-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Như Thông thân mến."Sự linh ứng của sư phụ với Quốc Tổ" - theo cách nói của Như Thông - chỉ là sự thành tâm mà thôi. Nhà Như Thông có bàn thờ Ông Địa chứ nhỉ! Ông Địa thì trông coi trong nhà. Ông Thành Hoàng thì trông coi một Làng. Các vị thần linh thiêng một Vùng như Bà Chúa Kho, Thần Linh Lang...thì trông coi một vùng. Thần hộ quốc thì trông coi một quốc gia. Trong bốn vị thần Hộ Quốc thuộc Hàng tứ Bất tử Việt Nam thì hai vị là con rể vua Hùng. Đấy là suy luận theo truyền thuyết và thần thoại Việt. Nhà nghiên cứu Giáo sư Bùi Văn Nguyên còn cho rằng Kinh Dương Vương chính là Thượng Đế.Một vị giáo sư nào đó - có bài viết đã đăng trên diễn đàn này, viết: Một lý thuyết thống nhất nó phải giải thích được cả vấn đề tâm linh - Hoàn toàn chính xác. Vì lý thuyết thống nhất thì phải giải thích mọi vấn đề liên quan đến con người. Tất nhiên trong đó có vấn đề tâm linh.
-
Đấy cũng là một cách giải thích! Nhưng con chim gì mà to thế? Có thể giải thích là một loài bò sát có cánh ở kỷ Juda :rolleyes: .Vấn đề được đặt ra ở đây là: Tại sao với một buổi lễ lớn như vậy của Hoa Kỳ, được bảo vệ đến tận từng cm vuông mà một vật thể lạ như vậy xuất hiện không làm các lực lượng bảo vệ chú ý và không hề có một máy bay chiến đấu nào được bay lên ngăn chặn để bảo vệ tổng thống Obama? Các bạn có thấy điều gì với vấn đề được đặt ra không?
-
Thật là một món ăn tuyệt vời trong những ngày đầu Xuân. Nhưng vấn đề là ai nấu đây? Nếu là bà xã tôi nấu thì chắc chắn là ngon rồi. Cho dù nó hơi khét khét vì quá lửa.
-
- Thiên Sứ là ký danh riêng. Lần sau phải viết hoa cho đúng chính tả.- Lấy vợ trong năm Tam Tai cần kiêng cữ trong nghi lễ đón dâu để hạn chế xui xẻo.Kiêng cữ như thế nào tùy từng địa phương. Nên hỏi các cụ bô lão. - Nhà hợp hướng hay không hợp hướng chỉ là một yếu tố cần, nhưng không phải duy nhất. Trong phong thủy có hàng chục yếu tố tương tác rất phức tạp. Nếu chỉ căn cứ vào hướng để quyết định sự thịnh suy của căn nhà đối với gia chủ thì các thày Phong thủy dẹp tiệm từ lâu rồi. Ít nhất cũng cần cho biết nhà người anh ở hướng nào và các yếu tố liên quan như: Ở một mình hay ở chung với ai....thì mới tư vấn được. - Bán nhà được không? Quẻ kép Tử Vô Vong - Kinh Đại an. Bán được, Nhanh thì tháng 4 - Chậm là tháng 9. - Mua được. Nhưng không nên động thổ sửa chữa gì trong năm nay. Chúc vạn sự an lành.
-
Bạn nên gõ tiếng Việt có dấu theo nội qui diễn đàn. Bạn cần cho biết giới tính của bạn và giờ sinh thì mới lấy lá số được.
-
Cứ cho là như vậy. Nhưng không phải ai cũng qua một hơi thuốc lá biết được sự huyền vi của nó."Để giải thích một điều rất nhỏ, cũng phải viễn dẫn đến toán bộ lịch sử hình thành vũ trụ" - Trịnh Xuân Thuận nói vậy. Nhưng phải là bậc Đại giác mới hiểu được chân lý tột cùng của vũ trụ qua làn khói thuốc - một điều rất nhỏ. Đức Phật nếu im lặng thì ngày này ai hiểu được sự huyền vi của Phật Pháp?
-
Người ngoài hành tinh? Đó là một cách giải thích từ tiềm thức của một tri thức khoa học hiện đại. Nếu cách đây hơn 200 năm thì đây có thể là được giải thích là "Thiên thần giáng hạ". Tất cả chỉ là cách giải thích. Còn bản chất của hiện tượng, chắc không hẳn như vậy.
-
Đức Phật nói: Tất cả những gì ta đã nói với các người, chỉ như nắm lá trên tay ta. Còn những điều cần hiểu biết như lá trong rừng Kỳ Đà đằng sau ta. Nếu không có trí huệ, không có hiểu biết chân chính thì mọi tri kiến đều là chấp. Bởi vậy trong tám điều bát chính có một điều là Chính Tư Duy - Thành thực mà suy nghĩ. Chính vị thiền sư ấy đã chấp vào tính trống rỗng của tri thức.Một con robo khi chưa nạp vào bộ nhớ của nó những điều cần phải nạp, thì bộ nhớ của nó cũng trống rỗng. Nhưng dù có nhét vào đó toàn bộ Kinh Phật và nó có khả năng suy luận trên cơ sở dữ liệu ấy. Nó cũng không thể thành giác ngộ.
-
Kim Phong lấy đường link từ Tử Vi Lạc Việt, nhớ ghi cả giới tính.
-
Điều mà cô TTHD thắc mắc là tại sao cô và người chồng trước hợp tuổi theo tam hạp là Thân Tý Thìn, mà vợ chồng lại chia tay nhau? Để tìm hiểu kỹ vấn đề này, cô nên vào topic: Luận tuối Lạc Việt - mục: Các môn dự đoán khác để tham khảo thêm. Anh Dịch Thiên Y đã phân tích cho cô theo một cách khác và không đi thẳng vào câu hỏi của cô, nên chắc cô chưa vừa ý. Về việc này, tôi xin trả lời cô như sau: Trong Lý học Đông phương đặt con người tùy theo năm sinh có đến 3 yếu tố liên quan. Gồm Thiên Can - Thiên Can của cô là Giáp; Mạng - Mạng cô là Thủy theo Lạc Thư Hoa giáp (Sách Hán cổ là Hỏa) và Địa chi - Địa chi của cô là Thìn. Bởi vậy, khi nói đến sự kếp hợp giữa hai con người - cụ thể là vợ chồng thì không thể chỉ quan sát duy nhất một yếu tố là Địa chi. Mà nó phải gồm cả ba yếu tố như tôi đã trình bày ở trên. Lý học Đông phương đã thất truyền, nên khi lưu truyền trong dân gian, người ta chỉ còn xét đến một yếu tố duy nhất là Địa chi trong môi81 quan hệ vợ chống. Nhưng như tôi đã phân tích ở trên, Đây là một sai lầm do tính thất truyền của Lý học Đông phương. Xét về Thiên Can thì Giáp Phá Canh, Xét về Mạng nếu theo sách Hán thì mạng cô Dưỡng mạng chồng - Hỏa Dưỡng Thổ. Nếu theo Lạc Thư hoa giáp thì Mạng Chồng khắc mạng cô. Đây là Dương khắc âm, tuy vậy chống khắc vợ là thuận lý. Tuy không tốt bằng mạng vợ sinh chồng. Về địa chi thì hợp hoàn toàn, nhưng chỉ là một yếu tố trong ba yếu tố tương tác. Tuy nhiên, tuổi vợ chồng khi kết hợp với nhau tốt hay xấu chỉ là một trong những yếu tố tương tác. Trên thực tế cho thấy những cặp vợ chồng tuổi kết hợp rất tốt theo phương pháp tính từ các sách cổ chữ Hán , nhưng vẫn chia tay, hoặc nghèo nàn. Và có những tuổi vợ chồng rất xấu , nhưng vẫn giàu có và khá giả. Trong những công trình nghiên cứu của chúng tôi đã xác định được rằng: Chính tuổi đứa con (Bao gồm cả ba yếu tố trên), mới là sự ảnh hưởng quan trọng đến hạnh phúc gia đình theo phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Và đây mới là yếu tố rất quan trong - nhưng không phải duy nhất - để bảo đảm hạnh phúc gia đình. Trên cơ sở này thì cô thấy rằng: Yếu tố tam hợp không phải yếu tố quyết định.
-
Tôi xin kể một câu chuyện, trong câu chuyện này có cả tính tiết kiệm, bệnh sĩ, sự lừa đảo và tính phóng khoáng và sự bần tiện. Số là ngày ấy, tôi còn là học sinh một khóa đào tạo thợ cơ khí - năm ấy tôi chừng 16, 17 tuổi gì đó. Hôm ấy được nghỉ bài học lý thuyết. Mấy thằng chúng tôi lang thang ra Bờ Hồ ngồi chơi. Mỏi chân, ba bốn đứa chúng tồi ngồi nghỉ trên ghế đá. Vì hồi đó có cái xe đạp đi cũng là ...dân xịn. Lúc ấy có một cô gái khá xinh đẹp đi bộ ngang qua. Trên tay cô cầm 6 cái bánh xốp, loại 2 hào một cái, được gói hờ bằng một miếng giấy báo. Đây là một loại thực phẩm cao cấp thời bấy giờ. Còn ngày nay, không thấy loại bánh này ngay cả trong cỗ cúng cô hồn. Cầm đến 6 cái bánh xốp trị giá 1.200 đồng hồi đó là một món tiền đáng kính nể, so với lương của chúng tôi có 8 hào một ngày. Khi đến gần chỗ chúng tôi ngồi, cô ta đổi dáng đi cà lắc, cà giật. Lắc bên phải, lắc bên trái. nhưng nét mặt cô ta nghiêm trang, hơi có vẻ kiêu ngạo , không thèm để ý đến đám thanh niên tuy nhếch nhác với bộ đồ lao động, nhưng từ đẹp trai trở lên ngồi ở băng ghế đá. Khi đến đúng chỗ chúng tôi ngồi, theo quán tính của con lắc, cả 6 cái bánh xốp bung ra lăn vòng vèo trên mặt đường. Sự việc xảy ra rất nhanh, cô ta thoáng quay lại và hơi có vẻ muốn cúi xuống lượm những chiếc bánh đang lăn lóc dưới đường. Thằng Hiền - một đứa trong đám chúng tôi - phản xạ còn nhanh hơn. Nó nói: "Nếu là tao, thì tao không thèm nhặt những cái bánh đã bẩn thỉu này!". Cô gái liếc mắt , nhìn chúng tôi ra vẻ khinh bỉ. Cô ta cũng không thèm nhặt và lại tiếp tục lắc bên phải, lắc bên trái đi luôn. Cô gái vừa đi khuất, thằng Hiền hích cùi chỏ vào thằng Thành ngồi cạnh. Cả hai cùng cười hố hố, chạy ra lượm hết những cái bánh và chia nhau ăn. Chúng nó đưa tôi một cái: "Này! Ăn đi chứ! Bánh ngon lắm. Chắc mới ra lò".
-
Sơ lược tiểu sử “Phụ nữ truyền thuyết Việt Nam”: Quốc Mẫu Âu Cơ (Khoảng 2800 Tr.TL) Theo truyền thuyết, khoảng gần 5000 năm trước, bà Âu Cơ dòng dõi tiên. kết duyên cùng vua Lạc Long dòng dõi rồng, sinh được 100 con trai là con rồng cháu tiên. Về sau, 50 con theo Cha Lạc Long xuống biển, 50 con theo Mẹ Âu Cơ lên núi, đi về phương nam lập ra nước Văn Lang, do người con trưởng làm vua hiệu là Hùng Vương, truyền được 18 đời . Người Việt Nam tôn vinh bà Âu Cơ là Quốc Mẫu. Trong ngày giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, người Việt Nam đều nhớ đến ơn Quốc Mẫu Âu Cơ. Mẹ Âu Cơ, Cha Lạc Long (Tranh Vi Vi) Trưng Vương (40-43) Năm 40 thời Bắc thuộc, Thái Thú Tô Định bắt giết ông Thi Sách chồng bà Trưng Trắc, và đàn áp dân Lạc Việt. Vì nợ nước thù nhà, bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định, đoạt 65 thành và 4 Quận, lên làm vua xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Triều đại Trưng Vương tuy chỉ ngắn ngủi 3 năm, nhưng đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của người phụ nữ Việt, và mở đầu cho nền độc lập nước nhà. Hiện nay có nhiều đền thờ Hai Bà Trưng, và ngày lễ hội kỷ niệm hàng năm vào mồng 6 tháng hai âm lịch. Trưng Vương đánh đuổi quân Hán (Tranh Vi Vi) Công Chúa Hoàng Thiều Hoa (Danh tướng thời Trưng Vương) Bà Hoàng Thiều Hoa người huyện Gia Hưng, tỉnh Thanh Hoá (có sách chép là tỉnh Sơn Tây ngày nay). Không rõ năm sinh, năm mất. Bà là một nữ tướng tài giỏi của Hai Bà Trưng, giữ nhiệm vụ huấn luyện đoàn Nương tử quân. Khi Hai Bà Trưng đánh đuổi xong giặc Hán đô hộ, lên ngôi vua, đã phong tước cho bà là Thiều Hoa Công Chúa. Hiện nay đền thờ Công Chúa Thiều Hoa ở làng Hiếu Quan, huyện Tam Nông. Hàng năm lễ hội kỷ niệm vào các ngày 12, 13 tháng giêng âm lịch. Lê Chân (Danh tướng thời Trưng Vương) Lê Chân là nữ tướng tài ba của Hai Bà Trưng, người làng An Biên, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Không rõ năm sinh năm mất. Trong các trận đánh đuổi giặc Hán đô hộ, bà Lê Chân thường giữ chức tiên phong và nổi tiếng dũng cảm. Khi Hai Bà Trưng lên ngôi, đã giao việc Quốc phòng cho bà Lê Chân và phong làm Thánh Chân công chúa. Bà là người sáng chế ra môn thể thao “đánh phết” rất vui (vui ra phết). Các vua đời sau đều có sắc phong bà làm Thượng đẳng phúc thần công chúa. Hiện nay, đền thờ bà Lê Chân tại làng Mai Động (Hà Nội). Lễ hội kỷ niệm vào các ngày 4, 5 và 6 tháng giêng âm lịch, thường có tổ chức thi đấu vật và đánh phết. Bà Triệu (225-248) Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa năm 248, chống lại quân Đông Ngô cai trị tàn ác. Bà rất can đảm, thường nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì làm thiếp người ta”. Ra trận, Bà Triệu cưỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong, khiến quân Ngô phải khiếp sợ. Nghĩa quân tôn bà là Nhụy Kiều tướng quân. Bà Triệu đã anh dũng hy sinh năm 23 tuổi.Hiện nay có đền thờ Bà Triệu trên núi Gai (núi Ải), làng Phú Điền (Thanh Hóa), và lễ hội kỷ niệm vào ngày 21 tháng 2 âm lịch hàng năm. Bà Triệu Thị Trinh (Tranh Vi Vi) (rongfuongdong) Nguồn: Maiyeuem.net
-
LỜI TIÊN TRI 2009 Chẳng ai muốn những điều tồi tệ xảy ra với mình. Nhưng người ta phải chấp nhận nhựng thực tế khách quan. Nếu biết trước thì tốt hơn là không biết gì. Cơn bão này ở Châu Âu là một ví dụ đầu năm cho lời tiên tri 2009 trên diễn đàn này. ---------------------------- Châu Âu vật lộn với hậu quả cơn bão dữ dội Nguồn VnExpress Chính quyền khu vực tây nam nước Pháp và miền bắc Tây Ban Nha đang sửa chữa lại nhà cửa, đường xá và hệ thống điện bị tàn phá vì cơn bão dữ dội nhất trong vòng một thập kỷ qua tràn vào cuối tuần trước. > Bão lớn tàn phá châu Âu Có 15 người thiệt mạng trong trận bão xuất phát từ Đại Tây Dương mang theo mưa lớn và gió mạnh với tốc độ di chuyển 184 km một giờ này. Thành phố nhỏ Sant Boi de Llobregat của Tây Ban Nha, nằm gần Barcelona, là một trong những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất với 4 trẻ em thiệt mạng do sập mái một trung tâm thể thao. Một chiếc xe bị cây đè nát trong bão tại Biarritz, Pháp, hôm 24/1. Ảnh: AFP. Khi cơn bão tràn tới Italy và miền trung Địa Trung Hải hôm qua thì các đội kỹ thuật được triển khai tại nhiều vùng của Pháp và Tây Ban Nha, nơi bão đã đi qua, để sửa chữa hệ thống đường dây điện, viễn thông và đường ray. Công nhân Pháp đang chạy đua với thời gian để khôi phục cấp điện cho 1,1 triệu gia đình bị ảnh hưởng của bão tại nước này. Khoảng 500 máy phát điện dự phòng được lắp đặt tại các thành phố và làng mạc bị ảnh hưởng của bão tại Pháp. Ngoài ra, 12 chiếc trực thăng cũng được huy động tới các vùng bị bão tàn phá để đánh giá chính xác tình hình thiệt hại bằng cách chụp ảnh. Pháp đang nhận được sự trợ giúp của các kỹ sư đến từ Đức, Anh và Bồ Đào Nha. Ngành đường sắt Pháp triển khai khoảng 1.000 kỹ sư và công nhân để thu dọn những cành cây gãy đổ đè lên đường ray và nối lại những tuyến đường dây điện bị đứt phía trên. Tuy vậy, tuyến đường sắt cao tốc nối thủ đô Paris với Toulouse và một số tuyến địa phương vẫn tê liệt và hành khách mắc kẹt phải chuyển sang đi bằng đường bộ. Đường đi của cơn bão xuất phát từ Vịnh Biscay, tràn qua Pháp, Tây Ban Nha rồi đánh vào Địa Trung Hải và Italy. Ảnh: BBC. Trong khi đó, tại Tây Ban Nha, ngành điện nước này cho biết cơn bão đã gây tê liệt cho 17 tuyến đường dây ở miền bắc. Có hàng chục nghìn người tại Galicia và Catalonia phải sống trong cảnh không có điện sau bão. Các sân bay tại hai nơi này đều bị ảnh hưởng nhưng đã sớm hoạt động trở lại. Hệ thống đường sắt của xứ bò tót vẫn vận hành bình thường, trừ các tuyến liên vận nối với nước láng giềng Pháp. Quân đội Tây Ban Nha cũng đang được triển khai hỗ trợ cho lực lượng cứu hỏa, chống cháy rừng tại Alicante, phía bắc khu nghỉ dưỡng nổi tiếng Benidorm. Đình Chính (theo BBC, AP)
-
Vì cần truyền bá Phật Pháp cho thế nhân qua chính thân xác bất hoại ấy.
-
-
Những bài viết của ông Trương Thái Du trên blog của ông có nhiều tư liệu rất hữu ích. Bởi vậy nó được chép đưa vào đây. Nhưng điều này không có nghĩa là tôi coi những luận điểm của ông ta là đúng. Cùng một hiện tượng, người ta có nhiều các giải thích khác nhau. Một cách giải thích đúng nhất phải được thẩm chứng bằng tiêu chí khoa học. --------------------- Bài cũ trao đổi với học giả An Chi Bài cũ lục từ talawas Tư tưởngLịch sử 8.3.2005 Trương Thái Du Xin được trao đổi với học giả An Chi – Huệ Thiên Võ Thiện Hoa Kính dâng anh linh mẹ Âu Cơ nhân ngày quốc tế phụ nữ 8.3 Trong mục Chuyện Đông chuyện Tây, Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số Tân Niên 523 ngày 20.02.2005, học giả An Chi có luận bàn xung quanh cách giải cấu hai từ Âu và Lạc tại bài khảo cứu “Thử viết lại cổ sử Việt Nam” của tôi. Bài này là kết quả tổng hợp và chỉnh lý từ 4 bài viết về lịch sử đã từng đến với bạn đọc qua talawas và hiện được nhiều trang web sử dụng, sau khi kho sách vnthuquan.net lưu trữ phiên bản đầu tiên tại: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n2n3n2nqn31n343tq83a3q3m3237nvn Tôi rất vui vì được một chuyên gia Hán – Nôm quảng học để tâm tới tiền đề ngữ nghĩa thứ hai trong bài khảo cứu ấy. Tuy vậy, xin được trình bày thêm về phương pháp tiếp cận của tôi, hầu mong thảo luận lại một vài nhận định có vẻ đầy truyền thống của ông An Chi. Đầu tiên xin được định nghĩa "giải cấu là gì?" qua hai trích đoạn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3011&rb=07&von=20: "Deconstruction" được hình thành từ khái niệm "social construct" (Kiến tạo xã hội), một khái niệm thực ra đã thấy có ở Marx trong câu nói nổi tiếng "Con người là tổng hòa các quan hệ xã hội". Các nhà triết học thế kỷ XX như Lacan, Foucault và chính Derrida đã phát triển một cách sâu sắc khái niệm này và cho rằng toàn bộ đời sống xã hội, bao gồm không chỉ triết học, luật pháp, khoa học... mà cả chủng tộc, giới tính và thậm chí ham muốn của con người, cũng chỉ là sản phẩm do xã hội kiến tạo ra (social construct). Nói ngắn gọn, toàn bộ xã hội loài người chỉ là tập hợp các kiến tạo xã hội (social constructs) hoặc đôi khi cũng được gọi là kiến tạo văn hoá (cultural constructs). Vì thế, theo Derrida, để nghiên cứu thực tại (như văn bản chẳng hạn) cần phải thoát khỏi, hay phá bỏ các kiến tạo xã hội (de-construct - giải kiến tạo). Derrida đề xuất cách đọc giải kiến tạo (deconstructive readings), theo đó văn bản không thể được là sản phẩm của một tác giả duy nhất với thông điệp duy nhất, mà chỉ là nơi gặp gỡ, tranh chấp của vô số các mối quan hệ xã hội. (Ngô Tự Lập). http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3037&rb=07&von=20: “Vậy đọc/tư duy/viết triết lý là tuần tự thực hành, can thiệp vào đối tượng nghiên cứu theo bốn bước: Bước đầu: nhận ra sự xây dựng đối tượng khu vực nghiên cứu (văn học, triết học, tôn giáo, xã hội, chính trị,) đã sử dụng, đặt cơ sở trên những cặp đối nghịch nào. Bước thứ hai: nêu rõ cái trật tự, hệ thống lớp lang trên dưới các cặp đối nghịch được gắn vào nhau. Một cách tổng quát, khi ta deconstruct, nghĩa là ta can thiệp vào cái công trình xây dựng nào đó, ta sẽ nhận thấy sự xếp đặt theo một lớp lang, trật tự nào đó không dưa trên những bản chất đích thực của từng cặp nhưng ngược lại nó phản ánh một sự chọn lựa chiến thuật, dựa trên một ý thức hệ chủ trì nào đó. Bước thứ ba: Ðảo nghịch/lộn cái trật tự đã được thiết định của hệ thống bằng cách chỉ/trình bày cho thấy rằng khái niệm ở vế dưới (thể xác, vật chất, cá biệt, ác, nữ...) có thể có lý do chính đáng để được xếp lên trên, vào chỗ những khái niệm từ lâu vẫn nằm trên, đè nén áp đảo. Và bước cuối cùng: lập ra một vế/khái niệm thứ ba cho mỗi cặp đối nghịch, vế mới này biến đổi hẳn cấu trúc nguyên ủy của cặp trước, và đồng thời cũng tái tạo chúng, khiến cho cặp đối nghịch nguyên thủy không còn thể nhận diện được nữa. (Đào Trung Đạo). Như vậy "giải cấu" nôm na là tạm gỡ cấu trúc truyền thống để tìm cái gốc của vấn đề. Truyền thống bao giờ cũng thấp thoáng bóng dáng bảo thủ. Do đó luận điểm kinh viện của ông An Chi không khó hiểu, thậm chí với nhiều bạn đọc, nó rất có lý. Tôi xin ví dụ trong đời sống: theo nghiên cứu lâu nay ai cũng biết, đa số người đời thường có xu hướng chọn người yêu giông giống cha hoặc mẹ mình. Dễ hiểu thôi, đứa bé ra đời trong vòng tay ôm ấp thương yêu của cha mẹ. Cử chỉ, nét mặt của cha mẹ nó là biểu trưng đầu tiên của tình thương và sự an toàn. Khi trẻ trưởng thành, gặp ai đó “giông giống”, lập tức "kinh nghiệm" thơ bé được sử dụng để sinh ra mến mộ, thương yêu, tương tư... Theo tôi chữ Âu mà Trần Thánh Tông dùng cũng vậy. Nó là cái tâm thức Việt sâu thẳm mà ít có khả năng tác giả ý thức được. Cho nên cứ tưởng Kim Âu là Hán văn, nhưng tôi tin sự việc phức tạp hơn nhiều. Để cho bài viết bớt lê thê, tôi đã cắt bớt đoạn trích trong Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Có rất nhiều điều có thể “giải cấu” trong đoạn này, chẳng hạn “Âm là Lạc Long Quân hay Âu Cơ?”. Nó có chứa đựng nội dung mẫu hệ hay không? Thủy - hỏa tương khắc, nhưng hỏa - thổ lại là tương sinh! Mẹ đất, cha nước? Người Việt Nam hay nói “Đất mẹ” và “Quê cha” vậy thì “Quê cha” ở đâu? Ngoài biển ư? Có ai nói “Đất cha” – “Quê mẹ” không? Quyển Văn minh Lạc Việt (có ghi trong phần thư tịch bài viết của tôi), trang 81, Nguyễn Duy Hinh nhận định: “Trong thuyết văn có chữ Âu. “Âu tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh Ân Lâu phản”. Nghĩa là: Âu là chiếc chậu nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu, đọc Ân Lâu phản (tức Âu). Chú ý chữ mà ngày nay đọc Khu lại đồng âm với Âu, điều đó chứng tỏ ngữ âm đã thay đổi. Chữ Âu viết bộ Ngõa chỉ đồ gốm, không hề chỉ ý người”. Thiết nghĩ gốm cũng không xa đất là mấy, hay nói cách khác đất nung thì thành gốm. Ông Trương Củng, một thành viên Hán học của kho sách vnthuquan.net đã bổ luận hộ tôi: “Chữ Âu 甌 ghép bởi chữ Khu 區 (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa 瓦 là ngói. Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu”. Vậy việc tôi đoán định Âu là Hán tự ký âm Việt ngữ với nghĩa Đất không tùy tiện chút nào. Riêng chữ Âu của Hồ Quý Ly thì ông An Chi sẽ không có căn cứ nào mà bảo đó là từ Kim Âu trong Hán văn. Thật vậy, một bạn đọc thân thiết của tôi (yêu cầu được giấu tên) đã hướng tôi đến liên tưởng mơ hồ sau: U = nhô lên = đồi, núi ~ Vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) → Vú em = Dưỡng mẫu U = mẹ ~ bu (mẹ già). Khu (đất) ~ U = mẹ. Cho nên có thể Âu = Khu = U = Mẹ = Đất = Núi. Vậy mẹ Âu Cơ là tiên ở trên đất, trên núi là đúng rồi. Kim Âu của Hồ Quý Ly phải là Núi Vàng, chứ không thể là cái chậu bằng vàng được! Phải chăng lời ru “Ầu ơ” của bên nôi của tất cả chúng ta cũng liên quan đến chữ Âu, đến mẹ đất, đến Âu Cơ người mẹ đầu tiên của cả dân tộc Việt Nam. Với chữ Lạc thì lại khác. Ông An Chi so sánh cách lý giải chữ Lạc là nước của nhiều người đi trước với cách của tôi rồi đưa ra một tam đoạn luận khá ngộ nghĩnh. Nếu ông mở lòng, du di cho rằng tôi đã công nhận Lạc là Nước (qua tham khảo sách vở trong quá trình mày mò viết đoạn ấy) thì ông có thể đồng ý với tôi mọi con đường khác đều đi đến kết quả Lạc là Nước. Ngay cả ông Tây viết sử Việt là Keith Taylor cũng tin Lạc là Nước trong quyển Sự ra đời của Việt Nam khoảng 25 năm trước. Do đó tôi đánh bạo dùng một câu nói của Khổng Tử để luận mà không cần trích dẫn dài dòng, rắc rối. Điều này sẽ dẫn đến nghi vấn: tôi đã đóng góp thêm vào việc chứng minh Lạc là Nước, hay đơn giản như ông nói đó là sự dễ dãi?. Phương pháp tìm nghĩa của tôi là tìm nghĩa trong ngữ cảnh vì tôi không phải là một nhà ngôn ngữ học. Vì thế tôi không tài nào hiểu nổi chữ Nước trong Đất Nước làm sao lại có thể bắt nguồn từ chữ Lược như ông An Chi tin tưởng. Công đoạn cuối với chữ Âu và Lạc tôi đã dùng một thuật toán tiểu học: Nếu Âu đúng là Đất, Lạc là Nước thì nó sẽ đúng trong mọi trường hợp. Sau đó tôi thay Âu bằng Đất và Lạc bằng Nước vào tất cả khái niệm, tên gọi của nền văn minh Thần Nông (tức vùng đất phía nam Dương Tử) có từ tố Âu và Lạc, và thấy không hề có một từ nào trở thành vô nghĩa. Nếu An Chi nói công thức này sai (như tôi đã lường trước trong chú thích của bài khảo cứu), thì ông nên dẫn chứng sẽ thuyết phục được nhiều người. Sau hết, học giả An Chi hình như hơi thiếu kiên trì khi không thử xét kết quả to lớn mà luận đề Lạc là Nước và Âu là Đất đem đến. Phần lớn kết quả này đều có trong bài viết của tôi, ông An Chi vô tình không nhận ra thì tôi thấy rất lạ. Khi áp luận đề kia vào Sử Ký (Nam Việt Úy Đà Liệt Truyện, Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu) và Hán thư (Tây nam di lưỡng Việt Triều Tiên truyện) thì mọi tồn nghi, khó hiểu xưa nay trong ấy cũng sáng tỏ. Thậm chí, nó còn xóa sạch các nghi vấn về dị biệt rắc rối giữa Sử ký và Hán thư. Đơn cử 3 chi tiết sau: Người ta từng thắc mặc tại sao Thái Sử Công nói về chiến tranh giữa Nam Việt và Mân Việt thì lại dùng “Âu Lạc tương công (Âu Lạc đánh nhau với Mân Việt)”. Đơn giản là vì người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà làm vua Nam Việt cũng gọi nơi họ sống là Âu Lạc, và Âu Lạc hoàn toàn có thể là tên Việt ký âm bởi Hán tự của nước Nam Việt. Sử ký: “Cố Âu Lạc tả tướng Hoàng Đồng trảm Tây Vu Vương” – Có thể đây là ông tả tướng của triều đình Nam Việt đã đầu hàng quân Hán. Sử ký: Kỳ Tây Âu Lạc lõa quốc diệc xưng vương (phía tây Âu Lạc là nước trần truồng cũng xưng vương). Hán Thư trong cùng sự kiện lại viết: Tây hữu Tây Âu kỳ chúng bán nuy nam diện xưng vương (phía tây có vùng đất dân chúng mặc khố mà cũng quay mặt về phương nam xưng vương). Hàng trăm học giả người thì bảo Tư Mã Thiên thừa chữ Lạc, người bảo Ban Cố thiếu chữ Lạc, không thể thống nhất. Với luận đề của tôi thì chẳng ai thiếu ai thừa cả, họ đều đúng và còn bổ xung cho nhau nữa. Âu và Lạc đều có thể đứng riêng thành tên gọi vùng đất người Lạc Việt sinh sống. Lạc Việt = Nước Việt, nên Tây Âu = Đất Tây = Tây Âu Lạc (Âu Lạc ở đây là Phiên Ngung). Các phương cách mới tìm hiểu ngữ nghĩa những tên gọi đã đi xuyên qua hơn 2000 năm lịch sử không thể được mọi người quan tâm ngay và sớm đi đến đồng thuận. Cứ như chữ Bia (vừa qua mấy chục năm) ông dùng ví von, vài người Tây học tôi tham khảo đã mâu thuẫn kịch liệt với nhau. Đa số không nghĩ như ông, họ bảo Bia là âm Anh - Mỹ, âm Pháp bị biến thành La Ve kia! Tóm lại, tôi rất cảm ơn ông An Chi đã thông qua một bạn đọc mà đến với nghiên cứu của tôi. Hy vọng sau ông “xông đất”, còn nhiều người nữa sẽ tham khảo cách tôi đã tìm ra ngữ nghĩa các từ “Giao Chỉ, Tượng quận, Cửu Chân và Nhật Nam bằng thiên văn; Lạc Việt, Việt Thường, Âu Lạc bằng giải cấu, so sánh và một phép toán ấu học. Thung Lũng Đa Thiện, Đà Lạt, 04.3.2005 © 2005 talawas Xin chú ý: Bài này có chũ Hán. Nếu không đọc được, thì bạn cần cài một bộ font Hán vào máy. Bọ font Hán free có trên Internet, thí dụ ở địa chỉ www.twinbridge.com (bấm vào 'download')
-
Những bài viết của ông Trương Thái Du trên blog của ông có nhiều tư liệu rất hữu ích. Bởi vậy nó được chép đưa vào đây. Nhưng điều này không có nghĩa là tôi coi những luận điểm của ông ta là đúng. Cùng một hiện tượng, người ta có nhiều các giải thích khác nhau. Một cách giải thích đúng nhất phải được thẩm chứng bằng tiêu chí khoa học. --------------------- Thần cung bảo kiếm Truyện An Dương Vương của người Choang Trước khi các bạn đọc truyện thần thoại Thần Cung Bảo Kiếm của người Choang tại Quảng Tây, xin tham khảo blog Quách nữ sĩ: An Dương Vương là ai? Đó vẫn là một câu chuyện dài… Khoảng năm 1999-2000, giới sử học đã xảy ra một cuộc bút chiến “đẫm…mực”, giữa một bên là phe nghiên cứu sử học của trường Đại học KHXH&NV với một bên là phe các ông Bùi Thiết. Một trong những vấn đề tranh cãi giữa họ là về nhà nước Văn Lang, Thục Phán An Dương Vương và các vấn đề khác thời Tây Sơn. Xin tóm lược cuộc tranh cãi về An Dương Vương như sau: Quan điểm của phe Bùi Thiết: Yên Bái chính là nơi phát tích của An Dương Vương. Quan điểm này được củng cố bởi những chứng cứ sau: dựa trên truyền thuyết dân gian của người Tày gọi là “Cẩu chúa cheng vua” (chín chúa tranh vua). Cùng với truyền thuyết này là một hệ thống truyền thuyết về những cuộc đụng độ giữa Sơn Tinh với Thục Phán, hay chính là cuộc chiến tranh Hùng Vương- Thục Phán xảy ra trên địa bàn từ sông Đà đến sông Lô thuộc đất Phú Thọ , Yên Bái, Hòa Bình, Tuyên Quang chứng tỏ rằng Thục Phán phải ở đâu đó gần kề với bộ lạc Văn Lang….Chứng cớ khảo cổ: sự phát hiện của thạp đồng Đào Thịnh và sự phát triển về nghệ thuật đúc đồng thau ở Yên Bái có liên quan đến nghệ thuật đúc đồng thau ở Cổ Loa…. Quan điểm của phe Sử Đại Học: Anh hùng né, gần như không phản bác lại gì ngoài một vài quan điểm phản bác về thời điểm xuất hiện của nhà nươc Âu Lạc…. Một điều cần phải lưu ý trong cuộc tranh luận này là hai phe tranh luận với nhau về thời điểm, về gốc gác phát tích của An Dương Vương mà không hề đặt ra vấn đề “An Dương Vương liệu có thật trong lịch sử”? 1. Quan điểm của cụ Lê Mạnh Thát là triều đại Hùng Vương có thật, sử liệu còn lưu giữ trong Ngọc phả. Cụ rất coi trọng Ngọc phả nên cháu cung kính thưa rằng An Dương Vương cũng có ngọc phả. (Theo bản Thục An Dương vương sự tích, phần Ngọc phả, do Nguyễn Bính (không phải bác Nguyễn Bính Chân quê đâu đấy) soạn vào đời Lê, Thư viện khoa học xã hội, A.384) 2. Nếu câu chuyện về Hùng Vương và An Dương Vương chỉ là mô phỏng lại cuộc chiến đấu giữa hai chi Kôrava và Pandava trong sử thi Mahabharata thì sẽ giải thích thế nào về một loạt những truyền thuyết về An Dương Vương mà nhà nghiên cứu Đinh Nhật Thận đã khảo cứu được trong truyền thuyết của người Tày, và truyền thuyết về Vua Chủ (theo nghiên cứu của GS Nguyễn Từ Chi, cung kính nghiêng mình trước cụ), những lễ hội liên quan đến truyền thuyết An Dương Vương như Hội Nhội…..vân vân Trước khi kết thúc xin trích một đoạn trong cuốn Góp phần nghiên cứu tộc người của GS Nguyễn Từ Chi (tr.638): “ Thục An Dương Vương là ai? Câu chuyện này cần phải nghiên cứu lâu dài, nhưng tạm thời có thể kết luận : trước Bắc thuộc có một cộng đồng người ở xa sông Hồng (có thể Hán-Thái hay Tạng Miến) đã đến đầu tam giác châu xây dựng tổ chức xã hội như một nhà nước, tự xưng là An Dương Vương và An Dương Vương đã xây nên thành Cổ Loa, thành phòng ngự đầu sông Hồng. Thành Cổ Loa đắp ba vòng tương tự ba vòng thành Xán Mứn của người Thái (mường Thanh). Kiểu kỹ thuật Xán Mứn trùng hợp với kỹ thuật xây thành Cổ Loa và kỹ thuật đắp đê.”……. --------------------------------------------------------------- Thầncung Bảokiếm Thầnthoại Chuang (Tríchdịch từ quyển Trang Tộc Dângian Cốsự Tuyển, do Thượnghải Vănnghệ Xuấtbảnxã ấnhành, Thượnghải, 1984. Trang 131 - 138) Ngườidịch: dchph Thờixưa, Vua Namviệt Triệu Đà được Hoàngđế Trunghoa gởitặng cho một thanh bảokiếm, bèn dùng châubáu ngọcngà chạm lên trên và còn khắc bốn chữ "Hoà Tập Bách Việt", đêm đến thanhkiếm phátquang chóiloà, đúnglà một bảovật. Nhàvua lại mang thanh bảokiếm nầy gởitặng lại Nước Tây Ấu, vua nước Tây Ấu lại sai hoàngtử mang đến tặng cho Nước Lạc Việt. Mụcđích của họ là mongmuốn có sự giaohảo thânthiện vớinhau để giữvững dâulài nền hoàbình đangcó. Hoàngtử nước Tây Ấu mang thanh bảokiếm đến nước Lạc Việt. Tới ngày khi chàng đã đến bênbờ tường kinhthành nước Lạc Việt thì chàng nghethấy tiếng cuờinói huyênnáo vọngra từ nộithành. Vị hoàngtử bèn leo ngồi lêntrên bờtường quansát thì thấy vị côngchúa của Vua Lạc Việt đang luyện bắncung, bắnđâutrúngđó nên đã gâynên tiếng reohò vangdậy. Trong những năm gầnđây nước Lạc Việt gặpnạn bị một thuỷquái quấyphá, làm nước biển nhiềukhi vôcớ tràndâng ngậplụt, cuốntrôi vôsố nhàcửa hoamàu và giasúc, dânchúng mấtcửamấtnhà, lytán khổsở. Vua Lạc Việt chẳng biết làmsao nên mời thầypháp lại làmbùalàmphép. Con thuỷquái bỗng từ dưới nước phónglên nói rằng trừphi Vua Lạc Việt gã côngchúa cho nó nếukhông thì nó sẽ dấybinh tiêudiệt nước Lạc Việt. Vua Lạc Việt không biết phải làm cáchnào đành phải hứa gã côngchúa cho nó, nhưng ngài lại yêucầu con thuỷquái phải đíchthân đến cungđình cầuhôn. Nhưng đến ngày con thuỷquái tới cungđình cầuhôn mọingười ainấy đều thấy con yêutinh hiện nguyênhình: đầurắn, thấplùn, lưng mang vỏ rùa. Nàng côngchúa trôngthấy, lòng ngậptràn oánhận, không một chút dodự rút kiếm ra chém "phựt" một cái bay đứt cổ con yêutinh và nó ngã lănra chết. Ngườita đồnđại là con yêuquái nầy có nanhvuốt rất linh, nếu nanhvuốt nầy vẫncòn, chẳngbaolâu thì con yêuquái nầy sẽ hồisinh trởlại nguyênhình. Dođó, côngchúa bèn chặtđứt bốn chân con yêu ra, thẻo nanhvuốt nầy ra, dùnglàm bánsúng cho cái nỏ. Từđóvềsau, tàinghệ thiệnxạ của nàng côngchúa ngàycàng khởisắc, bắn đâu trúng đấy. Nhờthế tiếngvang lankhắp mọinơi, aiai cũng đều biết nàng côngchúa có một cây nỏthần, và rất nhiều bộlạc lớnnhỏ khắpnơi về quyphục nước Lạc Việt. Chính cũng vìthế, côngchúa lạ càng trởnên kiêuhãnh, mỗilần nàng tậpluyện bắn cung, chỉ cho ngườixem hoanhô khen chứ không cho phêphán ồnào. Hômđó, khi nàng đang luyện bắn cungtên trong vườn thànhnội, cái đích một cành liễu cột lũnglẵng một xâu lá trầu, và nàng nhấtquyết sẽ bắn trúng cành liễu và sẽ làm cái xâu lá trầu rơi xuống đất. Hoàngtử nước Tây Ấu đang ngồi trên bờtường đang ngắmnhìn nàng côngchúa bắnnỏ. Chàng chỉ thoáng thấy nàng côngchúa giơ câynỏ lên, kéo dâycung rồi bungra, mũitên phóngvụt đến cành liễu, đường tên bay khônghề bị xêdịch đâm phụp đúng vào cành liễu có treo xâu lá trầu. Hoàngtử bấtgiác vỗtay hoanhô ầmĩ. Chính vìthế làm nàng côngchúa nổigiận lên tựhỏi không biết ai chophép người nầy nhìntrộm nàng bắnnỏ? Togan thật! Nàng một tay vừa cài tên giương nỏ, mắt vừa quayqua liếcnhìn về phía bờtường thì trôngthấy một chàngtrai ngồi đó đang giương đôimắt nhìnngắm nàng. Côngchúa giận quá, nàng buông dâycung, mũitên liền bậtra hướngvề tầm ngực của chàngtrai phóngvụt đến. Chỉ trong chớpnhoáng, chỉ thấy chàngtrai ungdung rút thanhkiếm ra chờ mũitên baytới rồi gạtngang một cái, mũitên chợt trông giống như một chú chim xìu cánh rơirụng ngay xuống đất. Nàng côngchúa liền giương nỏ bắn liền ba phát, chàng hoàngtử đều vung kiếm gạt phắt hết ba mũitên. Nàng côngchúa cảmthấy kỳlạ, nhậnra thanhkiếm của hoàngtử có thầnlực, bèn kêu chàngtrai mang đến nàng xem nhưng chàng trùtrừ không lại. Côngchúa hỏi chàngtrai từđâuđến? Tới kinthành để làmgì? Chàngtrai trảlời chobiết mình là hoàngtử nước Tây Ấu, đến kinhđô nước Lạc Việt là để giaohảo đôibên. Chàng yêucầu côngchúa dẫn chàng đi gặp Vua Lạc Việt. Côngchúa nghĩthầm nếu để hoàngtử mang bảokiếm vào gặp phụvương rũi chàngta rút kiếm ra chém vuacha thì chắc nước chết, nàng liền đưara hai điềukiện: mộtlà chàng hoàngtử khôngđược mang thanhkiếm trênngười đến diệnkiến nhàvua, chàng phải trao thanhkiếm cho nàng giữ; hailà nếu chàng nhấtđịnh phải đeo kiếm thì chàng phải chịu bị tróicột lại mới được gặp vuacha. Chàng Hoàngtử đồngý chịu để cho nàng tróilại, khôngchịu để kiếm rời thân. Thếlà hoàngtử chịu tróilại để điđến gặp Vua Lạc Việt. Khi gặp nhàvua, hoàngtử bèn dângtặng vị vua nầy thanhkiếm có khắc bốn chữ "Hoà Tập Bách Việt", nói là chàng thaymặt cho phụvương đến giaohảo hoàbình với Vua Lạc Việt. Vua Lạc Việt thấy hoàngtử khôingôtuấntú, phẩmđức đều tốt, cóý muốn nhận chàng làm phòmã, nhưng lại engại côngchúa lại khôngchịu nên nhavua bèn hỏi ýkiến cô côngchúa. Thựcra trong thâmtâm nàng côngchúa đã sinhra lòng áimộ, nhậnthấy việc hoàngtử chịu trói đểđược diệnkiến vuacha chứ khôngchịu traogửi thanhkiếm cho nàng giữ là hànhvi bấtkhuất anhhào. Nghethấy vuacha hỏi ýkiến mình, nàng bấtchợt khôngkhỏi thẹn ửng máđào, nàng nói: -- Tuỳý phụvương địnhđoạt! Saukhi hoàngtử cùng côngchúa kếthôn, haingười thươngyêu nhau thắmthiết, như trâu với cau. Chẳngbaolâu sau, hoàngtử nhậnđược tin Vua Tây Ấu lâm trọngbịnh, chàng bèn từbiệt Vua Lạc Việt và côngchúa để vềnước thăm vuacha. Nàng côngchúa sợ đườngxá xaxôi trắctrở, nàng bèn lấy thanhkiếm "Bảo Tập Bách Việt" traocho hoàngtử đeo vào người. Hai người quyếnluyến không nở rời nhau. Saukhi hoàngtử vềnước rồi, côngchúa cảmthấy cungthất lạnhlẽo làmsao, tronglòng trởnên sầumuộn, nàng đâmra biếnglười luyệnvõ, cungnỏ cũng khôngbuồn rớtới. Cólúc nàng chợt tưởng có bóngdáng hoàngtử thấpthoáng ngoàisân, nhưngsao nàng đợi mãi mà chẳng thấy chàng đẩy cửa bướcvào. Nàng ra mở tung song cửasổ, nhưng nàng chỉ thấy một chú quạ kêu "yaya" rồi baymất. Vào một buổisáng nọ, khi côngchúa mớivừa mở cửa phòng độtnhiên trôngthấy một người xông vào phòng. Nhìn kỷ lại thìra là hoàngtử. Côngchúa rấtlà vuimừng, chẳng kịp hỏi chàng từđâu về là đã đưa chàng vào phòng. Cái anhchàng hoàngtử nầy mới bướcvào phòng là lậptức đưamắt ngó ngay về hướng nơi có treo chiếcnỏthần, mắt ngó láoliên. Côngchúa cảmthấy kỳquặc liền nói: -- Mớicó đixa mấy ngày, bộ chàng không nhậnra chỗ ở nữa à? Chàng hoàngử nói: -- Sao trên kia lắm bụibặm vậy? Côngchúa nói: -- Từ ngày chàng vềnước đếngiờ, thiếp côđơn mộtmình, nào còn tâmtrí gì đâu để tậpluyện bắn cung? Hoàngtử lấyngay cungnỏ xuống. Côngchúa nhậnthấy cửchỉ này cóđiều dịthường liền chạytới ngăncản. Hoàngtử nói: -- Uydanh của côngchúa dựa hết vào chiếcnỏthần nầy. Giảnhư không có chiếnỏ nầy, mình nghĩ là uydanh của nàng không lừnglẫy như bâygiờ. Dođó mình yêu chiếcnỏ nầy chính là vì yêu côngchúa đấy! Vừa nói chàng vừa giươngcung bắntên ra ngoài khungcửasổ, nhưng chỉ thấy khi mũitên vừa lìa rakhỏi nỏ là bay trệchhướng đi, bay chẳngbaoxa là rơirớt ngay xuống đất. Côngchúa nói: -- Chiếcnỏ nầy nhờcó chiếcmóng của con yêuquái dùng làm cò, không có nó là bắn không trúngđích đâu. Vợchồng ănở vớinhau bấylâunay, bộ chàng không còn nhớ việc nầy nữa chăng? Hoàngtử nói: -- Đâuphải quên, tại côngchúa quên đưacho mình cáimáong của yêutinh. Xin côngchúa lấyra cho mình xem nào, sẵntiện luyệntập bắptay mộtchút xemnào! Côngchúa tưởngthật bèn thò trongngười lấy chiếcmóng yêutinh ra traocho hoàngtử, cùnglúc nàng chợt nhậnra hoàngtử không đao thanhbảokiểm trên người, nàng liền hỏi: -- Hoàngtử, sao chàng không mang thanhbảokiếm vềlại? Chàng hoàngtử nầy chợtnhiên cuốngquýt lên, nói: -- Tại mình nhớ côngchúa quá, mộtmình lén phụvương trởvề đây. Bâygiờ để mình quayvề lại lấy thanhkiếm. Vừa nói xong, tay cầm chiếcnỏthần và chiếcmóng yêutinh ngãnhào xuống đất, độtnhiên hoàngtử biếnthành conquạ kêu "yaya" rồi baymất. Tin nầy truyền tới tai vua Lạcviệt, ngài liền cho triệutập quầnthần lại thươngnghị. Quầnthần đều chorằng đây là vận xấu của vua nước Tâyâu, làmmất chiếcnỏthần, chắcchắn thếnào cũng mang quân chinhphạt nước Lạcviệt, thếthủ chibằng thếcông, hãy cho dấybinh tấncông nước Tâyâu trước. Lúc bấygiờ, vua Tâyâu mới vừa mất, cảnước mới cửhành đámtáng, hoàngtử nước nầy còn đểtang, nghenói vua nước Lạcviệt dấyquân sang đánh, cảmthấy mình khólòng ứngchiến, bèn tínhchuyện đơnthânđộcmã đi hộikiến vua nước Lạcviệt để hỏira cho rõ ngọnngành. Dođó hoàngtử không thay áogiáp, đeo trên mình thanhbảokiếm "Hoà Tập Bách Việt", phóngmình lênngựa phimã chạyra biênải. Khi hoàngtử đến nơi biênải thì chaoơi! Binhmã của vua Lạcviệt đã bốtrí trànđầy khắpnơi đennghịt dàyđặc. Mặt sôngnước nơi binhlính họ lội qua, sủibọt đenngòm, tômcá chết nổi lềnhbềnh khắpnơi. Binhlính trànqua rừngnúi đá là mọithứ như đều đỗngã hết xuống, cỏcây điêutàn. Mộtmình hoàngtử thì làmsao chốngcự lại đước muônvạn binhmã nước Lạcviệt, đànhphải nhắm ngay doanhtrại vàng tolớn, chàng đoán đó là nơi vua Lạcviệt haylà côngchúa trú nghỉ. Chàng hoàngtử nầy xemra cũng rất lợihại, thân mộtmìnhmộtngựa, xông tới hàngrào doanhtrại, làm đỗgãy sụpnát hết dãy hàngrào. Vua Lạcviệt đang ngồi trên mình ngựa trôngthấy binhmã của mình hỗnloạn, bèn hạlệnh cho hằngngàn cungthủ giương cungtên nhắm về phía hoàngtử mà bắn. Hoàngtử mình đeo thanhbảokiếm, chỉ thoángthấy chàng rútra hoa kiếm là hằngngàn mũitên rơirụng như mưa, thânmình chàng thì chẳng chút hềhấn gì. Vua Lạcviệt trôngthấy đâmra hoảngkinh, mắng côngchúa: -- Xem thằngchồng phụbạc của mầy kia, nếu mầy không giếtchết nó, đừng có về đây nữa gặp tao. Nàng côngchúa vừa xấuhổ vừa tứcgiận, vộivã cầm thương lênngựa, nhắm ngực hoàngtử đâmtới. Hoàngtử vộivả néđôngtránhtây, mấy lần lấy kiếm hất mũigiáo của côngchúa ra, chàng nói: -- Côngchúa saolại phẩnnộ thếnầy? Bỗngnhiên mangquân xâmlấn bờcõi, nay còn chínhtay mình muốn giếtchết chồng? Côngchúa nói: -- Nhàngươi còn dám nói! Phụvương có làm điềugì saitrái đốivới ngươi? Ta đây có làm gì quấy đốivới nhà ngươi đâu mà nhàngươi đánhcắp chiếcnỏthần quốcbảo, lạicòn chuẩnbị dấybinh xâmlấn nước ta. Cái conngười vôtâmbộibạc như nhàngươi không giếtchết chorồi thì lấy gì để tạlỗi nướcnhà của ta đây, hả? Hoàngtử nghe côngchúa nói vậy bèn cảmthấy chưnghửng ra không biết biệnbạch đốiđáp thếnào. Nàng côngchúa tưởng hoàngtử nhìnnhận chuyện nầy, liền thừacơ phóng giáo đâm tới, ngờđâu trên thânmình hoàngtử nhờcó đeo thanhbảokiếm "Hoà Tập Bách Việt", thanhkiếm nầy tựđộng hoágiải mọithứ cứu hoàngtử khỏi trúng thương. Kẻnkẻn hai tiếng, ngọn giáo của côngchúa bị cảnlại và còn làm ngọngiáo gãy rụng đứtlìa. Hoàngtử phóng người nhảy xuống ngựa, quỳ ngay trướcmặt côngchúa, hai tay nâng thanhbảokiếm "Hoà Tập Bách Việt", khóclóc mà nói: -- Nghĩ đến tìnhnghĩaphuthê bấylâunay, không làm điềugì saitrái cả. Chẳngqua thụthân lâm trọngbịnh đànhphải quayvề nước, định thânphụ hếtbệnh là trởvề đoàntụ với côngchúa, nàongờđâu thânphụ bănghà. Giờđây cảnước đểtang, rôi lại thấy nước của nàng dấybinh sang đánh, mình đây vì sinhlinh bátánh, liềumình một thân một ngựa ra lâmtrận. Nàng nếu quả muốn giết mình thì rất dễ thôi, chỉ tiếc là nàng bị trúngmưu kẻ gian. Làmgì có chuyện đánhcắp nỏthần? Giờđây để chứngtỏ tấmlòng của mình, xin dâng thanhbảokiếm nầy, nàng muốn giết mình thì cứ xuốngtay!" Nói xong, hoàngtử hai tay nâng thanh kiếm lên. Côngchúa tiếpnhận thanhkiếm, nhớlại cảnhtượng hoàngtử mưumô đánhcắp chiếc nỏthần, quảthục nàng cảmthấy cửchỉ của kẻ đó với vị hoàngtử nầy không giốngnhau, nhưng côngchúa lại esợ để tìnhcảm lấnáp lại bị mắcmưu thêm lần nữa. Đangtronglúc côngchúa còn trùtrừdodự bấtquyết, vị vua Lạcviệt đúng lúc ấy đang ở đằngsau nổitrậilôiđình, ngài ralệnh: -- Tấtcả nghe đây, ta hôlên đến tiếng thứ ba nếu mà côngchúa vẫn chưa chịu xuốngtay giếtchết thằngchóchết đó, cónghĩalà côngchúa vẫncòn bị nó mêhoặc, quânbay cứ xảtên bắnchết cảhai đứanó cho ta. Nếumà ta hô đến tiếng thứ hai mà côngchúa giếtchết thằng giặc đó rồi thì chúngbay hãy thuhồi cungtên lại, quânbay có nghe chưa? Lệnh vua đã banxuống, quânsĩ cảđoàn baovây vịhoàngtử và nàng côngchúa lại, giươngcung nhắm haingười, chuẩnbị buôngcung. Hoàngtử nói: -- Côngchúa, xin hãy giết mình đi! Nàng khỏi bị vạ lây. Côngchúa suyngẫm lại, chơt tỉnhngộ biết rằng người đoạt chiếc nỏthần trướcđây là do yêutinh giảdạng, nhưng khi phụphân nàng không cho cơhội giảithích tựsự, biếtlàmsaođây? Côngchúa chẳng biết tínhsao, nàng bậtkhóc tứctưởi. Ngườita chỉ nghe vua Lạcviệt hôlên "một, hai", khi chưa đếm đến ba thì vị hoàngtử longại mình và nàng côngchúa sẽ cùng chịuchungsốphận bị nátthây dưới làn tên, bèn đua lưỡiliếm kề lên cổ cứa ngang, ngãlănra cheat. Côngchúa trôngthấy vộivả nhảy xuống ngựa, ômlấy thithể hoàngtử vào lòng, nằngphục trên người chàng khóc nứcnở. Tườngsĩ nhìnthấy cảnhtượng, taychânbủnrủn, buôngrời cungtên, chodù vua Lạcviệt đã hô đến tiếng thứ ba nhưng chẳng có ai bắn ra mũitên nào cả. Vua Lạcviệt cảgiận, đang định nổitrậnlôiđình với đám tướngsĩ cảilệnh của ngài, độtnhiên hétlên một tiếng "Áichà", rồi đưatay ômlấy ngực. Các tướngsĩ vộivàng chạy đến đỡ, chỉ thấy một mũitên đâm thẳng từ sau lưng ngài xuyênthấu ra trước ngực. Đám tướngsĩ quayđầulại nhìn thì nhìnthấy nguyên con yêutinh tay mang nỏthần dươngdươngtựđắc đứng từ phía bênkia đầunúi cười vang: -- Nỏthần đang ở trong tay ta đây! Nói xong chỉ thấy con yêuquái nhảylên, biếnthành một con quạđen, nhắmhướng côngchúa baytới, xàxuống đất xà một vòng đứng hiệnnguyênhình đầu rắn, đuôi thỏ, ngườingợm thấplùn, đeo khiênggiáp đen. Nó nói: -- Côngchúa, ta và ngàng có duyênnợ vớinhau, hãy thànhhôn với ta đithôi! Nóixong nó bướclại níu người côngchúa. Nàngcp6ngchúa cựckỳ phẫnnộ, quayđầulại tátcho nó một bạttai làm mặtmũi thầntrí con yêutinh chángváng lạngquạng đứng không vững. Nó bèn xoayngười một vòng phóng đứng lêntrên một ngọnđồi, nói: -- Côngchúa hãy ngheđây, hồitrướcđây ta biếnthành hoàngtử đến cungviện của nàng, sởdĩ ta không dám đến gần nàng bờilẽ ta chưa lấylạiđược cái móngvuốt của ta, naythì cái móngvuốt nầy đã trỡvề tay ta, giờđây thânthể ta là mìnhđồngdathép, lạithêm có chiếc nỏthần trênngười, ta cóthể cướpmạngngười nàng bấtcứlúcnào. Nay ta ra hạnđịnh bắt nàng làm vợ ta, nếukhông ta sẽ dùng nỏthần bắnchết nàng là xongđời nàng ngay đây! Nàng côngchúa phẫnnộ nhìn gã yêutinh nhưng không nói gì. Con yêutinh kia bỗngnhiên cuộntròn mình dướiđất, rồi biếnthành vócdáng chàng hoàngtử rồi tiếnlại phía nàng, vênhmặt cười rồi nói: -- Côngchúa, nếu nàng thích vócdáng chàng hoàngtử, thìđây ta sẽ biếnthành conngười đó vĩnhviễn cho nàng, mình hãy lấynhau cho rồi. Nàng côngchúa độtnhiên nhớlại là chàng hòngtử đã trao cho nàng thanhbảokiềm "Hoàtập Báchviệt", nàng cóthể dùng để ngăncản cungtên, bèn nâng thanhkiếm chém vụt con yêuquái. Con yêutinh rất lanhlợi, vừa thoáng thấy thầnsắc của côngchúa và vừa cảmthấy một luồng khí lạnh vụt tới, liền rụtđầu lại, nhàolăn xuốngđất biếnthành con quạđen bayvù đến ngọnđồi đằngkia. Nó đứng trên ngọnđồi kia lớntiếng nói: -- Nếu nàng không nghelời, ta bắn nỏthần đây! Côngchúa huơ thanhbảokiếm, phithân nhảylên ngựa, phóng vềphía gã yêutinh. Con yêuquái trôngthấy, liền giương nỏ bắn tên, nàongờ khi mũitên khi bay gầnđến người côngchúa liền bị nàng dùng kiếm gạtphăng đi rơi xuống đất. Ba lần nhưvậy thì nàng côngchúa đã tiếntới trước gã yêutinh. Con yêuquái mình đốiđịch khônglại bèn phóngchạy xuống biển. Khi nó chạy tới bên bờbiển, quayđầu lại nhìn nàng côngchúa đang đuổitheo, nói: -- Haythay côngchúa, cảmơn nàng đã tiển ta đến tận bờbiển, ta vẫn cứ nói với nàng là: nếu nàng không chịu làm vợ ta, thì ta sẽ làm dâng nước biển ngậplụt nước của nàng, tớikhiấy, nàng mới biết được sự lợihại của ta! Con yêutinh nói xong liền phóngngười xuống biển. Nàng côngchúa esợ không đuổitheosát kịp, lậptức phóngvụt thanhkiếm về phía nó. Chỉ nghe phập một tiếng, đầu con yêuquái liền bị thanhkiếm chémđứt. Nàng côngchúa sợ con yêuquái lại hoànhình quấyphá, nên đã làm thì cho đếnnơiđếnchốn, nàng bèn phânthây con yêutinh thành đốngthịt vụn, mang vunvãi khắp đồinúi không để cho nó còn cơmay hiện nguyênhình. Côngchúa giếtchết con yêuquái xong, cầm thanhkiếm lặngnhìn rồi bậtkhóc nứcnở. Nàng cứ khóc mãi khôngngừng, những hạtlệ biếnthành xâuchuỗi trânchân rơixuống biểncả được những contrai nhặt và ngậm vào hàm. Máuhuyết của chàng hoàngtử đỗrơi trên mãnhđất Lạcviệt, bỡilẽ nó còn tinhkhiết chonên hoáthành dòngsuối thanhtuyền. Chođếngnàynay, khi ngưdân bắtđược contrai cạyra là tìmthấy châungọc gọilà ngọctrai, và họ nhấtđịnh phải mang những viênngọc này đến dòngsuối thanhtuyền rữasạch. Ngườita truyềntụng rằng ngọctrai nếu được rữasạch với dòngsuối nầy thì viênngọc sẽ sánglónglánh không một thứ nước nào cóthể sánhbằng. dchph dịch Địaphận lưutruyền truyềnthuyết nầy: vùng Kimlong, Huyện Longchâu, Tỉnh Quảngtây, Trunghoa Người kểtruyện: Nôngdân bôlão Người ghichép và hiệuđính lại: Lam Hồng-Ấn
-
-
Triệu Mạt và Văn hóa Đông Sơn Nguồn: Blog Trương Thái Du. http://au.blog.360.yahoo.com/blog-V8i4lZgl...x=139&lmt=5 Entry trước tôi viết theo trí nhớ về nhận xét của ông Tạ Chí Đại Trường nói đến dấu ấn Đông Sơn trong lăng mộ Triệu Mạt. Và quả thực sau khi tra kỹ sách vở, tôi hoàn toàn đúng. Ông Trường viết : Việc phát hiện mộ Triệu Mạt / Triệu Văn Vương, cháu Triệu Đà cho thấy dấu vết Đông Sơn đậm đà trên vùng Quảng Châu ngày xưa vì hình tượng người lông chim trang trí trên tường mộ đã không khác trên trống đồng tí nào mà còn mang tính hoành tráng hơn. Xin khẳng định các bức tường đá trong lăng Triệu Mạt không hề có bức trang trí nào. Bức trang trí trên tường mới (đầu entry) là phục chế lại bức tranh trên một chiếc thạp Đông Sơn theo trình tự sau: Ảnh 1. Kho đồ tùy táng lúc mới mở huyệt mộ. Nhìn rõ chiếc thạp Đông Sơn. Chiếc thạp này có lẽ từng có nắp nhưng đã bị mục nát. Ảnh 2: Chiếc thạp sau khi được vệ sinh sạch sẽ. Những hình vẽ như trên trống đồng hiện ra. Ảnh chụp từ sách Nam Việt Quốc Sử, tác giả Trương Vinh Phương GS ĐH Trung Sơn, Quảng Đông nhân dân xuất bản xã, 1995. Triệu Muội hay Triệu Mạt Tên của Triệu Văn Vương (cháu Triệu Đà) ghi bằng chữ triện trong 2 cục phong nê tìm thấy trong mộ là 赵眜. Đọc đúng là Triệu Mạt vì chữ Mạt này gồm hai phần Mục (目) và Mạt 末. Rất dễ nhầm lẫn giữa Muội 眛 và Mạt 眜 vì Muội = Mục (目) và Mùi (未). Mạt và Mùi chỉ khác nhau ở chỗ hai nét ngang dài ngắn đổi chỗ cho nhau. Thực ra Mạt và Muội trong các sách cổ TQ ngàn năm trở lại đây thì đồng nghĩa và hay dùng lẫn lộn. Chỉ xin lưu ý không nên dùng nghĩa Mạt/Muội = mắt mờ (của hôm nay), vì biết đâu thời Triệu Đà cách nay hơn 2000 năm, chữ Mạt mang nghĩa khác. Chữ Mạt này cũng không có trong quyển từ điển đầu tiên của TQ là Thuyết Văn. Điều này có thể dẫn đến việc chữ Mạt là phương ngữ của Nam Việt. Hay nói cách khác, có khi đây là CHỮ NÔM ĐẦU TIÊN CÒN CHỨNG TÍCH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM. Nếu là người TQ thì không nên phân vân gì cả. Nhưng người Việt Nam lại khác. Chữ Mạt 眜 tiếng Nôm đọc là MẮT. Đặc biệt trong Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quí Đôn có dẫn rằng thời Trần người VN gọi MẶT TRỜI là BỘT MẠT. Chúng ta đã ở rất gần, rất gần với một tia hy vọng: Mạt là chữ Nôm đầu tiên của dân tộc VN còn chứng tích lưu lại và Mạt nghĩa là thiên tử, là trời. Tuy vậy tôi xin dừng ở đây vì sở học của mình rất hèn kém. Không dám đi sâu hơn nữa. Một số nhận xét trên chủ đề: 1. Mộ Triệu Mạt (hay Triệu Hồ theo Sử Ký) có thạp đồng, thạp tùy táng nhưng không đập vỡ như truyền thống Đông Sơn. Thạp này người TQ luận là để đựng rượu, trong khi văn minh Đông Sơn có thể đựng nước, ngũ cốc. Không loại trừ chiếc thạp này là sản phẩm giao lưu văn hóa giữa Đông Sơn và Phiên Ngung. 2. Các di vật trong mộ cho thấy tầm vóc phát triển rất cao của kinh đô Nam Việt. Hơn tầm vóc Đông Sơn rất nhiều và mang đậm dấu ấn văn minh Hoa Hạ. Đơn giản vì họ Triệu là người Hoa bắc. Việc xuất hiện các miếu thờ Triệu Đà, Lữ Gia ở Việt Nam có khả năng cho thấy một cuộc di tản chính trị lớn bằng đường biển của người Nam Việt sau khi Phiên Ngung thất thủ. 3. Vậy phải chăng người Kinh ở VN hiện nay là con cháu hợp huyết của cư dân Đông Sơn bản địa và người Nam Việt di cư? Monday 19 January 2009 - 05:14PM (ICT) Permanent Link | 20 Comments Dịch bài qua tiếng Trung Hôm nay tình cờ thấy bài này, vốn đăng ở BBC đã được trang boxun.com dịch từ tiếng Việt qua tiếng Trung. Boxun.com là một trang báo mạng từ Mỹ, bị chặn ở TQ. Mấy năm nay tôi luôn hy vọng bài này được dịch qua tiếng Trung cơ. Nhưng chưa có ai giúp cả, dù cũng đã đôi lần nhờ vả (và sẵn sàng thỏa thuận nhuận bút). Thực tình "sự nghiệp" khảo sử của tôi chỉ gói gọn bấy nhiêu. Nếu người TQ tham kiến bài này, sẽ bật mở rất nhiều những khoảng trống thời sơ sử khu vực phía nam của họ. Saturday 17 January 2009 - 11:25AM (ICT) Permanent Link | 1 Comment Tạ Chí Đại Trường Hôm nay đọc bài này của bác Trường: Việc phát hiện mộ Triệu Mạt / Triệu Văn Vương, cháu Triệu Đà cho thấy dấu vết Đông Sơn đậm đà trên vùng Quảng Châu ngày xưa vì hình tượng người lông chim trang trí trên tường mộ đã không khác trên trống đồng tí nào mà còn mang tính hoành tráng hơn. Cứ sợ trí nhớ phỉnh nên đành phải nhờ thằng google cho xem ảnh, cho chắc. Vẫn không thể tìm được bất cứ hình tượng người lông chim nào trang trí trên các vách đá của mộ. Ảnh trên là trang trí ở một bức tường của Viện bảo tàng, lấy nguyên mẫu từ thân của một chiếc thạp đồng trong mộ. Ảnh 1: Thạp đồng Ảnh 2: Họa tiết trên thạp Chỉ một chi tiết rất nhỏ thôi, có thể làm đứt gãy hẳn một bài khảo cứu công phu. Thậm chí biết đâu nó sẽ chạy tuột vào những trang sách giáo khoa, qua việc copy của các luận văn tiến sĩ giấy, gây nên ngộ nhận đời đời... ----------------------- Lời bàn của Thiên Sứ: Với những chứng cứ khảo cổ rõ cứ như ban ngày này rồi làm sao nhỉ? Việt sử 5000 văn hiến hay tổ tiên ta chỉ là 15 bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố đây? Thảo nào, họ cố gắng chứng minh rằng nhà Triệu không thuộc sử Việt. Thiên Sứ tôi luôn không bao giờ coi di sản khảo cổ là bằng chứng duy nhất minh chứng cho sử Việt, Và luôn luôn nhất quán với điều này.
-
Sinh năm Nhâm Thìn 2012.Chúc mừng năm mới. Vạn sự an lành.
-
Nếu vợ Canh Thân thì sinh Năm Mậu tý vùa qua là đẹp nhất. Bây giờ chỉ còn cách chở đến năm Nhâm Thìn.Chúc mừng năm mới . Vạn sự an lành.
-
Kumagai có thể cho biết chi tiết hơn về tài liệu này không?
-
Sinh Năm Canh Dần là Tốt nhất. Trai gái đều tốt. Năm mới xin đừng hỏi câu có phải Canh Dần là Canh Cô Mồ quả không?Chúc mừng năm mới. Vạn sự an lành.
-
Đáng lý ra Thiên Sứ tôi nếu có tiền sẽ ra tham dự cuộc hội nghị này ở Bắc Ninh - mà chính xác là ở đền Đô. Hàng năm tôi vẫn thường tham gia chung với họ - "Trung tâm nghiên cứu UNESCO nghiên cứu và ứng dụng văn hóa Á Đông" mà tiền thân là Câu Lạc Bộ Thăng Long Dịch học Nghĩa Kỳ . Rất tiếc, tôi không còn đủ tiền để mua vé máy bay. Nên đành lặn luôn. Cũng may, nếu không tôi sẽ có thể có tên trong bảng phong thần này của BBC. Một trang web hoàn toàn thiều tính khách quan khi thông tin về những nghiên cứu cổ sử Việt. Với BBC chỉ có những người có quan điểm phủ nhận những giá trị văn hiến Việt được nhắc nhở. Thí dụ như Trần Quốc Vượng... Bây giờ có vẻ như BBC muốn giới thiệu những vấn đề "tâm linh". Thiên Sứ tôi thì chỉ nhân danh khoa học. Còn nếu về tâm linh thì Thiên Sứ tôi không có gì để nói, nhưng không phải không biết gì về điều này. Tôi đưa bài này lên để anh chị em tham khảo những lời tiên tri 2009 - Kỷ Sửu được BBC giới thiệu. * Vận nước sẽ sáng lên Nguồn BBC Hạnh An gửi cho BBCVietnamese.com từ Hà Nội Con trâu chăm chỉ và nhẫn nại Năm 2009, vận nước Việt Nam sẽ 'sáng' lên, với những chuyển động mạnh mẽ và phức tạp. Tuy nhiên, cũng có dự đoán rằng có thể có xung đột trên biển, có “thương hỏa giao chiến ở phương Bắc” và những mối lo trên trường quốc tế của Việt Nam sẽ không giảm bớt... Đó là một vài ý kiến mà giới nghiên cứu đưa ra tại lễ ra mắt mới đây của Trung tâm UNESCO nghiên cứu và ứng dụng văn hóa Á Đông tại Bắc Ninh. Đất nước sẽ 'sáng' lên Nhà văn Xuân Cang, một nhà nghiên cứu Kinh Dịch, ngạc nhiên và nửa mừng nửa lo khi thấy vận hội đất nước trong năm 2009 ứng với quẻ Thuần Ly - hai lần sáng. Ông cho rằng đất nước trong năm Kỷ Sửu sẽ sáng lên rực rỡ, sẽ lợi về sự chính đáng, "nếu biết nhu thuận lại càng tốt hơn". "Lợi về chính đáng vì nếu biết nương tựa, giúp đỡ nhau đi vào con đường chính đáng. Nếu ngược lại thì cái xấu sẽ được nhân lên." Thế nhưng nhà văn Xuân Cang cho rằng quẻ tốt nói vận nước sẽ sáng lên vượt khỏi nơi ảm đạm, khó khăn, nhưng được quẻ tốt thì chủ thể của nó cũng phải tốt mới “đứng” được với những điều tốt mà khách quan đưa lại… "Nếu không được như vậy thì sáng rất có thể trở thành đen tối." "Bậc minh chủ lãnh đạo cần có cái đức sáng mới có thể lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn, mới phát huy được cái “sáng của”quẻ Thuần Ly." Ông cũng tin rằng các nhà trí thức sẽ là chủ thể của quẻ Thuần Ly, là nhân tố chính có thể làm cho đất nước “sáng” lên. Điều cần đề phòng là tâm lý nóng vội muốn vượt nhanh ra khỏi khó khăn một cách duy ý chí, có thể làm xuất hiện nhiều xáo động trong xã hội… Chuyển động phức tạp Những dự báo cho năm 2009 được các nhà nghiên cứu tham gia buổi bàn luận tìm tòi trên cơ sở các phương pháp khác nhau, xoay quanh ba chủ đề chính: biến đổi của thời tiết, khí hậu; kéo theo đó là ảnh hưởng tới đời sống con người và những vấn đề phát triển của kinh tế đất nước. Năm tới kinh tế Việt Nam được dự báo là sẽ tăng trưởng. Các giải pháp kích cầu kinh tế, khuyến khích sản xuất, kinh doanh, cải thiện an sinh xã hội phải từ tháng Ba mới sáng lên nhưng chỉ sáng lên với sự đồng thuận cao của nhân dân. Những tháng sau đó là thời kỳ chuyển động mạnh mẽ và phức tạp. Có thể có sự lo lắng, bối rối, sa sút niềm tin. Nhưng cũng chính từ trong những lo lắng đó những nhân tố mới có thể xuất hiện và hành động quyết liệt để thay đổi tình hình. Tuy vậy cũng có ý kiến không lạc quan khi dự đoán sẽ có nhiều bất ổn từ bên trong; lòng dân không yên do đời sống khó khăn, tham nhũng tinh vi hơn; môi trường (cả vật chất và tâm linh) đều có những ô nhiễm, trong đó vấn đề đạo đức xã hội cần được đặc biệt quan tâm. Nạn làm hàng giả, đặc biệt là thuốc giả phát triển mạnh, nạn buôn lậu và họat động kiểu băng đảng không giảm. Trong tiết Hàn lộ - sương giáng (20/8 - 20/9), có thế có sự thay ngôi, đổi vị hoặc trong lĩnh vực kinh tế, hoặc vì lý do kinh tế. Thời tiết thất thường Ông Vũ Xuân Quang, một người tham gia cuộc gặp mặt, nhấn mạnh vai trò ý nghĩa của học thuyết Vận khí và Kinh Dịch - những tinh hoa của kho tàng khoa học phương Đông - trong việc dự báo thời tiết có tính dài hạn. Học thuyết Vận khí cũng đóng vai trò rất quan trọng trong lý luận và trị bệnh lâm sàng của Đông y trên những lĩnh vực phòng và chữa bệnh thời khí. Theo nghiên cứu của ông Quang, năm Kỷ Sửu là năm Đại vận thiếu cung, mộc kiêm thổ hóa; những tạng phủ ứng với hành thổ trong ngũ hành chịu những tác động không tốt. Sáu tháng đầu năm cần chú ý có khí thái âm thấp thổ tư thiên - đề phòng bệnh tật của tỳ, vị, thuộc hệ thống tiêu hóa, các bệnh thấp khớp, đau cơ. Sáu tháng cuối năm khí thái dương hàn thủy tại tuyền nên chú ý tới các chứng hàn thấp, phụ nữ cần chú ý tới ảnh hưởng của hàn thấp tới nội tiết sinh dục. Nhà nghiên cứu Đỗ Trọng Hòan nhấn mạnh thêm: Năm 2009 thời tiết có nhiều biến đổi thất thường, sẽ có nhiều bão gió rất khác lệ, có thể xảy ra hạn hán tuy vậy sản phẩm nông nghiệp vẫn có thể đạt năng suất cao. Lợi ích từ chăn nuôi thủy sản và ngành chăn nuôi lợn kém nhưng trâu bò, gia cầm phát triển tốt, ít dịch bệnh. Lượng mưa trong năm 2009 ít hơn so với 4 năm trước vì vậy cần có kế hoạch chống hạn trong nông nghiệp và đề phòng hoả hoạn. Lời quẻ cũng cho biết: Quan hệ sản xuất có dấu hiệu kìm hãm lực lượng sản xuất. Nhà nước cần có chính sách thích hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đúng với năng lực của nó. Năm 2008, các nhà dự đoán đã phần nào chính xác khi tiên đoán về đợt mưa lụt bất ngờ cuối năm và về “một “con chim lớn” mang tai họa - được hiểu như cuộc khủng hoảng và suy thoái đang diễn ra.
-
CÂY NẾU VÀ MINH TRIẾT LẠC VIỆT Trải bao năm tháng; từ đời này truyền qua đời khác; cứ mỗi khi đông tàn; tiết xuân lại đến thì toàn thể dân tộc Việt và cả một số dân tộc khác ở phương Đông Châu Á lại rộn rịp chuẩn bị Tết. Một trong những phong tục cổ xưa nhất của người Việt làm trong những ngày Lễ Tết nguyên đán chính là trồng cây nêu. Có thể khẳng định rằng: Một đặc trưng rất độc đáo của văn hoá Việt trong ngày Tết; chính là cây nêu. Là người Việt; chắc chẳng ai quên câu ca dao: Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ. Nêu cao; pháo nổ bánh chưng xanh. Trong ca dao tục ngữ truyền khẩu phổ biến của người dân Nam Bộ đến ngày nay; vẫn còn nhắc nhở hình ảnh độc đáo của Cây Nêu: Cu kêu ba tiếng cu kêu; Cho mau đến tết dựng nêu ăn chè. Ăn chè rồi lại ăn xôi. Còn ba đòn bánh Tét để dành hạ nêu. Cây nêu đã cùng với tổ tiên người Việt theo cha ông trong lịch sử dựng nước; giữ nước và mở nước đầy bi tráng. Tục truyền rằng: Ngày xửa ngày xưa; có một cuộc chiến tranh giữa người và ma quỉ. Loài người được Đức Phật từ bi giúp đỡ. Ma quỉ thua trận; đồng ý nhựơng lại đất cho loài người trong khoảng không gian mà chiếc bóng áo cà sa của Đức Phật phủ trên cây nêu. Chúng chỉ nghĩ rằng: Với chiếc áo cà sa bé tý phủ trên cây nếu; thì bóng của nó trên mặt đất không thể lớn hơn cái miếu cô hồn. Nhưng bằng pháp thuật; Đức Phật đã làm cho cây nêu vươn lên; cao vút đến tận trời xanh và bóng chiếc áo cà sa lớn đến mức phủ kín mặt đất. Giống quỉ thua cuộc phải ra biển Đông ở. Nhưng Dức Phật từ bi cho phép chúng được trở về đất liền trong những ngày Tết. Để quỉ không xâm phạm vào đất đai có chủ là người ở; Ngài bảo vào những ngày Tết; mỗi nhà đều trồng trước cửa một cây nêu làm dấu để lũ quỉ ma biết mà tránh xa. Từ đấy; trải hàng ngàn năm qua – mỗi năm khi Tết đến; mỗi gia đình người Việt và một số dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; lại trồng một cây nêu cho đến tận bây giờ. Hình ảnh cây nêu cũng như chiếc bánh chưng; bánh dầy đã cùng lịch sử văn hoá thăng trầm trải hàng thiên niên kỷ và đi vào hồn người dân nước Việt. Truyền thuyết về cây nêu mang dấu ấn của Phật giáo; nhưng chúng ta có thể nhận thấy: không hề có một nền văn hoá ảnh hưởng Phật giáo nào của các dân tộc khác trên thế giới có cây nêu; ngoài Việt Nam. Bởi vậy; có thể khẳng định rằng: Cây nêu là di sản văn hoá phi vật thể đặc thù của riêng văn hoá Việt và có cội nguồn thuần Việt. Từ đó; có thể nói rằng: Hình ảnh Đức Phật chỉ là sự chuyển hoá của một vị thánh nhân Lạc Việt; sau hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử. Nhưng cũng có thể nói rằng: Chính hình ảnh chiếc áo cà sa của Đức Phật từ bi phủ lên cây nêu; cũng là một hình tượng rất độc đáo thể hiện sự che chở; bảo vệ nền văn hoá Việt của Phật pháp khi lịch sử Việt ở lúc thăng trầm bi tráng. Cùng với hình tượng “Hạc và Rùa”; tục ăn trầu; bánh chưng bánh dầy…Sự phổ biến của tục trồng nêu trong văn hoá Việt đã chứng tỏ đây là một biểu tượng được lựa chọn có ý thức cho một giá trị minh triết độc đáo của nó. Về hình tượng cây nêu – mà người viết biết được – thì có ba hình tượng còn đến bây giờ. Cả ba hình tượng này đều dùng một thân cây tre trồng thẳng trên mặt đất; sự khác nhau của hình tượng là phần phía trên cây nêu. Đó là: @ Một loại cổ xưa nhất ; phía trên ngọn tre là một vòng tròn cũng làm bằng tre; nhỏ bằng cái nia; với 2; 3 hoăc 4 thanh tre buộc ngang qua tâm tạo thành hình 4; 6 hoặc 8 điểm trên vòng tròn. Ở những điểm này; người ta treo nhiều hình tượng; đôi đũa; giải bùa tua; giỏ tre … @ Còn một hình tượng nữa là phía trên ngọn tre treo một hình vuông hoặc chữ nhật. Hình chữ nhật này được làm bằng bốn thanh tre sổ xuống và năm thanh tre ngang. Bốn thanh tre buông thẳng xuống tượng cho tứ tung; năm thanh ngang tượng cho Ngũ hoành. Đây cũng là một loại bùa trừ tà trong Đạo giáo biến thể về sau này. Trên hình chữ nhật; người ta cũng treo một đôi đũa trời tượng cho Âm Dương; một giỏ tre trong đó có một túi gạo muối được gói trong vài hoặc giấy điều; là hai vật thiết yếu cho đời sống con người và cũng tượng cho sự phú túc. Trong giỏ còn 12 lá trầu tượng cho 12 tháng; năm nào nhuận có 13 lá. Khi hạ nêu vào ngày mùng 7 tháng Giêng; những lá trầu đước lần lượt lấy ra khỏi giỏ tre. Lá thứ nhất là tháng Giêng; lá thứ hai là tháng 2,…cho đến hết 12 lá. Người ta cho rằng: Lá nào héo là tháng đó trong năm không tốt. Trong giỏ tre còn được bỏ một đòn bánh Tét cũng tượng cho sự phú túc. @ Ngoài hai dạng cây nêu được trình bầy ở trên; còn một hình tượng cây nêu nữa chỉ có một thân cây tre duy nhất vút cao lên trời xanh. Trên thân cây tre có trang trí; giấy mầu và từng khúc có gắn những tua trang trí. Như vậy; với những hình tượng cây nêu còn lưu lại có những khác biệt đã cho thấy dấu ấn của những thăng trầm trong lịch sử Việt. Nhưng dù là có sự khác biệt về chi tiết thì bản thân sự phổ biến của cây nêu trong văn hoá Việt; đã chứng tỏ sự lựa chọn có ý thức của tổ tiên cho một biểu tượng văn hoá. Như vậy; cây nêu phải là một hình tượng minh triết của cha ông truyền lại cho đời sau. Người viết bài này cho rằng: Có thể chỉ có một trong hai hình tượng cây nêu có tán phía trên; hoặc cả hai; có sự xuất xứ nguyên thuỷ chứa đựng ý nghĩa minh triết. Nếu không phải cả hai cùng xuất hiện đồng thời thì cây nêu có vòng tròn phía trên có xuất xứ nguyên thuỷ hơn. Hình tượng cây nêu này; gần như hoàn toàn trùng khớp với hình tượng một tôn giáo được hình thành trong văn minh Lạc Việt đó chính là chiếc nón và cây gậy của ngài Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung tạo nên vương quốc tâm linh đầy huyễn ảo. Với hình tượng thân cây tre vút cao; vươn thẳng lên trời xanh; xuyên tâm vòng tròn phía trên cây tre là hình tượng của sự thăng hoa tư tưởng; đạt tới sự viên mãn và trở về với bản thể nguyên thuỷ của vũ trụ; tức là “Mẹ tròn”; là sự khởi nguyên của vũ trụ. Hình tượng rất minh triết này gần gũi với quan niệm của Phật Giáo là sự giải thoát và trở về với bản tính chân như. Với cây Nêu mà người viết cho rằng là nguyên thuỷ này; thể hiện một sự nhận thức sâu sắc bản tính và sự giải thoát; có lẽ đã ra đời trong thời cực thịnh của nền văn hiến Lạc Việt; một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. Cây nêu với hình tượng “Tứ tung Ngũ hoành”; có thể xuất hiện sau khi Đạo giáo của Ngài Chử Đồng Tử khi bị biến thể; trở thành một môn tu luyện với bùa phép huyền bí; nhằm thoả mãn những nhu cầu của đời sống con người nhằm trừ bệnh tật; đem lại sự phú túc bình yên. Đó là lý do để người viết cho rằng: Cây nêu với hình tượng “Tứ tung Ngũ hoành” có sau. Còn hình tượng cây Nêu chỉ có một thân tre thẳng đứng; vì tính tương tự phổ biến của loại hình này trong đời sống thường ngày - một cột mốc ruộng; chiếc cột đèn…Bởi vậy; người viết cho rằng; có thể đây chỉ là dấu ấn còn lại trong ký ức của người Việt về cây nêu; nhằm giữ lại di sản văn hoá tâm linh của tổ tiên; nhiều hơn là một biểu tượng minh triết nguyên thuỷ của nó. Với hình tượng cây nêu đã trình bày ở trên; đã cho thấy một hình tượng được lựa chọn có ý thức làm biểu tượng cho sự minh triết Lạc Việt từ một cội nguồn văn hiến của nước Văn Lang dưới thời các vua Hùng dựng nước. Sự vươn lên đạt tới chân tính; hoà nhập với thiên nhiên trong sự an nhiên tự tại và tình yêu con người. Đây chính là thông điệp của tổ tiên truyền lại từ hàng ngàn năm trước cho đời sau; hình tượng của một giá trị minh triết Việt. Dịch viết “Trí thì cao siêu; lễ thì khiêm hạ. Cao là bắt chước trời; thấp là bắt chước đất” Chỉ với cây tre đơn sơ và rất phổ biến trong đời sống của người Việt; tổ tiên đã gửi lại đời sau sự nhắn nhủ của cội nguồn lịch sử gần 5000 năm văn hiến. Trải bao thăng trầm bi tráng trong lịch sử giống nòi; hình ảnh cây nêu vẫn còn trong tâm tưởng của người Việt như một sự kết nối với cội nguồn một thời oanh liệt vàng son và đầy tính nhân bản. Tục trồng nêu ngày Tết không chỉ ở dân tộc Kinh mà còn rải rác một số dân tộc khác trên đất Việt hiện nay. Điều này đã chứng tỏ tục trồng nêu đã có từ rất xa xưa trong truyền thống văn hoá Việt qua tính phổ biến của nó trong các dân tộc anh em. Sự giải thích hợp lý cho tục trồng nêu - một di sản văn hoá phi vật thể của người Việt - là: Tục này có từ thời Hùng Vương dựng nước. Hình ảnh cây nêu truyền thống; trong lòng mỗi người con đất Việt; chính là di sản của tổ tiên để lại nhắc nhở lòng tự hào của của dòng dõi Tiên Rồng của cha ông với danh xưng 5000 năm văn hiến. Thiên Sứ