Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. LỜI TIÊN TRI 2009 - 2010 Năm nay và những thiên tai trong năm tới sẽ chứng minh rằng: Tàu ngầm hạt nhân và tên lửa đạn đạo chỉ là một hiện tượng khiêm tốn của con người bên cạnh sức mạnh vũ trụ. Sẽ có một tàu ngầm hạt nhân bị xóa sổ bởi thiên tai.
  2. Ấn Độ: lở đất khiến 43 người thiệt mạng Cập nhật lúc 15:04, Chủ Nhật, 09/08/2009 (GMT+7) nguồn Vietnamnet Tại Ấn Độ, một vụ lở đất lớn do mưa to kéo dài đã khiến 43 người ở khu vực phía Bắc nước này thiệt mạng. Mưa lớn kéo dài mấy ngày nay tại khu vực phía Bắc Ấn Độ khiến mực nước của các con sông tại các bang ở Đông Bắc dâng cao gây nên tình trạng lụt lội và sụt lở đất nghiêm trọng. Ảnh AFP. Tư lệnh lực lượng cảnh sát bán quân sự S.M. Shamim cho hay, đã tìm và kéo ra khỏi bùn lầy được 20 xác người đầu tiên trong ngày thứ Bảy, 8/8. Những người còn lại vẫn chưa tìm thấy xác do điều kiện khó khăn do mưa lớn kéo dài gây ra. Hiện tại, cảnh sát và người tình nguyện vẫn đang tiếp tục tìm kiếm và đào bới các đống đất bùn nghi có người ở dưới để tìm xác những người xấu số còn lại. Mưa lớn kéo dài mấy ngày nay tại khu vực phía Bắc Ấn Độ khiến mực nước của các con sông tại các bang ở Đông Bắc dâng cao gây nên tình trạng lụt lội và sụt lở đất nghiêm trọng. Lũ lớn mùa hè tại Ấn Độ thường xảy ra từ tháng 6 - 9, cướp đi mạng sống của hàng trăm người mỗi năm. Trong khi đó thì ở gần Ấn Độ, khoảng 1 triệu người Trung Quốc hôm 9/8 cũng phải đi sơ tán tránh cơn bão Morakot sắp đổ bộ. Một ngày trước, bão ập tới Đài Loan cùng mưa xối xả, gây ngập lớn nhất trong vòng 50 năm tại hòn đảo này. Nhật Vy (Theo BBC)
  3. Cảm ơn Random. Tôi xem rồi. Ông Hà Uyên quả là người có kiến thức rộng. Vị học giả này đã đặt vấn đề và đưa ra những hiện tượng rất sắc sảo. Nhưng ông chưa có định kiến của mình và lý giải hiện tượng trên cơ sở một nguyên lý nhất quán.
  4. Câu này đúng! Hi. :( .Tôi đang bận, thôi bài này cũng thuộc loại dễ luận so với bài của Thanh Vân, mà chỉ có VinhL là đúng hơn cả. Tôi nay rành tôi sẽ luận bài này để anh chị em tham khảo.
  5. Sách dạy tiếng Việt và tiếng Việt thật Nguồn chungta.com GS. Cao Xuân Hạo 02:54' PM - Thứ tư, 05/08/2009 Đã mấy mươi năm nay có nhiều người, trong đó có bản thân tôi, đã viết khá nhiều để chứng minh rằng cái môn mà ta dạy cho học sinh và sinh viên dưới tiêu đề “Ngữ pháp tiếng Việt” thật ra chỉ là ngữ pháp tiếng Pháp với những câu thí dụ dịch rất sát từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, và nội dung của giờ “tiếng Việt” chỉ là học những quy tắc ngữ pháp của tiếng Pháp hay một thứ tiếng Âu châu nào đó, bất chấp những quy tắc này có tác dụng gì đối với việc nói và viết đúng tiếng Việt, thậm chí bất chấp cả những trường hợp nó trái ngược hoàn toàn với những quy tắc ngữ pháp của tiếng Việt – những quy tắc vẫn thực sự chi phối lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt. Những bài vở của chúng tôi tuy kể từ 1968 đã đăng khắp các tạp chí phổ thông cũng như chuyên ngành, suốt mấy mươi năm qua chưa bao giờ gây được một sự phản ứng dù tích cực hay tiêu cực từ phía các bạn đồng nghiệp. Nhìn chung, thái độ của các độc giả cùng ngành đều là cố tình im lặng, coi như chưa bao giờ có ai phát biểu ra những ý kiến ấy. Mãi đến những năm đầu của thế kỷ sau, nhân hai cuộc hội thảo về ngữ pháp tiếng Việt tổ chức ở Hà Nội và ở TPHCM, mới có một bài báo cáo phê phán ý kiến của chúng tôi về cấu trúc đề thuyết của câu, trong đó ai cũng có thể thấy rõ rằng tác giả hoặc đã quên hết những ý kiến được đem ra phê phán, hoặc chưa từng tìm hiểu những ý kiến ấy với một thái độ vô tư tối thiểu. Thế nhưng bất kỳ người nào đã qua một quá trình đào tạo ngôn ngữ học nhất định khi lần giở một cuốn sách dạy tiếng Việt xuất bản ờ Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1945 cho đến nay đều có ngay một ấn tượng rất rõ: đó là mối mâu thuẫn gay gắt giữa tính đơn lập lộ rõ trên cách viết chữ dùng trong sách (với những khoảng cách ngăn câu ra thành từng âm tiết một), và cách miêu tả hệ thống ngữ pháp gần y hệt như ngữ pháp tiếng Pháp, tiếng Anh, hay tiếng Nga. Chẳng lẽ tính đơn lập lại có thể đi đôi với một hệ thống ngữ pháp thuần túy Ấn Âu như thế? Chẳng lẽ sự tiếp xúc với tiếng Pháp, vốn bắt đầu chỉ cách đây chừng một thế kỷ, mà cũng chưa bao giờ vượt quá giới hạn của một số người ít ỏi có học tiếng Tây, lại có đủ thì giờ để làm cho một ngôn ngữ Nam Á đơn lập biến thành một ngôn ngữ khúc chiết Ấn Âu hay sao? Đó là một câu hỏi không thể không nảy ra trong tâm trí của một con người bình thường khi tiếp xúc lần đầu với sách dạy tiếng Việt. Những điều trình bày trong bài này nhằm mục đích tìm hiểu xem các sách giáo khoa tiếng Việt đã dùng những biện pháp gì để thực hiện cuộc chuyển biến khó tưởng tượng này. Do những điều kiện thời gian, chúng tôi không thể dẫn hết những tài liệu được dùng làm căn cứ cho những ý kiến được trình bày dưới đây. Kính xin những vị nào muốn có tài liệu tham khảo tìm đọc những cuốn sách và những bài vở của chúng tôi (bản thân tôi và các tác giả như Nguyễn Đức Dương, Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng, Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Thị Ly Kha, Nguyễn Văn Bằng v.v. đều thuộc Hội Ngôn ngữ học TP Hồ Chí Minh). 1. Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập Trong tiếng Việt, đơn vị cơ bản là âm tiết - hình vị, hay tiếng, chứ không phải là “từ”. Điều này GS Nguyễn Tài Cẩn đã viết từ lâu, căn cứ trên một lý thuyết rất cơ bản của các nhà đông phương học Liên Xô mà ngày nay cả thế giới đều chấp nhận. Nhưng không biết tại sao ở ta có những tác giả cho rằng một ngôn ngữ như thế là “không văn minh”, cho nên nhất quyết tìm cách chứng minh rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ “đa âm tiết”, trong đó có những từ đa hình vị như xe đạp, máy gặt đập liên hợp v.v... Những cố gắng anh dũng và tài tình mà các tác giả này đã dùng để chứng minh cho bằng được tính “đa tiết” của những "từ" như thế rất đáng cho ta khâm phục và tìm hiểu thật kỹ. Trước hết ta thử theo dõi cách lập luận của các tác giả hữu quan. Họ đều công nhận rằng xe và đạp là hai từ. Nhưng xe + đạp không phải là hai từ, mà là một, vì nó có tính “thành ngữ”: ở đây “xe đạp không phải là thứ xe đi bằng cách đạp” (như xe xích-lô, xe ba gác) mà là một cái gì không thể trực tiếp suy ra từ hai chữ xe và đạp. Không thể hiểu được từ bao giờ tính thành ngữ lại được dùng để chứng minh rằng hai từ khi kết hợp với nhau lại thì lập tức trở thành một từ duy nhất, trong khi tất cả các từ điển đều định nghĩa thành ngữ là một tổ hợp gồm ít nhất là hai từ. Các tác giả chủ trương thuyết này còn đi xa đến mức không công nhận rằng chữ xe chính là chữ xe, chữ đạp chính là chữ đạp của tiếng Việt: theo họ, đây là hai từ không rõ nguồn gốc chỉ vì tình cờ mà “đồng âm” với hai chữ xe đạp của tiếng Việt khiến cho nhiều người tưởng lầm xe đạp là một “thứ xe” thật. Và lạ thay, cách lập luận này hình như được toàn thế giới ngôn ngữ học của ta tán thành. Đủ biết mối ác cảm của họ đối với thuyết “đơn âm” mãnh liệt đến chừng nào. Thật ra, lý do duy nhất để coi xe đạp như một từ đa tiết là: trong tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Nga, vélocipède, bécane, bicyclette v.v... đều là một từ. Vậy phải tìm đủ cách để chứng minh rằng tiếng Việt cũng không thua kém gì ba thứ tiếng kia, và xe đạp cũng phải là một từ đa tiết như ai mới được. Phải nói rằng không phải ở ta mới có hiện tượng lạ lùng này. Trong một thời gian khá dài, ngay ở châu Âu cũng có người nghĩ rằng chemin de fer và zheleznaja doroga (đường sắt) đều là những “từ”: sự lầm lẫn “từ” với “ngữ định danh” là một hiện tượng khá phổ biến trong giới sinh viên và giới nghiệp dư. Ở ta, nó còn được tăng cường gấp bội do một sự xấu hổ đáng ngạc nhiên đối với những đặc trưng tiêu biểu của tiếng mẹ đẻ. 2. Tiếng Việt có “chủ ngữ ” không? Từ những năm 30, nhà văn Đoàn Phú Tứ đã ra sức “đi tìm chủ từ” trong tiếng Việt của Truyện Kiều mà không sao tìm được. Năm 1965, Lawrence C. Thompson, tác giả cuốn Ngữ pháp tiếng Việt tốt nhất của thời bấy giờ, đã nêu rõ và chứng minh rằng tiếng Việt không có Chủ ngữ (grammatical subject), mà chỉ có Chủ đề Lô-gích (logical subject). Đây là một điều hiển nhiên, vì trong tiếng Việt chỉ có Chủ đề lô-gích được ngữ pháp hoá – được đánh dấu bằng chữ thì. Nhưng sách dạy ngữ pháp ở nhà trường (NPNT), vốn sao chép từng chữ một từ sách ngữ pháp tiếng Pháp, cứ bạ đâu thấy có cụm từ Chủ Vị (sau khi thử dịch ra tiếng Tây) cũng gọi ngay đó là “câu phụ”, trong khi những cụm từ ấy ngay cả HS cấp một cũng thấy ngay là “bất thành cú”. Kết quả là HS không còn biết thế nào là câu, và lên đến đại học cũng viết ra những “câu” bất thành cú như thế. Theo cách phân loại hình mới đối với các ngôn ngữ của thế giới (kể từ 1976, năm xuất bản cuốn Subject and Topic của Ch. Li và S. Thompson), tiếng Việt cùng với tiếng Hán, tiếng La Hu v.v. phải được xếp vào loại hình các ngôn ngữ Đề -Thuyết, trong đó Đề không được ngữ pháp hóa như Chủ ngữ của các ngôn ngữ Ấn Âu, nhưng lại được đánh dấu (khi cần thiết) bằng chữ thì. Làm Đề cho câu tiếng Việt có thể là bất cứ vai nghĩa nào, kể cả vai đối tượng của hành động (“bổ ngữ trực tiếp”) hay khung cảnh của sự tình (cf. Cơm đã dọn xong, Bàn lau rồi đấy, Hôm qua mưa, Tham thì thâm...). Những đặc trưng loại hình học của tiếng Việt kéo theo những hệ quả quan trọng về ngữ pháp khiến cho nó khác hẳn các thứ tiếng phương Tây, trong đó có sự phân biệt về thái (voice) tức sự phân biệt ngữ pháp giữa “chủ động” và “bị động” (x. mục 6). 3.“Loại từ” Một trong những sự ngộ nhận thô thiển nhất của NNH Âu châu là khái niệm “loại từ”. Từ 1883, Trương Vĩnh Ký đã biết đó thật ra là những danh từ chính danh, tiêu biểu nhất (vì chỉ sự vật đếm được). Và từ 1960, M. Halliday và hầu hết các nhà ngữ học dạy tiếng Anh đã loại bỏ hẳn khái niệm này ra khỏi lý thuyết ngôn ngữ học. Và chính GS Nguyễn Tài Cẩn, tác giả cuốn Từ loại danh từ trong tiếng Việt, trong phần phụ lục ở cuối sách đã viết rằng ngay sau khi viết ông đã thấy lý thuyết coi “loại từ” như một yếu tố phụ trợ cho danh từ là không đúng (đó chính là danh từ trung tâm). Lời đính chính này còn được ông công bố một cách hiển ngôn và đầy đủ hơn trong một vựng tập xuất bản ở Liên Xô (1967). Thế nhưng sách NPPT vẫn coi đó là một “từ loại” riêng thuộc loại hư từ vì nó “không độc lập”. Thật ra tính “không độc lập” chỉ là một cái cớ hoàn toàn hư ảo, vì trong tiếng Việt có hơn 100 từ cũng “không độc lập” như thế nhưng lại được coi là danh từ chỉ vì khi dịch ra tiếng Pháp thì thấy đó là những danh từ. Công sức được bỏ ra nhiều nhất là khi phải làm việc này với những ngữ đoạn như: cái đẹp, cái hay, cái khó bó cái khôn, việc làm, sự thiên vị, phép cộng, phép trừ, cách xử sự. Vì đã trót coi các danh từ như: cái, sự, việc, phép là "hư từ" rồi, người ta đành phải coi mấy từ này như những yếu tố phụ trợ cho từ đi sau, trong khi vẫn thừa nhận cả tổ hợp là những ngữ đoạn danh từ, không nhận thấy rằng cách làm này mâu thuẫn với mọi nguyên tắc phân tích ngữ pháp: làm sao một yếu tố “phụ”, một hư từ lại có thể làm cho một yếu tố chính từ chỗ vốn là động từ (hay “tính từ”) có được tư cách danh từ? Trong lý luận ngữ pháp đại cương (phổ quát), ai cũng thừa nhận rằng trong bất kỳ thứ tiếng nào trung tâm của một ngữ đoạn là từ nào mà: A. làm cho cả ngữ đoạn có được tính cách ngữ pháp của chính nó (trung tâm của ngữ đoạn danh từ phải là một danh từ), hay B. làm cho cả ngữ đoạn thay đổi chức năng cú pháp cho phù hợp với nó (như tác dụng thay đổi “cách” của các giới từ) C. giữ đặc quyền thay mặt cho cả ngữ đoạn để có quan hệ ngữ pháp (và ngữ nghĩa) với một ngữ đoạn khác trong câu. Sở dĩ những danh từ đơn vị như: cái, con, sự, không đứng một mình được không phải vì nó là “hư từ” (trong bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có dăm bảy trăm thực từ không bao giờ dùng một mình) mà chính là vì nó cần có một định ngữ, một lượng ngữ hay một bổ ngữ đi kèm theo để phụ trợ (làm phụ ngữ) cho nó. Một trường hợp ngộ nhận tương tự về từ loại danh từ là đồng nhất chữ "khi" làm trung tâm cho một câu định ngữ với một “liên từ phụ thuộc" (conjonction de subordination – kiểu như quand, lorsque trong tiếng Pháp hay when, while trong tiếng Anh, kogda trong tiếng Nga) dùng để mở đầu cho một “câu phụ chỉ thời gian”, như trong câu: Khi gặp cô ấy, tôi thấy xúc động lạ thường. Những tác giả xử lý từ "khi" theo mẫu của câu tiếng Tây như vậy, quên mất rằng "khi", ngay cả trong trường hợp đứng trước một câu như câu trên, vẫn giữ nguyên những đặc trưng mà chỉ có từ loại danh từ mới có được, cụ thể là: A. có thể đi sau một trong các lượng từ (hay quán từ) những, một, mỗi (Những khi gặp…; Mỗi khi gặp…). B. có thể đi sau một giới từ như trước, sau, trong (Trước khi gặp…; Sau khi gặp…; Trong khi gặp…). 3. Giới từ và giới ngữ Từ lâu, lý luận ngôn ngữ học đại cương đã chỉnh lý được một quan niệm sai lầm coi các hư từ như một thứ yếu tố thừa ở bên lề của câu, chẳng thuộc về một ngữ đoạn nào, trong khi đó chính là một từ có vị trí trung tâm trong tất cả các ngữ đoạn mà nó tham gia với tính cách là một tác từ (operator) quyết định “cách” và vai nghĩa của ngữ đoạn trong câu. Điều này Trương Vĩnh Ký, đi trước Ch. Fillmore gần một thế kỷ (1883-1968), đã hiểu khá tường tận. Trong tiếng Việt, nếu không kể từ đánh dấu ly cách (ablatif) và từ "tại", tất cả các giới từ đều vốn là vị từ (cho, ở, đi, tới, đến, vào, ra, lên, xuống), hay là danh từ (trên, dưới, trong, ngoài, bên, cạnh), và cũng như các thực từ (nhất là các vị từ ngoại động làm cội nguồn cho nó, nó đều có những bổ ngữ trực tiếp là những ngữ đoạn danh từ và do đó phải được coi là trung tâm của ngữ đoạn mới hình thành – những giới ngữ (prepositional phrases). Nó được khu biệt với các vị từ và các danh từ bằng khinh âm (so sánh: Cởi áo cho nhau [1111] và Cởi áo cho nhau [1101]; Cá lội dưới sông [1101] và Đào đường xe điện ngầm ở dưới sông [11001011]) . Tác dụng ngữ pháp của giới từ trong các ngôn ngữ đơn lập phân tích tính chính là tác dụng của biến vĩ trong những ngôn ngữ biến hình như tiếng châu Âu. Trong các thứ tiếng này, biến vĩ cũng được một số tác giả Pháp coi là phụ tố làm trung tâm cho từ đa hình vị (xem thêm mục 7 dưới đây). 4. Vị từ tình thái Có liên quan đến việc xác định trung tâm của các ngữ đoạn còn có vấn đề các vị từ tình thái. Ở đây, cũng như đối với các danh từ bị gọi là “loại từ”, hay đối với các giới từ bị coi là không có chỗ đứng trong câu, các vị từ tình thái được coi là một thứ trợ ngữ lệ thuộc vào các vị từ chính danh. Quan niệm này có thể thấy rõ qua cách dùng thuật ngữ của một số tác giả viết về tiếng Việt như Elisabeth Clark (“Coverbs”) hay Nguyễn Phú Phong (“Préverbes”). Thế mà trong lý luận ngôn ngữ học đại cương đã có sẵn một thuật ngữ dành riêng cho loại vị từ này: đó là thuật ngữ Vị từ tình thái (modal verbs). Vị từ tình thái là những vị từ làm trung tâm cho ngữ đoạn vị từ. Trong một thứ tiếng SVO nhất quán như tiếng Việt, đó là vị trí đầu tiên trong ngữ đoạn vị từ. Nó chỉ khác với các vị từ khác ở chỗ bổ ngữ chỉ đối tượng trực tiếp của nó là một ngữ đoạn vị từ hay là một câu chứ không phải một ngữ đoạn danh từ. Cùng với bổ ngữ trực tiếp của nó, nó trả lời những câu hỏi như muốn làm gì, được ăn gì, dám làm gì, phải ra sao, bị làm sao, đã làm gì, sẽ ra sao, chưa biết gì... chứ không phải ăn cái gì, đánh ai, nuôi con gì. 5. Thì và Thể trong tiếng Việt Vẫn một mực trung thành với nguyên lý thiêng liêng “tiếng Pháp thế nào thì tiếng Việt phải y như thế”!, SDTV khẳng định rằng tiếng Việt có ba “thời” quá khứ, hiện tại và tương lai, được diễn đạt bằng ba từ đã (rồi), đang, sẽ, trong khi chỉ cần thử nghe một người Việt nói chuyện vài phút cũng đủ thấy ba từ này không bao giờ chỉ ba cái “thời” ấy. Trái lại, ba từ này dùng cho bất cứ “thời” nào – quá khứ, hiện tại hay tương lai, để diễn đạt một ý nghĩa hoàn toàn khác – ý nghĩa “thể” và ý nghĩa tình thái, và đã từ lâu, người ta biết rằng tiếng Việt, cũng như các ngôn ngữ Đông Nam Á khác, bên cạnh rất nhiều ngôn ngữ không phải là tiếng châu Âu, vốn không có và không thể có thì với tính cách là một phạm trù ngữ pháp (bắt buộc), tuy khi cần có thể cho biết thời gian của sự việc bằng phương tiện từ vựng (không bắt buộc – như trước đây, hiện nay, hồi ấy, sau này). Tôi đã từng phải tranh luận trên mặt báo với một dịch giả chủ trương rằng cách duy nhất để dạy cho học sinh hiểu thế nào là “thì” trong ngữ pháp tiếng Nga là dùng ba từ đã, đang và sẽ (tuy ông, vốn là một dịch giả gần như chuyên nghiệp, biết rõ rằng người Việt hầu như không bao giờ dùng mấy từ này như người Nga). Tôi đã phải viết rằng nếu một câu như On byl zdorovym mà dịch sang tiếng Việt là Nó đã khoẻ hay Nó khoẻ rồi thì không phải chỉ sai, mà còn ngược hẳn với nghĩa của nguyên bản, vì câu tiếng Nga có nghĩa là Trước đây nó khoẻ (chứ bây giờ thì không còn khoẻ nữa), còn câu tiếng Việt thì lại có nghĩa là Trước đây nó ốm, còn bây giờ thì nó khoẻ rồi. Năm 1940, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm viết trong cuốn Văn phạm Việt Nam rằng đã cho biết hành động đã hoàn thành, còn đang cho biết nó đang tiếp diễn. Trong bản dịch sang tiếng Pháp, họ gọi hai từ này là từ chỉ thể (aspects du verbe). Thể là một phạm trù rất ít được biết đến trong ngữ pháp học đường của tiếng Pháp. Thế mà họ đã hiểu được ý nghĩa của hai từ này một cách chình xác, chứ không bị mắc lừa như trong SDTV của nhà trường ta. 6.Thái bị động? Như ở mục 3 trên kia đã nói rõ, một ngôn ngữ thuộc loại hình “Đề - Thuyết” như tiếng Việt tuyệt nhiên không cần đến sự phân biệt ngữ pháp giữa hai thái chủ động và bị động, một khi Đề có thể đảm đương bất cứ vai nghĩa nào trong câu. Thế nhưng một số tác giả, trung thành với lối suy nghĩ theo nếp sao phỏng ngữ pháp tiếng Pháp, vẫn khẳng định rằng tiếng Việt, tuy không có “thái bị động”, nhưng vẫn có “câu bị động” hay “câu có nghĩa bị động”, và do đó có khả năng diễn đạt “phạm trù bị động". Thật ra như vậy chính là thừa nhận tính phi ngữ pháp (không bắt buộc) của phạm trù thái. Nhưng các tác giả hữu quan không hề ý thức được ý nghĩa thật của những điều họ viết ra. Muốn chứng minh được những điều ấy, họ phải chứng minh được rằng: A. hai chữ bị và được là những hư từ, tức những công cụ ngữ pháp không có (hay đã mất hết) ý nghĩa từ vựng. Đằng này hai chữ đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa từ vựng. B. Hai hư từ này có tác dụng như những tác tử bị động hóa (operators of passivization) đối với tất cả các vị từ đứng sau nó. Đằng này hai chữ bị và được rất ít khi có tác dụng ấy. Muốn khẳng định như trên, phải coi khoảng 87% trường hợp là lệ ngoại”, trong khi rất khó tìm thấy nhưng lệ ngoại ngữ pháp lên đến con số dăm bảy từ trên một tổng số vài trăm từ. Còn nếu họ đứng trên quan điểm ngữ nghĩa mà xét, thì không thể hiểu tại sao họ không xếp những câu như Cơm đã dọn lên, Tôi có các anh giúp cho, Vườn trồng toàn bưởi, Việc này ai cũng biết, Đội B thua hai không (số câu kiểu này nhiều hơn và thông dụng hơn số “câu bị động” của các tác giả nói trên đến mấy trăm lần). Cách đây hơn nửa thế kỷ, năm 1940, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm đã hiểu hoàn toàn đúng ý nghĩa từ vựng và ngữ pháp của hai từ bị và được, chính vì họ xét hai từ này trong toàn bộ mấy nghìn cách sử dụng: với hầu hết các vị từ, ta đều thấy nó có nghĩa chủ động (bị ngã, bị đau, được ăn, được học v.v...) và họ cũng biết rõ các thứ tiếng Âu châu để thấy rằng ý nghĩa của bị và được tuyệt nhiên không có chút gì dính dáng đến “thái bị động” hay “ý nghĩa bị động”. 7. Trọng âm ngữ đoạn, một phương tiện ngữ pháp quan trọng của tiếng Việt cần được dạy ngay ở cấp tiểu học. Cuối cùng, không thể không nói vài lời đến trọng âm, mặc dầu ở đây không có biểu hiện nào của thói sao chép ngữ pháp tiếng Pháp cả - chẳng qua vì chưa có ai nghĩ đến, và cũng chưa có ai viết gì về vấn đề này. Nhưng chỉ riêng một thí dụ dẫn ở mục 3 trên đây cũng đủ cho thấy vai trò của trọng âm đối với cấu trúc cú pháp và ngữ nghĩa của câu quan trọng như thế nào. Bài nghiên cứu về Trọng âm và các quan hệ ngữ pháp đã được công bố từ hơn 20 năm nay (1978 – Báo cáo tại Hội nghị Khoa học của Viện KHXH tại TP.HCM) và trong một cuốn sách xuất bản gần đây (1998), nó đã được in lại, lần này có kèm theo những biểu đồ có được bằng máy ghi thanh phổ. thanh điệu, độ dài (với sai số 10% giây) và cương độ chính xác. Nhưng không hiểu tại sao giới nghiên cứu tiếng Việt vẫn im lặng, và các tác giả SDTV vẫn không đưa nội dung này vào chương trình. Trong khi đó, các em ở cấp tiểu học vẫn phải tập “đọc diễn cảm”, một nghệ thuật mà ngay ở trường Đại học Sân khấu cũng không có mấy thầy dám viết ra cho sinh viên học. 8. Kết luận Để kết luận cho bài báo cáo đã khá dài này, tôi chỉ xin nêu một câu hỏi mà những người tha thiết với tiếng Việt, trong đó có chúng tôi và giới phụ huynh học sinh, vẫn mong mỏi được nghe giải đáp từ mấy chục năm nay: Đến bao giờ sách giáo khoa tiếng Việt mới dạy thứ tiếng Việt mà hơn 70 triệu người Việt đang nói hàng ngày, chứ không phải thứ “tiếng Việt” giả tạo sao chép một cách máy móc từ sách cũ dùng để dạy tiếng Pháp cho dân thuộc địa? C.X.H Nhời mạn đàm của Sư Thiến: Thấy cái tựa của giáo sư Cao Xuân Hạo, tôi liên hệ đến một chương trình truyền hình trong đó có một ông Tây nói tiếng Việt không rành, cô MC phải miêu tả lại ý tưởng của ông Tây. Ông Tây khôi hài: "Cảm ơn vì đã dịch Tiếng Việt ra tiếng Việt". Thật khổ! Tiếng Việt vốn đã có sẵn từ lâu - khi mà khái niệm khoa học chưa tồn tại trong ngôn ngữ Việt - chỉ có nghiên cứu, phân loại và chứng minh nó y như nó đã tồn tại. Vậy mà cũng không xong, khiến giáo sư Cao Xuân Hạo phải than phiền với một cái tựa rất ấn tượng "Sách dạy tiếng Việt và tiếng Việt thật" thì chán quá! Chứng tỏ những cái gọi là sách dạy tiếng Việt chắc phải ngọng như ông Tây kia. Những học giả có "vốn chữ nho bằng rưởi chữ Quốc ngữ" thì cho rằng tiếng Việt có gốc Hán. Họ thống kế được trên 30. 000 từ có gốc Hán Việt. Đó là ngôn từ. Bây giờ ngữ pháp Việt lại có cấu trúc: Anh Nga Pháp. Hi. Như vậy đúng là cái dốt này phản bác cái dốt kia. Khi gọi là ảnh hưởng ngôn ngữ Hán thì chắc tiếng Việt chưa thể hình thành được. Vì nó thiếu cấu trúc ngữ pháp Anh Pháp Nga. Nếu tiếng Việt có cấu trúc ngữ pháp Anh Pháp Nga thì chắc chắn nó không thể goi là "Ảnh hưởng và tiếp thu từ ngôn ngữ Hán". Nhưng nếu bào rằng tiếng Việt có gốc ngữ pháp từ Anh Pháp Nga thì khi tiếng Việt hình thành, các khái niệm về quốc gia Anh Pháp Nga không có trong tiếng Việt. Hi. Chắc Sư Thiến tui vỡ bụng chết vì tức cười.Đây là kết luận của Thiên Sứ: Tiếng Việt là ngôn ngữ cao cấp nhất trong các loại ngôn ngữ trên toàn cầu. Bởi vậy, người ta có thể thấy trong ngôn từ hay cấu trúc ngữ pháp của nó có mối liên hệ với các ngôn ngữ khác trên thế giới. Bởi vậy, không thể lấy tiêu chí ngôn ngữ của các dân tộc khác làm thước đo cho tiếng Việt. Muốn nghiên cứu tiếng Việt phải có tiêu chí đặc thù cho nó. Hay nói nôm thế này: Một ngôn ngữ cao cấp có thể dịch tất cả các ngôn ngữ khác ra ngôn ngữ của nó - và - với các ngôn ngữ ở các nền văn hóa thấp hơn thì không thể dịch hết ý một ngôn ngữ cao cấp ra tiếng của nó. Tiếng Việt có thể dịch một cách thật tế vi tất cả các ngôn ngữ của các dân tộc khác ra tiếng Việt. Nhưng tiếng của dân tộc khác thì thật là khó khăn khi dịch tiếng Việt ra ngôn ngữ của họ. Đó chính là điều thể hiện tính cao cấp trong tiếng Việt so với các ngôn ngữ khác trên thế giới. Người ta có thể chỉ ra cái sai của nhau. Nhưng nhận thấy cái đúng mới khó làm sao. Cảm ơn giáo sư Cao Xuân Hạo vì sự phát hiện của ông.
  6. Bác có thể cho tôi đường link vào một bài viết nào đó của ông Hà Uyên không? Tôi vào trang chungta.com tìm mãi không thấy bài của ông ấy. Cảm ơn bác nhiều.
  7. Sao chổi trong Thiên văn cổ Đông phương gọi là sao khách. Người xưa quan niệm rằng thường khi sao khách xâm phạm vào phận dã nào trong bầu trời thì gây hiệu ứng xấu ở phương vị đó. Không ít những nhà vật lý Thiên Văn hiện đại cho rằng: Không có cơ sở khoa học cho quan niệm này và bác bỏ như một điều "mê tín dị đoan". Nhưng cá nhân tôi cho rằng: Trên nguyên lý tương tác thì không thể coi như không biết, không giải thích được thì là mê tín. Đấy không phải tinh thần khoa học, mặc dù có tri thức khoa học, mà là tư duy thiển cận cực đoan. Hiện tượng xuất hiện bất thường trong vũ trụ tất yếu có tương tác bất thường. Bởi vậy, hiện tương xuất hiên sao chổi - sao khách - tất yếu phải gây ra hiệu ứng tốt hoặc xấu. Đây là một quan niệm hoàn toàn có cơ sở khoa học trên nguyên lý tương tác giữa van vật. Vấn đề còn lại là tìm hiểu cơ chế tương tác như thế nào. Trên thực tế thì không chỉ hiệu ứng của sao chổi mới đem lại tương tác xấu. Trong: Lời tiên tri 2007 - Laviedt đã dự báo trước bằng Lạc Việt độn toán trận lũ lụt lịch sử ở Việt Nam, chính xác đến từng ba miền của đất nước và xác quyết miền Trung sẽ nặng nhất. Thực tế đã xảy ra đúng như vậy. Cảm ứng này từ quan niệm cổ lưu truyền trong dân gian "Được mùa vải, hãi mùa mưa". Quan niệm dân gian này coi như điềm. Hoặc như: Một trân mưa nòng nọc xuống đất Nhật Bản ngày 10 - 6 2009, trên cơ sở sự kiện này, tôi dự báo một trận động đất lớn ngoài bờ biển Đông Đông bắc Nhật Bản sẽ xảy ra trước tháng 10 năm nay. Sự kiện xác nhận dự báo đúng (Lời tiên tri 2009 - bài số 497, trang 25). Có thể coi trận mưa nòng nọc gọi là điềm. Vậy theo tôi định nghĩa "Điềm" là gì: Hiện tượng bất thường dẫn đến một suy nghiệm tiên tri, hoặc chứng nghiêm tiên tri về một sự kiện sẽ xảy ra tốt hay xấu cho cuộc sống con người được xác định đúng trong tương lai thì gọi là điềm báo trước hiện tượng đó. Như vậy, trên cơ sở định nghĩa về "Điềm" như trên thì chúng ta thấy những yếu tố xác quyết liên quan đến khái niệm "Điềm" như sau: - Phải có yếu tố dự báo, tiên tri về một sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai và được chứng nghiệm đúng. - Có thể lúc hiện tường bất thường xảy ra không có lời tiên tri dự báo, nhưng sau khi sự kiện xảy ra thì có sự liên hệ đến hiện tượng bất thường đã xảy ra trước đó và hiện tượng bất thường trước đó được gọi là "Điềm". Thí dụ: Sau trận động đất kinh hoàng ở Tứ Xuyên, người ta mới liên hệ đến một hiện tượng bất thường xảy ra trước đó là những con cóc, ếch nhái rời bỏ chỗ ở di cư hàng loạt ở Tứ Xuyên. Hiện tượng bất thường này được coi là điềm báo trước. Qua đó chúng ta thấy rằng: Khái niệm "điềm" báo hoàn toàn gắn liền với yếu tố tiên tri hoặc khả năng tiên tri. Tức là nó mang tính đặc thù chỉ có ở con người tổng hợp thực tại khách quan để trở thành một sản phẩm của tư duy trừu tượng với khả năng tiên tri. Sự liên hệ giữa hiện tượng bất thường dẫn đến khả năng tiên tri chỉ có thể thực hiện được với một tư duy trừu tượng đạt đến đỉnh cao của trí huệ. Không thể coi đó là kinh nghiệm dân gian được (Đây là những nhận định ngớ ngẩn nhất của những tư duy được hiểu nhầm là khoa học). Bởi vì hàng ngày có rất nhiều hiện tượng bất thường xảy ra cho chúng ta và không phải hiện tượng nào cũng dẫn đến một khả năng tiên tri, và không thể dễ dàng liên hệ những hậu quả xảy ra với một hiện tượng bất thường trong vô vàn hiện tượng bất thường nào đó được chọn lựa. Ngoại trừ hiện tượng bất thường đó nó quá rõ ràng và xảy ra với quy mô nhiều người cùng nhận thức được. Thí dụ như: Hàng đàn cóc di cư ở Tứ Xuyên, hoặc những con voi bứt xích chạy lên núi cao ở Phuket Thái Lan trước sóng Thần Indo 2004 (Cả hai hiện tượng này đều đã được tiên tri trước trên các diễn đàn liên quan bởi Thiên Sứ. Riêng trân Tứ Xuyên thì không xác định rõ địa điểm). Do đó, khái niệm "điềm báo" này hình thành trong xã hội Đông Phương phải là hệ quả của một tri thức cao cấp đã tồn tại mới có thể hình thành được khái niệm đó. Nó không thể là kinh nghiệm nếu không có mối liên hệ giữa mọi hiện tượng được thừa nhận như một nguyên lý, trước khi có khái niệm này. Tư duy phát triển của khoa học hiện đại vào những thập niên cuối của thế kỷ trước mới thấy rằng: Nó hoàn toàn có thể giải thích được mối liên hệ giữa điềm báo với những hậu quả có thể tiên tri. Đó là: - Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ cũng phải viện dẫn đến toàn bộ lịch sử hình thành vũ trụ. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận phát biểu như vậy. - Vũ trụ được hình thành bởi nguyên lý tương tác giữa vạn vật. Tương tác như thế nào thì sự vật hình thành như thế đó. Tổng hợp hai định đề khoa học hiện đại nhất hiện nay, chúng ta mới có khả năng giải thích về hiện tượng gọi là "Điềm báo". Từ đó chúng ta suy nghiệm ra rằng: Nếu không xuất phát từ một hệ thống lý thuyết định hình bởi tư duy trừu tượng cao cấp thì con người không thể hình thành khái niệm "Điềm" và suy nghiệm trên thực tế. Đó chính là Lý thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất vũ trụ được hình thành bởi một nền văn minh cao cấp đã từng tồn tại trên trái Đất và người Việt chính là hậu duệ của nền văn minh này. Khi văn hiến Việt sụp đổ ở miền nam Dương tử, nó đã truyền những phương pháp ứng dụng và một khái niệm mơ hồ về lý thuyết này sang văn minh Hán từ hàng ngàn năm trước. Do đó, chính tri thức khoa học hiện đại được câp nhất mới nhất rất gần đây, mới có thể ứng dụng giải thích những vấn đề bí ẩn của Lý học Đông phương, mà trước đó khoa học hoàn toàn bất lực và để bảo vệ "uy tín" khoa học, người ta đành gán cho nó cái mũ "Mê tín dị đoan" cho đỡ phải tư duy. Khái niệm "Điềm" còn nhiều vấn đề phải làm sáng tỏ, hy vọng sẽ giúp cho những suy nghiệm phát triển trong tương lai của con người. Nhằm khắc phục những "Điềm xấu" , phát huy những "điềm tốt" phục vụ con người. Rất mong quí vị và anh chị em quan tâm đến Lý học Đông phương góp phần làm phong phú topic này. Xin vảm ơn sự quan tâm.
  8. LỜI TIÊN TRI 2009 Bài số 275 - trang 14 Động đất mạnh rung chuyển Tokyo nguồn Vietnamnet.vn Cập nhật lúc 20:02, Chủ Nhật, 09/08/2009 (GMT+7) Một trận động đất mạnh rung chuyển thủ đô Tokyo của Nhật Bản trong ngày Chủ Nhật, 9/8. Một góc thủ đô Tokyo của Nhật Bản. Ảnh Wikipedia. Trận động đất xảy ra vào khoảng chiều tối ngày Chủ Nhật, 9/8, cụ thể là vào lúc 7h56 giờ địa phương. Trận động đất có cường độ 7,1 độ richter, theo tính toán của trung tâm dự báo động đất Mỹ. Phía Nhật đưa ra con số là 6,9 độ richter. Cả hai con số này đều là cấp độ mạnh trong thang đo động đất. Tâm chấn của trận động đất nằm sâu 303 km dưới đáy biển vùng quần đảo Izu ngoài khơi phía đông Nhật Bản đã khiến các ngôi nhà ở thủ đô Tokyo rung chuyển khá mạnh. Tại Tokyo, một trận bóng chày đã phải huỷ sau khi xảy ra động đất. Nhiều chuyến tàu cao tốc cũng phải huỷ chuyến do lo ngại động đất. Hiện tại chưa có báo cáo nào về thiệt hại được đưa ra. Nhật Vy (Theo AP) Cảnh báo của Thiên Sứ: Đây chỉ là màn dạo đầu của thiên tai 2009. Trừ Hoa Kỳ và Việt Nam không bị thiên tai lớn. Còn tất cả các nước thì cẩn thận đề phòng. Bởi vì Thiên Sứ tài hèn , chỉ đoán được đến đấy.
  9. Chủ đề này rất hữu ích. Nhưng phải suy ngẫm đã. Thí dụ: Tại sao nhìn một đám mây vuông lại có bão? Tôi cho rằng: Bản chất đám mây nhìn thấy là tròn (Tròn tương đối luôn chứ không phải không vuông). Có khả năng sự xuất hiện đám mây tròn thực tế tồn tại đó chứng tỏ đã xuất hiện gió xoáy ở tầng bình lưu. Nhưng có thể hơi nước trong vùng có đám mây tròn đó tạo ra một hiệu ứng giống như thấu kính lồi, khiến người ta nhìn lên thấy đám mây vuông. Điều này tương tự như chúng ta chiều phím đèn chiếu - nếu dùng ống kính tròn thì sẽ ra một hình ảnh vuông, ngược lại nếu dùng ống kinh vuông thì dù với thấu kính tròn sẽ ra một hình ảnh có các góc nhọn. Hoặc cũng có thể đám mây tròn đó là một vùng hơi nước tồn tại như một thấu kính lồi, nên người ta nhìn thấy nó có hình vuông (Hiệu ứng ngược của đèn chiếu).Những kinh nghiệm dân gian gọi là: Điềm - thực ra bản chất có thể chí là những triệu chứng của tự nhiên xác định một hậu của tất yếu sẽ xảy ra sau đó. Việc tìm hiểu những "điềm" xấu tốt này là một đề tài rất hữu ích. Cảm ơn nuocviet vì sáng kiến này.
  10. Những người có quan điểm phủ nhận giá trị văn hiến truyền thống Việt, thường căn cứ vào những chứng tích khảo cổ này và cho rằng: Người Việt hiện nay là hậu duệ của những người tiền sử được phát hiện trong những hang động ở đầy từ 10. 000 năm trước. Thật ấu trĩ và dốt nát. Điều này cũng như nói người dân Hoa kỳ hiện nay phát triển từ người tiền sử có trước nền văn minh Maya vậy. Không bao giờ có sự tiến hóa khép kín từ thời người tiền sử lên thời đại đồ đồng cao cấp và cả đồ sắt. Giao lưu văn hóa là một quy luật cần và bắt buộc phải có cho sự phát triển của nền văn minh. Bắc Việt Nam là nơi rút lui cuối cùng của giống nòi Lạc Việt. Đấy là kết luận của tôi. Khi người Việt đến đây thì nơi đây đã có những tộc người lạc hậu ở. Và đó là lý do mà vua Hùng phải dùng "ảo thuật để chinh phục các bộ lạc" để đổi đất dời đô.
  11. Bác Liêm Trinh nói cũng có phần chí lý! Nhưng nếu một mình tôi thì cũng chỉ đưa ra một lý thuyết mang tính khái quát trong một lĩnh vực nào đó. Nhưng đi vào chi tiết ứng dụng thì rất cần những nhà chuyên môn giỏi và sâu để thực hiện. Thí dụ như bây giờ - tối xác định Bát quái chính là ký hiệu toán học siêu công thức vũ trụ theo hệ nhị phân, thì phải có những nhà toán học chuyên môn sâu về toán nhị phân cao cấp để xác định điều này. Cũng như E = mc2 là ký hiệu toán học siêu công thức của lý thuyết tương đối. Mà những nhà chuyên môn sâu này thì họ đã có công trình của họ và ý tưởng của họ, nay nhờ họ nghiên cứu theo định hướng của mình thì phải có....chiền. Hoặc như bây giờ tôi xác định: Tử Vi chính là hiệu quả tương tác có quy luật của những vì sao trong Thái Dương hệ và cận Thái Dương hệ tương tác với Địa cầu, thì phải có những nhà chuyên môn sâu về vật lý thiên văn cùng nghiên cứu xác định định lượng của lực tương tác đó và ảnh hưởng đến con người như thế nào. Thí dụ: Sao Đào hoa vượng địa chiếu vào người nào đó thì bản chất tương tác đó là sao gì? Tương tác cụ thể dưới hình thức nào? Ảnh hưởng gì đến cấu trúc di truyền của người đó và từ đó đưa đến ảnh hưởng đến mối quan hệ xã hội gọi là Định Mệnh qua lá số tử Vi....Đại loại như vậy. Khó lắm bác ạ! Chỉ cần xác định được một điều này - tìm ra bản chất tương tác của một ngôi sao trong Tử Vi thôi - đủ làm bá chủ vũ trụ. Bởi vì khi tìm ra bản chất tương tác này - dù chỉ một ngôi sao - thì người ta có thể lặp lại bằng phương tiện thế là vô địch. Tên lửa đạn đạo, bom nguyên tử chẳng là cái đinh gì. Chắc bác đã xem truyện "Thung Lũng Cô Tan" viết thời chiến tranh ở ngoài Bắc rồi chứ? Câu chuyện kể lại rằng: Một nhóm nhà khoa học của Lầu Năm góc phát hiện ra rằng: Dưới tầng địa chất của dãy núi Trường Sơn tiền ẩn một năng lượng tích lũy từ hàng triêu năm trước do sự dịch chuyển chồng lấn của các tầng địa chất. Họ nghiên cứu và cho rằng chỉ cần kích nổ với một khối lượng thuốc nổ để giải phóng năng lượng này thì sẽ thay đổi địa hình toàn bộ Đông Dương. Tất nhiên sẽ thay đổi cục diện chiến tranh. Câu chuyện này có thể chỉ là một viễn tưởng nhằm đề cao trí tuệ của những người làm công tác khoa học trong cuộc chiến ở miền Bắc. Nhưng sự kiến tạo câu truyện căn cứ vào một tri thức khoa học về năng lượng tích luỹ giữa các tầng địa chất trong thời kỳ kiến tạo vỏ trái Đất thì chính là một trong những nguyên nhân của động đất trong Lý học Đông phương - Do âm khí bế sinh ra. Nếu như xác định được những tầng địa chất có khả năng gây động đất và giải thoát có kiểm soát năng lượng này thì có thể sẽ tránh được động đất. Thí dụ vậy. Những nghiên cứu đại loại như vậy, không có tiền thì khó thực hiện. Nhưng thôi. Biết vậy. Sau này có ai đó sẽ tiếp tục - nếu có đủ tài năng và điềuu kiện đã xem những lời này - có thể gợi ý cho thế hệ sau một điều gì đó chăng? Còn bây giờ thì "Người nhỏ làm việc nhỏ. Tùy theo sức của mình". Ngày xưa giáo sư Trần Quang Vũ - một người mà kiến thức Vật lý thiên văn và Thái Ất đều tinh thông. Khi ông nhận ra Thiên Sứ đúng và có kế hoạch giúp tôi thì lại chết vào năm 71 tuổi. Tôi đã rất buồn vì cái chết của ông. Định mệnh đã an bài. Nhưng tôi sẽ hết sức cố gắng. Cảm ơn bác có sự động viên tôi.
  12. VinhL đoán hay đấy. Tuy chưa đạt độ hoàn hảo. Không thể có đàm phán sau khi liên quân do Hoa Kỳ lãnh đạo chiếm ưu thế: Chỉ có một người lính Hoa Kỳ trong bức tranh này. Đất đai bao la và núi sừng sững, không thể coi là quẻ Vô vong mà là Đại An. Anh chị em có ý kiến gì thêm không?
  13. Bão lớn buộc 1 triệu người Trung Quốc phải sơ tán Nguồn: Vietnamnet.vn Cập nhật lúc 12:53, Chủ Nhật, 09/08/2009 (GMT+7) Gần 1 triệu người Trung Quốc hôm nay (9/8) phải đi sơ tán tránh cơn bão Morakot sắp đổ bộ. Một ngày trước, bão ập tới Đài Loan cùng mưa xối xả, gây ngập lớn nhất trong vòng 50 năm tại hòn đảo này. Ảnh xinhua Tính đến sáng nay, tâm bão Morakot cách tỉnh Phúc Kiến, đông nam Trung Quốc 72km. Cục khí tượng trung tâm Đài Loan cho biết, trận bão có sức gió lên tới 108km/h và đang tiến về Trung Quốc với tốc độ 11km/h. Khoảng 1 triệu người tại các tỉnh duyên hải phía đông Trung Quốc sáng sớm nay đã đi sơ tán. Trong số này có hơn 470.000 người ở Chiết Giang, 485.000 người khác ở Phúc Kiến. Giới chức Phúc Kiến cũng gọi 48.000 tàu về bờ. Trẻ em đùa với những đợt sóng lớn do bão Morakot gây ra (Ảnh Reuters) Trung tâm khí tượng ở đông Chiết Giang đã ra cảnh báo bão và cho biết, bão Morakot có thể đổ vào đất liền trong khoảng thời gian từ trưa tới tối, đem theo mưa lớn tới khu vực duyên hải. Bão Morakot gây ngập nặng tại Đài Loan (Ảnh Sina) Một loạt đường cao tốc tại hai tỉnh trên đã phải ngừng hoạt động. Trước khi ập tới Trung Quốc, bão Morakot đã quét qua Đài Loan, phía bắc Philippines, gây ngập lụt và lở đất, làm ít nhất 12 người thiệt mạng. Hoài Linh (Theo Xinhua, AP) Cảnh báo của Thiên Sứ:Đây chỉ là màn dạo đầu của thiên tai 2009. Trừ Hoa Kỳ và Việt Nam không bị thiên tai lớn. Còn tất cả các nước thì cẩn thận đề phòng. Bởi vì Thiên Sứ tài hèn , chỉ đoán được đến đấy.
  14. Người chống đối Iran thú nhận 'làm theo chỉ dẫn ngoại quốc' Nguồn Vietnamnet.vn Cập nhật lúc 23:02, Thứ Bảy, 08/08/2009 (GMT+7) , Ngày thứ Bảy, 8/8, chính quyền Iran đã xét xử những người chống đối hậu bầu cử, trong đó có cả người ngoại quốc phương Tây. Một giáo viên người Pháp (đứng phía trái) và khoảng vài chục người khác bị tố cáo gây bất ổn cho đất nước sau đợt bầu cử tháng 6 vừa qua. Ảnh AFP. Cụ thể, một giáo viên người Pháp và 2 nhân viên bản xứ làm việc trong Đại sứ quán Anh và Pháp đã phải ra hầu toà đợt này. Cùng với họ là khoảng vài chục người khác bị tố cáo gây bất ổn cho đất nước sau đợt bầu cử tháng 6 vừa qua. Phiên toà được xem là lời đáp trả cứng rắn của chính quyền Iran đối với các lực lượng chống đối hậu bầu cử, trong đó đặc biệt nhằm vào những người được cho là “làm theo chỉ dẫn của các lực lượng ngoại quốc phương Tây”. Các phiên toà như lần này được tổ chức nhằm xét xử nhiều nhân vật bị cáo buộc âm mưu tổ chức “cuộc cách mạng nhung” nhằm lật đổ chính quyền tại quốc gia Hồi giáo này thông qua đợt biểu tình rầm rộ phản đối kết quả bầu cử Tổng thống từ tháng 6/2009. Đáng chú ý, theo như tường thuật của hãng thông tấn quốc gia Iran IRNA thì một nhân viên bản xứ làm việc trong Đại sứ quán Anh có tên là Hossein Rassam đã chính thức thừa nhận rằng các đại diện từ nước Anh đã “tham gia hoạch định chiến dịch biểu tình gây bất ổn” vừa qua. Hossein Rassam được cho là tâm điểm chú ý của phiên toà lần này, với tội danh và lời thú tội rất rõ ràng, theo như lời báo chí Iran. IRNA cũng cho rằng Hossein Rassam cho biết phía Anh đã chi khoảng 300.000 tới 500.000 bảng Anh để tài trợ cho các hoạt động biểu tình chống đống chính quyền sau đợt bầu cử tháng 6 vừa qua. IRNA còn trích dẫn lời Hossein Rassam thú nhận rằng anh ta đã “tiếp cận trụ sở và thiết lập quan hệ với người của ứng viên thất cử Mir Hossein Mousavi” về các vấn đề liên quan hậu bầu cử. "Nhiệm vụ chính của tôi là tập hợp thông tin từ Tehran và thiết lập quan hệ với các cá nhân và đảng phái có ảnh hưởng cũng như các nhóm chính trị tại đây rồi báo cáo về London. Đại sứ quán Anh đã tuyển mộ những người bản xứ để làm việc này. Tôi làm việc này là theo chỉ thị của các quan chức Đại sứ quán Anh", IRNA trích dẫn lời thú nhận của Hossein Rassam. Bộ Ngoại giao Anh cho biết “sẽ có động thái đáp trả đối với hành động phi lý này của Iran”. Các hãng tin phương Tây cho rằng chưa thể kết luận những thông tin mà hãng thông tấn quốc gia Iran IRNA đưa ra là chính xác hay không và liệu rằng những lời thú nhận trên có thật lòng hay không, hay chỉ là sự dàn xếp. Các nhóm hoạt động nhân quyền cho biết những lời thú tội như vậy thường thu được khi các bị cáo bị câu thúc. Những người theo đường lối cải cách kịch liệt phản đối phiên toà và cho biết các bị cáo không được phép tiếp cận luật sư bào chữa. Theo một số nguồn tin, nếu bị tuyên có tội, những người này có thể phải lãnh mức án 5 năm tù giam, và nặng hơn, nếu bị kết tội phản đạo hay "kẻ thù của Chúa" thì án phạt sẽ là tử hình. Nhật Vy (Theo CNBC, AP, BBC) Nhời bàn của Thiên Sứ: Câu chuyện bầu cử ở Iran và vụ xử ở tóa án này có vẻ như không liên quan gì đến Lời tiên tri 2009 dưới đây: Nhưng Thiên Sứ tôi cho rằng: Nếu các quí vị nguyên thủ các quốc gia liên quan không giải quyết được một cách rốt ráo những điểm nóng nói chung thì nhân loại sẽ phải chứng kiến những cuộc chiến đau lòng.
  15. Máy bay đâm nhau ở New York, không ai sống sót Nguồn Vietnamnet.vn Cập nhật lúc 09:42, Chủ Nhật, 09/08/2009 (GMT+7) Chín người, trong đó có 5 du khách Italia, đã thiệt mạng hôm 8/8 khi một máy bay nhỏ đâm vào một trực thăng ở New York. Cả hai chiếc máy bay đều lao xuống sông Hudson, thị trưởng New York Michael Bloomberg nói. Tàu trục vớt trên sông Hudson (Ảnh Reuters) Theo ông Bloomberg, trên trực thăng có 5 khách Italia, một phi công, còn máy bay nhỏ có 3 người, trong đó có một phi công và một em bé. Đến sáng 9/8, đã tìm được 3 thi thể, không có hy vọng tìm thấy người sống sót. "Chiến dịch cứu hộ đã chuyển sang chiến dịch trục vớt. Vụ việc không có kết thúc tốt đẹp", người đứng đầu New York cho hay. Lực lượng cứu hộ và tìm kiếm đã lao tới khu vực phụ cận của phố 14 ở Hạ Manhattan ngay sau khi vụ đâm nhau giữa trời xảy ra vào buổi trưa 8/8. Ông Bloomberg cho hay, chiếc máy bay nhỏ hiệu Piper Saratoga dường như đã đâm vào đuôi trực thăng khiến trực thăng vỡ và rơi xuống sông. Cảnh sát đã tìm thấy một mảnh vỡ dưới nước và việc tìm kiếm thi thể lẫn các mảnh vụn của máy bay dự kiến sẽ kéo dài vài ngày. Chiếc máy bay trong vụ tai nạn do công ty Liberty Helicopter quản lý. Đây là công ty cho thuê máy bay trực thăng lớn nhất vùng đông bắc Mỹ. Một nhân chứng nói trên đài truyền hình địa phương NY1 cho biết, anh ta thấy một cánh máy bay rơi xuống khi hai máy bay đâm nhau. Trực thăng rơi như một hòn đá xuống sông. Những người khác cho hay, họ nghe thấy một tiếng nổ lớn. Hoài Linh (Theo Reuters, AP)
  16. Bàn về kỹ thuật dự báo của các nhà chiêm tinh. Nguồn Tuvilyso.net Quí vị và anh chị em thân mến. Bài viết này đăng trên tuvilyso.net, tôi sửa lại cái tựa cho phủ hợp nội dung. Nội dung của bài viết này cho rằng mọi dự báo đều không có giá trị, nó chỉ có tính chung chung và gây cảm giác. Tôi nghĩ rằng nó thuộc về một tay ngang không hiểu biết gì về chiêm tinh nói chung và gồm cả chiêm tinh Đông Phương. Đây là một nhận xét không có cơ sở khoa học và chỉ dựa trên sự thống kê những dự báo của những thày bói giả hiệu. Những phương pháp của Lý học Đông phương không hề nằm trong số những thống kế của nhà vật lý Geoffrey Dean. Bởi vì những dự báo của Lý Học Đông phương đều cho những kết quả cụ thể. Ngược lại có một số hiện tượng trong bài viết này lại xảy ra ở giới khoa học. Thí dụ như điều 3 trong bài viết dưới đây. Quí vị và anh chị em có thể tham khảo. Như mọi hình thức bói toán, chiêm tinh học đưa ra các dự báo quá chung chung, nên nhiều người cho là chính xác. Năm 1992, nhà vật lý Geoffrey Dean đã đúc kết ra 10 nguyên lý và 26 kỹ thuật dự báo của các nhà chiêm tinh. Dưới đây là một số kỹ thuật thường gặp nhất. 1. Hiệu ứng Barnum, hay việc người ta rất dễ dàng tiếp nhận những thông báo mơ hồ, chung chung. Hiệu ứng này được đặt tên theo các màn xiếc của P.T. Barnum. Năm 1949, một giáo sư tâm lý đưa ra một mô tả nhân cách tổng quát đến mức mọi sinh viên đều nhận đó là của chính mình, kiểu như: “Bạn có xu hướng phê phán bản thân” hay “bạn thích một chút thay đổi”. Thông báo Barnum càng được thừa nhận khi: 1) Ngắn gọn, tổng quát, dễ được chấp nhận và được cho là chỉ đúng với bạn, 2) Là những điều dễ ưa, phù hợp với nhân cách bạn, tránh những thông báo khó chịu kiểu như: “Bạn không phải là người suy nghĩ độc lập”, 3) Đối tượng ngây thơ và dễ thay đổi. 2. Đọc nguội (cold reading), hay vai trò của ngôn ngữ cơ thể. Đầu thế kỷ 20 tại Berlin, chú ngựa Hans thông minh biết lựa theo phản ứng của người đối diện (nhướn mày, nhăn trán, hít vào hay thở nhẹ ra, vươn hay so vai…) để làm toán. Ngựa còn biết, thì tại sao thầy bói lại không? Không chỉ các thầy bói, mà giới đồng cốt cũng rất thạo “kỹ thuật lấy tin” này. 3. Hiệu ứng Tiến sĩ Fox, hay chúng ta bị lừa bằng khoa học và sự hài hước. Khi cảm thấy ở trong một môi trường giàu trí tuệ, và tin rằng đang được nghe một người am hiểu vấn đề nói, ta sẽ thỏa mãn mà không để ý rằng, thực ra quan điểm đó chưa hẳn đã đúng. Năm 1947, ba nhà giáo dùng một người đóng vai “tiến sĩ Fox” thuyết giảng về Lý thuyết trò chơi trong toán học, ứng dụng trong giảng dạy vật lý trước 55 nhà tâm thần học, tâm lý học, giảng viên, quan chức trường phổ thông và nhà hoạt động xã hội. Khi điền phiếu thăm dò, 42 người cho rằng, bài giảng được tổ chức tốt, nhiều minh họa và kích thích tư duy. Hầu hết cử tọa đều muốn nghe thêm về chủ đề này. Không ai biết đó chỉ là một trò lừa gạt. 4. Hiệu ứng vầng hào quang, hay tầm quan trọng của ấn tượng ban đầu. Ta có xu hướng tin tưởng những thầy bói có tính cách nồng nhiệt hơn lạnh lùng, tự chủ hơn thiếu tự chủ, áo quần tươm tất hơn ăn mặc cẩu thả, ưa nhìn hơn kém hình thức… Giới bói toán thuộc nằm lòng quy tắc này! 5. Tương quan ảo, hay tin tưởng là sẽ thấy. Đây là quy luật vàng của tâm lý học: Ta sẽ thấy cái mà ta muốn thấy. Từ vô số sự kiện đã xảy ra trong đời, ta nhất định nhặt được một sự kiện phù hợp với dự báo của ông thầy bói mà ta ưa thích. 6. Tính không sai lầm, hay vì sao thầy bói không thể sai. Dự báo thì đã quá chung chung nên khó có thể sai lầm. Nếu sai thì thầy bói cũng có cách biện minh, đơn giản nhất là thừa nhận chưa hiểu hết thiên cơ. Ai mà không mắc sai lầm và ai có thể hiểu hết thiên cơ? 7. Hiệu ứng giả dược (placebo), hay nó sẽ tốt nếu ta nghĩ rằng nó tốt đối với ta. Rất ít người đi xem bói mà lại hy vọng thầy bói nói sai. Cái ước vọng muốn tin là một vũ khí lợi hại đối với thầy bói. Khi họ bói sai, ta sẵn sàng cung cấp những ám hiệu để giúp họ hiệu chỉnh. 8. Hiệu ứng người phục vụ khách hàng, hay buộc khách hàng phù hợp với dự báo. Điều này thực ra dễ dàng hơn ta nghĩ nhiều. Người phục vụ khách sạn có định kiến một vị khách sẽ cho ít tiền boa, thế là anh ta phục vụ không ra gì, kết quả là tiền boa ít thật. Anh ta cho đó là kết quả tiên tri, mà không nghĩ rằng đó chỉ là hệ quả của sự phục vụ tồi. 9. Ký ức chọn lọc, hay chỉ nhớ những gì muốn nhớ. Khi thầy bói đưa ra hai dự báo đúng và tám dự báo sai, ta say sưa kể cho mọi người nghe về hai dự báo “đúng một cách kỳ lạ”, mà quên mất rằng, độ chính xác chỉ là 20%! Trên thực tế, nhiều khi đoán mò cũng đạt độ chính xác tới 50% (thắng hay thua, trai hay gái…), thậm chí 70% (thời tiết ngày mai giống hôm nay). Sách bói toán bán đầy đường. 10. Hiệu ứng mong ước, hay dự báo càng đẹp thì càng dễ được chấp nhận. Giới bói toán hiểu rõ điều này nên các dự báo thường là dễ chịu. Và sự xu nịnh sẽ đưa ta tới bất cứ đâu. Khi có ai tuyên bố ta tài giỏi, thông minh, sáng tạo, giàu trí tuệ, nhạy cảm, giao thiệp rộng, thăng tiến ào ào và sẽ giàu to, ta tức khắc xem đó là một nhà tiên tri thấu hiểu huyền cơ! Cũng không nên quên một kỹ thuật thô sơ nhưng hữu dụng, đó là đọc nóng (hot reading). Nó thô sơ đến mức không được Dean nhắc tới. Vừa gặp bạn, ông thầy bói đã nói ngay rằng ông quá mệt do đã xem cho quá nhiều người nên hẹn bạn vào tuần sau. Đúng hẹn bạn tới và ông ta liền kể vanh vách những thông tin cơ bản về bạn như họ tên, cơ quan, hoàn cảnh gia đình… Bạn choáng váng trước "tài nghệ" siêu phàm và sau đó tin theo tất cả những gì thầy nói, mà không hề biết rằng, lần trước thám tử của thầy đã kín đáo bám theo bạn. Chỉ cần hỏi người bán nước trước cửa nhà bạn cũng đã có đủ những thông tin cần thiết! (Theo Kiến thức ngày nay) Người giới thiêu: platinum_1993 http://tuvilyso.net/forum/index.asp
  17. Chưa. NươcViet đưa lên đi.
  18. Chúbb dặn gì cũng quên rồi. Nhưng cứ thế mà làm, không thêm bớt gì cả. Hòn non bộ mua ở chỗ bán cây núi cảnh. Mua loại bằng đá san hô trắng. Vậy thôi. Chưa có con ma nào bén bảng vào núi đó đâu.
  19. Còn cái bài viết linh tinh ngớ ngẩn của mấy vị giáo sư phân tích về Sơn Tinh Thủy Tinh mà anh Trần Phương dẫn lên tôi chí cần trả lời thế này: Cách nhìn của họ về những truyền thuyết liên quan đến thời Hùng Vương là cách nhìn của đám con nít. Nếu nội dung của nó đúng như họ phân tích, giải mã thì chẳng cần đến nội dung câu chuyện như đã được chuyển tài từ hàng ngàn năm nay. Trong luận cứ của họ không hề có một sự hợp lý tối thiểu nào về sự liên hệ giữa nội dung truyền thuyết - các loại, chứ không riêng truyền thuyết này - với những vấn đề xã hội, lịch sử mà họ nêu ra. Rất tiếc! Thằng con nít lớn nói thì thằng con nít nhỏ nghe.
  20. V/v này thì cần phải có kinh phí lớn. Đầu tiên là trả lương cho các nhà nghiên cứu và lương phải đủ cao để họ có thể yên tâm nghiên cứu. Nếu có tiền tài trợ thì tôi sẽ lập ra chừng trên một tá nhóm nghiên cứu về lý học Đông Phương và tất cả những đề tài liên quan đến vũ trụ, cuộc sống và con người. Người ta có thể bỏ ra cả chục triệu dol cho việc nghiên cứu UFO, hàng trăm tỷ EUR để đi tìm "Hạt của Chúa" - nhưng số tiền đó dành cho Lý học Đông phương sẽ tốt đẹp và hiệu quả hơn nhiều. Để xác định có hạt của Chúa và UFO hay không thì Lý Học Đông Phương chỉ cần một quẻ Dịch hoặc Lạc Việt độn toán với sự phân tích hợp lý. Nhưng rất tiếc! Định mệnh chưa mỉm cườii với Lý Học Đông phương. Nếu quả thật có một lý thuyết thống nhất vũ trụ thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không! Đây là phát biểu của SW. Hawking - Đúng là phát biểu của một thiên tài.
  21. Cuốn “Bí Tàng Đại Lục Nhâm Đại Toàn” dày đến hơn 800 trang A4, chữ nhỏ như kiến. Có bán hạn chế ở các cửa hàng sách cũ. Bản pho to mà giá cũng 300. 000 VND. Tôi có cuốn này và tặng cho Cây Tre là một thành viên mạng tuvilyso.com mà tôi quý mên. Tuy nhiên tôi tin chắc rằng cuốn sách của nuocviet sẽ có nhiều điểm khác xa với cuốn "Đại toàn". đã phố biến, mặc dù nội dung tương tự. nuocvietmenyeu có thể mang đến Trung Tâm bản photo cuốn sách này, hoặc anh cứ mang đến, chúng tôi sẽ photo và trả lại anh bản gốc. Sau đó sẽ có người đánh máy và đưa lên đây mỗi ngày. Anh cứ yên tâm đi. Thậm chí có đem ra giảng ra rả như ve sầu thì cũng mấy ai hiểu nổi. Bởi vậy, chẳng phải dễ gì đem ứng dựng hại đời đâu.Thế gian vận động đã có Định mệnh của nó, cuốn sách không phải nguyên nhân tác nghiệp đâu. Nếu bí ẩn của vũ trụ nằm trong những cuốn sách Tàu thì chắc chẳng còn gì là bí ẩn cả. Anh cứ mạnh dạn đưa lên đi. Lộ Thiên cơ tội vạ đâu Thiên Sứ chịu trách nhiệm. :blink: .
  22. Ông Hoàng Tuấn có tặng tôi cuốn sách này, trước đó tôi cũng mua một cuốn, nên dư một cuốn. Nếu anh ở Sài Gòn thì ghé tôi lấy.
  23. CÂN BẰNG ÂM DƯƠNG Thuật ngữ "Cần bằng Âm Dương" được xuất hiện sớm nhất trong cổ thư từ Sử Ký của Tư Mã Thiên - trong tiểu truyện Trần Bình thế gia. Khi được hỏi: Nhiệm vụ của tể tướng là gì? Tả thừa tướng Trần Bình đã trả lời: Nhiệm vụ của tể tướng là giúp vua cân bằng Âm Dương. Nhưng Sử Ký chỉ ghi nhận câu trả lời này của Trần Bình và không giải thích gì thêm. Bởi vậy - khi nền văn minh Việt sụp đổ ở miến nam Dương Tử thì khái niệm "cân bằng Âm Dương" trở nên khó hiểu và huyền bí. Hơn 1500 năm sau, thuật ngữ này lại được nhắc tới trong Đại Việt Sử Ký toàn thư, đoạn Ngự sử Bùi Cẩm Hổ phiền trách tể tướng Trần Khắc Chân. Quan ngự sử Bùi Cẩm Hổ cho rằng những thiên tai, lũ lụt, bão tố gây mất mùa và tai ương trên đất Việt là do không cân bằng Âm Dương và do lỗi của Tề tướng. Tể tướng Trần Khắc Chân cãi: Đó là chuyện của Long Vương đâu phải lỗi tại ông ta. Câu chuyện trong Đại Việt sử ký cho thấy khái niệm cân bằng Âm Dương , do tính thất truyền đã trở nên huyền bí và mang màu sắc tâm linh - Vua ngồi làm thinh, tư lự hồi lâu gọi là "sửa Đức chính" (?!). Thực ra khái niệm cân bằng Âm Dương trong Lý Học Đông phương phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt đã xác định: Hình thái ý thức xã hội thuộc Dương, sự phát triển đời sống kinh tế xã hội và các mối quan hệ xã hội mới nảy sinh trên cơ sở phát triển của đời sống kinh tế xã hội thuộc Âm. Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt xác định rằng: - Âm thuận tùng Dương. - Âm Động - Dương tịnh. Đây là một định đề nhất quán và hoàn chính của thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt và hoàn toàn khác sách Hán - khi cổ thư chữ Hán cho rằng: Âm tịnh Dương động. Ứng dụng những luận đề này vào việc quán xét những vấn đề xã hội và tổ chức xã hội thì khái niệm "cân bằng Âm Dương" hoàn toàn không có điều gì huyền bí. Nó sẽ xác quyết một nhiệm vụ cho các lãnh đạo quốc gia cần luôn "Cân bằng Âm Dương" trong bối cảnh xã hội luôn phát triển. Ở thời phong kiến đó chính là nhiệm vụ của tể tướng; ở các chính thể khác nhau trong lịch sử thì tùy quyền lực lập pháp thuộc về tổ chức cấp nhà nước nào. Còn tiếp.
  24. Trước khi anh chị em dự báo theo phương pháp cấp III Lạc Việt độn toán thì hãy xem kỹ bài của Thanh Vân. Tôi đang biên soạn lại phần VI của môn này. Bài của Thanh Vân sẽ là bài chuẩn cho việc tham khảo phương pháp cấp III.
  25. Không được! Các anh chị biết tại sao không nên động thổ xây nhà khi vợ mang bầu, hoặc sinh nở - thậm chí chỉ chuyển giường không? Tôi đề nghị thà ở cái nhà nát vá víu lại và không nên cất nhà năm nay.