ chăm sóc mình tốt hơn ông chủ Lớn. Mình nên siêng năng làm việc cho ông chủ Lớn hơn là cho ông chủ Nhỏ. Tôi không phân biệt. Tôi chỉ thương thôi. — Anh em tao đau khổ vì những chuyện rất nhỏ. — Con người là vậy. Con người sống với nhiều kỷ niệm vui buồn. Con người thường không có khả năng tha thứ. Những gì ông Nhỏ làm sai, ông Lớn không quên được. Ngược lại ông Nhỏ cũng không bỏ qua những lỗi lầm của ông Lớn. Tôi làm thân trâu, cày cấy cho các ông, thỉnh thoảng còn bị các ông cho ăn roi vọt. Nhưng tôi nhớ đến tánh tốt của các ông mà chấp nhận hai ông, quên đi tất cả những điều đau buồn. Tôi khoẻ. Người anh thấy con trâu nói đúng. Rõ ràng là em mình cũng có nhiều tánh tốt nhưng người anh đâu có nhớ đến. Nó hỏi: — Thương là nhớ đến tánh tốt của người kia? — Thương là biết ơn. Nhớ những gì tốt đẹp người kia đã mang đến cho mình. Ông Lớn và ông Nhỏ đều đã cho tôi rất nhiều. Ông Lớn có biết ơn em mình không? Ông Nhỏ có bao giờ mang lại niềm vui cho ông Lớn không? Nếu có, ông Lớn nên biết ơn ông Nhỏ. Và ông Lớn sẽ thấy mình thật hạnh phúc. V Người anh về nhà với lòng biết ơn con trâu. Lâu nay, anh em nó đối xử với con trâu thật tệ. Con trâu giúp đỡ anh em nó, bị đánh đập nhưng chưa hề đem lòng oán giận. Người anh thấy anh em nó thua con trâu nhiều lắm. Chiều đó, nó nói với người em: — Căn nhà của Ba rất rộng. Lâu nay anh em mình chia đôi căn nhà, nên căn nhà trở nên chật hẹp. Con trâu, tuy là loài vật, nhưng nó biết không phân biệt, không chia đôi đồng cỏ ra làm hai phần. Anh em mình là con người, mà ở chung với nhau trong một căn nhà không được. Tánh tranh giành của anh xấu thật. Anh không bằng con trâu. Người em không ngờ anh mình nói được một câu như vậy. Nó bỗng thấy hối hận. Những ngày tháng qua, anh em nó chưa bao giờ sống hạnh phúc bên nhau. Chúng nó không bằng con trâu thật. Người em bỗng thấy tiếc rẻ. Những bất đồng nho nhỏ đã lấy đi không biết bao nhiêu ngày tháng hạnh phúc của anh em nó. Nó nói: — Từ nay, mình chỉ có một căn nhà chung, một đồng cỏ chung, một con trâu chung. Nghĩ đến đó, tự nhiên em thấy căn nhà của mình thật rộng. Đồng cỏ của mình cũng trở nên thật rộng. Và con trâu, tấm lòng của nó rộng bao la mà em đâu có biết. Từ nay nó là bạn của anh em mình. Mình đừng bắt nó cày cấy nữa, nha anh? Người anh nghe em mình nói thì vui lòng lắm. Nó cảm nhận một niềm hạnh phúc mà nó chưa từng biết qua. Đó là một không gian thật rộng lớn ở trong tâm nó. Người anh nói: — Anh chính là con trâu đây. Anh vui quá. Người em nghe anh nói mà không hiểu gì cả. Nhưng nó thấy anh mình thật vui. Nó nhìn anh mà cười. Đêm hôm đó, trong giấc ngủ, người em nằm mộng thấy cha mình đứng bên giường, nhìn nó với đôi mắt hài lòng. Nó đâu có biết là, cùng một lúc, anh nó cũng có một giấc mộng tương tự như vậy. Từ đó, hai anh em và con trâu sống chung thật là lâu, thật là lâu. Họ sống thật hài hoà với nhau. Thật hạnh phúc. Sunnyvale, 30-4-2008 Sưu tầm
  15. 1. Cứ bảo tuổi"sửu" được không? Đồn rằng có một ông quan huyện rất thanh liêm, không ăn của dút bao giờ. Bà huyện thấy tính chông như vậy cũng không dám nhận lễ của ai. Có làng nọ muốn nhờ quan huyện bênh cho được kiện, nhưng mang lễ vật gì đến, quan cũng gạt đi hết. Họ mới tìm cách đút lót với bà huyện. Bà huyện cũng chối đây đẩy: - Nhà tôi thanh liêm lắm, tôi mà nhận của các ông thì mươi, mười lăm năm sau, ông ấy biết ông ấy cũng vẫn còn rầy la tôi cơ đấy! Dân làng năn nỉ mãi, bà nể tình mới bày cách: - Quan huyện nhà tôi tuổi "tí". Dân làng đã có ý như vậy, thì hãy về đúc một con chuột bạc đến đây, rồi tôi cố nói giùm cho, họa may được chăng! Dân làng nghe lời, về đúc một con chuột cống thật to, ruột đặc, toàn bằng bạc đem đến. Một hôm, ông huyện trông thấy con chuột bạc, mới hỏi ở đâu ra, bà huyện liền đem sự tình kể lại. Nghe xong, ông huyện mắng: - Sao mà ngốc vậy! Lại đi bảo là tuổi "tí"! Cứ bảo tuổi "Sửu" có được không!
  16. 2.Sát sinh tội nặng lắm Một người dắt trâu vào chợ bán. Có nhà sư trông thấy, bảo: - Ngày nào ngươi cũng sát sinh, tội nặng lắm! Để nhà chùa làm lễ sám hối cho, có bằng lòng không? Người dắt trâu hỏi: - Sám hối thì phải thế nào? Sư bảo: - Bán rẻ trâu cho nhà chùa để nhà chùa phóng sinh, thả cho nó đi cày Người dắt trâu nói: - Vâng! Nhưng xin nhà chùa choi con năm tiền, chứ kém không được. Sư nói: - Nam mô phật! Sao đắt thế! Xưa nay nhà chùa vẫn mua thịt trâu ở hàng cơm cũng chỉ có ba tiền một con, nữa là trâu chưa nướng.
  17. Các bạn yêu cây thân mến. Sau rất nhiều ngày "mai phục", hôm nay "Trâu Kỷ Sửu" một cây cảnh rất lạ đã thuộc về Comaihoa tôi. Xin được giới thiệu với các bạn để cùng chi xẻ. Đây là cây đẳng, loại cây thân gỗ có nhiều trên vùng núi Quảng Nam. Là thứ cây xưa kia người dân ở quê tôi thường lên rừng lấy về làm củi. Cây này đã được một ông lão ở thị trấn Ái Nghĩa (Đại lộc, Quảng Nam) tình cờ phát hiện và mua về. Dáng thế của cây hoàn toàn tự nhiên, chưa có bất cứ sự can thiệp nào. Điều ký lạ là trông nó rất giống một con trâu. Do vậy mà Comaihoa xin đặt tên cho nó là "Kỷ Sửu Xuân". Mời các bạn cùng nhận xét. Kỷ Sửu Xuân - Cây cảnh lạ!Theo http://new.dalatrose.com/View/113/3472/1
  18. 1. Trước Minh Đường nhà ở tại sao cần phải tụ nước? Trước có sông nhỏ, sau có núi cao, thường được cho là môi trường ở lý tưởng nhất. Phía sau có núi đương nhiên dựa vào thế núi, có thể tàng phong tụ khí, địa hình cũng là “trước thấp sau cao”, vững như Thái Sơn; trước có Minh Đường (một khoảng đất trống trước nhà) rộng lớn, tầm nhìn rộng, sông nhỏ cong cong, ví như “có tình nước”, “Uốn khúc ắt có tình” sẽ không có bệnh tật. Trước cửa có hồ nước hoặc hồ phun nước, phong thủy gọi là trước Minh Đường tụ nước, mà trước Minh Đường có nước ắt là có Phúc. Về mặt tâm lý, con người luôn xem nước tượng trưng cho Phúc khí. Thật ra đối với môi trường nhà ở trước đây, trước nhà có nước có thể tiết kiệm được đoạn đường chạy đi gánh nước, chỉ là sự thuận tiện trong sinh hoạt, mà đối với người xưa sự thuận tiện trong cuộc sống chính là Phúc khí. Ngày nay trong vùng đô thị chúng ta rất khó tìm được nhà ở có kết cấu “muốn gió có gió, muốn nước có nước”. Nhà ở ngày nay tuy không dùng được nguồn nước thiên nhiên của tự nhiên cho nhưng hoàn toàn có thể dùng sức người để bù đắp. Ví dụ, trước phía đông quảng trườn ở hướng bắc đường Trường An, Bắc Kinh xây một hồ phun nước rất to, tuy là kiến trúc vô cùng hiện đại nhưng ngược lại nó hoàn toàn tuân theo lý luận của Phong Thủy học truyền thống. Là một nơi hoạt động thương mại, cầu được phúc lợi mới là mục đích chính của nó, tức hy vọng tiền tài rộng tiến, ngụ ý này được nhấn mạnh bằng ngọn suối phun thẳng lên không. Ở trung tâm hành chính Singapore, năm tòa nhà hành chính được xây dựng theo kích cỡ tượng trưng cho 5 ngón tay của bàn tay phải người đàn ông, chính giữa có hồ nước phun, suối nước phun từ trên cao xuống vào lòng bàn tay tượng trưng cho tiền của vào tay. Điều cần chú ý là trước cửa tuy có nước nhưng cần phải phân biệt đó là loại nước như thế nào. Phong Thủy chia nước làm 2 loại là nước chết & nước sống. * Nước sống: chỉ nước sạch chảy với tốc độ vừa phải & có năng lượng sống phong phú. Nước sống lưu động đem đến sự tỉnh táo, sức sống cho môi trường sống của con người. Dẫn nước sống vào môi trường xung quanh nhà ở của mình, Phong Thủy học cho rằng đó là dẫn tài khí vào nhà. * Nước chết: chỉ nước hôi thối, ô nhiễm, nhiều côn trùng, thiếu năng lượng sống. Chúng sẽ không có lợi cho môi trường sống của con người, không ích lợi cho sức khỏe, cũng không thể mang đến một tâm tính tốt. Ngoài ra còn phải lưu ý đến hình thái của nước. Dòng nước đối diện với tòa nhà có thể là một thủy triều yên ổn không nổi sóng hoặc là một đại dương sóng dữ cuộn trào mãnh liệt. * Dòng nước chảy êm đềm là Phong Thủy tốt. Như nhà ở đối diện với hồ nước, hồ bơi, bến nước yên bình, êm ả… Những điều này sẽ khiến bạn cảm thấy trong lòng mình sự bình yên, trong sáng, rộng rãi, có lợi cho sự phát triển ổn định sự nghiệp. * Thế nước nhanh dồn dập sẽ ảnh hưởng đến lòng người, khiến con người trở nên nóng nảy, nông nổi. Tâm thái không ổn định dẫn đến sự nghiệp không thành, dễ thất bại. Nếu nhà ở đối diện với biển có sóng dữ cuộn trào mãnh liệt, gió to sóng gấp, thiếu khí lành, khí hòa sẽ dẫn đến tiền tài không ổn định về mặt Phong Thủy, hơn nữa trong lòng con người cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ngoài ra nhà ở đối diện với biển cũng không nên ở sát quá bờ biển. Người xưa cho rằng nhà ở quá sát bờ biển là phạm vào “cát cước sát” (họa cắt đứt chân) khiến trạch vận không lâu dài, tài khí khó tụ. Trên thực tế, nhà ở quá gần biển dễ chịu sự xâm hại của thủy triều dâng tràn, sóng biển và gió biển mạnh. Nhà ở như thế sẽ thiếu cảm giác an toàn, cảm giác yên tĩnh. Vì thế cần đặc biệt chú ý. Nếu chọn nhà ở “trước Minh Đường tụ nước” thì cần chọn cảnh nước êm đềm, hiền hòa, đó mới là Phong Thủy tốt.
  19. Huynh sang tận đây loạn bàn í á :lol: Bịnh của người học LVĐT hỏi: huynh vothuong xem tướng giỏi không? 18h36 ngày 30-12-2008 lên quẻ Thương-Vô vong Hic hic, hok dám luận quẻ này kẻo huynh vothuong...buồn mún chít á :lol: Thanh Vân có...cảm ứng hắt hơi thì qua đây kíu hkeikun đang mắc kẹt nhé, pls :lol: !!!
  20. A phamthaihoa thân mến, hkeikun đang sử dụng phần mềm LVĐT trên PC và thấy nó rất hữu ích. Cám ơn A về sự đóng góp cho diễn đàn nói chung và người học LVĐT nói riêng. Mong A sớm phát triển tiếp phần mềm trên PDA để cho những người yêu thích và hâm mộ LVĐT có thể học mọi lúc nọi nơi, mọi thời điểm... hì hì :blink: Chân thành cám ơn A và chúc A sức khỏe !!! Thân mến, hkeikun
  21. Mèo Chuột với Đạo Trời Trong Ca Dao Việt Nam có những bài đồng dao mà từ lúc nhỏ người Việt mình thường ai cũng thuộc nằm lòng như : "Thằng Bờm có cái quạt mo" hay "Thằng Cuội ngồi gốc cây đa" hoặc "Chú Mèo trèo lên cây cau", nghe thật là vui tai nhưng lại mang một ý nghĩa có vẽ trào phúng ngược đời ; nhưng có lẽ ít người để ý cái chỗ nghĩa ngược đời đó lại tiềm ẩn ý nghĩa của Đạo Việt. Để khám phá ý nghĩa đó mời bạn ráng đọc hết bài viết này để có thế thấy và hiểu nghĩa chính yếu của hai chú Mèo và Chuột. Mèo Chuột với Đạo Trời Mèo với Chuột là hai con vật mà những ai sống ở nhà quê, không ai mà không biết. Tôi nói ở nhà quê là vì Việt tộc có nền văn hóa nông nghiệp, nên gạo, đậu, bắp, sắn, khoai và ngũ cốc (cốc = lúa; 5 giống lúa : mạch, mì, mễ, nếp, lứt) chất chứa tứ tung, ở ngoài sân, ngoài đồng, ngoài vựa, trong kho, trong bếp, nên là những chỗ thường có chuột. Còn ở thành phố, thì ít thấy chuột hơn, vì thực phẩm được cất giấu kỹ trong nhà, trong thùng, trong tủ đồ ăn, lại còn đặt bẫy (chuột), rồi người ta lại nuôi mèo nữa, nên thành thử chuột khó sống. Nhưng nói tới hai chữ '"mèo chuột" là có người cũng liên tưởng ngay tới chuyện trai gái còn gọi là "mèo mỡ", vì từ xưa ông bà mình cũng đã so sánh ví von sự thu hút lẫn nhau giữa nam nữ qua câu tục ngữ mà mọi người đều nghe và biết là: "như mèo thấy mỡ". Sự thu hút tự nhiên giữa trai gái nam nữ là luật tự nhiên của Trời Đất, như Âm với Dương mà tổ tiên đã ghi chép lại trong Kinh Dịch câu : "nhất âm nhất dương chi vị Đạo", mà ngày nay triết lý An-Vi còn gọi là Song Trùng Lưỡng Hợp với Lưỡng Nhất Tính, là Nguyên lý Mẹ và cũng là nền tảng của Đạo Việt. Nhưng làm sao chuyện Mèo Chuột như "mèo mỡ" lại là chuyện của Triết với Đạo được ?! Thưa, vì Triết là triệt, là nghĩa thấu triệt tận cùng của mọi sự vật, tức cũng là ý nghĩa của sự vô hình qua cái hữu hình. Ở đây hữu hình là cặp Mèo Chuột với nghĩa đen, nhưng hiểu theo nghĩa bóng của người bình dân trong đời sống hằng ngày, thì cũng là chuyện tình duyên và tình nghĩa, như ca dao có câu : Đôi ta mới ngộ hôm nay Một đêm là nghĩa, một ngày là duyên. Tiếng Việt mình rất hay trong ý nghĩa, khi nói "tình duyên" là có nghĩa vì tình nên mới có duyên, như : Con tằm bối rối vì tơ Anh say sưa vì rượu, em ngẩn ngơ vì tình hay Gặp nàng anh nắm cổ tay Anh yêu vì nết anh say vì tình hoặc Cây oằn vì bởi tại hoa Qua thương nhớ bậu chẳng qua vì tình Nên Tình người là đầu mối cho mọi tương giao của duyên nợ tình nghĩa như: Đôi ta là nợ là tình Là duyên là kiếp đôi mình kết giao Em như hoa mận hoa đào Cái gì là nghĩa tương giao hỡi chàng Vì Tình đã được gieo mầm từ lúc Nhân (chi sơ) nơi Tính bản nhiên của con người, và với quan niệm của Việt Nho con người được định nghĩa là : "ngô tâm tiện thị vũ trụ" hay "vũ trụ chi tâm", nghĩa là "Tâm con Người cũng là Tâm Vũ Trụ" hay nói cách khác "Vũ Trụ là Tâm con Người", nên tiếng Việt mình mới nói là Tâm Tình hay Tâm Tính. Cho nên mọi cảm tình ít nhiều cũng đều phát xuất tự Tâm, cho dù Tâm có bị che khuất bởi mây đen, nghĩa là bởi vật chất với tính toán giả dối hay đầu môi chóp lưỡi, cái tâm đó người ta còn gọi là (đúng) "tim đen", thì vẫn là tình nhưng chưa có thật Tâm. Vì muốn có Tâm thì phải biết Tính để Đồng Tâm với Thiên Mệnh như câu : "Thiên Mệnh chi vị Tính; suất Tính chi vị Đạo" (Kinh Lễ) nghĩa là "mệnh Trời là Tính; noi theo Tính là Đạo". Nên muốn có Đạo hay sống Đạo là phải noi theo Tính để mới có thể quy Tâm đồng với Tâm của Vũ Trụ, và như vậy mới là sống thật với Nhân Tính và cũng là Thiên Mệnh hay Thiên Tính. Tính bản nhiên của con người là Nhân Tính trong Thiên Tính, tức là trong Tính thiên nhiên của vạn vật, mà Mèo Chuột là hai con vật mang đầy tính chất tự nhiên vì thuộc tính thiên nhiên. Nên theo tôi, bài đồng dao "Chú Mèo Chú Chuột" là những câu ca dao mà tổ tiên Việt tộc đã tiềm ẩn cách vi tế và đúc kết ý nghĩa nền tảng của Đạo để truyền lại cho con cháu. Vì vậy, tôi cũng xin mạo muội đóng góp thêm vài tư tưởng dưới lăng kính Việt Nho. Để bạn trẻ nào chưa biết, có thể vì sinh ra và lớn lên ở hải ngoại, hay chưa bao giờ được nghe, tôi xin trích dẫn lại sau đây : Chú mèo trèo lên cây cao Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà (?) Chú chuột đi chợ đường xa Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo (!) Chuột thì ai cũng biết là thường ở trong hang dưới đất, thì tại sao chú mèo không rình ở dưới đất (hay như trong phim vẽ cartoon Tom & Jerry) mà tự nhiên lại trèo lên cây cao. Rồi lại hỏi thăm chú chuột là sao ? Rồi làm sao biết chú chuột đi chợ hay đi đâu ? Và nhất là tại sao lại mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo là nghĩa là gì ? Tôi cố ý đặt câu hỏi như vậy để cho bạn thấy những câu ca dao tầm thường và vớ vẩn như thế, không phải là để nói cho vui hay để cho con nít nghêu ngao để gọi là tập học thuộc lòng, mà có lẽ lúc nhỏ ở trường làng bạn cũng đã đọc to tiếng trong lớp. Nhưng để nhắc lại với bạn là ca dao tiềm chứa đầy ý nghĩa thâm sâu của Đạo, mà tổ tiên đã tìm cách ẩn giấu để truyền lại cho con cháu. Vì tính chất vi tế đó mà người bình dân quê mùa dốt chữ không thể nào đặt ra được, mà chỉ có hiền sĩ, hiền triết, hiền nhân là bậc tiên nhân, là đấng thần nhân đã sống với dân và sống như dân, nhưng đã biết cách để đem an vui hòa bình cho dân, nên mới gọi là "bình dân" vì là những người "bình thiên hạ". Bây giờ mời bạn thử tìm hiểu với tôi về những ý nghĩa tiềm ẩn qua những chữ trong bài ca dao trên : 1/ Chú Mèo và Chú Chuột Chữ "chú" ở đây phải hiểu với nghĩa "Tương Đồng", tuy Mèo với Chuột khác nhau và đối nghịch với nhau từ hình hài đến bản chất lẫn bản tính, như Trời với Đất, như Âm với Dương, như Tiên với Rồng, nhưng lại giống nhau, vì là Hai con vật sống cùng với nhau trong một lãnh Thổ. Hình ảnh đó nói lên ý nghĩa Song Trùng Lưỡng Hợp với Lưỡng Nhất Tính, là nguyên lý Mẹ, là nền tảng của Đạo. Tương tự với ý nghĩa trong câu ca dao : Bầu ơi thương lấy Bí cùng Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn Mèo là con vật mà ai cũng biết và đó là một trong bảy con vật mà người Việt mình nuôi và được coi như là gần gũi với người như : trâu(1), mèo(2), ngựa(3), dê(4), gà(5), chó(6), heo(7). Bảy con vật này cũng là biểu tượng trong bộ Giáp 12 con, nhưng lại bắt đầu bằng con Chuột, đó là : Tí, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, mà mấy ông lão nhà mình thường nói theo xưa gọi là "thập nhị địa chi". Nhưng tại sao trong 12 con Giáp lại bắt đầu bằng Tí (Chuột), mà không là con Mèo, hay con gì khác ? Có khi nào bạn đặt câu hỏi như vậy chưa ? Như vậy chắc là phải có ẩn ý hay nghĩa gì nữa đây ? Nhưng là ý nghĩa gì có bao giờ bạn thắc mắc không ? Thưa là ý nghĩa Tí (teo), nghĩa là từ khi còn ở trong trứng (tí) nước, là ý nghĩa khởi đầu của sự sống của vạn vật mà trong đó có con người. Cho nên Chuột tức Tí, là ý nghĩa con Người từ cái "KHÔNG" thành bắt đầu "CÓ", với ý nghĩa hiện hữu với hình thể (bào thai), nhưng cũng là ý nghĩa tiên khởi, ưu tiên, dẫn đầu, với Thiên Tính để làm Người, tức để Thành Nhân ở đời này. Hình ảnh Chuột ở đây cũng có nghĩa là con người sống trên trái đất này lo chạy như chuột, hết chỗ này đến chỗ kia để lo kiếm "lúa", kiếm gạo, kiếm ăn. Nên Chuột còn là ý nghĩa của Đất, của vật chất, của tài sản, của ý thức hữu hình như giàu sang, danh vọng, quyền lực... Còn Mèo nghĩa là những gì vô hình ở trên Cao, hướng về Trời như Tâm Linh, Tình Yêu, Tự Do, Hạnh Phúc,... nên là vô biên như Vũ Trụ. Cho nên ý nghĩa Mèo và Chuột là nền tảng của Đạo với nguyên lý Mẹ, là Trời Đất song trùng lưỡng hợp, với "tham thiên lưỡng địa": Trời 3 Đất 2, nghĩa là với Âm trước Dương sau, Tình trước Lý sau, Vợ trước Chồng sau, Em trước Anh sau, v.v… tức là triết lý Tả Nhậm của Việt Nho, là triết lý kính trên nhường dưới, bênh vực kẻ yếu, quý trọng tinh thần, sống với Tâm Linh. 2/ Trèo với Đi. Trèo (leo lên) và Đi (xa) là hai cách di động mà mọi người đều biết. Trèo là di động theo chiều đứng, tức là nét dọc chỉ Trời và Đi là di động theo chiều ngang, tức nét ngang chỉ Đất. Nói lên ý nghĩa Giao Chỉ, tức con người là Giao của chỉ Trời và chỉ Đất, (nhân giả kỳ thiên địa chi đức), cho nên từ ý nghĩa đó người Việt mình ngày xưa còn gọi là dân "giao chỉ" (chớ không phải là hai ngón chân giao nhau để mang dép như nhiều người còn tưởng!). Nhưng muốn Trèo thì phải bám víu bằng sức lực hay cách thức (kỹ thuật), và Đi thì cũng phải dùng sức để bước tới, để di chuyển thân thể, cho nên Trèo với Đi là hai động từ nói lên ý nghĩa biến đổi tình trạng, tức là nghĩa biến Dịch, nhưng cũng có ý nói muốn thăng tiến để biến đổi cái tiểu ngã của con người thành Đại Ngã, để thành Nhân, thì phải Muốn, giống như con Mèo muốn ăn thịt Chuột thì : Con mèo con mẻo con meo Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà 3/ Cây với Nhà. Cây và Nhà ở đây là ý nghĩa môi trường của Mèo với Chuột, nhưng cũng là ý nghĩa đặc tính hay sở thích của Mèo và Chuột. Con Mèo thì thích leo trèo lên cao để thấy xa, thấy rõ những cái gì nhỏ bé như con chuột, ẩn núp ở trong hang trong kẹt, để rình rập và chờ thời cơ để "làm ăn", khi con chuột xuất đầu ló diện. Còn con Chuột thì cứ muốn mạo hiểm (chạy) đi xa để kiếm cơm, kiếm gạo, kiếm lúa, kiếm bắp, kiếm đậu, tức kiếm đồ ăn tha về hang về ổ, tích trử để dành. Hai hình ảnh của hai môi trường khác biệt và phản nghịch với nhau đó nói lên ý nghĩa mâu thuẫn, đối nghịch của mọi sự, mọi chuyện, trong Trời Đất này, như tình với lý, như tinh thần với vật chất, như trái với phải, như tiềm thức với ý thức, như thiện với ác, v.v… đó là Lưỡng Nhất Tính với Âm Dương của Đạo, mà hình ảnh và ý nghĩa đó được nhắc nhở và diễn tả qua đời sống con người, giống như Anh với Em, hay Ta với Mình, như câu ca dao : Mình với ta như con một nhà Như áo một mắc như hoa một chùm nên Một đó là ý nghĩa Nhất Thể của vạn vật vũ trụ, và Mình với Ta hay Em với Anh là "nhất âm nhất dương", là nghĩa Đạo như tục ngữ có câu: Đạo vợ nghĩa chồng hay Ai chèo ghe bí qua sông Đạo nghĩa vợ chồng nặng lắm anh ơi ! Nên nói theo bản "Nguyệt Lệnh" thì Cây thuộc về Hành Mộc và Nhà làm bằng đất, bằng gạch, thuộc về Hành Thổ, đó là ý nghĩa của sự tương khắc giữa Mộc với Thổ trong cơ cấu Ngũ Hành, giống như Mèo với Chuột. Nhưng trong đời sống thực tế phải có "cây" để làm cột để chống đỡ, để dựng thành cái "nhà", và đó cũng là ý nghĩa tương trợ, tương kết, tương giao, tương hợp… để thành Một cái Nhà. 4/ Cao với Vắng Tục ngữ có câu: Trời cao lồng lộng Đất rộng thênh thênh Nghĩa Cao ở đây, chỉ Trời là cao, là lồng lộng, là ý nghĩa chiều kích vô biên của Tình Yêu của Trời Đất nơi Con Người, cũng như giữa Em với Anh, khi Hai đứa (mình) biết Giao Hòa với nhau trong Trời Đất Vũ Trụ Vạn Vật, để Hợp thành Một là Nhất Thể. Còn Vắng cũng chỉ Đất là rộng, nhưng cũng là ý nghĩa Trống Vắng, Trống Rỗng, mà biểu tượng của nền Minh Triết Việt là Trống Đồng với tất cả tinh hoa của văn hóa Việt. Đó là ý nghĩa muốn đi chợ đường xa, thì phải vắng nhà, chữ "nhà" ở đây có nghĩa là cái Tâm của Con Người, nên muốn đi xa , tức muốn siêu Việt thì phải làm cho cái Tâm mình Trống Vắng, nghĩa là Không còn bị dính bén với bất cứ cái gì, để mới có thể biến đổi cái tiểu ngã của mình thành Đại Ngã thì Tâm mình mới Linh để thông hiệp với Thần Thánh, và đạt tới chiều kích vô biên của Vũ Trụ. Đó cũng là ý nghĩa của chữ Vìệt trong hai chữ Việt-Nam. 5/ Hỏi với Mua. Tại vì không biết công dụng, hay chất liệu hoặc giá cả món đồ cho nên mới "hỏi" để "mua", đó là chuyện cần thiết và quan trọng trong việc mua bán hay đổi chác. Và khi mua tức là mình đã biết được giá trị của món hàng và muốn lấy về cho mình với một mục đích đã định. Ở đây Hỏi (thăm) cũng có nghĩa là dò xét, nhưng cũng có nghĩa là thăm hỏi, với nghĩa viếng thăm, tức là nghĩa cảm tình, với ý nghĩa tương quan… Tuy là Mèo với Chuột, hễ thấy nhau là như "mèo thấy mỡ", nghĩa là muốn ăn tươi nuốt sống nhau, nhưng vì tương đồng với nhau nên tương đối, tương ứng, tương cầu, tương sinh, tương khắc…, nên hễ là con vật với nhau, hay con người với nhau thì là tương đồng, cho nên phải biết tương giao để Hòa với nhau, để làm cho Vuông thành Tròn, và đó cũng là chân lý của Đạo Việt. Cho nên ý nghĩa Hỏi và Mua trong câu ca dao này còn phải hiểu là tri thức và ý thức, tức là con người phải học hỏi về chính mình cho Tận, Kỳ, Tính, nghĩa là để Biết mình (mới có thể biết người) là ai, sống để làm gì và tại sao lại chết và chết rồi đi đâu ? Đó là những điều mà mỗi người mình phải (tự) Hỏi để Biết (tri chu kỳ vạn vật) và để mình Mua về tức thận tư (suy nghĩ), nghĩa là ý thức cái Nhân Tính trong tiềm thức, để biết sống Đạo làm Người. 6/ Chợ đường xa. "Chợ" là nơi nhóm họp của nhiều người để mua bán và trao đổi, nói lên mối tương quan của con người với gia đình và cộng đồng xã hội. Còn "đường xa" ở đây, là nghĩa yếu tố thời gian để kiếm muối mua mắm, nghĩa là để cho sự hiểu biết của con người với kiến thức ở vòng ngoài, thành suy tư để nhận thức và ý thức, để đi vào vòng trong, để làm cho cái cảm tình (bề ngoài) ghi khắc vào Tâm (quy Tâm), tức là làm cho cái Tâm mình đồng với Tâm của vũ trụ, và đó là Đại Ngã Tâm Linh. 7/ Mắm với Muối. Đây là chất liệu thiết yếu cho sự sống, và là quan niệm căn bản cho đời sống con người. Hình ảnh muối và ý nghĩa mắm nói lên tất cả sự biến thể của cá, thịt, rau, cỏ, v.v… là bởi muối và nhờ muối. Vì muối là kết tinh của Thái Dương và Đại Dương với thời gian là hoạt lực làm nước biển bốc hơi thành muối. Nên muối là chất (mặn) được chứa đọng và Hòa lẫn trong Đại Dương và trong muôn vật trên trái đất này, nhưng cũng là chất dinh dưỡng không thể thiếu cho sự sống con người. Tương tự con người là Giao của chỉ Trời chỉ Đất, tức là đức Nhân cũng như muối, để làm biến đổi con người sống "mặn mà", tức là sống "nhân nghĩa", sống cho tha nhân ; và nếu con người không còn nhân nghĩa thì cũng giống muối mà lạt đi thì chỉ vứt bỏ. Hình ảnh và ý nghĩa muối đó đã được Chúa nói tới trong Phúc Âm ( Matt 5,13 ; Mc 9,50 ; Lc 14, 34-35). Với đức Nhân như muối, con người có thể biến đổi hết tất cả, tức là tài tác với tài đức cho tài nghệ, mọi thứ ra mắm, tức là ý nghĩa để nuôi dưỡng và tạo dựng sự sống với nghĩa "thiên nhân tương dữ", thì con người đúng là Nhân Tài. Như màu sắc trắng tinh của muối và hương vị thơm ngon, mặn mà của mắm… cũng là ý nghĩa tinh thần, tinh hoa, tinh túy, tinh tuyền, tinh khiết, …và đó là ý nghĩa của Nhân-Trí-Dũng để rèn đúc (như muối ướp), để làm cho con người thành Nhân. Nên muốn Thành Nhân con người phải để cho mình thấm muối, nghĩa là phải để cho cái Nhân Tính quy vào Tâm, để có thể biến đổi mình thành mắm thơm ngon, nghĩa là làm cho cái tiểu ngã của mình thành Đại Ngã, để với Tâm Linh con người mới có thể Sống Hạnh Phúc, nghĩa là Sống như Tiên, như Thánh, như Thần. 8/ Giỗ Cha. Đây là ý nghĩa linh thiêng của lễ Gia Tiên qua việc cúng tế và đình đám, là cách sống hướng (quy) về Tâm Linh, để với Tâm Linh con người mới có thể Thông, mới Hiệp để Hòa với vạn vật hữu hình và thế giới vô hình, giữa con cháu với Tổ Tiên và Trời Đất, giữa người sống và kẻ chết, để Tạ Ơn, để lãnh nhận Ơn (ân) của Tổ Tiên và Đức của Trời Đất. Cho nên làm lễ Giỗ cũng là để nhắc nhở con người cái ý nghĩa Tế, là để cung kỷ, để tự trọng, tự kính mình, vì "thiên lý tại nhân tâm", tức mình là Thiên, là Tính, là Mệnh, và vì đó mình mới đủ lý do để sống, để tồn tại, để xứng đáng là quân tử, là đại trượng phu. Cho nên việc tế tự chính là để tỏ lòng tôn kính, như câu : "Tế tư kính" (LN. XIX.1). 9/ Cha Chú. Và theo cơ cấu của gia đình Việt tộc, với nghĩa họ hàng bà con, Chú là em của Cha nói lên ý nghĩa anh em cùng Cha cùng Mẹ. Ở đây, hình ảnh "Chuột phải đi chợ đường xa để mua mắm mua muối để về Giỗ Cha Chú Mèo", là có ý muốn nói Cha chú Mèo với Cha chú Chuột cũng là Một, vì là "Thiên Địa Vũ Trụ Vạn Vật Nhất Thể". Cho nên hình thức Cúng Giỗ với Lễ Nhạc qua hội hè đình đám, là cách thức và là (nhân) dịp để cho con người gặp nhau ở cánh "Đồng Tương" để Sống thật cái Nhân Tính bằng Tình người với Trời Đất Vũ Trụ trong nhịp điệu (cách) Tương Giao, Tương Hòa, Tương Trợ, Tương Thân… như anh em "đồng bọc". Đó là chân lý và nền tảng Đạo Việt mà Tổ Tiên đã ẩn dấu cái ý nghĩa Cao Xa qua hình ảnh tầm thường là Mèo Chuột. Đó cũng là cách đem Đạo vào Đời bằng những câu ca dí dõm và bóng bẩy, nhưng lại ẩn chứa ý nghĩa vô biên : Đại Ngã Tâm Linh. Vì vậy, tuy có lẽ tư tưởng của bạn và ý nghĩa của tôi như là Mèo với Chuột, nhưng tôi hy vọng sau khi đọc bài này, bạn sẽ biết "trèo lên cây cao" để thấy tôi "đi chợ đường xa" để "mua mắm mua muối" qua tất cả ý nghĩa đó để dâng lên Tổ Tiên của bạn và cũng là của tôi. Viết xong ngày 21 tháng 10 năm 2008 (tức 23 tháng 9 năm Mậu Tý) Theo SonHa vietland.net
  22. LĨNH NAM CHÍCH QUÁI Nguồn E-CADAO.COM Mục Lục 1- TRUYỆN HỒNG BÀNG THỊ 2- TRUYỆN NGƯ TINH 3- TRUYỆN HỒ TINH 4- TRUYỆN ĐỔNG THIÊN VƯƠNG 5- TRUYỆN NHẤT DẠ TRẠCH 6- TRUYỆN MỘC TINH 7- TRUYỆN CÂY CAU 8- TRUYỆN BÁNH CHƯNG 9- TRUYỆN DƯA HẤU 10 - TRUYỆN BẠCH TRĨ 11- TRUYỆN LÝ ÔNG TRỌNG 12- TRUYỆN GIẾNG VIỆT 13- TRUYỆN RÙA VÀNG 14- TRUYỆN HAI BÀ TRINH LINH PHU NHÂN HỌ TRƯNG 15- TRUYỆN MAN NƯƠNG 16- TRUYỆN NAM CHIẾU 17- TRUYỆN SÔNG TÔ LỊCH 18 - TRUYỆN NÚI TẢN VIÊN 19- TRUYỆN 2 VỊ THẦN Ở LONG NHÃN, NHƯ NGUYỆT 20- TRUYỆN TỪ ĐẠO HẠNH VÀ NGUYỄN MINH KHÔNG 21- TRUYỆN DƯƠNG KHÔNG LỘ VÀ NGUYỄN GIÁC HẢI 22- TRUYỆN HÀ Ô LÔI 23- TRUYỆN TƯỚNG QUÂN HỌ CAO Ở VŨ NINH 24- TRUYỆN THẦN SÔNG BẠCH HẠC 25- TRUYỆN THẦN CHÍNH KHÍ LONG ĐỖ 26-TRUYỆN QUỐC SƯ XÂY ĐỀN SÓC THIÊN VƯƠNG 27- TRUYỆN ĐỀN THỜ HOẰNG THÁNH ĐẠI VƯƠNG 28- TRUYỆN BÀ PHU NHÂN TRINH LIỆT MỴ Ê 29- TRUYỆN ỨNG THIÊN HOÁ DỤC HẬU THẦN 30- TRUYỆN VỊ THẦN NÚI HỒNG LĨNH 31- TRUYỆN THẦN NÚI VỌNG PHU 32- TRUYỆN HAI CON TRÂU VÀNG Ở HUYỆN TIÊN DU 33- TRUYỆN VỊ THẦN LÀNG BỐ BÁI 34- TRUYỆN VI THẦN Ở CHẰM LÂN ĐÀM
  23. 34- TRUYỆN VI THẦN Ở CHẰM LÂN ĐÀM Thần Lân Đàm chính là thần rồng vậy. Xưa thần thường hóa thành người để tìm thầy học đạo. Thầy học lấy làm lạ bèn tìm chỗ ở của thần, thấy thần náu ở trong chằm. Thầy học thường tra hỏi, thần bèn nói thực rằng: "Năm nay trên thiên đình ngừng việc làm mưa". Thầy học cố nài thần ra làm mưa. Thần bất đắc dĩ phải nghe lời. Sau trong chằm có biến động, thầy học tới chằm thấy thần hút nước trong nghiên phun thành mưa mực để trừ hạn hán. Thượng đế cho là việc đã tiết lộ bèn bắt tội thần. Thây thần nổi ở trên chằm, thầy học thu về an táng, nhân đặt tên chằm là Long Đàm, sau đổi thành Lân Đàm.
  24. 33- TRUYỆN VỊ THẦN LÀNG BỐ BÁI Thần làng Bố Bái là tinh của Viêm Long. Xưa ở làng Hạn Kiều thuộc lộ Hạ Hồng có hai anh em nhà họ Đặng, một tên là Thiện Minh, một tên là Thiện Xạ xuống biển đánh cá gặp một vật lạ giống như hình cây gỗ, dài hơn 3 thước, sắc như trứng quạ, dập dềnh trôi theo ngọn sóng. Hai anh em lặt lấy đem về. Đến đêm bỗng nghe thấy ở trong vật ấy có tiếng động. Hai anh em kinh hãi vội đem vứt ra giữa dòng nước, rồi sang thuyền khác ngủ nhờ. Đêm ấy, hai anh em mộng thấy có một người đến nói rằng: "Ta là vợ Đông Hải Long Vương, trót lỡ đi lại với Viêm Long Vương do đó sinh ra đứa con ấy, ta sợ Đông Hải Long Vương biết nên đem gửi các ngươi. Các người hãy giữ lấy và bảo hộ cho cẩn thận, không được để ai xúc phạm tới. Sau này nó trưởng thành tất có thể ban phúc cho các ngươi". Hai anh em kinh hãi tỉnh dậy thấy cây gỗ trước lại trôi theo thuyền, bèn đem theo về. Tới nhà, hai anh em nghỉ đậu ở đất Bố Bái. Cây gỗ bỗng nhảy từ trong thuyền lên mặt đất. Hai anh em bèn lập đền, lấy cây gỗ tạc tượng để thờ, gọi là Long Quân. Đời Trần, vua sai thị thần lặn xuống bể mò hạt châu. Thị thần không mò được gì cả, chỉ có con cháu họ Đặng mò được rất nhiều. Thị thần hỏi duyên do, họ Đặng bèn đem hết chuyện xưa nói rõ. Thị thần tâu lên vua. Vua sai dùng nghi lễ, âm nhạc đi rước tượng, từ đó mò được rất nhiều châu ngọc. Vua giáng chiếu thưởng cho danh hiệu Thần Châu Long Quân, tặng phong là Lợi tế linh thông huệ tín Long Quân. Đền thờ đặt ở xã Bố Bái, huyện Quỳnh Côi. Phía đông đền có bãi tha ma, đó chính là nơi khắc tượng ngày xưa. Trải qua các triều vua, thần đều được gia phong mỹ tự. Tới ngày nay đền đó vẫn rất là linh ứng.