-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Tin này liên quan đến Hoài Châu và khả năng các anh chị em ở nước ngoài gửi tiền cho Quĩ Từ Thiện. Thứ Sáu, 16/01/2009, 08:29 (GMT+7) Nhập khẩu ngoại tệ cũng phải nộp thuế Nguồn Tuổi Trẻ Online. TT(TP.HCM) - Ngày 15-1, nhiều ngân hàng (NH) cho biết hải quan đã buộc phải đóng thuế giá trị gia tăng 10% cho số ngoại tệ tiền mặt được nhập khẩu để trả kiều hối cuối năm. Khi các NH này khiếu nại thì hải quan nói làm theo thông tư 131 ngày 26-12-2008 của Bộ Tài chính và yêu cầu các NH ký giấy cam kết phải nộp thuế trong 30 ngày. NH Đông Á nhập khẩu 20 triệu USD phải nộp thuế đến… 3,5 tỉ đồng. Theo các NH, thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu, thu trên hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã sử dụng. Trong khi đó, ngoại tệ là tiền tệ, không phải là hàng hóa dịch vụ phục vụ tiêu dùng. Trước đây, NH vẫn nhập khẩu ngoại tệ tiền mặt mà không phải nộp thuế. Việc thu thuế nếu được duy trì sẽ buộc các NH phải tăng phí chi trả, ảnh hưởng đến nguồn thu kiều hối. A. HỒNG
-
Cái gì cũng nguồn gốc từ Trung Quốc? Làm quái gì có văn hóa Trung Quốc ảnh hưởng đến Việt Nam. Mà chỉ có văn hóa Lạc Việt ở nam Dương Tử bị Hán hóa lâu ngày thành của Trung Quốc thôi. Tôi chứng minh điều này ngay bây giờ: Đông Hải chính là địa danh phía Đông của nước Văn Lang xưa: Bắc giáp động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây Giáp Ba Thục và Đông Giáp Đông Hải.Những chuyện thần tiên Việt còn lại ở Nam dương Tử khiến cho thi nhân Lý Bạch còn phải mê mẩn cảm xúc mà làm thơ ca ngơi trong bài: Mộng Du Thiên Mụ ngâm lưu biệt. Vài lời mạn đàm.
-
Gió mưa là chuyện của trời. Nhưng thấy Tầm Nhìn Mới than quá làm Thiên Sứ cũng ái ngại. Một chầu nhậu ở bia Big men, Tầm Nhìn Mới muốn gì Thiên Sứ sẽ chiều :lol: :P :( . Một đợt nắng ấm trên toàn cõi Việt Nam vào dịp Tết nhá: 2 ly bia và đồ nhắm. Có thể cái này không cần bia Thiên Sứ cũng duyệt - vì mấy hôm nay sổ mũi, ngầy ngật. Bực mình quá. Nắng ấm kéo dài nguyên tháng Giêng nha; hay có mưa phùn rải rác vài nơi? Cũng Ok luôn, nhưng Tầm Nhìn Mới phải là khổ chủ chính trong trận Offline dịp Tết này. Rẻ rồi. Tùy theo mức độ đòi hỏi mà bia nhiều hay ít. Cái này rất "pha học" đấy mà! Hì! Thiên Sứ bốc phét quá!
-
(*) Phục Hy và Nữ Oa giữa các chòm sao tranh đời Đường Tk 7 -8 So sanh với tranh Phục Hy và Nữ Oa ở miền Nam Dương tử - từ 3000 năm BC
-
Hồ Gươm - giữa cái không tưởng và hiện thực 16/01/2009 13:29 (GMT + 7) tuanvietnam.net Ngày 8/1/2009 – TP Hà Nội trưng bày 9 phương án dự thi (vòng 2) ý tưởng quy hoạch lại Hồ Guơm và vùng phụ cận. Trông đợi đã lâu, nay bữa tiệc thịnh soạn về tương lai Hồ Guơm đã bày ra, bà con ta sẽ được thưởng ngoạn những gì? Tuần Việt Nam xin giới thiệu quan điểm đánh giá của một kiến trúc sư về 9 phương án này, để giúp bạn đọc tham khảo. Chín người mười ý mà vẫn có những điểm chung “Chín người mười ý“, tuy vậy ấn tượng đầu tiên khi chiêm ngưõng 9 phương án thì lại thấy có chung một ý tưởng: không gian Hồ Gươm sẽ mở rộng hơn, nhiều cây xanh hơn, nhiều khoảng trống cho sinh hoạt công cộng hơn, các công trình ven hồ được gọt giũa trở nên ngăn nắp, có trật tự hơn…. Tổng hợp ngần ấy thứ lại thì sẽ là khung cảnh đẹp hơn. Công bằng mà nói dù phương án nào được lựa chọn cũng sẽ cải thiện đáng kể Hồ Gươm hiện tại – nơi mà các hoạt động làm cho nó xấu đi không ngừng nghỉ từng ngày, từng giờ. Có những dự án to lớn, ồn ào, đập vào mắt nhiều người, nhưng có không ít những việc làm nho nhỏ, âm thầm vẫn đang "từ tốn" diễn ra, gặm nhấm đất đai, bào mòn cảnh quan quanh hồ mà chẳng thể liệt kê ra hết được. Chính vì vậy, cuộc thi được tổ chức không chỉ thoả cái khát vọng của giới kiến trúc mà còn đáp ứng trông đợi của những người yêu Hà Nội, lo lắng cho tương lai Hồ Gươm. Mô hình phương án “Điểm tựa trường tồn” của VIAP Tham gia cuộc thi có các đơn vị ghi danh từ nhiều quốc gia: Đức, Ý, Nhật, Pháp, tây Ban Nha…Nhưng lại có chung một điểm nữa là phươngg án nào cũng am hiểu tường tận những vị trí có giá trị cần bảo tồn hay những khiếm khuyết cần điều chỉnh, khiến người xem có cảm giác "tây" tìm hiểu HN kỹ hơn cả ta. Điểm chung của các phương án là tập trung giải quyết không gian tương lai của lô đất mà EVN đang quản lý sử dụng – có lẽ đây chính là nơi mà các tác giả cố gắng đưa ra những giải pháp khả thi nhất, sao cho một ngày kia, nơi đây sẽ được xây dựng theo cái hình hài mà tác giả đề xuất. Cái ngày đẹp trời ấy sẽ đem lại niềm vui cho nngười chủ quản lô đất lẫn người vẽ nên cái tương lai của nó. Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ trước, Hà Nội có phong trào “Bảo tồn phố cổ” khá sôi nổi, lôi cuốn nhiều giới trong xã hội - giống như ta đang quan tâm về quy hoạch Hồ Gươm bây giờ. Không kể các đề xuất của ta, có đến hơn chục tài liệu từ các nước như Canada, Hà Lan, Thụy Điển, Úc …nghiên cứu rất công phu. Tuy vậy, chẳng có giải pháp nào được thực hiện, nhiều người đã quên cái phong trào ấy. Cái đọng lại là cách phân tích SWOT từ bản báo cáo của Úc: đó là từ viết tắt tiếng Anh của chữ Mạnh - Yếu - Cơ hội - Nguy cơ (Strengths, Weaknesses, Opportunities and Threats). Giờ đây, cái cụm từ “cơ hội và thách thức“ được sử dụng rộng rãi. Chúng tôi vận dụng “SWOT” vào việc bầy tỏ cảm xúc về các ý tưởng quy hoạch khu vực Hồ Gươm. Mạnh nhất về tạo không gian rộng lớn là phương án ”Ngời sáng Bảo long châu” của CDCC – thật táo bạo đến kinh ngạc. Toàn bộ phía đông Hồ Gươm sẽ san phẳng công trình xấu đẹp cũ mới. Mặt đất chỉ còn vườn hoa quảng trường rộng thẳng cánh cò bay. Ở phía tây đắp lên một gò núi, cao hơn cả tháp Báo Thiên trên nền đất vốn có mấy công trình tranh cãi cũng san phẳng nốt. Người Pháp vốn nổi tiếng là hào hoa, lãng mạn, dám chôn cả bảo tàng Louvre xuống đất thì cũng chỉ xứng làm "em" của cái phương án này. Diện tích ngầm hóa lớn gấp cả chục lần cái Louvre "quê mùa" ấy. Cuộc cách mạng không gian “long trời lở đất “ này sẽ lật trang để Hồ Gươm bước sang một kỷ nguyên mới, lấy mốc 0 làm vạch xuất phát, đi tới tương lai bằng công nghệ xây ngầm. Mạnh nhì về mặt này là “Điểm tựa trường tồn“ của VIAP, thay vì chôn mấy tòa to, họ dọn dẹp thu nhỏ lại, chôn ngầm phố Tràng Tiền là chính. Xếp thứ ba là của IUID vì đắn đo rụt rè, họ chỉ chôn ngầm mấy đoạn đường, nhằm đảm bảo tính thực tiễn, nên chỗ EVN vẫn để nổi lên mấy khối cao tầng – chính vì vậy mà chất lãng mạn kém đi rất nhiều. Điểm quan trọng là mở rộng không gian ven hồ thì phương án này không đạt tới. Mặt bằng và phối cảnh của "NQH" Mạnh nhất về tạo hình ảnh quen mắt là của “Nikken Sekkei”: mái ngói đỏ tươi, các dãy nhà nối nhau thành hàng phố kéo dài như kiểu kiến trúc kiểu Pháp xưa – thật ưng mắt nhưng nó mà xây lên thì dầy đặc lắm, ấy là chưa kể còn nhiều không gian chìm nữa. Có lẽ phương án này đạt cả thêm cả chỉ tiêu mạnh nhất về diện tích sàn xây dựng. Khéo léo vẽ mấy tòa có mái trồng cỏ màu xanh thay cho dãy phố có tòa nhà hàm cá mập và trụ sở hội kiếm trúc sư VN – nơi mà có đến cả trăm nữa HN đụng vào còn khó. Nếu tính thêm mật độ đặc thì kể đến hàng thứ hai là phương án của “Archetype”. Nó kém hơn vì không đạt được cái sự ưa nhìn: thay cho dãy nhà ngói đỏ thì chỉ thấy khối nhà mầu trắng ken đều, khối thẳng khối vát hai bên lối đi, đầu hồi chĩa ra Hồ Gươm. Xếp thứ ba độ dầy đặc là phương án của NQH. Có lẽ những phương án mạnh về tăng mật độ xây dựng thì dẫu có viết, vẽ hay kỹ xảo đồ họa có tài tình đến mấy vẫn khó bề thuyết phục. Bằng cách nào, đến lúc nào: hiện thực sẽ giống như tranh? Mạnh nhất về tính thực tiễn là phương án của ”MQL PAU and Partners”. "Tấm gương Thiên đường” phản chiếu cái hiện thực của trần gian: muốn có cái thoáng đãng ven hồ thì phải đánh đổi bằng một bức tường bê tông kính lừng lững nằm sâu phía sau. Ôi cái sự thật phũ phàng - nhưng nó chính là sự thật. Ngay lúc này, ngay tại đây đã có hai khối cao tầng lù lù ở đấy rồi, có ai dám chắc là đã cái cuối cùng chưa? Chi bằng phơi các hiện thực, tuy không mong muốn, nhưng là tất yếu thị trường ra mà bàn cho thấu, đấu cho rõ, để có phương thức quản lý chủ động, sòng phẳng. Chẳng hơn là lờ nó đi, rồi lại lúng túng khi phải đối mặt với muôn nẻo vòng vèo các dự án BĐS xưa nay. Mạnh nhất về sự thẳng thắn là phương án của “1+1>2” & Acdemia Italia đề xuất. Xoáy vào cái lô đất EVN để giải quyết trực diện. Cho dù đường nét chủ đạo của phương án là uốn lượn nhưng ý tưởng thì rành mạch mà chẳng hề quanh co. Ơi những thảm cỏ cây xanh tranh vẽ/ Hỡi những quảng trường thoáng đãng mô hình/ Hãy tới đây, ghé vào tai ta mà thì thầm điều bí mật / Bằng cách nào, đến lúc nào: hiện thực sẽ giống như tranh ??? Yếu nhất về tính tổng thể của “1+1>2” & Acdemia Italia là những khu vực ngoài EVN hầu như chẳng cải thiện được mấy. Ngay cả trục mở thẳng từ Nhà thờ Lớn ra hồ thì vẫn giữ lại một khối đặc án ngữ. Vị trí bãi xe ngầm thì thật không ổn chút nào. Yếu đều về mọi mặt của các phương án là mối quan hệ giao thông toàn TP. Tất cả các đề xuất bãi đỗ xe ngầm trong khu vực này là tiềm ẩn nguy cơ tắc nghẽn giao thông từ ngoài vào, từ trong ra, cũng như quẩn quanh ngay trong khu vực. Vì rõ ràng là các nơi đỗ xe khối lượng lớn như vậy sẽ là cực hút xe cộ tập trung sinh ra xung đột, rối loạn… Rất có thể do thiếu vắng sự tham gia của chuyên gia giao thông vào các phương án. Yếu không đều tuỳ theo mức độ ngầm hoá của từng dự án. Vì các công trình ngầm cần kết nối tổng thể các công trình ngầm toàn TP. Ngầm tại khu vực này sẽ đấu nối với mạng lưới giao thông ngầm ra sao, tiến độ đồng thời hay lệch pha nhau. Thoát nước cho công trình ngầm tại đây sẽ là độc lập hay sẽ tích hợp với hệ thống nào, thoát dẫn đi đâu? Cơ hội của tất cả các phương án là nơi cho thấy những sản phẩm sáng tạo tối đa. Nguy cơ là thực tiễn sẽ phủ nhận những phương án có tính sáng tạo nhất. Những phương án quá lãng mạn thì tất nhiên khó trở thành hiện thực. Còn phương án có tính hiện thực thì sẽ đối mặt với vô số câu hỏi của số đông cư dân Thủ đô vốn thích hào hoa ưa lãng mạn đã được hun đúc lâu đời. Mặt bằng phương án "Ngời sáng Bảo long châu” của CDCC “Và cây đời mãi mãi xanh tươi” Ấn tượng rõ nét nhất của phương án do VIAP nghiên cứu là tỉ mỉ, giải quyết chi li, lập luận phân tích chặt chẽ. Có thể nói đây là tài liệu chuẩn mực. Từ phương pháp tiếp cận, đến những đề xuất, trình bầy thể hiện cho thấy nhiều điều đáng học tập. Giá như cả khu vực của một chủ sở hữu duy nhất – có một nguồn lực đầu tư đồng bộ và thực hiện một mục tiêu, giới hạn trong một khoảng thời gian cụ thể thì rất có thể đây là sự lựa chọn đúng đắn. Bối cảnh không gian đô thị giờ đã khác xưa: đa sở hữu, đa mục tiêu, những mối quan hệ đa tầng bậc - biến thái khôn lường. Trong một công trình cụ thể, KTS còn phải thích ứng những yêu cầu đổi thay thất thường, thì không gian tương lai của tổ hợp các vấn đề phức tạp kia mà mô tả chi li tỷ mỷ - duy mỹ quá e là đang sa đà vào cái sự không tưởng hoá hiện thực. Rất có thể trong tương lai những tài liệu nghiên cứu quy hoạch cần tiến hoá theo kịp xã hội: nó chỉ nên tiên lượng xu thế, đề xuất có tính định hướng, kết hợp những kế sách điều chỉnh chủ động. Vì cho dù nghiên cứu kĩ lưỡng bao nhiêu, lý lẽ sáng suốt đến mấy cũng vô nghĩa nếu không theo kịp những biến động của hiện thực khách quan. ”Mọi thuyết lý chỉ là mầu xám”, điểm tựa nào đây đủ chắc chắn để phát triển trường tồn? Đâu là hiện thực của cái không tưởng? Hiện thực nhất là khó có thể chọn một phương án như ý nếu chỉ gói gọn trong vùng nghiên cứu hơn 60 ha. Chỉ riêng mối quan hệ với giao thông tĩnh và động, ngầm và nổi của khu vực với TP, đã cần phải mở rộng ra gấp 10 lần. Hiện thực hơn cả là khoanh vùng nghiên cứu liên hệ: vùng này nằm lọt trong vành đai 1 của TP – tạm gọi là vành đai 0. Trong cái vành đai 0, cần thiết và có khả năng khai thác quỹ đất dự trữ 20-30 ha để hoán đổi không gian xanh mở rộng quanh hồ. Mặt khác, giao thông tĩnh kết hợp với giếng thu nứơc ngầm cũng đặt tại vùng biên của vành đai này mới đảm bảo tính khả thi - độ bền vững của không gian phát triển đúng nghĩa. Hiện thực thứ hai là sẽ chọn ra được phương án đoạt giải. Rất có thể giải nhất là phương án không tưởng nhất, vì nếu chọn phuơng án hiện thực thì tiếp theo là bắt đầu một cuộc tranh luận mới. Hiện thực thứ ba là trong khi chưa kịp làm gì, thì Đại lễ 1000 năm Thăng Long đã cận kề. Giá như cái chỗ đất rộng phía đông Hồ Gươm tạm thời dỡ bỏ mấy cái nhà cũ đi, TP mượn tạm ít hôm làm cái quảng trường dã chiến mà tổ chức Đại lễ thì quý biết mấy. KTS. Trần Huy Ánh
-
Thân mến chào anh Dịch Thiên Y. Diễn đàn Lý học Đông phương rất hân hạnh được những nhà nghiên cứu, ứng dụng lý học Đông phương tham gia đóng góp chia sẻ học thuật hoặc tư vấn cho mọi người nơi đây. Mong được gặp lại với tinh thần học thuật và nhân ái.
-
Nếu vậy trong Năm tới vợ chồng còn phải vất vả. Nên sanh con út Nhâm Thìn.
-
Tôi thì không phải là người nông thôn. Về bản chất, tôi cũng chưa chân lấm tay bùn bao giờ - ngoại trừ hoàn cảnh bất đắc dĩ. Nhưng tôi có thể cam đoan rằng: Nếu nền văn hóa nông thôn cổ xưa mà được phố biến ở văn minh đô thị bây giờ thì chắc chắn không có những hành động bẻ hoa và phá hoại cảnh quan như thế. Cơ sở nào để tôi nhận xét như vậy? Bây giờ chúng ta cứ xem lại những cấu chuyện xưa như: Tắt đèn, Bước đường cùng, chúng ta sẽ thấy mặc dù trong sự khốn cùng, người nông dân cũng không xâm phạm đến quyền lợi của kẻ khác. Họ cùng cực, bán chó, bán con chứ không ăn cắp. Lệ làng ngày trước rất nghiêm, kẻ nào xâm phạm tài sản công cộng, dù chỉ là một viên gạch sẽ bị trừng trị rất nặng. Thử cậy một viên gạch ở trên đường làng về lót ông Táo xem. Nếu bị bắt vạ thì mệt nghỉ. Bởi vậy, chúng ta thấy các lễ hội ở nông thôn có bao giờ ...vớ vẩn như vậy không? Hoàn toàn không. Điều đó chỉ xảy ra ở ....Hà "Lội". Và không chỉ một lần (*). Các nhà khoa học không thể lý giải là do giáo dục. Vì chính những nhà khoa học ấy lại là những nhà giáo dục. Nếu lý giải là do giáo dục thì chính họ phải có trách nhiệm. Có thể đây là một trong những nguyên nhân có tính tiềm thức khiến họ dễ đi tìm một nguyên nhân khác. Gần đây ở Hanoi có câu thành ngữ hiện đại dành cho những người đi xe ẩu "Đi xe cứ như trên đường làng nhà nó". Có thể những người nông dân chưa hiểu biết về nhưng tri thức hiện đại về luật đi đường ở thành thị. Nhưng chắc chắn văn hóa nông thôn không phải là nguyên nhân để phá nát chợ hoa như vậy. Vậy thì do đâu? Có phải đúng như tác giả bài báo Khương Hồng Minh - Báo Công An Thành phố Hồ Chí Minh - kết luận không? Kết luận như vậy - nếu chẳng may đúng - thì nó cũng có vẻ chung chung quá! Giở tất cả các sách giáo khoa ra thì thấy cuốn sách nào cũng ca ngợi sự tốt đẹp và khuyên con người hướng tới sự tốt đẹp cả. Nếu thực sự là do giáo dục thì nó nằm ở khâu nào? Phải chăng có một sự phi lý tiềm ẩn nằm trong hệ thống giáo dục đã dẫn đến trong tiềm thức con người sự phá phách này? Về vấn đề này, tôi xin kể một câu chuyện đối thoại vài năm trước giữa tôi và Wildlavender. Lúc ấy vị tân Bộ Trưởng giáo dục mới nhậm chức. Báo chí và dư luận xã hội hồ hởi về khả năng có một cuộc cái cách giáo dục hoàn hảo sẽ bắt đầu. Wildlavender cũng nói với tôi điều ấy. Tôi đã trả lời Wildlavender - Đại ý: - Còn anh và còn em đây. Anh tin rằng sẽ không thể có một cuộc cải cách giáo dục hoàn hảo, nếu như người ta vẫn dậy cho học sinh rằng: Thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố. Với tôi thì đây chính là tính phi logic tiềm ẩn nằm trong hệ thống giáo dục ảnh hưởng trong tiềm thức con người. Vấn đề không chỉ cụ thể là Thời Hùng Vương cội nguồn của dân tộc Việt từ 5000 năm văn hiến xuống còn vài trăm năm với những người dân ở trần đóng khố - mà bản chất của nó là sự phi lý gần như trắng trợn, nếu không phải là dốt nát. Mà còn là hệ quả của nó với những gía trị văn hóa truyền thống liên quan cũng bị đảo lộn, bởi những tư duy không mấy sâu sắc. Có thể đưa ra đây một vài cái làm thí dụ: Truyện Thạch Sanh đầy nhân bản thì bị coi là tư tưởng yếm thế. Truyện Tấm Cám với cái thiện thắng cái ác và cái ác nhất định sẽ phải trả giá thì chính cái thiện bị coi là dã man. Chuyện tình Trương Chi nổi tiếng của văn hóa truyền thống thì thành sự dối lừa của Mỵ Nương..vv... Bởi vậy, chính những tính chất phi logic này đã khiến những giá trị tốt đẹp trong giáo dục trở nên không có nội dung, khi nó không có sự kế thừa từ những giá trị truyền thống. Nhận xét của tôi với Wildlavender đến nay vẫn đúng. Ít nhất với kết luận của nhà báo Khương Hồng Minh làm chứng cho điều đó. --------------- * Chú thích: Lần trước là Hội Hoa Anh Đào cũng xôm tụ như vậy. Híc!
-
Chú nhớ cái này chú trả lời rồi mà! Sinh Năm Kỷ Sửu, hoặc Canh Dần đều được, Nhưng Kỷ Sửu an toàn hơn vì Thiên Can không khắc cha.
-
Bài viết của ông Nguyễn Mạnh Lợi - Tiếp theo. III. Vấn đề con người thời Hùng Vương Nghiên cứu con người thời Hùng Vương liên quan tới niên đại Hùng Vương. Song đến nay dù khung niên đại thời kỳ này có còn phải tranh luận thêm thì điều chắc chắn có thể nói được là một giai đoạn chủ yếu của nó đã tương ứng với thời đại đồ đồng. Căn cứ vào những tài liệu cổ nhân học được phát hiện, chúng tôi đã có dịp trình bày một số ý kiến liên quan đến vấn đề này trong những báo cáo lần trước (1). Tựu trung những ý chính nêu lên là như sau: (1) Nguyễn Đình Khoa: Nhân học với vần đề thời đại Hùng Vương, trong Hùng Vương dựng nước, tập I. Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1970, (tr. 156 – 161). Nguyễn Đình Khoa: Vấn đề nguồn gốc người Việt – Khảo cổ học số 3 – 4, tháng 12 -1969. Nguyễn Đình Khoa và Nguyễn Lân Cường: Những người cổ ở Việt Nam – Khảo cổ học số 11 – 12, tháng 12 – 1971. 1. Vấn đề con người thời Hùng Vương và vấn đề nguồn gốc người Việt là hai vấn đề gắn vào nhau. Vấn đề thứ nhất bao trùm vấn đề thứ hai vì cư dân thời Hùng Vương không chỉ là tổ tiên riêng của người Việt mà còn là tổ tiên của nhiều tộc anh em miền núi khác nữa. Cho nên giải quyết vấn đề thứ nhất (cư dân Hùng Vương) là đã giải đáp được phần cơ bản của vấn đề thứ hai (nguồn gốc người Việt), và ngược lại giải quyết vấn đề thứ hai (nguồn gốc người Việt) là góp phần quan trọng để giải đáp vấn đề thứ nhất (cư dân Hùng Vương). 2. Tài liệu cổ nhân học cho hay rằng suốt thời đá mới đã cộng cư trên lãnh thổ Việt Nam nhiều loại hình nhân chủng, trong đó chủ yếu là loại hình Ô-xtơ-ra-lô Mê-la-nê-diêng và Anh-đô-nê-diêng. Nhưng sau đó loại hình Ô-xtơ-ra-lô Mê-la-nê-diêng đã mất dần đi trên bán đảo Đông Dương, cho nên đối với vấn đề đang đặt ra – con người thời Hùng Vương và nguồn gốc người Việt – thì loại hình Anh-đô-nê-diêng có vai trò quan trọng đặc biệt. 3. Trong những người Mông-gô-lô-ít phương Nam, ngoài loại hình Anh-đô-nê-diêng còn có loại hình Nam Á. Loại hình này là thành phần chủ yếu của nhiều cư dân ở Đông Dương và Đông Nam châu Á hiện nay, bao gồm cả dân tộc Việt. Căn cứ vào tài liệu cổ nhân loại thì có khả năng cho rằng loại hình này đã xuất hiện trên đất Việt Nam (chủ yếu là miền Bắc Việt Nam) ít nhất từ thời đại đồng thau rồi tiếp tục phát triển từ đó đến nay và phân hóa thành nhiều loại hình địa phương. 4. Từ những kết luận trên mà thấy rằng địa bàn mà người Việt sống tập trung nhất hiện nay ở miền Bắc Việt Nam cũng là nơi mà tổ tiên ta đã từng sống, lao động và chiến đấu cách đây 3000 – 4000 năm lịch sử. Vậy thì để giải quyết vấn đề đặt ra – con người thời Hùng Vương và nguồn gốc người Việt – còn vấn đề gì tồn tại? Trước hết phải nói rằng nguồn tài liệu nhân học (bao gồm cả cổ nhân học) dựa vào đó để rút ra những kết luận trên đây còn ít, do đó cần được tiếp tục bổ sung cho đầy đủ hơn.Ngoài ra còn những tồn tại khác, cũng rất cơ bản. Ví như: loại hình Nam Á, một thành phần quan trọng trong cư dân thời Hùng Vương, một nhân tố chủ yếu giải đáp vấn đề nguồn gốc người Việt, nếu xuất hiện vào thời đại đồ đồng, đúng như kết luận nêu ở trên, thì quá trình hình thành loại hình này ra sao? Chúng vốn có nguồn gốc bản địa từ những thời kỳ sớm hơn nữa trên dải đất này hay đã từ một vùng nào chuyển tới: Đối với loại hình Anh-đô-nê-diêng chúng quan hệ như thế nào? Tài liệu nghiên cứu về các nhóm người Xá, đem đối chiếu với tài liệu người Khả ở Lào và tài liệu về các tộc người vùng núi tỉnh Quảng Bình đã đưa lại những tia sáng góp phần giải đáp các vấn đề này. Thật vậy, sơ đồ chúng tôi phác họa ở phần trên của bài viết (phần :P , có thể khái quát như sau: “loại hình Nam Á là kết quả một quá trình chuyển biến từ các loại hình Anh-đô-nê-diêng”. Sự khái quát này cũng có thể biểu diễn bằng một sơ đồ: Trong sơ đồ nàỳ, khâu trung gian chính là những loại hình Anh-đô-nê-diêng (kém điển hình) hoặc những loại hình Nam Á (kém điển hình) với tất cả các dạng thể hiện chúng. Những tộc người vùng núi tỉnh Quảng Bình, các tộc Khả ở Lào hay Xá Tây Bắc đều có thể coi là hình ảnh cụ thể của các dạng này. Vậy là nhóm loại hình Nam Á ở nhiều vùng tại khu vực Bắc Đông Dương trong đó có Việt Nam đã được hình thành trên cơ sở những loại hình Anh-đô-nê-diêng bản địa. Quá trình này đã diễn ra từ thời đại đá mới và dần dần rõ nét vào thời đại đồ đồng, khi mà những nét tiêu biểu cho người Nam Á ở khu vực này đã được hình thành về cơ bản.Tài liệu cổ nhân học phát hiện ở miền Bắc Việt Nam là một bằng chứng cho những điều vừa trình bày (tài liệu đã dẫn: Những người cổ ở Việt Nam). Một khu vực thứ hai mà tại đó quá trình diễn biến của nhóm loại hình Nam Á cũng xảy ra mãnh liệt như ở Bắc Đông Dương và cả miền Nam Trung Quốc, vùng tiếp cận với những chủng tộc Mông-gô-lô-ít ở phương Bắc. Nhà học giả Liên Xô là Trê-bốc-xa-rốp khi đề cập tới địa vực của người Nam Á đã cho rằng “trung tâm hình thành của nhóm loại hình này là miền Nam Trung Quốc, rồi từ đó mới phân bố ra các vùng khác ở vùng Đông Nam Á” (1947, tr.61; 1951, tr.343) (1). Nhưng theo chúng tôi thì trung tâm đó không chỏ bó hẹp ở Nam Trung Quốc mà rộng hơn, bao gồm cả Bắc Đông Dương, trong đó Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Mặc khác không phải các loại hình Nam Á ở những vùng khác của khu vực Đông Nam Á đều là do kết quả một sự phát tán đơn thuần từ các trung tâm này, mà thực tế cho hay rằng quá trình diễn biến từ những loại hình Anh-đô-nê-diêng trở thành Nam Á là một hiện tượng đã và đang xảy ra phổ biến ở khắp khu vực. Đó chính là nội dung cụ thể của hiện tượng Mông-gô-lô-ít hóa ngày một đậm nét các cư dân ở Đông Nam châu Á. Nguyên nhân và động lựa của quá trình này là một vấn đề phức tạp mà trong phạm vi một bài viết chúng tôi chưa có đủ điều kiện trình bày. Vậy là sau khi hình thành, từ một trung tâm tương đối rộng lớn, loại hình Nam Á cổ - tổ tiên của những người Nam Á hiện nay đã tác động rộng rãi đến các vùng địa vực xung quanh, không những tới phương nam, tới các vùng cực Nam của Đông Nam châu Á, mà còn sang đông tới các hòn đảo như Phi-luật-tân, Hải-nam, Đài-loan hoặc xa hơn nữa và lên bắc đến tận Triều Tiên, Nhật Bản v.v… Tài liệu nghiên cứu của nhiều nhà nhân học Liên Xô đã từng xác minh sự có mặt của thành phần Nam Á tại các vùng này. Ví như khi viết về thành phần nhân chủng người Triều Tiên và Nhật Bản, Ra-ghin-xki đã khẳng định có yếu tố Nam Á trong họ bên cạnh những thành phần nhân chủng khác (2).(1) Trê-bốc-xa-rốp N.N. Về vấn đề nguồn gốc người Trung Quốc – Dân tộc học Xô-viết, (tiếng Nga), số 1-1947, tr.30-70; Lê-nin M.G và Trê-bốc-xa-rốp: Sự phân bố cư dân ở vùng Đông Á và Đông Nam Á thời cổ đại, trong “Nguồn gốc loài người và sự phân bố cư dân thời cổ đại” – Tập Công trình của Viện Dân tộc học Liên-xô, (tiếng Nga), t.XVI, 1951, tr.325-354. (2) Ra-ghin-xki Ia-ra và Lê-nin M.G: Cơ sở Nhân học, Phần Nhân chủng học (bản tiếng Nga), Ma-xcơ-va, 1955, tr.377-378. Những điều vừa trình bày về quá trình hình thành loại hình Nam – Á đã làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề quan trọng trong việc tìm hiểu cư dân thời Hùng Vương. Trước hết những người Nam Á cổ xuất hiện vào thời đại đồ đồng ở miền Bắc Việt Nam đã hình thành trên cơ sở những loại hình Anh-đô-nê-diêng bản địa. Trong quá trình này đã xảy ra sự kết hợp tất yếu giữa họ với những người Mông-gô-lô-ít điển hình hơn, có thể ngay với một loại hình Nam Á đã hình thành từ trước đó. Vì vậy điều nói được tương đối chắc chắn là: những người Nam Á trong bộ phân cư dân thời đại Hùng Vương, tổ tiên trực tiếp của những người Nam Á hiện nay ở vùng này trong đó có người Việt, người Mường, có thể cả người Xá, người Táy v.v… đã hình thành ngay trên lãnh thổ Việt Nam chứ không phải từ một vùng nào khác chuyển tới. Tính chất bản địa của họ xác định muộn nhất là từ thời đại đồng, nghĩa là còn có thể sớm hơn khởi đầu, từ một giai đoạn nào đó trong thời đại đá mới. Thời điểm này phụ thuộc vào tác động của các động lực gây nên sự chuyển biến loại hình từ người Anh-đô-nê-diêng bản địa. Trong thành phần cư dân của các Vua Hùng, bên cạnh những người Nam Á, còn có người Anh-đô-nê-diêng. Theo cách phác họa trên thì họ có quan hệ thân tộc không xa lắm với nhau, vì đều bắt nguồn từ những loại hình Anh-đô-nê-diêng nguyên thủy hơn. Tuy nhiên quá trình hình thành các loại hình Nam Á không phải đã diễn ra cùng một lúc trên khắp một vùng địa vực rộng lớn, mà tùy nơi, tùy lúc khác nhau, với những tốc độ chuyển biến cũng không đồng đều. Vì vậy sự tương đồng hay khác biệt giữa những người Nam Á với nhau, giữa những người Anh-đô-nê-diêng với nhau cũng như sự phân hóa giữa hai nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng và Nam Á vừa mang tính chất thời gian (giai đoạn), vừa mang tính chất không gian (địa vực). Cho nên những loại hình Nam Á hay Anh-đô-nê-diêng ở Việt Nam có thể khác nhiều với những loại hình Nam Á hay Anh-đô-nê-diêng ở In-đô-nê-xi-a và gần hơn với những loại hình tương ứng ở Nam Trung Quốc, ở Lào. Riêng đối với các tộc Anh-đô-nê-diêng, do điều kiện sống cách biệt kéo dài, sự tiếp xúc và hỗn hợp với các tộc khác nhau không đồng đều nên tính chất về sự khác biệt giữa họ càng phứa tạp hơn giữa các vùng địa vực. Tại trung tâm địa vực hình thành người Nam Á – tức Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương, do quá trình Mông-gô-lô-ít hóa đã xảy ra mãnh liệt hơn các vùng khác, nên phần lớn những loại hình Anh-đô-nê-diêng thời cổ đã chuyển biến dần trở thành Nam Á. Những người Anh-đô-nê-diêng trong thành phần cư dân các vua Hùng cũng không ngoài định lệ này; quá trình hỗn hợp giữa họ với nhau và với người Nam Á trước đây dẫn tới một kết quả là ngày nay về phương diện chủng tộc họ đã tham gia như một bộ phận cấu thành của các tộc người Việt, người Mường, người Tày Thái, người Xá, v.v… Vì vậy hiện nay ở miến Bắc nước ta tuy không còn nhiều tộc người Anh-đô-nê-diêng như ở các vùng phía nam, song dòng máu của họ đã sẵn có trong những người Nam Á ở vùng này. Nhiều nhà nghiên cứu, khi bàn về Đông Nam Á đã thấy đó là một khu vực có những đặc thù về nhiều mặt: địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v… Qua đây thấy thêm: Đông Nam Á là một khu vực có tính cách thống nhất về mặt nhân chủng nữa. Giáp ranh Đông Nam Á thì Bắc Đông Dương và Nam Trung Quốc lại làm thành một khối, có nhiều nét điển hình, ít nhất về phương diện thành phần chủng tộc và lịch sử hình thành chủng tộc. Chính trên nhận thức ấy và trong khung cảnh ấy chúng ta đi sâu tìm hiểu thêm một bước về nguồn gốc người Việt trong gia đình các dân tộc Việt Nam. IV. Vấn đề nguồn gốc người Việt Như đã trình bày ở phần trên hai vấn đề “con người thời Hùng Vương” và vấn đề “nguồn gốc người Việt” liên quan với nhau và giải quyết vấn đề thứ nhất là góp phần giải quyết vấn đề thứ hai về cơ bản. Vì lẽ trong cư dân các Vua Hùng có tổ tiên sinh ra người Việt, một loại hình Nam Á cổ cũng đã được hình thành từ những người Anh-đô-nê-diêng bản địa. Điều cần thiết ở đây là có thêm những dẫn chứng làm sáng tỏ các vấn đề này với trường hợp cụ thể của người Việt đồng thời tiếp tục theo dõi sự chuyển biến của những dạng “Tiền Việt” này trong sự tác động với các tộc láng giềng để trở thành người Việt hiện nay. Theo những tài liệu lịch sử của Trung Quốc thì khắp miền nam Trung Quốc từ bờ nam sông Dương Tử cho tới đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam vào khoảng thiên niên kỷ thứ 4 – 3 trước Công nguyên, có những tộc người không phải Hán thường được gọi bằng những tên là Man, là Di, là Việt gồm chung vào “Bách Việt”. Về sau thì xuất hiện nhiều tộc Việt khác nhau như Điền Việt, Dương Việt, Đồng Việt, Mân Việt, Nam Việt, Lạc Việt v.v… Giáp giới với Bắc Bộ Việt Nam là Điền Việt ở Vân Nam, Nam Việt ở Quảng Đông, Lạc Việt ở Quảng Tây và Bắc Bộ Việt Nam. Dựa vào đó nhiều nhà nghiên cứu đã từng cho rằng người Lạc Việt chính là tổ tiên dân tộc Việt. Nếu điều đó đúng thì Lạc Việt phải là một bộ phận quan trọng của cư dân thời Hùng Vương và ngoài ra, bên cạnh Lạc Việt có thể còn các tộc khác nữa, như Tây Âu mà có tác giả coi là tổ tiên của người Cháng, người Tày, người Nùng, v.v… Hoặc giả Lạc Việt là bộ phận chủ yếu của cư dân thời Hùng Vương và như vậy thì Lạc Việt không chỉ là tổ tiên người Việt mà còn là tổ tiên của các tộc người khác nữa ở miền Bắc Việt Nam và có thể cả ở Nam Trung Quốc hiện nay. Dù sao thì đối với nguồn gốc người Việt, người Lạc Việt đã có một vị trí quan trọng đặc biệt. Vậy Lạc Việt là người như thế nào? Theo nội dung đã trình bày ở phần trên thì đó chính là những người Nam Á cổ, hoặc những người Anh-đô-nê-diêng đang trong quá trình chuyển biến trở thành Nam Á. Họ đã có mặt ở lãnh thổ Việt Nam ít nhất từ thời đại đồ đồng chứ không phải từ một khu vực nào ở Việt Nam và có thể cả ở Nam phần Trung Quốc mới chuyển tới từ khoảng thế kỷ 3 trước Công nguyên như một số tác giả chủ trương trước đây. Đối với các tộc Man hay Việt khác ở Nam phần Trung Quốc họ có mối quan hệ nhất định về nguồn gốc. Nói chung các tộc trong khối Bách Việt phần lớn đều là những loại hình Anh-đô-nê-diêng cổ dưới tác động của quá trình chuyển biến thành Nam Á. Suốt thời đá mới cho tới đồ đồng và sau này tại khu vực Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương khối cư dân không phải luôn luôn ở yên, mà từng lúc, từng nơi có những sự di động nhất định. Ví như các tộc ngôn ngữ Tày Thái đã từng có những lần thiên cư lớn từ Bắc xuống Nam từ những kỷ nguyên trước Công nguyên và kéo dài mãi về sau này (1). Ngoài ra còn có những cuộc thiên di của tổ tiên người Hán xuống miền Nam Trung Quốc và tới đầu nguồn các con sông lớn chảy vào Đông Dương. Kết quả của các cuộc thiên di lớn là gây nên những biến động trong khối cư dân bản địa và ảnh hưởng tới thành phần nhân chủng của họ. Sự hỗn hợp này làm cho thể lực phát triển, những bệnh tật do giao phối cận huyết sinh ra trong điều kiện sống cách ly hay biệt lệp (isolat) của các bộ lạc hay các cộng đồng nhỏ giảm bớt, mật độ dân cư tăng lên. Đó là những hiện tượng sinh học có ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển của xã hội, tới lịch sử các dân tộc. (1) Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn: Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tây – Nùng – Thái ở Việt Nam, Hà Nội, 1968, tr.15. Trong lịch sử của dân tộc Việt, kể từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên trở về sau còn có ngót 1000 năm Bắc thuộc. Đối với một số người nghiên cứu thì thời gian này đã có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành ra loại hình nhân chủng người Việt. Vì vậy mà một mặt cho người Việt và người Mường là cùng một nguồn gốc tổ tiên, mặt khác lại cho rằng Mường và Việt đã phân hóa về mặt thể chất do kết quả của dòng máu Bắc phương. Song tài liệu nghiên cứu người Việt, người Mường về mặt nhân chủng họa đã phủ nhận điều này. Theo chúng tôi thì “người Mường là một bộ phận Việt đã tách ra trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định nào đó và đã cấu thành bộ tộc riêng, song từ đó đến nay cả Mường lẫn Việt về cơ bản vẫn giữ được cơ cấu thể chất gốc của tổ tiên trực tiếp đã sinh ra mình trước khi phân chia” (2). Thực vậy, trong thành phần nhân chủng người Việt thì yếu tố cấu tạo chủ yếu hoàn toàn không phải là yếu tố phương Bắc mà là phương Nam (da ngăm đen); mắt rộng, ngắn; nếp mí góc giảm, mũi tương đối rộng; môi tương đối dày v.v…). Bảng dưới đây do phép so sánh, người Việt với các nhóm Anh-đô-nê-diêng và Nam Á khác: Bảng 6 Reduced: 92% of original size [ 623 x 464 ] - Click to view full image Chú thích: Các kích thước về cao mặt, hình thái bề cao mũi và chỉ số tương ứng đều được tác giả tính từ nasion, (giao điểm giữa đường khớp mũi – trán, chứ không phải từ sellion (gốc mũi) như đối với các nhóm khác. Theo bảng 6, ta thấy trong những người Anh-đô-nê-diêng và Nam Á, nhóm Việt có vị trí khá đặc biệt. Trên một số đặc điểm, họ có vị trí trung gian giữa các nhóm so sánh, đồng thời trên nhiều đặc điểm khác như kích thước phần hộp sọ, phần mặt, bề cao mũi, bề dày môi thì có trị số thiên về phía cực đại. Hiện tượng này nói lên tính chất về mối quan hệ của nhóm Việt với các nhóm láng giềng, đồng thời cho thấy những nét đặc thù của nhóm Việt là người có kích thước đầu và mặt vào loại cỡ lớn nhất nhì ở khu vực Đông nam châu Á. Tài liệu về nhóm Việt (Nàm Đàn) bổ sung cho nhóm Thanh Trì càng khẳng định nhận xét này. Bảng 7 và sơ đồ kèm theo minh họa cụ thể thêm những điều đã trình bày: Bảng 7: Hiệu số khác biệt giữa các đặc điểm mê-tric của nhóm Việt Thanh Trì với các nhóm khác. Reduced: 94% of original size [ 608 x 438 ] - Click to view full image Sơ đồ sự khác biệt các đặc điểm theo số lần Xích-ma б (1) (So sánh các nhóm với nhóm Việt – Thanh Trì làm gốc) Trong sơ đồ này không ghi đường biểu diễn của các nhóm khuyết nhiều số liệu (Mè, Nam Trung Quốc của Ôliviê) hoặc các nhóm mà đa số đặc điểm có vị trí trung gian và gần nhóm Việt (La-ha, Thái). Trục hoành độ đánh số 1, 2, 3,… 15 theo thứ tự các đặc điểm ghi ở bảng 7. (1) Trị số xích ma б tính cho các đặc điểm của nhóm Việt – Thanh Trì theo tài liệu đã công bố trong Nghiên cứu lịch sử số 113, tháng 8-1968. Cuối bảng 7 là trị số chuẩn X2 với xác xuất tương ứng P (X2) biểu thị mức độ tương đầu giữa các nhóm so sánh. Những kết quả về mặt số liệu này có ý nghĩa quan trọng vì phù hợp với những nhận định cơ bản đã trình bày về nhóm Việt trong mối quan hệ chung với các tộc người cư trú tại các vùng kế cận thuộc khu vực Nam phần Trung Quốc và Bắc Đông Dương, đồng thời gợi thêm những suy nghĩ về quá trình hình thành của họ. Nổi lên hàng đầu là mấy vấn đề sau: 1. Trong phạm vi Đông nam châu Á thì Bắc Đông Dương và Nam Trung Quốc là một khu vực thống nhất về quá trình hình thành chủng tộc và các loại hình nhân chủng suốt một giai đoạn lịch sử dài từ thời đại đá mới trở về sau này. 2. Nhóm loại hình Nam Á hình thành rõ nét từ thời đại đồ đồng tiếp tục phát triển và phân hóa thành nhiều loại hình địa phương trong đó người Việt hay loại hình Việt có những sắc thái riêng làm cho bên cạnh các tộc láng giềng, họ vừa có những nét tương đồng, lại vừa có cốt cách đặc thù. 3. Những người thuộc loại hình Nam Á ở miền Bắc Việt Nam như Việt, Mường, Thái, Xá (Kháng, La-ha) v.v… Có nhiều nét tương đồng chứng tỏ rằng bên cạnh mối quan hệ nguồn gốc về mặt phân loại (cùng thuộc nhóm loại hình Nam Á), còn có mối quan hệ hỗn hợp cư dân tác động suốt trong quá trình hình thành nhưng cộng đồng người gắn bó trên cùng một địa vực cư trú, có chung một quá trình lịch sử. Vì vậy mà người Xá ở Việt Nam đã phân hóa so với các tộc Khả ở Lào, người Thái ở Tây Bắc không giống như các tộc Thái nói chung ở các vùng cư trú khác. Người Việt tức loại hình Việt và dân tộc Việt đã được hình thành trong khung cảnh chung trình bày theo nội dung của những nhận xét trên. Tổ tiên xa của họ là những người Anh-đô-nê-diêng bản địa, Tổ tiên gần và trực tiếp là một loại hình Nam Á cổ có mặt trên địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, ít nhất từ thời đại đồ đồng. Suốt trong quá trình hình thành họ luôn luôn tác động và chịu sự tác động của các bộ lạc và bộ tộc láng giềng. Sự kiện này có ý nghĩa sinh học quang trọng giúp họ phát triển nhanh về số lượng dân cư. Tuy nhiên, những nét đặc trưng của họ hiện nay về mặt hình thái chứng tỏ tổ tiên họ - một loại hình Nam Á cổ, có thể có những sắc thái riêng, điều mà tài liệu cổ nhân học sau này sẽ giúp chúng ta giải đáp. Kết luận chung Nội dung trình bày trong bài viết này là kết quả của sự kết hợp so sánh giữa hai nguồn tài liệu –tài liệu cổ nhân học và tài liệu nhân chủng học các cư dân hiện tại. Một số điểm bổ sung về những điều đã trình bày trong các bản báo cáo trước đây về cư dân thời Hùng Vương và nguồn gốc người Việt là xuất phát bởi giả thiết và quá trình hình thành nhóm loại hình Nam Á từ những người Anh-đô-nê-diêng bản địa ở khu vực Đông nam châu Á. Người Việt bắt nguồn từ quá trình này – một quá trình diễn ra trong sự tác động hỗn hợp của các cộng đồng hàng mấy ngàn năm tại địa bàn miền Bắc Việt Nam mà khu vực trong tâm là đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Phải chăng chính những mối quan hệ lịch sử này đã phản ảnh một cách khá rõ nét về nhiều phương diện trên các tộc người đã từng cư trú lâu đời trên một phần lãnh thổ này của Tổ quốc ta. Tài liệu dân tộc học, ngôn ngữ học cũng đã đưa ra nhiều bằng chứng về mối quan hệ nói trên giữa các tộc người Việt, người Mường, người Tày – Thái. Trong ngôn ngữ Việt – Mường vừa có yếu tố Thái vừa có yếu tố Môn-khơ-me, khiến phải tách riêng thành một nhóm ngôn ngữ Việt – Mường mà vị trí của nó còn tiếp tục là vấn đề tranh luận. Gần đây theo sự phát hiện của bộ phận nghiên cứu các tộc người ngôn ngữ Nam Á ở Tây Bắc của Viện Dân tộc học thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam thì trong ngôn ngữ người Kháng, người La-ha cũng thấy có yếu tố ngôn ngữ Việt – Mường. Cuối cùng những mối quan hệ phức tạp này đã phát hiện cả trên con người về mặt cấu tạo cơ thể. Địa vực rõ ràng là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc kế hợp các quá trình diễn biến lịch sử của nhiều hiện tượng xã hội phức tạp, trong đó có quá trình hình thành bản thân con người. Trong khối cư dân thời Hùng Vương, “người Việt cổ” nay “người Việt thời vua Hùng” đã là một bộ phận hợp thành ngày càng có tác dụng quan trọng bên cạnh các tộc anh em trong việc thúc đẩy xã hội tiến lên. Những truyền thống tốt đẹp nhất của cả dân tộc Việt Nam, mà ngày nay chúng ta có quyền tự hào phải chăng đã bắt nguồn ngay từ buổi đầu dựng nước. Đoàn kết, thống nhất vốn là sức mạnh vô địch của dân tộc ta phải chăng đã có ngay trong dòng máu của mỗi người từ thời “người Việt vua Hùng” mà qua mỗi sóng gió của lịch sử lại được nhân lên gấp bội. Đó là những vần đề to lớn không thuộc phạm vi nghiên cứu của Nhân chủng học, nhưng đi sâu vào đề tài Nguồn gốc dân tộc chúng tôi đã thấy hiện lên những khía cạnh thật rõ nét. Mong rằng đ1o sẽ là một số bằng chứng có cơ sở khoa học góp vào để các ngành khác đi sâu tìm hiểu vấn đề. Còn tiếp Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nguồn: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974
-
Có một lần chú thấy hình Banmai trên web. Tướng đó không cô liêu đâu. Tử Vi chỉ là một phương tiện dự báo, tuy huyền diệu - những đã do con người làm ra thì mọi phương tiện đều có giới hạn. Chú đã nghiệm được những lá số giống hệt nhau, từ hai người khác hẳn nhau và có số phận chỉ gần tương đồng. Một vài sao Cô quả - Vũ Khúc chưa nói lên được điều gì.Chúc Ban Mai hạnh phúc.
-
Vậy mà dám đưa sử Việt vào quảng cáo để phá đám và đòi tiếp nối lịch sử nâng niu bàn chân Việt. Bởi vậy, hậu quả của họ là đẻ ra những chiếc giầy ...như bằng rơm thật.
-
Cảm ơn Hiepsimathi nhiều. Trong một email gửi cho tôi. Giáo sư Trần Quang Vũ đã viết: Nhân một cuộc hội thảo quốc tế, lúc ngoài giờ gặp gỡ những nhà khoa học Nhật - nhân nhớ đến luận điểm của tôi cho rằng: Khả năng người Nhật có nguồn gốc từ người Việt cổ - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại - ông đem vấn đề này hỏi các giáo sư Nhật thì được họ cho biết rằng: Trong các nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học Nhật họ đã nhận thấy rằng: gen di truyền của người Nhật Bản giống đến 90% với gen của người Việt và giống hơn với bất cứ chúng tộc nào ở Đông Á và Đông Nam Á. Với quan điểm phát triển từ việc minh chứng lịch sử Việt trải gần 5000 văn hiến - tôi cho rằng: Người Việt cổ là hậu duệ của nền văn minh Atlantis còn sống sót sau một tai nạn toàn cầu - thì mối liên hệ di truiyền này với - Nhật Bản và nền văn minh Nam Mỹ là hoàn toàn có thể. Một lần nữa cảm ơn Hiepsimathi.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Bài viết của Giáo sư Hoàng Xuân Chính còn một đoạn kết mới hết bài.Nhưng toàn bộ những luận cứ của ông đầy mâu thuẫn, chủ quan đến phi lý mà tôi đã phân tích và chứng minh, nên đoạn kết với những câu văn sáo rỗng cũng không còn giá trị. Bởi vậy, tôi chuyển sang phản biện bài tiếp theo của ông Nguyễn Mạnh Lợi. Theo thông lệ, tôi đưa phần 1 bài viết của ông ta lên đây để mọi người tham khảo trước. Nhưng để ngắn gọn vấn đề theo tiêu chí khoa học: Một luận điểm khoa học được coi là sai nếu người ta chỉ ra cái sai trong một mắt xích của nó mà tác giả không biện minh được - nên tôi sẽ chỉ tìm và phân tích mâu thuẫn ngay trong bài viết và không phân tích cả bài viết. Tôi cũng chưa xem kỹ bài viết này. Nhưng nếu Thiên Sứ đúng thì cái gọi là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" với "cộng đồng khoa học thế giới" phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt phải sai. Đó là nguyên tắc. Tôi đủ khả năng chỉ ra cái sai đó, nên không cần xem trước để đỡ mất thời gian. * Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 13 Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Cương vực nước Văn Lang Nguyễn Mạnh Lợi T ìm hiểu cương vực một nước, vấn đề trước tiên là tìm xem nước đó to, nhỏ, rộng, hẹp, ra sao, tiếp giáp với những nơi nào. Đối với nước Văn Lang, việc tìm hiểu cương vực có khó khăn riêng của nó vì cho đến nay trong thư tịch, khái niện Văn Lang khi thì được dùng để chỉ vùng đất Phong Châu quanh Bạch Hạc, khi thì chỉ miền đất Giao Chỉ và Cửu Chân xưa, có khi lại được dùng để chỉ khu vực rộng lớn từ hồ Động Đình, Ba Thục đến giáp Chiêm Thành. Vậy nước Văn Lang của các vua Hùng rộng hẹp ra sao là vấn đề chúng tôi muốn đề cập đến trong bản báo cáo này. Đất nước ta từ buổi đầu dựng nước được sử sách Trung Quốc trước thời Đường như Giao Châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí, v.v… gọi là “đất Giao Chỉ khi chưa có quận huyện”. Từ thời Đường về sau mới nhắc đến tên Văn Lang khi chỉ định quận huyện ở Giao Châu, như sách Thông điển của Đỗ Hựu viết: “Phong Châu là nước Văn Lang xưa”. Chưa có một tài liệu Trung Quốc nào chỉ định rõ ràng cương giới nước Văn Lang. Với lòng tự hào dân tộc được phát huy mạnh mẽ với những chiến thắng lừng lẫy đánh tan quân Nguyên, nhiều nho gia, sử gia thời Trần đã thu thập chuyện dân gian viết nên sử sách nêu lên cương giới lâu đời của đất nước chứng tỏ “quốc thống bắt đầu từ đấy”. Xưa nhất có quyển Lĩnh Nam chích quái, “Chuyện Hồng Bàng” chép về cương vực nước Văn Lang như sau: “Âu Cơ và 50 con lên đất Phong Châu, suy phục lẫn nhau: cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới hồ Động Đình, nam tới nước Hồ Tôn. Chia nước làm 15 bộ” (1). (1) Vũ Quỳnh, Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái – Bản dịch của Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San, Hà Nội, 1969, tr.23. Sau đấy các sách Dư địa chí củ Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đều chép gần giống như thế, song lên 15 bộ thì giữa các sách có xuất nhập ít nhiều: Có thể nói, đấy là những ghi chép cơ bản nhất để nghiên cứu cương vực nước Văn Lang trước đây. Từ trước tới nay, đất Phong Châu (tỉnh Vĩnh Phú và Hà Tây hiện nay) vẫn được xem là đất Tổ, là trung tâm của nước Văn Lang. Song về biên giới nước Văn Lang trước đây, Ngô Thời Sĩ trong Việt sử tiêu án, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, các sử gia thời Nguyễn trong lời cẩn án Việt sử thông giám cương mục, và H. Ma-xpê-rô trong bài Vương quốc Văn Lang cũng đã tỏ ra nghi ngờ về biên giới quá rộng được ghi chép trong các sách sử trước đó, mà cho rằng: “Đất nước các đời dựng ra trước thời An Dương Vương tức là biên giới nước Nam ngày nay” (1), “phía đông đến biển, phía tây giáp Vân Nam, phía nam giáp Chiêm Thành, phía bắc giáp tỉnh Quảng Tây, phía đông bắc giáp tỉnh Quảng Đông, phía tây giáp nước Lão Qua” (2). (1) Ngô Thời Sĩ: Việt sử tiêu án, dẫn trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. (2) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch của Viện Sử học. Phải chăng các sử gia thời Trần, Lê muốn con dân nước Văn Lang là dòng dõi Bắc Triều, con cháu gần gũi của Thần Nông, xem Văn Lang vốn là Bách Việt, hay là do sự nhầm lẫn Dạ Lang ra Văn Lang mà kéo biên giới nước Văn Lang lên đến hồ Động Đình, Ba Thục. Vì rằng, theo thư tịch, nước Văn Lang sau trở thành nước Âu Lạc, rồi bị Triều Đà thôn tính vào nước Nam Việt, sau nhà Hán chia làm Giao Chỉ và Cửu Chân. Như vậy đất Gia Chỉ và Cửu Chân thời Hán chính là nước Văn Lang xưa. Hơn nữa trong lúc Hùng Vương dựng nước Văn Lang, thì miền Hoa Nam, từ hồ Động Đình trở xuống có nhiều nhóm người sinh sống, sử sách gọi họ là Bách Việt, trong đó có những nhóm người đã thành lập được quốc gia riêng như Đông Việt, Mân Việt, Điền Việt, Nam Việt…, như vậy dải đất Giang Nam rộng lớn đó làm sao có thể nằm trong nước Văn Lang được. Mặt khác, xét vị trí 15 bộ của nước Văn Lang, tuy tên gọi giữa các sách khác nhau chút ít, song hầu hết là tên các huyện thời Hán, thời Đường. Nhiều người tà từ những quận huyện thời Đường lần tìm vị trí 15 bộ, tuy sự chỉ định chưa hoàn toàn khớp nhau, song tất cả đều nhất trí hầu hết các bộ là nằm trong đất Giao Chỉ và Cửu Chân thời Hàn, thảng hoặc có bộ nằm trong đất Lưỡng Quảng chút ít. Hơn nữa cũng phải tính toán đến khả năng của nhà nước trong buổi mới được hình thành, có đủ sức quản lý một đất nước rộng lớn, núi rừng hiểm trở, cách trung tâm hàng nghìn kilômét hay không. Như vậy, qua những ghia chép trong thư tịch xưa, có thể thấy lãnh thổ chủ yếu của nước Văn Lang là đất Giao Chỉ và Cửu Chân thời Hán. Nếu thư tịch do sử gia các thời trước để lại về thời Hùng Vương không được bao nhiêu và cũng không được chính các sử gia đó tin lắm, thì mấy năm gần đây, lòng đất Phong Châu cũng như khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã cung cấp cho chúng ta hàng vạn di vật khảo cổ học là những tư liệu trực tiếp từ thời đó để lại có một giá trị đặc biệt trong việc tìm hiểu đất nước Văn Lang. Tài liệu khảo cổ cho biết, vào khoảng đầu Công nguyên cho đến trước thời Bắc thuộc, miền Bắc Việt Nam ngày nay đã có nhiều nhóm người sinh sống mà dấu tích là các nhóm di tích khảo cổ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Mỗi nhóm di tích khảo cổ này có những đặc điểm riêng, phản ảnh các giai đoạn phát triển từ thấp lên cao của những cộng đồng người ở đây. Song giữa chúng có nhiều điểm gần gũi thống nhất với nhau, tạo thành một phong cách riêng dễ dàng phân biệt với các vùng chung quanh. Phạm vi phân bố cùng niên đại của các nhóm văn hóa khảo cổ này phù hợp với những ghi chép về đất nước của Hùng Vương trong thư tịch xưa và truyền thuyết. Phải chăng cùng với sự hình thành một nền văn hóa chung, lãnh thổ Văn Lang của các Vua Hùng cũng dần được hình thành và quá trình phát triển từ giai đoạn Phùng Nguyên lên Đông Sơn là phản ánh quá trình hình thành nước Văn Lang. Vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nơi họp lưu của nhiều con sông lớn: sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà,… nằm giữa dãy núi Tam Đảo và Ba Vì là vùng phân bố dày đặc văn hóa Phùng Nguyên, có phong cách đặc biệt khác với văn hóa vùng núi, vùng ven biển và đồng bằng Thanh Hóa cùng thời kỳ. Đây là vùng còn giữ nhiều di tích lịch sử có liên quan đến thời đại các vua Hùng, mà tiêu biểu nhất là ngôi đền và mộ Hùng Vương. Ở đây, hầu như mỗi xã hội đều có đền miếu thờ các nhân vật thời Hùng Vương, và người dân còn truyền tụng nhiều câu chuyện có liên quan đến Hùng Vương. Nhân dân khắp nơi đều gọi vùng này là đất Tổ. Vậy phải chăng văn hóa Phùng Nguyên là di tồn của bộ Văn Lang, bộ lạc gốc của các vua Hùng, là phạm vi phân bố của van hóa Phùng Nguyên lại là địa bàn của bộ Văn Lang bao gồm Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nôi, và một phần Hà Bắc ngày nay. Từ đây, Hùng Vương đã dần dần xây dựng nên nước Văn Lang. Cho đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, đỉnh cao thời Hùng Vương, nước Văn Lang đã hình thành, và mở rộng ra ngoài vùng đất Tổ. Văn hóa Đông Sơn không những giúp chúng ta tìm hiểu người Việt cổ mà cùng với các nguồn tư liệu khác có thể cho chúng ta biết cương vực nước Văn Lang . Văn hóa Đông Sơn vẫn tập trung dày đặc ở trung du và một phần đồng bằng Bắc Bộ, ở đây đã phát hiện được những địa điểm vô cùng phong phú như Vinh Quang, Chiền Vậy, Nam Chính (Hà Tây), Việt Trì (Vĩnh Phú), Đình Chàng, Trung Mầu (Hà Nội) và nhiều di vật Đông Sơn nổi tiếng như trống đồng Hoàng Hạ, Miếu Môn (Hà Tây), thạp đồng Vạn Thắng (Vĩnh Phú). Song, theo các triền sông, văn hóa Đông Sơn đã mở rộng diện tích phân bố khắp các miền. Ngược sông Hồng về phía bắc, các di tích văn hóa Đông Sơnđã phát hiện được ở Yên Hưng, Yên Hợp, Đào Thịnh (Yên Bái), Phố Lu, Bản Lầu (Lào Cai). Về phía đông, cũng đã phát hiện được những địa điểm phong phú như Việt Khê, Núi Đèo, (Hải Phòng), Quỳnh Xá (Thái Bình) cùng những di vật nổi tiếng như trống đồng Ngọc Lũ, Đại Vũ (Nam Hà), Cửu Cao (Hải Hưng), qua đồng Núi Voi (Hải Phòng). Về phía nam văn hóa Đông Sơn phân bố dày đăc ở Thanh Hóa như Đông sơn, Thiệu Dương, Núi Nấp, Núi Sỏi, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ, Phà Công, còn ít dần ở Nghệ An (Yên Thành, Nghĩa Đàn), Hà Tĩnh (Xuân An, Thạch Đài), Quảng Bình (Cương Hà). Miền núi Hòa Bình cũng phát hiện được nhiều địa điểm và di vật Đông Sơn nổi tiếng như trống Sông Đà, Đồi Ro, v.v… Vùng núi Tây Bắc và Việt Bắc cho đến nay chưa phát hiện được những di chỉ cư trú hay mộ táng, mà chỉ tìm thấy một vài di vật Đông Sơn lẻ tẻ như trống đồng loại 1 ở Thuận Châu (Sơn La), rìu xé ở Phù Yên (Nghĩa Lộ), dao găm ở Thái Nguyên, Hà Giang, rìu xéo ở Tuyên Quang, Cao Bằng, khuôn đúc dao găm ở Lạng Sơn. Với những chiếc trống đồng loại 1 (theo cách phân loại của Hê-gơ), thạp đồng, thố đồng, rìu xéo các loại, rìu gót vuông, lưỡi cày cánh bướm, lưỡi cày gần bầu dục, các loại dao, lao, tấm che ngực,… cùng các loại hoa văn vòng tròn tiếp tuyến, văn răng cưa, văn hình chữ S xoắn đơn kép, văn hóa trang hình chim, các cảnh sinh hoạt bơi thuyền, giã gạo, nhà sàn, múa hát,… tạo cho toàn bộ văn hóa Đông Sơn một phong cách độc đáo phân biệt rõ ràng với văn hóa nước Điền, văn hóa Ngô – Việt, Nam Việt ở vùng Giang Nam, Chân Lạp, lão. Ở những vùng này hay xa hơn nữa tuy có phát hiện được lẻ tả một vài chiếc trống đồng loại như ở Vân Nam (trống đồng Khai Hóa, Tấn Ninh), ở Quảng Tây (trống đồng huyện Quý), ở Lào (trống U-bông), ở Tây Nguyên (trống Đắc-Giao), ở Thủ Dầu Một (trống Bình Phú), ở Mã-lai (trống Xun-gai-lang),… bên cạnh những di vật có phong cách hoàn toàn khác, cũng chỉ nói lên sức sống mãnh liệt và ảnh hưởng rộng lớn của văn hóa Đông Sơn mà thôi. Chắc hẳn đấy là những hiện vật do trao đổi mà có. Trên cơ sở những mối giao lưu qua lại đó đã ảnh hưởng đến bộ mặt văn hóa giữa các vùng ở mức độ nhất định. Qua đấy ta thấy các di chỉ và di tích văn hóa Đông Sơn chủ yếu phân bố ở vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ cùng dãy đất hẹp ven thượng lưu sông Hồng. Đây cũng là vùng có nhiều dấu tích lịch sử cũng như chuyện kể về thời Hùng Vương. Các đền miếu thờ các nhân vật thời Hùng Vương cùng những câu chuyện có liên quan đến việc dựng nước và giữ nước của các vua Hùng phong phú ở trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hóa, ít dần ở Nghệ An, Hà Tĩnh, hiếm hoi ở vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc và hoàn toàn xa lạ ở vùng phía nam Quảng Bình và Hoa Nam. Những tên đất, tên núi, tên sông được nêu lên trong các chuyện kể về thời Hùng Vương như Hy Cương, Núi Tản, Sóc Sơn, Trâu Sơn, làng Phù Đổng, Chữ Xá, đầm Nhất Dạ, đất Nga Sơn mà ngày nay còn đó đều nằm trong khu vực phân bố chủ yếu của văn hóa Đông Sơn. Đây cũng là khu vực đất đai phì nhiêu, thuận lợi cho cư dân định cư nông nghiệp, cũng là địa bàn cư trú chủ yếu của người Việt hiện nay. Phải chăng đây là địa bàn cư trú chủ yếu của người Việt cổ và là miền đất trung tâm, chủ yếu của nước Văn Lang. Đối với các vùng núi quanh khu trung tâm trên, từng nơi từng lúc mức độ khống chế của các vua Hùng cũng khác nhau tùy theo sức mạnh của trung tâm Văn Lang cũng như của các trung tâm khác ngoài đất Văn Lang. Vùng núi Hòa Bình – địa bàn cư trú của người Mường hiện nay – đã phát hiện được nhiếu đồ đồng Đông Sơn. Sự gần gũi giữa người Kinh và người Mường về mặt nhân chủng học, dân tộc học, và ngôn ngữ học hiện nay gợi cho chúng ta sự đồng nhất giữa người Mường và người Việt cổ trước đây và sự thống nhất về cương vực cư trú ở thời Hùng Vương là có thể tin được. Vùng núi Hòa Bình cùng một phần đất Sơn La, Nghĩa Lộ, vùng núi Thanh Hóa – vùng đất của người Mường chắc hẳn nằm trong lãnh thổ Văn Lang. Quá về phía tây và phía bắc là địa bàn sinh sống của người Thái, Mèo, Xá, Tày, Nùng, Dao, hiện nay chúng ta cũng đã phát hiện được một số di vật điển hình của văn hóa Đông Sơn. Hơn nữa về nhiều mặt như nhân chủng, phong tục của các dân tộc bản địa ở đấy cũng có nét gần gũi với người Việt cổ như tục nhuộm ăn trầu, ăn đất, uống bằng mũi, dùng trống đồng. Những điều đó chứng tỏ rằng ngay từ thời các Vua Hùng vùng núi rộng lớn này cũng đã có quan hệ chặt chẽ với vùng trung tâm Văn Lang. Tài liệu dân tộc học cho biết vùng núi Tây Bắc cũng như Việt Bắc là vùng tranh chấp của nhiều trung tâm chính trị thời cổ đại, nhiều cuộc chiến tranh từng diễn ra ở đấy. Song ảnh hưởng to lớn của trung tâm Văn Lang đối với vùng này là điều khẳng định, và có thể xem vùng núi Tây Bắc và Việt Bắc với vùng này là điều khẳng định, và có thể xem vùng núi Tây Bắc và Việt Bắc nằm trong phạm vi khống chế của trung tâm Văn Lang và nước Văn Lang mở rộng về phía tây có thể đi lên đến biên giới Việt – Lào, Việt – Trung ngày nay. Miền nam Quảng Đông, Quảng Tây tuy núi non hiểm trở, song cách trung tâm Văn Lang không xa lại là vùng tụ cư của người Lạc Việt nên chắc hẳn có mối quan hệ với trung tâm Văn Lang. Không phải ngẫu nhiên mà cư dân Hợp Phố (Quảng Đông) đã nổi dậy theo Hai Bà Trưng chống bọn thống trị nhà Hán. Và cho mãi đến thời Bắc thuộc, vùng Hợp Phố có lúc vẫn được sáp nhập vào đất Giao Châu. Trước đây khi chỉ định vị trí 15 bộ của nước Văn Lang, có ý kiến đã đặt bộ Trang Tuyển, bộ Ninh Hải trên đất Quảng Tây, Quảng Đông (1). Do cùng một tộc người sống cạnh nhau phải chăng một phần đất Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay xưa kia đã nằm trong phạm vi khống chế của nước Văn Lang. (1) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Hà Nội, 1996. Về phía dử cũ của ta đều cho là nước Văn Lang giáp nước Hồ Tôn (Lịch triều hiến chương loại chí cho lá giáp Chiêm Thành). Chiêm Thành là nước Hoàng Vương thời Đường, nước Lâm Ấp thời Tấn. Nói nước Văn Lang giáp nước Chiêm Thành nghĩa là giáp vùng đất mà sau đó lập nên nước Chiêm Thành, phải chăng là nước Hồ Tôn như nhiều sử sách đã ghi. Trong quá trình lịch sử, biên giới của Chiêm Thành ngày càng lùi dần vào nam, cho dến thời Lý, Hoành Sơn còn là biên giới phía bắc của nước Chiêm Thành. Hoành Sơn có thể xem như là đường biên giới của văn hóa khảo cổ của sự phân bố di tích lịch sử cùng truyền thuyết thời Hùng Vương. Từ Quảng Bình trở vào hầu như vắng mặt các di tích văn hóa Đông Sơn và các di tích thời Hùng Vương. Điều này cũng phù hợp với những ghi chép trong sử cũ, và Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày nay vùng giáp ranh hai nước, mà dãy Hoàng Sơn chắn ngang giữa Trường Sơn và biển đông là biên giới phía nam của nước Văn Lang. Như vậy, hội tất cả các nguồn tư liệu lại, chúng ta thấy vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa là trung tâm của nước Văn Lang. Nước Văn Lang đã khống chế một vùng rộng lớn từ Hoành Sơn cho đến miền nam Quảng Đông, Quảng Tây từ biển Đông cho đến biên giới Việt – Lào ngày nay. Như thế, vấn đề đặt ra là tại sao sử cũ lại ghi chép cương giới nước Văn Lang lên đến hồ Động Đình và Ba Thục. Chúng tôi nghĩ rằng các nhà biên khảo xưa muốn tìm nguồn gốc của tổ tiên ta ở phương Bắc, là con cháu vua Thần Nông nên cho rằng Hùng Vương là con cháu của Kinh Dương Vương, nhân vật được xem là thủy tổ của Bách Việt, mà suy đoán đất nước của Hùng Vương bao gồm cả châu Kinh, châu Dương ở lưu vực sông Dương Tử. Hơn nữa, miền Hoa Nam là nơi sinh tụ của nhiều nhóm người, gọi chung là Bách Việt, dễ khiến cho các nhà nho xưa xem truyền thuyết về 100 con trai của Lạc Long Quân là phản ánh tình hình Bách Việt đó, mà quan niệm Văn Lang vốn là Bách Việt, và biên giới Văn Lang đến tận hồ Động Đình. Mặt khác, có thể vì cho rằng An Dương Vương họ Thục, là con cháu của Thục Dương Vương mà Thục Vương là vua nước láng giềng với Văn Lang dễ cầu thân với Hùng Vương mà các nhà chép sử thời xưa đã xô bồ miền đất của Thục Vương với đất Ba Thục mà cho nước Văn Lang giáp đất Ba Thục. Qua các tài liệu trên ta thấy đường biên giới từ Ba Thục đến hồ Động Đình được ghi trong sử cũ không phải là cương vực phía bắc của nước Văn Lang, phải chăng đó là giới hạn giữa người Hán ở phía bắc và các tộc người ở phía nam mà sử Trung Quốc thường gọi là Man Di hay Bách Việt. * * * Từ những điều đã trình bày trên, đối chiếu với những điều ghi chép trong thư tịch xưa về cương vực nước Văn Lang chúng ta thấy:- Từ khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, ở vùng hợp lưu của các con sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà đã có một nhóm người sinh sống mà dấu vết để lại là văn hóa Phùng Nguyên. Phải chăng đây là văn hóa vật chất của bộ Văn Lang – bộ lạc gốc của Hùng Vương. Phạm vi phân bố của văn hóa Phùng Nguyên là địa bàn của bộ Văn Lang, bao gồm vùng Vĩnh Phú, một phần Hà Tây, Hà Nội, một phần Hà Bắc. - Vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa là vùng phân bố chủ yếu của di chỉ và di tích văn hóa Đông Sơn phải chăng là trung tâm của nước Văn Lang . Ở thời cực thịnh, từ đây các vua Hùng khống chế một vùng rộng lớn từ Hoành Sơn cho đến một phần đất phía nam Quảng Đông, Quảng Tây, từ biển Đông đến vùng biên giới Việt – Trung, Việt – Lào (có thể co dãn chút ít). Đó là lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng. - Còn cương vực rộng lớn bao gồm từ hồ Động Đình, Ba THục đến nước Hồ Tôn (hay Chiêm Thành) được ghi chép trong thư tịch và truyền thuyết, phải chăng là khu vực tụ cư của người Bách Việt nói chung dễ phân biệt với địa bàn sinh tụ của tộc Hán ở phía bắc. Còn tiếp Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nguồn: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974
-
Lời tiên tri này được thực hiện vào năm 2008 và nó đã thể hiện bước đầu sau khoảng thời gian ngắn sau dự báo cho thấy thí nghiệm này đã trục trắc vì rò rỉ khí Hêli. Các nhà khoa học Châu Âu và quốc tế đang có cố gắng khắc phục và họ hi vọng sẽ tiếp tục thí nghiệm váo tháng 6 - 2009. Bởi vậy tôi vẫn đưa lời tiên tri này vào đây để tiếp tục chứng nghiệm (*) * LỜI TIÊN TRI CHO THÍ NGHIỆM LỚN NHẤT THẾ GIỚI Sep 18 2008, 07:49 AM Thí nghiệm vĩ đại nhất của nhân loại và nỗi lo ngày tận thế Giadinh.net - Ngày 10/8, Cơ quan nghiên cứu nguyên tử châu Âu đã chính thức vận hành cỗ máy gia tốc hạt lớn nhất thế giới Large Hadron Collider (LHC). Tái hiện vụ nổ Big Bang hình thành vũ trụ Việc LHC đi vào hoạt động sẽ giúp các nhà khoa học thực hiện thí nghiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, giúp giải mã nhiều bí ẩn to lớn về vật chất và vũ trụ. Nhưng nó cũng khiến người ta lo ngại, thí nghiệm này có thể tạo ra một lỗ đen nhân tạo và nuốt chửng Trái đất. Sẽ có lời giải về nguồn gốc vũ trụ Sau 9 năm kéo dài, việc xây dựng LHC đã hoàn tất vào năm nay. Toàn bộ tổ hợp máy hiện nằm ở độ sâu từ 50 – 171m dưới lòng đất ở khu vực biên giới Pháp - Thụy Sĩ, bao gồm một hệ thống đường hầm dùng để tăng tốc hạt với chiều dài lên tới 27 km. Với kích thước này, LHC là tổ hợp máy gia tốc hạt lớn nhất thế giới hiện nay. Ngày 10/9, người ta đã vận hành thành công cỗ máy và phóng thử các tia proton đầu tiên đi qua hệ thống đường hầm này, qua đó đặt những bước đi đầu tiên cho các thí nghiệm phức tạp hơn sau này. Các máy gia tốc hạt hình tròn như LHC có khả năng tăng tốc các hạt nguyên tử hoặc hạt hạ nguyên tử dần dần đến một phần của tốc độ ánh sáng trước khi cho chúng va chạm. Cỗ máy gia tốc hạt lớn nhất Máy gia tốc hạt là thiết bị nghiên cứu khoa học tối tân, được dùng để nghiên cứu các định luật cơ bản trong lĩnh vực vật lý hạt. Thiết bị này có khả năng tăng tốc các hạt nguyên tử (atomic particle) và hạt hạ nguyên tử (subatomic particle) bằng từ trường, phục vụ cho hoạt động nghiên cứu. LHC là cỗ máy gia tốc hạt dạng tròn lớn nhất thế giới hiện nay. Năm 2007, cựu Giám đốc điều hành CERN (Nơi chế tạo LHC), khoa học gia Chris Llewellyn Smith tiết lộ trên tạp chí Nature rằng ý tưởng xây dựng LHC trong cùng một hệ thống đường hầm với LEP đã bắt đầu từ năm 1977, chỉ hai năm sau khi người ta đề xuất ý tưởng. Việc xây dựng LEP được chấp thuận hồi năm 1981, theo sau là việc xây dựng LHC được chấp thuận vào năm 1995. Ngân sách xây dựng LHC được cấp khi đó là 1,6 tỉ euro với 140 triệu euro chi phí cho các thí nghiệm. Tuy nhiên, chi phí phụ trội sau đó đã vượt qua mức dự kiến ban đầu khá nhiều. Người ta đã phải thêm 300 triệu euro để xây dựng máy gia tốc và 50 triệu euro khác cho các thí nghiệm. Những chiếc nam châm siêu dẫn dùng trong tổ hợp máy gia tốc cũng là nguyên nhân gây tăng chi phí lên 120 triệu euro nữa. Để làm được việc này, hai tia proton gồm hàng ngàn tỉ proton sẽ chuyển động theo hai hướng khác nhau trong các đường hầm thông qua sức đẩy từ trường và sự điều khiển của khoảng 1.600 nam châm siêu dẫn. Khoảng 1.323 nam châm có nhiệm vụ giữ các tia proton đi đúng hướng trong khi khoảng 392 nam châm khác có nhiệm vụ tập trung luồng proton. Khoảng 96 tấn heli lỏng sẽ được dùng để giữ các nam châm ở nhiệt độ - 273 độ C, giúp hệ thống vận hành tốt kể cả khi tia proton đạt tốc độ rất cao. Khoảng vài tuần sau khi được tăng tốc, các tia proton sẽ đạt tốc độ lên tới 99,9999% tốc độ ánh sáng. Đó là lúc người ta sẽ cho chúng va chạm với nhau. Về lý thuyết, ở tốc độ cao, lực va chạm giữa hai luồng proton sẽ tạo ra một vụ nổ với sức nóng gấp 100.000 lần nhiệt độ tâm Mặt trời, qua đó tái hiện lại bối cảnh vũ trụ trong khoảng thời gian chưa đầy một giây sau khi vụ nổ Big Bang diễn ra, giúp giải mã hàng loạt bí ẩn khác nhau. Có sáu hệ thống dò các hạt nguyên tử và hạ nguyên tử sẽ được dùng để ghi nhận kết quả sự va chạm của hai tia proton phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học. Sự va chạm này sẽ tạo cơ hội cho giới khoa học bước vào lĩnh vực nghiên cứu mới với nhiều kết quả hứa hẹn như nguồn năng lượng tinh khiết (free energy), sự hình thành của vũ trụ, bản chất không gian và thời gian, vật chất tối và năng lượng tối, nguồn gốc sự sống, nguồn gốc vật chất và phản vật chất. Quan trọng hơn cả, người ta sẽ tìm thấy những chứng cứ về việc có tồn tại hay không “hạt Chúa trời” Higg Boson. Các chuyên gia vật lý học và vũ trụ học cho rằng ngay sau khi hiện tượng Big Bang xảy ra, cả vũ trụ không có vật thể với trọng lượng mà chỉ có năng lượng. Năm 1964, nhà khoa học Peter Higgs đã khởi xướng một lý thuyết về hạt hạ nguyên tử có tên gọi hạt Higg Boson. Hạt này hiện hữu trong chốc lát sau hiện tượng Big Bang với vai trò hoán chuyển năng lượng thành trọng lượng trong vật chất. Hạt này được cho là mắt xích còn thiếu trong mô hình cơ bản của vật lý hạt hiện đại. Những khám phá về hạt Higg Boson sẽ giúp nhân loại hiểu thêm về sự hình thành của vạn vật trong vũ trụ sau hiện tượng Big Bang. Đảo lộn thế giới Không ít người đã tỏ ra lo lắng trước hoạt động của LHC và các thí nghiệm của CERN. Những nhà khoa học như giáo sư người Đức Otto Rossler đã bày tỏ quan ngại rằng khi LHC hoạt động và các proton va chạm nhau với năng lượng lớn, một lỗ đen nhân tạo sẽ hình thành và nuốt chửng Trái Đất. Có người lại cho rằng sự va chạm sẽ tạo thành các hạt nguyên tử ở hai thể loại vật chất và phản vật chất. Theo lý thuyết thì hai hạt này sẽ tiêu hủy nhau trong những vụ nổ hạt nhân. Các phần tử cuồng tín đánh giá LHC sẽ là cố máy chết chóc, đem đến ngày tận thế mà nhà tiên tri Nostradamus và sách vở tôn giáo đã nhắc đến. Thậm chí có người còn cho rằng máy LHC sẽ tạo nên một lỗ hổng không gian gọi là wormhole mà từ đó sẽ tuôn ra những điều bất ngờ khó lường. Nhiều người khác cho rằng những kết quả nghiên cứu do LHC đem đến sẽ gây ảnh hưởng lớn đến giá trị tôn giáo khi các nhà khoa học tìm về nguồn gốc của vũ trụ, vạn vật. Bên trong hệ thống đường hầm của LHC. Trong quyển “Angels and Demons” của nhà văn Dan Brown, ý tưởng dùng đến máy gia tốc hạt để chứng minh những lời phán trong Sách Sáng Thế (Genesis) đã được tác giả đề cập đến. Và trong quyển sách mới nhất, “Blasphemy” của tác giả Douglas Preston, điều mà các nhà khoa học tìm thấy khi kích hoạt và thử nghiệm máy gia tốc hạt Isebella không phải là “hạt Chúa trời” Higg Boson mà chính là đức Chúa. Những người mộ đạo cho rằng nguồn gốc vật chất là lĩnh vực cấm, nơi Chúa trời ngự trị và con người không nên đặt chân tới tìm hiểu. Nhưng các nhà khoa học chỉ quan tâm tới sự thật. Với LHC có thể họ sẽ chứng minh được rằng vũ trụ và nhân loại được sinh ra hoàn toàn tự nhiên chứ không có bàn tay của Đấng tối cao nào cả. Với quyết tâm ngăn chặn LHC hoạt động, mới đây Otto Rossler đã đệ đơn lên Tòa án Nhân quyền châu Âu kiện 20 quốc gia tham gia dự án vì vi phạm nhân quyền. Mặc dù, Tòa đã bác đơn, nhưng nó cho thấy không phải ai cũng yêu thích LHC và khả năng giải đáp bí ẩn to lớn của nó. Trước tình hình đó, Nhóm đánh giá độ an toàn của LHC đã công bố các báo cáo trong năm 2003 và 2008, khẳng định cỗ máy cực kỳ an toàn. Theo đó nhiều bức xạ vũ trụ (cosmic ray) phóng vào khí quyển trái đất mang theo năng lượng khổng lồ nhưng cũng không tạo nên lỗ đen tiêu diệt trái đất. Trên lý thuyết, lỗ đen nhỏ nhất có thể ổn định và tăng trưởng khi có diện tích tối thiểu là 0,04 phần Mặt Trời. Trong khi đó, lỗ đen nhỏ nhất vừa được khám phá vào tháng 4/2008 có diện tích to gấp 3,6 lần Mặt Trời. Lỗ đen nhân tạo mà LHC tạo ra có thể sẽ không to bằng đầu cọng tóc và sau khi thoát nhiệt, sẽ biến mất. Đối với nguy cơ xảy ra vụ nổ hạt nhân, thì cho dù có xảy ra, nhưng ở mức độ hạ nguyên tử và ở độ sâu cả trăm mét dưới lòng đất, sức tác động của nó không có gì đáng phải lo ngại. Những dự đoán về ngày tận thế Nỗi lo ngày tận thế đối với LHC nhắc nhở người ta nhớ rằng nhân loại luôn quan tâm tới việc khi nào bản thân sẽ bị tiêu diệt. “Đó là một khía cạnh rất cổ xưa trong tâm hồn con người. Nó có gốc rễ từ thời cổ đại” – sử gia Paul S. Boyer, tác giả cuốn “Khi thời gian không còn nữa: Niềm tin tôn giáo trong văn hóa Mỹ hiện đại”, nhận xét. Edgar C. Whisenant, cựu kỹ sư NASA và là một người nghiên cứu Kinh thánh dự báo Trái đất kết thúc vào các năm 1989, 1993, 1994. Isaac Newton từng dự đoán ngày tận thế xảy ra vào năm 2060. Đình đám nhất là dự báo ngày tận thế của giáo sĩ dòng Baptist William Miller. Theo ông này, Trái đất sẽ sớm kết thúc vào ngày 23/10/1844 với sự hiện thân của Chúa. Tuy nhiên, khi thời điểm này đi qua một cách bình an và Chúa không xuất hiện, những tín đồ của Miller đã lao vào công kích ông. Miller chết hồi năm 1849, khi vẫn đang chờ sự xuất hiện của Chúa. Gần đây nhất, giáo sĩ Ronald Weinland tuyên bố trong cuốn sách “Các nhân chứng cuối cùng của Chúa” rằng Mỹ sẽ bị tiêu diệt trong hai năm tới. Các nhà khoa học chỉ cười mỉm với những tuyên bố “xanh rờn” ấy. Thế giới chúng ta đang sống sẽ có ngày bị tiêu diệt. Đó là một thực tế. Nhưng theo giới khoa học khả năng ấy khó có thể xảy ra trong thời gian ít nhất hơn 2 triệu năm tới. Nó cũng khó có thể xảy ra cùng với sự hoạt động của LHC. Hương Giang ------------------- * Chú thích: Lời tiên tri này đã được VinhL và Nguyên Kha dịch ra tiếng Anh và gửi đến các hãng thông tân có uy tín như:BBC, CCN...Nguyên văn lời dịch như sau: PREDICTION ON THE FINDING OF THE GOD PARTICLE On August 10, 2008, the European Organization for Nuclear Research (CERN), officially turn on the first beam in the Large Hadron Collider (LHC), the largest and most powerful collider in the world. One of the main purposes of the this collider is to find the Higg Particle, also called the God Particle. On September 11, 2008, at the Ancient Oriental Philosophy Research Center (Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương) in Vietnam, Mr. Nguyen Vu Tuan Anh (also known as Thien Su), President of the Research Center, also the Grand Master of Lac Viet Feng Shui, predicted “this experiment will not be successful”, he said “If my prediction is correct, I, Thien Su will explain the failure according to the principle of the ancient oriental philosophy.” He continued “We should wait, there will be a result in approximately a few weeks, and public announcement will follow shortly.” Source: Ancient Oriental Philosophy Research Center (www.lyhocdongphuong.org.vn), Vietnam.
-
Từ nay đến năm Canh Dần có sinh được hay không thì còn lâu mà? Cứ bình tĩnh đã nào. Qua Giêng thư thả, hỏi lại. Việc này sai một cái là ....không biết đi về đâu đấy.
-
Đại tướng Võ Nguyên Giáp góp ý về dự án bô xít Tây Nguyên 14/01/2009 11:31 (GMT + 7) (TuanVietnam) - Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa gửi thư đến Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, đề nghị "cho dừng triển khai các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên và báo cáo Bộ chính trị chỉ đạo tiến hành các nghiên cứu vĩ mô cần thiết làm căn cứ cho mọi quyết định". Để đảm bảo thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam giới thiệu toàn văn bức thư này để độc giả tham khảo. Kính gửi: Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ Thời gian vừa qua báo chí đăng nhiều bài và ý kiến của các nhà khoa học và hoạt động xã hội cảnh báo nguy cơ nghiêm trọng đối với môi trường tự nhiên và xã hội của các dự án khai thác bô-xít trên Tây Nguyên. Đầu tháng 11-2008 một số nhà khoa học và quản lý có tên tuổi đã gửi kiến nghị đến lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề nghị cho dừng các dự án này để nghiên cứu, xem xét lại, cân nhắc lợi hại một cách toàn diện. Tuy nhiên, các dự án này vẫn đang được triển khai, trong tháng 12-2008 đã có hàng trăm công nhân Trung Quốc đầu tiên có mặt trên công trường (dự kiến cao điểm sẽ lên tới vài nghìn tại một dự án). Cần nhắc lại rằng, đầu những năm 1980 Chính phủ đã đưa chương trình khảo sát khai thác bô-xít trên Tây Nguyên vào chương trình hợp tác đa biên với khối COMECON. Tôi được phân công trực tiếp theo dõi chỉ đạo chương trình này. Sau khảo sát đánh giá hiệu quả tổng hợp của các chuyên gia Liên Xô, khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây Nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng, không thể khắc phục được đối với dân cư chẳng những tại chỗ mà còn cả dân cư và vùng đồng bằng Nam Trung Bộ. Chính phủ khi đó đã quyết định không khai thác bô-xít mà gìn giữ thảm rừng và phát triển cây công nghiệp (cao su, cà phê, chè...) trên Tây Nguyên. Ý kiến phản biện của các nhà khoa học nước ta vừa qua phân tích trên nhiều phương diện, trong các điều kiện kinh tế kỹ thuật hiện nay cũng đi tới kết luận như các nhà khoa học Liên Xô cách đây 20 năm. Với những cảnh báo nghiêm trọng như vậy, chúng ta cần xem xét các dự án này một cách khách quan - cần đánh giá lại quy hoạch khai thác bô-xít trên Tây Nguyên đến 2025. Về quy mô, quy hoạch khai thác bô-xít Tây Nguyên từ nay đến 2025 là một kế hoạch lớn, giá trị ước tới gần 20 tỷ đô-la Mỹ, sẽ tác động sâu sắc nhiều mặt còn hơn cả các công trình kinh tế lớn đã có ở nước ta. Vì vậy nên mời thêm các tư vấn chuyên ngành quốc tế có nhiều kinh nghiệm phối hợp với các nhà khoa học và nhà quản lý của nước ta cùng thẩm định cho khách quan, sau đó báo cáo Bộ Chính trị và Quốc hội xem xét, cân nhắc kỹ càng, không thể chỉ đưa vào đề xuất của các Bộ hay tập đoàn kinh tế. Vừa qua đồng chí Thủ tướng đã quyết định bác dự án nhà máy thép lớn của Hàn Quốc tại vịnh Vân Phong, khẳng định quyết tâm của Chính phủ phát triển kinh tế bền vững, được đông đảo nhân dân và các nhà khoa học đồng tình, ủng hộ. Việc xác định một chiến lược phát triển Tây Nguyên bền vững là vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng. Tôi đề nghị Thủ tướng cho dừng triển khai các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên và báo cáo Bộ chính trị chỉ đạo tiến hành các nghiên cứu vĩ mô cần thiết làm căn cứ cho mọi quyết định. Chúc đồng chí mạnh khỏe, Võ Nguyên Giáp Lời bàn của Thiên Sứ Cách đây gần 10 năm, tôi được xem một bài báo nói về một đảo quốc ở Thái Bình Dương với dân số khoảng trên triệu người. Toàn bộ lãnh thổ của đảo quốc này là một kho phân lân khổng lồ. Tất nhiên với một đất nước lạc hậu và nghèo, họ đã cho các tập đoàn kinh tế vào khai thác. Dân chúng no nê, người dân chỉ việc ăn chơi trên lợi tức thu được từ việc khai thác quặng, cứ như Arậpp Xêut ngày nay. Nhưng thời gian trôi qua, các mỏ cạn kiệt, người dân quốc đảo này sống trên một đất nước bị đào sới hoang tàn, tài nguyên cạn kiệt, dân đói nhe răng. Nếu tôi nhớ không nhầm thì chính phủ đất nước này phải đi trốn. Bây giờ thấy một sự đầu tư lớn đến kinh khủng - như bài báo của Ngài Đại Tướng viết: Gần 20 tỷ USD. Tất nhiên chúng ta có thể dễ dàng suy luận là dự án này phải bao trùm phần lớn Tây Nguyên. Vấn đề hy sinh môi trường để lấy 20 tỷ USD sẽ ra sao khí tôi nhớ đến một nhận xét của nhà chiến lược Pháp thời Pháp thuộc: Ai chiếm lĩnh được Tấy Nguyên thì người đó sẽ thống trị toàn bộ Nam Bộ. Điều này cho thấy sự ảnh hướng rất lớn về nhiều mặt của môi trường Tây Nguyên với vùng Nam Bộ Việt Nam mà trong đó, quân sự chỉ là một yếu tố. Tôi hy vọng rằng dự án này sẽ không được thực hiện.
-
Chính phủ cho lập liên doanh khai thác bô-xít ở Cao Bằng 10:08' 17/12/2008 (GMT+7) - Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải vừa đồng ý trên văn bản để tỉnh Cao Bằng chọn DN thực hiện đàm phán với đối tác nước ngoài, lập liên doanh đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến quặng bô xit. Dự án khai thác bauxite tiềm ẩn nhiều nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, không khí và biến đổi môi trường, khí hậu. Ảnh: VNN Việc thăm dò, khai thác, chế biến quặng bô xit được tiến hành tại khu vực huyện Quảng Uyên và Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, miền núi phía Bắc. Trong liên doanh, hoạt động khai thác do doanh nghiệp Việt Nam giữ cổ phần chi phối. Chính phủ yêu cầu chỉ đầu tư nhà máy sản xuất alumin công suất 50.000 tấn alumin/năm khi cân đối đủ nguyên liệu cho nhà máy sản xuất alumin công suất 300.000 tấn alumin/năm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Cao Giang. Việc cấp phép khai thác, chế biến quặng bô xit tại các khu vực nêu trên chỉ xem xét sau khi báo cáo thăm dò, trữ lượng mỏ được hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản phê duyệt. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải có quyết định trên sau khi đã xem xét ý kiến của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài nguyên và Môi trường, Công thương. Trong khi đó, cuộc tranh luận gay gắt giữa các chuyên gia, nhà khoa học về dự án khai thác và chế biến bô xit của Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam, vẫn chưa ngã ngũ. Nhiều nhà khoa học lo lắng về những nguy cơ khi khai thác bô xit: ô nhiễm nguồn nước, không khí, biến đổi môi trường, khí hậu, nhưng cũng có ý kiến luyến tiếc nếu “tài nguyên không được khai thác thì chỉ là đất thôi!”. * Vân Anh
-
Quẻ Lạc Việt độn toán tuy có căn cứ, nguyên tắc căn bản của nó. Nhưng biến hóa vô cùng. Đạt đến một trình độ nào đó thì tùy cảm ứng. Chúc Thiên Huy thành công.
-
CHỨNG NGHIỆM LỜI TIÊN TRI 2009 Những thông tin dưới đây là một thí dụ cho khái niệm về tính thất thường của thời tiết năm 2009. Đây mới chỉ là thí dụ vì chưa đến năm Mậu Tý. Hình ảnh "rất sôi động và nhiều bất thường" của thời tiết năm Mậu Tý sẽ sinh động hơn nhiều. * Mỹ "đông cứng" trong gió lạnh và tuyết 06:58' 15/01/2009 (GMT+7) Những đợt gió lạnh cắt da và nhiệt độ dưới 0°C ở vùng trung Mỹ đã mở rộng sang phía đông bắc và khiến ngay cả những người hâm mộ thể thao mùa đông cũng phải cân nhắc ở nhà. (Ảnh AP)Tại đông bắc, chưa có tử vong vì rét. Tuy nhiên, một ngày trước, một nam giới ở Wisconsin đã chết vì lạnh sau khi lang thang ở ngoài nhà. Người thân của nạn nhân cho biết, ông ta bị mộng du. (Ảnh AP) Tại Ironwood, Michigan, người dân được thông báo để vòi nước chảy để ngăn nước đóng băng sau khi một vụ vỡ ống nước xảy ra và khiến thành phố này mất nước. (Ảnh AP) (Ảnh AP) (Ảnh AP) (Ảnh AP) Hoài Linh (Theo ABC, AP)
-
Câu 1 - 2: Mọi việc nên từ từ giải quyết. Không thể nôn nóng được.Câu 3: Cho biết thêm tuổi vợ chồng và con út.
-
Cuối Xuân sanh Hè sẽ có việc làm.Chúc vạn sự an lành.
-
Người đầu tiên minh chứng Kinh Dịch là của Việt Nam là tôi đấy brucelee ạ. Ít nhất về mặt công khai với cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" xuất bản năm 2001 và đặt vấn đề công khai từ 1998 với cuốn "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Tất nhiên tôi cũng chịu khá nhiều búa rìu dư luận với những lập luận phản bác. Còn việc tìm học thì tôi nghĩ không khó. Nhưng tôi nghĩ brucelee chỉ thích vậy thôi chứ không phải người thật sự cầu học. Ngay trong diễn đàn này đang thông báo mở lớp Phong Thủy căn bản. Vậy mà brucelee còn hỏi học phong thủy ở đâu?
-
Có gì đâu! Tại rét quá nên nó vậy đấy mà! :P :rolleyes: <_<
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Những bài trên trong loạt bài phản biện ông Hoàng Xuân Chính, tôi đã chứng minh tính chủ quan và phi khoa học trong những luận cứ của ông ta. Theo tiêu chí khoa học: Một luận điềm, hay một giả thuyết khoa học bị coi là sai, nếu người ta chỉ cần chỉ ra một cái sai trong chuỗi hệ luận của nó mà tác giả không biện minh được. Căn cứ theo tiêu chí này thì có lẽ tôi không cần phải phản biện tiếp. Nhưng như vậy thì thiếu tính nhất quán. Hơn nữa, trong mấy ngày gần đây, tôi phát hiện ra ông Hoàng Xuân Chính ngày trước khi viết bài này, nay đã có hàm giáo sư, khiến tôi không khỏi ngậm ngùi cho việc học sử nước nhà: Điều này báo chí đã nói nhiều, tôi không nói lại. Với tư duy của đẳng cấp giáo sư mà như vậy thì làm sao bảo học sinh khá được về môn sử. Bởi vậy tôi tiếp tục minh chứngvv tính phi khoa học trong phần còn lại của bài viết này. * Ông Hoàng Xuân Chính viết: Như vậy, chúng ta cũng thấy rằng: ông Hoàng Xuân Chính căn cứ vào những tài liệu "có nhiều đoạn ghi chép về sự khác nhau về phong tục tập quán cùng trình độ giữa 2 vùng Giao Chỉ và Cửu Chân, song lại có quan hệ gần gũi, trao đổi với nhau ở thời nhà Hán thống trị", để ông ta xác định:"Từ các nguồn tư liệu nói trên, chúng ta có thể hình dùng là vào khoảng vài thế kỷ cuối thiên niên kỷ thứ 2 và đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã đã là hạt nhân hình thành 2 liên minh bộ lạc hay bộ tộc lớn phân bố ở trung du và đồng bắng Bắc Bộ ở phía bắc và vùng đồng bằng sông Mã, sông Lam ở phía nam". Một lần nữa, xin lỗi ông Hoàng Xuân Chính và "hầu hết những nhà khoa học trong nước" với cái "cộng đồng khoa học quốc tế" ủng hộ quan điểm của ông là: Ngay bây giờ tại Hoa kỳ - và bất cứ quốc gia nào - người ta cũng có thể tìm thấy sự khác nhau về Phong tục giữa hai vùng đất trong một quốc gia. Và điều đó không có nghĩa đấy là những "liên minh bộ lạc hay bộ tộc lớn", như ông miêu tả. Ở đây tôi chưa muốn nói đến sự ra đời của những cuốn sách như Giao Châu Ngoại vực ký và Hậu Hán thư ra đời sau khi quốc gia Văn Lang sụp đổ ở Nam dương Tử gần 1/2 thiên niên kỷ và không thuộc về chính sử Việt. Điều này cho thấy rõ sự áp đặt quan điểm của ông ta lên lịch sử cội nguôn 2dân tộc Việt. Tất nhiên nó chẳng có cơ sở khoa học nào cả. Ông Hoàng Xuân Chính viết: Qua đoạn này thì chúng ta lại thấy tính áp đặt và chẳng có cơ sở nào để chứng minh cho luận điểm của ông ta . Chưa nói đến nội dung các đoạn phân tích của ông ta tự mâu thuẫn. Đoạn trước thì ông ta nói đến sự giao lưu văn hóa với các vùng Nam và Tây Nam Trung Quốc. Đây, chính ông ta viết - ngay trong bài này: Nhưng , như tôi đã trình bày ở bài trên - nó bế tắc trong khi cần minh chứng tiếp tục những hệ quả của nó khi hiện tượng phổ biến tính đặc trưng văn hóa trống đồng ở khắp Nam Dương Tử. Nhưng trong đoạn văn trên thì ông ta lại lờ tịt đến cái giao lưu văn hóa "Tây Nam và Đông Nam Trung Quốc" và ông lại chỉ giới hạn ở trong đồng bằng Bắc bộ. Hay nói cách kjhácc: Với cái nhìn của Giáo sư Hoàng Xuân Chính - từ như di sản đồ đá tìm được ở đồng bằng Bắc bộ chứng tỏ có người nguyên thủy sống ở đây - đã có một sự tiến hóa khép kín- từ bầy người nguyên thủy với thời đồ đá, lên thời đại đồ đồng và các liên minh bộ lạc với quốc gia Văn Lang. Tôi không thể tin nổi những luận điểm như vậy mà lại được"Cộng đồng khoa học thế giới" ủng hộ. Nhưng tôi tin rằng: Chính những lập luận phi lý loại này góp phần không nhỏ vào việc suy thoái trong nhận thức lịch sử của học sinh Việt Nam mà báo chí nói tới.Giáo sư Hoàng Xuân Chính viết; Đoạn này thì quá rõ: Ông ta đã lấy giới hạn của việc tìm thấy di vật khảo cổ trong phạm vi biên giới Việt hiện nay làm giới hạn đất nước Văn Lang.Tất nhiên đấy không thể coi là "cơ sở khoa học" của luận điểm phủ nhận gia trị văn hóa sử truyền thống Việt. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị. Còn tiếp