Doremon360

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    31
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Doremon360

  1. Phát hiện mới về mũi tên đồng thành Cổ Loa . GS. Phạm Văn Hường . Các phát hiện khảo cổ mới về những mũi tên đồng Cổ Loa đã chứng tỏ trình độ kỹ thuật và tư duy bậc thầy của các nghệ nhân luyện kim thời Việt cổ. Đô thị Cổ Loa ngày xưa đã là kinh đô của nhiều triều đại, từ An Dương Vương với tên nước là Âu Lạc (273 trước Công nguyên) đến Ngô Quyền (933). Những vị vua này đã để lại trong lịch sử Việt Nam nhiều trang oai hùng. Cổ Loa còn mang dấu ấn về mối tình oan trái của Trọng Thủy và Mỵ Châu, cùng huyền thoại nỏ thần Kim Quy phản ánh một sức võ trang cường mạnh. Những huyền thoại ấy có phần phai nhạt đôi chút theo thời gian, nhưng gần đây lại được bật sáng nhờ sự khai quật của các nhà khảo cổ học, tìm thấy hàng ngàn mũi tên đồng Cổ Loa. Số lượng lớn những mũi tên này đã đặt ra nhiều câu hỏi từ vài năm nay mà bây giờ mới giải đáp được vài phần. . Nguồn gốc những mũi tên đồng Cổ Loa Khi phân tích bằng những phương pháp vật lý hiện đại, giáo sư Hà Văn Tấn cùng các nhà khảo cổ khác thấy những mũi tên có chứa các thành phần kim loại tương tự như thành phần các trống đồng thời Đông Sơn, kể cả trống đồng Ngọc Lũ. Lẫy nỏ Cổ Loa. Khoá nỏ bằng đồng có đinh tán Những nguyên tố chính tìm được là đồng, chì, thiếc và không có kẽm. Những kết quả tương tự cũng tìm thấy trong các vòng chân nữ tướng đào được ở một số vùng lân cận. Kết quả này khác hẳn với các gương đồng, phần nhiều chỉ chứa nhiều nguyên tố đồng. Khi so sánh tỉ mỉ kết quả phân tích nguyên tố (kể cả các nguyên tố phụ mà thành phần bé hơn một phần trăm) trong những mũi tên đồng với các hiện vật và quặng trong các vùng địa dư khác nhau thì thấy rằng tên đồng là những sản phẩm bản địa. . Kỹ thuật luyện kim các mũi tên đồng Muôn ngàn mũi tên Cổ Loa. Khuôn đúc mũi tên Riêng trong các mũi tên đồng, còn tìm thấy nguyên tố sắt. Sự có mặt của sắt chứng tỏ người Việt cổ đã biết luyện kim (chứa một nguyên tố có nhiệt độ nóng chảy trên 1.500oC). Mục đích của họ là làm cho những mũi tên cứng mạnh, dễ xuyên sâu vào mục tiêu. Căn cứ trên những bài được đăng trên các tạp chí chuyên môn của thế giới, có thể thấy họ đã chú ý đến kỹ thuật luyện kim thời Việt cổ từ một thế kỷ nay. Kỹ thuật luyện kim tân tiến thời Việt cổ còn tìm thấy trong những chiếc dao găm nữ tướng. Các phương pháp phân tích vật lý đã tìm ra nguyên tố titan trong hiện vật này. Người Việt cổ có lẽ chưa biết đích xác tên nguyên tố đó nhưng họ chắc chắn nó sẽ đem lại một hợp kim cứng và nhẹ, thích ứng cho bàn tay người nữ tướng. . Phân đoàn tay nỏ trong binh lực Nếu căn cứ trên những lẫy nỏ Cổ Loa mà các nhà khảo cổ học tìm thấy gần đây cùng với số lượng lớn các mũi tên đồng, chúng ta có thể khẳng định ở thời Việt cổ, vùng Cổ Loa đã có một lực lượng quân sự được phân thành đoàn tiểu xạ gồm nhiều tay nỏ. Những lẫy nỏ này tinh vi và bé hơn những nỏ tìm thấy ở các vùng thượng du, nơi các đồng bào tộc Mường hay nhiều tộc khác cư trú. Thời đó ở Bắc phương hay dùng cung trong lúc người tộc Việt hay dùng nỏ. Gương đồng và dao găm nữ tướng. Bao chân bao tay bằng đồng Phải chăng những tay nỏ này rất thiện xạ, gây cho đối phương ấn tượng hãi hùng, như những nỏ thần, mà Kim Quy là một huyền tượng. Cách bắn nỏ tài ba đã tồn tại qua nhiều thế kỷ trong vùng Cổ Loa, có khi dùng trong quân đội chính triều, có khi trong những lực lượng đối lập. Như ta đã biết, hơn mười thế kỷ sau An Dương Vương, vua Ngô Xương Văn, một trong hai vua anh em đồng kế vị Ngô Quyền, đã chết vì một mũi tên, cũng gần Cổ Loa, kinh đô thời ấy. Những lẫy nỏ Cổ Loa tìm được cũng bằng hợp kim đồng. Khi bật - một lần lẫy chỉ phát một mũi tên. Tuy những lẫy nỏ này không phải từ nỏ của An Dương Vương nhưng cũng giúp làm sáng tỏ được huyền thoại nỏ thần. Cơ cấu đơn tiễn này làm nhẹ một phần nào tội lỗi của Mỵ Châu. Vận nước Âu Lạc tuy nổi chìm theo thời gian qua mối tình cay đắng của Mỵ Châu - Trọng Thủy, nhưng không làm quên được thực tế Cổ Loa đã là kinh đô của một nước có tổ chức lớn, có kỹ thuật cao, kể cả kỹ thuật quân sự, bao hàm thêm khía cạnh nhân bản và tình người. . (GS. Phạm Văn Hường, Thứ tư, 29 Tháng mười một 2006 )
  2. Cám ơn bác Thiên Sứ đã post bài này. Hổm rày cháu bận bịu quên ghé thăm diễn đàn, bi giờ đã có rất nhiều bài viết hay của đông đảo thành viên :rolleyes: . Xin góp thêm vài hình sưu tầm được về kiểu nhà của văn hóa nước (ghe thuyền) tại Đông Nam Á xưa (còn lưu lại đến ngày nay) trước khi phát triển lên thành kiểu nhà mái cong có nóc cao và hoa văn trên nóc như chúng ta thấy sau này. Tongkonan (Indonesia):
  3. :( Ha ha, chổ này chứng tỏ tác giả hiểu các truyền thuyết và huyền thoại theo nghĩa đen chứ không thấy được thông điệp quá khứ của người xưa. Xin nhắc lại là số 18 kia là số Chi của họ Hùng Vương, mỗi Chi gồm nhiều Đời vua. Thời đại Hùng Vương bắt đầu từ năm 2879.BC khi Kinh Dương Vương (Hùng Vương 1) lên ngôi. Tên nước lúc đó là Xích Quỷ chứ không phải Văn Lang sau này. Thời đại Hùng Vương kết thúc ở chi thứ 18 vào năm 258.BC với 3 đời vua trong chi cuối cùng này. Xin xem đoạn trích sau về chi tiết các đời vua của 18 họ Hùng Vương :
  4. Về chầu thì khác đấy, vì cùng là trường sinh học cả :rolleyes: :rolleyes: :lol: Không phải thế lực siêu nhiên không tồn tại, mà là hiện tại con người chưa hiểu hết cách thức liên kết với những trường vật chất cấu trúc phức tạp (chúng ta hằng ngày vẫn "tương tác" với trường điện từ đấy thôi, ánh sáng mặt trời, sóng dtdd, sóng tv, sóng radio,... tuy nhiên trường sinh học phúc tạp hơn những trường điện từ này, nên cần thời gian và nỗ lực để hiểu và tương tác hiệu quả).
  5. Cơm no áo ấm hay không là do bản thân ta, chứ trông chờ vào thế lực siêu nhiên thì làm sao chủ động được :rolleyes: Mà con người đã hiểu hết cách thức liên kết với trường sinh học của người quá cố đâu, chỉ mới dừng lại ở trình độ liên kết hình ảnh để tìm mộ liệt sĩ và sử dụng trường sinh học để giúp trị bệnh thôi, những khả năng liên kết khác vẫn đang tìm tòi nghiên cứu, nên chủ động nắm bắt kết quả cuộc sống của mình hơn là trông chờ vào người khác, ngay cả hệ thống giáo dục :rolleyes:
  6. Thanks bác Thiên Sứ, bác check mail nhé. Có nhiều tư liệu viết bằng chữ Việt cổ, tìm được không chỉ ở Việt Nam mà còn ở từ điển phương Tây thời kỳ họ truyền giáo vào nước ta. Như vậy người dân vùng biên viễn vẫn còn lưu lại hệ thống chữ cổ cho đến khi chuyển dần sang chữ Quốc ngữ thì họ không còn dùng nữa và chìm vào quên lãng. May mắn là còn những tư liệu ghi chép, có cả những văn bản ghi chữ Việt cổ và có chú thích nên có thể dịch và tìm hiểu cách dùng hệ thống chữ cái cổ xưa. Trong bảng so sánh sau có một loạt chữ Việt cổ với chú thích Hán tự, bên cạnh các hệ chữ của các nước khác : Các văn bản có chú thích nhiều hệ chữ khác nhau giống như phiến đá dưới đây có cả 3 hệ chữ cổ : chữ Ai Cập, chữ Arap, chữ Hy Lạp cổ, nhờ vậy mà có thể tìm hiểu những hệ thống ký tự cổ :
  7. Xin bổ sung thêm 2 bản đồ sau để thấy rõ quá trình phát triển liên lục và nội sinh của văn minh Lạc Việt : Từ thời đại đồ đá, điển hình là văn hóa Hòa Bình (10.000 BC) Đến thời đại đồ đồng (3000.BC) và sơ kỳ đồ sắc (Đông Sơn - 1000.BC) :
  8. Điểm này đã được giải thích rồi, 18 đời vua thực ra là 18 chi trong dòng họ vua Hùng, mỗi chi gồm nhiều đời vua, tổng cộng có hơn 47 đời vua trị vì hơn 2600 năm (từ 2879.BC đến 258.BC). Xin xem thêm đoạn trích dẫn sau để biết chi tiết các chi và số vì vua cai trị trong từng chi : Lạnh thổ xưa của Bách Việt đúng như những gì ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư : Nhiều người nhầm lẫn nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương (Hùng Vương 1, lên ngôi năm 2879.BC) và nước Văn Lang của các đời vua Hùng sau này. Nước Xích Quỷ thực chất là một đế chế cổ xưa, Bách Việt là cư dân của đế chế này, đây là một "hợp chủng quốc" (bách) cổ đại được người Lạc Việt thống nhất, biên giới của đế chế này chính là lãnh thổ của Bách Việt xưa (nam sông Dương Tử đến miền trung Việt Nam). Sau này, khi đế chế tan rã, các tộc lớn trong đại tộc Bách Việt đã tách ra thành các nước riêng, như Mân Việt, Điền Việt. Lạc Việt ta đóng đô ở Văn Lang tức là Bắc Bộ Việt Nam ngày nay. Còn lãnh thổ của Nam Việt của Triệu Đà nhỏ hơn biên giới nước Xích Quỷ : Nghĩa là không bao gồm toàn cõi Bách Việt, mà phần lớn là Lạc Việt và Tây Âu (có cô bác nào giải thích vì sao tộc Tây Âu nằm ở phía đông xứ Lạc Việt lại có tên là Tây Âu không, hi hi, trả lời được thì sẽ hiểu một vấn đề còn lớn hơn nữa đó). Còn về bằng chứng khoa học thì test DNA của cư dân phương Nam và phương Bắc TQ thấy khác nhau. Phương Nam có di truyền gần gũi với Việt Nam và dân Đông Nam Á, phương Bắc có di truyền gần gũi với Mông Cổ. Xem một vài kết quả từ Genographic project đê dễ hình dung : M175 ~ 35.000 years ago Xin xem đoạn đối thoại sau để thấy vẩn đề này không chỉ chúng ta tìm hiểu mà TG cũng nghiên cứu nhiều : Người Nhật cũng hiểu rõ vấn đề :rolleyes:
  9. Cám ơn wildlavender :rolleyes:
  10. Cám ơn bác TS đã post một số văn bản có chữ Việt cổ, thật tuyệt. Đây không phải chữ Thái cổ mà là chữ Khoa Đẩu của người Lạc Việt xưa, xin xem bản so sánh sau :
  11. Nhận định này thì sai lầm quá, vì văn hóa Đông Sơn mà ta quen gọi ngày nay là giai đoạn phát triển tiếp theo của các thời kỳ trước đó, chứ không phải đến thời đại Đông Sơn người Việt mới biết đúc đồng. Cụ thể các giai đoạn phát triển liên tục qua các thời kỳ : 1/Sơ kỳ đồ đồng - giai đoạn Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng 4000 năm. 2/Trung kỳ đồ đồng: giai đoạn Ðồng Ðậu, cách ngày nay khoảng 3300 năm đến 3500 năm. 3/Hậu kỳ đồ đồng: giai đoạn Gò Mun, cách ngày nay khoảng trên dưới 3000 năm. 4/Cuối cùng là giai đoạn Ðông Sơn thuộc sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng từ 2000 năm đến 2800 năm. Và cũng đừng quên giai đoạn phát triển văn minh vào cuối kỷ băng hà trên thềm lục địa Đông Nam Á Sundaland và Namhailand (8000 năm TCN) mà dấu tích còn lại đến ngày nay là các cấu trúc chìm dưới vùng biển này (như Yonaguni).
  12. Như đã trình bày ở trên về sự khác biệt giữa chữ tượng hình và chữ ghi lại âm tiết. Bổ sung thêm một bằng chứng khảo cổ, đó là năm 1930 một hiện vật gốm quý hiếm được M-CoLan phát hiện dưới chân vách đá Lan Gan ở Hoà Bình. Ban đầu người ta chỉ coi chúng là vật trang sức, “không có công dụng thực tế, không rõ để làm gì ...” Hai chiếc đĩa cổ bằng đất nung có chữ Việt cổ (chữ O và chữ S) ở Lan Gan (Hòa Bình) Đây là những chữ cổ có tuổi khảo cổ học một vạn năm (tức là 8000 năm TCN), thuộc nền văn hoá đồ đá giữa Hòa Bình và trong đó có chữ thứ 2 giống chữ Sĩ của Hán tự ngày nay (thật ra là chữ cái S trong hệ thống chữ cái Khoa Đẩu, tuy giống về hình thức nhưng không phải là Hán tự), phát hiện này trong thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu, vì nó có trước Chữ Giáp cốt Ân - Thương (1392 - 1122 - Tr. CN) khoảng 6000 năm. Xem lại bài "Hệ thống giáo dục thời Hùng Vương" để thấy ở phương Nam hệ thống học thuật đã phát triển trong triều đại Hùng Vương (2879.BC - 258.BC). Chữ viết thì đã nói ở trên. Còn lý luận về số lượng người nghiên cứu thì phạm phải một sai lầm cơ bản của nghiên cứu khoa học : Số lượng người nghiên cứu không quan trọng bằng chất lượng của từng người nghiên cứu và môi trường làm việc của họ. VD : Thuyết tương đối hẹp của Einstein là công sức nghiên cứu của ông và vợ, chỉ có 2 người mà cuộc cách mạng về nhận thức của con người đã ra đời.
  13. .Trống đồng là cuốn lịch dùng trong văn minh nông nghiệp lúa nước, cho nên nó hiện diện trong các nền văn hóa lúa nước là đúng rồi. Nhưng gốc rễ của nó đến từ một nền văn hóa phát triển liên tục từ sơ khai đến rực rỡ, chứ không phải từ nơi rực rỡ nhất ! Hơn nữa những hiện vật còn tồn tại đến ngày nay là do chưa bị thời gian làm mất mác đi cho nên không đủ để so sánh nơi nào phát triển hơn hay rực rỡ hơn. . Đông Sơn là một nền văn hóa bản địa của người Lạc Việt, là kết quả phát triển từ thời đồ đá (văn hoá Hòa Bình - Hoabinhian) đến sơ kỳ đồ đồng, rồi đồng thau, và tiếp là sơ kỳ đồ sắc. Một nền văn minh phát triển liên tục qua nhiều giai đoạn là gốc rễ của những khu vực chịu ảnh hưởng của nó và kế thừa nó nên vẻ bề ngoài rực rỡ hơn do tiếp nối các thành tựu có từ trước đó. Đừng nói là Thượng Hải ngày nay là cội nguồn của văn minh khoa học kỹ thuật vì nó rực rỡ và hoành tráng hơn những thành phố phương Tây già cổi ít nhà cao tầng. . .Bác LTK cần phân biệt hệ thống chữ tượng hình và hệ thống chữ ghi âm tiếng nói . . Chữ tượng hình thì miêu tả sự vật hiện tượng theo quan niệm của nền văn hóa tạo ra nó, cho nên cần rất nhiều chữ để tạo nên hệ thống. Còn chữ ghi âm tiếng nói thì chỉ cần một bộ các chữ cái để ghi lại các phát âm là đủ để "lắp ghép" chúng và tạo ra vô vàng con chữ miêu tả sự vật hiện tượng. . Xin xem thêm bài Hệ thống giáo dục thời Hùng Vương và bài Chữ Việt cổ để tìm hiểu thêm về hệ thống chữ Khoa Đẩu trong thời đại Hùng Vương. . Dưới đây là một bài thơ được viết bằng chữ Quốc Ngữ và chuyển thể sang chữ Việt cổ. Không cần quá nhiều chữ cái để thể hiện nghĩa của các từ, vì các từ được lắp ghép từ các chữ cái ghi lại âm tiết của tiếng nói : .
  14. Văn minh du mục hay văn minh nông nghiệp phát triển trên một vùng đất một phần lớn do điều kiện tự nhiên của khu vực đó quyết định. Con người hiện đại ra đi từ châu Phi và chinh phục các vùng đất khác nhau trên Trái Đất, tùy theo điều kiện tự nhiên của khu vực mà hình thành nên văn hóa và văn minh của mình : Bản đồ mô phỏng quá trình di cư của con người hiện đại từ Genographic project . M175 (35.000 years ago) . Khu vực bắc Á vào cuối kỷ băng hà rất lạnh, có vùng bị đóng băng (Glacial maximum), vì thế chỉ thích hợp với cuộc sống du mục, săn bắt, vốn có lợi thế về sự di chuyển và linh hoạt ứng phó với những biến động của tự nhiên. . Khu vực đông Nam Á vào cuối kỷ băng hà có khí hậu và hệ thống sông ngòi rất phù hợp cho phát triển cuộc sống định canh định cư, hình thành văn minh nông nghiệp (khu vực này không thể sống du mục vì hệ thống sông ngòi chằn chịt) . Một trong những bằng chứng cho điều này đó là cấu trúc nhà ở. *Nhà của người du mục là nhà tròn, mái tròn, dựng lên rất nhanh và thu dọn để di chuyển cũng rất "cơ động". . *Nhà của dân nông nghiệp thì cố định, vững chắc, vì thế mà khi bán đảo Đông Nam Á bị nhận chìm một phần vào cuối kỹ băng hà, quá trình hẵn diển ra từ từ đến nổi người dân phát minh ra cấu trúc nhà sàn để "sống chung" cới con nước dâng lên cho đến khi không thể sống được trong vùng bị ngập lụt quá thường xuyên thì phải di tản lên các vùng cao, nhưng vẫn theo thói quen mà cất nhà sàn, rồi tận dụng khoảng trống bên dưới để trữ đồ đạc và chăn nuôi. . Chính từ cuộc sống du mục hay định cư nông nghiệp mà qua bao đời đã hình thành nên văn hóa và văn minh của từng dân tộc. Rồi từ đấy khi mở rộng lãnh thổ hoặc quá trình di cư sẽ truyền bá văn hóa tư tưởng của mình vào xã hội khác, tạo nên một sự đan xen mà chúng ta thấy ngày nay và cả các biến cố lịch sử xưa kia. . Đừng cho rằng du mục thì văn minh kém hơn định cư nông nghiệp, hay nông nghiệp thì kỹ thuật chiến tranh kém hơn du mục. Người du mục và người nông nghiệp đều có những nét văn minh mà xã hội kia không có hoặc không phát triển bằng. VD : * Tính "cộng đồng tự nhiên" thì người du mục rất cao, người Mông Cổ luôn tâm niệm là bạn phải sống trong cộng đồng, vì nếu ở một mình, bạn sẽ bị diệt vong trên thảo nguyên . Còn người nông nghiệp tuy có văn hóa làng xã cho từng khu vực sinh sống nhưng khi họ di cư đến một xã hội khác, họ dễ bị hòa nhập và xã hội mới và mất đi bản sắc vì không tụ cư thành một cồng đồng lớn, trừ khi có một cú sốc xã hội hoặc tự nhiên dẫn đến một nhóm lớn con người di cư đến nơi khác và sống chung. * Phát minh và xây dựng thì dân nông nghiệp rất phát triển, vì sự định cư khuyến khích họ cải tiến cuộc sống. Người du mục vì cuộc sống thường xuyên di chuyển nên cái họ cần là sự linh hoạt và cơ động, còn người nông nghiệp do cuộc sống cố định và có chu kỳ nên lịch số, kiến trúc, triết học, khoa học và nhận thức tự nhiên có điều kiện phát triển tốt hơn, ghi chép và hệ thống hóa tri thức. * Trong chiến tranh thì người du mục thường dùng mưu mẹo, còn dân nông nghiệp thường dùng quy luật tự nhiên (thời tiết, con nước) và vũ khí cấp tiến. Tuy nhiên cục diện chiến tranh do nhiều yếu tố quyết định và mức độ phát triển của vũ khí cũng như tài dụng binh, tổ chứ quân đội thì phụ thuộc rất nhiều vào "nhu cầu" mở rộng lãnh thổ hay phòng thủ.
  15. Bài viết trên của GS Lê Thành Khôi đăng trên Dongtac.net Em xin phản biện một số điểm mà bác LTK đưa ra : Kinh Dương Vương thống nhất Bách Việt và lập ra vương quốc Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất (2879.BC) và triều đại Hùng Vương kết thúc năm 258.BC với CHI thứ 18, chi cuối cùng của họ Hùng Vương. Mỗi chi gồm nhiều đời vua tống cộng có hơn 47 đời vua. Từ trước đến nay “chúng ta” thường nghĩ rằng “đời” vua Hùng là giai đoạn sinh sống của một vị vua thuộc họ Hồng Bàng, cho nên với 18 đời vua mà thời gian kéo dài đến 2622 năm thì có vẻ rất vô lý. Gần đây công trình nghiên cứu của Trần Huy Bá về Hùng Vương và sự tích “Hùng Triều Ngọc Phả” do Nguyễn Như Đỗ sống vào thời nhà Lê ghi rõ ràng như sau:”Thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua”. Theo Hùng Vương Ngọc Phả thì chữ Đời Vua dùng trong 18 đời vua Hùng không phải là một đời người mà là “một dòng (chi) gồm nhiều đời”. Riêng dòng Hùng Vương thứ 18, chi cuối cùng của thời đại Hùng Vương đã gồm 3 đời vua trị vì. Hiện nay ở Đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, tỉnh Vĩnh Phú, còn bài vị “Tam Vị Quốc Chúa”. thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc dòng Hùng Vương thứ 18 này. Chi này chấm dứt vào năm 258TCN. Theo sự tích Ngọc Phả thì mỗi dòng vua được gọi là một “Chi”. Mỗi chi gồm nhiều đời vua và được xếp theo thứ tự bát quái và thập can như sau: Càn, Khảm, Chấn ,Cấn ,Khốn, Ly, Khôn, Đoài và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỳ, Canh,Tân, Nhâm, Qúy. Cũng theo sự tích Ngọc Phả này thì thời Hùng Vương gồm cả thảy 47 đời vua theo thứ tự như sau: 1/ Chi Càn: Kinh Dương Vương. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép như sau:”Kinh Dương Vương là vị vua đầu tiên của nước Đại Việt ta, lên ngôi năm 2879.TCN”. Kinh Dương Vương húy là Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919TCN), lên ngôi năm 41 tuổi, trị vì 86 năm từ năm Nhâm Tuất (2879TCN) đến năm Đinh Hợi (2794TCN). 2/ Chi Khảm: Lạc Long Quân. Lạc Long Quân húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825TCN), lên ngôi năm 33 tuổi. Chi này kéo dài 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793TCN) đến năm Bính Thìn (2525TCN). Thời kỳ này được truyện cổ tích về họ Hồng Bàng gọi là huyền sử Rồng Tiên. Tài liệu không ghi rõ là có mấy đời vua của chi này. 3/ Chi Cấn: Hùng Quốc Vương. Hùng Quốc Vương húy Hùng Lân, thế này trị vì từ năm Đinh Tỵ (2524TCN) đến năm Bính Tuất (2253TCN), kéo dài 271 năm. Tài liệu không ghi rõ là có mấy vị vua trong chi này. 4/ Chi Chấn: Hùng Hoa Vương. Hùng Hoa Vương tức Hùng Bửu Lang. Lên ngôi năm Đinh Hợi (2254TCN) chi này trị vì suốt 342 năm, tức là đến năm 1712TCN, tài liệu cũng không ghi rõ gồm mấy vị vua. 5/ Chi Tốn: Hùng Huy Vương húy Bảo Lang sinh năm 2030TCN, lên ngôi năm 59 tuổi. Chi này kéo dài 200 năm tới năm 1771TCN. Không ghi rõ có mấy vị vua của chi này. 6/ Chi Ly: Hùng Hồn Vương. Hùng Hồn Vương húy Long Tiên Lang, sinh năm 1740TCN, chi này gồm 2 đời vua kéo dài 81 năm đến năm 1690TCN. 7/ Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương. Hùng Chiêu Vương húy Quốc Lang, sinh năm 1502TCN, lên ngôi năm 12 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua kéo dài 200 năm từ năm 1690TCN đến năm 1490TCN. 8/ Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương. Hùng Vĩ Vương húy Văn Lang, sinh năm 1466TCN, lên ngôi năm 31 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua cả thảy là 100 năm, từ năm 1435TCN đến năm 1335TCN. 9/ Chi Giáp: Hùng Định Vương. Hùng Định Vương húy Chân Nhân Lang, sinh năm 1381TCN, lên ngôi năm 45 tuổi. Chi này gồm 3 đời vua kéo dài được 80 năm từ năm 1336TCN đến năm 1256TCN. 10/ Chi Ất: Hùng Uy Vương. Hùng Uy Vương húy Hoàng Long Lang, sinh năm 1294TCN, lên ngôi năm 37 tuổi, chi này gồm 3 đời vua kéo dài được 90 năm, từ năm 1257TCN đến năm 1167TCN. 11/ Chi Bính: Hùng Trinh Vương. Hùng Trinh Vương húy Hưng Đức Lang, sinh năm 1218TCN, lên ngôi năm 51 tuổi. Chi này gồm 4 đời vua kéo dài 107 năm, từ năm 1168TCN dến năm 1061TCN. 12/ Chi Đinh: Hùng Vũ Vương. Hùng Vũ Vương húy Đức Hiền Lang, sinh năm 1114TCN, lên ngôi năm 52 tuổi, chi này có 3 đời vua, kéo dài 96 năm từ năm 1062TCN đến năm 966TCN. 13/ Chi Mậu: Hùng Việt Vương. Hùng Việt Vương húy Tuấn Lang, sinh năm 990TCN, lên ngôi năm 23 tuổi, chi này có 5 đời vua kéo dài 105 năm từ năm 967TCN đến năm 862TCN. 14/ Chi Kỷ: Hùng Anh Vương. Hùng Anh Vương húy Viên Lang, sinh năm 905TCN, lên ngôi năm 42 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 863TCN đến năm 779TCN tức là 89 năm. 15/ Chi Canh: Hùng Triệu Vương. Hùng Triệu Vương húy Chiêu Lang, sinh năm 745TCN, lên ngôi năm 35 tuổi, chi này gồm 3 đời vua kéo dài từ năm 780TCN đến năm 686TCN tức là được 94 năm. 16/ Chi Tân: Hùng Tạo Vương. Hùng Tạo Vương húy Đúc Quân Lang, sinh năm 740TCN lên ngôi năm 53 tuổi, chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 687TCN đến năm 595TCN, tức là được 92 năm. 17/ Chi Nhâm: Hùng Nghi Vương. Hùng Nghi Vương húy Bảo Quang Lang, sinh năm 605TCN, lên ngôi năm 9 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 596TCN đến năm 336TCN tức là được 160 năm. 18/ Chi Qúy: Hùng Duệ Vương. Hùng Duệ Vương húy Huệ Vương, sinh năm 350TCN lên ngôi năm 14 tuổi, chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 337TCN đến năm 258TCN tức là được 79 năm. Quan niệm sai lầm nhất là cho rằng các huyền thoại là hoang đường. Vì huyền thoại là Thông Điệp mà người xưa gởi đến con cháu, hiểu huyền thoại theo nghĩa đen thì không bào giờ thấy được nội dung thộng điệp bên trong. Còn về bằng chứng lịch sử cho thời đại Hùng Vương thì bao gồm bằng chứng về các giai đoạn phát triển liên tục của văn hóa tiền Đông Sơn đến Đông Sơn và bằng chứng về hệ thống giáo dục cổ đại thời Hùng Vương. Hàng trăm địa điểm thuộc văn hóa Đông Sơn đã được khai quật nghiên cứu, qua đó giúp ta hiểu được một quá trình phát triển liên tục, nội sinh qua bốn giai đoạn phát triển: 1/Sơ kỳ đồ đồng - giai đoạn Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng 4000 năm. 2/Trung kỳ đồ đồng: giai đoạn Ðồng Ðậu, cách ngày nay khoảng 3300 năm đến 3500 năm. 3/Hậu kỳ đồ đồng: giai đoạn Gò Mun, cách ngày nay khoảng trên dưới 3000 năm. 4/Cuối cùng là giai đoạn Ðông Sơn thuộc sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng từ trên dưới 2000 năm đến 2800 năm. Xin xem thêm bài Đồ đồng cổ Đông Sơn và bài Tên đồng thành Cổ Loa để hiểu rõ hơn về khía cạnh vật chất của văn minh Đông Sơn thuộc thời đại Hùng Vương. Tiếp theo xin xem thêm bài Hệ thống giáo dục thời Hùng Vương để thấy thời đại Vua Hùng đã phát triển một nền học thuật giúp đào tạo hiều tài cho đất nước và cũng thể hiện một khía cạnh phi vật chất của quá trình phát triển liên tục, nội sinh của văn minh Đông Sơn.
  16. Một số bài thơ được thầy Xuyền dịch bằng chữ Việt cổ : ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- :lol:
  17. Trích từ trang web bác TS dẫn hình : Above: 30 cards from an 18th century hand-painted Unsun karuta pack. The complete pack has 5 suits of 15 cards: Cups, Swords, Coins, Batons and Tomoe or Drums. Each suit has six court cards: Un (a god of good luck or, in one instance, Daruma, a Zen Buddhist); Sum (an enthroned Chinese official); Sota (a maid); Robai (a dragon which has been transferred from the Portuguese aces to the Japanese court); Kiri or Koshi (King or other enthroned person), and Uma (Cavalier or simply a horse). There are also numerals 9-1, the aces being represented simply by a single suit symbol without a dragon. Từ chú thích trên có thể hiểu đây là những bức tranh Unsun karuta được vẽ bằng tay từ TK 18. Hàng 1 : Cups (tách, chén, đài hoa) Hàng 2 : Swords (gươm) Hàng 3 : Coins (đồng tiền) Hàng 4 : Batons (dùi cui/gậy chỉ huy (?)) Hàng 5 : Tomoe / Drums (biểu tượng Tomoe của Nhật / trống) Cột 1 : Un (vị thần của sự may mắn hoặc như một hình vẽ là Daruma, một phật tử Zen) Cột 2 : Sum (một quan chức TQ được phong chức) Cột 3 : Sota (một thiếu nữ) Cột 4 : Robai (một con rồng được chuyển thể từ Bồ Đào Nha sang Nhật) Cột 5 : Kiri / Koshi (vua hoặc một người được phong chức) Cột 6 : Uma (kỵ sĩ cưỡi ngựa) Các bức tranh ở cột 3 mà bác TS nói đến là hình vẽ Sota với 1 trong 5 vật dụng tương ứng với từng hàng. Còn loại áo mà Sota bận trong tranh thì không rõ là y phục nào trong các y phục truyền thống của Nhật, bác nào biết xin bổ sunng thêm thông tin. :rolleyes:
  18. Bác Thiên Sứ nói đúng, bản đồ trên nói về đợt di cư đầu tiên của con người hiện đại đến các châu lục. Còn những thời kỳ di cư sau do các biến động về xã hội (như chiến tranh) hay tự nhiên (như việc ngập lục bán đảo Đông Nam Á cổ) thì bổ sung thêm thông tin mới nhận diện được. Dưới đây là bài trên Wiki tổng hợp về các phân nhóm trong M175 : (chú ý Vietnamese và Japanese) <H1 style="MARGIN: auto 0in; TEXT-ALIGN: center" align=center>Haplogroup O (Y-DNA) </H1>In human genetics, Haplogroup O (M175) is a Y-chromosome DNA haplogroup. <H2 style="MARGIN: auto 0in; TEXT-ALIGN: justify">Distribution</H2>This haplogroup appears in 80-90% of all men in East and Southeast Asia, and it is almost exclusive to that region: M175 is almost nonexistent in Western Siberia, Western Asia, and Europe and is completely absent from Africa and the Americas, although certain subclades of Haplogroup O do achieve significant frequencies among some populations of South Asia, Central Asia, and Oceania. <H2 style="MARGIN: auto 0in; TEXT-ALIGN: justify">Origins</H2>Haplogroup O is a descendant haplogroup of Haplogroup NO (M214), and is believed to have first appeared in http://http://en.wikipedia.org/wiki/Siberia'>Siberia or eastern Central Asia approximately 35,000 years ago. Haplogroup O shares a node in the phylogenetic tree of human Y-chromosomes with Haplogroup N, which is common throughout North Eurasia. <H2 style="MARGIN: auto 0in; TEXT-ALIGN: justify">Subgroups</H2>The subclades of Haplogroup O with their defining mutation, according to the 2006 ISOGG tree: O (M175) O* O1 (MSY2.2) O1* O1a (M119) Typical of Austronesians, southern Han Chinese, and Tai-Kadai peoples O1a* O1a1 (M101) O1a2 (M50, M103, M110) [*]O2 (P31, M268)O2* O2a (M95) Typical of Austro-Asiatic peoples, Tai-Kadai peoples, Malays, and Indonesians, with a moderate distribution throughout South Asia, Southeast Asia, East Asia, and Central AsiaO2a* O2a1 (M88, M111) Frequently found among Hani, She people, Tai peoples, Cambodians, and Vietnamese, with a moderate distribution among Qiang, Yi, Hlai, Miao, Yao, Taiwanese aborigines, and Han Chinese of Sichuan, Guangxi, and GuangdongO2a1* O2a1a (PK4) Found at low frequency among Pashtuns[1] O2a2 (M297) O2b (SRY465 (M176))O2b* O2b1 (P49) O2b1* Typical of Koreans, with a moderate distribution among Ryukyuans, Japanese, Indonesians, Vietnamese, Thais, Manchus, Evenks, and Micronesians O2b1a (47z) Typical of Japanese and Ryukyuans, with a moderate distribution among Indonesians, Thais, Koreans, and Vietnamese [*]O3 (M122) Typical of populations of East Asia, Southeast Asia, and culturally Austronesian regions of Oceania, with a moderate distribution in Central AsiaO3* O3a (M324) O3a* O3a1 (M121, DYS257) O3a2 (M164) O3a3 (LINE1, M159) Found at low to moderate frequency throughout East Asia and Southeast Asia, especially among Hmong-Mien peoples and Han Chinese O3a4 (M7) Typical of Hmong-Mien peoples O3a4* O3a4a (M113, M188, M209) O3a4a* O3a4a1 (N4) O3a4a2 (N5) [*]O3a5 (M134) Typical of Sino-Tibetan peoples, with a moderate distribution throughout East Asia and Southeast AsiaO3a5* O3a5a (M117, M133) Typical of Han Chinese and Tibetans, with a moderate distribution throughout East AsiaO3a5a* O3a5a1 (M162) O3a5b (P101) [*]O3a6 (M300)[*]O3a7 (M333) Among the subbranches of Haplogroup O are Haplogroup O1, Haplogroup O2, and Haplogroup O3. Haplogroup O* lineages, which belong to Haplogroup O but do not display any of the later mutations that define the major subclades O1, O2, and O3, can still be detected at a low frequency among most modern populations of Central Asia and East Asia. For example, a broad survey of Y-chromosome variation among populations of central Eurasia found haplogroup O-M175*(xO1a-M119,O2a-M95,O3-M122) in 2.5% (one out of 40 individuals) of a sample of Tajiks in Samarkand, 4.5% (1/22) of Crimean Tatars in Uzbekistan, 1.5% (1/68) of Uzbeks in Surkhandarya, 1.4% (1/70) of Uzbeks in Khorezm, 6.3% (1/16) of Tajiks in Dushanbe, 1.9% (1/54) of Kazakhs in Kazakhstan, 4.9% (2/41) of Uyghurs in Kazakhstan, and 31.1% (14/45) of Koreans.[2] However, approximately 30% of all Korean O*(xO1a,O2a,O3) Y-chromosomes probably belong to Haplogroup O2b, which has been found to be very common among Koreans. There is also a possibility that the so-called Haplogroup O* Y-chromosomes that have been found among these populations might belong to Haplogroup O1*(xO1a-M119), Haplogroup O2*(xO2a-M95,O2b-M176), or Haplogroup O2b-M176. <H2 style="MARGIN: 0in 0in 0pt; TEXT-ALIGN: justify">References</H2>1.<A title="" href="http://en.wikipedia.org/wiki/Haplogroup_O_(Y-DNA)#cite_ref-0#cite_ref-0">^ Y-chromosomal evidence for a limited Greek contribution to the Pathan population of Pakistan, Sadaf Firasat, Shagufta Khaliq, Aisha Mohyuddin, Myrto Papaioannou, Chris Tyler-Smith, Peter A Underhill and Qasim Ayub, European Journal of Human Genetics (2007) 15, 121–126 2.^ R. Spencer Wells, Nadira Yuldasheva, Ruslan Ruzibakiev, Peter A. Underhill, Irina Evseeva, Jason Blue-Smith, Li Jin, Bing Su, Ramasamy Pitchappan, Sadagopal Shanmugalakshmi, Karuppiah Balakrishnan, Mark Read, Nathaniel M. Pearson, Tatiana Zerjal, Matthew T. Webster, Irakli Zholoshvili, Elena Jamarjashvili, Spartak Gambarov, Behrouz Nikbin, Ashur Dostiev, Ogonazar Aknazarov, Pierre Zalloua, Igor Tsoy, Mikhail Kitaev, Mirsaid Mirrakhimov, Ashir Chariev, and Walter F. Bodmer: "The Eurasian Heartland: A continental perspective on Y-chromosome diversity." Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America v.98(18); Aug 28, 2001
  19. Đây là bản đồ ADN từ chương trình Genographic, thể hiện sự di cư của người hiện đại đến các châu lục khác nhau trên TG : (Chú ý M175 của Việt Nam và khu vực phương Nam, M122 của phương Bắc, cùng thời điểm hiện diện) Vậy là di truyền học hiện đại đã khẳng định nguồn gốc bản địa của cư dân tại Việt Nam : (M175 ~ 35.000 years ago)
  20. Một số hiện vật Đông Sơn từ RPVA (Trung tâm UNESCO Nghiên cứu Bảo tồn cổ vật Việt Nam)__(Tiếp theo) . Đèn đồng . Vũ khí Đông Sơn (1) . Vũ khí đông Sơn(2) . Mảnh giáp Đông Sơn . Dong Son bronze blade . Thạp đồng Đông Sơn . Muôi đồng Đông Sơn
  21. Một số hiện vật Đông Sơn từ RPVA (Trung tâm UNESCO Nghiên cứu Bảo tồn cổ vật Việt Nam) Bình rượu bằng đồng . Bộ nhạc khí bằng đồng . Ấm đun (đồ gốm Đông Sơn) . Đồ trang sức bằng đồng . Muôi đồng . Rìu đồng mũi hài . Thố đồng và quả cân đồng . Tượng chim đồng trên đầu gậy
  22. Gởi các bác album ảnh bãi đá cổ Sapa em sưu tầm được : http://www.flickr.com/photos/8772408@N06/s...57602087357594/ . . . Bác nào sưu tầm được ảnh của bãi đá cổ NẤM DẨN thì chia sẽ với mọi người để cùng tim hiểu nha !
  23. Truyền thuyết là những thông điệp của quá khứ, không phải là những câu chuyện hoang đường hoàn toàn. . Xin xem qua bản đồ di cư của người hiện đại đến các châu lục khác nhau trên TG, dựa trên những nghiên cứu về di truyền học : . (Lưu ý : early humans ở bản đồ dưới không phải là người vượn Homo Saphiens mà là người hiện đại - DNA evidence indicates that modern humans originated in Africahttp://en.wikipedia.org/wiki/Africa about 200,000 years ago - trong bản đồ thì thời gian < 100.000 năm trước, M168 tại "Adam Eve" là 50.000 năm trước) . Kết quả từ Genographic project cho người Việt Nam : (M175 ~ 35.000 năm trước đây) <H1 style="MARGIN: auto 0in; TEXT-ALIGN: center" align=center>Haplogroup O (Y-DNA) </H1>In human genetics, Haplogroup O (M175) is a Y-chromosome DNA haplogroup. <H2 style="MARGIN: auto 0in; TEXT-ALIGN: justify">Distribution</H2>This haplogroup appears in 80-90% of all men in East and Southeast Asia, and it is almost exclusive to that region: M175 is almost nonexistent in Western Siberia, Western Asia, and Europe and is completely absent from Africa and the Americas, although certain subclades of Haplogroup O do achieve significant frequencies among some populations of South Asia, Central Asia, and Oceania. <H2 style="MARGIN: auto 0in; TEXT-ALIGN: justify">Origins</H2>Haplogroup O is a descendant haplogroup of Haplogroup NO (M214), and is believed to have first appeared in http://http://en.wikipedia.org/wiki/Siberia'>Siberia or eastern Central Asia approximately 35,000 years ago. Haplogroup O shares a node in the phylogenetic tree of human Y-chromosomes with Haplogroup N, which is common throughout North Eurasia. <H2 style="MARGIN: auto 0in; TEXT-ALIGN: justify">Subgroups</H2>The subclades of Haplogroup O with their defining mutation, according to the 2006 ISOGG tree: O (M175) O* O1 (MSY2.2) O1* O1a (M119) Typical of Austronesians, southern Han Chinese, and Tai-Kadai peoples O1a* O1a1 (M101) O1a2 (M50, M103, M110) [*]O2 (P31, M268) O2* O2a (M95) Typical of Austro-Asiatic peoples, Tai-Kadai peoples, Malays, and Indonesians, with a moderate distribution throughout South Asia, Southeast Asia, East Asia, and Central Asia O2a* O2a1 (M88, M111) Frequently found among Hani, She people, Tai peoples, Cambodians, and Vietnamese, with a moderate distribution among Qiang, Yi, Hlai, Miao, Yao, Taiwanese aborigines, and Han Chinese of Sichuan, Guangxi, and Guangdong O2a1* O2a1a (PK4) Found at low frequency among Pashtuns[1] O2a2 (M297) O2b (SRY465 (M176)) O2b* O2b1 (P49) O2b1* Typical of Koreans, with a moderate distribution among Ryukyuans, Japanese, Indonesians, Vietnamese, Thais, Manchus, Evenks, and Micronesians O2b1a (47z) Typical of Japanese and Ryukyuans, with a moderate distribution among Indonesians, Thais, Koreans, and Vietnamese [*]O3 (M122) Typical of populations of East Asia, Southeast Asia, and culturally Austronesian regions of Oceania, with a moderate distribution in Central Asia O3* O3a (M324) O3a* O3a1 (M121, DYS257) O3a2 (M164) O3a3 (LINE1, M159) Found at low to moderate frequency throughout East Asia and Southeast Asia, especially among Hmong-Mien peoples and Han Chinese O3a4 (M7) Typical of Hmong-Mien peoples O3a4* O3a4a (M113, M188, M209) O3a4a* O3a4a1 (N4) O3a4a2 (N5) [*]O3a5 (M134) Typical of Sino-Tibetan peoples, with a moderate distribution throughout East Asia and Southeast Asia O3a5* O3a5a (M117, M133) Typical of Han Chinese and Tibetans, with a moderate distribution throughout East Asia O3a5a* O3a5a1 (M162) O3a5b (P101) [*]O3a6 (M300) [*]O3a7 (M333) Among the subbranches of Haplogroup O are Haplogroup O1, Haplogroup O2, and Haplogroup O3. Haplogroup O* lineages, which belong to Haplogroup O but do not display any of the later mutations that define the major subclades O1, O2, and O3, can still be detected at a low frequency among most modern populations of Central Asia and East Asia. For example, a broad survey of Y-chromosome variation among populations of central Eurasia found haplogroup O-M175*(xO1a-M119,O2a-M95,O3-M122) in 2.5% (one out of 40 individuals) of a sample of Tajiks in Samarkand, 4.5% (1/22) of Crimean Tatars in Uzbekistan, 1.5% (1/68) of Uzbeks in Surkhandarya, 1.4% (1/70) of Uzbeks in Khorezm, 6.3% (1/16) of Tajiks in Dushanbe, 1.9% (1/54) of Kazakhs in Kazakhstan, 4.9% (2/41) of Uyghurs in Kazakhstan, and 31.1% (14/45) of Koreans.[2] However, approximately 30% of all Korean O*(xO1a,O2a,O3) Y-chromosomes probably belong to Haplogroup O2b, which has been found to be very common among Koreans. There is also a possibility that the so-called Haplogroup O* Y-chromosomes that have been found among these populations might belong to Haplogroup O1*(xO1a-M119), Haplogroup O2*(xO2a-M95,O2b-M176), or Haplogroup O2b-M176. <H2 style="MARGIN: 0in 0in 0pt; TEXT-ALIGN: justify">------------------------------------------------------------------------------------------ Như vậy người Đông Nam Á cổ đã định cư tại Việt Nam rất sớm. Phát triển từ thời đại đồ đá (<A href="http://uk.blog.360.yahoo.com/blog-Hs9HP9s5dLKB.RSrelidl5dECRRu?p=102">văn hóa Hòa Bình), phát minh nông nghiệp lúa nước, tiếp đến thời đại đồ đồng và đồ sắt (văn minh Đông Sơn) : . . . . . </H2>
  24. :lol: Ai đứng đằng sau những trò bát nháo đó ? Người Việt yêu nước ? Chắc chắn là không phải ! Ai thì bạn tự hiểu vậy :lol: Gạt qua một bên những điều chưa vừa ý, góp chút thông tin thú vị về 18 vua Hùng : ---------------------------------------------------------------------------------- Vì sao 18 vị vua Hùng có thể cai trị ngót 2600 năm ? :rolleyes: (Kinh Dương Vương lên ngôi vào năm Nhâm Tuất 2879.BC, triều đại Hùng Vương thứ 18 kết thúc năm 258.BC) Theo Nguyễn Khắc Thuần thì tài liệu mang tên “Hùng Triều Ngọc Phả” cho biết họ Hồng Bàng truyền được 18 đời gồm : 1- Hùng Vương tức Lộc Tục. (Kinh Dương Vương) 2- Hùng Hiền tức Sùng Lãm. (Lạc Long Quân) 3- HÙng Lân. 4- Hùng Việp. 5- Hùng Hy. 6- Hùng Huy. 7- Hùng Chiêu. 8- Hùng Vĩ. 9- Hùng Định. 10- Hùng Hy (chữ Hy này viết khác với chữ Hy ở đời thứ 5). 11- Hùng Trinh. 12- Hùng Võ. 13- Hùng Việt. 14- Hùng Anh. 15- Hùng Triều. 16- Hùng Tạo. 17- Hùng Nghị. 18- Hùng Duệ. Từ trước đến nay “chúng ta” thường nghĩ rằng “đời” vua Hùng là giai đoạn sinh sống của một vị vua thuộc họ Hồng Bàng, cho nên với 18 đời vua mà thời gian kéo dài đến 2622 năm thì có vẻ rất vô lý. Gần đây công trình nghiên cứu của Trần Huy Bá về Hùng Vương và sự tích “Hùng Triều Ngọc Phả” do Nguyễn Như Đỗ sống vào thời nhà Lê ghi rõ ràng như sau : ”Thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua”. Theo Hùng Vương Ngọc Phả thì chữ Đời Vua dùng trong 18 đời vua Hùng không phải là một đời người mà là “một dòng (chi) gồm nhiều đời”. Riêng dòng Hùng Vương thứ 18, chi cuối cùng của thời đại Hùng Vương đã gồm 3 đời vua trị. Hiện nay ở Đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, tỉnh Vĩnh Phú, còn bài vị “Tam Vị Quốc Chúa”. thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc dòng Hùng Vương thứ 18 này. Chi này chấm dứt vào năm 258TCN. Theo sự tích Ngọc Phả thì mỗi dòng vua được gọi là một “Chi”. Mỗi chi gồm nhiều đời vua và được xếp theo thứ tự bát quái và thập can như sau: Càn, Khảm, Chấn ,Cấn ,Khốn, Ly, Khôn, Đoài và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỳ, Canh,Tân, Nhâm, Qúy. Cũng theo sự tích Ngọc Phả này thì thời Hùng Vương gồm cả thảy 47 đời vua theo thứ tự như sau: 1/ Chi Càn: Kinh Dương Vương. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép như sau:”Kinh Dương Vương là vị vua đầu tiên của nước Đại Việt ta, lên ngôi năm 2879.TCN”. Kinh Dương Vương húy là Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919TCN), lên ngôi năm 41 tuổi, trị vì 86 năm từ năm Nhâm Tuất (2879TCN) đến năm Đinh Hợi (2794TCN). 2/ Chi Khảm: Lạc Long Quân. Lạc Long Quân húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825TCN), lên ngôi năm 33 tuổi. Chi này kéo dài 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793TCN) đến năm Bính Thìn (2525TCN). Thời kỳ này được truyện cổ tích về họ Hồng Bàng gọi là huyền sử Rồng Tiên. Tài liệu không ghi rõ là có mấy đời vua của chi này. 3/ Chi Cấn: Hùng Quốc Vương. Hùng Quốc Vương húy Hùng Lân, thế này trị vì từ năm Đinh Tỵ (2524TCN) đến năm Bính Tuất (2253TCN), kéo dài 271 năm. Thời kỳ này chính là thời kỳ ở bên Tầu Hoàng Đế diệt Xuy Vưu, Du Võng mà cổ sử của Trung Hoa cho là khởi nguyên của dân tộc Hán. Tài liệu không ghi rõ là có mấy vị vua trong chi này. 4/ Chi Chấn: Hùng Hoa Vương. Hùng Hoa Vương tức Hùng Bửu Lang. Lên ngôi năm Đinh Hợi (2254TCN) chi này trị vì suốt 342 năm, tức là đến năm 1712TCN, tài liệu cũng không ghi rõ gồm mấy vị vua. 5/ Chi Tốn: Hùng Huy Vương húy Bảo Lang sinh năm 2030TCN, lên ngôi năm 59 tuổi. Chi này kéo dài 200 năm tới năm 1771TCN. Không ghi rõ có mấy vị vua của chi này. 6/ Chi Ly: Hùng Hồn Vương. Hùng Hồn Vương húy Long Tiên Lang, sinh năm 1740TCN, chi này gồm 2 đời vua kéo dài 81 năm đến năm 1690TCN. 7/ Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương. Hùng Chiêu Vương húy Quốc Lang, sinh năm 1502TCN, lên ngôi năm 12 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua kéo dài 200 năm từ năm 1690TCN đến năm 1490TCN. 8/ Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương. Hùng Vĩ Vương húy Văn Lang, sinh năm 1466TCN, lên ngôi năm 31 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua cả thảy là 100 năm, từ năm 1435TCN đến năm 1335TCN. 9/ Chi Giáp: Hùng Định Vương. Hùng Định Vương húy Chân Nhân Lang, sinh năm 1381TCN, lên ngôi năm 45 tuổi. Chi này gồm 3 đời vua kéo dài được 80 năm từ năm 1336TCN đến năm 1256TCN. 10/ Chi Ất: Hùng Uy Vương. Hùng Uy Vương húy Hoàng Long Lang, sinh năm 1294TCN, lên ngôi năm 37 tuổi, chi này gồm 3 đời vua kéo dài được 90 năm, từ năm 1257TCN đến năm 1167TCN. 11/ Chi Bính: Hùng Trinh Vương. Hùng Trinh Vương húy Hưng Đức Lang, sinh năm 1218TCN, lên ngôi năm 51 tuổi. Chi này gồm 4 đời vua kéo dài 107 năm, từ năm 1168TCN dến năm 1061TCN. 12/ Chi Đinh: Hùng Vũ Vương. Hùng Vũ Vương húy Đức Hiền Lang, sinh năm 1114TCN, lên ngôi năm 52 tuổi, chi này có 3 đời vua, kéo dài 96 năm từ năm 1062TCN đến năm 966TCN. 13/ Chi Mậu: Hùng Việt Vương. Hùng Việt Vương húy Tuấn Lang, sinh năm 990TCN, lên ngôi năm 23 tuổi, chi này có 5 đời vua kéo dài 105 năm từ năm 967TCN đến năm 862TCN. 14/ Chi Kỷ: Hùng Anh Vương. Hùng Anh Vương húy Viên Lang, sinh năm 905TCN, lên ngôi năm 42 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 863TCN đến năm 779TCN tức là 89 năm. 15/ Chi Canh: Hùng Triệu Vương. Hùng Triệu Vương húy Chiêu Lang, sinh năm 745TCN, lên ngôi năm 35 tuổi, chi này gồm 3 đời vua kéo dài từ năm 780TCN đến năm 686TCN tức là được 94 năm. 16/ Chi Tân: Hùng Tạo Vương. Hùng Tạo Vương húy Đúc Quân Lang, sinh năm 740TCN lên ngôi năm 53 tuổi, chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 687TCN đến năm 595TCN, tức là được 92 năm 17/ Chi Nhâm: Hùng Nghi Vương. Hùng Nghi Vương húy Bảo Quang Lang, sinh năm 605TCN, lên ngôi năm 9 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 596TCN đến năm 336TCN tức là được 160 năm. 18/ Chi Qúy: Hùng Duệ Vương. Hùng Duệ Vương húy Huệ Vương, sinh năm 350TCN lên ngôi năm 14 tuổi, chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 337TCN đến năm 258TCN tức là được 79 năm.