Văn Lang

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    465
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by Văn Lang

  1. Một bài viết khá hay về Hoàng Sa Trường Sa, Văn Lang xin phép gửi riêng một chủ đề mới. Từ Đặng Minh Thu[1] Nhắc đến Biển Đông, không ai không nghĩ đến hai cái tên rất đẹp Hoàng Sa và Trường Sa. Tiếc thay hai cái tên đó lại gắn liền với những gì đi ngược với thiện, mỹ, hoà, vì hai quần đảo xa xôi này đã và đang là đối tượng của một cuộc tranh chấp sôi nổi giữa các quốc gia và lãnh thổ trong vùng. Cuộc tranh chấp đã kéo dài gần một thế kỷ nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết được, và ngày càng trầm trọng hơn, đang là mối đe doạ cho hoà bình ở vùng Đông Nam Á. Khi thì bùng nổ, khi thì lắng dịu, cuộc tranh chấp này mang mọi hình thức đấu tranh, từ đấu tranh chính trị, ngoại giao đến đấu tranh vũ lực. Các quốc gia tranh chấp cũng thay đổi tuỳ theo thời cuộc. Lúc đầu chỉ có Pháp và Trung Hoa, tiếp sau đó, Nhật Bản và Philippin cũng nhảy vào đòi quyền lợi. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản bại trận rút lui khỏi cuộc tranh chấp, Pháp rời Đông Dương, Trung Hoa thay đổi chính quyền, thì các quốc gia và vùng lãnh thổ tranh chấp gồm Việt Nam Cộng hoà, Trung Quốc, Đài Loan và Philippin. Sau khi Việt Nam thống nhất thì cuộc tranh chấp tiếp diễn giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ba quốc gia và vùng lãnh thổ kia. Ngày nay, từ khi “Luật Biển mới” ra đời, tầm quan trọng của 2 quần đảo tăng thêm, thì số quốc gia tranh chấp cũng tăng theo. Malaixia và Brunây cũng đòi quyền lợi trên quần đảo Trường Sa. Với Công ước Luật Biển mới, quốc gia nào nắm những quần đảo này không những được hưởng lãnh hải quanh đảo mà cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa quanh quần đảo. Tuy nhiên, vấn đề phân chia lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia chưa thực hiện được khi chưa biết hai quần đảo này thuộc về ai. Vì vậy, vấn đề xác định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa càng quan trọng. Bài viết này sẽ phân tích một số lý lẽ chính mà Việt Nam và Trung Quốc đưa ra để khẳng định chủ quyền của mình, vì đây là hai quốc gia chính trong cuộc tranh chấp. I. DIỄN BIẾN CUỘC TRANH CHẤP Diễn biến cuộc tranh chấp sẽ được trình bày vắn tắt theo thứ tự thời gian, qua ba giai đoạn: trước thời Pháp thuộc, trong thời Pháp thuộc, và sau thời Pháp thuộc. 1. Trước thời Pháp thuộc Những người đánh cá Trung Hoa và Việt Nam sống trên các đảo tuỳ theo mùa nhưng từ bao giờ thì không thể xác định được. Đầu thế kỷ XVII: Chúa Nguyễn tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo, và những hoá vật do lấy được từ những tàu đắm. Năm 1753: Có 10 người lính của Đội Bắc Hải đến quần đảo Trường Sa: 8 người xuống đảo, còn 2 người thì ở lại canh thuyền. Thình lình cơn bão tới và thuyền bị trôi dạt đến cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã cho đưa 2 người lính Việt Nam về.[2] - Năm 1816: Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. · Năm 1835: Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo, và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi Pháp nhảy vào Đông Dương. 2. Thời Pháp thuộc - Năm 1884: Hiệp ước Huế áp đặt chế độ thuộc địa. - 9-6-1885: Hiệp ước Pháp – Thanh Thiên Tân là một hiệp ước hữu nghị, chấm dứt xung đột giữa Pháp và Trung Hoa. - 26-6-1887: Hiệp ước Pháp – Thanh ấn định biên giới giữa Bắc Việt Nam và Trung Hoa. - 1895 – 1896: Vụ La Bellona và Imeji Maru. Có hai chiếc tàu La Bellona và Imeji Maru bị đắm gần Hoàng Sa, một chiếc bị đắm năm 1895, và chiếc kia bị đắm năm 1896. Những người đánh cá ở Hải Nam bèn thu lượm đồng từ hai chiếc tàu bị đắm. Các công ty bảo hiểm của hai chiếc tàu này phản đối chính quyền Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa trả lời là Trung Hoa không chịu trách nhiệm, vì Hoàng Sa không phải là lãnh thổ của Trung Hoa, và cũng không phải của An Nam.[3] · Năm 1899: Toàn quyền Paul Doumer đề nghị chính phủ Pháp xây ngọn hải đăng nhưng không thành vì tài chính bị thiếu. · Năm 1909: Tổng đốc Lưỡng Quảng ra lệnh thám thính quần đảo Hoàng Sa. · Năm 1920: Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa. Pháp từ chối. · Bắt đầu năm 1920: Pháp kiểm soát quan thuế và tuần tiễu trên đảo. · 30-3-1921: Tổng đốc Lưỡng Quảng sáp nhập Hoàng Sa với Hải Nam. Pháp không phản đối. · Bắt đầu từ năm 1925: Tiến hành những thí nghiệm khoa học trên đảo do Dr. Krempt, Giám đốc Viện Hải dương học Nha Trang tổ chức. · 8-3-1921: Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp. · Năm 1927: Tàu De Lanessan viếng thăm quần đảo Trường Sa. · Năm 1930: Ba tàu Pháp: La Malicieuse, L’Alerte và L’Astrobale chiếm quần đảo Trường Sa và cắm cờ Pháp trên quần đảo này. · Năm 1931: Trung Hoa ra lệnh khai thác phân chim tại quần đảo Hoàng Sa, ban quyền khai thác cho Công ty Anglo-Chinese Development. Pháp phản đối. · Năm 1932: Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử trên quần đảo Hoàng Sa. Pháp sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa Thiên. · Năm 1933: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng đề nghị với Trung Hoa đưa vấn đề ra Toà án Quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối. · Năm 1938: Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội biên phòng người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần đảo Hoàng Sa. · Năm 1946: Nhật bại trận phải rút lui. Pháp trở lại Pattle (An Vĩnh) nhưng vì chiến cuộc ở Việt Nam nên phải rút. · Năm 1947: Quân của Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Woody (đảo Phú Lâm) của quần đảo Hoàng Sa. Pháp phản đối và gửi quân Pháp - Việt trở lại đảo. Hai bên đàm phán tại Paris. Pháp đề nghị đưa ra Trọng tài quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối. · Năm 1950: Quân của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Woody. · Năm 1951: Tại Hội nghị San Francisco, Nhật tuyên bố từ bỏ tất cả các đảo, Đại diện chính phủ Bảo Đại là Thủ tướng Trần Văn Hữu khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo mà không có nước nào lên tiếng phản đối. 3. Sau thời Pháp thuộc · Năm 1956: Quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương. Đội canh của Pháp trên đảo Pattle được thay thế bởi đội canh của Việt Nam. Trung Quốc cho quân chiếm phía Đông của quần đảo Hoàng Sa, tức nhóm Amphitrite (Nhóm Đông). Trong khi phía Tây, nhóm Crescent (Lưỡi Liềm), vẫn do quân Việt Nam đóng trên đảo Pattle nắm giữ. · 1-6-1956: Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo. · 22-8-1956: Một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hoà cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá. · Năm 1961: Việt Nam Cộng hoà sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Quảng Nam. · Năm 1973: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy. · Năm 1974: Trung Quốc oanh tạc quần đảo Hoàng Sa và chiếm các đảo do quân Việt Nam Cộng hoà đóng. · Năm 1975: Quân đội Nhân dân Việt Nam thay thế quân đội của Việt Nam Cộng hoà tại quần đảo Trường Sa. · Năm 1977: Việt Nam tuyên bố lãnh hải, kể cả lãnh hải của các đảo. · Trong thời gian này, nhiều quốc gia khác cũng đã chiếm một số đảo của quần đảo Trường Sa. · Năm 1988: Lần đầu tiên Trung Quốc gửi quân tới quần đảo Trường Sa. Quân của Trung Quốc đụng độ với Hải quân Việt Nam. Trên 70 người lính Việt Nam bị mất tích. Trung Quốc đã chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ ra cứu quân Việt Nam. · Năm 1989: Trung Quốc chiếm thêm một đảo. · Năm 1990: Trung Quốc đề nghị khai thác chung quần đảo Trường Sa. · Năm 1992: Trung Quốc chiếm thêm một số đảo nữa. · Năm 1994: Đụng độ giữa Việt Nam và một chiếc tàu Trung Quốc nghiên cứu cho Công ty Crestone. Hiện nay Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Còn quần đảo Trường Sa thì do sáu quốc gia và lãnh thổ chiếm giữ là: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippin, Malaixia và Brunây. (Tapchithoidai) II. PHÂN TÍCH LẬP LUẬN CỦA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC Lý lẽ mà cả Việt Nam và Trung Quốc đưa ra là chủ quyền lịch sử, cả hai quốc gia đều khẳng định mình có chủ quyền từ lâu đời được củng cố và chứng minh bằng lịch sử. Ngoài ra, Trung Hoa ngày xưa, cũng như Đài Loan ngày nay, và nhiều tác giả thường viện dẫn Hiệp uớc Pháp – Thanh 1887 để khẳng định hai quần đảo thuộc về Trung Quốc. Vì Trung Quốc và Đài Loan đã đồng ý nói chung một tiếng nói trong vụ tranh chấp này, do đó, đây cũng có thể là một lý lẽ của Trung Quốc. Thời kỳ gần đây, từ khi tranh chấp với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trung Quốc đã viện dẫn thêm một lý lẽ, là những lời tuyên bố trước đây của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Phần này sẽ phân tích ba lý lẽ nói trên. 1. Chủ quyền lịch sử Cả Việt Nam và Trung Quốc đều nại rằng mình đã khám phá, chiếm hữu và hành xử chủ quyền lâu đời. Chúng ta thử phân tích lý lẽ chủ quyền lịch sử của mỗi bên có đạt đủ tiêu chuẩn của luật quốc tế hay không. Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu luật quốc tế chi phối sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ như thế nào. 1.1. Sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ theo luật quốc tế. Một sự chiếm hữu lãnh thổ, muốn hợp pháp, phải hội đủ ba điều kiện: Một là, điều kiện liên quan đến đối tượng của sự chiếm hữu: lãnh thổ được chiếm hữu phải là đất vô chủ (res nullius), hoặc là đã bị chủ từ bỏ (res derelicta). Hai là, tác giả của sự chiếm hữu phải là một quốc gia. Chiếm hữu phải được thực hiện bởi chính quyền của quốc gia muốn chiếm hữu hoặc bởi đại diện của chính quyền chiếm hữu nhân danh quốc gia mình. Tư nhân không có quyền chiếm hữu. Ba là, phương pháp chiếm hữu: Phương pháp chiếm hữu đã trải qua nhiều thay đổi theo thời gian. Trước năm 1884, quyền chiếm hữu do Đức Giáo Hoàng ban cho. Từ thế kỷ VIII đến XV, Đức Giáo Hoàng chia đất giữa hai quốc gia là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Đến thế kỷ XVI, khi nhiều quốc gia khác cũng bắt đầu tham gia vào công cuộc đi tìm đất mới, thì phương cách chia đất bởi Đức Giáo Hoàng bị chỉ trích, và người ta đặt ra một phương thức mới cho sự chiếm hữu lãnh thổ, đó là quyền khám phá. Quốc gia nào khám phá ra mảnh đất đó trước thì được chủ quyền trên đất đó. Khám phá đây có nghĩa là chỉ nhìn thấy đất thôi, không cần đặt chân lên đất đó, cũng đủ để tạo chủ quyền. Sau này, điều kiện đó được xem như không đủ, nên người ta đưa thêm một điều kiện nữa, là sự chiếm hữu tượng trưng. Quốc gia chiếm hữu phải lưu lại trên lãnh thổ một vật gì tượng trưng cho ý chí muốn chiếm hữu của mình: cờ, bia đá, đóng cọc, hoặc bất cứ một vật gì tượng trưng cho chủ quyền của quốc gia chiếm hữu. Đến thế kỷ XVIII, người ta thấy chiếm hữu tượng trưng cũng không đủ để chứng tỏ chủ quyền của một quốc gia. Vì vậy, đến năm 1885, Định ước Berlin nhằm giải quyết vấn đề chia đất ở châu Phi, ấn định một tiêu chuẩn mới sát thực hơn cho sự chiếm hữu lãnh thổ. Đó là sự chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền trên lãnh thổ được chiếm hữu. Ngoài ra, Định ước Berlin cũng ấn định rằng quốc gia chiếm hữu phải thông báo sự chiếm hữu của mình cho các quốc gia khác biết. Nguyên tắc chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền sau này đã trở thành tập quán quốc tế và được làm cơ sở cho sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ trong luật quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, yếu tố thông báo không phải là một tập quán quốc tế, nó chỉ áp dụng riêng cho trường hợp chiếm hữu đặt trong phạm vi của Định ước Berlin mà thôi. Ngày nay theo luật quốc tế, sự chiếm hữu lãnh thổ phải bao gồm cả hai yếu tố vật chất và tinh thần. Yếu tố vật chất được thể hiện qua việc chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền trên lãnh thổ đó. Điều này có nghĩa là quốc gia chiếm hữu phải có sự hiện diện thường trực trên lãnh thổ được chiếm hữu, và phải có những hoạt động hoặc những hành vi có tính quốc gia đối với lãnh thổ đó. Sự hành xử chủ quyền phải có tính liên tục. Còn yếu tố tinh thần có nghĩa là quốc gia phải có ý định thực sự chiếm hữu mảnh đất đó. Phải hội đủ hai yếu tố vật chất và tinh thần trên thì sự chiếm hữu mới có hiệu lực. Và sự từ bỏ lãnh thổ cũng phải hội đủ cả hai yếu tố: vật chất, tức là không hành xử chủ quyền trong một thời gian dài, và tinh thần, tức là có ý muốn từ bỏ mảnh đất đó. Phải hội đủ cả hai yếu tố: từ bỏ vật chất và từ bỏ tinh thần thì lãnh thổ đó mới được xem như bị từ bỏ, và trở lại quy chế vô chủ.[4] Ngoài phương pháp chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền (occupation và effectivité), một quốc gia cũng có thể thụ đắc chủ quyền qua những phương pháp khác như chuyển nhượng (cession), thời hiệu (prescription), củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử (consolidation par titre historique),… Phương pháp “củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử” được áp dụng nếu quốc gia đã sử dụng lâu đời một lãnh thổ khác mà không có phản đối của một quốc gia nào khác.[5] Những tiêu chuẩn trên đã được áp dụng thường xuyên bởi án lệ quốc tế, trong những bản án về tranh chấp đảo Palmas, đảo Groenland, đảo Minquier và Ecrehous… 1.2. Chủ quyền lịch sử của Việt Nam Phải nói rằng, vì hoàn cảnh chiến tranh, nên tài liệu lịch sử của Việt Nam đã bị tàn phá hoặc thất lạc rất nhiều. Việt Nam đã đưa ra những tài liệu lịch sử và địa lý đủ để chứng minh rằng mình đã khám phá ra hai quần đảo này từ lâu, đã chiếm hữu tượng trưng cũng như thực sự và hành xử chủ quyền trên hai quần đảo qua nhiều đời vua và trải qua ít nhất là ba thế kỷ. 1.2.1. Khám phá ít nhất là từ thế kỷ XV, và hành xử chủ quyền trong thế kỷ XVII Dân đánh cá Việt Nam đã sống trên những đảo này và khai thác đảo từ lâu đời. Tài liệu sớm nhất mà Việt Nam còn có được là quyển “Tuyển tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ đồ thư” của Đỗ Bá, viết vào thế kỷ XVII. Danh từ “Tuyển tập” cho ta thấy tài liệu này được thu nhập từ nhiều tài liệu trước nữa. Trong quyển này, Đỗ Bá đã tả những quần đảo này rất chính xác, và xác nhận rằng Chúa Nguyễn đã lập Đội Hoàng Sa để khai thác quần đảo từ thế kỷ XVII. Đoạn trích do sử gia kiêm nhà Hán học Võ Long Tê dịch như sau: “Tại làng Kim Hộ, ở hai bên bờ sông có hai ngọn núi, mỗi ngọn có mỏ vàng do nhà nước cai quản. Ngoài khơi, một quần đảo với những cồn cát dài, gọi là “Bãi Cát Vàng”, dài khoảng 400 lý, và rộng 20 lý nhô lên từ dưới đáy biển, đối diện với bờ biển từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh. Vào mùa gió nồm Tây Nam, những thương thuyền từ nhiều quốc gia đi gần bờ biển thường bị đắm dạt vào những đảo này; đến mùa gió Đông Bắc, những thuyền đi ngoài khơi cũng bị đắm như thế. Tất cả những người bị đắm trôi dạt vào đảo, đều bị chết đói. Nhiều hàng hoá tích luỹ trên đảo. Mỗi năm, vào tháng cuối của mùa đông, Chúa Nguyễn đều cho một hạm đội gồm 18 thuyền đi ra đảo để thu thập những hoá vật, đem về được một số lớn vàng, bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm, ra tới đảo mất một ngày rưỡi, nếu đi từ Sa Kỳ thì chỉ mất nửa ngày.”[6] Theo sử gia Võ Long Tê, mặc dù quyển sách của Đỗ Bá được viết vào thế kỷ XVII (vào năm 1686), đoạn thứ nhất của hai đoạn trên được trích từ phần thứ ba của quyển Hồng Đức Bản Đồ - Hồng Đức là tên hiệu của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497).[7] Như vậy, Việt Nam đã khám phá hoặc biết tới những đảo này ít ra cũng từ thế kỷ XV. Danh từ Bãi Cát Vàng chứng tỏ rằng những đảo này đã được những người Việt Nam ít học nhưng hiểu biết nhiều về biển khám phá và khai thác, từ lâu trước khi chính quyền Chúa Nguyễn tổ chức khai thác đảo. Dân Việt Nam đã sinh sống ở đó từ nhiều thế kỷ, và chính quyền nhà Nguyễn từ thế kỷ XVII đã biết tổ chức khai thác đảo có hệ thống. Những yếu tố này, nhất là sự khai thác của nhà nước từ thế kỷ XVII qua rất nhiều năm, đã tạo nên từ thời đó một chủ quyền lịch sử cho Việt Nam trên những đảo này. 1.2.2. Hành xử chủ quyền trong thế kỷ XVIII: Quyển Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn Lê Quý Đôn là quan dưới thời nhà Lê, phụ trách vùng Thuận Hoá, Quảng Nam. Ông đã viết Phủ biên tạp lục vào năm 1776, tại Quảng Nam, nên đã sử dụng được rất nhiều tài liệu của chính quyền các Chúa Nguyễn để lại.[8] Đoạn sau đây nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: “… Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn có núi gọi là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, trước có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu ra biển bốn canh thì đến; phía ngoài nữa, lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm thì mới đến, là chỗ gần Bắc Hải”.[9] Một đoạn rất dài khác cũng trong Phủ biên tạp lục nhưng cần phải trích dẫn vì nó cung cấp nhiều chi tiết quan trọng liên quan đến cách Chúa Nguyễn tổ chức khai thác hai quần đảo một cách hệ thống: … Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng ngàn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống đồi mồi nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến bãi, lấy về dùng vôi sát quan, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt. Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem sổ của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khôi, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi. Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”.[10] Đoạn này cho thấy việc khai thác hai quần đảo của Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải kéo dài từ thế kỷ XVII sang đến cuối thế kỷ XVIII. Hoạt động của hai đội này được tổ chức có hệ thống, đều đều mỗi năm ra đảo công tác 8 tháng. Các thuỷ thủ do nhà nước tuyển dụng, hưởng bổng lộc của nhà nước, giấy phép và lệnh ra công tác do nhà nước cấp. Các bộ sử như Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt địa dư chí, đều có đoạn ghi các Chúa Nguyễn tổ chức khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và cả các đảo khác nữa: Đội Thanh Châu phụ trách các đảo ngoài khơi Quy Nhơn lấy tổ chim yến, Đội Hải Môn hoạt động ở các đảo Phú Quý, Đội Hoàng Sa chuyên ra quần đảo Hoàng Sa, sau đó lại tổ chức Đội Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa nhưng phụ trách các đảo xa ở phía Nam trong đó có quần đảo Trường Sa, đảo Côn Lôn và các đảo nằm trong vùng vịnh Thái Lan thuộc chủ quyền của Việt Nam.[11] Đặc biệt là bộ Lịch triều hiến chương loại chí: Dư địa chí của Phan Huy Chú (1782 – 1840). Phan Huy Chú và các tác phẩm của ông được Gaspardone nghiên cứu. Bộ sử này viết vào đầu thế kỷ XIX và gồm 49 quyển nằm ở École Fransaise d’Extrême Orient.[12] 1.2.3. Chính thức chiếm hữu và hành xử chủ quyền trong thế kỷ XIX Chủ quyền được tiếp tục hành xử qua thế kỷ XIX, dưới thời nhà Nguyễn (là thời đại kế vị chính quyền các Chúa Nguyễn). Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn, Vua Gia Long, đã củng cố thêm quyền lịch sử của Việt Nam bằng cách chính thức chiếm hữu hai quần đảo. Năm 1816, Vua đã ra lệnh cho Đội Hoàng Sa và hải quân của triều đình ra thăm dò, đo thuỷ lộ, và cắm cờ trên quần đảo Hoàng Sa để biểu tượng cho chủ quyền của Việt Nam. Đoạn sau đây của bộ Việt Nam thực lục chính biên chứng minh điều này: “Năm Bính Tý, năm thứ 15 đời Vua Gia Long (1816) Ra lệnh cho lực lượng hải quân và đội Hoàng Sa đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa để thanh tra và khám xét thuỷ trình.” Sự chiếm hữu hai quần đảo theo lệnh của Vua Gia Long cũng được chứng nhận bởi các tài liệu của phương Tây. Bài của M.A. Dubois de Jancigny viết như sau: “… Từ hơn 34 năm, Quần đảo Paracel, mang tên là Cát Vàng hay Hoàng Sa, là một giải đảo quanh co của nhiều đảo chìm và nổi, quả là rất đáng sợ cho các nhà hàng hải, đã do những người Nam Kỳ chiếm giữ. Chúng tôi không biết rằng họ có xây dựng cơ sở của mình hay không, nhưng chắc chắn rằng vua Gia Long đã quyết định giữ nơi này cho triều đại mình, vì rằng chính ông đã thấy được rằng tự mình phải đến đấy chiếm lấy và năm 1816 nhà vua đã trịnh trọng cắm ở đây lá cờ của Nam Kỳ”.[13] Một bài khác của Jean Baptiste Chaigneau cũng ghi nhận điều trên: “Nam Kỳ, mà nhà vua hiện nay là hoàng đế bao gồm bản thân xứ Nam Kỳ, xứ Bắc Kỳ, một phần của Vương quốc Campuchia, một số đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo Paracel gồm những bá đá ngầm, đá nổi không có người ở. Chỉ đến năm 1816 hoàng đế hiện nay mới chiếm lĩnh những đảo ấy.”[14] Năm 1833, vua Minh Mệnh cho đặt bia đá trên quần đảo Hoàng Sa và xây chùa. Vua cũng ra lệnh trồng cây và cột trên đảo. Bộ Đại Nam thực lục chính biên, quyển thứ 104, viết như sau: “Tháng tám mùa thu năm Quý Tỵ, Minh Mệnh thứ 14 (1833)… Vua bảo Bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một mầu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường (mắc cạn) bị hại. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.[15] Năm sau, Vua Minh Mệnh ra lệnh cho Đội Hoàng Sa ra đảo lấy kích thước để vẽ bản đồ. Quyển Đại Nam thực lục chính biên (1834), quyển thứ 122 ghi nhận điều này: “Năm Giáp Ngọ, thứ 15, đời Minh Mệnh: … Vua truyền lệnh cho Đội trưởng Trương Phúc Sĩ và khoảng trên 20 thuỷ thủ ra quần đảo Hoàng Sa để vẽ bản đồ…”.[16] Đến năm 1835 thì lệnh xây miếu, dựng bia đá được hoàn tất và được ghi nhận trong quyển Đại Nam thực lục chính biên, quyển thứ 154: “Tháng sáu mùa hạ năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835)… Dựng đền thờ thần (ở đảo) Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ: “Vạn Lý Ba Bình” (1). Còn Bạch Sa chu vi 1.070 trượng, tên cũ là Phật Tự Sơn, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, nhưng vì sóng gió không làm được. Đến đây mới sai cai đội thuỷ quân Phạm Văn Nguyên đem lính và Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách toà miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong, rồi về”.[17] Đoạn sau đây của cùng bộ sách, cho thấy vua nhà Nguyễn không những quan tâm đến việc khai thác đảo mà còn nhận thức được vị trí chiến lược của hai quần đảo, xem chúng như là lãnh thổ biên phòng của Việt Nam và tổ chức cả một chương trình dài hạn để củng cố biên cương đó – theo Đại Nam thực lục chính biên, quyển thứ 165: “Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836), mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1… Bộ Công tâu: Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thể nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, xin phái thuỷ quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa, không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào; khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, và nước biển xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”. “Vua y lời tâu, phái suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi, chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.[18] Sau đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được vẽ trên bản đồ của triều đình Vua Minh Mệnh. Những đoạn trên đây cho thấy chủ quyền lịch sử của Việt Nam đã tiếp tục được hành xử bởi các vua nhà Nguyễn. Đội Hoàng Sa và Bắc Hải được trao thêm nhiều nhiệm vụ: tuần tiễu, đi lấy kích thước đảo để vẽ bản đồ, thăm dò địa hải, vẽ thuỷ trình,… Những Đội này cũng có nhiệm vụ thu thuế những người tạm sống trên đảo[19]. Hai đội Hoàng Sa và Bắc Hải hoạt động cho đến khi Pháp xâm lược Việt Nam. Ít nhất từ thế kỷ XVII (và có thể từ thế kỷ XV hoặc trước nữa), từ thời Chúa Nguyễn, trải qua các triều đại vua nhà Nguyễn, trong 3 thế kỷ, hai đội này đã có nhiều hoạt động khai thác, quản trị và biên phòng đối với hai quần đảo. Đây là những hoạt động của nhà nước, do nhà nước tổ chức. Những hoạt động này kéo dài suốt 300 năm không có một lời phản đối của Trung Hoa thời đó. Nhà Nguyễn cũng ý thức được trách nhiệm quốc tế của mình từ thời đó và cho trồng cây trên đảo để các thuyền bè khỏi bị đắm và mắc cạn. Rõ ràng đây là những sự hành xử chủ quyền của một quốc gia trên lãnh thổ của mình. Như vậy, chủ quyền của Việt Nam được thụ đắc qua hai phương pháp phối hợp nhau: (1) quyền lịch sử bắt nguồn từ sự sử dụng và chiếm hữu lâu đời một lãnh thổ vô chủ dưới thời các Chúa Nguyễn, thế kỷ XVII và XVIII (consolidation par titre historique), và (2) chủ quyền bắt nguồn từ sự chính thức chiếm hữu và hành xử chủ quyền một cách liên tục dưới thời các vua nhà Nguyễn, thế kỷ XIX (prise de possession, occupation et effectivité). Thực ra việc thụ đắc bằng phương pháp (1) cũng đã đủ để tạo chủ quyền cho Việt Nam, và như vậy, Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ thế kỷ XVII. Quyền này lại được củng cố thêm khi các vua nhà Nguyễn chính thức chiếm hữu đảo. Đội Hoàng Sa và Bắc Hải không hiện diện thường xuyên trên đảo vì điều kiện sinh sống ở các đảo không cho phép. Tuy nhiên, lệ án quốc tế đã mềm dẻo đối với những nơi này luật không bắt buộc phải có một sự hiện diện thường xuyên của quốc gia chiếm hữu. Trong vụ án Clipperton, Pháp chỉ cho tàu chiến thanh tra đảo, mà không đặt một cơ quan công quyền nào hiện diện thường xuyên tại đảo. Trọng tài Quốc tế đã cho rằng như vậy cũng đủ để hành xử chủ quyền, vì điều kiện ở đảo không cho phép sống thường xuyên trên đó.[20] Trong trường hợp Việt Nam, mặc dù không ở lại đảo thường xuyên, hai Đội Hoàng Sa và Bắc Hải cũng sống ở đó 8 tháng mỗi năm đến khi gió nồm bắt đầu thổi, tức là mùa bão biển tới, họ mới trở về đất liền 4 tháng, và đến tháng giêng lại trở ra các đảo đóng ỏ đó 8 tháng và hàng năm đều như vậy. Với hoàn cảnh thời đó, thuyền của các quốc gia khác, kể cả thuyển của Trung Hoa đều sợ không dám đến đảo, trong khi Việt Nam cho quân đến đóng ở các đảo 8 tháng mỗi năm. Như vậy, đã vượt tiêu chuẩn ấn định bởi vụ án Clipperton, và quá đủ để xem như Việt Nam đã chiếm hữu hai quần đảo từ thời các Chúa Nguyễn (thế kỷ XVII).
  2. TTO - Nhìn nhận công lao nhà Mạc cùng chúa Nguyễn và các vương triều nhà Nguyễn, không gọi chính quyền Việt Nam cộng hoà là ngụy quân, ngụy quyền như trước, chỉ đích danh quân Trung Quốc xâm lược Việt Nam... Đó là những điểm mới của bộ sách Lịch sử Việt Nam Sáng 18-8, nhiều đơn vị xuất bản (công ty sách VN, NXB Thanh Niên, NXB Công an nhân dân, NXB Khoa học xã hội) tổ chức giới thiệu các bộ sách trọng tâm bao gồm: - Bộ Lịch sử VN (15 tập) - Văn hoá biển đảo VN. - Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (60 tác phẩm). - 400 chữ quốc ngữ - sự hình thành, phát triển và đóng góp vào văn hoá VN. - Lược sử Việt ngữ học, Hiên ngang Trường Sa... Trong đó, bộ sách Lịch sử VN tái bản lần thứ nhất, có chỉnh sửa, bổ sung, do Viện Sử học VN biên soạn thu hút nhiều sự quan tâm của báo chí. Bên lề buổi giới thiệu sách, PGS. TS Trần Đức Cường, nguyên viện trưởng Viện sử học, chủ tịch Hội khoa học lịch sử VN, tổng chủ biên bộ sách Lịch sử VN, đã có cuộc chia sẻ cởi mở với báo chí về những điểm mới của bộ sách này. Khi thành lập Ủy ban khoa học xã hội VN, bây giờ là Viện Hàn lâm Khoa học & Xã hội VN thì GS. VS Nguyễn Khánh Toàn đã đưa ra kế hoạch nghiên cứu và biên soạn các bộ sách là lịch sử VN, lịch sử văn hoá VN, lịch sử văn học VN, lịch sử tư tưởng VN. Đấy cũng là tâm huyết của rất nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu sử học thuộc Viện khoa học xã hội VN. Sau đó, Viện đã chấp thuận cho chúng tôi biên soạn bộ thông sử VN với 15 tập. Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học đã bỏ thời gian khoảng 9 năm như để hoàn thành bộ sử này với hơn 10.000 trang. Đây là bộ thông sử quy mô chưa từng có từ trước đến nay ở VN, từ thời khởi thủy cho đến những năm 2000. PGS. TS Trần Đức Cường * Lịch sử khởi thủy của VN trong bộ sử này có những điểm gì mới, thưa ông? - Chúng tôi khẳng định nhà nước ở VN hình thành sớm, dân tộc VN hình thành sớm. Đất nước VN chúng ta hình thành trên cơ sở sự phát triển của ba nền văn hoá tương ứng với ba vương quốc cổ đại là: văn hoá Đông Sơn với vương quốc Âu Lạc, văn hóa Sa Huỳnh với nhà nước Chăm Pa, văn hóa Óc Eo với vương quốc Phù Nam. Chúng tôi đã tránh được điều mà nhiều nhà sử học trước đây mắc phải là viết lịch sử VN nhưng chủ yếu là lịch sử của người Việt gắn với vương quốc Âu Lạc. * Thời kỳ các triều đại quân chủ chuyên chế ở VN cũng có nhiều tranh cãi sẽ được nhìn nhận ra sao trong bộ sách này? - Việc đánh giá một số vương triều phong kiến VN được chúng tôi tiếp cận với nhiều điểm mới. Với vương triều nhà Mạc, rõ ràng chúng ta cần đi đến kết luận nhà Mạc là một trong những vương triều có đóng góp trong lịch sử VN. Dù chỉ tồn tại khoảng thời gian không dài nhưng đã giải quyết được một số khủng hoảng về kinh tế, xã hội cuối thời Lê. Chúng tôi đã bước đầu, đánh giá đầy đủ, khách quan, trung thực về vấn đề này. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, là lúc nhà Lê đã rơi vào khủng hoảng kinh tế, xã hội rất rõ chứ không còn như thời kỳ Lê Lợi, Lê Thánh Tông nữa. Để giải quyết vấn đề này, Mạc Đăng Dung mới làm cuộc chính biến, giành lấy chính quyền. Không chỉ ổn định kinh tế, xã hội mà nhà Mạc còn phát triển văn hoá, giáo dục với nhiều khoa thi được mở, tìm được nhiều nhân tài cho đất nước. Câu chuyện về các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn cũng phải đánh giá cho đúng. Chúng ta phải ghi nhận các chúa Nguyễn đã có công tổ chức cho người Việt khai phá vùng đất Nam Bộ bây giờ. Sau khi lên ngôi, thành lập vương triều Nguyễn năm 1802, nhà Nguyễn đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước - sự nghiệp mà nhà Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã mở ra nhưng chưa hoàn thiện. Vua Gia Long lên ngôi đã góp phần hoàn thiện vào sự nghiệp thống nhất đất nước. Thứ hai, nhà Nguyễn củng cố bộ máy cai trị toàn quốc, từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. Cùng với đó, phải ghi nhận công lao của các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn trong việc xác định chủ quyền của đất nước với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thời đó, hàng năm triều đình đã cử những đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải đi tuần thú ở các đảo vùng Hoàng Sa, Trường Sa bây giờ. Thứ ba, nhà Nguyễn đã làm được nhiều việc phát triển văn hoá. Nhiều công trình được xây dựng dưới thời Nguyễn sau này được UNESCO công nhận là di sản thế giới như cung đình Huế. Lúc bấy giờ nước ta là vương quốc khá mạnh trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng bên cạnh điểm tích cực, các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn cũng có những sai lầm bị lịch sử lên án. Việc Nguyễn Ánh cầu cứu 5 vạn quân Xiêm sang xâm lược nước ta là sai lầm hết sức nghiêm trọng. Chính người anh hùng Nguyễn Huệ đã đánh tan đạo quân ấy. Sai lầm thứ hai là họ ký hiệp ước với người Pháp, dựa vào người Pháp, dù lúc đó nước Pháp còn khó khăn nên chưa thể giúp đỡ. Nhà Nguyễn không chịu canh tân đất ước dù có nhiều nhân sĩ, trí thức, nhà nho yêu nước có tư tưởng đổi mới đề xuất canh tân, đổi mới đất nước về nhiều mặt như Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ... Nhưng các vua nhà Nguyễn đã không chấp nhận những cải cách này khiến đất nước bị lạc hậu. Có lẽ do lợi ích của dòng họ quá lớn. Vậy nên khi đất nước phải đối diện với sự xâm lược của các nước tư bản phương Tây thì nhà Nguyễn để đất nước rơi vào tay ngoại bang. Chúng tôi đã đánh giá nhà Nguyễn rõ ràng, khách quan, không phiến diện như trước đây. * Lịch sử hiện đại VN cũng có rất nhiều câu chuyện gây tranh cãi. Tiêu biểu là cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc đến nay vẫn ít được nhắc đến trong sách sử? - Cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta do Trung Quốc gây nên. Chúng ta phải chiến đấu bảo vệ toàn tuyến biên giới phía Bắc từ Lai Châu đến Quảng Ninh. Cuộc chiến đấu ấy rất quyết liệt để bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc. Trong bộ sử này, chúng tôi nói rõ rằng Trung Quốc đã huy động 600 nghìn quân cùng xe tăng, đại bác... Chúng tôi gọi rõ đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc vào lãnh thổ VN. Trung Quốc cho quân tiến vào lãnh thổ VN mấy chục cây số như vậy thì không thể nói rằng đó không phải là cuộc chiến tranh xâm lược. Và trận chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của VN không chỉ gói gọn trong tháng 2-1979 mà còn kéo rất dài. Cán bộ, chiến sĩ của chúng ta phải hi sinh rất nhiều xương máu. Đến năm 1988 mới thực sự tương đối có hoà bình ở vùng biên giới phía Bắc. * Một vấn đề khác được tranh cãi lâu nay là sự tồn tại của chính quyền Việt Nam Cộng hoà được nhìn nhận như thế nào, thưa ông? - Chính quyền Việt Nam cộng hoà là một thực thể ở miền Nam Việt Nam. Nó tồn tại trong gần 21 năm. Năm 1954 còn có một thể chế nữa gọi là Quốc gia VN. Sau đó đến năm 1955 thì Ngô Đình Diệm mới phế Bảo Đại để làm quốc trưởng, sau đó trưng cầu dân ý, bầu Tổng thống. Việt Nam Cộng hoà là nối tiếp của Quốc gia VN. Nhưng vấn đề phải nghiên cứu cho rõ nguyên tắc vận hành của chính quyền này là gì? Đó là một thực thể trên lãnh thổ quốc gia VN. Trước đây, khi nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hoà, mọi người vẫn hay gọi là ngụy quân, ngụy quyền. Nhưng chúng tôi từ bỏ không gọi theo cách đó mà gọi là chính quyền Sài Gòn, quân đội Sài Gòn. Lịch sử phải khách quan, phải viết thế nào để mọi người chấp nhận. * Vậy còn những quan lại người Việt làm việc với chính quyền bảo hộ như Hoàng Cao Khải, Hoàng Trọng Phu. Vì sao trong bộ sử lại đánh giá họ rất nặng nề là “tay sai của thực dân Pháp”? - Tôi xác nhận Hoàng Cao Khải và Hoàng Trọng Phu chính là tay sai của thực dân Pháp. Điều này không có gì thay đổi cả, bởi họ thực hiện mưu đồ của chính quyền bảo hộ. Có những viên quan lại của Nam Triều có tinh thần yêu nước và chính quyền cách mạng vẫn mời họ ra cộng tác như cụ Phan Kế Toại, cụ Phạm Khắc Hòe... Nhưng hai nhân vật Hoàng Cao Khải và Hoàng Trọng Phu, qua những chứng cứ lịch sử thì không đánh giá khác được. * Trong quá trình thực hiện bộ sách đồ sộ này, có những khó khăn gì, thưa ông? - Khó khăn đầu tiên là chúng tôi chưa có điều kiện tập hợp tất cả giới sử học. Khó khăn thứ hai là về tư liệu vì hầu hết hiện nằm rải rác ở khắp nơi ngay trên đất nước chúng ta. Đó là chưa kể chúng ta chưa có quy định pháp luật về việc giải mật và công bố các tư liệu lịch sử. Ở các nước có quy định rõ ràng loại tư liệu nào trong 20 năm, hoặc 30 năm, 50 năm... thì được bạch hoá. Nhưng chúng ta chưa có những quy định đó nên có những tư liệu chúng tôi chưa có điều kiện tiếp cận. Hơn nữa, có các tư liệu ở Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Nga, Nhật và nhiều nước khác nữa, vì điều kiện chúng tôi cũng chưa tiếp cận được. http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20170818/tu-bo-cach-goi-nguy-quan-nguy-quyen-sai-gon/1371412.html -- Một số điểm khác của bộ Lịch sử Việt Nam (15 tập) lần này.
  3. Nhân dịp có bài trao đổi của ông Đào Trọng Thi với nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Trọng Dương tại Blog NXD có nói đến một con số 2700 năm của ông Đào Tiến Thi về thời Hùng Vương nước Văn Lang. Nhận thấy đây là bài trao đổi có giá trị và có tâm của tác giả Đào Tiến Thi với ông Trần Trọng Dương về chữ quốc ngữ và chữ Nôm nhưng trong đó có hạn sạn là thời Hùng Vương 2700 năm, VL đọc được thấy có một số ý kiến không đồng tình và một số ý kiến đồng tình trong comment bên dưới bài viết (ở phần trên). Xin gửi SP Thiên Sứ và các bác trên diễn đàn để trao đổi.
  4. Em xin gửi anh hoangnt một nguồn bên một trang của Mật Tông.cho biết tác giả bài thờ Nam Quốc Sơn Hà. Trong lúc rãnh rỗi, con có đọc các quyển sách của tác giả Lobsang Rampa, người tự xưng là hoá thân của Đạt Lai Lạt Ma, các quyển sách của David Neel viết về Tây Tạng, và các sách sử viết về bài thơ Nam Quốc Sơn Hà. Sau khi đọc xong toàn bộ mà vẫn không có câu trả lời về nguồn gốc bài thơ, thì chư vị xuất hiện và cho con thấy linh ảnh về cuộc chiến tranh Đại Việt - Đại Tống thời Lý, đầu thế kỷ 11. Trong linh ảnh là trận chiến ác liệt bên bờ sông, và trong kinh đô thì vua nhà Lý cùng các quan viên đại thần làm lễ cầu khấn Trời Đất xin cho Đại Việt được thắng trận. Trong lúc vị sư ông, chủ tế lễ, dâng sớ lên Thiên Đình thì con lại thấy linh ảnh chư vị Bồ Tát, Thánh thần từ hư không xuất hiện vô cùng tráng lệ và rực rỡ. Hai vị mặc đồ xanh lá và đỏ bước ra, nhận lấy tấu sớ, và sau đó giở một cuốn sổ lưu trữ phước nghiệp của nước Đại Việt. Linh ảnh đến đó thì hết. Con nghe chư vị nói: “Con có ngồi đọc sách thêm 10 năm nữa cũng không thể nào tìm ra được người sáng tác bài thơ này đâu. Sử sách đời sau có chỗ ghi là do Lý Thường Kiệt viết nên, có chỗ ghi là không rõ nguồn gốc, lại còn có chỗ ghi là xuất phát từ nước Tống... Cho con thấy một vài linh ảnh về thời kì đó để con tự hiểu ra được nguồn gốc bài thơ. Có vay thì phải có trả, nạn binh đao cũng do một phần nghiệp mà Đại Việt thời đó phải trả. May mắn thay, vua quan nhà Lý thương dân như con, trước lo sửa mình, thờ kính Trời Đất, sau là răn người, sống hợp lẽ đạo; lại có thêm được bậc chân tu, đắc quả Thiên Đình cùng dâng tấu sớ, xin được giảm nghiệp. Xét thấy một đất nước mà vua quan biết thờ kính Thượng Đế, quá nửa số dân biết lo sửa mình, lại thêm bậc chân tu được lòng Thượng Đế, nên có lệnh ban xuống cho phép được giảm nghiệp, thoát nạn binh đao trong hơn 200 năm. Bài thơ Thần đó là thư trả lời của Thiên Đình cho vị đạo sư tế lễ Từ Đạo Hạnh, được đọc vang trong đêm khiến quân Tống run rẩy mà bỏ chạy. Sẵn đây nói thêm một chút về việc xin gia giảm nghiệp quả. Người cầu xin phải là bậc đắc đạo do Thiên Đình sắc phong, chứ không phải là mũ mão áo lộng, danh hiệu của thế gian. Những bậc đắc đạo cũng không thể nào tự mình đứng ra cầu nguyện cho quốc thái dân an được, mà phải có sự phối hợp của vua quan và nhân dân. Luật công bằng là quả ai người đó nhận, không có chuyện hoán đổi hay nhận dùm. Nếu một đất nước mà vua quan biết làm tròn bổn phận của mình, quá nửa số dân trong nước biết sống hợp đạo, thờ kính Thượng Đế thì vị đạo sư mới mong giúp cho được. Nếu thiếu đi một trong ba điều kiện thì cũng không được. Nghe thì khó, nhưng không phải là không thể. Lịch sử đã có, thì hiện tại hay tương lai cũng có thể xảy ra được. Sở dĩ bảo con đọc các tạng thư về Lạt ma giáo là cho con hiểu rõ được bài học hôm nay. Tây Tạng, Cao Miên, Tích Lan thời trước là trung tâm của đạo giáo, là nơi xuất hiện các bậc chân tu nhiều huyền năng. Bởi lẽ như vậy, Tây Tạng mới có được thời đại hoàng kim vào các đời Đạt Lai Lạt Ma trước. Trải ngàn năm phát triển, đạo giáo ở đó chạy theo hình thức bề ngoài, bỏ bê cốt lõi bên trong, mà các Đạt Lai Lạt Ma cũng không còn được như trước, chỉ biết chạy theo dục vọng xa hoa và các hình thức bên ngoài như đền đài, miếu mạo, mũ áo. Đã vậy lại không biết thân biết phận, bắt chước các bậc đạo sư đời trước, đứng ra cầu khấn Thượng Đế cho quốc gia được hùng mạnh, vượt qua kì thế chiến. Đáng lẽ Tây Tạng chưa có mất nước nhanh vậy, nhưng do Thượng Đế nổi giận, thúc đẩy quá trình trả nghiệp mà thành ra mất nước, Hồng Cung và Bạch Cung thành khu triễn lãm, nhân dân nghèo đói, đất nước lạc hậu, cốt ý là răn đe những người tu hành đời sau, nhưng nào có mấy ai hiểu. Giờ đây cái còn lại chỉ là cái vỏ và bộ máy tuyên truyền. Lý đạo ta dạy con không có gì cao, chỉ là ôn lại bài cũ, mỗi ngày hiểu ra một tầng nghĩa mới, cho đến khi chạm được cốt lõi. Bám theo Tổ Thầy học Đạo mới mong có ngày chứng quả.” (Vutruhuyenbi)
  5. Kính gửi Sư phụ, các anh/chị và các bạn hữu duyên. Gần đây, Văn Lang có duyên được gặp một cuốn sách về nhân quả, nghiệp báo. Đó là những câu chuyện hay, có thật về nhân quả báo ứng, luân hồi, nghiệp chướng và cả về cảnh giới những địa ngục mà chư Phật, Bồ Tát đã tiết lộ "thiên cơ" để người đời biết để hướng thiện tránh làm ác. Cuốn sách được một cá nhân cùng chùa Vẻn ở Hải Phòng với một dịch giả sống tại Q10 thực hiện. Trong đây cũng có thể có những câu chuyện mà các anh/chị đã biết vì những người thực hiện cuốn sách cũng lấy trên phương tiện truyền thông nhất là trong chương 14 phần những câu chuyện tại Việt Nam. Dù sách đã có bản ebook đầy đủ nhưng để thuận tiện cho các anh/chị đọc, VL sẽ lần lượt gửi dần những nội dung chính lên (không phải toàn bộ cuốn sách) dưới các bài viết và cũng rất hoan nghênh các anh/chị gửi bài cùng. Nếu như một nội dung quá dài thì có thể được ngắt thành các bài khác nhau để tiện theo dõi. Bản đầy đủ của cuốn sách các anh/chị có thể đọc trực tuyến hoặc tải về tại đây: https://drive.google.com/file/d/0B22ME4tKxHY3cW1ZRl9YdVU4Mkk/view?usp=sharing Nếu như có công đức từ việc làm này, xin nguyện hồi hướng cho tất cả chúng sinh trọn thành Phật đạo và cho một nước Việt Nam yên bình, thịnh vượng. Nam Mô A Di Đà Phật Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
  6. Nội dung cuốn sách này trên media các bác có thể nghe bằng mp3 tại: http://khosachnoi.com.vn/sach-noi/776/ngoc-lich-buu-phieu.html Hoặc liên hệ thỉnh sách bản cứng tại địa chỉ facebook: https://www.facebook.com/ngoclichbuuphieu/ Các địa chỉ thỉnh sách, tặng sách miễn phí theo các tỉnh thành trên toàn quốc:
  7. Chiếc trống có chữ khắc duy nhất trong thành Cổ Loa Mặt trong chân trống Cổ Loa có khắc chìm dòng chữ Hán, được dịch là 'Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân'. Trong số bảo vật quốc gia Bảo tàng Hà Nội đang lưu giữ, trống Cổ Loa thuộc hàng quý hiếm bởi kích thước lớn, hoa văn trang trí trên mặt và thân cầu kỳ. Trống được phát hiện ngày 21/6/1982 khi nhóm thanh niên giúp gia đình ông Tái Kim Quang, xóm Chợ, xã Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) hạ thấp thửa ruộng ở khu Mả Tre. Trống đồng Cổ Loa có niên đại 2000-2.500 năm thuộc thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Ảnh: Phương Hòa. Chiếc trống nằm ngửa, chứa trong lòng 3 trống đồng bé hơn chỉ còn những mảnh nhỏ cùng hơn 200 hiện vật bằng đồng gồm lưỡi cày, rìu đồng, mũi tên đồng có niên đại trên 2.000 năm. Bộ sưu tập lưỡi cày đồng gồm 20 chiếc, chủ yếu có 3 kiểu chính là lưỡi cày hình tim, hình bầu dục và gần hình tròn. Trải qua hàng nghìn năm tuổi, những chiếc lưỡi cày màu xanh rỉ đồng có niên đại từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách đây 2.000-2.500 năm đã bị sứt mẻ, cong vênh phần nào. Sau khi phát hiện, UBND xã Cổ Loa đã cùng Sở Văn hóa Hà Nội khảo sát lại nơi phát hiện và tổ chức nhiều đợt thu hồi hiện vật. Do tìm thấy ngẫu nhiên nên khu vực quanh chiếc trống nằm đã bị đào bới lộn xộn, các nhà khoa học không thể nghiên cứu được mối quan hệ giữa trống và lớp gốm Cổ Loa cũng như thứ tự sắp xếp các hiện vật ban đầu. Tháng 12/2015, trống Cổ Loa cùng 20 lưỡi cày đồng được công nhận bảo vật quốc gia. Thuộc nhóm trống đồng Đông Sơn đẹp nhất, cổ nhất hiện nay ở Việt Nam, trống Cổ Loa xếp cùng nhóm với những chiếc trống bảo vật quốc gia khác như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà. Dù hoa văn trang trí trên trống Cổ Loa ít và giản đơn hơn nhưng họa tiết đặc trưng, không trùng lặp với hàng trăm chiếc trống đã phát hiện trước đó và sau này. Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao nổi 14 cánh, trang trí họa tiết lông công xen giữa các cánh. Băng hoa văn số 6 chia thành hai nửa giống nhau, mỗi nửa đều có khắc họa hình người hóa trang, mái nhà cong hình thuyền có chim đậu trên nóc, trong nhà có một cặp nam nữ ngồi đối diện nhau. Một đầu nhà có hình trống đồng đặt nghiêng, đầu kia có người ngồi co gối đánh trống, phản ánh lễ hội cầu mùa của cư dân nông nghiệp. Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao 14 cánh và 15 băng hoa văn trang trí tinh xảo tính từ tâm. Ảnh: Phương Hòa. Đặc biệt, đây là chiếc trống đầu tiên có minh văn (chữ khắc) được tìm thấy trong thành Cổ Loa. Mặt trong chân trống có khắc chìm một dòng chữ Hán, được phiên âm là "Tây Vu tập bát cổ, trọng lưỡng cá bách bát thập nhất cân". Dịch là "Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân" (khoảng 72 kg). Theo TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á thì chữ Tây Vu là cách ghi biến âm của Tây Âu, nhóm tộc người mà tương truyền Thục Phán An Dương Vương làm thủ lĩnh đã liên kết với Lạc Việt - Văn Lang của các vua Hùng thành nhà nước Âu Lạc ở cuối thế kỷ 3 trước công nguyên. Việc phát hiện trống Tây Vu trong thành Cổ Loa của An Dương Vương chứa đầy vũ khí và đồ đồng Đông Sơn của những người Tây Âu - Lạc Việt cũng là điều hợp lý. Trống Cổ Loa cũng là chiếc đầu tiên có minh văn ở Việt Nam được tìm thấy trong khu vực thành Cổ Loa. Đây từng là kinh đô của nhà nước Âu Lạc dưới thời An Dương Vương (thế kỷ 3 trước công nguyên) và của nước Đại Việt dưới thời Ngô Quyền (thế kỷ 10). Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là tòa thành cổ nhất, quy mô lớn bậc nhất, cấu trúc thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ. Mả Tre vốn là khu nghĩa địa nằm ở phía Tây Nam của cửa Nam thành Cổ Loa. Nhiều nhà nghiên cứu đi đến giả thuyết rằng Mả Tre có thể là kho chôn giấu tài sản trước biến động lớn trong xã hội hàng nghìn năm trước. Ngoài trống đồng và các lưỡi cày đồng, Cổ Loa còn có hàng loạt di chỉ khảo cổ được phát hiện, phản ánh thời kỳ phát triển liên tục của dân tộc Việt từ sơ khai qua đồ đá, đồ đồng và đồ sắt mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn, vẫn được coi là nền văn minh sông Hồng thời kỳ tiền sử của dân tộc Việt Nam. Những lưỡi cày đồng được phát hiện cùng với trống Cổ Loa. Ảnh: Phương Hòa. PGS.TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học đánh giá, trống đồng Cổ Loa cùng bộ sưu tập lưỡi cày đồng là nguồn sử liệu bằng vật chất, phác họa phần nào cuộc sống sinh hoạt và trình độ khoa học của người Việt cổ cách đây hơn 2.000 năm, dưới thời kỳ nhà nước Âu Lạc mà trung tâm là kinh đô Cổ Loa. Từ công cụ sản xuất như lưỡi cày đồng, đến nhạc khí như trống đồng, hay mũi tên đồng để chiến đấu, phòng vệ, tất cả cho thấy sự hoàn hảo của kỹ thuật đúc đồng thời đó. "Những hoa văn trang trí hình người, hình thuyền trên chiếc trống Cổ Loa cũng cho thấy thẩm mỹ của cư dân Đông Sơn rất cao, đời sống tinh thần phong phú. Chiếc trống được tìm thấy thuộc loại đẹp nhất, lớn nhất trong số trống đồng thời kỳ đông Sơn nên có thể tin tưởng rằng nó là của quý tộc. Nhưng ai là chủ sở hữu thì vẫn còn là một câu hỏi cần nghiên cứu thêm", PGS Tín cho hay. (VnExpress)
  8. Xin chia buồn với gia đình anh và cầu xin Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn cho anh được vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc. Nam mô A Di Đà Phật!
  9. A Di Đà Phật. Vậy là cháu bé đã không còn nữa rồi. Trường hợp này làm Văn Lang chợt nhớ tới một cháu bé trong bệnh viện Nhi Đồng 2 mà anh chị em Trung tâm đi thăm và tặng quà cho bé cách đây mấy năm. Sau đó không bao lâu cũng cháu đã ra đi vì sức khoẻ quá yếu. Do trường hợp này không còn nên VL đã chuyển sang trường hợp ở Thái Nguyên theo tin trên báo Dân trí http://m.dantri.com.vn/tam-long-nhan-ai/giot-nuoc-mat-dang-cay-cua-be-12-tuoi-truoc-canh-bo-tam-than-me-ru-ao-ra-di-20160224225732935.htm Hoàn cảnh này có mẹ bỏ đi, bố thì tâm thần, ông bà già yếu, chỉ còn hai chị em không có tiền học và trang trải những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Rất mong các anh chị em và Sư phụ để tâm tới trường hợp này, coi như là cái duyên vậy.
  10. Văn Lang xin ủng hộ cháu bé 500K. Anh Thiên Đồng nhắn giùm em số TK nhé.
  11. Ra mắt xe Rolls-Royce Phantom mang tinh thần người Việt (NDH) Chiếc Rolls-Royce Phantom phiên bản trục cơ sở kéo dài được thiết kế lấy cảm hứng từ văn hóa Đông Sơn của người Việt. Bảng táp-lô xe được in họa tiết mang văn hóa Việt, cùng dòng chữ "Dong Son". Ảnh: Trung Kiên. Bộ sưu tập Rolls-Royce Đông Sơn dự kiến gồm 6 phiên bản, được chế tác dựa trên mẫu xe Phantom phiên bản trục cơ sở kéo dài. Phiên bản đầu tiên, “One of 6” mang tên Lửa Thiêng nổi bật với màu sơn đỏ tựa rượu vang (Madeira red). Nắp capo, nóc xe kéo dài tận đuôi là màu vàng đồng (Sunrise gold). Các phiên bản còn lại được đặt tên Thủy triều (Wave), Thần núi (God of Mountain), Ngân Vũ (The Money Rain), Phù sa (Alluvium) và Mẹ Âu Cơ (Au Co Mother). Mỗi bên cánh cửa đàn chim hạc gồm 9 con, tượng trưng cho 18 đời vua Hùng vương. Chiếc Phantom Lửa Thiêng (Sacred fire) đầu tiên trong bộ sưu tập đã có chủ, là một đại gia trong ngành Luật tại Việt Nam. Được biết, vị đại gia này còn sở hữu nhiều mẫu siêu xe khác, như Ferrari 458 Italy… Nhà phân phối Rolls-Royce tại Việt Nam không công bố giá bán chính xác, nhưng mức giá ước chừng 2,5 triệu USD khi đến tay khách hàng. Một số điểm nhấn đặc trưng của chiếc Phantom độc đáo này gồm: dòng chữ “Dong Son” trên bảng táp lô; biểu tượng văn hóa Việt Nam như chim hạc, trống đồng… ngự khắp mọi nơi trong nội thất, ngoại thất xe. Tổng hòa nội thất vẫn tràn ngập vật liệu da đắt tiền, ốp gỗ óc chó với vân đối xứng, thảm để chân bằng lông mềm mại… http://ndh.vn/ra-mat-xe-rolls-royce-phantom-mang-tinh-than-nguoi-viet-2015101912281907p5c126.news
  12. Vâng. Trong lĩnh vực đầu tư nói riêng và làm giàu nói chung, rất cần tới khả năng tiên tri.
  13. Văn Lang xin ủng hộ 1 tr ạ. Mong gia đình chị và cháu được chữa khỏi và bớt khó khăn. Nam mô A di đà Phật.
  14. Tội tà dâm, bồ bịch, ngoại tình theo âm luật chịu nghiệp quả rất nặng. Trong khi đó phần đông chúng ta trong xã hội hiện đại nghĩ chuyện đó không đến mức như vậy. Thậm chí giới trẻ bây giờ còn cho đó là điều bình thường. Theo Ngọc Lịch Bửu Phiêu cũng như những tài liệu tiết lộ "thiên cơ" về luật nhân quả, luân hồi khác thì đều có điểm chung là những người xem web đen, đọc, sáng tác truyện khiêu dâm,... sẽ bị thọ báo rất đau khổ sau này. ---- Nhà văn nổi tiếng Đài Loan chịu nhiều quả báo vì sáng tác truyện khiêu dâm Một ngày nọ , nhà văn nổi tiếng Tạ Nhuận (Đài Loan) đến tìm tôi. Tạ Nhuận biết tôi đã viết trăm cuốn sách , mỗi ngày không gián đoạn, rất là khâm phục . Mà tôi cũng biết rằng, Tạ Nhuận là một tác giả tài khí hơn người, xuống bút là ngàn lời, lập luân mở mang độc đáo, người bình thường không thể bằng, tôi cũng rất kinh ngưỡng anh ta. Một nhà văn như vậy đến tìm tôi, tôi đương nhiên là rất vui mừng. Tạ Nhuận hỏi tôi: Liên Sanh hoạt Phật, tôi nghe người ta nói, ông biết thông linh âm dương? Tôi đáp: “Cũng biết sơ sơ” “Ông có thể giúp tôi không?” Tôi cười : “Tiên sinh phong sắc tú dị, trong ngoài đều biết danh, thông thấu triết lý, còn có nghi nan nào không quyết được sao?” Tạ Nhuận rất thật nói : “Ông nói cũng phải , một đời của tôi chưa từng mê tín nói về quỷ thần âm dương , cũng không tin vào thông linh, đối với những gì ông viết, tôi từng dùng mũi cười nhạt, nhưng, đó là chuyện đã qua, xin ông đừng chê trách. Năm nay tôi 64 tuổi, một đời của tôi, nói về tài hoa tuyệt đối không thua người, nói về năng lực cũng không đứng sau người,nhưng mà, tôi ở giới học thuật vẫn không được trọng dụng, trên đường làm quan, có cơ hội mấy lần, nhưng cuối cùng cũng là không. Ông xem tôi là nhà sáng tác có tiếng, thật ra tôi là ưu ưu không đắc chí, đều là chịu sư sắp xếp của người” “Ồ vậy sao?” tôi rất kinh ngạc. Tạ Nhuận nói : “Ông xem tôi là một nhà sáng tác, thật là tiền cũng không có, chức quan cũng không có, gia đình cũng tan nát, nhà cũng không có, sức khỏe của tôi cũng không như lúc trước. Một đời này, chỉ ôm lấy mấy cuốn sách rách nát thôi, thật là luôn luôn bị giam cầm, giống như trong vô hình vậy, có một bàn tay, đem tất cả công danh lợi lộc toàn bộ đẩy ra, hình như trong vô hình có thần vận mệnh, tôi không biết làm sao lại như vậy, xin ông xem giúp tôi ” “Được rồi” tôi nói. Tôi ở trước mặt Tạ Nhuận, nhắm hai mắt, trong tâm quán tưởng 3 vị bổn tôn của tôi : Diêu Trì Kim Mẫu - A Di Đà Phật - Địa Tạng Vương Bồ Tát. Có một người tên là Tạ Nhuận, muốn biết nhân quả đã qua, linh cơ thần toán, chân truyền đạo diệu, mau chóng cho đáp án, mở ra lưới mê, viên mãn biết Tôi cũng rất kinh ngưỡng anh ta. Một nhà văn như vậy đến tìm tôi, tôi đương nhiên là rất vui mừng. trước, cấp cấp như luật lệnh .Trong lúc này, thiên nhãn quả nhiên nhìn thấy bạch quang sáng chói, trong bạch quang có một cái động lớn, trong động có một đồng tử áo xanh chạy ra, đồng tử áo xanh này tay cầm một cuốn danh sách. Danh sách này hiển nhiên viết tên của Tạ Nhuận. Đồng tử áo xanh lật danh sách cho tôi xem, tôi nhìn thấy kinh hãi. Thì ra Tạ Nhuận là quan chức, ở nhà trường không chỉ là giáo sư, có thể làm hiệu trưởng, thậm chí được mời vào bộ máy hành chánh, có tiền có đại vị, gia đình viên mãn, sức khỏe khang thái, thọ đến 89 tuổi. Con người Tạ Nhuận :Thâm tâm trung hậu Trọng nghĩa khinh tài. Làm sao như vậy ! Xem đến sau cùng, chỉ thấy sau cùng viết mấy dòng chữ nhỏ, Tạ Nhuận lúc trẻ đã từng vì một chút tiền nhuận bút, hình thức tham chơi, viết ẩu 6 cuốn tiểu thuyết màu vàng, rất mỏng rất mỏng, là thứ mà nhà in làm rất thô tục, cách viết rất trực tiếp, loạn xạ...Tạ Nhuận chỉ bởi do 6 cuốn tiểu thuyết màu vàng này , tất cả vợ con tài lộc thọ sức khỏe , hoàn toàn mất hết ! Xem đến đây , tôi mới hoàn toàn hiểu rõ .Tôi mở mắt ra, hỏi: “Khi còn trẻ, làm việc gì?” “Đọc sách , đều là đứng đầu” “Có sáng tác viết bài không?” “Có, viết bài cho báo” “Có viết sách không?” “Lúc đó còn chưa có” “Tôi nói có” tôi kiên quyết. “Không có thật” “Là mỏng mỏng, màu vàng đó” tôi trực tiếp nói. Tạ Nhuận lúc đó, miệng mở to ra, mặt đỏ tía ra, sửng sốt không tin nổi. “A! Quả nhiên ông biết, quả nhiên có, quả nhiên có” “6 cuốn?” “Đúng vậy, 6 cuốn” Tạ Nhuận gật đầu. “Đó là 6 cuốn tiểu thuyết màu vàng , mất đi tất cả kiết khánh , khiến anh gặp nạn liên miên, hôm nay không phải anh đạo đức thâm hậu, thọ mạng cũng không còn”Tạ Nhuận kinh hãi : “Lợi hại như vậy sao ! “Tôi đáp : “Tiểu thuyết màu vàng, khiến người tâm trí dao động, dẫn người đi vào đường tà, nam nam nữ nữ đọc sách phong lưu sở cập, làm bại danh hoại tiết !” Tôi nói: Trong trời đất, chỉ có cầm thú, trống mái lẫn lộn. Không cần biết xấu hổ, không lo sĩ, xấu không chịu nghe Con người đó, là đứng đầu vạn vật, liêm tiết phải trọng yếu Nếu loạn luân, tuy là người, không bằng cầm thú giới dâm này, là đứng đầu ma, bại đạo trong tất cả bệnh nếu là tu hành, đem dâm dục, một dao cắt bỏ” Tôi lại nói: “ Loài người chúng ta là từ sắc dục mà sanh ra, mỗi người đều mang chủng tử của sắc dục, cho nên tạp khí đặc biệt nặng, thật ra theo nhân quả mà nói, người là từ sắc dục mà sanh, cũng nhất định từ sắc dục mà chết. Hiểu được đạo lý này thì phải tiết dục không nên phóng dục, cái tốt của tiết dục là khiến được sức khỏe trường thọ,sự nghiệp cát tường, sao tốt chiếu mạng. Nếu như dẫn người vào háo sắc tham dục, đương nhiên là thiệt thân mất khí, gia đạo suy đồi, chiêu cảm ác nghiệp, toàn bộ đều trái ngược lại !”Tạ Nhuận nghe xong chỉ nói :“ Vậy vợ chồng thì sao?” “ Về vợ chồng, cũng không nên tham lam nhiều, cũng phải tiết tế, không biết kiêng kỵ, thì cũng sẽ mất mạng ”Tạ Nhuận nói: “Những cái sai của tôi đã thành rồi, làm sao sám hối ?”Tôi đáp :“Theo tôi được biết, viết sách dâm, hoặc vẽ những hình dâm, hoặc khắc dâm tượng , phải đợi đến khi sách dâm, hình dâm, tượng dâm mất hết, mới được cho là nghiệp chướng tiêu trừ, nếu không thì nghiệp chướng vĩnh viễn theo thân“. Tạ Nhuận sợ hãi :“ Nghiêm trọng như vậy sao ?” “ Đúng vậy “ tôi nói “ 6 cuốn tiểu thuyết màu vàng này, nếu vĩnh viễn lưu hành, thì sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng, thử nghĩ xem, nghiệp chướng làm sao tiêu trừ ?” “ Đó chỉ là nhất thời lúc hứng khởi tôi vì tiền nhuận bút, mới viết, không ngờ đó lại là đại họa chí đại chí thâm, phải làm sao đây? ”Tôi nói với Tạ Nhuận: “ Xem ra chỉ có 2 cách, thứ nhất, anh có thể viết sách khuyên người ở thế gian, đừng tà dâm, nếu gặp sách dâm, thì sẽ đốt ”Tạ Nhuận đáp: “Như vậy là thiện !” Tạ Nhuận vui vẻ ra về, sau đó Tạ Nhuận viết một lá thư cảm ơn tôi, trong thư nói thần toán của tôi quả nhiên linh nghiệm, đồng thời anh ta cũng bắt đầu tin thần lạy Phật, không dám nói nhân duyên quả báo là mê tín nữa. Tạ Nhuận vì muốn chứng minh những lời tôi nói là chính xác, đã gửi đến cho tôi cuốn tiểu thuyết màu vàng, một bộ 6 cuốn, thì ra anh ta vẫn còn đang lưu giữ, dùng bút danh là: “Dâm Căn ”Tên sách: “Lạc Trong Lạc” “ Khoái Lạc của Giao Vĩ ” “ Phu Nhân của Tổng Sự Trưởng ” Tôi nhớ lại khi tôi còn trẻ, đi trên chợ đêm trong tiệm sách ở đường Hợp Nhị ở Cao Hùng, hình như là nhìn thấy cuốn sách này, cuốn sách này thật sự là đã hại không ít thanh niên học tử. Tạ Nhuận dặn dò tôi, thay anh ta đốt 6 cuốn sách này, như là sám hối vậy. Tôi thay anh ta đốt. Viết một bài kệ, ghi rằng : "Người háo sắc nằm mơ không tỉnh. Hôn hôn trầm trầm trong tà dâm Quả báo sớm muộn sẽ đến thôi. Phải nhớ sắc không tánh viên minh” Văn Lang xin phép dừng post chủ để này tại đây. Các nội dung khác xin các bác có thể đọc cụ thể trong sách ạ.
  15. Thoát đại nạn nhờ niệm hồng danh Quán Thế Âm Bồ Tát. Có lẽ người Việt Nam chúng ta, ai cũng biết nghệ sĩ hài hải ngoại Vân Sơn rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt sống ở Mỹ. Gia đình thờ Phật, nhưng anh lại không tin Phật, vì anh cho rằng Đức Phật chỉ là truyền thuyết. Nhưng trong một lần gặp nạn, sự sống chết chỉ trong gang tấc, không còn cách nào thoát được nên anh mới cầu cứu đến Phật. Câu chuyện xảy ra trong chuyến vượt biên rời khỏi Việt Nam vào tháng 11 năm 1988, nghệ sĩ hài Vân Sơn đi chung trên con tàu chở bốn mươi mốt người. Sau bảy ngày lênh đênh trên biển khoảng 3-4 giờ sáng ngày thứ tám, con tàu đến gần bờ biển Malaysia thì bất ngờ tàu lạc vào vùng xoáy nước, con tàu không thể di chuyển được, đứng im một chỗ. Tất cả mọi người trên tàu đều tuyệt vọng chờ chết. Lúc đó, anh cùng người lái tàu tên Hùng đứng trên khoang trao đổi. Anh hỏi:- Anh có cách nào điều khiển cho tàu đi tiếp được không?Anh Hùng đáp:- Dạ không! Xưa nay, em chưa bao giờ rơi vào tình cảnh khó xử như thế này.Lúc đó, Vân Sơn ước gì có bụi cây, hay có một thứ gì đó ở xung quanh để còn chút cơ hội bám víu, nhưng quả thật không một thứ gì, chỉ có trời cao, biển rộng, sóng nước mênh mông. Bình thường anh ít nghĩ đến Phật, nhưng lúc này tính mạng như nghìn cân treo sợi tóc. Anh chợt nhớ đến Bồ-tát Quán Thế Âm mà gia đình thờ. Lập tức, anh niệm danh hiệu Ngài liên tục, không có chút mảy may xen tạp việc gì, cho đến khi mở mắt, anh nhìn vào bờ. Ôi thật linh ứng vô cùng! Anh thấy Bồ-tát đang đứng trên ngọn núi, ánh sáng chiếu sáng rực rỡ. Anh không tin vào mắt mình, nghĩ mình đã chết, hoặc bị hoa mắt nên anh gọi người lái tàu nhìn thử xem có phải là Bồ-tát không? Và anh Hùng cũng hớn hở vui mừng hét lên: “Bồ-tát Quán Thế Âm đến kìa!”Tiếp đến, anh Hùng điều khiển được con tàu, chạy theo hướng của Bồ-tát thật nhẹ nhàng, lướt sóng tới đảo. Khoảng một lúc sau, họ còn thấy Bồ-tát bay lên hư không, vẫy tay chào và mỉm cười với mọi người. Thật là kỳ diệu! Từ đó về sau, Vân Sơn hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối sự nhiệm mầu của Phật pháp. Anh kết luận: “Trên đời quả là có những điều mà khoa học không thể nào giải thích nổi, có những điều ngoài sức tưởng tượng của con người, nhưng đó lại là sự thật!”.
  16. Câu chuyện nhân quả của một lương y Phật tử Tôi là Thích Minh Hòa, trụ trì chùa Phước Hưng, ấp Thạnh Hiệp, xã Hòa Thạnh, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Tôi xin chia sẻ câu chuyện nhân quả thực tế mà tôi và mẹ tôi bị quả báo do những ác nghiệp mẹ con tôi đã gây ra. Do thiếu phước, tôi sinh ra đời không có cha và sống trong sự nghèo khổ dưới sự bảo bọc của người mẹ. Theo lời mẹ tôi kể lại, để sinh sống, mẹ tôi bán khoai mì. Một đầu thì gánh tôi, một đầu thì gánh khoai mì ra chợ bán. Cuộc sống vẫn không đủ cho hai mẹ con, mẹ tôi phải đi làm bé cho một gia đình giàu có ở trong xóm. Tôi bị ngược đãi. Lúc 6 tuổi, ban ngày tôi phải đi chăn bò. Nhiều lúc, tôi bị bò húc ngay trước ngực, thậm chí còn bị đá lăn mấy vòng. Có một ngày, người con của ông chủ đi câu cá, thấy bò đói thì lấy cần câu quất vào lưng tôi. Tôi chỉ chịu đựng và khóc. Chưa hết, ban đêm, tôi phải đi soi ếch, nhái, cá… đem về cho mẹ tôi làm thịt để phục vụ cho gia đình đó. Bởi vì sát sanh quá nhiều cho nên tôi bị bệnh thường xuyên. Mẹ tôi phải bán hết đồ đạc trong nhà để chữa trị cho tôi. Mỗi lần bệnh như vậy, không có bác sĩ nào chữa lành bệnh cho tôi. Mẹ tôi đưa tôi về chùa, xin cơm thừa và áo thừa của chùa để mặc thì hết bệnh. Có một lần tôi trải qua một cơn bạo bệnh rất nặng, mẹ tôi hứa với Tam Bảo khi tôi hết bệnh sẽ cho tôi vào chùa làm công quả 3 tháng. Kết quả là tôi qua được cơn bệnh. Khi tôi vào chùa làm công quả được một tháng thì thầy cho tôi xuất gia năm 6 tuổi. Lúc 13 tuổi, tôi thấy cuộc sống của mẹ tôi quá khổ cực, phải chăn bò, nghèo quá thiếu gạo ăn. Tôi phải xin Sư phụ cho về nhà để phụ giúp đời sống cho mẹ. Vì không biết phải làm nghề gì cho cuộc sống, tôi phải đi soi bắt ếch, nhái, ốc, cá. Từ lúc đó, tôi trở thành người sát sanh số một. Con ếch, nhái nào mà mạnh thì tôi bẻ chân, rồi mẹ tôi cắt đầu, lột da đem ra chợ bán. Khi mẹ tôi cắt đầu lột da chúng ra, chúng chắp hai chân trước lại như đang van xin tha mạng. Còn cá thì tôi chích điện. Con lớn đem ra chợ bán, con nhỏ thì ăn. Đồng thời, tôi cũng ác lắm, con nào tôi muốn bắt mà nhảy nhót lung tung làm tôi bực mình, tôi lấy kim hay gai nhọn đâm vào mắt cho đui luôn, máu từ hai mắt chúng chảy ra. Hai mẹ con tôi đã sát sanh không biết là bao nhiêu. Mỗi ngày đem ra chợ bán khoảng 1.000 con. Quí vị thử tính đi một tháng là bao nhiêu? Rồi một năm là bao nhiêu? Hai mẹ con tôi làm như vậy suốt 8 năm trường tính ra giết khoảng hơn 3 triệu con. Năm 17 tuổi, tôi lên thành phố Hồ Chí Minh đi làm. Khi bắt đầu có tiền, tôi ăn chơi sa đọa. Trong thời gian kiếm tiền, tôi lại phạm tội sát sanh khi làm việc tại Làng Nướng. Tôi phải giết rắn, tôm, heo, kỳ nhông... rất là tàn ác. Năm 22 tuổi, tôi có dư được một số tiền. Tôi bắt đầu bị quả báo. Bệnh tật đến với tôi. Tôi bị viêm khớp chân, đi đứng không nổi. Bao nhiêu tiền bạc tôi kiếm được đều tiêu hết cho căn bệnh này. Lúc đó tôi cảm thấy chết còn sướng hơn, cuộc đời này quá chán chường. Tôi trả quả khủng khiếp. Ai đã từng trải qua viêm đau khớp, nhức khớp, sưng hai quả thận thì biết nỗi khốn khổ này. Các bác sĩ đều bó tay bỏ chạy. Ban đêm, quí vị lấy dao chặt tay của tôi còn nhẹ hơn cái đau nhức này. Có nhiều khi tôi lấy lưỡi lam rạch da thịt tôi cho máu chảy ra để đỡ nhức nhưng không hiệu quả. Khi nó nhức lên, cảm giác như ai đó lấy con dao cắt xương thịt của mình. Mỗi lần bệnh là bán sống bán chết. Càng ngày cơ thể tôi càng đau đớn. Khớp giò của tôi sưng lên, các cơ teo lại và ra mùi hôi thúi. Trong cơn bệnh, thân thể tôi phát nhiệt nóng thiêu đốt cơ thể. Tôi có cảm giác hàng ngàn mũi kim đâm lên cơ thể tôi nhức nhối, đau đớn vô cùng. Tôi cảm thấy trả nghiệp hết nổi và sắp mất mạng. Tôi quỳ trước Phật sám hối và xin:“Phật ơi, cho con xin trả từ từ” rồi tôi phát nguyện: “Nếu con đi tu, suốt cuộc đời con sẽ bán thân này cho Phật, cho Trời, cho Đất. Con không nghĩ gì về cho bản thân con hết. Con cố gắng tu hành cho tốt. Nếu con làm thầy thuốc thì cho con xin được tay phục dược để chữa bệnh cứu giúp chúng sanh”. Kết quả của lời phát nguyện nầy rất là nhiệm mầu. Tôi gặp được một ông thầy thuốc Nam trị lành bệnh khớp. Quả báo kế tiếp, tôi bị mù mắt ba tháng. Đêm đó tôi cảm thấy bức rức, khó chịu, cơ thể phát nóng đến sáng tự nhiên đôi mắt tôi đỏ hoe hầu như không tiếp xúc được ánh sáng nữa. Nếu tiếp xúc ánh sáng, cặp mắt tôi đau đớn vô cùng. Đúng là nhân quả, bác sĩ dùng kim châm vào mắt tôi để chữa trị nhưng không khỏi. Cặp mắt của tôi đau đớn vô cùng, hai hàng máu chảy ra từ cặp mắt. Vì mới xuất gia nên tôi chưa biết chú Đại Bi là gì? Chưa biết con đường nào đi cho đúng? Lúc đó thầy Trí Thông đang là tăng sinh học chung với tôi, trong một cuộc trò chuyện thầy khuyên tôi nên trì chú Đại Bi để giải nghiệp. Tôi trì tụng chú Đại Bi ngày đêm không ngừng nghỉ. Nhiệm mầu thay! Trong vòng 7 ngày, đôi mắt tôi giảm đau và máu bớt chảy. Tôi nhìn thấy ánh sáng lổm chổm như tổ ong. Tôi đến bác sĩ để chữa trị tiếp. Bác sĩ chữa bằng cách dùng kim chích vào mắt tôi rồi bơm thuốc vào. Tôi đã thấy quả báo mà tôi gánh chịu. Khi xưa tôi dùng kim chích làm mù mắt chúng sanh, bây giờ tôi bị các bác sĩ lấy kim chích vào mắt nhiều lần để trị bệnh. Vừa trị bệnh tôi vừa thành tâm niệm chú Đại Bi, sống chết với chú Đại Bi, đi đứng nằm ngồi đều trì chú Đại Bi. Vi diệu thay! Trong vòng một tháng cặp mắt của tôi trở lại bình thường. Mẹ tôi cũng bị quả báo, đang sinh hoạt bình thường thì tự nhiên rùng mình và hai tay bắt đầu rung lên không ai có thể giữ lại được y chang như con nhái đang bị cắt đầu và xin tha thứ. Gương mặt của bà thì tròn trịa nhưng thân mình y như một con nhái. Bà bị rút gân vô cùng đau đớn. Mẹ tôi không đi đứng được, nằm một chỗ trả quả. Mẹ tôi ý thức được tội ác mà mình đã tạo ra, bà chấp nhận trả nghiệp. Trong thời gian trả quả báo, mẹ tôi muốn ra khỏi cõi Ta bà đầy khổ đau nầy nên bà luôn niệm hồng danh Phật A Di Đà để cầu được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Công phu niệm Phật của mẹ tôi trải qua 8 năm thì bà đã vãng sanh vào tháng 9 - 2013. Khi hỏa tang, mẹ tôi để lại hai viên Xá lợi, một viên màu vàng và một viên màu trắng từ tủy. Riêng đôi mắt và 2 cái răng không bị cháy. Một điều vi diệu là trước khi vãng sanh, thân thể của mẹ tôi đang co rút thì trở lại bình thường. Bà vẫy tay chào mọi người đang hộ niệm xung quanh với nụ cười rồi vãng sanh về cõi Phật. Vì nhận thức được những nghiệp ác của mình nên sau khi xuất gia tu tập, tôi nhận chùa Phước Hưng và phát nguyện làm nghề thuốc Nam chữa bệnh cho người nghèo để bù đắp phần nào những nghiệp ác đã tạo ra. Khi bắt đầu trụ trì chùa Phước Hưng, tôi hái những lá thuốc chữa những căn bệnh viêm khớp, nhức khớp cho đồng bào sống chung quanh chùa. Vừa hành nghề, tôi vừa học thêm về ngành thuốc. Tiếng lành đồn xa, càng ngày càng có nhiều bệnh nhân đến với tôi. Tôi phải đi học một khóa ở trường thuốc Đông Y, được hội Đông Y cho phép chữa bệnh và chính quyền địa phương cấp giấy phép vào rừng tìm cây thuốc Nam về chữa bệnh cho đồng bào mình. Trong quá trình điều trị có nhiều câu chuyện thương cảm mà những bệnh nhận đang bị trả nghiệp nhưng họ không biết. Nhiều bệnh nhân gặp tôi khóc lóc và than: “Thầy ơi, cứu con, con bệnh riết rồi chồng con bỏ con” hoặc là“Thầy ơi, tôi nuôi hai đứa con, vợ tôi bỏ trốn mất tiêu”. Có nhiều bệnh nhân kinh ngạc không tin khi tôi chẩn đoán bệnh và nói: “Bệnh này uống thuốc một tuần là hết”, người bệnh kêu lên: “Trời ơi! Tôi chạy chữa hết tiền, hết của mới tìm đến thầy đó”. Những bệnh nhân này đã được tôi trị lành trong một thời gian ngắn. Có nhiều bệnh nhân bị những căn bệnh nan y mà các bác sĩ Tây y, Đông y trả về sau khi dùng đủ cách điều trị cho họ. Nghiệp sát của họ rất nặng, chuyên bán giết gà, vịt, heo... Có lẽ có cùng cộng nghiệp với tôi nên họ đã tìm đến tôi và được trị lành bệnh. Đồng thời có những bệnh nhân là người trong xã hội đen bị bệnh nặng được tôi chữa lành. Sau này, những vị này trở về cuộc sống lương thiện. Nhiều bệnh chữa trị ở các bệnh viện Tây y không thuyên giảm như: bướu đại tràng, sơ gan, khối u gan, viêm đa khớp, thoái hóa khớp, tiểu đường, bệnh về tim và những bệnh nan y khác nhưng khi họ đến chùa chữa trị thì khỏi bệnh. Đa số những bệnh nhân đến với tôi là những người bệnh ung thư vào thời kỳ cuối. Họ bị bệnh viện Ung Bướu thải ra về nhà chờ chết. Khi tôi coi bệnh án và nói: “người này có thể sống” thì họ được chữa lành và sống. Khi bệnh án của họ không thể chữa được, tôi khuyên họ trì chú Đại Bi. Nhiều người nghe lời trì chú Đại Bi được lành bệnh. Có một trường hợp thương cảm là một người mẹ trẻ có một đứa con mới sanh 11 tháng bị bệnh ung thư máu. Người mẹ này rất khổ đau lo lắng, ẵm đứa con thân yêu đến khóc lóc cầu cứu, xin được trị lành bệnh. Tôi bắt mạch và cho thuốc, sau một thời gian ngắn đứa trẻ khỏi bệnh. Người mẹ cám ơn tôi rối rít. Công việc trị bệnh được thuận lợi là tôi nhờ trì chú Đại Bi mỗi ngày với lời nguyện là cứu giúp mọi người. Chú Đại Bi rất là linh nghiệm. Nhờ chú Đại Bi mà tôi được giải nghiệp và thành tựu những lời phát nguyện. Tôi xin chia sẻ câu chuyện nhân quả của mình với mọi người như vậy. Mong rằng những ai đang rơi vào trường hợp như tôi có thể hiểu được nhân quả nghiệp báo của mình mà phản tỉnh quay đầu sám hối. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Thích Minh Hòa Ghi chú: Quý vị nào có những căn bệnh nan y chữa bằng thuốc Tây không hết, thử tìm đến chùa Phước Hưng, ấp Thạnh Hiệp, xã Hòa Thạnh, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, số điện thoại: 0983.367.711 để chữa trị miễn phí.
  17. Hai bố con giết rắn, con bị bệnh hiểm nghèo Khoảng tháng 4 năm 2014, trong thời gian huy động ấn tống Ngọc Lịch Bửu Phiêu, tôi (Liên Hoa Thái Dương) đã tới thăm CLB Sức khỏe cộng đồng UNESCO để giới thiệu về cuốn sách. Sau khi nghe tôi trình bày xong, một người tham gia CLB đã rất tâm đắc và đặc biệt xúc động với câu truyện “Thiêu chết mèo cái, sinh sáu người con bị bệnh xương thủy tinh” bởi vì chính anh này là một trường hợp tương tự. Anh ấy là Trần Kiên (vì một lý do tế nhị nên anh Kiên đề nghị tôi giữ kín địa chỉ và số điện thoại liên lạc), sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Cách đây một năm anh bỗng mắc phải chứng bệnh rất quái ác là “ Máu đặc đa hồng cầu” với biến chứng rất nặng nề khi cuộc sống đang rất tốt đẹp với chức vụ cao, tài chính ổn định. Anh thường xuyên bị các triệu chứng như đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, chảy máu cam, xuất huyết tiêu hóa, và các biểu hiện tắc mạch như đau cách hồi, nhồi máu não. Đó là một loại ung thư máu thuộc dòng hồng cầu, tiến triển chậm. Cuộc sống của anh bị đảo lộn hoàn toàn và anh có thể chết bất kỳ lúc nào. Nhiều lần anh tưởng như phải từ giã cõi đời vì Viện Huyết Học đã tuyên bố không thể chữa trị được. Nhưng trong tuyệt vọng anh vẫn không từ bỏ khát khao được sống. Các cụ có câu “có bệnh thì vái tứ phương”, anh quyết định thử nghiệm tất cả các phương pháp y học bổ sung khác như khí công y đạo, thiền định, yoga .v.v. để tìm cho mình một cơ hội. Tình cờ anh được một người bạn cùng tập khí công khuyên nên tụng kinh sám hối. Không còn cứu cánh nào khác, anh nhất tâm hàng ngày tụng chú Đại Bi, kinh Pháp Hoa và hồi hướng xin tiêu trừ bệnh tật. Một hôm anh nằm mơ thấy một bà tiên áo trắng nói với anh rằng: “ Con có biết vì sao bị bệnh này không? Đó là tại vì con đã giết 12 con rắn. Con phải thành tâm sám hối thì bệnh tật mới được tiêu trừ.” Bà nói xong thì anh tỉnh giấc. Anh nhất thời suy nghĩ mình chưa từng giết rắn, tại sao lại có đến 12 con. Đến bữa cơm trưa, anh đem giấc mơ kể cho mọi người trong gia đình cùng nghe. Bố anh mới giật mình nhớ lại ông từng giết chết một con rắn trong vườn, sau đó còn ăn thịt nó. Và bố anh khẳng định cách đây khoảng gần chục năm chính anh Kiên cũng từng giết một con rắn. Khi đó anh Kiên mới nhớ lại, những năm trước có một lần khi đi làm về, anh thấy có một con rắn bò gần trước cửa nhà, không đắn đo anh dùng gậy gỗ đập chết con rắn rất dã man rồi cũng không nhớ gì về truyện đó nữa. Anh nói, có thể con rắn đó đang có mang … Hiện nay anh Kiên nhờ tập luyện khí công đều đặn và dùng một số dược liệu tự nhiên đã duy trì được sức khỏe và ổn định công việc, không cần dùng thuốc tây. Anh thực sự cảm thấy hối hận về việc mình đã làm. Một vài con rắn không phải là điều gì to tát, nhưng Phật Tổ từng nói mọi chúng sanh đều bình đẳng, một mạng rắn cũng là một mạng chúng sanh vậy. Ông trời có đức hiếu sinh, con người không nên giết hại các loài vật khác một cách vô cớ. Trong dân gian từng ghi nhận rất nhiều truyện quả báo khi giết các loài đặc biệt nặng nghiệp như rắn, chồn, rùa, cóc .v.v.. Quả báo đích thực sẽ đến, chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Mọi người xin hãy cẩn trọng hành động của mình.
  18. BÁO ỨNG KHÔNG NGỜ Năm năm trước, Hạ tiên sinh hơn 40 tuổi, con trai ông là Cún được 12 tuổi. Ngay từ nhỏ Cún đã hết sức ương bướng. Sau khi cho đi học, không những nó ham chơi, chẳng chịu học hành, ưa đánh nhau, lại thường xuyên trốn học. Cha, mẹ, thầy giáo đều bó tay hết cách đối với thằng bé. Cún quậy tưng làm cho cả nhà không được yên. Em gái Hạ tiên sinh một lòng tin Phật, biết đây là nghiệp báo oan gia đến đòi nợ, cô muốn nhờ Phật pháp giáo dục thằng bé, giúp anh mình giải mối lo. Thế là cô dẫn anh đến gặp Hòa thượng Diệu Pháp cầu cứu. Cũng hy vọng anh mình thấy Ngài trí huệ mà phát tâm tin Phật. Hòa thượng chăm chú nhìn ông Hạ và hỏi: - Ngày xưa anh có giết qua con chó nào không? - Dạ không, xưa nay con chưa từng giết qua con chó nào! - Hạ tiên sinh nhấn mạnh. - Vậy sao? – Con chó đó lông vàng, trên lưng đốm đen, lúc ấy anh khoảng chừng 20 tuổi – Sư phụ nói rõ thời gian và tả kỹ hình dáng con chó. Hạ tiên sinh nhớ lại chuyện thuở xưa và nói: - À, hồi đó còn làm ruộng tại vùng Hắc Long Giang, do mấy thằng bạn đồng công tác suốt thời gian dài không được ăn miếng thịt nào nên đã lén trộm con chó vàng của làng bên cạnh, tụi nó thì bắt và giết chết chó, phần con chỉ phụ tá, giúp lột da, mổ bụng, làm thịt giùm thôi. - Anh có ăn một chén thịt nữa mà? - Dạ, đương nhiên là vậy rồi, con đã phụ giúp lẽ nào không ăn cho đỡ thèm! – Ông Hạ cười nói. - Anh đã lột da, lại còn mổ bụng, xẻ thịt chó, làm vậy cũng đồng như giết nó. Đến thởi điểm này thì chính con chó đã đầu thai làm con anh, tìm anh mà báo oán đó. Mặt ông Hạ đầy bất bình, tức tối nói: - Như thế quá vô lý và không đúng chút nào! Trước tiên con chó phải tìm kẻ bắt nó, giết nó, mà báo oán mới hợp lý chứ? Vả lại bọn họ cũng ăn thịt nhiều hơn con mà! Tại sao lại nhắm vào con? Con đâu phải là người giết nó! Sư phụ giải thích: - Chuyện đến nay đã hơn 20 năm, có lẽ nó đã tìm tới những người kia báo thù rồi. Nhưng không nhất định là phải đầu thai làm con họ. Phàm những kẻ tham dự việc bắt chó, giết, ăn... sớm muộn gì đều phải trả báo hết. Còn như ai trả báo trước, ai bị báo sau, chuyện này không nhất định! - Bởi vì nghiệp lực và phúc đức mỗi người khác nhau, nên thời gian trả báo cũng có sớm muộn chẳng đồng - Người có phúc báo lớn một chút thì đời này đời sau cũng chưa thọ báo, đợi đến nhiều đời nhiều kiếp sau nữa, phúc hết, thì họ mới trả báo. Điều này vốn không nhất định mà! Hòa thượng thở dài, cố sức nhắc nhở ông Hạ: - Ôi! Ta biết anh không tin những gì ta nói. Hôm nay anh đến đây cũng là cùng Phật có duyên. Ta hy vọng anh có thể cởi bỏ phiền não, cho nên mới giảng về nhân quả cho anh nghe. Còn số mệnh anh, số mệnh gia đình, đều nằm trong tay của chính anh. Tất cả đều có thể chuyển đổi được. Ngừng một chút Hòa thượng tha thiết nói: - Nếu như anh có thể sám hối tội giết con chó, hằng ngày chịu khó tụng kinh Phổ Môn Quan Thế Âm Bồ-tát, hồi hướng công đức cho con chó đó, đồng thời dùng tâm nhẫn nại giáo dục con, thì con anh sẽ thay đổi tốt đấy. Anh nếu càng chân thành, thì con anh thay đổi càng nhanh. Nói ngược lại, nếu như anh không thể làm theo lời ta, đợi đến lúc con anh 17 tuổi, nhà anh sẽ phát sinh việc lớn. Và sau đó con anh có thể tạo họa, sa vào lao ngục. Ngàn vạn lần chớ nên khinh thường! Hạ tiên sinh nghe xong, không nói gì, mắt cụp xuống, mặt hiển lộ vẻ không tin, anh hoàn toàn chẳng tiếp nhận lời khuyên vàng ngọc của Hòa thượng. Thời gian qua như tên bay, chớp mắt con trai ông Hạ đã mười bảy tuổi. Trong quá khứ, suốt mấy năm ở trường học, hành vi xấu ác của thằng bé đã khiến cho nó bị đuổi học. Ông Hạ vì vậy phải tốn rất nhiều tiền để duy trì học bạ cho con. Nhưng ông vô phương dạy dỗ, thằng bé ngày càng hư đốn khó bảo, một mực kình chống cha. Vì nó mà vợ chồng ông Hạ thường xuyên cãi nhau, thậm chí đánh nhau ầm ĩ. Năm năm sau, gia đình ông giống như chiến trường, không có ngày nào được an. Mùa xuân năm nay, đêm giao thừa, hai vợ chồng vì con mà gây gỗ dẫn tới đánh nhau tưng bừng. Người mẹ réo đứa bé trợ giúp. thằng Cún bây giờ cao một mét tám, huyết khí bừng bừng, vừa nghe tiếng mẹ hô hoán là nó chạy tới giữ chân cha lại, vật ông té nhào, nó tiếp tục giữ chặt chân cha để mẹ nó đánh thỏa thích, cho đến khi ông ngất đi, họ mới kêu xe cấp cứu đưa vào bệnh viện. Cuối cùng ông Hạ phải li hôn, thằng con đi theo mẹ. Sau đó còn gì xảy ra nữa thì tôi không biết. Tôi thật rất tiếc cho Hạ tiên sinh, 5 năm trước nếu ông chịu nghe lời Hòa thượng khuyên dạy, thì có lẽ đã tránh được những điều không hay cho ông lẫn thằng Cún. Nhân chuyện này, tôi thắc mắc hỏi: - Bạch Hòa thượng, xin Ngài hãy giải thích vì sao mang thân chó? Hòa thượng thở dài đáp: - Con người được tôn là loài chí linh trong vạn vật, biết may đồ mặc, chế tạo đủ thứ vật chất văn minh để phục vụ cho cuộc sống của mình. Nếu làm người mà nhân cách phẩm hạnh không xứng với vị trí con người, cứ hành động phi pháp, trái đạo, luôn mưu hại kẻ khác, đánh mất nhân phẩm, thì cuối cùng sẽ thay đổi đầu mặt làm kiếp thú.
  19. Trả nghiệp sát sinh Sư thầy Giác Liên, trụ trì chùa Phước Hải, Vĩnh Long từng kể chuyện nhân – quả được chứng kiến trong nghiệp tu hành của mình. Những câu chuyện ấy đến nay đối với người dân Vĩnh Long vẫn “nằm lòng” như những bài học đạo lý để “định hướng” cách sống, sao cho không theo vết xe đổ của những nhân vật trong câu chuyện của sư thầy. Một trong những câu chuyện đó phải nhắc đến là cậu bé tên Hiếu, sống lê lết ở chợ Trà Vinh, sống bằng cách xin ăn với thân hình của một… con bò, được sư thầy Giác Liên kể trên một website của Phật giáo. Theo sư thầy Giác Liên, Hiếu sinh ra trong một gia đình có nghề: mổ bò lâu đời để bán thịt ở Trà Vinh. Ông nội của Hiếu làm giàu bằng nghề này nên rủng rỉnh tiền bạc. Một lần, trước khi làm thịt một con bò cái bỗng dưng ông nằm mơ thấy một người đàn bà đến bên ông khóc lóc: “Xin ông đừng giết tôi, để tôi sinh con rồi ông hãy giết”. Và không những mơ thấy một lần mà ông còn mơ tới 3 lần chỉ trong một đêm. Ông mang chuyện này kể cho vợ thì được khuyên can không nên làm thịt con bò mà hãy nuôi để cho nó đẻ. Nhưng suy đi tính lại, cuối cùng ông vẫn quyết định thịt nó để bán. Mới sáng tinh mơ không hiểu sao so với những lần mổ bò khác, nó kêu la khủng khiếp hơn nhiều, rồi giãy giụa, lồng lộn đến nỗi đứt cả sợi dây trói khi mổ. Khi chết rồi cái ấn tượng mà ông nội Hiếu mãi đến sau này không thể quên được là cái đầu nó lắc lư mãi như thể còn sống. Tuy nhiên, điều trùng hợp là đúng lúc giết con bò chửa đó, con dâu ông trở dạ sinh đứa cháu nội, đồng thời là “đích tôn” của ông với những dị tật rất giống… con bò ấy là mắt lồi, sứt môi, đầu cứ lắc lư, chân tay cong queo đến nỗi không đi lại được, phải bò. Đứa trẻ ấy chính là Hiếu. Nhìn hình ảnh của Hiếu, ông nội Hiếu không thể nào không liên tưởng đến cái chết của con bò, nhất là động tác lắc lư cái đầu. Như hiểu nguồn cơn sâu xa vì sao cháu mình lại bị như vậy và muốn “chuộc” lại lỗi lầm, ông bỏ nghề sát sinh và có bao nhiêu tiền của ông dốc hết ra để chữa chạy cho cháu. Nhưng cậu bé vẫn vậy. Khổ hơn, khi được 10 tuổi, Hiếu đã phải lê la ra chợ xin ăn do người thân của em lần lượt ra đi hết vì trọng bệnh. Mỗi lần xin ăn, chẳng hiểu ai xui khiến, vừa lết Hiếu vừa la khóc thảm thiết: “Xin các bác, các dì đừng “sát sanh” con! Con là con bò nè…”. Không chỉ sư thầy Giác Liên mà ngay người viết bài này cũng chứng kiến một gia đình có hai thế hệ bán thịt bò ở chợ Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội gặp chuyện tương tự. Chẳng hiểu gia đình này có mổ bò hay không nhưng chỉ biết trong thập niên 90 của thế kỷ trước, trên sạp bán thịt lúc nào cũng có bê “bao tử” bày bán. Tuy nhiên, đặc biệt ở chỗ con gái họ rất giống… bò, nhất là mắt và mũi đến nỗi ai đi qua cũng phải dừng lại nhìn và lờ mờ nhận ra đây chính là “nghiệp chướng” của gia đình bán bê “bao tử”. Và dường như nhận ra sự quả báo này, gia đình hàng thịt đó đã chuyển nghề không bán thịt bò, bê “bao tử” nữa mà mở hàng cơm ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, một hàng cơm nức tiếng Hà Nội. Tất nhiên cô con gái ấy cùng bán cơm với cha mẹ cho đến tận bây giờ. Như câu chuyện trên đây, có rất nhiều câu chuyện nhân – quả khác được kể trong cuộc sống với muôn hình vạn trạng từ nhân vật đến hoàn cảnh… trên cơ sở những gì người ta nhìn, nghe thấy được. Ngay như gần đây nhất, câu chuyện của người tù oan sai Nguyễn Thanh Chấn, ở Bắc Giang cũng gây “chấn động” dư luận bởi có ý kiến cho rằng, có “luật” nhân – quả trong vụ án oan này. Ông Chấn kể, ngày mới bị tạm giam để phục vụ công tác điều tra, ông nhiều lần bị điều tra viên ép phải nhận đã ra tay sát hại chị Nguyễn Thị Hoan. Nếu không nhận sẽ bị đánh cho “lên bờ xuống ruộng”. Vì không thể chịu đựng nổi, ông Chấn đã buộc phải khai nhận mình chính là người đã ra tay sát hại chị Hoan vào ngày 15-8-2003. Khi đó, một cán bộ điều tra đã hướng dẫn ông viết một lá đơn tự thú khai nhận là hung thủ giết người. Ông Chấn nhớ lại: “Một điều tra viên khác đã đánh và bắt tôi tập đi tập lại các động tác để thực nghiệm tại hiện trường vụ án mạng. Mỗi lần thực hiện sai các động tác, tôi lại bị họ lao vào đánh đập”. Có một điểm đáng lưu ý ở đây: Sau khi vụ án có hiệu lực, ông Chấn bị đưa đi cải tạo tại Trạm giam Vĩnh Quang (Vĩnh Phúc) thì chỉ một thời gian ngắn sau đó, đã có 2 điều tra viên chết do tai nạn giao thông và trọng bệnh. Chưa kể đến Thẩm phán Nguyễn Minh N, chủ tọa phiên tòa xét xử sơ thẩm cũng bị tai nạn giao thông vào năm 2010 dẫn đến phải điều trị lâu dài. Cùng thời điểm này, sau khi sát hại chị Hoan, thủ phạm giết chị Hoan bỏ lên Lạng Sơn gặp một người thân là chị Lý Thị N và cho biết hắn chính là hung thủ gây ra vụ án mạng tại Bắc Giang. Khi ấy, Chung đưa hai chiếc nhẫn kim loại màu vàng nhờ chị N mang bán hộ nhưng biết đây là tài sản của vụ “giết người, cướp tài sản” nên chị N đã từ chối. Sau đó, Chung đã nhờ anh trai của mình đang sinh sống tại Lạng Sơn mang nhẫn đi bán. Không biết có phải nhân quả không mà cuối năm 2005 (2 năm sau khi vụ án xảy ra), anh trai của Chung đã bị một số đối tượng ở Lạng Sơn đâm chết trong một vụ xô xát nhỏ. GIẾT CHÓ ĂN THỊT BỊ ỐM CHẾT ------------------------------------------ Bà của tôi (Liên Hoa Thái Dương) thường hay đem sách NGọc Lịch Bửu Phiêu đi tặng cho mọi người. Hôm qua một người được sách ở ngõ Cấm - Hải Phòng, sau khi đọc xong đã nói với bà, sao sách này không ghi câu chuyện ở ngõ Cấm nhỉ? Chuyện đó như sau: Gia đình nọ ở ngõ Cấm có nuôi 1 con chó cái ta. Một đợt thấy con chó bị ốm, không chịu ăn, nằm rên hử hử mấy ngày liền. Người chồng thấy vậy bảo với vợ sẽ giết con chó ăn thịt. Đêm hôm đó, bà vợ nằm mơ thấy con chó đột nhiên biết nói tiếng người, hai tay chắp quỳ van xin đừng giết nó vì nó đang mang thai 6 đứa con. Bà ta mơ vậy nhưng không tin tưởng lắm. Đêm ngày hôm sau, giấc mơ y hệt như vậy lại lặp lại, nhưng bà ta vẫn không tin, không nói với chồng. Sáng ngày hôm đó người chồng giết con chó, trùng hợp làm sao trong bụng nó có 6 con chó con thật. Ông chồng để một phần thịt chó để ăn, một phần mang ra chợ Cấm bán. Ngồi cả ngày không ai mua, ông ta mang 6 con chó bao tử về nhấm rượu. Nhậu xong đêm hôm đó thì ngủ say, đến hôm sau tỉnh dậy thì bị ốm nặng. Ít lâu sau thì chết. -Liên Hoa Thái Dương- ghi theo lời kể của bà nội.
  20. Chuyện đầu thai của cậu bé Bùi Lạc Bình tại tỉnh Hoà Bình Một cháu bé ở Lạc Sơn (Hoà Bình) cứ nằng nặc nhận mình là đứa trẻ đã chết cách đây hơn 10 năm và đòi về ở với bố mẹ người đã chết. Đây là câu chuyện nhiều anh/chị đã đọc trên báo cách đây một thời gian. Anh Tân và chị Thuận đều là cán bộ công tác tại thị trấn Vụ Bản. Anh chị kết hôn năm 1987 đến năm 1992 chị Thuận sinh cháu trai đặt tên là Nguyễn Phú Quyết Tiến. Cậu bé khỏe mạnh bụ bẫm và lớn lên trong sự vui mừng khôn tả. Tai họa ập đến trong một lần ra sông chơi, Tiến chẳng may chết đuối, khi ấy cháu 5 tuổi, đang là học sinh trường mầm non Hoa Hồng ở thị trấn Vụ Bản. Sau việc buồn đó chị Thuận cũng không sinh nở được nữa. Ngày 6/10/2002, tại xóm Cọi, gần thị trấn, chị Bùi Thị Dự đã sinh một cháu bé trai xinh xắn, đặt tên là Bùi Lạc Bình. Mọi sự bình thường cho đến năm 3 tuổi, bé Bình cứ nằng nặc nhận mình là Tiến, nhà ở thị trấn Vụ Bản. Thậm chí cậu bé còn bắt mẹ đưa ra thị trấn và chỉ đúng nhà số 25, nhà của anh chị Tân, Thuận. Được sự chỉ dẫn của cô giáo Đông, dạy mầm non trong bản Cọi, anh chị Tân, Thuận đã tìm đến nhà cháu Bình. Rất ngạc nhiên, cháu Bình lại như đã quen thân từ lâu với anh chị Tân, Thuận. Được sự đồng ý của bố mẹ cháu Bình, anh chị đưa cháu Bình về thăm nhà mình. Trên đường về, để thử thằng bé, anh Tân dừng xe trước một ngôi nhà cao tầng bảo cháu, nhà bác đấy cháu vào đi. Lập tức Bình bảo, đây không phải, nhà ở dưới kia cơ. Đi qua rất nhiều đường trong thị trấn, anh Tân không đi theo đường chính vì muốn thử thằng bé. Ngạc nhiên là Bình cứ chỉ rành rọt và cho đến ngôi nhà anh Tân thì mới thôi. Vừa mở cửa nhà, Bình lập tức xuống xe và chạy tót vào trong và mở tủ bới đồ đạc. Chị Dự đi cùng đã định ngăn lại vì sợ vợ chồng anh Tân đánh giá con mình thiếu giáo dục nhưng anh Tân đã ngăn lại. Mặc cho cháu Bình tìm kiếm. Anh Tân hỏi thế cháu đang tìm gì? “Tìm cái máy bay và cần cẩu”. Nghe Bình nói anh Tân giật mình vì đây là hai món đồ chơi anh đã mua cho cháu Tiến trước đây. Đến lúc cháu qua đời anh mới mang vứt đi. “Bác cất đi rồi để lúc nào bác tìm lại cho cháu”, anh nói với cháu Bình. Sau bữa cơm anh Tân bảo cháu ra xe để chở hai mẹ con về nhưng thằng bé bảo, nhà ở đây, không về đâu. Nói rồi Bình chạy vào nhà leo lên giường, đúng chiếc giường bé Tiến nằm ngày trước và nằm sấp xuống giường, ngủ luôn. Nhìn cái dáng Bình nằm y như Tiến năm xưa vợ chồng anh Tân lặng người. Trước sự tha thiết của thằng bé đêm hôm đó chị Dự đã miễn cưỡng cho con ở lại với gia đình anh Tân. Biết chuyện thằng bé, đêm hôm đó hàng xóm láng giềng kéo đến chật kín nhà. Ai cũng thử Bình bằng những câu hỏi để xem nó kể lại chuyện ngày xưa có chính xác không. Lạ là mọi chuyện xưa cũng như những người quen, cậu bé đều biết và nhận ra. Đêm đầu tiên Bình ở với anh Tân chị Thuận, anh chị đã hỏi cháu rất nhiều chuyện. Hỏi chuyện… con chết thế nào, tại sao lại về trong xóm Cọi? Bình bảo, con cũng đã quay về nhà nhưng đến cái cống đầu ngõ có một người to lớn cứ chặn con lại rồi đuổi đi nên không vào được nhà. Cũng đêm đó, anh Tân giả vờ gọi lớn Tiến ơi, lập tức ở trong nhà Bình dạ và còn hỏi lại bố gọi gì con. Chỉ vào chị Thuận hỏi đây có phải là mẹ con không, cháu cũng trả lời phải. Sau khi đưa Bình về xóm Cọi, anh Tân luôn nhớ đến cháu Bình. Ba ngày hôm sau, anh Tân lại vào xóm Cọi thăm cháu. Vừa thấy anh Tân, Bình đã nhảy tót vào lòng anh như người thân thiết từ lâu lắm. Mặc cho bố mẹ, bà nội vẫn đang ngồi bên cạnh. Điều ngạc nhiên là chính bà Thỉn bà nội cháu bé nói với anh Tân: “Từ ngày thằng Bình bắt đầu bi bô tập nói tôi đã biết nó không phải người Mường mà là người Kinh. Nó nói tiếng Kinh rành rọt, điều mà chưa một đứa bé người Mường nào giống thế”. Chính Bình cũng đã có lần nói với mẹ: “Con là người Kinh, con không phải người Mường. Mẹ không đưa con về con sẽ chết”. Bà Thỉn đưa Bình đi học cháu khóc và nói: “Cháu không học trường này đâu, cháu học trường gần nhà cháu cơ, trường ở ngoài thị trấn”. Một thời gian sau đó Bình liên tục đòi bố mẹ “đưa về nhà con” và dọa “không đưa về con sẽ chết”. Một lần Bình ốm nặng, anh Hoan chị Dự đã rất lo lắng, sợ điều thằng bé nói sẽ linh, nó sẽ chết thật. Dù được mỗi mình cháu nhưng không còn cách nào khác, anh chị đã đồng ý cho Bình về ở hẳn với nhà anh Tân, chị Thuận. Từ ngày về với “nhà của con”, Bình chơi vui vẻ và không còn bệnh tình gì nữa. Kể từ ngày về ở với bố Tân, mẹ Thuận, Bình cũng được đổi thành tên Tiến và mang họ Nguyễn Phú Quyết Tiến. Tên họ trùng với cháu Tiến con anh Tân đã chết đuối cách thời điểm đó hơn 10 năm. Đến nay, cháu đã lớn và đang học phổ thông, cũng bình thường như bao đứa trẻ khác. Anh Tân không muốn sự việc trở nên phức tạp và được thêu dệt thêm. Tuy nhiên câu chuyện của cậu bé Bình - Tiến này khắp vùng ai cũng biết.
  21. Huệ đức thắng hơn phước đức Lúc năm Thuận Trị thời nhà Thanh, tại huyện Thuận Nghĩa, Bắc Kinh có một đại gia đình họ Cung, nhà có ruộng đất cả trăm mẫu, lừa ngựa cả đàn. Lúc trung niên, họ sanh được một cậu con trai, đặt tên cúng cơm là Khánh Hữu. Trong lúc này, ông Lý làm quản gia quản lý việc tá điền cho nhà họ Cung cũng sanh được một thằng con trai, đặt tên là Lý Phúc. Đợi Cung Khánh được 7 tuổi, Cung đại gia mời một gia sư đến dạy học cho con trai. Lý quản gia thấy con trai của Cung đại gia được học sách, nên cầu xin ông Cung đại gia cho con mình học cùng với Cung Khánh, được Cung đại gia đồng ý. Tháng ngày qua mau, lúc Lý Phúc đến 14 tuổi thì cùng Cung Khánh tá túc tại học viện, tức ngày thì học chung, đêm thì ngủ chung. Có một đêm, Lý Phúc đang ngủ ngon, mơ thấy trên trời mở một cổng lớn, từ trên trời hạ xuống hai ông thần, hạ đúng trong học viện, có một ông thần chỉ ngón tay đến Cung Khánh Hữu, còn ông thần kia nói: “Anh ta ra sao?” Ông thần kia nói: “Anh ta là người toàn phước, năm 17 tuổi đậu tú tài, 19 tuổi đậu cử nhân, tương lai sẽ thăng quan đến cấp nhị phẩm, suốt đời hưởng vinh hoa phú quý.” Ông thần nọ lại chỉ vào Lý Phúc, hỏi ông thần kia: “Còn anh kia?” Ông thần kia nói: “Người này thuộc mạng khổ vô công danh, vô phận nghèo suốt đời.” Nói xong, hai ông thần bay về trời. Sau khi hai ông thần đi vào cửa trời, cửa trời đóng lại như trước. Lý Phúc tỉnh dậy, cảm thấy kỳ lạ liền kể hết chuyện trong mơ cho cha mẹ và những người khác nghe. Đợi đến khi Khánh Hữu năm 17 tuổi, quả nhiên thi đậu tú tài, lúc này Lý Phúc không còn học nữa. Nhà có ruộng đất, Lý Phúc tuy canh tác nhưng luôn để ý đến hành vi của Khánh Hữu, anh ta thấy Khánh Hữu có tính độc đoán, luôn làm chuyện ác, tàn nhẫn bạo hành, không thức nào tốt. Sau khi Khánh Hữu thi đậu tú tài và tiếp tục thăng tiến, đúng là thăng chức đến làm đại quan nhị phẩm. Nhưng Khánh Hữu làm quan thì tham nhũng, tàn độc với bá tánh, đánh người trung lương. Hành vi của Khánh Hữu, trong lòng của Lý Phúc xem đó là tội ác, cảm thấy Khánh Hữu sau này phải chịu quả báo. Ai ngờ, Khánh Hữu sống thọ đến năm 71 tuổi vẫn nhân tài song vượng, con cháu đầy nhà. Không chỉ có vậy, Khánh Hữu còn có thể biết được mình lúc nào chết, lúc ông chưa chết, ông nói với con trai làm sao lo hậu sự cho ông. Nhưng hành vi của Lý Phúc lại khác biệt hoàn toàn so với Khánh Hựu, Lý Phúc sống rất cần kiệm, đối xử với người dân rất kỹ lưỡng, hướng thiện mà đi, không làm chuyện độc ác. Đối với loại người ác độc như Khánh Hữu lại được hưởng phước trọn đời, còn biết trước ngày mình mất. Trong lòng ông ta cảm thấy bất bình, cảm thấy dưới âm phủ cũng có chuyện mua chuộc hối lộ, quyết tâm cùng Khánh Hữu đến Diêm Phủ hỏi cho ra lẽ. Nên ông nói với con trai của ông là sẽ chết vào ngày tháng đó, chuẩn bị lo cho hậu sự của ông. Ông Lý Phúc muốn đi cùng Khánh Hữu đến âm phủ xem như thế nào, nhất thiết phải xem rõ ràng cho bằng được. Lý Phúc nói với con trai là mình chết vào lúc nào, không phải vì ông ta tự biết ngày giờ chết mà là ông ta mua sẵn một gói thuốc độc. Nếu như Khánh Hữu thật sự chết vào ngày ông ta nói thì ông sẽ uống thuốc độc để chết theo Khánh Hữu đi xuống âm phủ gặp Diêm Vương. Không ngờ, Khánh Hữu đến ngày đó thật sự chết đi, ông Lý Phúc cũng uống thuốc độc chết theo để đi xuống âm phủ mới kịp nhìn thấy Diêm Vương đi ra đón Khánh Hữu. Diêm Vương xử lý xong công việc của Khánh Hữu mới ra gặp Lý Phúc, nói: “Sao ngươi cũng đến vậy?” Lý Phúc trả lời: “Tôi vì Khánh Hữu mà đi xuống đây. Trên trần gian, người người sợ quyền thế, kính chủ tài, tại sao Diêm Vương dưới âm phủ cũng phải sợ quyền thế và chủ tài sao? Tôi nghĩ ông Khánh Hữu sống trên trần gian, tàn nhẫn độc ác, làm việc ác vạn lần, ông ta lúc trên trần gian không phải chịu ác báo, đến âm phủ, chắc phải chịu hình phạt, không ngờ trần gian với âm phủ cũng như nhau.” Diêm Vương nói: “Ông ráng chờ một lát thì sẽ hiểu.” Diêm Vương ra lệnh cho phán quan mở ra cuốn sổ sanh tử thiện ác để xem, trên tên của Cung Khánh Hữu có một hàng chữ. Diêm Vương nói: “Vì kiếp trước Khánh Hữu làm rất nhiều việc thiện to lớn, kiếp này tuy làm ác, đã tiêu hao không ít công thiện của kiếp trước nhưng vẫn còn dư rất nhiều việc thiện to lớn, chuyển đến kiếp sau vẫn được hưởng phước, nhưng không có lớn như kiếp trước rồi. Với những chuyện ác mà ông ta đã làm, vẫn chưa đến thời kỳ thuần thục, Lý Phúc nhà ngươi vì kiếp trước không có làm việc thiện nên kiếp này phải chịu khổ. Nhưng vì do ông giác ngộ, một lòng làm việc tốt, cho nên ông sống trên đời tuy không hưởng phước nhưng ăn mặc không thiếu thốn gì, khi ông chuyển kiếp sau, ông sẽ hưởng phước thật là lớn.” Lý Phúc cầu xin Diêm Vương lúc chuyển kiếp đừng cho ông ta uống nước mê hồn, để kiếp sau có thể xem được kết quả hành vi của Khánh Hữu. Diêm Vương đồng ý lời cầu xin của Lý Phúc. Lý Phúc lại đi theo Khánh Hữu đi chuyển kiếp luân hồi. Vì ông ta chưa uống nước mê hồn, biết hết sự việc, biết được Khánh Hữu lại đầu thai đến một gia đình phú quý. Ông thì đầu thai đến một gia đình trung bình, vẫn tu hành giữ thiện. Khánh Hữu sau này trưởng thành, làm quan huyện trưởng, vẫn tàn ác với bá tánh, hoàn toàn không có một chút buồn tủi, dựa vào quyền thế tham nhũng, vu lương thành cướp. Vì ép buộc khẩu cung, đã móc đi hai con mắt của người ta; vì một vụ án, chém mất đôi chân của người khác, Khánh Hữu sống thọ đến tuổi thọ bảy mươi mấy, bị bệnh và qua đời. Lý Phúc do có trí tu hành từ bi, đã tu đến ưu hồn có thể đi xuống âm phủ. Lý Phúc ngồi thiền, lúc này, ông ta nhìn thấy Khánh Hữu sau khi chết, linh hồn đi theo Khánh Hữu xuống gặp Diêm Vương. Lúc này khác với lúc trước, Diêm Vương tiếp đến Lý Phúc trước rồi mới xử Khánh Hữu sau. Khi thấy dưới tên của Khánh Hữu trong sổ, phước thiện đã hoàn toàn tiêu hao hết. Lúc làm quan, móc mắt người ta, chém đôi chân người khác, hai sự việc này, chỉ có thể lấy thân mà trả nợ, phán quyết Khánh Hữu kiếp sau đầu thai đến một gia đình nghèo khổ, đôi mắt mù lòa, tàn tật hai chân, mỗi ngày ra mặt đường ăn xin, khổ hết biết. Khi Lý Phúc nhìn thấy Khánh Hữu có quả báo của ba kiếp, trong lòng sợ mất đi bản tính mà phải tọa lạc sự luân hồi, nên kiên trì tu hành, độ kỷ độ nhân, cuối cùng công quả thành tựu, đạt được chánh quả, vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau của sự luân hồi.
  22. ĐÀI QUÊN LÃNG VÀ THẦN MỤ BÀ MẨN Thần Mụ Bà Mẩn quản lý đài Quên Lãng Thần Mụ Bà Mẩn ra đời vào thời Tây Hán, có khi tuổi thơ luôn hăng say đọc tứ thư của nhà Nho, lúc tuổi thanh xuân đã đọc Kinh niệm Phật. Bà đã tu hành đến mức không quan tâm đến việc quá khứ và chuyện tương lai. Lúc còn sống trên trần gian, chuyên tâm khuyên năng người không sát sanh, phải ăn chay. Lúc năm tám mươi mốt tuổi, nhan sắc trở lại như thơ, còn giữ trinh nguyên. Bà chỉ nói là bà họ Mẩn, nên ai cũng đều gọi bà là Bà Mẩn. Sau khi vào trong núi sâu tu chân, vẫn còn sống đến thời Đông Hán. Trên thế gian có số người do có linh cơ thâm hậu, có thể đoán được nhân quả của kiếp trước, vì thích đùa giỡn với trí khôn, thuật số, nên đã tiết lộ thiên cơ của âm dương, dẫn đến người trên thế gian nhìn thấy nhớ lại người thân kiếp trước của mình, gây xáo trộn trình tự nhân duyên của trần gian. Cho nên, Ngọc Hoàng Đại Đế kêu gọi mụ bà Mẩn là tri thần của Diêm phủ, xây thành Quên Lãng, cho phép bà được sai lính quỷ trong Diêm phủ. Chỉ định và đưa đến điện thứ mười, những hồn ma được chuyển đi nơi nào sẽ tận dụng thuốc của trần thế, hợp lại một chất như rượu nhưng không phải là rượu, chia ra thành năm khẩu vị: cam, đắng, tân, chua, mặn. Tất cả các ma quỷ trước khi đi chuyển kiếp đều phải uống loại thuốc này, để cho họ quên hết những chuyện của kiếp trước. Đồng thời, sức lực của thuốc sẽ duy trì đến trần gian, tạo cho họ phải có một số ít bệnh tật như lo lắng nhiều bị cảm phải chảy nước mũi, hoặc do cười vui và lao động nhiều phải toát mồ hôi, hoặc ưu sầu đau lòng phải chảy nước mắt. Người sống trên trần gian thường hành thiện, sẽ tạo cho họ tứ chi và mắt tinh tai thính hơn trước, mạnh khỏe hơn. Còn người làm ác thì đầu óc không minh mẫn phải tiêu hao tinh thần trí óc nhiều, nhanh chóng suy yếu và mệt mỏi nhằm cho họ tự suy nghĩ và biết sám hối. Sửa đổi tà ác, làm lại việc thiện. Đài Quên Lãng đặt tại điện thứ mười, ngoài cầu lục của điện Diêm Vương. Nhà cao cửa rộng, xung quanh có tất cả một trăm lẻ tám cái gian phòng. Có một lối đi thông đến hướng Đông, tất cả các nam nữ ma quỷ được áp giải đến đây, được đưa vào các phòng. Trong phòng đều có ly để kêu họ uống vào loại thuốc đó, uống nhiều hay ít cũng được. Nếu như có những ma quỷ gian xảo và ngoan cố, không muốn nuốt vào loại thuốc đó thì chân của họ sẽ mọc ra dao móc. Móc chân họ lại và lính quỷ sẽ dùng ống đồng đâm vào cổ họng của họ, để cho họ bị đau đớn không được động đậy và sẽ ép họ uống thuốc đó vào. Tất cả ma quỷ sau khi uống thuốc này vào, các phái lính quỷ sẽ dắt họ từ thông lộ đi ra, đẩy họ bước lên chiếc cầu treo thắt bằng dây thừng tên là cầu Khổ Trúc. Dưới cầu là một hang đá có dòng sông chảy xiết. Đứng trên cầu nhìn ra phía trước, trên bờ đối mặt có một tảng đá màu đỏ. Có bốn hàng chữ to màu vàng kim, chữ ghi: Vì người dễ nhưng làm người khó Tái vì người càng khó hơn; Muốn sanh phước địa không nơi khó; Khẩu đồng với tâm lại bất nan. Lúc những ma quỷ đang đứng xem và đọc, phía bờ bên kia đột ngột nhảy ra hai ma quỷ vừa cao vừa to lớn, phân biệt nằm trên mặt nước, làm cho các ma quỷ ai ai cũng hốt hoảng đứng không vững. Nhìn kỹ lại, một ma quỷ thì đội mũ vuông đen, thân mặc lễ phục, tay cầm bút và giấy, trên vai gát một đao sắc, trên eo có treo dụng cụ tra tấn, mở to hai con mắt nhìn lên và cười ha ha rất to lớn, có tên gọi là “Hoạt Vô Thường”, còn một ma quỷ khác mặt nhìn dơ bẩn, chảy máu đầm đìa, thân mặc áo trắng, tay cầm bàn tính, trên vai vác một túi gạo, trước ngực đeo đầy giấy tiền vàng bạc, đôi mày co lại, hét rất to. Có tên gọi là “Tử Hửu Phân”. Hai đại ma quỷ này, hối thúc những hồn ma quỷ và đẩy họ rớt xuống con sông có nước đỏ chảy ngang và đưa vô trong một hang đá. Những hồn ma có căn khí đạo hành thâm hậu được hoan hô có thể hân hạnh được sanh thân người; căn khí đạo lành mỏng thì đau khổ khóc lóc kêu gào, tự hận mình lúc trên trần gian không tu tốt để có thể siêu vượt công đức tái sanh trong bụi đỏ để cho căn thân này còn phải chịu nhiều đầy đọa đau khổ luân hồi trong sống chết. Những hồn ma nam và nữ như vừa khờ vừa say từng bước dõi theo nhân duyên của họ, đến các nhà có người mang thai và chui vô bụng người thai phụ để chuẩn bị đầu thai. Do sự thay đổi của âm phủ và trần dương, không khí ngột ngạt, cộng thêm trong bào thai lật ngược, buồn bực cho nên dùng sức đôi chân đá một phát, đạp khỏi bào thai, rời khỏi bụng mẹ, hét lên một tiếng “Oa” và sẽ bắt đầu một đời mới của họ. Tất cả chúng sinh, do suốt tháng quanh năm mê muội các thứ ngũ dục, mùi vị, nhất là sát sinh nhiều, làm mất đi bản tính vốn sẵn có tính Phật Như Lai của chúng sinh, đã phụ đồng ơn đức của Phật Bồ Tát và Ngọc Hoàng Đại Đế, công ơn lời khuyên nhủ của các Thần minh, chưa nghĩ ra phải làm thế nào mới là hoàn thiện, có thể trở thành Phật Bồ Tát; làm như thế nào mà phải chết ác tọa lạc vào tam ác để chịu cực hình đau khổ; chưa bao giờ nghĩ đến tương lai của mình sẽ như thế nào khi kết thúc, để lặp đi lặp lại lao vào làm chuyện ác, cuối cùng lại thành ma quỷ, uổng công một đời trên thế gian của mình, vả lại còn phải tọa lạc vào địa ngục thành một ma quỷ phải chịu cực hình đau khổ. Những điều khoản và các quy luật như trên sau khi quan văn thư của đài Quên Lãng đã ghi nhận xong, cung kính trình lên cho Ngọc Hoàng Đại Đế và sẽ biên soạn vào trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thông hành đến trần gian, để người đời trên trần gian hiểu rõ, hành thiện trừ ác.
  23. ĐIỆN THỨ MƯỜI: LUÂN CHUYỂN VƯƠNG Luân Chuyển Vương thiết lập ngoài ngầm đá bên hướng đông là một nơi đối mặt với thế gian hỗn loạn. Một cây cầu không có vàng, bạc ngọc ván hình thành, chuyên quản lý những qủy tù bị áp giải đến đây, phân biệt hoạch định phước tội lớn nhỏ để phát đi nơi thích hợp để đầu thai. Những người đầu thai thành nam hoặc nữ có trường thọ hoặc ngắn thọ, được đầu thai nơi giàu sang hoặc nghèo khổ. Ghi chép chi tiết của từng người, đưa những người đầu thai, mỗi tháng tụ hợp lại, thông báo đến điện thứ nhất, sau khi đăng ký, trình cho Phong Đô Diêm phủ. Sẽ căn cứ pháp luật dưới Diêm phủ, dựa theo tình hình tội và phước lớn nhỏ của họ, theo lượt mà đầu thai, đặt ra phương thức đầu thai như: sanh bằng thai, bằng trứng, sanh ướt, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân các loại...vv Các loại sinh linh, sau khi chết sẽ thành ma, căn cứ theo tội và phước lớn nhỏ của họ, theo lượt mà đầu thai. Có thì một năm hoặc một quý thì chết; có thì sáng sinh chiều chết, theo tội mà biến đổi lập đi lập lại. Không cần biết nhất định là bị giết chết hoặc không bị giết chết. Tất cả đưa vào trong phòng chuyển kiếp, khảo tra, tính toán tội tình của họ đã vi phạm trên trần gian, phân phát đi các phương trời để chịu báo ứng. Đến lúc tuổi cuối đời, thu gom tình hình quả báo, đưa đến Phong Đô Diêm phủ để thụ án. Một số người hay tụng Kinh trên trần gian hoặc các tăng ni đạo sĩ siêng năng tụng Kinh, phạm tội bị giải xuống Diêm phủ, do có tụng thông dị kinh, chú ngôn, cho nên các địa ngục không được dùng cực hình để họ chịu khổ báo, sẽ áp giải họ đến bổn điện. Dựa theo tên tuổi, ghi rõ tội hình đã phạm, sẽ vẽ ra bản mặt xưa của họ, căn cứ theo cuốn sổ có tên gọi là “Sổ sanh tọa lạc” áp giải giao cho Tôn Thần Bà Mẩn lên bậc đài Quên Lãng, cho họ uống canh gây mê, đưa cho lính quỷ đem đi đầu thai thành người, trong lúc để họ chuyển kiếp, chết ngay trong bụng mẹ, hoặc chết sau khi mới sinh ra một đến hai ngày, hoặc mười ngày, một trăm ngày, một năm, hai năm, cho chết nhanh chóng để cho họ mau quên hết lúc trên trần gian đã học các nho ngữ, đạo của tôn giáo và thông kinh. Sau đó, đưa tiếp họ cho các lính quỷ hung dữ, đưa họ trở về với các địa ngục, thẩm tra những chuyện ác mà kiếp trước họ đã làm, bổ sung thêm khổ báo. Tất cả những hồn ma có công ít mà lỗi lầm nhiều và đã đủ kì hạn chịu tội. Lập tức được cân đối công và tội của họ, xác định phước báo của kiếp sau. Để họ đi đầu thai: có số kiếp sau sẽ được xinh đẹp, có số xấu xí, có số đời sống an vui, có số nghèo khổ. Đã xác định xong địa điểm loại hình nào phú quý giàu sang hoặc gia đình nghèo khổ để đầu thai, sau đó đưa đến bậc đài Quên Lãng của Bà Mẩn để uống canh gây mê rồi đi đầu thai... Khi điểm danh tại bổn điện chuẩn bị đưa đi đầu thai thành người, thường có những phụ nữ khóc lóc năn nỉ cầu xin thà làm quỷ đói chứ không muốn làm người, vì còn thù oán chưa trả báo. Sau khi tra hỏi tội hình phát hiện: đa số là những cô gái chưa có gia đình hoặc một số cô gái có tính giữ trinh tiết, đã cho số thanh thiếu niên bất lương không học, trung học sinh, hoặc đại học thương yêu, ham sắc đẹp và muốn lừa gạt tiền tài của họ. Đã dùng đủ mưu kế và thủ đoạn để chiếm đoạt. Có số đã nói tôi chưa vợ, hoặc đã ly dị vợ, tôi nhất định sẽ cưới cô làm vợ; có số thì hứa sẽ nuôi dưỡng song thân già yếu của họ hoặc hứa sẽ nuôi dưỡng con của chồng đời trước. Nói chung, người xưa có kiểu cách lừa gạt của người xưa, người hiện đại cũng có kiểu của người hiện đại. Đều nói lời ngọt ngào để dụ dỗ tình cảm của phái nữ, tạo cho họ dâng hiến cả đời và nghe theo yêu cầu của đàn ông đó. Sau khi họ đã trao thân, họ đùa bỡn một thời gian, nảy sinh sự nhàm chán sẽ bỏ quên chuyện hôn nhân như đã hứa hẹn, không chịu thực hiện lời hứa. Còn nói ngược nói xuôi tung tin bậy bạ, làm mất uy tín của họ, làm cho cha mẹ anh chị em bạn bè bên nhà gái biết được dẫn đến bị người xung quanh khinh thường, trách móc. Không nơi để giải oan khuất, dẫn đến phải tự vẫn hoặc do uất ức thành bệnh mà chết đi. Sau khi chết xuống âm phủ mới biết được, hắn là một tên phản bội lừa gạt. Lần này lại được thi đậu trúng tuyển, cho nên căm hận trong lòng, mới cầu xin ở lại để bắt hắn đền mạng. Sau khi Diêm Vương điều tra, quả nhiên đúng sự thật nhưng do thọ dương của hắn chưa hết. Đồng thời phước đức của tổ tiên để lại cho hắn lại chưa hưởng hết. Bổn điện sẽ cho phép và cấp tạm giấy thông hành của Diêm phủ cho ma nữ này đi đến chỗ thi tuyển của hắn, cản trở quấy rối việc thi cử của hắn hoặc trao đổi danh sách trúng tuyển, chờ khi hắn đến ngày cuối đời sẽ cùng dẫn đến Diêm phủ tra hỏi, móc hồn đến điện thứ nhất phán đoán tội tình nặng nhẹ. Người trên thế gian, nếu có thể vào ngày mười bảy tháng tư, lập lời thề nguyện, tuân thủ nội dung của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, cảnh giác làm việc và thường đưa nội dung trên giới thiệu cho bà con thân thiết, khi kiếp sau đầu thai sẽ không bị người đời khinh bỉ, hình sự về các tai nạn lửa nước... Địa điểm của Sở Chuyển Kiếp, có diện tích rộng mười một ngàn hai trăm dặm, xung quanh đều có rào sắt. Trong đó chia ra thành 1 điểm, mỗi một điểm đều có bậc đài và có Phán quan quan sứ ghi chép án sự. Ngoài hàng rào, có những đường nhỏ riêng biệt, tổng cộng có mười tám ngàn đường nhỏ, đường cong quẹo quanh co thông đến tứ đại bộ châu. Trên lộ tối đến nỗi đưa tay mà không thấy được năm ngón, từ quỷ chết đến đầu thai phải đi qua con đường này. Nhưng từ ngoài nhìn vào thì trong như thủy tinh, tất cả sự việc không giấu ẩn được, Phán quan sẽ phái quan sứ, lính thủy thay phiên nhau gác thủ, các ma quỷ ra vô đều hiện bộ mặt lúc đầu, rất dễ phân biệt. Tất cả những quan sứ quán xuyến công việc này đều là những người lúc trên trần gian sống có hiếu với cha mẹ và thương yêu trưởng bối và bà con thân thích, làm việc công khai. Đồng thời là người thực hiện việc kiêng sát sinh và làm các việc công quả như phóng sanh, sau khi chết đưa vô xứ sở này, phụ trách quản lý tra xét các việc luân hồi, chuyển kiếp. Sau khi làm việc này hết năm năm, nếu như không có sai sót thì sẽ cho họ thăng bậc để thưởng lệ; nếu như lười hoặc tận quyền biện hộ, tự ý xử sự, lạm dụng chức quyền để xử việc hoặc không chịu phối hợp các phán quan khác để phát sinh sự cố, gây cho các ma quỷ chạy trốn thì sẽ bị cách chức chịu phạt. Tất cả những người khi sống trên trần gian mà không hiếu thảo với cha mẹ, các bà con trưởng bối và sát sinh, những ưu hồn làm ác, sau khi đã chịu những cực hình trong các điện địa ngục xong, sẽ được đến Sở Chuyển Kiếp. Trước tiên sẽ bị nhánh cây hoa đào đánh đến chết, sau khi chết sẽ biến thành ma, rồi cho họ thay hình đổi mặt đưa xuống đường lối nhỏ, sẽ đầu thai thành súc vật. Tất cả các loại cầm thú, cá, sâu bọ, phải trải qua hàng ngàn hàng vạn lần chuyển kiếp luân hồi mới cho là mãn hạn chịu khổ. Các loài vật như voi bò ngựa và các súc vật thuộc loài đẻ trứng như rùa, rắn chim bướm, ong các loài sâu bọ. Đều không ngừng trải qua nhiều lần chuyển kiếp luân hồi, không được thoát khỏi tứ sanh này, đợi đến khi mãn số kiếp, nếu liên tục ba đời không sát hại sinh mạng, mới được đầu thai làm người. Những số từ động vật chuyển đầu thai thành người, được liệt kê danh sách trong sổ sách rõ ràng, trình lên điện thứ nhất để phán đoán nhân duyên của họ trong kiếp sau. Sau khi phước báo xong, mới chuyển đến trong tứ đại bộ châu, đầu thai thành nam hoặc nữ. Trước khi chuyển giải, phải giao đến đài Quên Lãng.
  24. ĐIỆN THỨ TÁM: ĐÔ THỊ VƯƠNG Đô Thị Vương cai quản dưới đáy biển, trong một ngầm đá bên hướng Tây có một đại địa ngục. Địa ngục này rộng tám ngàn ly, cũng có thiết lập 16 tiểu địa ngục: 1. Tiểu địa ngục bị xe đụng. 2. Tiểu địa ngục chảo buồn nôn. 3. Tiểu địa ngục cán nát. 4. Tiểu địa ngục bế tắc lỗ. 5. Tiểu địa ngục cắt nát. 6. Tiểu địa ngục nhốt nhà cầu. 7. Tiểu địa ngục gãy chân. 8. Tiểu địa ngục chiên nội tạng. 9. Tiểu địa ngục đập thân xác. 10. Tiểu địa ngục móc ruột. 11. Tiểu địa ngục nấu cháy người. 12. Tiểu địa ngục mổ xẻ lồng ngực. 13. Tiểu địa ngục bị dao chém. 14. Tiểu địa ngục tan xác mất đầu. 15. Tiểu địa ngục mổ xẻ chém giết. 16. Tiểu địa ngục bị chĩa đồng đâm. Những người trên trần gian mà phạm vào những tội sau đây sẽ bị đưa xuống địa ngục này trị tội: Không hành hiếu đạo, không nuôi dưỡng các ông bà cha mẹ khi họ còn sống, làm cho họ phải sống một cuộc sống lo âu và sau khi cha mẹ mất không an táng cho đàng hoàng. Làm cho vong hồn của song thân bất an, nếu không nhanh chóng hối cải tiền sự đã gây, để một thời gian lâu, ông Thần Táo Quân tại nhà sẽ ghi lại tên tuổi của những nam nữ này, trình bày lên cho Ngọc Hoàng Đại Đế sẽ giảm bớt những tiền tài phước lộc của họ đang có và sẽ sai lệnh cho các tà ma nhập thân quậy phá, gây khó khăn trong công việc làm ăn của họ. Sau khi chết phải chịu qua những cực hình của các điện trước xong, sẽ áp giải đến bổn điện: đầu trâu mặt ngựa sẽ đưa họ đến đại địa ngục chịu cực hình rồi sẽ đưa tiếp xuống các tiểu địa ngục chịu tội. Khi chịu xong các cực hình, áp giải vào trong phòng chuyển kiếp của điện thứ mười, thay hình đổi mặt, vĩnh viễn đầu thai vào đạo làm súc vật. Nếu như những thiện nam tín nữ trên trần gian, tuân thủ “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nhanh chóng hối cải chuyện bất hiếu với cha mẹ và những hành vi không kính trọng người lớn tuổi, vào ngày mùng một tháng tư âm lịch, xin thề hối cải, không tái phạm vào bất cứ ngày nào tháng nào, buổi sáng hoặc buổi tối mặt hướng về phía ông Thần Táo Quân lập lời thề: “Từ nay về sau, biết sửa lỗi”. Bất kể lúc nào cũng không tái phạm nữa. Đến lúc sắp chết, ông Thần Táo Quân sẽ đưa ra ba bậc để xử lý: có cái thì ghi một chữ “Tôn”, có cái thì ghi chữ “Thuận”, còn cái thì ghi chữ “Cải” trên trán, giao cho các lính quỷ đến nhà để áp giải vào điện thứ nhất, theo thứ tự từng đợt đến điện thứ bảy. Cho dù, có người đã phạm vào tội hình khác của các điện cũng sẽ được giảm đi một nửa tội hình và không cần phải đến bổn điện chịu tội, có thể được chuyển ngay đến điện thứ chín, khi tra xét thật sự không có phạm vào tội đầu độc người hoặc phóng lửa đốt nhà thì có thể chuyển tiếp vào điện thứ mười, phân biệt để chia ra đầu thai đến đạo làm người. Ngọc Hoàng Đại Đế còn đặc biệt ân huệ cho những này đã nói: “ Nếu như có thể sao chép in ấn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để cho các nam nam nữ nữ hiểu biết được mà cảnh tỉnh. Cải chính lại, sẽ ân xá hết các cực hình từ điện thứ nhất đến điện thứ tám, nếu như họ không có phạm vào các tội hình trong điện thứ chín, có thể lập tức đưa đến điện thứ mười, đưa đến những điểm có phước lành để đầu thai làm người.” ĐIỆN THỨ CHÍN: BÌNH ĐẲNG VƯƠNG Bình Đẳng Vương cai quản dưới đáy biển trong một ngầm đá bên hướng Nam, có một đại địa ngục. Địa ngục này rộng tám ngàn ly, có rào quanh lưới sắt cũng có thiết lập 16 tiểu địa ngục: 1. Tiểu địa ngục thiêu xác gõ xương. 2. Tiểu địa ngục rút gân đập xương. 3. Tiểu địa ngục cho quạ ăn tim gan. 4. Tiểu địa ngục cho chó cắn ruột phổi. 5. Tiểu địa ngục ngâm mình trong dầu nóng. 6. Tiểu địa ngục đập não le lưỡi. 7. Tiểu địa ngục móc não. 8. Tiểu địa ngục hấp não móc lưỡi. 9. Tiểu địa ngục làm tan xác. 10. Tiểu địa ngục dùng gỗ kẹp tay chân. 11. Tiểu địa ngục mài nát tim. 12. Tiểu địa ngục bị nước sôi tạt vào người. 13. Tiểu địa ngục bị ong chích. 14. Tiểu địa ngục muỗi đốt tan xác. 15. Tiểu địa ngục sâu bọ dậm lên người. 16. Tiểu địa ngục bị rắn độc xuyên thịt Những người trên trần gian mà phạm vào những tội sau đây sẽ bị đưa xuống địa ngục này trị tội: 1. Vi phạm điều lệ quy định của Pháp luật quốc gia, phải chịu các loại ác báo như: chém đầu, giam tù, xử bắn. Những quỷ tù này đã phải chịu trước những cực hình tại các điện trước xong, mới áp giải đến bổn điện chịu cực hình 2. Phóng lửa đốt cháy nhà cửa, hủy hoại tài sản tính mạng của người khác 3. Chế tạo các loại thuốc có chất gây nghiện và kích thích như thuốc phiện, thuốc lắc, heroin, ma túy,vv... 4. Người chuyên môn phá thai cho người khác. 5. Người dụ dỗ trẻ thành niên vào con đường tội lỗi hoặc hiếp dâm thiếu nữ chưa thành niên. 6. Vẽ những tranh họa tà dâm, sách, quay những phim khiêu dâm. Gây cho tâm hồn người khác bị xáo trộn, dẫn đến không có tâm trí học tập, người tu hành mất lòng từ bi, hoặc gây cho người bị bệnh, không yên phận đi theo con đường đạo đức của chính đạo. 7. Bào chế những thuốc gây hại cho xã hội như thuốc mê, các loại thuốc gây mất cảm giác, không tự chủ được năng lực trí nhớ và thuốc phá thai. Nếu như những người phạm vào những tội hình trên, từ khi đọc và nghe nội dung trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có thể lập tức tiêu hủy sách tà dâm, hủy bỏ bản in, không in ấn nữa; đưa phương pháp bào chế thuốc nghiêm cấm hủy bỏ và đình chỉ sản xuất, khống chế được ý tưởng tà dâm, không truyền bá những việc tà dâm như trên. Nếu làm được như vậy, sẽ được miễn chịu các loại cực hình, nhanh chóng được đưa đến điện thứ mười, phái đi đầu thai vào đạo làm người. Ngược lại, nếu sau khi nghe và biết được nội dung chuyện báo ứng trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” vẫn phạm những tội hình như trên, tội sẽ không được khoan dung mà còn phải chịu cực hình bắt đầu từ điện thứ hai cho đến bổn điện. Tăng nặng hình phạt, ví dụ như: đốt nóng những cây trụ sắt ghép vào tim gan, dùng dây xích khóa tay chân, ôm vào cột nóng để nướng tan dần những khái niệm tà dâm. Sau khi họ đã chịu xong nhưng cực hình của các điện, đưa tiếp xuống đại địa ngục chịu tiếp cực hình như: dao xuyên tim gan, ngực móc nội tạng ra để cho họ đau đớn vô hạn. Đến khi người bị hại được trở lại bình thường và tự tay hủy hết các loại sách, tranh vẽ, thuốc phiện thì mới rời khỏi đại địa ngục, áp giải đến điện thứ mười, đầu thai vào đạo làm người. Nếu người trên thế gian không phạm vào các tội ác như trên, có thể vào những ngày như mùng tám tháng tư âm lịch và mùng một, rằm mười lăm mỗi tháng ăn chay và tu niệm tam nghiệp như: tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh ý. Lập lời thề nguyện thu gom các loại sách, tranh vẽ, phim truyện tà dâm để thiêu hủy hoặc sao chép, in ấn truyền bá cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” này để khuyên giải cho tất cả loài người. Như thế, khi lúc hấp hối, ông Thần Táo Quân sẽ đánh hai chữ “chấp hành” lên trán. Thì từ điện thứ hai cho đến bổn điện, dù có vi phạm các tội hình như trên mà do có làm qua công đức như trên, đều được giảm nhẹ tội hình. Những người giàu và có quyền chức, nghiêm khắc xử tội đối với những kẻ phóng hỏa; tịch thu các lọai sách, phim truyện tà dâm và các hàng nghiêm cấm, công khai thiêu hủy, ngăn chặn hàng cấm có tính chất hủy hoại tính mạng. Như vậy, con cháu của họ trong kiếp này sẽ được phù hộ, học lực sự nghiệp thịnh vượng, thông minh khỏe mạnh, phú quý song toàn. Những người già yếu bệnh tật, nghèo khổ, cô độc, nếu chịu hết mình nhờ người khác in ấn, sao chép, tuyên giảng cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để khuyên giải người trần gian. Sau khi chết cho phép họ được lập tức chuyển đến điện thứ mười, phát đi nơi phước lành để đầu thai.
  25. ĐIỆN THỨ BẢY: TẦN SƠN VƯƠNG Tần Sơn Vương cai quản dưới đáy biển, trong một đá ngầm bên hướng Bắc có tên là Nhiệt lão đại địa ngục. Địa ngục này có diện tích khoảng tám ngàn ly, cũng có thiết lập 16 tiểu địa ngục: 1. Tiểu địa ngục chảy máu mũi. 2. Tiểu địa ngục kẹp đùi. 3. Tiểu địa ngục mổ lồng ngực. 4. Tiểu địa ngục mài dũa. 5. Tiểu địa ngục cạp xương. 6. Tiểu địa ngục bị đá chọi. 7. Tiểu địa ngục tra đánh . 8. Tiểu địa ngục bị chó cắn. 9. Tiểu địa ngục lột da cho heo kéo đi. 10. Tiểu địa ngục bị các loại thú cắn. 11. Tiểu địa ngục bị treo lơ lửng. 12. Tiểu địa ngục móc lưỡi. 13. Tiểu địa ngục móc ruột. 14. Tiểu địa ngục bị thú dữ cắn nát. 15 . Tiểu địa ngục đốt ngón tay. 16 . Tiểu địa ngục bị dầu sôi. Tất cả những người sống trên trần gian đã từng phạm những tội sau đây, bị đưa xuống địa ngục này chịu cực hình: 1. Ăn thai nhi và các đồ vật để cường dương kích dục khiêu dâm để hãm hại người. 2. Nghiện rượu gây ra những chuyện phản hồi đạo lý, gây rối lung tung để cho người thân phải bận tâm. 3. Lãng phí không tiết kiệm, tiêu xài vô cớ làm cho những tài sản và sự nghiệp của người đời trước để lại bị tiêu tan hết. 4. Sử dụng các kiểu ăn chặn như lừa gạt, cướp giật tài sản của người 5. Trộm cắp tài sản châu báu của người chết cất chôn trong hòm. 6. Trộm cắp xác và xương người chết để làm thuốc. 7. Chia cách những người yêu thương nhau, tạo cho họ không gặp mặt được, nhớ nhung đau khổ. 8. Đưa những con dâu nuôi mà mình không ưa thích bán cho người khác để làm đầy tớ và vợ bé, hủy hoại một đời hạnh phúc của họ. 9. Nghe lời vợ sau hành hạ hoặc làm chết con riêng của mình sẽ phạm vào tội sát sanh. 10. Rủ rê bạn bè cờ bạc, thua bạc, tán gia bại sản tạo cho gia đình nghèo khổ. 11. Phận làm thầy cô, không nghiêm khắc giáo dục học sinh cho tốt, gây cản trở đến tương lai của các em học sinh. 12. Không phân tích sự việc nguyên do nặng hay nhẹ đối với những em học sinh, người mướn, người hầu đã mạnh tay chửi mắng đánh đập họ tàn nhẫn, tạo cho họ ôm hận không phai. Ức chế thành bệnh nặng, đau khổ suốt đời. 13. Cậy có quyền thế hùng hậu, mắng chửi ô nhục người cùng xóm cùng quê. 14. Làm sai câu ngữ, ngược lại với đạo lý, tạo cho trưởng bối, người thân bị nhục đau lòng. 15.Ưa thích nói những chuyện tà ác và dựng chuyện thị phi, ly tán người khác dẫn đến hai bên ẩu đả, từ đó gây ra nhiều chuyện phiền phức. Những tội ác như trên sẽ điều tra rõ ràng theo từng tội, đưa xuống đại địa ngục trị tội xong rồi sẽ áp giải đến các tiểu địa ngục có liên quan đi chịu cực hình. Mãn thời hạn, chuyển đến điện thứ tám, đưa vào trong địa ngục, điều tra xem có phạm vào những tội thuộc địa ngục này để trị tội. Trần gian dùng thuốc, có loại thuốc nào mà không thể lấy làm trị bệnh được, phải giết chết những sinh mạng cầm thú nhỏ để làm thuốc trị bệnh, trái ngược thiên lý háo sanh của trên trời; ăn những thứ như nhau thai nhi, các loại cuống rốn, vv...Vậy có phải là còn ác tâm hơn không. Khi đã ăn những thứ dơ bẩn này, tuy trên thế gian có đa phương hành thiện, tụng kinh, không chỉ không có công quả mà còn bị tội nặng hơn. Diêm vương tuyệt đối không tha cho những hạng người như thế, khi những người có những thói quen đó. Sau khi nghe được những lời khuyên trên phải nhanh chóng tu sửa và cai bỏ. Chỉ có thể mua hàng vạn sinh vật trở lên để phóng sanh hoặc từ nay về sau không sát sinh, mỗi buổi sáng súc miệng xong phải niệm kinh Phật, lúc hấp hối mới có sứ giả tịnh nghiệp, lấy đèn chiếu sáng rọi vào để loại bỏ ra những mùi hôi thối và dơ bẩn trong mình; như thế, mới tiêu hết được những tội ác như trên. Trộm cắp những hài cốt của những người bị lửa thiêu chết và các da thịt của các thai nhi khi phá thai bỏ ra để sử dụng chế tạo tạo thành thuốc; trộm cắp những đầu lâu của xác chết, hài cốt bán cho các thầy đông y để làm thuốc. Những hạng người như vậy, lúc còn sống, dù có làm qua biết bao công quả cho trần gian, sau khi chết bị móc đến âm phủ. Tất cả những công quả họ làm, chỉ có thể gắng chịu một phần tội lỗi khác của họ. Còn về lỗi này, Diêm Vương sẽ không dễ dàng bỏ qua hoặc miễn giảm cho họ, lập tức đưa qua vô đại địa ngục chịu các cực hình; hoặc tiếp tục chuyển đến các tiểu địa ngục có liên quan. Sau đó chuyển tiếp đến điện thứ mười, khi đến lúc chuyển đi đầu thai, sẽ bị cắt đi các loại như tai, mắt, ngón tay, môi miệng, lỗ mũi,vv..., để cho họ bị thiếu hụt một phần trên cơ thể, là sự trả báo về tội ác họ đã từng làm. Nếu như người trên trần gian đã phạm vào những tội như trên, lập tức chịu sám hối, không tái phạm nữa; và nếu như gặp những người nghèo khổ có thân nhân chết không tiền chôn cất hoặc hỏa táng, mình có thể phát tâm mua hòm hoặc khuyên giải người thân của mình giúp họ khai niệm và an táng, làm những công quả như vậy nhiều lần. Vì thế, Thần Táo quân của nhà mình sẽ điểm một chấm đen trên bảng của quỷ móc hồn, có thể miễn chịu quả báo như trên. Trên trần gian, có những nơi đôi khi bị thiên tai và thu hoạch ngũ cốc thất mùa, một số người do đói mà chết đi. Có một số thương gia vô lương tâm, trong lúc đói khát chưa chết đang hấp hối mà cắt thịt của họ làm thành nhân bánh bao và các loại bánh bột để bán lại cho người khác. Như vậy rất ác tâm, những thương gia này, khi chết bị áp giải, Diêm Vương lập tức ra lệnh cho quỷ phạm áp giải họ đến các địa ngục, tăng thêm tội hình, trừng phạt thêm 49 ngày, chịu các loại hình dao búa. Sau đó thông báo cho Diêm Vương điện thứ mười ghi trong sổ sách, chuyển cho Diêm Vương điện thứ nhất, liệt kê thêm vào trong sổ sống chết, kiếp sau nếu được luân hồi vào đạo làm người, cho họ đầu thai vào những nơi đói nghèo và bị đói đến chết. Nếu chuyển làm đạo súc sinh, dù có thấy những cơm thừa dư hoặc những đồ ăn vứt ra vẫn không ăn nổi. Trả báo họ để bị đói đến chết. Những hồn ma tội phạm này, ngoại trừ không cho phép họ lấy những công quả đã làm để bù trừ vẫn không cách nào thoát khỏi sự trả báo bị đói khát, tất cả những người ăn nhầm những bánh bao nhân thịt người hoặc sau khi hết cảnh đói khát mà vẫn ăn thì kiếp sau khi chuyển luân hồi vào đạo làm người hoặc súc sinh, sẽ bị quả báo là thường đau cổ họng, đau bụng, dù bụng có đói cơm nước vẫn khó nuốt vào, để phải chịu ác báo đói khát đến chết. Những người đã phạm vào những tội như trên, đến những nơi có thời mùa thất thu bị đói khát, quyên góp tiền ra để cứu trợ hoặc bố thí cơm cháo cho người đói nghèo. Hoặc đem một phần gạo chia sẻ cho các người nghèo khổ; hoặc nấu canh đậu và canh gừng để giữa giao lộ, cứu trợ cho những người bị thiên tai qua cơn đói khát. Nếu thật sự làm được công quả đại chúng lớn như vậy, không chỉ có thể xóa hết những tội lỗi như trên, mà còn có thể tăng thêm phước lộc thiện báo cho kiếp này, phước lộc và trường thọ cho cả kiếp sau. Những phương pháp cho ba điều tội lỗi và tiêu trừ tội như trên, trong đó có hai điều đã được văn võ phán quan của bổn điện chọn ra hai điều và do sứ giả của đại địa ngục chọn ra một điều cùng với các phán quan và các quan viên có liên quan cùng đem vào tâu với Ngọc Hoàng Đại Đế. Sau khi được phê duyệt cùng ghi vào trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Đồng thời phát lệnh thông hành trong địa ngục để các phán quan làm căn cứ thưởng lệ cho các quan viên trong địa ngục. Đối với những chi tiết gây nghiệp và tội trên trần gian, các thần linh đường lộ cũng đã triệu tập qua hội nghị, định sẵn các điều khoản luật định đối với việc trả báo. Ngoài ra, đối với những tội hình làm trái các công vụ và lễ nghĩa trong chính trị; hoặc buôn lậu hàng quốc cấm mà pháp luật dưới âm phủ chưa hoàn toàn đầy đủ các bộ luật; tất cả sẽ trị tội theo luật lệ các quốc gia trên trần gian. Ngoài trị tội ra, nếu có người muốn trốn tránh truy cứu, dẫn đến liên lụy cho người khác sẽ thông báo cấp cho các quỷ phán, cho phép họ được hiện phép thần linh để truy cứu tra xét lên án và đưa ra trừng trị. Những thần linh như trên sẽ tuân thủ chấp hành. Các nam nữ trên trần gian, nếu có thể vào ngày 27 tháng ba âm lịch ăn chay, thanh tịnh khẩu nghiệp, quay mặt ra hướng Bắc phát lời thề xin sám hối và sẽ đưa cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” in tặng cho loài người, khuyên hóa người người hành thiện thì cho phép họ được miễn các hình phạt trong địa ngục này.