Minh Xuân

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    121
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Minh Xuân

  1. Không rõ bức phù điêu trên là ở đình nào? Tôi thì thấy điệu "con đĩ đánh bồng" do nam giả gái diễn có phần giống với ... múa trống của người Chăm. Phùng Hưng nối tiếp khởi nghĩa của Mai Thúc Loan từ vùng Nghệ An, rất có khả năng quân sĩ là người Chăm.
  2. Tiến sĩ giáo sư gì mà quan niệm thật sai lầm. Đạo Giáo là đạo Việt Nam chính gốc. Đền thờ Ngọc Hoàng thượng đế bằng đá ở Hưng Yên có cách đây trên 2200 năm, tức là trước cả thời Bắc thuộc: http://www.anninhthudo.vn/Giai-tri/Den-tho-Ngoc-Hoang/370317.antd Mẫu Thoải hay Mẫu Thủy là vợ của Kinh Dương Vương, con gái Thần Long Động Đình, có cách đây trên cả 4000 năm. Các vị mẫu khác (Mẫu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn) cũng đều là con vua Bát Hải Động Đình hay vua Biển Đông từ thời Kinh Dương Vương... Chỉ có thể nói ngược lại: đạo Giáo từ Việt nam đã lan sang "lãnh thổ" Trung Quốc.
  3. Tại sao người Dao ăn tết "năm cùng" và người H'Mông ăn Tết "HMông" đều trước Tết nguyên đán Hoa Việt 1 tháng? Người Việt và người Hoa ăn Tết nguyên đán theo lịch kiến Dần (lấy tháng Dần làm tháng Giêng). Người Miêu-Dao ăn Tết trước 1 tháng, chứng tỏ họ lấy tháng Sửu làm tháng giêng, hay họ dùng lịch kiến Sửu. Theo lịch sử của lịch pháp thì chỉ có 1 triều đại duy nhất dùng lịch kiến Sửu chính là nhà Ân Thương. Nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Tần dùng lịch kiến Hợi. Tới nhà Hán dùng lại lịch kiến Dần của nhà Hạ và tồn tại tới nay. Vậy phải chăng tộc người nhóm Miêu - Dao là thành phần chính đã làm nên nhà Ân Thương thời Trung Hoa cổ đại? Miêu Dao là nhóm người Nam Á, là một nhánh của Bách Việt nên khả năng nhà Ân Thương cũng chính là triều đại Việt.
  4. Nhà Ân này có vẻ cái gì cũng "đi mượn" của người Việt: mượn đồ đồng người Việt (mặt người Nam Á trên đồng khí Thương), mượn chữ Lạc Việt (trên giáp cốt văn), mượn Thiên Can của người Việt (tên các vua nhà Ân theo Thập Can), thậm chí mượn cả "xương người Việt" (nhiều xác khai quật ở Ân Khư được xác định là "phi Mông Cổ")... Những chiếc Nha chương tìm thấy ở Phùng Nguyên - Phú Thọ, biểu tượng cho "quan quyền" trong triều đình, chắc cũng lại là đồ nhà Thương "đi mượn" của người Việt... Tới thời Ân, nhà Thương theo Hoa sử có tới hàng trăm chư hầu (Chu Vũ Vương đã hội quân chư hầu để phạt Trụ). Vì thế chuyện giặc Ân sang cướp nước ta không chứng tỏ được "nước ta" và "giặc Ân" là khác chủng, có thể là các chư hầu và "thiên tử" đánh nhau mà thôi.
  5. Chữ Lạc Việt trên xẻng đá lớn như trong bài đưa thông tin là tiền thân của chữ trên giáp cốt ở Ân Khư. Giáp cốt văn lại là tiền thân của chữ Hán. Như vậy chẳng phải chữ Lạc Việt là tiền thân của chữ Hán, hay nói cách khác chữ Hán chính là chữ của người Việt hay sao? Vậy người Hán ở Ân Khư viết bằng chữ gì? Hay họ chưa có chữ viết, phải mượn chữ của người Việt? Hay người ở Ân Khư chính là người Việt?
  6. Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) được coi là vị đệ nhất phúc thần của nước Việt, đứng đầu trong tứ bất tử. Tương truyền rằng thần rất linh thiêng và ứng nghiệm. “Linh khí không thể lường được. Vượng khí đời nào hết” (Truyện núi Tản Viên – Lĩnh Nam chích quái). Ngọn núi Ba Vì hay núi Tản Viên của Sơn Tinh cũng được cho là nơi phát gốc long mạch cho kinh đô nước Việt… Vậy thần phép của Tản Viên Sơn Thánh là gì? Lần theo thần tích Việt và thần thoại Trung Hoa, sẽ cho câu trả lời về phép thần của Sơn Tinh và long mạch của núi Tản. Quê hương và thời niên thiếu của Sơn Tinh Theo các thần tích vùng Sơn Tây, Vĩnh Phú thì Tản Viên Sơn Thánh là người ở động Lăng Xương (Thanh Thủy – Phú Thọ ngày nay), tên là Nguyễn Tuấn (Nguyễn Tùng), con ông Nguyễn Cao Hạnh (Hành) và bà Đinh Thị Điêng (Đen). Khi lớn lên nhận bà Ma Thị Cao Sơn ở núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi. Đền Lăng Xương, nơi sinh ra Thánh Tản Động Lăng Xương có thể là Lang Xương, trong đó Lang là Vua. Động Lăng Xương như vậy có nghĩa là nơi quê gốc của Vua. Vua ở đây chính là thần Tản Viên.Mẹ đẻ của Nguyễn Tuấn là bà Đinh Thị Điêng hay Đen, còn gọi là Thái Vĩ. Đinh là hướng Tây. Đen là tên của sông Đà xưa. Đinh Thị Đen có nghĩa chỉ Thái bà (Thái Vĩ hay Thái Thủy) là người ở Tả ngạn sông Đà (dòng sông Đà ở quãng chân núi Ba Vì đổi hướng chảy lên phía Bắc, nên tả ngạn sông nằm ở phía Tây). Bà mẹ nuôi Ma Thị Cao Sơn có lẽ cũng chỉ có nghĩa là Mẫu Thượng Ngàn vì: Ma = Má = Mẫu, Cao Sơn = Thượng Ngàn. Bà Ma Thị Cao Sơn ở Ba Vì được thờ như Mẫu thượng ngàn, là người cai quản núi Ba Vì trước khi “di chúc” lại cho Thánh Tản. Long mạch Tản Viên Tản Viên Sơn Thánh đã đi khắp nơi, dựng nhiều hành cung trên đất Việt. Hiện tại hệ thống các hành cung của Tản Viên còn lại gồm: - Thượng cung thần điện là đền Thượng, nằm trên đỉnh Tản của Ba Vì. - Tây Cung gồm đền Trung trên núi Chàng Rể và đền Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với quê Lăng Xương. - Nam Cung là đền Ao Vua. - Đông Cung là đền Và ở cạnh thị xã Sơn Tây, cạnh sông Hồng. Hội đền Và khi tổ chức còn có sự tham gia của làng Duy Bình, nơi có đền Dội ở đối diện bên kia bờ sông Hồng, tương truyền là nơi Thánh Tản đã lấy nước tắm bên sông. - Bắc Cung là đền Thính ở Tam Hồng - Yên Lạc – Vĩnh Phúc. Thính là đọc tranh âm của Thánh. Bắc Cung Thượng là đền Tranh ở Trung Nguyên – Yên Lạc – Vĩnh Phúc. Yên Lạc cũng là nơi có di chỉ khảo cổ Đồng Đậu, với tầng văn hóa từ thời Phùng Nguyên. Theo thần tích đền Và thì cung Trung và cung Hạ (Tây Cung) là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”. Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi. Tuy gọi là Đông – Tây – Nam – Bắc cung nhưng nếu nhìn trên bản đồ thì các cung này nằm gần như trên cùng một đường thẳng chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, cắt vuông góc với sông Hồng ở gần Sơn Tây. Đây là cũng là hướng “tọa Cấn hướng Khôn”, hướng của đền Thượng như ghi trong thần tích đền Và. Lĩnh Nam chích quái cho biết Sơn Tinh đã “làm một con đường thẳng như sợi dây từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên tới động An Uyên”. Có thể thấy con đường này chính là từ bến thuyền trên sông Hồng cạnh Sơn Tây (nay là phà Mông Phụ - Vĩnh Thịnh), chạy thẳng lên đền Thượng theo hướng Đông Bắc - Tây Nam (hướng Cấn - Khôn).Liệu việc bố trí "ngũ hành cung" theo một đường thẳng, với phương vị nhất định như vậy có phải chính là long mạch của núi Tản? Có phải đây chính là cây gậy thần của Sơn Tinh chặn ngang dòng sông Hồng để trị thủy? Trước các đền thờ Tản Viên người ta đều xây giả sơn và thờ ngũ hổ (ngũ hành). Sơn Tinh có thể là ông tổ của môn phong thủy địa lý học phương Đông. Đế xuất hồ Chấn Đông Cung Tản Viên nay là đền Và, ở làng Vân Già, cạnh thị xã Sơn Tây. Tương truyền khi Tản Viên đi qua đây thấy có đám mây che phủ, cho là điềm lành, nên dựng hành cung ở đây, gọi là Vân Già. Thực ra Vân Già chỉ là tên phiên thiết âm Nôm của từ Và mà thôi. Đông Cung là nơi có cung điện chính, được chép là nơi Tản Viên “nghe tâu bày các việc”. Đền tới nay được dựng với hệ thống tượng như một triều đình. Như vậy thì rõ ràng Tản Viên đã lên ngôi vua. Đền Và = Vua = Vũ. Nam Cung Tản Viên đóng tại Ao Vua. Thần Tản Viên được người Mường gọi là Bua Thơ hay Bua Ba Vì. Bua = Vua. Rõ ràng Tản Viên không phải chỉ dừng lại là con rể của Hùng Vương cuối cùng (thứ 18) mà chính là một vị vua Hùng, có tên là Vua=Vũ. Quê Tản Viên ở Lăng Xương hay Lang Xương cũng khẳng định thêm điều này. Vua Vũ Tản Viên đã dựng hành cung khắp nơi. Nếu Tản Viên chỉ là con rể vua Hùng thì đã không thể dựng nhiều hành cung như vậy. Hoành phi ở đền Và: “Xuất hồ Chấn” Và đôi câu đối ở nghi môn: Đề vu Tây, hỗ trấn nguy nguy thiên bính thọ? Xuất hồ Chấn, cố cung hách hách nhật đồng quang. Những câu này lấy ý trong thuyết quái truyện của Kinh Dịch: “Đế xuất hồ Chấn”. Chấn là quẻ của phương Đông. “Xuất hồ Chấn” ý nói đế vương tại Đông Cung (đền Và). Thông tin này một lần nữa khẳng định Tản Viên đã là bậc đế vương, là một vị vua Hùng. Tản Viên chính là vua Vũ, là Đại Vũ trị thủy trong Hoa sử. Tiên trượng ước thư Theo thần tích đền Và, phép thuật của Tản Viên bắt đầu từ việc đi chặt cây trên núi Tản gặp Thái Bạch Thần Tinh, được truyền cho cây gậy thần đầu sinh đầu tử. Từ đó Nguyễn Tuấn xưng là Thần Sư, bắt đầu đi cứu dân độ thế. Bảo bối thứ hai của Thánh Tản bắt đầu từ việc cứu được con rắn thần, là con trai Long Vương ở Động Đình. Sau khi xuống thăm Long cung Tản Viên đã được tặng quyển sách ước. Tản Viên từ đó dùng gậy thần và sách ước đi khắp nơi, lấy được công chúa Ngọc Hoa, chiến thắng Thủy Tinh, đánh quân Thục,… Hiện nay ở các cung điện cũ của thần Tản Viên đều có nhắc đến 2 bảo vật gậy thần sách ước trên. Câu đối ở đền Và (Đông Cung) ở thôn Vân Già, Sơn Tây: Tiên trượng ước thư truyền dật sử Đông cung Tây trấn ngật linh từ. Dịch: Gậy thần sách ước dã sử truyền Cung Đông trấn Tây đền linh tỏ. Hay câu đối khác cùng một ý tại đền Và: Thần vi chi linh, địa vi chi linh, diệc nhân sùng vi chi linh, ngật nhĩ Đông cung Tây trấn Sơn đắc kỳ thuật, thủy đắc kỳ thuật, túc kim dục đắc kỳ thuật, diêu hô tiên trượng ước thư. Dịch: Thần linh thiêng, đất linh thiêng, vĩ nhân linh thiêng, Cung Đông trấn Tây cao ngất Núi thành thuật, sông thành thuật, đạo đức thành thuật, gậy thần sách ước diệu kỳ. Bắc Cung Thượng - Đền Tranh Câu đối khác ở chính điện đền Tranh:Tây Tản ? truyền, trúc trượng anh linh phù quốc thinh Bắc cung hiển thuật, sách ước thiểm? pháp độ dân an. (? là những chữ Nho không đọc được) So sánh với chuyện vua Vũ trong thần thoại Trung Hoa: “… Vũ đang đứng trên bờ quan sát sức mạnh của dòng nước thì thấy một ông già mặt trắng trẻo, mình cá, nhảy lên từ dòng sông … Ông già tự xưng là Hà Bá. Vị thần này cho Vũ một phiến đá to màu xanh… Đó chính là Hà Đồ”. Rồi tiếp theo còn có chuyện Vũ gặp một con rắn thần ở trong hang, rắn dẫn Vũ tới gặp Phục Hy và Phục Hy trao cho Vũ một thanh Ngọc giản, có thể đo đạc được trời đất. Có thể thấy chuyện Sơn Tinh được gậy thần sách ước và chuyện Đại Vũ được Hà đồ, Ngọc giản chỉ là một. “Ông già mặt trắng” có thể chính là Thái Bạch Thần Tinh. Thái Bạch = Thái Hạo (Hạo là sáng, bạch), cũng là tên khác của Phục Hy trong truyền thuyết. Phục Hy tương truyền có mình rắn. Phục Hy là người tìm ra Bát quái nên hoàn toàn có thể Phục Hy chính là Thái Bạch Tử Vi thần tướng. Phục Hy là vị thần chấn Đông nên cũng có thể là Long Vượng Động Đình. Theo truyện Dịch thì Phục Hy là người đã chép Hà đồ từ lưng con Long Mã (= con rồng, rắn thần). Còn vua Vũ vẽ Lạc Thư từ lưng con Thần Qui. Có thuyết khác lại cho rằng cả Hà đồ lẫn Lạc thư đều do Đại Vũ nghĩ ra. Dù thế nào thì rõ ràng phép thần của Tản Viên Sơn Thánh chính là Hà Lạc, được tiếp thụ từ tiền nhân và sáng tạo thêm trong quá trình trị thủy. Sơn Tinh – Thủy Tinh Trong các câu đối đã nêu tại Đông Cung có nói tới “Tây Trấn”, “đề vu Tây” (ở tại phương Tây). Tại sao lại là Tây? Lý do rất rõ: Tản Viên (Nguyễn Tuấn, Nguyễn Tùng) là Tốn Vương, Tốn là quẻ chỉ hướng Tây. Tản Viên Nguyễn Tuấn chính là vị Tuấn Lang (Hùng Việt) trong Hùng triều ngọc phả. Thủy Tinh là con trai Long Vương Động Đình, điều này cho thấy Động Đình chính là biển Đông ngày nay, chứ không phải đầm Vân Mộng ở Vân Nam. Hơn nữa cơn đại hồng thủy thời Sơn Tinh là một cơn đại hồng thủy biển, chứ không phải lũ lụt sông thông thường. Lĩnh Nam chích quái còn chép hướng tiến công của Thủy Tinh là “mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra Hát Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên” (Lý Nhân có thể là Nhân Lý, một làng ở gần thị xã Sơn Tây). Với hướng đi thế này thì cơn hồng thủy phải là đến từ biển Đông. Nước từ biển Đông dâng sang Sơn Tây của Tản Viên. Sơn Tinh đánh Thủy Tinh tương ứng với Đại Vũ trị thủy. Theo thần thoại Trung Hoa thì Đại Vũ khi trị thủy đã đánh nhau với thần nước Cộng Công. Như vậy Cộng Công chính là Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt. “Cộng Công quyết một phen sống mái với Vũ nên đã dâng nước lên cao, cao đến tận đất Không Tang”. Không Tang phiên thiết cho từ Khang. Đất Không Tang chính là vùng Khang ấp của vua Vũ. Khang cũng là tính chất của phương Tây. Nói cách khác, Không Tang là vùng Sơn Tây, nơi xảy ra cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Khang Ấp chính là Tây Trấn – Sơn Tây, nơi có Đông Cung của vua Vũ (Và). Nghi môn đền Và Người lạ dùng ảo thuật ở Gia NinhLĩnh Nam chích quái, truyện núi Tản Viên: “đại vương Sơn Tinh họ Nguyễn, cùng vui với các loài thủy tộc ở đất Gia Ninh, huyện Phong Châu”. Việt sử lược về sự thành lập của nước Văn Lang: “Đến thời Trang Vương nhà Chu ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.” Tới đây ta hiểu, “người lạ dùng ảo thuật ở bộ Gia Ninh” đã áp phục các bộ lạc chính là Tản Viên Sơn Thánh, người đã tập hợp nhân dân Việt trong cuộc đấu tranh chống nạn hồng thủy. Phép “ảo thuật” ở đây không gì khác là Hà đồ và Lạc thư, là Dịch học của người họ Hùng. Quốc tổ họ Hùng không phải là một thầy phù thủy, mà là một nhà khoa học vào thủa bình minh của dân tộc. Tản Viên Sơn Thánh là người đã dựng nghiệp họ Hùng của dân Việt từ việc trị thủy an dân thắng lợi, là Hùng Việt Tuấn Lang trong Hùng triều ngọc phả, là Đại Vũ, người lập nên nhà Hạ, mở đầu thời kỳ lịch sử của người Hoa Việt trên 4000 năm trước.
  7. Con gái đầu của Hùng Vương 18 là Ngọc Hoa, lấy Chử Đồng Tử (theo thần tích). Nếu Hùng Vương 18 thật sự hóa thần hóa thánh thì hợp lý hơn phải là hóa cùng với Chử Đồng Tử. Văn Vương = Văn Lang (Lang Văn) = Thục An Dương Vương (Âm Dương Vương).Chỉ vì hiểu Hùng Vương 18 là đời thứ 18, nên nhận nhầm cả thời gian cho Sơn Tinh lẫn Thục Phán, và cả việc lấy 2000 năm chia 18, thành ra mỗi vị vua Hùng ở ngôi trên 100 năm. Chẳng nhẽ tới giờ vẫn chưa thấy 18 chỉ là một con số ước lệ hay sao? Ai bảo là Hạ Vũ trị thủy cho vùng nông nghiệp? Ở Hoa Bắc thì toàn trồng kê, làm gì có cơn thủy tai hàng trăm năm (từ đời Cổn đến đời Vũ) nào trên nương kê bao giờ?Đồng Bằng sông Hồng không có vết tích vì lúc đó đồng bằng sông Hồng còn đang ngập trong nước biển. Chỉ có các vùng trung du mới có vết tích của Sơn Tinh. Sơn Tinh là "trấn Tây" chứ không phải "trấn Bắc". Cái này xin xem câu đối ở đền Và ở trên. Thục An Dương Vương cũng là đến từ hướng Tây, chứ không phải Bắc. Tôi đồng ý là truyền thuyết đã chép lẫn hoặc "tua nhanh" lịch sử từ việc Sơn Tinh đánh Thủy Tinh sang việc Tản Viên đánh Thục. Nhưng việc này chẳng ảnh hưởng gì đến lập luận Sơn Tinh = Đại Vũ, người đã trị nạn đại hồng thủy ở đất Phong Châu (Tây Trấn), là tổ của người Việt, là vị thần phong thủy địa lý hàng đầu của Việt Nam do đã kế thừa và sáng tạo thêm Hà Lạc.Chuyện Tản Viên đánh Thục có lẽ còn có ý nghĩa lịch sử khác nữa, cần nghĩ thêm. Chuyện này cũng lạ đời, vì chẳng có đời thủa nào mà sau khi đánh nhau chán chê, chiến thắng rồi lại đi nhường ngôi, nhường nước cho kẻ thù. Xong rồi kẻ thù (Thục Phán) lại còn phải thề bồi, trung thành với họ Hùng...
  8. Trong Kinh thư đầy mâu thuẫn về thời đại của Đại Vũ nếu định vị nhà Hạ ở Hoa Bắc. Xin đọc lại bài của anh Văn nhân đã đăng ở ngay diễn đàn này: http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/3623-9-chau-va%cc%80-van-minh-nha%cc%80-ha%cc%a3/ 9 Châu và văn minh nhà Hạ̣ . Kinh thư thiên Vũ cống viết : vua Vũ chia đất thành 9 châu Ký Dự Thanh Từ Kinh Dương Cổn Ung Lương ...., địa giới chạy từ Hà nam tới Hoàng hải ở phía đông , phía nam xuống tới Hồ nam Giang tây , Chiết giang ngày nay , giới sử học Trung quốc ấn định 9 châu trên bản đồ : Nhưng theo kết quả nghiên cứu khoa học tổng hợp ngày nay thì : với trình độ khoa học kỹ thuật nói chung và trình độ sản xuất lạc hậu lúc đó nói riêng thì lãnh thổ nhà Hạ phải thu hẹp ít ra hơn 10 lần ,chỉ khoảng vài ba trăm ngàn km2 bên bờ Hoàng hà ở quãng tỉnh Hà nam –sơn tây là cùng . Bản đồ lãnh thổ nhà Hạ theo khoa học lịch sử Nhưng nếu như thế thì sự ấn định của khoa học đã phủ nhận hoàn toàn những thông tin ghi chép trong kinh Thư ? Đọc kỹ thiên Vũ cống : 1- Lãnh thổ 9 châu nhà Hạ phía đông giáp biển , phải chăng chính từ địa hình này mà hình thành từ biển đông ngày nay ? , nếu lãnh thổ nhà Hạ bên bờ Hoàng hà quãng Hà nam –Sơn tây ...thì .làm gì có biển . 2- Phương tiện vận chuyển chính của người nhà Hạ là thủy vận , Phần lớn các châu mang cống phẩm về kinh đô đều theo đường sông đổ ra “hà”, giới sử học Trung quốc mặc nhiên coi ‘Hà’ là Hoàng hà dù chẳng thấy có chữ Hoàng nào ....?, rất nhiều khả năng Hà- Hồ - Hải chỉ là biến âm của nhau , Tiếng Việt có cặp số GIÊNG -HAI trong Dịch học đồng nghĩa với GIANG-HỒ ; Hồ → Hà , Hải ... ,.trăm sông đổ ra biển rất có thể chữ ‘Hà’ trong kinh THƯ này dùng để chỉ biển cả , nơi truyền thuyết Việt gọi là Động đình hồ ...? Những nghiên cứu khoa học ngày nay xác nhận thời cổ đại thủy vận không phát triển ở Hoa bắc , ngược lại rất phát triển ở Đông nam á và Hoa nam . 3 – Nói thật rõ ràng thì Dân sống ở 9 châu nhà Hạ trồng ‘lúa nước’ , kinh Thư dùng chữ Điền là ruộng lúa ; nhưng chỉ canh tác lúa nước người ta mới đắp bờ ̣để giữ nước trong ruộng , chính hình ảnh bờ ruộng đã tạo thành đường nét của chữ Điền .. ’.như thế từ ‘Điền’ phải hiểu chính xác và trọn vẹn là ruộng nước hay ruộng trồng lúa nước chứ không thể là ruộng chung chung ... Vùng Hoàng hà thời Hạ trồng Kê là chính do đặc điểm địa lý khí hậu và trình độ kỹ thuật thời đó không cho phép trồng lúa nước , ngày nay người ta đã di thực cây lúa nước lên vùng Hoàng Hà nhưng năng suất vẫn rất thấp và 1 năm chỉ trồng được 1 vụ . 4 – Lãnh thổ 9 châu nhà Hạ nằm trong vùng địa lý tự nhiên có loài VOI sinh sống vì trong những cống phấm của 9 châu có ngà voi ....nhưng vùng ven Hoàng hà từ cổ chí kim chưa nghe nói đến voi .... mãi đến thế kỷ 15-16 khi nhận được voi cống từ miền đông nam Á vua Tàu còn vội vã trả lại vì sợ loài vật lạ chưa từng có nên không cho nhập vào nước Tàu . 5 – Kinh thư cho thấy trên lãnh thổ Trung hoa nhà Hạ có rất nhiều tre lớn gọi là bương hay giang hay nứa ,Loài tre lớn thường mọc tự nhiên ở xứ nóng mà 9 châu nhà Hạ không những có tre mà còn có cả nền thủ công đan lát vật dụng bằng tre , càng về phía bắc tre càng nhỏ lại , trong tập tính sinh hoạt thì ‘tre’ không có điạ vị trong đời sống dân Hoa bắc trái lại ở tây nam Trung hoa và Việt nam tre là loại cây vô cùng thân thiết , người Việt có thể làm mọi thứ vật dụng cần thiết bằng tre ., có thể nói không ngoa ...tre là nền tảng của văn hóa vật thể Việt nên rất nhiều khả năng “trúc thư” (sách thẻ tre) cũng ra đời ở đây hay nói rộng hơn và Chắc hơn là : trong ‘vùng văn hóa Bách Việt’ . 6 – Cây đay là cây á nhiệt đới , còn cây dâu tằm ( loại mọc quanh năm) đòi hỏi độ ấm và đ̣ộ ẩm cao...., đặc điểm sinh lý loài tằm năng suất cao cũng không thích hợp với vùng Hoàng hà , các nghiên cứu khoa học cho thấy vùng sông Tứ hay Châu giang có thể nuôi 8 lứa tằm trong 1 năm , lên vùng trường giang chỉ có thể nuôi 3 lứa đến Hoàng hà thì chỉ còn 1 lứa ...trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày nay còn như thế hỏi thời nhà Hạ thì 9 châu có thể nuôi tằm - dệt lụa một cách phổ biến hay không ? ( nghề dệt lụa đã có từ thời Hoàng đế mấy trăm năm trước nhà Hạ ) . Thông thường thì cây –con mà người ta nuôi trồng bao giờ cũng bắt đầu từ những cây con hoang dã trong thế giới tự nhiên nên nơi nào địa lý khí hậu đáp ứng tốt nhất cho điều kiện sinh lý của cây con đó thì nơi này chính là địa bàn phát sinh giống loài đó , về sau mới phát tán theo bước chân di cư của con người , do nhu cầu thiết yếu và tập tính sinh hoạt con người vẫn nuôi trồng cây con cũ ở nơi định cư mới dù phải thu hoạch kém hơn do hoàn cảnh thiên nhiên không còn sự đáp ứng tối ưu . 7 – Trong cống phẩm của 9 châu có loại đá dùng làm khánh ; một loại nhạc cụ , kinh thư cũng viết ... ông Qùy tâu với vua Thuấn ... “tôi gõ vào đá , vỗ vào đá ....muôn loài đến nhảy hót ...” ,như vậy kinh thư cho ta thấy nền âm nhạc nhà Hạ dùng bộ gõ và nhạc cụ bằng đá... , phải chăng ...ngày nay gọi là đàn đá ?; loại nhạc cụ độc đáo này chưa phát hiện được ở Trung quốc nhưng ở Việt nam có những dân tộc thiểu số hiện vẫn còn đang xử dụng và các nhà khảo cổ cũng đã tìm được những bộ đàn đá hoàn hảo xưa đến mấy ngàn năm tuổi . 8 – Kinh thư thiên vũ cống còn nói đến cống phẩm là đá dùng làm mũi tên ...; “thạo nghề cung nỏ” là đặc điểm của người Việt cổ , sách Tàu xưa đã viết như thế ., người Việt không những biết dùng cung nỏ mà còn biết nâng cấp hiệu qủa của cung nỏ như làm mũi tên bằng đá để tăng khả năng xuyên thấu , đến thời đồ đồng thì thay mũi tên đá bằng mũi tên đồng , các nhà khảo cổ Việt nam đã tìm được nhiều hiện vật cổ là mũi tên bằng đá đúng như Kinh thư đã chép ....còn bên Tàu .... biết có hay không ? . Thực kỳ lạ và trớ trêu khi vùng đất Việt nam và lân cận ngày nay vừa thoả cho điều kiện khắt khe của khoa học về quy mô - diện tích lãnh thổ lại có đầy đủ những gì của 9 châu đã ghi chép trong Thiên Vũ cống - Kinh Thư. Chính sự kỳ lạ này là cơ sở để ‘Sử thuyết họ HÙNG’ xác định vị trí 9 châu thời vua VŨ nhà Hạ là miền Bắc và Bắc trung Việt cộng với vùng đất lân cận ngày nay .
  9. Thông tin trong các truyền thuyết và di tích rất rõ: có Ao Vua, núi Vua (Ba Vì), đền Vua (đền Và) nơi còn thờ nguyên một "triều đình" của Tản Viên đang "nghe tâu bày các việc". Làm gì có ông "con rể" nào cả gan dựng hành cung khắp nơi, xưng Vua và bàn chính sự như vậy. Truyền thuyết nào chép Sơn Tinh - Thủy Tinh thuộc Hùng Vương 3?Truyền thuyết ghi Tản Viên là con rể vua Hùng 18, chứ không phải Hùng Vương thứ 18. Con số 18 tới nay ai cũng biết là con số ước lệ, chỉ sự trường tồn, là một cách xưng hô "cửu trùng" (9x2=18) đối với vua mà thôi. Tản Viên không hề là đời Hùng Vương cuối cùng, vì như thế thành ra Tản Viên là đời Hùng Vương thứ 19 hay sao? Vua Hùng đã truyền ngôi cho con rể Tản Viên. Tức là chế độ "truyền hiền" của Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn truyền cho Vũ của Hoa sử. 9 châu nhà Hạ của Đại Vũ nằm chính ở đất Nam Giao (hay Hoa Bắc trong Kinh Thư?). Sông Dương Tử chẳng có nạn đại hồng thủy nào trong quá khứ cả vì đơn giản đại hồng thủy biển chỉ xảy ra trong đai cận nhiệt đới tới xích đạo, nơi nước biển do băng tan từ các cực trái đất đổ về. Nước biển dâng như trong thời đại biến đổi khí hậu, trái đất ngày nay cũng chỉ ảnh hưởng tới những nước cận nhiệt đới như Thái Lan, Việt Nam, chứ làm gì có những nước ở vùng ôn đớiThêm một chút: lịch sử địa chất Việt Nam cho biết cơn đại hồng thủy cuối cùng mà người Việt phải chịu là vào thời gian cách đây khoảng 4000 năm. Hà Nội khi đó phải gọi là Vịnh Hà Nội (xem TS Nguyễn Việt, Hà Nội thời tiền Thăng Long). Tản Viên Sơn Thánh trị thủy không thể vào giai đoạn cuối của triều Hùng (cách đây mới khoảng 2000 năm), mà là thời kỳ đầu của lịch sử Việt Nam 4000 năm.
  10. Bác Lãn Miên có thể cho biết vài địa chỉ đền thờ Chu Công ở Việt Nam không?
  11. Thử dịch các câu đối ở đền thờ Triệu Vũ Đế: Bạt địa nguy thôi phương thanh bất tùy Tần Hán khứ Xung thiên vũ trụ anh tiêu trường yết Lạc Hùng lai. Dịch là: Bạt đất mênh mông, danh tiếng thơm bất khuất thời Tần Hán Động trời khắp chốn, chí anh hùng giữ mãi buổi Lạc Hùng. Câu thứ hai: Nhất chỉ dĩ vô Tần vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt Lưỡng lập hà nan Hán ức niên xương thủy đế vương cơ. Dịch là: Một vùng vắng bóng Tần, vạn dặm mở ra tuyệt vời Mân Lạc Hai ngôi sánh cùng Hán, triệu năm gây nền vững vàng đế vương.
  12. Tôi vừa đi thăm đình làng Xuân Quan ở gần Bát Tràng, là nơi thờ Triệu Vũ Đế với tên gọi Long Hưng điện. Đây là một trong số hiếm hoi những nơi còn lại thờ Triệu Đà ở nước ta. Có mấy câu đối trên cột cổng đình ghi lại được. Câu đối ở phía trước 2 cột vào đền: Bạt địa nguy thôi phương thanh bất tùy Tần Hán khứ Xung thiên vũ trụ anh tiêu trường yết Lạc Hùng thúc (những chữ đậm là những chữ không luận ra được) Câu đối ở mặt sau 2 cột vào đền: Nhất chỉ dĩ vô Tần vạn lý phiệt tiên Mân Lạc tuyệt Lưỡng lập hà nan Hán ức niên xương thủy đế vương cơ. Kính nhờ bác Lãn Miên thông Nho hiểu sử giúp đọc hộ mấy câu đối về Triệu Đà, hy vọng tìm được thông tin nào đó về vị vua khởi thủy Nam Việt này.
  13. Tôn Ngộ Không sinh ra ở Đông Thắng Thần Châu. Còn khi bị Phật tổ đè dưới Ngũ Hành Sơn ở châu nào thì không biết. Xem ra thì Việt Nam nằm trên 2 châu. Phía Bắc phần Việt là ở Đông Thắng Thần Châu. Phía Nam phần Nam (trong Việt Nam) thì ở Nam Thiện Bộ Châu. Theo anh Văn nhân thì: - Chu Diên là Châu Diên hay Châu Dương, chỉ vùng Quảng Đông, nơi có Dương Thành. Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt hợp thành đất Diên Chỉ (Châu Diên và Giao Chỉ) vào thời Đại Việt của Lý Công Uẩn. - Đường Tăng trong sử Việt là Nguyễn Đạo Thành thời Lý (Lý Đường?) đi thỉnh kinh Tam Tạng ở Trung Quốc (?).
  14. Theo Tây du ký, Tôn Ngộ Không sinh ra ở Đông Thắng Thần Châu, là một trong bốn đại bộ châu của Phật giáo. Phật Giáo bắt nguồn ở phía Tây tại Ấn Độ ( (Đại Thục), thì Đại bộ Châu phía Đông hẳn là Trung Hoa. Thế mà... Câu đối ở đền Hùng: Quá cố quốc miện Lô Thao, y nhiên bích lãng hồng đào khâm đới song lưu hồi Bạch Hạc Đăng tư đình bái lăng tầm, do thị Thần châu Xích huyện, sơn hà tứ diện khống Chu Diên. Tạm dịch: Qua nước cũ ngắm sông Lô, sông Thao, vẫn còn sóng biếc hồng, hai dòng chảy về ngã Bạch Hạc Lên sân đình, bái lăng tẩm, đây Châu Thần Huyện Xích, núi sông bốn mặt hướng về đất Chu Diên. Câu đối này cho biết Thần châu xích huyện chính là ... Việt Nam. Vậy Tôn Ngộ Không sinh ra ở Thần Châu thì không phải sinh ra ở Việt Nam là gì? Trung Quốc phóng tên lửa lên vũ trụ cũng lấy tên Thần Châu, đâu có biết rằng Thần Châu vốn là tên gọi của mảnh đất Việt, quê hương của Lạc Long Quân (Thần=Thìn là rồng) và của Thần Nông Viêm Đế (Xích Huyện, Xích Quỉ). Còn nữa, không biết Tôn Ngộ Không có họ hàng gì với... Thạch Sanh hay không? Thạch Sanh nghĩa là sinh ra từ đá, cũng giống như Tôn Ngộ Không vậy. Thạch Sanh cũng đáng đông đánh tây với đủ loại yêu quái từ Trăn tinh tới Đại Bàng, đâu có kém gì Tôn Ngộ Không.
  15. Hôm nay xem mục này: http://diendan.lyhoc...o-hai-ba-trung/ Thấy có một số câu đối lạ về Hai Bà Trưng, xin nêu lại: 1/ Cửu Chân cương lý dư, địa thượng Bắc Nam công bán tại, Tam chiến can qua hậu, nữ trung hào kiệt cổ lai vô. Xin tạm dịch: - Cửu Chân biên cương vạch rõ Bắc Nam hai nước riêng hai, Sau mấy cuộc chiến chinh nữ anh hùng trước sau có một. Tại sao khởi nghĩa Hai Bà lại có chỗ lấy Cửu Chân để phân chia biên giới Nam Bắc? Khởi nghĩa của Hai Bà có gì liên quan đến Cửu Chân (Thanh Hóa?) đâu? Và việc hòa hoãn, phân chia biên giới đâu có thấy ghi chép gì trong chính sử? 2/ Cung kiếm thất tu mi, nữ chủ uy thanh lưu thất quận, Bình Mông phổ bào dư, thần vương phúc tỉ vĩnh thiên thu. Xin tạm dịch: - Cung kiếm vượt nam nhi, Nữ Vương uy danh lưu bảy quận, Vì đồng bào diệt Mông, Thần linh công đức mãi muôn năm. "Diệt Mông" là diệt ai đây? Hai Bà đánh nhau với giặc "Mông" hồi nào? "Thất quận" là những quận nào? Nhờ mọi người thử nghĩ, giải đáp giúp.
  16. Xin bàn luận với bác Lãn Miên. Cửu huyền thất tổ có thể hiểu đơn giản là Bảy đời tổ tông chốn cửu huyền, hay nói cách khác thờ Cửu huyền thất tổ là thờ tổ tiên. Nếu Vũ Trụ hiểu là Không gian và Thời gian thì câu đối trên có thể hiểu như sau: Vũ hóa hà hồ khai thệ giác: Trời (không gian) hóa ra sông biển, làm sáng (khai thệ) sự hiểu biết (tri giác) của con người. Trụ sinh hà lạc biểu thần thông: Thời sinh ra bốn mùa (Hà Lạc có thể hiểu như Xuân Thu, chỉ thời gian), là sự thể hiện của thần thông.
  17. Trích Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ Hồng Bàng Thị, phần Kinh Dương Vương: Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (Xét: Đường kỷ chép: thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi). Như trên thì chuyện Kinh Xuyên lấy con gái Động Đình đã được ghi lại trong... Hoa sử (Đường kỷ). Chuyện này hoàn toàn trùng với sự tích Mẫu Thoải của Việt Nam. Kinh Dương Vương là vua Việt cũng là vua Hoa Hạ vậy.
  18. Tôi ủng hộ ý bác Lãn Miên rằng Từ thị là Mẹ hiền. Ý này cũng thấy trong tục thờ Ỷ Lan ở Hải Dương như bạn Thích Đủ Thứ nêu trên. Mẹ hiền không nhất thiết nghĩa là người lớn tuổi hơn (tôn hiệu sau khi chết) mà có thể là chỉ người được tôn trọng (tương tự như gọi vua là Bố cái vậy)Có điều hiểu Kim luân là Vầng trăng thì không được xuôi lắm. Tôi vẫn nghĩ Kim Luân nghĩa là chuyển thế. Không phải Tây Thi chuyển thế mà là Thánh thần chuyển thế. Vũ Hậu có tới 3 danh hiệu trong các thời gian bà ta trị vì có nghĩa này: Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (金轮圣神皇帝) Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (越古金轮圣神皇帝) Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (慈氏越古金轮圣神皇帝) Rõ ràng với danh hiệu đầu tiên ở trên thì từ Kim Luân chỉ đi với Thánh Thần, phải hiểu là Thánh Thần chuyển thế. Điều này cũng có dẫn chứng lịch sử vì khi Vũ Tắc Thiên lên ngôi đã có nhà sư viết kinh:"Năm 690, sư Pháp Minh dâng bốn quyển Đại Vân kinh ca ngợi Võ hậu là Phật Di Lặc xuống trần, là chủ của thiên hạ." (wiki) Việc này đã tạo uy tín lớn, tạo đà cho Vũ Hậu lên ngôi hoàng đế. Vì thế hoàn toàn có lý khi bà ta lấy việc này đưa vào danh hiệu hoàng đế của mình. Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế xin dịch là Hoàng đế thần thánh tái sinh, người mẹ tôn kính của cổ Việt.
  19. Tôi nghĩ Kính Xuyên có thể là Kinh Dương Vương vì Dương là Giang = Xuyên, Kinh đọc thành Kính, hoặc giả Kính Xuyên là vị vua phương Bắc (Kính với nghĩa kính trọng, Xuyên hay Giang là hành Thuỷ, tượng của phương Bắc). Nếu vậy thì chuyện Mẫu Thoải con vua cha Bát Hải Động Đình trùng với truyền thuyết Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình. Hay Mẫu Thoải là mẹ Lạc Long Quân, là mẫu tổ của Bách Việt..
  20. Từ sự tích Mẫu Thoải có một số suy nghĩ: - Cha của Mẫu Thoải là Bát Hải Long Vương Động Đình. Đền thờ Bát Hải Long Vương còn gặp ở một số nơi ven biển miền Bắc nước ta như ở Bỉm Sơn: http://bimson.thanhhoa.gov.vn/bimson/Default.aspx?ctl=Article&aID=1654 - Mẫu Thoải có tên Động Đình Trung Công chúa Ngọc hồ Thần Nữ. Bát hay Bạt là số 8, chỉ phương Đông. Bát Hải là biển Đông. Đây là một bằng chứng cho thấy Động Đình trong truyền thuyết không hề là hồ Vân Mộng ở Hồ Nam mà là biển Đông. Bát Hải hay Bạt Hải có thể còn đọc chệch đi thành Bột Hải. Bột Hải theo địa danh ngày nay là vùng biển nằm ở phía Bắc Trung Quốc, giáp Triều Tiên. Nhưng trong truyền thuyết Việt có tướng Cao Lỗ (thời An Dương Vương) là người Bột Hải. Đền thờ Cao Lỗ ở Diễn Châu ghi rõ "Bột Hải triều Nam". Họ Cao của Trung Hoa theo Bách gia tính cũng có gốc từ Bột Hải. Rõ ràng Bột Hải đây là vùng Bát Hải biển Đông nước ta. Tên Mẫu Thoải là Mẫu Đệ Tam Thoải Cung. Thoải Cung tức là Thủy Cung. Mẫu Thoải hay là Mẫu Thủy, cũng ứng với tên "Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ Công Chúa".
  21. Ở Hồ Nam có một thứ không có là... trống đồng, nên không thể là đất gốc, cũng như kinh đô chính của Văn Lang. Về vị trí của Động Đình trong truyền thuyết: Thiên Nam ngữ lục kể về việc kết hôn của Kinh Dương Vương: Kinh Dương ngày ấy đi chơi Thuyền trăng buồm gió tếch vời Nam minh. Ở chốn Nam minh ấy Kinh Dương Vương gặp con gái Thần Long: Nàng rằng: thiếp con Động Đình Thần Long là hiệu, Nam minh là nhà. Nam minh được chú dẫn là «bể rộng ở phía Nam». Sách Trang Tử có câu «Bằng chi tỉ ư Nam minh đã, đoàn phù dạo nhi thường giả cửu vạn lý». Dịch nghĩa: Chim bằng khi rời biển Nam, vỗ cánh trong làn gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm tầng không. Như vậy Nam minh chính là biển Nam. Trong lịch sử Hoa Việt thì rõ ràng đây là vùng biển Đông ngày nay. Theo Thiên Nam ngữ lục như trên thì Nam minh là nơi gặp gỡ của Kinh Dương Vương và con gái Thần Long Động Đình. Hay Động Đình chính là biển Đông, là biển chứ không phải hồ Vân Mộng ở Hồ Nam. TNNL tả cảnh con gái Thần Long khi xuất hiện ở Nam minh: Nhơn nhơn có khí tự nhiên Ngỡ nhìn Tinh vệ lại lên chơi bời. Liên hệ với câu chuyện Tinh Vệ điền hải (Tinh Vệ lấp biển), có xuất xứ từ thiên Bắc Sơn Kinh thuộc sách Nam Hải Kinh, là một bộ cổ tịch thời Tiên Tần của Trung Quốc : «Núi Phát Cưu có nhiều cây dâu chá. Có loài chim đậu trên đó, trông như con quạ, đầu có hoa văn sặc sỡ, mỏ trắng, chân đỏ, tên là Tinh Vệ, tiếng kêu như gọi tên nó. Đó là người con gái trẻ của vua Viêm đế, tên là Nữ Oa. Nữ Oa đi chơi ở biển Đông, bị chết đuối không về được, hóa thành chim Tinh Vệ, thường ngậm gỗ đá ở núi Tây để lấp biển Đông». Thần thoại Trung Hoa thời Viêm Đế Thần Nông mà lại có biển Đông thì Viêm Đế phải ở chỗ nào? Chắc chắn Viêm Đế không thể ở tận Hoàng Hà. Thậm chí Viêm Đế cũng không ở vùng sông Dương Tử, để có dòng «Thần Nông Bắc» là người Hoa, «Thần Nông Nam» là người Việt như ý kiến của một số nhà nghiên cứu. Viêm Đế Thần Nông ở ngay trên vùng «đất thiêng Khương Thủy chính tông», giáp với biển Đông, tức là vùng Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Đây đúng là đất gốc tổ của người Hoa Việt từ thời thần thoại. Con của Kinh Dương Vương và Thần Long Động Đình là Lạc Long Quân, lấy nàng Âu Cơ sinh trăm trứng, nở trăm con trai: Làm tổ Bách Việt từ đây Đã gồm phúc thọ lại rày đa nam. Cũng như các sách sử khác ở đây khẳng định Lạc Long Quân và Âu Cơ là quốc tổ của chung cộng đồng Bách Việt. Diễn giải cách khác thì dòng Lạc Việt là suối nguồn của cả Bách Việt. Khi Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay, 50 người con theo cha xuống biển: Cha con xuống ở thủy cung Mở mang chế độ, quan phòng đông nam. Câu này cho thấy Lạc Long Quân đã mở mang đất nước theo hướng Đông Nam, chính là vùng thủy cung Nam minh, quê mẫu Thần Long Động Đình. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Lạc Long Quân đã mở nước theo vùng ven biển Đông lên phía Nam (phía Bắc ngày nay). Việc này trùng khớp với khu vực của văn hóa khảo cổ Hạ Long từ quanh vịnh Bắc Bộ sang Quảng Đông, Phúc Kiến, tới cả Philippin. Còn 50 người con theo mẹ lên núi : Mẹ đem lên ở Tản Viên Sửa sang giếng mối, giữ gìn qui mô. Sau đó con trai cả lên ngôi Hùng Vương ở Phong Châu: Thốt sự Hùng Vương là anh Thay cha lên trị cung xanh cửu trùng Làm đô ở đất Phong Châu Việt Trì thế khỏe muôn thu nước nhà. Tản Viên – Phong Châu là vùng Tây thổ trong truyền thuyết Hùng Vương, hay là núi Tây trong chuyện Tinh vệ lấp biển ở trên. Việt Trì có thể không phải là Ao Việt như vẫn dịch, mà Trì có nghĩa là «thế khỏe muôn thu». Việt Trì là nước Việt vững bền.
  22. Ngũ Lĩnh Sơn Vùng đất đầu tiên của nước Nam được Thiên Nam ngữ lục mô tả như sau: Cõi xa ngoài Ngũ Lĩnh Sơn Hiệu Xích Quỷ quốc, tuyệt ngàn Bắc Sơn. Dị bản chép: Cõi xa chốn Ngũ Lĩnh Sơn Nỗi ngoài Nam Hải, tuyệt ngàn Bắc phương. Những câu này làm người ta hiểu vùng đất đầu tiên của người Việt ở tận núi Ngũ Lĩnh ở Hồ Nam Trung Quốc, phía Bắc. Nhưng những tên Xích Quỷ quốc và Nam Hải cho thấy không hẳn như vậy vì vùng Hồ Nam làm gì có Nam Hải và tên nước ở phương xích đạo như vậy.Khi xem tiếp xuống phần Lộc Tục xưng Kinh Dương Vương và được Đế Minh phong làm vua Nam quốc thì vị trí của Ngũ Lĩnh Sơn càng phải xem xét lại: Đế Minh bèn lập Đế Nghi Làm vua Bắc quốc thay vì Thần Nông Lộc Tục phong làm ngôi công Mở mang quê ngoại, giữ dòng phiên bang Hiệu xưng là Kinh Dương Vương Đất vuông nghìn dặm, nước càng lâu xa Mặc làm thiên tử vệ nghi Lễ chầu thượng quốc, phẩm y chư hầu Cõi bờ nam bắc phân nhau Tây đông chí tự Ải Lào, Hải thanh Nam thời suốt đến Chiêm Thành Bắc qua Quế Lĩnh, chân thành Bắc Man Kinh Dương đến Ngũ Lĩnh Sơn Xưa lên ngôi báu, được yên lòng người. Như vậy vùng Ngũ Lĩnh Sơn này nằm ở trong phạm vi lãnh thổ nước Nam của Kinh Dương Vương và ở phía Nam chứ không phải Bắc. Đặc biệt vị trí lãnh thổ nước Nam này được xác định:- Phía Tây là Ải Lào. Thường ta hiểu Ai Lao là Lào ngày nay. Nay có thể thấy Ai tức là Ải, hay vùng đất. Ải Lào là vùng đất phía Tây của nước ta. - Phía Đông là Hải Thanh. Rõ ràng Hải Thanh là biển Đông. Thanh là màu của phương Đông. - Phía Nam đến Chiêm Thành, tương ứng với nước Hồ Tôn trong Đại Việt sử ký. - Phía Bắc tới Quế Lĩnh, chắc là Quế Lâm, ở bắc Quảng Tây, giáp Quí Châu. Thông tin về cương vực quốc gia này một lần nữa khẳng định những gì ghi trong Đại Việt sử ký cho nước Văn Lang: «đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến Động Đình, nam giáp Hồ Tôn». Tuy nước Văn Lang như vậy có phần rộng hơn về phía Bắc. Có thể thấy Ngũ Lĩnh Sơn của Kinh Dương Vương như vậy không phải là ở Hồ Nam mà chính là phần đất trung tâm của người Việt ở Bắc Việt, Quảng Tây. «Ngàn Bắc Sơn» hay «ngàn Bắc phương» của nước Xích Quỷ thực ra là ở phương Nam, chính là đất Nam Giao. Tức là phương Nam Bắc có thể đã bị hoán chuyển, mới làm thông tin địa lý lịch sử trở nên lẫn lộn như vậy.
  23. Từ "Kim Luân" có lẽ lấy từ Phật giáo. Phật giáo thời Võ Tắc Thiên rất thịnh. Trích kinh Phật (nguồn http://www.tangthuphathoc.net/suphatgiao/01-lichsupgando-2.3.htm): Có thể Võ Hậu lấy tên Kim Luân với nghĩa dùng chính trị mà thu phục thiên hạ.Luân còn có thể là Luân hồi. Kim Luân Phật liệu có phải là vị phật kiểm soát luân hồi trong đạo Phật?
  24. Trong Thiên Nam ngữ lục, sau khởi nghĩa Bà Triệu có Đỗ Viện được nhà Tấn phong làm thái thú Giao Chỉ. Trong phần tâu bày của Đỗ Viện lên vua Tấn về sự "hà ngược" ở Giao Chỉ có câu: Cho nên con chẳng có cha Lang bồn lẩn lút người ta dày vò Câu trên được giải nghĩa là dân phải bôn ba trốn tránh ở nơi hẻo lánh và bị khổ nhục.Như vậy ở thế kỷ 17 từ "lang bồn" vẫn dùng với nghĩa như "lang bang". Đây là một bằng chứng cho thấy Bang có thể là Bôn là tên của Lưu Bang và Lý Bôn.
  25. Trích Sử thuyết họ Hùng: Trích Lãn Miên: Phần bắt đầu của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng như trên trùng khớp với khởi nghĩa Khăn Vàng khi thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa "cứu dân độ thế", cứu đói cho dân. Có thể cũng vì vậy mà khi Bà Trưng khởi nghĩa người dân ở khắp nơi mới hưởng ứng sâu rộng như vậy. Nghĩ xa hơn có thể chính Mế Lành (Man Thiện) là Bà Trưng thì hợp lý hơn vì Mế Lành nhờ cứu đói nên mới có uy tín trong dân mà có điều kiện khởi nghĩa. Phần cuối của cuộc khởi nghĩa theo chính sử Việt là Hai Bà nhảy xuống sông tự tử. Nhưng trong Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) thì kết cục này có khác. Hai Bà không chết trận mà giảng hòa với Mã Viện, rồi bị nhiễm bệnh chết: Chị em nhiễm tật yên hà Nửa đêm bỏ đất ruổi xa lên trời Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là sự "phóng tác" của Thiên Nam ngữ lục, nhưng nay nếu so với khởi nghĩa Hoàng Cân thì có thể thấy đây là một tư liệu chính xác hơn. Kết cục khởi nghĩa Hai Bà hoàn toàn trùng với kết cục của khởi nghĩa Khăn Vàng khi thủ lãnh Trương Giác đột ngột qua đời làm quân khởi nghĩa tan rã.