shaoliner

Phát hiện thêm 3 hang động tuyệt mỹ tại Quảng Bình

40 bài viết trong chủ đề này

(Dân trí) - Sau nhiều năm ẩn mình trong rừng già nguyên sinh và những rặng núi đá vôi kỳ vĩ của xã Tân Hóa (Minh Hóa), ba hang động đã được người dân phát hiện với những cột thạch nhũ đẹp đến mê hoặc.

Các hang động này có tên được người địa phương đặt là Tú Làn, Tố Mộ nhỏ và Tố Mộ lớn.

Trong đó, động Tú Làn có kích thước lớn nhất: rộng chừng 50m, cao hơn 20m và có chiều dài 600m. Cũng giống như phần nhiều các động đá vôi ở khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng, động Tú Làn có nhiều rặng thạch nhũ kỳ vĩ cả “nhũ già” và “nhũ trẻ”.

Posted Image

Rặng thạch nhũ trong động Tú Làn

Đáng chú ý, tại hang Tố Mộ lớn có nhiều dấu hiệu chứng tỏ có thể đã có sự sống của người tiền sử như xương, đồ gốm cổ. Trong 3 hang động vừa được biết đến, hang Tố Mộ nhỏ có kích thước khiêm tốn nhất, nhưng có rặng thạch nhũ được đánh giá là đẹp nhất.

Theo người dân địa phương, các hang này được phát hiện đã lâu nhưng do đường sá trắc trở (muốn vào khu vực này phải đi bộ mất 2-3 giờ đồng hồ) nên trước nay người ngoài hầu như chưa biết đến.

Khu vực vừa phát hiện 3 hang động này cách hang Sơn Đoòng - hang được coi là lớn nhất thế giới vừa được đoàn thám hiểm Anh quốc công bố - khoảng 50 km.

Điều này đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu, khảo sát tổng thể rặng đá vôi thuộc dãy núi Trường Sơn nhằm xác định lại giá trị thực của khu vực này, có thể lớn hơn nhiều những gì đã được biết đến.

Được biết, UBND huyện Minh Hóa sẽ có khảo sát cụ thể hơn về các hang này cùng quần thể sinh vật đa dạng nơi đây để đề xuất việc bảo tồn và nghiên cứu khả năng khai thác du lịch.

H.Kỹ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Các hang động vừa khám phá ở Quảng Bình có thể nào chứa những bí ẩn của nền văn minh Việt? Có khi nào cha ông ta đã mang những tinh túy của nền văn hóa Việt cất giấu vào những hang động này để khỏi bị đồng hóa? Có thể lăm chứ :rolleyes:

Share this post


Link to post
Share on other sites

Các hang động vừa khám phá ở Quảng Bình có thể nào chứa những bí ẩn của nền văn minh Việt? Có khi nào cha ông ta đã mang những tinh túy của nền văn hóa Việt cất giấu vào những hang động này để khỏi bị đồng hóa? Có thể lăm chứ :rolleyes:

Theo tôi thì không phải vậy, ngược lại, đây là một vấn đề rất quan tâm.

Ở những hang động tỉnh Quảng Bình và cả các hang động nằm rải rác ở Lào, người ta đã phát hiện những dân tộc nhỏ lạc hậu sinh sống bằng săn bắn, hái lượm. Điển hình là ở Phong Nha - Kẻ Bàng, vào năm 1959, những chiến sĩ biên phòng đã gặp một nhóm những "người rừng" : "tóc dài quá vai, thân không mảnh vải" (họ chỉ có một một tấm vỏ cây che chắn ngang lưng), họ "truyền cây", leo "triền đá" ... và "chui vào rừng" ... Đó chính là người Rục.

Điều đáng nói ở đây là người Rục thuộc nhóm ngữ hệ với người người Kinh, thuộc Chứt - Việt tộc, tức là nhóm Việt - Mường - Thổ - Chứt. Tương tự với người Rục là những nhóm dân tộc thiểu số ở Hà Tĩnh - Nghệ An vẫn còn giữ lại những ngữ âm cổ hoàn toàn thuần Việt. Đây là một việc rất đáng quan tâm vì, ngoài vấn đề xã hội là phải cứu họ khỏi bị tuyệt chủng, vấn đề đặt ra là ngữ hệ của các dân tộc Việt cổ trong quá trình nghiên cứu luồng di chuyển cư dân trong cổ sử, liên quan đến phạm vi lãnh thổ và không gian văn hóa của văn minh cổ Việt : phải chăng hết sức sai lầm khi phân nhỏ văn minh Việt tộc xưa chỉ theo hệ ngôn ngữ ?

Dù thế nào đi nữa, một tín hiệu vui là : sau bao nỗ lực hỗ trợ của cộng đồng và xã hội, ngày nay người Rục đã hòa nhập được vào cuộc sống văn minh hiện đại cùng tất cả các dân tộc anh em trên lãnh thổ nước ta, dẫu trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn.

Cuộc sống người Rục ngày nay : (ảnh sưu tầm)

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Các hang động vừa khám phá ở Quảng Bình có thể nào chứa những bí ẩn của nền văn minh Việt? Có khi nào cha ông ta đã mang những tinh túy của nền văn hóa Việt cất giấu vào những hang động này để khỏi bị đồng hóa? Có thể lăm chứ :lol:

Nếu luận điểm của tôi đúng thì nó phải có khả năng tiên tri. Đây là lời tiên tri của tôi: Người ta sẽ tìm thấy một kho tàng vô giá của thời Hùng Vương với những di sản vô cùng quí báu về mọi phương diện. Nhưng kho tàng này chỉ xuất lộ khi nền văn hiến Việt một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử được xác nhận. Cách đây đã lâu, đương thời TT Phan Văn Khải - báo chí đã nói về một người đi tìm kho tàng thời Hùng Vương qua một bản đồ hoặc văn bản cổ, nhưng thất bại.Triều đại cuối cùng của Thời Hùng Vương thứ XVIII cất giấu kho tàng này và không để lại một bản đồ hoặc văn bản hướng dẫn nào.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quý vị !

Không riêng gì vùng rừng núi ở Quảng Bình, nơi người ta đã phát hiện ra người Rục (mà tôi đã giới thiệu ở trên), một tộc người có ngữ hệ rất gần với người Kinh - Việt tộc ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, mà ở khắp vùng đồng bằng và đồi núi ven biển dọc dải đất Thanh Nghệ Tĩnh là nơi cư ngụ và sinh sống của những tộc người cổ vẫn còn giữ lại những ngôn ngữ hoàn toàn thuần Việt. Cũng có người cho rằng tổ tiên người Việt hiện nay là người Giao Chỉ, mà trong cổ sử Tàu cũng nhắc về "Giao Chỉ Bộ" hay "Giao Chỉ Quận" (2 cách gọi này khác nhau về qui mô vùng đất, nhưng tôi không bàn ở đây). Vào năm 43, khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, Mã Viện đã gom hết trống Đồng Lạc Việt lại đem nấu chảy và cắm sâu xuống đất : "Đồng trụ chiết - Giao chỉ diệt". Như vậy, Giao Chỉ là gì ? Phải chăng tổ tiên người Kinh - Việt tộc bây giờ là người Giao Chỉ có 2 ngón chân xoạc ra như một số sử gia có nói đến ? Xin giới thiệu bài viết dưới đây trong bài trả lời của một độc giả trên website Nông nghiệp Việt Nam của GS-TS Nguyễn Lân Dũng :

VÌ SAO NGƯỜI VIỆT CỔ ĐƯỢC GỌI LÀ NGƯỜI GIAO CHỈ ?

Theo thông tin của từ điển bách khoa mở Wikipedia thì Đỗ Hựu trong bộ Thông điển cho rằng: "Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)". Ý kiến này được nhiều học giả Trung Hoa và Việt Nam chấp nhận.

Bộ Từ nguyên (quyển Tý, trang 141) bác lại ý kiến trên mà cho rằng: "Theo nghĩa cũ bảo hai ngón chân cái giao nhau là Giao Chỉ, nhưng xét đời cổ bên Hy Lạp, có tiếng "đối trụ", có tiếng "lân trụ" để gọi loài người trên thế giới. "Đối trụ" là phía Nam, phía Bắc đối nhau, "lân trụ" là phía Đông, phía Tây liền nhau. Sở dĩ có tên Giao Chỉ là hợp vào nghĩa "đối trụ", vì dân tộc phương Bắc gọi dân tộc phương Nam, cũng như một chân phía Bắc, một chân phía Nam đối nhau, không phải thực là chân người giao nhau".

Các nhà sử học Việt Nam kể từ Nguyễn Văn Siêu, Đặng Xuân Bảng, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh,... đều theo cách giải thích thứ hai này.

Năm 1868, bác sĩ Thorel trong đoàn thám hiểm của Doudart de Lagrée đã nhận xét hiện tượng hai ngón chân cái giao nhau là "một đặc điểm của giống người An Nam". Sau này các học giả Pháp khác cũng ghi nhận điều này.

Hiện tượng hai ngón chân cái trẹo ra ngoài để có tư thế giao nhau khi hai bàn chân đặt song song gần nhau được gặp không chỉ ở các dân tộc Đông Dương mà còn ở các dân tộc khác như người Mã Lai, Xiêm, Trung Hoa, Ả Rập, Melanesia và người da đen, chỉ khác nhau ở mức độ. Nhưng hiện tượng này rất hiếm gặp ở người châu Âu. Đây không phải là hiện tượng bệnh lý, mà có thể coi là một biến dị lại tổ (variation atavique) do xương mọc không thẳng như bình thường.

Như vậy hiện tượng này không phải do kẻ đô hộ cố tình gây ra cho dân chúng như bạn hiểu.

GS.TS NGUYỄN LÂN DŨNG (06/08/2008 07:45)

http://www.baomoi.com/Home/DoiNoi-DoiNgoai...Chi/1870477.epi

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đi tìm ... “bàn chân Giao Chỉ”

Họ có đôi bàn chân kỳ dị, to và cong, ngón cái chìa ra như càng cua. Cấu trúc đặc biệt của đôi bàn chân đó đã làm cho những người này gặp không ít khó khăn trong sinh hoạt thường ngày nhất là những lần muốn đi đâu mà phải... xỏ dép. Ở xã Thanh Hưng, huyện Thanh Chương (Nghệ An) mọi người vẫn gọi họ là những người... Việt cổ hay những người Giao Chỉ

Posted ImageBàn chân Giao Chỉ

Tập đi dép cả tháng để... cưới con

Người đầu tiên có “bàn chân Giao Chỉ” mà chúng tôi tìm gặp là ông Nguyễn Cảnh Thanh ở xóm 10, xã Thanh Hưng. Ông Thanh năm nay đã ở vào tuổi 75 nhưng trông ông vẫn còn khỏe lắm. Nhà ông Thanh có đông con nhưng các con đều đã lập gia đình và ở riêng, chỉ có hai ông bà già ở với nhau. Ở cái tuổi đáng ra phải được nghỉ ngơi từ lâu nhưng sức khỏe còn rất dồi dào nên mình ông Thanh vẫn làm ra cả tấn thóc mỗi mùa.

Posted Image Ông Thanh và bà Nhị với bàn chân Giao chỉ như nhau

Ông bảo, ông chỉ cần mỗi người vợ làm phụ tá, còn việc đồng ruộng ông ..."chấp" cả thanh niên. Hỏi về bí quyết để có sức khỏe dẻo dai như vậy ông Thanh chỉ ngay xuống đôi bàn chân “càng cua” của mình: “Tui (tôi) khỏe hơn người nhờ sự khác người đó. Không chỉ có tui mà cả ba anh em nhà này đều dư thừa sức khoẻ. Ở đây ai cũng nói người có bàn chân Giao Chỉ thì sức khỏe vô biên và tui thấy đúng như rứa (như thế)”.

Ông Thanh kể, bố ông là ông Nguyễn Cảnh Niên có đôi bàn chân còn kỳ dị hơn ông nhiều. Bàn chân ông Niên cong đến mức không đi được dép. Cũng vì thế ông Niên rất hiếm khi đi đâu bởi với đôi chân trần ông rất ngại gặp gỡ mọi người. Điều lạ là trong mấy anh em chỉ mỗi mình ông Niên có đôi bàn chân như vậy còn những người còn lại hoàn toàn bình thường. Bố ông sinh được bốn người con, ba trai một gái thì ba người con trai đều có đôi bàn chân Giao Chỉ, còn người con gái lại không.

Trong ba anh em thì ông Thanh là “tiêu biểu” nhất. Ngày bé do ở vùng quê miền núi nên trẻ nhỏ ít khi dùng đến dép. Và ông Thanh cho rằng cũng vì không được “uốn nắn” từ bé nên sau này khi đã đến tuổi trưởng thành thì ông không có cách nào để thay đổi được nữa. Chẳng có loại dép nào ông đi được, thuở thiếu thời ông chung tình với dép cao su to “khủng bố” do tự ông “sáng chế” nhưng cũng chỉ là những lúc thật cần thiết còn bình thường ông cũng hiếm khi sử dụng đến.

Kỷ niệm ông Thanh không bao giờ quên đó là lần người con trai trưởng lập gia đình ở tận thủ đô Hà Nội. Để chuẩn bị cho chuyến đi đó ông đã phải tập luyện đi dép cả tháng trời. Khỏi nói ông đã phải chịu đau đớn thế nào nhưng cũng chính từ lần “huấn luyện” quy củ đó ông đã dễ dàng hơn mỗi khi đi đâu cần phải đi dép. Nói vậy nhưng mỗi lần xỏ chân vào dép ngón cái vẫn không chịu nằm yên mà cứ “bò” ra đất. Cố đưa ngón cái lên thì ngón út lại rơi xuống. Ông Thanh nói đùa rằng “kẻ thù mà tui ghét nhất là dép”. Hôm chúng tôi đến ông Thanh đã lục lọi mãi mới tìm được đôi dép để đi vào tiếp khách. Ông đã bỏ rơi nó vì lâu nay ông không có dịp đi đâu nên cũng chẳng sử dụng đến. Thế nhưng, vừa xỏ vào một lúc ông đã gãi đầu gãi tai vì khó chịu và cuối cùng ông phải bỏ ra rồi phân bua: “Thông cảm cho tui đi đất nhé, nói là đi dép nhưng... mấy ngón vẫn ở dưới đất mà”.

Posted Image Ông Thanh rất tự hào với bàn chân đặc biệt của mình

Sẽ hết “chân Giao Chỉ”

Ở xã Thanh Hưng không chỉ có duy nhất gia đình ông Thanh có nhiều người có bàn chân Giao Chỉ. Ông Thanh đã dẫn chúng tôi đi thăm rất nhiều người cũng có đôi bàn chân tương tự như bà Nguyễn Thị Nhị ở xóm 9. Gia đình này chỉ có bà Nhị và một người chị cùng ông cụ thân sinh là có đôi bàn chân đặc biệt như vậy. Bà Nhị năm nay đã ở vào tuổi 87, vẫn rất khoẻ mạnh. Con cái đi thoát ly, bà ở một mình vẫn tự cơm nước. Chợ ở xa nhà đến 2km nhưng ngày nào bà vẫn cuốc bộ đi đều đặn.

Ở địa phương này, còn có thể kể tên những người có “bàn chân Giao Chỉ” như: ông Tợi, bà Hiếu, ông Tâm... Những người này có điểm chung nữa là đều có họ hàng gần xa với ông Thanh.

Một điều chúng tôi dễ nhận thấy ở những người có bàn chân “khác người” là họ rất lạc quan, ngoại trừ những lúc phải... xỏ dép. Họ cho rằng may mắn mới có được đôi bàn chân như vậy vì “chân Giao Chỉ” thì tuyệt nhiên ai cũng khỏe mạnh và sống rất thọ. Ông Nguyễn Cảnh Minh, em trai ông Thanh trước đây từng bị voi rừng tấn công, ông Minh cho rằng với một người có sức khoẻ bình thường thì không còn cơ hội sống sót. Con voi hung dữ đã “bốc” ông lên rồi ném từ trên đỉnh núi xuống thế mà ông vẫn thoát chết.

Ở xã Thanh Hưng, người họ Nguyễn Cảnh chiếm đa số và đã có thời dòng họ này đã trở lên nổi tiếng nhờ có nhiều “người Giao Chỉ”. Theo thống kê của chính ông Thanh thì những ai có bàn chân như ông đều vượt qua tuổi “bát tuần”. Hiện nay, lớp trẻ không còn thấy xuất hiện bàn chân “càng cua” này nữa. Ngay như ông Thanh, tất cả các người con sinh ra đều có bàn chân bình thường. Ông Thanh cho rằng con ông không có đôi bàn chân giống bố là do được đi dép từ tấm bé, lúc đó xương còn uốn nắn được nên bàn chân thẳng mà không bị cong. Ông Thanh nhận định rằng, lứa tuổi như ông mất đi thì ở đây cũng sẽ hết người có “chân Giao Chỉ”.

Theo Cảnh Dũng

-------------------------------------------------

PGS.TS Nguyễn Lân Cường :

Chân Giao Chỉ có hai ngón cái toạc ra hướng về nhau. Ở trong trường hợp này chỉ có ở một vùng và có tính chất họ hàng có bàn chân như vậy. Một phần có thể do những người này sống ở vùng miền núi thường xuyên đi đất. Khi đường trơn ngón chân phải choãi ra để chống trơn từ đó thành Chân Giao Chỉ. Điều này có thể thấy là các đời sau không có bàn chân như vậy nữa mà chỉ gặp ở những trường hợp người cao tuổi. Cũng có thể do gen di truyền nhưng gen đời sau lặn nên không còn bàn chân Giao Chỉ nữa.

-------------------------------------------------

Nguồn : http://www.xaluan.com/modules.php?name=New...e&sid=99777

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quý vị !

Nói đến các dân tộc Việt cổ ở Nghệ An và Quảng Bình mà tôi có post bài ở trên, là nói đến những dân tộc có hệ ngôn ngữ gần nhất với người Kinh - Việt tộc, thuộc nhóm Việt - Mường - Thổ - Chứt. Vậy cụ thể nhóm ngữ hệ này như thế nào ? Trước hết xin giới thiệu nguyên văn bài viết trên trang điện tử của Ủy Ban Dân Tộc :

NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT-MƯỜNG

1. Dân tộc Chứt

Dân tộc Chứt sinh sống ở một số xã của hai huyện Minh Hoá và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Người Chứt vốn sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh, chăn nuôi và săn bắn, hái lượm. Trừ nhóm Sách sống bằng nông nghiệp còn các nhóm khác hái lượm và săn bắn chiếm vị trí quan trọng, thậm chí là nguồn sống chính trong những năm mất mùa; nghề thủ công có đan lát và nghề mộc là phổ biến. Người Chứt sống định cư và quần tụ thành từng làng (Cà Vên), nhưng làng tản mạn, mỗi làng có trưởng làng do dân suy tôn, thường là trưởng tộc một dòng họ có uy tín nhất trong làng. Nhà ở thường không bền vững, họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc, dùng cột ngoàm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1945 các nhóm Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Người Chứt không biết dệt vải, mùa hè nam giới đóng khố, cởi trần; phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Kinh. Quan hệ vợ chồng bền vững; lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất ngoài lợn, gà, nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Tang ma đơn giản và có nhiều ảnh hưởng của người Kinh, thường tổ chức trong 3 ngày, sau đó đưa đi chôn, đắp mộ đất, sau 3 ngày tộc trưởng làm lễ gọi hồn người chết về ngụ trên bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó phần mộ không được chăm nom. Ngoài thờ cúng tổ tiên, bàn thờ đặt ở nhà tộc trưởng, người Chứt thờ nhiều ma: ma rừng, ma suối, thần nông, ma bếp... Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa. Kho tàng văn nghệ dân gian phong phú như làn điệu dân ca Kà Tưm, Kà Lềnh, nhiều truyện kể; nhạc cụ có khèn bè, đàn ống, lồ ô, sáo...

2. Dân tộc Kinh (tên gọi khác: Việt)

Dân tộc Kinh phân bố khắp 61 tỉnh, thành phố nhưng đông nhất là vùng đồng bằng, thành thị.

Là cư dân có nguồn gốc bản địa lâu đời và phát triển từ thời nguyên thuỷ, tổ tiên người Kinh từ rất xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Kinh luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Về mặt kinh tế, kể từ khi đã thoát ra khỏi cuộc sống nguyên thuỷ, người Kinh đã biết đến kim loại, chế tác được các công cụ lao động bằng sắt, đồ dùng bằng đồng và hợp kim đồng; với sự xuất hiện của công cụ lao động bằng sắt, người Kinh cổ đã sáng tạo ra nền văn minh Việt cổ rực rỡ, lấy nền nông nghiệp trồng lúa nước làm chủ đạo, khai thác thành công vùng đồng bằng phì nhiêu; cùng với nền nông nghiệp lúa nước, người Kinh đã sáng tạo ra rất nhiều nghề thủ công truyền thống, tạo ra vô vàn những hàng hoá cần cho cuộc sống từ chế biến cái ăn đến cái mặc, đến nhà ở và các phương tiện sống. Nền kinh tế của người Kinh trải qua hàng ngàn năm cho đến trước thời hiện đại (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) vẫn là kinh tế nông nghiệp kết hợp với nghề thủ công truyền thống, được đánh giá là một nền kinh tế tiêu biểu cho Việt Nam và khu vực. Về tổ chức xã hội, người Kinh sau khi thoát khỏi cuộc sống hang động, đã định cư và tạo nên cuộc sống lấy làng (mà người xưa gọi là kẻ) làm nơi định cư. Trong làng thường có nhiều xóm, có xóm lớn tương đương với một thôn. Mỗi làng có đình là nơi hội họp và thờ cúng chung. Người Kinh thường ở nhà trệt. Ngôi nhà chính thường có kết cấu 3 gian hoặc 5 gian và gian giữa là gian trang trọng nhất, đặt bàn thờ gia tiên. Về văn hoá, dân tộc Kinh là một trong những dân tộc ở trong khu vực luôn đạt đến trình độ văn hoá văn minh rực rỡ của mọi thời đại, từ văn minh Việt cổ, văn minh Đại Việt sau thế kỷ X cho đến ngày nay đều chứng tỏ điều đó. Trong văn hoá - văn minh, từ văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và văn hoá ứng xử, người Kinh đã sáng tạo ra những nét đặc sắc cho mình, tiếp thu có chọn lọc các ưu điểm của các nền văn minh khác để làm phong phú cho dân tộc. Những biểu hiện văn hoá Việt thật phong phú, đa dạng, chỉ đơn cử văn hoá tín ngưỡng: từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những anh hùng dân tộc có công với làng nước và trên những cơ sở đó tiếp thu những tín ngưỡng Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Công giáo... Tất cả đều được cải biên để phù hợp, thích ứng với đời sống vật chất và tinh thần của người Kinh là một nét đặc sắc của văn hoá tín ngưỡng Kinh. Trong tín ngưỡng văn hoá đó, thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng quan trọng nhất của người Kinh. Bàn thờ được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà: được cúng lễ vào các ngày giỗ, tết và các dịp tuần tiết, v.v... Trong văn hoá, những sáng tạo văn học - nghệ thuật từ truyền thống đến hiện đại cũng là những nét bản sắc rất điển hình của người Kinh. Văn học nghệ thuật dân gian với nhiều thể loại phong phú: truyện cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ... phản ánh toàn bộ mọi mặt của cuộc sống dân tộc. Văn học dân gian góp phần to lớn vào việc giữ gìn bản lĩnh, bản sắc dân tộc. Văn học viết cũng đạt được những thành tựu to lớn ở giai đoạn Lý- Trần và đặc biệt từ thế kỷ XV về sau với các cây bút thiên tài: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... Các bộ môn nghệ thuật như mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu... phát triển cao, được chuyên nghiệp hoá.

3. Dân tộc Mường

Người Mường cư trú lâu đời ở các tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ... Về nguồn gốc lịch sử, người Mường cùng nguồn gốc với người Kinh. Kinh tế chủ yếu là trồng lúa nước; ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp. Tổ chức xã hội, chủ yếu là mường bản, mỗi bản gồm một số gia đình, nhiều hay ít tuỳ theo địa bàn cư trú quy định, bản có tổ chức chặt chẽ. Đại bộ phận người Mường ở nhà sàn, kiểu nhà 4 mái. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men, được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể. Trang phục tiêu biểu của phụ nữ là khăn đội đầu và áo cánh ngắn màu trắng, váy đen có cạp dệt hoa văn sặc sỡ và hoạ tiết cực kỳ phong phú. Hôn nhân có nhiều nét giống người Kinh. Tang ma cầu kỳ tốn kém. Người Mường có nền văn hoá dân gian phong phú với nhiều truyện cổ (mo) nổi tiếng "Đẻ đất đẻ nước", "lên trời"... Cuốn "Mo-Sử thi dân tộc Mường" dày hơn 2000 trang, là di sản vô giá không phải chỉ của dân tộc Mường mà của cả nền văn hoá Việt Nam. Múa dân gian phong phú như múa vật, múa bông; nhạc cụ có cồng chiêng với hát xéc bùa là đặc sắc; đặc biệt ở người Mường phải kể đến lễ ca, đó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang. Tiếng Mường là tiếng Việt cổ bị khu vực hoá, có đến 80% từ vựng tiếng Mường trùng với tiếng Việt trước thế kỷ XX, hiện còn bảo lưu khá bền vững trong cộng đồng người Kinh vùng Hà Tĩnh.

4. Dân tộc Thổ

Người Thổ sinh sống ở miền Tây tỉnh Nghệ An thuộc các huyện Con Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ. Hoạt động sản xuất chủ yếu là làm nương rẫy, một số nhỏ làm ruộng nước, trình độ canh tác phát triển khá cao. Cây lương thực được trồng chủ yếu là lúa, sau đó đến sắn, ngô. Ở các nhóm Kẹo, Mọn, Cuối, gai là cây được trồng nhiều và giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của họ. Nghề đánh cá cũng rất phát triển; săn bắn, hái lượm tuy chỉ phát triển ở một số vùng nhưng nó đã góp phần đáng kể vào việc giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống của họ.

Về tổ chức xã hội, dân cư sống thành làng xã như người Kinh, mỗi làng có trùm làng được dân bầu theo định kỳ hàng năm. Đàn ông ăn mặc giống người Kinh, phụ nữ ăn mặc theo sở thích, mỗi nhóm bắt chước các kiểu ăn mặc của người Thái, Mường hay Kinh tuỳ điều kiện của mỗi nhóm. Hôn nhân chủ yếu giữa người Thổ với nhau, tự do yêu đương qua sinh hoạt lễ hội, tập tục cho phép họ ngủ chung với nhau khi tìm hiểu nhau và gọi là ngủ mái, nhưng chỉ để chuyện trò tìm hiểu và cấm ngặt quan hệ sinh lý trước hôn nhân. Hôn lễ của người Thổ phải qua nhiều bước. Thông thường khi cưới nhà trai phải dẫn một con trâu, 100 đồng bạc trắng, 30 vuông vải, 6 thúng xôi, một con lợn. Nhiều vùng còn có tục ở rể. Tang ma cũng lắm thủ tục và thường tốn kém. Thờ cúng tổ tiên là chính, ngoài ra còn thờ rất nhiều loại thần, ma, đặc biệt là các vị thần có liên quan đến việc đánh giặc và khai khẩn đất đai. Hội lễ phong phú như hội xuống đồng hàng năm, theo đó là nhiều kiêng kỵ trong cuộc sống và sản xuất mà người Thổ thực hiện.

Nguồn : http://cema.gov.vn/modules.php?name=Conten...ils&mid=168

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Và dưới đây là một tộc người có liên quan : người Nguồn.

Hội thảo về người Nguồn: Có nên xác định lại thành phần dân tộc ?

Tại hội thảo “Xác định thành phần dân tộc của người Nguồn" cuối tháng 10 vừa qua ở Quảng Bình, những nét tương đồng và khác biệt giữa người Nguồn với các dân tộc khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Việt- Mường đã được xác định rõ. Nhưng khó khăn là ở việc nên tách họ thành một dân tộc mới (dân tộc Nguồn) hay giữ nguyên là người Kinh hoặc xếp vào các dân tộc Mường, Thổ hay Chứt?

Người Việt... của ngày hôm qua ?

PGS. TS Khổng Diễn, Viện trưởng Viện Dân tộc học cho biết: Trong cuốn “Các dân tộc thiểu số Việt Nam” của Lã Văn Lô, Đỗ Hữu Thấu... xuất bản năm 1959, người Nguồn được đưa vào dân tộc Mường, vì thời gian đó chưa xác định dân tộc Thổ (ở Nghệ An). Đến cuốn Lịch sử Việt Nam tập 1 của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (xuất bản năm 1971) thì cũng đưa nó vào người Mường. Qua quá trình nghiên cứu của các nhà dân tộc học, đặc biệt là GS Mạc Đường (Viện Khoa học Xã hội TP Hồ Chí Minh), người Nguồn được xác định là một nhóm địa phương của người Kinh.

Năm 1973, đoàn các nhà khoa học của Viện Dân tộc học Việt Nam đã vào Minh Hoá nghiên cứu. Qua các gia phả người dân cung cấp, phần lớn người Nguồn đều có nguồn gốc từ Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình nên trong những thời gian khác nhau (cách đây khoảng 5-6 thế kỷ), họ cộng cư thành nhóm Nguồn (hiện nay dân số có khoảng 4 vạn người, chiếm 70% dân số của huyện Minh Hoá).

Người Nguồn sống trong vùng tương đối tách biệt. Trong khi những vùng, miền khác có điều kiện phát triển, thì vùng này lại phát triển chậm hơn một chút nên vẫn giữ được nhiều nét văn hoá, phong tục, tập quán... Để xác định thành phần các dân tộc Việt Nam, đồng bào ở đó đều tự nhận là người Kinh cả. Nhưng có một đặc biệt là ngôn ngữ của họ hơi khác vì còn giữ được những âm Việt-Mường cổ (nghe họ nói thì không hiểu được), thành ra cũng có ý kiến cho rằng đưa về người Mường, có ý kiến để người Kinh.

Theo TS Lưu Hùng (Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam), xếp người Nguồn vào Kinh, Mường, Chứt, hay Thổ đều chẳng có gì sai vì cùng trong nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, vẫn cùng một tổ tiên chung.

Nói cách khác: người Mường là người Việt của ngày hôm qua, và như vậy cũng có thể nói người Nguồn cũng là người Việt... của ngày hôm qua!

Trước kia ở nước ta thường nói có khoảng 60 dân tộc. Sau khi xác minh thành phần tộc người trên phạm vi cả nước, từ tháng 3 năm 1979 chúng ta đã có được bảng danh mục chính thức 54 dân tộc (công bố của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê). Người Nguồn được coi là nhóm địa phương duy nhất của người Kinh.

Nhưng từ năm 1990 trở lại đây, đồng bào gửi rất nhiều công văn đề nghị Quốc hội, Nhà nước, tỉnh Quảng Bình...xem lại thành phần dân tộc. Nhiều người còn muốn chứng minh: “Người Nguồn chúng tôi chính là dân tộc Nguồn”(!).

Vấn đề là chính sách cho đồng bào

Tại hội thảo, các báo cáo khoa học đã so sánh người Nguồn với nhóm người Kinh (ở Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Nghệ An), người Mường (ở Hoà Bình), người Thổ (ở Nghệ An) và cả người Chứt. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng người Nguồn là một nhóm địa phương của dân tộc Thổ ở Nghệ An (vì dân tộc này cũng là nhóm có nguồn gốc khác nhau, cũng có một số từ người Kinh, cũng có một số từ người Nguồn). Hơn nữa, nghiên cứu ngôn ngữ văn hoá, phong tục, tập quán...đều cho thấy người Nguồn rất giống dân tộc Thổ từ ăn, ở, ma chay, cưới xin...

Tuy nhiên, các báo cáo của cán bộ nghiên cứu địa phương lại muốn xếp họ vào dân tộc Chứt (Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, Arem, Xá Lá Vàng) vì họ ở ngay cạnh đó. Xét trên góc độ khoa học, thì không phù hợp. Họ không những không hiểu được tiếng nói của nhau mà trình độ văn hoá cũng khác xa nhau!

Ngay cả chính bản thân người Nguồn cũng có những ý kiến khác nhau: Một số ý kiến muốn được xếp vào Mường hoặc Chứt, một số ý kiến khác bảo: “Như thế chẳng hoá ra bảo trình độ phát triển kinh tế văn hoá tộc người chúng tôi bị thụt lùi, thua kém người Kinh, là người Kinh để có trình độ cao tốt hơn chứ”.

Một nhà dân tộc học đã hỏi ý kiến các vị bô lão về dự hội thảo: “Bây giờ không tách người Nguồn, không nhập người Nguồn, cứ để như thế này thì có ảnh hưởng gì đến các cụ không?”- Các cụ đều trả lời: “Không, chẳng ảnh hưởng gì đến chúng tôi cả”(!). Cả hội nghị đều cười phá ra.!

Khi các nhà khoa học bảo: sẽ xếp người Nguồn vào nhóm Thổ, phần lớn các đại biểu người Nguồn không biết người Thổ là ai cả. Theo các nhà dân tộc học, phải cho đồng bào tiếp xúc giao lưu với nhau mới nhận ra nhau và ý thức đúng được.

Nhiều nhà dân tộc học cũng lên tiếng: nếu so sánh thì ngay cả người trong một dân tộc ở các vùng khác nhau đã khác xa nhau rồi, nói gì đến sự khác nhau giữa người Nguồn và người Thổ.

Vấn đề đặt ra là các nhà lãnh đạo địa phương nên có những cuộc tiếp xúc với các tộc người Thổ mới thấy được sự giống nhau. Hơn nữa đời sống người Nguồn ở nơi đây còn vất vả mà không có một chế độ chính sách gì. Để Giúp đồng bào phát triển vững chắc, tỉnh nên có các chính sách giúp đỡ đồng bào trong thời gian tới.

Chuyện không chỉ của riêng người Nguồn.

Theo ông Khổng Diễn, nếu tách người Nguồn thành dân tộc riêng thì sẽ dẫn đến hàng hoạt các dân tộc xin tách và Việt Nam sẽ có đến hàng trăm dân tộc. Ở Bắc Giang, Tuyên Quang.... Cao Lan, thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái, còn Sán Chỉ (thuộc tiếng Hán Quảng Đông), mặc dù thuộc hai nhóm ngôn ngữ khác nhau, nhưng hai nhóm người này đều biết nói tiếng của nhau (chỉ mỗi sách cúng người Cao Lan, lại toàn cúng bằng tiếng Sán Chỉ và chỉ thầy cúng đọc được). Về phong tục, tập quán, nghi lễ, nề nếp gia phong, cách làm ăn của họ hầu như hoàn toàn giống nhau. Các nhà khoa học xác định là một dân tộc với tộc danh Sán Chay, nhưng từ đó đến nay cũng có rất nhiều ý khác nhau... Tên Sán Chay không được gọi nữa, mà thường được gọi tách ra là: Cao Lan - Sán Chỉ. Các nhà dân tộc học đã tiến hành điều tra và thấy có các dòng họ lớn cùng một ông tổ chung, mới chỉ cách nhau vài đời, ở xã này là người Cao Lan, sang xã kia đã là Sán Chỉ. Có trường hợp làm cho các nhà nghiên cứu phải ngạc nhiên. Đó là một đại biểu là người Sán Chỉ, nhưng bố đẻ lại là Cao Lan. Nếu tách Cao Lan- Sán Chỉ ra thành hai dân tộc thì tách kiểu gì? Hơn nữa, nguồn gốc Cao Lan- Sán Chỉ lại là chung, đều ở nam Trung Quốc di cư vào Việt Nam, chỉ có điều đi theo hai hướng tách biệt nhau. Quá trình di chuyển dần dần (không phải như ngày nay đi một cái là đến ngay), vừa đi vừa sống, lấy vợ, lấy chồng sinh con... tiếp thu các thổ ngữ mới, dẫn đến sự nảy sinh hai nhóm ngôn ngữ đó...

Hiện nay, Viện Dân tộc học đang tiếp tục nghiên cứu xác định thành phần dân tộc cho các nhóm như: Ta Ôi (Ta Hôi, Toi Hoi, Tôi Ôi, Pà Cô), Bru-Vân Kiều... ở Thừa Thiên Huế; Pà Thẻn (Hà Giang); Dao (Mán, Động, Trại, Xá, Quần Trắng, Quần Chẹt) ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Chơ Ro ( Châu Ro, Dơ Ro) ở Đồng Nai...

Theo PGS. TS Khổng Diễn: cái khó nhất là xác định đó là một dân tộc hay là nhóm của một dân tộc. Nhưng điều quan trọng là cho đến nay, nhiều nhà dân tộc học trẻ đã đi xác định lại đều thừa nhận: cách xác minh thành phần dân tộc của các vị tiền bối những năm 1960- 1970 là chuẩn xác, không có gì phải bàn lại. Tất nhiên trên tinh thần khoa học, những trường hợp nào không chính xác sẽ xác định lại !

---------------------------------------------

Các nhà khoa học từ lâu đã đi đến thống nhất dựa vào 3 tiêu chí để xác định thành phần dân tộc ở nước ta: 1- Sự cộng đồng về mặt ngôn ngữ (đã là một dân tộc phải hiểu được tiếng nói của nhau); 2- những nét tương đồng về văn hoá (đây là một cái khó-vì cũng có khi cùng một dân tộc nhưng khi tách ra khỏi cộng đồng mấy chục năm sẽ khác đi); 3- ý thức tự giác tộc người (thể hiện qua tộc danh tự gọi)- (TS Lưu Hùng- Phó GĐ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

---------------------------------------------

Hao Kim Anh - (Theo Nhân Dân)

http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/ti...et.asp?TTID=158

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về việc phân định các giai đoạn lịch sử trong quá trình phát triển của tiếng Việt

Trần Trí Dõi

Để có điều kiện đi sâu khảo sát những hiện tượng lịch sử cụ thể của tiếng Việt, chúng tôi thấy rằng trước hết cần phải xác định những giai đoạn phát triển chính của nó, từ khởi thuỷ cho đến hiện nay. Theo chúng tôi, đây là một công việc hết sức quan trọng. Bởi vì, muốn theo dõi lịch sử của một ngôn ngữ minh bạch nhất, rõ ràng nhất thì phải hình dung ra những thời điểm phát triển của bản thân nó một cách có cơ sở. Mà điều này, dường như cho đến hiện nay, hầu như trong số các nhà nghiên cứu lịch sử tiếng Việt vẫn còn những cách nhìn nhận chưa cùng cấp với nhau.

Cái khó ở đây là việc xác định khoảng cách thời gian trong quá khứ. Nó có thể là vài trăm năm, cũng có thể là hàng nghìn năm. Đồng thời, thời điểm để đánh dấu khoảng cách ấy cũng có thể là một thời điểm xác định, cũng có thể là một quá trình xảy ra trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, điều đó có nghĩa là ở đây tính tương đối của thời gian lịch sử sẽ mang tính hiện hữu và đây chính là đặc trưng rõ nhất của nghiên cứu so sánh lịch sử trong ngôn ngữ học.

Hiện nay, như chúng ta biết, đa số các nhà nghiên cứu đều chấp nhận giả thiết tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường nhánh Mon-Khmer họ Nam Á, một giả thiết do A.G. Haudricourt chứng minh thuyết phục nhất từ những năm 50 của thế kỉ trước [4, 5] và đã được nhiều người bổ sung, trong đó có chúng tôi. Như vậy, điều đó cũng có nghĩa là đối với chúng ta, tiếng Việt đã trải qua giai đoạn phát triển không được ghi chép lại (từ thế kỉ X trở về trước) và đã được ghi chép lại ít nhiều về sau này. Do vậy, có một vấn đề quan trọng là trong sự khác biệt có thực ấy, phải làm sao thể hiện được một sự phân chia ích lợi cho việc nghiên cứu, không bị nghiêng về bên nay hay coi nhẹ bên kia. Trong thực tế, vẫn còn có những nhà nghiên cứu chưa tránh được nhược điểm đó.

1. Cơ sở để phân định các giai đoạn lịch sử tiếng Việt

Như đã nói ở trên, do đặc trưng khác nhau của hai thời kì lịch sử tiếng Việt, ở mỗi một thời kì tính chất của tư liệu sử dụng để nghiên cứu cũng sẽ khác nhau. Trong khi đó, đối với việc nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ, tư liệu được sử dụng lại luôn luôn có giá trị quyết định thao tác làm việc cũng như những nội dung được đưa ra khảo sát. Cách làm do chúng tôi đề nghị, đương nhiên, cũng không thể nằm ngoài thông lệ ấy.

Vấn đề là, dựa vào những nguồn tư liệu có được như thế, người ta sẽ áp dụng những dấu hiệu nào để qua đó phân chia giai đoạn lịch sử tiếng Việt một cách nhất quán. Rõ ràng, nếu như chỉ nhấn mạnh tư liệu là cơ sở cho việc phân chia các giai đoạn lịch sử phát triển tiếng Việt một cách chung chung là hoàn toàn chưa đủ. Ở đây, theo chúng tôi, cơ sở ngữ âm và sự lí giải tính lịch sử của nó mới giữ vai trò chính, còn những cơ sở khác giữ vai trò thứ yếu hơn trong việc phân định quá trình lịch sử. Những cách làm được chúng tôi lần lượt mô tả dưới đây sẽ cho chúng ta nhận thấy điều đó.

1.1. Cách phân định thông qua phục nguyên tiền ngôn ngữ

Phục nguyên hay tái lập tiền ngôn ngữ có nhiệm vụ xây dựng một dạng thức giả định và gán dạng thức đó cho lịch sử ngôn ngữ. Như vậy, tiền ngôn ngữ là một cơ cấu ngôn ngữ được tái lập lại ở một thời điểm hoặc một khoảng thời gian lịch sử nhất định. Cách gọi tiền ngôn ngữ (proto type) chính là thời điểm mà từ đó nó chia tách thành những nhóm hay những cá thể ngôn ngữ khác nhau. Làm như thế, người nghiên cứu lịch sử nhằm mục đích từ ngôn ngữ được phục nguyên ấy xây dựng những quy luật phát triển trong các cá thể ngôn ngữ khác nhau của một nhóm, một nhánh hay một họ. Khi mà xác định được những quy luật phát triển như vậy, người ta có cơ sở thuyết phục đánh dấu các giai đoạn phát triển của lịch sử của từng cá thể ngôn ngữ cũng như việc xác định nguồn gốc của chúng.

Trong trường hợp nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, hầu hết các nhà nghiên cứu đều đi theo cách phân định này. Chẳng hạn, đó là phần nào cách phân định của Maspero (1912) khi ông sử dụng và so sánh tư liệu tiếng Việt với một số ngôn ngữ Mon-Khmer; đặc biệt quan trọng đó là cách phân định của A.G. Haudricourt khi ông xây dựng mô hình lí thuyết hình thành thanh điệu tiếng Việt (1954); đó là cách phân định của M. Ferlus trong những tái lập proto Việt-Mường của ông (1981 và những năm sau đó); đó là cách phân định của N.K. Sokolovskaja trong luận án của bà về tiếng tiền Việt-Mường (1976); đó cũng là cách phân định của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trong "Giáo trình..." của ông (1995, 2000) và một số người khác nữa. Cách phân định này, về nguyên tắc, cho phép chúng ta dựa vào biến đổi ngữ âm để có thể nói tới mốc lịch sử tiếng Việt cách nay hơn vài nghìn năm. Tuy nhiên, do sự minh định tư liệu được đem ra so sánh chưa thật chặt chẽ ở những nguồn khác nhau nên mặc dù có "cùng một tư liệu", các mốc lịch sử do các tác giả khác nhau xác định lại chưa thập khớp nhau. Vì thế, những người xử lí kết quả phân định này vẫn chưa thấy tính mạch lạc của các giai đoạn phát triển trong lịch sử của tiếng Việt.

Để thấy rõ tình trạng nói trên, chúng tôi xin nêu lên trường hợp giải thích quá trình cũng như các mốc thời gian của hiện tượng gọi là xát hoá trong lịch sử tiếng Việt. Đó là trường hợp chuyển đổi của những âm đầu xát mà hiện nay trong tiếng Việt được ghi bằng những chữ quốc ngữ v, d, gig/gh chẳng hạn. M. Ferlus (1981...), bằng việc sử dụng tư liệu của các ngôn ngữ Việt-Mường (như tiếng Thà Vựng, tiếng Sách...), bằng việc sử dụng tư liệu trong nhánh Mon-Khmer (như tiếng Khmú, tiếng Khmer...) và cả bằng việc sử dụng tư liệu của tiếng Hán thông qua sự thể hiện nó trong tiếng Hán Việt, ông đã tái lập lại nguồn gốc của dãy âm xát nói trên ở giai đoạn proto Việt-Mường là một loạt âm tắc [p, t, c, k ; b, d, j, g] ở vị trí giữa mà ông gọi là âm tắc giữa. Sau đó, trên tư liệu tiếng Mường (cũng là một cá thể của nhóm Việt-Mường), ông phân định rằng quá trình xát hoá này xảy ra ở cả âm đầu vô thanh lẫn âm đầu hữu thanh và kết thúc ở thời kì tương ứng với thời kì Việt-Mường chung. Thế nhưng, chẳng hạn, theo giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1995...), nếu tính đến tư liệu Hán Việt thì còn có thể kéo dài quá trình này đến giai đoạn sau, tức ở giai đoạn tiếng Việt trung cổ. Ở đây, rõ ràng còn một vấn đề có thể phải tiếp tục thảo luận nếu chỉ thuần tuý liên quan đến tư liệu được đem ra so sánh, mà ở đây cụ thể là nguồn tư liệu Hán Việt. Nhưng nếu nhìn thuần tuý từ khía cạnh ngữ âm, tình hình có thể sẽ đơn giản hơn nhiều.

Như vậy, cách phân định lịch sử ngôn ngữ thông qua phục nguyên tiền ngôn ngữ cho phép người ta vừa khảo sát lịch sử khi ngôn ngữ chưa có chữ viết (hay chưa được ghi chép lại bằng văn tự), lại vừa có thể khảo sát những giai đoạn lịch sử về sau khi ngôn ngữ đã được ghi chép lại. Tuy nhiên, sự phục nguyên thường mang tính ưu thế ở thời kì ngôn ngữ chưa có chữ viết hơn và đương nhiên tư liệu chính mà thao tác này sử dụng là tư liệu nghiên cứu điền dã ở những ngôn ngữ có họ hàng với ngôn ngữ đang được khảo sát lịch sử . Điều này, đến lượt mình lại phụ thuộc vào tính phong phú và mức độ chính xác của tư liệu điền dã mà chúng ta có được. Chính ở chỗ này mới thực sự là một khó khăn của người nghiên cứu. Thêm vào đó, những thời điểm lịch sử được phân định theo thao tác nói trên thường nghiêng về tính tương đối nhiều hơn chứ không cụ thể như những thao tác sẽ nói sau đây.

1.2. Cách phân định dựa vào những tài liệu lịch sử cụ thể

Khác với cách phân định thông qua thao tác phục nguyên, cách phân định này là dựa trên những nguồn tư liệu lịch sử có thực. Cách làm như vậy có nghĩa là nhà nghiên cứu dựa vào tư liệu lịch sử đã được ghi chép lại theo nghĩa "nói có sách, mách có chứng" để đánh dấu các giai đoạn phát triển trong lịch sử ngôn ngữ. Cách làm này, rõ ràng với những chứng cớ xác thực, thường có thời điểm phân định vừa rất chi tiết, vừa rất cụ thể. Tuy nhiên, nó lại có một sự hạn chế là chỉ có thể phân định lịch sử ngôn ngữ ở thời kì được "sách vở" ghi chép lại. Trong thực tế, không phải lịch sử ngôn ngữ nào cũng được ghi chép lại hoặc việc ghi chép có được trong suốt quá trình phát triển của bản thân ngôn ngữ. Đó là một hạn chế không thể khắc phục được của cách phân định này.

Đối với trường hợp lịch sử tiếng Việt, người thực hiện cách phân định các giai đoạn phát triển của nó theo phương thức như thế rõ nhất là H. Maspero. Trong cuốn "Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Annam. Những phụ âm đầu" ông nói rằng mình căn cứ vào ba chỗ dựa là sự hình thành tiếng Hán Việt, cuốn An Nam dịch ngữ và cuốn từ điển 1651 (tức là cuốn từ điển Việt-Bồ -La của A. de Rhodes) [12] để xác định các giai đoạn phát triển của ngôn ngữ đang được quan tâm. Nguyên văn ông viết là như sau" Về phương diện này, để trình bày cho rõ ràng tôi thấy nên chia lịch sử tiếng Việt, căn cứ vào những tài liệu vừa trình bày ở trên [T.T.D nhấn mạnh], thành năm thời kì" [6; 9–10]. Do đó tiếng Việt đối với ông gồm có những giai đoạn:

  • Tiếng tiền Annam (protoannamite): trước khi hình thành Hán Việt.
  • Tiếng Annam cổ xưa (annamite archaique): sự hoàn thiện vấn đề Hán Việt (từ thế kỉ X trở đi)
  • Tiếng Annam cổ (annamite ancien): từ vựng Hán Việt của Hoa di dịch ngữ (thế kỉ XV). Đây là thời điểm ghi lại cách đọc tiếng Hán Việt, tiếng Hán Việt trong tiếng Việt ở một mức độ tương đối chính xác
  • Tiếng Annam trung cổ (annamite moyen): cuốn từ điển Việt-Bồ-La của cha cố A. de Rhodes (1651 – thế kỉ XVII)
  • Tiếng Annam hiện đại (annamite moderne): thế kỉ XIX trở về sau.
Sau đó ông còn ghi rõ rằng khái niệm protoannamite (tiền Annam) mà ông sử dụng là cái ngôn ngữ chung để từ đó về sau tách ra thành tiếng Việt (annamite) và tiếng Mường [6; 10].

Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy cách phân chia của ông dường như hoàn toàn dựa vào mốc thời gian cụ thể, tức là căn cứ vào thời gian xuất hiện tư liệu được ông sử dụng để so sánh và kết quả phân định rất chi tiết.

Trong công trình của H. Maspero, ông rất nhất quán trong cách xử lí tư liệu như đã nói ở trên khi xem xét lịch sử của từng phụ âm đầu trong tiếng Việt. Chẳng hạn, ông coi những hiện tượng xử lí âm Hán Việt là những xử lí ngữ âm thuộc thế kỉ thứ X hay ở thời gian sau đó, còn khi những hiện tượng nào được so sánh với các ngôn ngữ Mon-Khmer hoặc Thái, ông coi đó là hiện tượng ngữ âm thuộc tiền Việt, tức là trước thế kỉ thứ X. Nhờ cách làm này mà chúng ta thấy rõ sự phân định lịch sử tiếng Việt theo cách của H. Maspero có cái lợi ở thời kì sau nhưng lại không thật rõ ràng ở thời kì trước thế kỉ thứ X.

So với cách phân định lịch sử theo lối phục nguyên tiền ngôn ngữ, cách làm mà chúng ta đang nói đến cho thấy một kết quả có vẻ cụ thể và xác định . Nhưng cách làm này chỉ có thể giúp ích khi lịch sử ngôn ngữ đã có chữ viết hay đã được ghi chép lại. Còn khi ngôn ngữ không có một trong hai điều kiện ấy, cách làm này sẽ không thực hiện được. Chứng cớ là, khi xem xét lịch sử tiếng Việt, H. Maspero đã phải đưa ra cái hộp " trước thế kỉ X" để đựng một thời kì khá dài, dài tới mức khi phân kì theo lối phục nguyên người ta phải chia thành những giai đoạn khác nhau. Chính vì một trong những lẽ đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy cách phân định giai đoạn theo lối phục nguyên có ưu thế hơn rất nhiều.

1.3. Cách phân định lịch sử ngôn ngữ dựa vào tình thế ngôn ngữ

Tình thế ngôn ngữ có thể hiểu là hiện trạng của ngôn ngữ phản ánh mối tương tác hay tương quan giữa các ngôn ngữ, giữa các kiểu văn tự, giữa vai trò xã hội khác nhau của chúng trong cùng một môi trường xã hội ngôn ngữ. Do đó có thể nói đây là bình diện xã hội ngôn ngữ trong lịch sử, gắn với lịch sử cụ thể của dân tộc chủ thể sử dụng ngôn ngữ ấy. Một thời kì khá dài, trong nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, người ta thường "quên đi" khía cạnh này. Chính vì thế, hầu như việc nghiên cứu lịch sử một cá thể ngôn ngữ cụ thể chưa gắn với sự phát triển ngôn ngữ với bối cảnh lịch sử dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy.

Đối với trường hợp tiếng Việt, người nhận thấy sự thiếu khuyết này là giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và ông đã áp dụng nó vào phân định giai đoạn lịch sử tiếng Việt. Trong một tài liệu công bố năm 1998, dựa vào tình trạng tương tác hay cách sử dụng ngôn ngữ của xã hội Việt Nam trong lịch sử, ông đã đề nghị phân chia lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt một cách khá chi tiết. Nhờ đó, chúng ta nhận thấy khá rõ bức tranh lịch sử ngôn ngữ liên quan với lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, cũng có thể nhận thấy sự áp dụng như thế cũng chỉ có khả năng thực hiện khi ngôn ngữ hoặc chủ thể của nó đã được ghi chép lại bằng văn tự. Bảng phân kì mà giáo sư đưa ra là như sau:

A,Giai đoạn proto Việt (tiền Việt)- Có 2 ngôn ngữ: tiếng Hán (khẩu ngữ của lãnh đạo) và tiếng Việt.

- Có 1 kiểu văn tự: chữ HánVào khoảng các thế kỉ VIII, IXB,Giai đoạn tiếng Việt tiền cổ (cổ xưa)- Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt (khẩu ngữ của lãnh đạo) và văn ngôn Hán

- Có 1 kiểu văn tự: chữ HánVào khoảng các thế kỉ X, XI, XIIC,Giai đoạn tiếng Việt cổ- Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán

- Có 2 văn tự: chữ Hán và chữ NômVào khoảng các thế kỉ XIII, XIV, XV, XVID,Giai đoạn tiếng Việt trung đại- Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán

- Có 3 văn tự: chữ Hán và chữ Nôm và chữ quốc ngữVào khoảng các thế kỉ XVII, XVIII và nửa đầu thế kỉ XIXE,Giai đoạn tiếng Việt cận đại- Có 3 ngôn ngữ: tiếng Pháp, tiếng Việt và văn ngôn Hán

- Có 4 văn tự: Pháp, Hán, Nôm và chữ quốc ngữVào thời gian Pháp thuộcG,Giai đoạn tiếng Việt hiện nay- Có 1 ngôn ngữ: tiếng Việt

- Có 1 văn tự: chữ quốc ngữTừ năm 1945 trở đi

Có thể nói, cách phân chia theo tình thế ngôn ngữ đã chỉ rõ đặc điểm xã hội trong thời kì phát triển của tiếng Việt. Nó cho thấy sự chuyển đổi chức năng xã hội của tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ của dân tộc Việt Nam và nhờ đó cho thấy sự liên quan mật thiết giữa chữ viết và tiếng nói dân tộc trong mối quan hệ nhiều chiều ở cùng một thời kì lịch sử.

Trong những cách phân định giai đoạn lịch sử như đã mô tả ở trên, mỗi cách có những đóng góp riêng của mình. Chẳng hạn, cách thứ ba phản ánh rõ nét sự tương tác giữa lịch sử ngôn ngữ và lịch sử dân tộc, cách thứ hai có ưu thế hơn về điểm thời gian phân định. Nhưng cách thứ nhất rõ ràng mới cho phép người nghiên cứu xem xét cả giai đoạn mà hai cách phân định trước khó có thể vươn tới được lẫn những giai đoạn sau này một cách nhất quán.

Thế nhưng, đối với chúng tôi, đương nhiên là việc kết hợp đồng thời cả ba cách phân định đã được áp dụng là để tận dụng thế mạnh và tránh được những hạn chế của mỗi cách. Với cách làm đó, chúng tôi xin đề nghị xem xét lịch sử tiếng Việt và những giai đoạn phát triển của nó theo tiến trình dưới đây.

Share this post


Link to post
Share on other sites

2. Các giai đoạn phát triển của lịch sử tiếng Việt

Các giai đoạn phát triển lịch sử của tiếng Việt được phân định dưới đây, xin nhắc lại một lần nữa, là sự phân định đồng thời thông qua việc tập hợp những dấu hiện của ba cách làm việc mà chúng tôi đã sơ bộ miêu tả ở mục 1, trong đó cơ sở của cách thứ nhất sẽ được áp dụng một cách nhất quán. Vì thế, mỗi giai đoạn được xác định sẽ được nhận diện qua những tiêu chí là thời gian tương đối, một vài đặc điểm chính về ngôn ngữ trong đó nổi bật là nét ngữ âm, và những nét quan trọng về xã hội của dân tộc tương ứng với thời gian lịch sử ấy. Tên gọi của một vài giai đoạn có thể trùng với tên gọi cũ đã có theo những cách phân định riêng rẽ nhưng nội dung của nó chắc chắn sẽ phong phú hơn.

2.1. Thứ nhất, giai đoạn tiền Việt-Mường (proto Việt-Mường) trong lịch sử tiếng Việt, TVM

Đây là thời kì tiếng Việt cùng với tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường hiện nay đang là một ngôn ngữ chung và nó được coi là vừa tách ra khỏi khối Đông Mon-Khmer để có một lịch sử riêng, khác với những ngôn ngữ khác thuộc nhánh Mon-Khmer. Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn phát triển đầu tiên trong lịch sử tiếng Việt, tức là nó có tư cách là ngôn ngữ chung, ngôn ngữ mẹ hay tiền ngôn ngữ của cả nhóm Việt-Mường hiện nay. Nói khác đi, giai đoạn TVM là thời gian đầu tiên trong lịch sử tiếng Việt với tư cách là một cá thể ngôn ngữ của họ Nam Á.

Theo ước tính, thời gian tương đối của giai đoạn TVM bắt đầu khi khối ngôn ngữ Đông Mon-Khmer có sự khác biệt nội bộ để tạo thành những nhóm riêng lẻ, có thể từ hàng nghìn năm trước Công nguyên (Cn), đến những thế kỉ đầu Cn. Về mặt xã hội ngôn ngữ, giai đoạn TVM tương ứng với thời kì nó được những cư dân chủ thể của giai đoạn văn minh/văn hoá Đông Sơn sử dụng, nhưng địa bàn ngôn ngữ này có thể chỉ giới hạn trong lãnh thổ Đại Việt vào thời kì độc lập sau này. Vì giai đoạn TVM về sau phân chia thành những ngôn ngữ Việt-Mường khác nhau nên nó có sự khác biệt mang tính phương ngữ rõ rệt.

Nét đặc trưng ngôn ngữ chính của giai đoạn TVM là như sau. Trước hết, nó lưu giữ đầy đủ thành phần từ vựng cội nguồn Nam Á, Mon-Khmer và Đông Mon-Khmer. Điều này thể hiện rất rõ khi so sánh những từ cơ bản của nhóm Việt-Mường với các ngôn ngữ Nam Á. Tuy nhiên, cũng đã có dấu hiện ở giai đoạn này chứng tỏ có sự tiếp xúc với những ngôn ngữ Nam Đảo. Sau đó là tính đồng thời lưu giữ dạng thức cấu tạo từ đơn tiết và song tiết, trong đó dạng thứ hai có số lượng nhiều hơn. Cuối cùng, như đã được chứng minh, tiếng TVM chưa có thanh điệu, nó vẫn giữ thế đối lập vô thanh/hữu thanh trong các âm đầu xát lẫn tắc và thế đối lập tắc/xát/mũi ở cuối âm tiết.

2.2. Thứ hai, giai đoạn Việt-Mường cổ (pré Việt-Mường), VMc

Đây là thời kì mà tiếng TVM trước đây đã có sự phân hoá để tách một phần thành những ngôn ngữ bảo thủ song tiết và phần khác là những ngôn ngữ đơn tiết trong nhóm Việt-Mường hiện nay. Giai đoạn này có thời gian tương đối từ khoảng thế kỉ I sau Cn cho đến những thế kỉ VIII-IX. Về lịch sử, nước Việt Nam lúc giờ bị đô hộ của phong kiến phương Bắc và tiếng Việt chịu tác động sâu sắc của sự đô hộ này. Cho nên về mặt xã hội ngôn ngữ, lúc này tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ bình dân và trong cộng đồng xã hội đã có sử dụng tiếng Hán và chữ Hán. Đây chính là nguyên nhân tác động rất nhiều đến sự phát triển sau này của tiếng Việt.

Có thể nói những đặc điểm chính về ngôn ngữ của giai đoạn này như sau. Thứ nhất, bên cạnh việc lưu giữ lớp từ vốn có từ giai đoạn trước, tiếng VMc đã có sự vay mượn lẫn nhau với các ngôn ngữ Thái-Kađai (Tai-Kađai) và Hán. Những từ tương ứng với tiếng Thái thuộc thời kì này cũng thuộc lớp từ cơ bản, còn những từ gốc Hán lúc này là những từ cổ Hán Việt. Thứ hai, ở giai đoạn này tiếng VMc đã chịu ảnh hưởng của xu thế đơn tiết hoá theo hướng rụng đi các tiền âm tiết theo kiểu CvCVC > CVC (C: phụ âm, v: nguyên âm lướt, V: nguyên âm). Đồng thời, phương thức cấu tạo từ bằng phụ tố hầu như không còn hoạt động trong tiếng VMc nữa. Thứ ba, về mặt ngữ âm tiếng VMc là một ngôn ngữ có ba thanh điệu và đã xuất hiện dãy âm xát trong hệ thống âm đầu. Sự xuất hiện thanh điệu ở thời kì này đã làm mất đi đặc trưng xát ở cuối âm tiết.

2.3 Thứ ba, giai đoạn Việt-Mường chung (Việt-Mường commun) VMC

Sau một thời gian phát triển, tiếng VMc đã phân hoá thành những bộ phận khác nhau. Một phần do tính biệt lập về địa lí chịu sự biến đổi ít hơn, còn phần khác dường như do chịu ảnh hưởng của tiếng Hán biến đổi nhiều hơn. Tiếng VMC trong lịch sử có thể coi là hệ quả của sự phát triển khác nhau đó.

Về mặt thời gian tương đối, tiếng VMC là giai đoạn ước chứng từ thế kỉ thứ X cho đến khoảng thế kỉ XIV. Vào thời kì này, Việt Nam là quốc gia độc lập. Về mặt xã hội ngôn ngữ, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ toàn dân nhưng văn ngôn Hán và chữ Hán dường như vẫn giữ vai trò giáo dục, hành chính và văn học. Tuy nhiên, vào thời gian này chữ Nôm – loại chữ đầu tiên ghi âm tiếng Việt – đã xuất hiện.

Ở giai đoạn này, tiếng VMC có những đặc điểm ngôn ngữ chính sau đây. Thứ nhất, đó là hiện tượng vay mượn từ gốc Hán để hình thành lớp từ Hán Việt quan trọng sau này. Nhưng, sự vay mượn này không đồng đều ở những vùng lãnh thổ khác nhau của tiếng VMC và chính là nguyên nhân khiến nó bị phân hoá về sau. Thứ hai, tiếng VMC đã là ngôn ngữ đơn tiết (CVC) là hệ quả của một quá trình đơn tiết hoá trước đây và hầu như nó cũng không còn lưu giữ một dấu vết gì của phương thức cấu tạo từ bằng phụ tố. Thứ ba, tiếng VMC đã là một ngôn ngữ có sáu thanh điệu và cùng với nó là ngôn ngữ chỉ còn lại loạt âm đầu vô thành, tức là đã mất đi sự đối lập vô thanh/hữu thanh trong các âm đầu âm tiết và dường như hoàn toàn không còn sự đối lập tắc/xát ở cuối âm tiết. Đồng thời, trong ngôn ngữ đã xuất hiện loạt âm đầu xát. Như vậy, dường như tiếng VMC đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của tiếng Việt và tiếng Mường về sau.

2.4. Thứ tư, giai đoạn tiếng Việt cổ (Việt ancien), Vc

Đây là thời kì tiếng VMC đã phân hoá thành hai cá thể tiếng Việt và tiếng Mường. Do vậy, ở Việt Nam tiếng Mường là ngôn ngữ thiểu số gần gũi nhất với tiếng Việt. Người ta ước chừng giai đoạn này là khoảng thời gian từ đầu thế kỉ XIV đến cuối thế kỉ XV. Ở thời kì này, ngoài những đặc điểm xã hội ngôn ngữ vẫn lưu giữ từ thời VMC, ở tiếng Vc chữ Nôm đã vươn lên vai trò là chữ viết văn học với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và nó đã được ghi lại trong Annam dịch ngữ.

Đặc điểm chính về ngôn ngữ của giai đoạn này là tiếng Vc đã có một lớp từ Hán Việt ổn định, cái mà tiếng Mường không có được. Thứ nữa, tiếng Vc đã hoàn thành việc xử lí các âm tiền tắc họng thành các âm mũi. Ngoài ra nó đã phân hoá dãy âm đầu vô thanh VMC thành hai nhóm là nhóm hút vào (*p > b, *t > d) và nhóm vô thanh xưa (*c,*k). Chính lí do này đã khiến cho tiếng Vc kéo âm xát *s hoặc *s' chuyển thành âm t hoặc th quốc ngữ hiện nay. Và có lẽ, theo cách nhìn của chúng tôi, dãy âm xát có từ trước đây đã hoàn tất ở giai đoạn này.

2.5. Giai đoạn tiếng Việt trung cổ (Việt moye), Vt

Tiếp theo giai đoạn Vc là thời kì Vt. Lúc này, những hiện tượng biến đổi ở tiếng Việt hầu như không còn liên quan đến tiếng Mường. Giai đoạn này ước tính từ cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX. Về mặt xã hội ngôn ngữ, nét nổi bật nhất là sự xuất hiện chữ quốc ngữ với việc ra đời cuốn từ điển Annam-Lusitan-Latin (gọi tắt là Việt-Bồ-La, VBL) năm 1651 của A. de Rhodes và sau đó là những văn bản, từ điển ghi bằng quốc ngữ. Đây là hệ quả của một sự tiếp xúc mới quan trọng của tiếng Việt với nhiều ngôn ngữ châu Âu, đặc biệt là tiếng Pháp. Thứ đến là tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ văn học, bác học với diện mạo mới hết sức phong phú. Cuối cùng, với việc mở rộng về phía Nam, tiếng Việt hoàn thiện và hình thành nên những vùng phương ngữ như nó có hiện nay. Về mặt ngôn ngữ, tiếng Vt chỉ có một hiện tượng nổi bật là nó đã thực sự đơn tiết hoá triệt để. Những ghi chép trong từ điển VBL đã chứng minh điều này.

2.6. Thứ sáu, giai đoạn tiếng Việt hiện đại, tiếng Việt hiện nay

Từ giữa thế kỉ XIX, tiếng Việt phát triển sang giai đoạn hiện đại. Có điều, sự phát triển ấy không đều ở những bộ phận khác nhau trong nội bộ ngôn ngữ. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện nay với trách nhiệm là tiếng nói của một dân tộc, tiếng Việt đã làm tròn vai trò là công cụ giao tiếp, công cụ tư duy để phát triển xã hội.

Ở giai đoạn này, tiếng Việt có hai đặc điểm xã hội quan trọng. Thứ nhất là sự tiếp xúc sâu đậm với ngôn ngữ, văn học và văn hoá Pháp, hệ quả của việc Pháp đô hộ Việt Nam. Sự tiếp xúc này là một nhân tố thúc đẩy nó phát triển mạnh mẽ. Thứ hai là từ năm 1945, với sự ra đời của nước Việt Nam độc lập, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức của nhà nước. Vai trò xã hội mới này của ngôn ngữ vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện để nó phát triển. Nhìn ở hai đặc điểm xã hội quan trọng đó, một vài nhà nghiên cứu đề nghị tách giai đoạn này thành tiếng Việt hiện đại và tiếng Việt đương đại. Nhưng nếu coi trọng tính nhất quán về ngữ âm, làm như vậy là không cần thiết.

Sự phát triển nội tại của tiếng Việt ở giai đoạn này, như đã nói ở trên cũng có sự khác nhau. Nhìn về mặt lịch sử, ngữ âm là bộ phận phát triển nhanh nhất. Ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du đạt đến độ điêu luyện tinh vi về ngữ âm đã nói rõ điều đó. Những năm đầu thế kỉ XX, với sự thành công của nhiều trào lưu sáng tác văn học, ngữ pháp tiếng Việt phát triển một cách hoàn chỉnh. Cuối cùng, với sự xuất hiện và cung cấp đầy đủ một hệ thống thuật ngữ cho mọi mặt của đời sống xã hội, tiếng Việt hoàn thiện ở tất cả các bình diện cấu trúc ngữ nghĩa của nó. Rõ ràng, ở thời điểm hiện nay, tiếng Việt hoàn toàn đáp ứng đầy đủ đòi hỏi của xã hội với tư cách là công cụ giao tiếp, phương tiện tư duy của dân tộc.

Như vậy, trong những giai đoạn lịch sử phát triển của tiếng Việt, ba giai đoạn đầu lịch sử tiếng Việt là lịch sử nhóm Việt-Mường. Chỉ ở ba giai đoạn sau lịch sử tiếng Việt mới là lịch sử của một cá thể ngôn ngữ. Đây là một đặc điểm hết sức tế nhị trong việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

  • Ferlus M. (1981). Sự biến hoá của các âm tắc giữa (obstruentes mediales) trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 2 (1981).
  • Ferlus M. (1994). Quelques particularités du Cuôi Chăm, une langue Viet-mương du Nghệ An (Vietnam). Neuvièmes Journées de Linguisitique de l'Asie Orientale CRLAO (CNRS -EHESS), 5–6 Mai 1994.
  • Gregerson K.J. (1969). A Study of Middle Vietnamese Phonology. BSEI, 44(2).
  • Haudricourt A.G. (1953). Vị trí của tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam Á. Ngôn ngữ, số 1 (1991).
  • Haudricourt A.G. (1954). Về nguồn gốc các thanh của tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 1 (1991).
  • Maspero H. (1912). Étude sur la phonétique historique de la langue annamite: Les initiales. BEFEO, XII, N01.
  • Nguyễn Phú Phong (2004). Nhóm ngôn ngữ Việt-Mường. Diễn đàn, số 136/1.2004
  • Nguyễn Tài Cẩn (1978). Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội; (2000), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
  • Nguyễn Tài Cẩn (1995). Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  • Nguyễn Tài Cẩn (1998). Thử phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 6.
  • Phan Ngọc – Phạm Đức Dương (1983). Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á. Viện Đông Nam Á xuất bản, Hà Nội
  • Rhodes A. de (1651). Từ điển Annam-Lusitan-Latin. Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
  • Sokolovskaja N.K. (1976). Opyt rekonstrukcija phonologichskoj sistemy Vietmuongskovo jazyka (Thử tái lập hệ thống âm vị tiếng Việt-Mường). K.N (Luận án phó tiến sĩ), Moskva.
  • Trần Trí Dõi (1999, 2000). Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
  • Trần Trí Dõi (2001). Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội. Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
  • Trần Trí Dõi (2004). Lịch sử tiếng Việt (Tập bài giảng). Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
-------------------------------------------------

Toàn bộ bài viết của tác giả Trần Trí Dõi ở trên tôi lấy từ nguồn ngonngu.net, tôi có nhấn mạnh một số điểm liên quan đến thời kỳ dựng nước bằng cách dùng in đậm. Cảm ơn quý vị đã quan tâm !

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán (phần 1)

Bùi Khánh Thế

1. Dẫn nhập

1.1. Quá trình hình thành và phát triển tiếng Việt, xét theo quan điểm giao lưu (interchange) và tương tác (interaction), là quá trình tiếp xúc ngôn ngữ (TXNN). Ở thời kì hình thành đó là sự giao lưu và tương tác giữa các thứ tiếng thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc để hợp thành hạt nhân của tiếng Việt. Bắt đầu thời kì phát triển, cùng với các bước lưỡng phân(1), là những giai đoạn tiếp xúc của tiếng Việt với các ngôn ngữ ngoại lai - được hiểu như các thứ tiếng ngoài gia đình ngôn ngữ Nam Á (AA) và Nam Thái (AT) (P.Benedict, 1996). Ở thời kì phát triển, sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán hay Việt–Trung (từ đây gọi chung Việt–Hán) là dài lâu nhất và hình thái tiếp xúc cũng có nhiều kiểu loại nhất. (Xem thêm ở phần 2)

1.2. Trong bài viết này có mấy từ (ngữ) khoá sau đây được sử dụng: tiếp xúc ngôn ngữ, ứng xử ngôn ngữ, yếu tố gốc Hán. Thuộc số đó có từ (ngữ) đã quen thuộc, nhưng khi xuất hiện trong bài viết này một đôi trường hợp mang một sắc thái hơi khác.

Tiếp xúc ngôn ngữ là “sự tiếp giao nhau giữa các ngôn ngữ do những hoàn cảnh cận kề nhau về mặt địa lí, tương liên về mặt lịch sử xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng người vốn có những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với nhau” (O.S. Akhmanova, 1966). TXNN còn được hiểu là “sự tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ tạo nên ảnh hưởng đối với cấu trúc và vốn từ của một hay nhiều ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội của sự TXNN được quy định bởi nhu cầu cần thiết phải giao tiếp lẫn nhau giữa những thành viên thuộc các nhóm dân tộc và ngôn ngữ do những nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội v.v. thúc đẩy” (V.N.Jarceva, 1990). Với tình hình TXNN ở Việt Nam, cũng như với một số nước từng có sự xâm lược và chiếm đóng của một thế lực ngoại quốc, ta còn có thể thêm vào đoạn dẫn trên: nhu cầu giao tiếp giữa cư dân bản địa với những người thuộc bộ máy cai trị và đội quân xâm lược hoặc chiếm đóng ngoại quốc. Trong hình thái TXNN này, sự ứng xử ngôn ngữ của cư dân bản địa là vấn đề hết sức tế nhị. Trong nhiều trường hợp nó làm nổi rõ bản sắc dân tộc của cả một nền văn hoá.

Ứng xử ngôn ngữ (Language Treatment) có nội dung khái niệm thuộc lĩnh vực xã hội ngôn ngữ học. Cách diễn đạt này được xem là tương đương với Kế hoạch hoá ngôn ngữ (Language Plan/Planning). Ứng xử ngôn ngữ là sản phẩm của những quyết định có ý thức về sự lựa chọn mã (code) trong hoạt động giao tiếp (John Gibbons, 1992 ). Ứng xử ngôn ngữ mang tính xã hội được thể hiện trong chính sách ngôn ngữ của nhà nước hoặc một tổ chức xã hội. Chẳng hạn chính sách ngôn ngữ hiện nay của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; chính sách ngôn ngữ của Đảng Cộng sản Đông Dương được thể hiện trong Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943. Ứng xử ngôn ngữ cũng có thể là sự lựa chọn của một người về ngôn ngữ mà mình dùng trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn từ. Sự ứng xử ngôn ngữ của mỗi người được quy định bởi nhiều nhân tố vừa khách quan vừa chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan có tính quyết định. Ứng xử ngôn ngữ là một thành phần về ứng xử văn hoá. Do đó, truyền thống văn hoá, truyền thống ứng xử ngôn ngữ của cộng đồng, của dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến thái độ ứng xử ngôn ngữ của các thành viên trong cộng đồng.

Yếu tố gốc Hán không chỉ là những từ bắt nguồn từ tiếng Hán xưa nay được gọi là từ Hán - Việt. Trong bài này yếu tố gốc Hán được hiểu là tất cả những đặc điểm hoặc thành tố ngôn ngữ nào mà qua sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán tiếng Hán có thể có ảnh hưởng đến tiếng Việt ở mặt này hay mặt khác. Chẳng hạn các đặc điểm về ngữ âm, đặc điểm về cấu trúc ngữ pháp, các thành tố từ vựng ngữ nghĩa. Tuy trong bài viết này các thành tố từ vựng ngữ nghĩa là ngữ liệu được đề cập đến nhiều hơn, nhưng các phương diện khác của tiếng Hán cũng sẽ được nhắc đến khi cần.

1.3. Trong nhiều trường hợp bài viết sử dụng các dẫn liệu ngôn ngữ rút từ những công trình đã công bố và được thừa nhận rộng rãi của các tác giả khác cùng với những ngữ liệu mà người viết bài này dùng trong các lập luận của mình. Đề cập đến một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội - ngôn ngữ học, khi cần thiết chúng tôi cũng đụng chạm đến những dẫn liệu thuộc các lĩnh vực ngoài ngôn ngữ để làm rõ thêm cho những lập luận liên quan với hiện tượng nội tại ngôn ngữ.

2. Tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán

2.1. Các giai đoạn tiếp xúc và đặc điểm

Trong khoa học nói đến thời kì hoặc giai đoạn tức là bàn về sự phân kì có tính lịch đại (diachronic division of events into periods) về diễn tiến hay quá trình phát triển của một hiện tượng, một sự kiện nào đó. Mỗi sự phân kì nhằm vào một/vài mục đích nhất định và có tiêu chí định hướng cho sự phân kì. Sự phân kì hiện tượng TXNN dựa vào các hình thái tiếp xúc, điều kiện xã hội - lịch sử và hệ quả mà sự TXNN dẫn tới về mặt cấu trúc cũng như về chức năng xã hội của ngôn ngữ.

2.2. Theo các định hướng trên đây ta có thể hình dung sự phân chia quá trình tiếp xúc Việt–Hán thành sáu giai đoạn (hoặc thời kì):

  • Giai đoạn hình thành nhà nước Văn Lang chuyển sang Âu Lạc.
  • Giai đoạn Triệu Đà sáp nhập lãnh thổ Âu Lạc vào Nam Việt.
  • Giai đoạn Nam Việt bị Đế quốc Hán khuất phục và lãnh thổ cũng như cư dân Âu – Lạc (từ đây gọi một cách quy ước là Việt Nam)(2) trong cương vực Nam Việt cũng bị đế quốc Hán thôn tính. Trong chính sử Việt Nam giai đoạn này được gọi là Thời kì Bắc thuộc.
  • Giai đoạn nền độc lập (trong lịch sử có khi gọi là nền tự chủ) Việt Nam được khôi phục và xây dựng nhà nước Việt Nam theo chế độ vương quyền.
  • Giai đoạn Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa Pháp trên đất Việt Nam.
  • Giai đoạn Việt Nam giành quyền độc lập từ tay thực dân Pháp cho đến nay.
2.2.1. Có thể xem giai đoạn hình thành nhà nước Văn Lang (VL) và từ VL chuyển sang nhà nước Âu - Lạc (ÂL) là khởi điểm quá trình TXNN trên miền đất Việt thời kì mở cõi, dựng nước này. Đây là thời kì của các huyền thoại và giả thiết, giống như ở bất kì dân tộc và đất nước nào trên thế giới. Vì vậy nơi đây tồn tại nhiều truyền thuyết, huyền thoại và trên cơ sở đó mà các nhà nghiên cứu đã có những giả thiết khác nhau về dân tộc Việt Nam hiện nay và về quá trình hình thành vùng khai nguyên của Việt Nam hiện đại. Tiếp cận từ lí thuyết TXNN ta có thể hình dung trước hết đó là quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ bản địa mà kết quả là sự hình thành của tiếng Việt thời cổ(3). Tiếp theo đó là sự tiếp xúc với các thứ tiếng đến từ ngoài vùng đất khai nguyên.

Về mặt này giả thiết mà K.W.Taylor đưa ra, theo tôi, là đáng chú ý hơn cả. Trong sách Sự ra đời của Việt Nam, ngay trang đầu chương I, tác giả đã dựa vào truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân trong Lĩnh Nam Chích Quái (LNCQ) và Đại Việt sử kí toàn thư (TT), để giải thích cuộc hôn phối giữa hai nhân vật huyền thoại này. K.W. Taylor hình dung rằng Lạc Long Quân là một người dòng dõi đế vương vốn ở phương bắc, Trung Hoa (A Monarch from the North, China...) từ biển xâm nhập vào lục địa và khi nhận thấy nơi đây không có vua bèn xưng vương để cai quản. Nhưng cư dân địa phương không chấp nhận và nhân vật ngoại bang này buộc phải ra đi(4). Qua mối liên kết tượng trưng đó ta có thể hiểu: đây là sự tiếp xúc Việt–Hán đầu tiên trong lịch sử. Có điều là giai đoạn tiếp xúc này ắt là không lâu bền và chưa tạo nên tác dụng gì sâu sắc về mặt ngôn ngữ, nếu có.

Cách hình dung như K.W.Taylor, theo tôi, rõ ràng là có sức hấp dẫn, và cách hiểu dựa vào sự hình dung ấy là hợp lô gích. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đều thuộc phạm trù huyền thoại và giả thuyết, gắn với giai đoạn dã sử, phải chờ đợi những cứ liệu hiện thực chứng minh. Dẫn sao giả thuyết này cũng gợi cho ta một hướng suy nghĩ lí thú.

2.2.2. Trong lịch sử Việt Nam giai đoạn Triệu Đà chinh phục và sáp nhập Âu Lạc vào phạm vi quốc gia Nam Việt rồi chia đất đai Âu Lạc ra làm hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân được xác định là từ 179 đến 111 TCN. Vốn là con nhà tướng gốc Hán, cuối đời nhà Tần, Triệu Đà lên thay Nhâm Ngao cầm quyền, rồi khi nhà Tần bị diệt, tự xưng làm Nam Việt Vương. Việc Triệu Đà có thể tập hợp để làm chỗ dựa cho quyền lực của mình những người Hán từ phía bắc di cư vào cương thổ này (K.W.Taylor, tr.23-24; Phan Huy Lê, 1983, tr.234) chứng tỏ số lượng cư dân gốc Hán ở đây đã có một số lượng đáng kể. Và với tư cách những thành phần cư dân trong cùng phạm vi quốc gia Nam Việt, dĩ nhiên người dân Âu Lạc có quan hệ giao tiếp với toàn bộ cư dân của quốc gia này, trong đó gồm cả bộ phận người Hán. Sự giao tiếp này hẳn là có giới hạn. Lịch sử Việt Nam ghi nhận. Sứ giả nhà Triệu tiến hành lập sổ cư dân Giao Chỉ, Cửu Chân... "Giúp việc sứ giả, có thể có một số quan chức, cả Hán lẫn Việt” (sđd tr.234). Từ sự kiện đó có thể suy ra, đây là lần đầu tiên sử sách ghi lại có sự TXNN Việt–Hán. Đặc điểm của sự TXNN Việt–Hán trong giai đoạn này là nó được gộp trong bối cảnh tiếp xúc chung với các ngôn ngữ trong “quốc gia li khai” Nam Việt, ở đó bao gồm các ngôn ngữ của các dân tộc thuộc Bách Việt. Tiếng Hán lúc này một mặt là ngôn ngữ của giới cầm quyền và mặt khác là tiếng nói của một nhóm dân di cư từ phương bắc tới. Sự cai trị của nhà Triệu chưa kịp đụng chạm nhiều đến cơ cấu xã hội Âu Lạc trước đó. Do vậy ảnh hưởng ngôn ngữ qua sự tiếp xúc có tính đa hướng hơn là song phương Việt–Hán và chưa sâu sắc mấy.

2.2.3. Giai đoạn từ khi Nam Việt bị đế quốc Hán khuất phục trở đi trong sự phân kì của các tác giả khác nhau có cách gọi không giống nhau đối với phần lãnh thổ và cư dân trước đây thuộc Âu - Lạc. Với mục đích nghiên cứu của mình, tôi tán thành cũng như dùng theo cách phân kì của John DeFrancis và gọi chung là giai đoạn Bắc thuộc.

Đặc điểm của giai đoạn TXNN Việt–Hán này về mặt văn tự và tiếng nói đã được John DeFrancis và Nguyễn Tài Cẩn chỉ rõ (Mặc dù Nguyễn Tài Cẩn chỉ giới hạn “vào khoảng các thế kỉ 8,9”, TLTK đã dẫn, tr.8. H Maspéro chỉ ghi chung là trước thế kỉ 10). Một đặc điểm khác về chính trị – xã hội nên được lưu ý là giai đoạn này không phải diễn ra xuyên suốt, mà bị cách quãng bởi hai cuộc khởi nghĩa, đánh đuổi quân xâm lược giành lại quyền độc lập.

1. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Hai Bà Trưng lên ngôi các năm 40-43 Công nguyên.

2. Cuộc khởi nghĩa Lí Bí và sự thành lập nhà nước Vạn Xuân (542-602) Giai đoạn này chính sách Hán hoá của phương bắc ngày càng được đẩy mạnh và được các quan thái thú thực hiện chính sách đó triệt để tại miền đất họ chiếm đóng. Số lượng người Hán ở đây không chỉ có các quan chức trong bộ máy cai trị, đội quân chiếm đóng, mà cả gia đình con em của họ. Ngoài ra còn có lớp người Hán theo chính sách di dân cũng lần lượt kéo đến định cư nơi đây. Họ bao gồm những người lao động thường, người có tay nghề thuộc các nghề nghiệp khác nhau. Dù hình thái cư trú trên miền đất cùng chung sống này là thế nào (biệt lập của người Hán, kề cận với các đơn vị hành chánh cư dân Việt, hay có mức độ sống xen kẽ nhất định) thì cũng đều phải có sự giao tiếp Hán – Việt. Chính do đó mà sự TXNN Hán – Việt trở nên ngày càng sâu sắc hơn. Hệ quả của sự TXNN này là trong sinh hoạt ngôn ngữ và trong đời sống xã hội hình thành tình thế các cộng đồng Hán di cư đến kết giao với các cộng đồng cư dân bản địa, tạo nên hình thái song ngữ song văn hoá Việt–Hán.

2.2.4. Các giai đoạn tiếp theo của quá trình tiếp xúc Việt–Hán, tuy cách gọi của John DeFrancis có ít nhiều không giống với những sự phân kì của H.Maspéro, Nguyễn Tài Cẩn, D.J.Whitfield, nhưng ở ông các nhận xét về trạng huống ngôn ngữ và văn tự hầu như không có gì khác. Trạng huống đó vào thời kì Bắc thuộc (111 TCN đến 939 CN) là trong xã hội Việt Nam có hai ngôn ngữ Việt và Hán, và một văn tự là chữ Hán hoạt động trên mọi lĩnh vực giao tiếp. Kế đến là:

1/ Giai đoạn độc lập, xây dựng chế độ vương quyền (939-1651) Hai ngôn ngữ: Việt và Hán

Hai hệ thống văn tự: chữ Hán và chữ Nôm Chữ Hán được tiếp tục sử dụng với hình thức Hán – Việt. Xây dựng chữ Nôm theo loại hình chữ ghi ý (ideographic).

2/ Giai đoạn độc lập dưới chế độ vương quyền và có một bộ phận cư dân theo công giáo (1651-1861)

Hai ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Hán

Ba hệ thống văn tự: chữ Hán – Việt, chữ Nôm và chữ La tinh hoá, tức là dùng hệ chữ viết La tinh ghi tiếng Việt.

3/ Giai đoạn trở thành thuộc địa Pháp (1861-1945)

Ba ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp

Bốn hệ thống văn tự: chữ Hán–Việt, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.

4/ Giai đoạn độc lập dân tộc, từ 1945 đến nay

Một ngôn ngữ: tiếng Việt

Một văn tự: chữ Quốc ngữ.

(John DeFrancis, xem phần Mục lục)

Điều đáng nhấn mạnh là, tuy mức độ có khác nhau, nhưng sự TXNN Việt–Hán vẫn tiếp tục ở tất cả các giai đoạn đã nêu. Trên cơ sở đó mà chúng ta có thể thảo luận về thái độ ứng xử ngôn ngữ của các thế hệ người Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử TXNN.

________________

(1) Trong bài Thử phân kì lịch sử thế kỉ 12 của tiếng Việt; tác giả Nguyễn Tài Cẩn viết: “Tiếng Việt có một lịch sử chỉ khoảng hơn 12 thế kỉ. Sự hình thành tiếng Việt là một kết quả của 2 bước lưỡng phân, một trước, một sau. Bước lưỡng phân đầu là bước chia ngôn ngữ mẹ Proto – Việt – Chứt thành hai nhánh: nhánh Việt – Mường ở phía bắc và nhánh Pọng – Chứt ở phía Nam... Ảnh hưởng của tiếng Hán không những mạnh ở Bắc hơn Nam mà ở đồng bằng sông Hồng cũng mạnh hơn ở miền núi. Do đó lại nảy sinh một bước lưỡng phân thứ hai bắt đầu từ khoảng thế kỉ 18, tạo ra sự đối lập giữa hai ngôn ngữ mới, một bên là Proto Việt, một bên là Proto Mường" (N.T.Cẩn, 1998, tr.7)

(2) Trong lịch sử, tuỳ từng thời kì lịch sử tên gọi chỉ nước Việt Nam hiện nay có sự thay đổi Giao Châu, Giao Chỉ, Đại Cồ Việt, Đại Việt... Tên gọi Việt Nam về sau mới xuất hiện. Tuy nhiên, để tiện cho việc trình bày, trong bài này chúng ta có thể lấy tên gọi Việt Nam mà hiện nay đang dùng để đại diện chung cho tất cả các tên gọi có trước, nếu không có nhu cầu phân biệt chính xác.

Thảo luận về đề tài này, chúng tôi sử dụng các công trình của một số tác giả. Ở những công trình đó, căn cứ vào những chỗ dựa ít nhiều khác nhau, các tác giả đã đề nghị cách phân kì tuỳ theo sự tiếp cận của mình.

I. Dựa vào sự hình thành tiếng Hán–Việt, cuốn An Nam dịch ngữ và cuốn từ điển Alexandre de Rhode (1651), H.Maspéro chia thành:

A) Proto Việt trước thế kỉ 10

Việt tiền cổ: thế kỉ 10 (hình thành tiếng Hán - Việt)

C) Việt cổ: thế kỉ 15 (An Nam dịch ngữ)

D) Việt trung đại: thế kỉ 17 (từ điển A.de Rhôde 1651)

E) Việt hiện đại: thế kỉ 19

(Dẫn lại theo Nguyễn Tài Cẩn, 1998, tr.8)

II. Dựa vào thế tương tác giữa các ngôn ngữ, văn tự có sự tiếp xúc với nhau trong mỗi giai đoạn N.T.Cẩn (1998) có bảng phân kì :

A)Giai đoạn Proto ViệtCó 2 ngôn ngữ: tiếng Hán (khẩu ngữ của lãnh đạo) và tiếng Việt; 1 văn tự: chữ HánVào khoảng các thế kỉ 8, 9.Giai đoạn tiếng ViệtCó 2 ngôn ngữ: tiếng Việt (khẩu ngữ của lãnh đạo) và văn ngôn Hán; 1 tiền cổ văn tự: chữ HánVào khoảng các thế kỉ 10,11,12C)Giai đoạn tiếng Việt cổCó 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán; 2 văn tự: chữ Hán và chữ NômVào khoảng các thế kỉ 13, 14, 15, 16D)Giai đoạn tiếng Việt trung đạiCó 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán; 3 văn tự: chữ Hán và chữ Nôm và chữ Quốc ngữVào khoảng các thế kỉ 17, 18 và nửa đầu thế kỉ 19E)Giai đoạn tiếng Việt cận đại Có 2 ngôn ngữ: tiếng Pháp, tiếng Việt và văn ngôn Hán; 4 văn tự: Pháp, Hán, Nôm, Quốc ngữVào thời gian Pháp thuộcG)Giai đoạn tiếng Việt hiện nayCó 1 ngôn ngữ: tiếng Việt; 1 văn tự: chữ Quốc ngữTừ 1945 trở đi

III. John DeFrancis (1977) trong Colonialism and Language Policy dựa vào sự thể hiện chính sách ngôn ngữ từ 111 TCN trở đi chia sự phát triển tiếng Việt thành 4 giai đoạn với các đặc điểm về trạng huống ngôn ngữ và văn tự khác.

IV. Keith W.Taylor (1983) trong sách The Birth of Vietnam, tuy không trực tiếp đề cập đến sự phân kì về quan hệ tiếp xúc Hán - Việt nhưng những cứ liệu của tác giả này về thời kì hình thành Việt Nam trước khi bị đế quốc Hán xâm chiếm và đặt ách thống trị cũng có nhiều cứ liệu và ý tưởng soi sáng cho sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán.

(3). Cách dùng “tiếng Việt thời cổ” ở đây được hiểu như tiếng nói của “người Việt Cổ” (L.sử I) về hạt nhân đầu tiên của tiếng Việt hiện đại mà ngành ngôn ngữ học lịch sử Việt Nam chưa có những công trình nghiên cứu vượt khỏi các giả thuyết.

(4). Theo Taylor, qua huyền thoại Âu Cơ–Lạc Long Quân ta có thể biết về quan niệm trong dân gian xưa về quan niệm huyết thống giữa các vua Hùng và Lạc Long Quân (LLQ). LLQ từ phía biển thâm nhập vào đồng bằng sông Hồng. Đến đây LLQ chế phục “các yêu quái” trong miền rồi khai hoá họ, dạy họ trồng trọt, bắt đầu biết ăn mặc. Sau đó trở về biển cả và dặn lại rằng khi nào gặp nguy khó thì hãy lên tiếng và LLQ sẽ trở lại… Rất có thể Lạc Long Quân là hoàng tử xứ biển cả và Âu Cơ là một Mị Nương của vùng núi đồi. Khi Lạc Long Quân ra đi, Mị Nương ở lại và sinh hạ các vua Hùng. Người Việt Nam đời nối đời xem Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ tiên của mình.

Taylor viết tiếp: Huyền thoại bao quanh câu chuyện Lạc Long Quân và Hùng Vương ngụ ý về một nền văn hoá từ đất liền hướng ra phía biển. LLQ là nhân vật văn hoá mang nền văn minh đến từ biển. Nhân vật này chạm trán với quyền lực từ đất liền, liên kết với đối thủ ấy bằng một cuộc hôn nhân và cuối cùng kẻ vốn là đối thủ trở thành mẹ của người thừa kế mình. Chủ đề về nhân vật văn hoá bản địa có cách ứng xử để vô hiệu hoá sự đe doạ từ phương bắc bằng cách dung hợp cội nguồn chính thống của nền văn minh ấy cũng phù hợp với mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc (K.W.Taylor, 1977, tr.1).

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

3. Thái độ ứng xử ngôn ngữ của người Việt

3.1. Không giống như một số quốc gia hoặc dân tộc khác, thái độ ứng xử ngôn ngữ của các thế hệ người Việt không bị ảnh hưởng của chính sách do bộ máy cai trị của thế lực chiếm đóng ngoại bang hoặc tâm lí dân tộc cực đoan. Ngược lại, theo ý chúng tôi, thái độ ứng xử đó được chi phối bởi tiềm thức về nhu cầu giao tiếp xã hội. Tiềm thức này ngày càng tăng do thực tiễn giao tiếp xã hội cho thấy giá trị đích thực của các yếu tố gốc Hán, nói chung là tiếng Hán, chứ không phải do sự áp đặt, ép buộc từ một chính sách của lực lượng chiếm đóng.

3.2. Ứng xử ngôn ngữ đầu tiên của người Việt được quy định, có thể nói, một cách khách quan bởi nhu cầu giao tiếp với lớp người Hán di cư vào đất Việt. Trong Sự ra đời của Việt Nam, K.W. Taylor tỏ ra khách quan khi có nhận xét đại ý: Không phải tất cả người Hán di cư đến miền đất Âu Lạc trước đây đều thuộc tầng lớp quan quyền. Nhiều di dân là lính tráng (ở lại sau khi mãn hạn lính), những người lao động bình thường, những người thợ có tay nghề. Tầng lớp di dân ở vị trí xã hội thấp này có xu hướng kết nhập với giới xã hội người Hán còn ở lại làm ăn sinh sống sau cuộc hành quân Mã Viện. Nhiều người Hán di cư có xu hướng kết hợp giá trị Hán chính thống của họ với các đặc điểm xã hội tại chỗ. Điều này được thể hiện trên thực tế bằng các cuộc hôn nhân hỗn hợp và các hoạt động của người Hán di cư với tư cách đại diện cho cộng đồng từng khu vực trong các cuộc khởi nghĩa địa phương nổ ra vào thế kỉ thứ hai.

Hoàn toàn có lí khi cho rằng người Hán di cư dần dần trở thành các thành viên thuộc xã hội tại chỗ. Họ gầy dựng cuộc sống của riêng mình theo mô thức văn hoá Hán. Họ mang đến Việt Nam vốn từ ngữ và kĩ thuật Hán, nhưng họ phát triển tất cả theo quan điểm riêng, dựa rất nhiều vào di sản thuộc miền đất họ đến sinh sống. Tiếng Việt tiếp tục tồn tại, và lẽ đương nhiên là sau một vài thế hệ, con cháu người Hán di cư nói tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong giao tiếp. Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, có thể nói, hầu như tách biệt hoàn toàn với văn minh Hán, và xã hội Hán–Việt tồn tại như một chi thể của thế giới văn hoá tự trị. Người Hán di cư trải qua quá trình “Việt Nam hoá” một cách có hiệu quả hơn (more effectively) là người Việt Nam bị Hán hoá (John DeFrancis, p.53).

Về phần mình, ngoài sự giao tiếp và quy hợp ở các tầng lớp dưới của xã hội, một số nhân vật ở tầng lớp trên do yêu cầu của hoàn cảnh hoặc chức trách, cũng có thể do chủ động, tiếp xúc ngày càng sâu bền hơn với ngôn ngữ, văn tự và nói chung là văn hoá Hán. Đó là khi các Thái thú Hán, bắt đầu từ Sĩ Nhiếp, cho mở trường dạy học. Đầu tiên người học ở các trường này chủ yếu là con em quan chức Hán, kế đó trường cũng dần dần thu nhận thêm viên chức Việt; và cuối cùng con em các gia đình Việt khá giả cũng được đến học. Từ cơ hội ấy mà dần dần hình thành tầng lớp trí thức Việt xuất thân từ Hán học, trong số này đã có những nhân tài xuất hiện. Và “Như thế nhân tài nước Việt cũng được tuyển dụng như người Hán, mở đầu là Lí Cầm, Lí Tiến” (Dẫn theo bản dịch tiếng Việt: Đại Việt sử kí toàn thư, Hà Nội, 1983, tr.182)(5).

3.3. Sau thời Bắc thuộc, sang giai đoạn tự chủ xây dựng chế độ vương quyền của mình, các triều đại phong kiến Việt Nam dùng tiếng Hán–Việt, chữ Hán như ngôn ngữ và văn tự văn hoá đương nhiên của Việt Nam. Dấu chỉ của thực tế đó là những văn kiện chính thức hoặc huyền thoại, cắm mốc cho các sự kiện lịch sử, đều bằng tiếng Hán–Việt và ghi lại bằng chữ Hán: Chiếu dời đô của Lí Thái Tổ, bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang vọng trên bờ sông Như Nguyệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, và Bình Ngô đại cáoQuân trung từ mệnh tập dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi thời Lê. Trong lĩnh vực phục hưng nền văn hoá dân tộc tiếng Hán–Việt và chữ Hán là công cụ để ông cha ta thời Lí – Trần xây dựng cả một gia tài văn học chữ Hán đồ sộ. Nền giáo dục cổ điển Việt Nam bắt đầu từ triều Lí (1076) cũng được xây dựng theo mô hình Nho học, ngôn ngữ dùng trong giáo dục cũng là tiếng Hán–Việt và chữ Hán. Các học quan, thày dạy đều xuất thân từ Hán học. Nền giáo dục này góp phần chủ yếu đào tạo nên các thế hệ trí thức hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống một quốc gia độc lập thời phong kiến Việt Nam tồn tại mãi đến triều Nguyễn.

Nếu khảo sát hệ thống từ ngữ dùng trong quá trình xây dựng chế độ phong kiến Việt Nam – từ tên gọi các cơ chế tổ chức, hệ thống quan chức, hệ thống luật pháp v.v. – ta có thể thấy số từ ngữ Hán–Việt chiếm phần lớn. Đó cũng là tình hình trong lĩnh vực khoa học quân sự, lĩnh vực kinh tế và nhiều ngành khoa học xã hội khác. Nói tóm lại trong giai đoạn này tiếng Hán và chữ Hán là ngôn ngữ và văn tự của nền hành chánh và của giới trí thức Việt Nam giống như tiếng Hi lạp và La tinh đối với xã hội Châu Âu thời kì tiền hiện đại. Trong quá trình đó người Việt Nam vừa sử dụng vừa chọn lọc từ vốn từ ngữ vay mượn ấy để làm phong phú cho ngôn ngữ và văn hoá của mình.

3.4. Một trong những biểu hiện thành công của quá trình tiếp biến văn hoá và TXNN Việt–Hán là sự xây dựng chữ Nôm Việt Nam (khoảng thế kỉ 13). Từ thành công đó một nền văn học Hán–Nôm ra đời tiếp tục giai đoạn văn học cổ điển sáng tác chỉ bằng tiếng Hán–Việt và chữ Hán. Các nhà văn hoá Việt Nam xuất thân từ Hán học là tác gia lớn, vừa có tác phẩm bằng tiếng Hán–Việt, chữ Hán, vừa sáng tạo những kiệt tác bằng tiếng Việt và chữ Nôm như Nguyễn Trãi, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Họ cùng với đông đảo tác giả khuyết danh của các truyện thơ Nôm làm phong phú cho kho tàng văn chương chữ Nôm, góp phần chung vào dòng văn học Hán–Nôm xuất hiện từ thế kỉ 15 trở đi. Hiện tượng văn hoá ấy là một bước phát triển mới của thái độ ứng xử ngôn ngữ đúng đắn ở người Việt Nam.

3.5. Có chữ Nôm, rồi chữ Quốc ngữ được chế tác và được điển chế hoá dần bằng các từ điển, sách ngữ pháp(6), số người biết chữ Quốc ngữ ngày càng tăng, đầu tiên là trong giáo dân, trong nhà thờ công giáo. Tiếp đến là các viên chức trong bộ máy của chính quyền thuộc địa. Từ đầu thế kỉ 20 chính quyền thuộc địa có quyết định bãi bỏ nền giáo dục cựu học. Hệ thống giáo dục tân học, tức theo mô hình hiện đại Tây phương được thiết lập từng bước trên toàn cõi Việt Nam. Giới trí thức tân học Việt Nam lần lượt tăng lên về số lượng và chất lượng và dần dần chiếm ưu thế trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà đã có lời than:

Nào có ra gì cái chữ Nho

Ông nghè ông cống cũng nằm co...

Nhưng nhìn vào tầng sâu của văn hoá xã hội Việt Nam thì không phải như vậy. Những trí thức cựu học như Nguyễn Lộ Trạch, Trần Quý Cáp, Lương Văn Can, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... vẫn là những đại thụ về mặt tinh thần trong xã hội. Chữ Hán, tiếng Hán vẫn tiếp tục được các vị ấy sử dụng để trước tác nhằm giáo dục tinh thần yêu nước của đồng bào (Hải ngoại huyết thư), bàn thảo về những điều làm cho dân giàu, nước mạnh (Thiên hạ đại thế luận), bảo vệ nền văn hoá dân tộc.

Trong quá trình tiếp nhận nền giáo dục theo kiểu mới để xây dựng nền khoa học kĩ thuật cho mình các trí thức tân học, cũng không phải vì thế mà bỏ quên vốn quý có nguồn gốc Hán. Tiêu biểu cho thái độ ứng xử ngôn ngữ này là cố GS. Hoàng Xuân Hãn với đề nghị của ông nên “lấy gốc chữ Nho” làm một trong ba “phương sách đặt danh từ khoa học”. Phương sách ấy hiện nay vẫn còn nguyên giá trị và trở thành một trong những quy tắc xây dựng thuật ngữ khoa học kĩ thuật đang phát triển rất nhanh chóng ở nước ta và khoa học kĩ thuật Việt Nam ngày càng tiếp cận nhiều với khoa học kĩ thuật qua các ngôn ngữ Ấn - Âu.

3.6. Về thái độ ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán, nhân vật văn hoá tiêu biểu nhất là chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta. Trên cơ sở của truyền thống văn hoá Hán học của gia đình, Người bước vào lịch sử hấp thụ thêm nguồn học vấn phương Tây, tích luỹ sự hiểu biết từ tinh hoa của nhiều dân tộc, nhiều đất nước trên bước đường hoạt động cách mạng. Dầu vậy, trong quá trình tiếp thu những bài học cách mạng từ Người, những lời giáo huấn của Người, và nhất là đọc các tác phẩm trong di sản của Người, chúng ta luôn luôn cảm nhận được qua vốn văn hoá đa dạng đó, tinh hoa văn hoá, tinh hoa ngôn ngữ Hán được Người tinh lọc, tiếp biến thành các giá trị Việt Nam. Trong tù Người viết Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù). Người dùng danh ngôn, tục ngữ Hán khi trao đổi ý kiến với các bậc đại nho Việt Nam. Trong kháng chiến Người cũng đã có những bài thơ tuyệt tác viết bằng chữ Hán. Thái độ ứng xử ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các yếu tố gốc Hán là lĩnh vực có ý nghĩa khoa học lớn, vượt ngoài khuôn khổ bài viết nhỏ này và phải là một đề tài nghiên cứu riêng.

_____________

(5) Lí Cầm là người Giao Châu, đậu tiến sĩ, làm quan đến Tư lệ hiệu uý. Lí Tiến đậu tiến sĩ, là người Giao Chỉ đầu tiên giữ chức thứ sử năm 187 CN, dưới triều Hán.

(6) Cuốn Từ điển Việt–Bồ–La, có phần giới thiệu về cơ cấu tiếng Việt ở đầu sách do A.de Rhode biên soạn và ấn hành năm 1651 là công trình đầu tiên. Từ đó dần dần loại sách này ngày càng xuất hiện nhiều hơn để cung ứng cho nhu cầu học chữ Quốc ngữ, học tiếng Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • O.S. Akhmanova (1969). Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (bằng tiếng Nga). Nxb Từ điển Bách khoa Xô viết Moskva.
  • Paul Benedict (1996). Interphyla Flow in Southeast Asia, In Proceeding of the Forth. International Symposium on Languages and Linguistics. 8 - 10, 1996. Vol. V, pp.1579-1590.
  • Bùi Khánh Thế (2000). Tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hán và hệ quả tích cực của quá trình đó đối với sự phát triển tiếng Việt. Kỉ yếu Hội thảo Việt–Trung.
  • John DeFrancis (1977). Colonialism and Language Policy in Vietnam. Monton Publishers - The Hague, Paris. New York.
  • John Gibbons (1992). Sociology of Language. In International Encyclopedia of Linguistics, Vol.4, pp.22-24, William Bright (Editor in Chief).
  • Hứa Tuyên (1994). Sơ lược về việc sử dụng chữ Hán ở Việt Nam và Đông Á.
  • V.N.Jarceva (chủ biên, 1990). Từ điển bách khoa về ngôn ngữ học (bằng tiếng Nga). Nxb Từ điển Bách khoa Xô Viết Moskva.
  • Nguyễn Đình Đầu (1997). Công lao của G.S Hoàng Xuân Hãn trong quá trình xây dựng và hoàn chỉnh nền quốc học nước ta bằng chữ quốc ngữ và tiếng Việt. Trong Kỉ yếu Hội nghị khoa học: Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt, tháng 3/1997, tr.174-184.
  • Nguyễn Tài Cẩn (1998). Thử phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ, số 6/1998, tr.7-12.
  • Tập san khoa học, A.Annals of HCM University, số 1/1994.
  • Keith Weller Taylor (1983). The Birth of Vietnam. University of California Press, Berkeley, Los Angeles - Oxford.
  • Danny J.Whitfield (1976). Historical and Cultural Dictionary of Vietnam. The Scarecrow Press, Inc. Metuchen, N.J.
Theo Tập san khoa học Trường ĐHKHXH&NV (ĐHQG TP. Hồ Chí Minh), số 38 (2007), trang 3–10. (Ngonngu.net)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Trần Phương thân mến.

Tôi vẫn chờ anh đưa những tư liệu để xác minh nguyên nhân những vngu7o7i2 trong cái "hầu hết" và "cộng đồng" trong topic liên quan đến bài viết của ông Trần Đại Sỹ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Trần Phương thân mến.

Tôi vẫn chờ anh đưa những tư liệu để xác minh nguyên nhân những vngu7o7i2 trong cái "hầu hết" và "cộng đồng" trong topic liên quan đến bài viết của ông Trần Đại Sỹ.

Kính anh Thiên Sứ !

Tôi nghĩ chắc anh cũng suy ra được chuỗi phương pháp luận của họ rồi, qua topic "Dân tộc và văn hóa" mà anh đã tạo bên mục Mạn Đàm, theo tôi tiểu luận đó sẽ đụng đến một vấn đề khá "xương xẩu" đấy. Sẽ thực sự chưa thể có sự thống nhất chung về cội nguồn văn hóa Việt nếu những vấn đề "dân tộc" và "Văn hóa - ngôn ngữ bản địa" vẫn chưa được giải quyết, bởi vẫn còn đó sự nhập nhằng giữa "người Kinh" với "người Việt" hoặc "người Việt" với "người dân tộc (thiểu số)", sự cục bộ giữa "địa bàn cư dân bản địa" với phạm trù "văn hóa dân tộc", .... Tôi sẽ tiếp tục trao đổi với anh bên ấy.

Dù sao cũng thật trân trọng với tất cả những nghiên cứu, những bài luận của những nhà khoa học vốn từ lâu đã nặng lòng để mở ra những khiếm khuyết của những trang sử Việt.

Share this post


Link to post
Share on other sites

3. Thái độ ứng xử ngôn ngữ của người Việt

3.6. Về thái độ ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán, nhân vật văn hoá tiêu biểu nhất là chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta. Trên cơ sở của truyền thống văn hoá Hán học của gia đình, Người bước vào lịch sử hấp thụ thêm nguồn học vấn phương Tây, tích luỹ sự hiểu biết từ tinh hoa của nhiều dân tộc, nhiều đất nước trên bước đường hoạt động cách mạng. Dầu vậy, trong quá trình tiếp thu những bài học cách mạng từ Người, những lời giáo huấn của Người, và nhất là đọc các tác phẩm trong di sản của Người, chúng ta luôn luôn cảm nhận được qua vốn văn hoá đa dạng đó, tinh hoa văn hoá, tinh hoa ngôn ngữ Hán được Người tinh lọc, tiếp biến thành các giá trị Việt Nam. Trong tù Người viết Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù). Người dùng danh ngôn, tục ngữ Hán khi trao đổi ý kiến với các bậc đại nho Việt Nam. Trong kháng chiến Người cũng đã có những bài thơ tuyệt tác viết bằng chữ Hán. Thái độ ứng xử ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các yếu tố gốc Hán là lĩnh vực có ý nghĩa khoa học lớn, vượt ngoài khuôn khổ bài viết nhỏ này và phải là một đề tài nghiên cứu riêng.

"Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người"- Chủ tịch Hồ Chí Minh

Share this post


Link to post
Share on other sites

Việt Nam và cơ tầng Đông Nam Á cổ đại

Trước Công lịch gương mặt văn hóa người Việt ra sao?! Về giai đoạn này các nhà nghiên cứu, đặc biệt các nhà nghiên cứu ở Viện Đông Nam Á – Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn ưa thích đưa ra khái niệm một cơ tầng Đông Nam Á cổ đại.

Lúc ấy Đông Nam Á cổ đại, về địa lý, chạy dài từ lưu vực Dương Tử phía bắc xuống đến Java phương Nam, từ Assam phía tây đến cửa sông Dương Tử phương Đông, có thể đến quần đảo Nhật Bản nữa. Một địa vực rộng lớn như thế tương ứng với sự hiện diện của các tộc người Nam Á, Đa đảo, Tạng - Miến, Miêu tộc…

Khi đó khái niệm Trung Hoa hay Trung Quốc mới chỉ giới hạn ở lưu vực Hoàng Hà. Trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Thiên chúa, người Trung Hoa còn bận xung đột nội bộ do sự sụp đổ của nền thống trị của vương triều Chu. Lịch sử gọi đây là là thời Xuân Thu - Chiến Quốc.

Đông Nam Á với một quan niệm rộng có thể được coi như là hệ quả của những thác nước lớn - những dòng sông lớn - từ dãy Himalaya, mái nhà của thế giới, đổ xuống. Đó là Dương Tử, Mê Kông, Mê Nam, Irrawaddy, rồi sông Hồng, tuy không phát nguyên từ mái nhà thế giới nhưng cũng có thể kể vào danh sách ấy. Đây là nói về Đông Nam Á lục địa. Nó gợi lên một cái quạt giấy, bên cạnh những dẫy núi là những dòng sông, giữa núi một bên và sông một bên là những thung lũng, những cánh đồng. Ngoài ra còn Đông Nam Á hải đảo, trên đó, sinh sống chủ yếu là người Mã Lai – Đa đảo, những tộc người đánh cá, đi biển, buôn bán đường biển.

Trên lục địa, là các dân tộc thuộc các ngữ hệ Môn – Khơme, Thái tộc, Miêu, Tạng - Miến…có thể từ một cội nguồn chung nào đó từ thuở xa xưa mà dần hình thành ra nhiều nhóm khác nhau. Địa hình phân cắt giữa lục địa và hải đảo, và trên lục địa do các dòng sông lớn và dãy núi lớn gây ra đã góp phần hết sức quan trọng trong sự phân chia các bộ tộc người này.

Nét chung dễ nhận thấy ở cư dân Đông Nam Á lục địa là: Trồng cấy lúa nước, chọi trâu, chọi gà, ăn trầu nhuộm răng, xăm mình, đi thuyền rồng, dùng cồng chiêng đồng, trống đồng, thờ rồng…Đây cũng là nét chung của các tộc người mà thư tịch Hán gọi là Bách Việt sống từ lưu vực Dương Tử đến vùng núi Hải Vân.

Địa hình chia cắt bởi những dòng sông, dãy núi lớn là đặc điểm vô cùng quan trọng để phân biệt Đông Nam Á cổ đại với Trung Nguyên – lưu vực sông Hoàng Hà và Ấn Độ. Chính vì thế mà nó không đạt tới một sự thống nhất chính trị, không hình thành ra được một trung tâm quyền lực nào đủ sức chi phối cả một khu vực rộng lớn như thế. Ở Đông Nam Á cổ đại không hình thành ra được một trung tâm quyền lực duy nhất của khu vực, các quốc gia và dân tộc ở đây sống trong trạng thái rời rạc, ai biết phận nấy, chỉ có trời chung. Dân chúng thì lo làm ăn, sinh sống, trồng cấy…lúc rỗi rãi thì bận hội hè, đình đám, thả chim, đua thuyền…Bởi thế, Tần – Hán mới có thể xóa sổ hẳn sự tồn tại của phần lớn các nhà nước Bách Việt.

Trong khi Khổng giáo phương Bắc đề cao vai trò của quân vương, nhà nước, tập trung quyền lực của nhà vua thì phương Nam khoái trở về với tự nhiên, vô vi, không làm gì cả mà cứ như là làm và quay lại tình trạng nước nhỏ, dân ít, người nước này nghe được tiếng gà gáy, chó sủa của nước kia. Nước bé tí tẹo thế chỉ là bộ lạc, làm sao đủ sức chống nổi quân hùng tướng mạnh của nhà Tần, nhà Hán.

PGS.TS. Đặng Việt Bích

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giải mã truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh

Ngày nay, khảo cổ học Việt Nam đã tiến tới chỗ khẳng định được rằng ở cả ba lưu vực sông Lam, sông Mã và sông Hồng, những cái nôi của dân tộc Việt - trước thời kỳ Đông Sơn - đã tồn tại các nền văn hóa khảo cổ tiếp nhau, phát triển liên tục, đều đặn, từ thấp lên cao.

Posted Image

Tranh minh hoạ: Cảnh sinh hoạt của người Việt cổ

Tại lưu vực sông Hồng là văn hóa Phùng Nguyên (2000 – 1500 TCN), Đồng Đậu (1500 – 1100 TCN), Gò Mun (1100 – 700 TCN).

Tại sông Mã là các nền văn hóa Cồn Chân Tiên, Bái Mao, Quỳ Chử tương đương niên đại với các văn hóa khu vực sông Hồng.

Ở sông Lam mới phát hiện được hai văn hóa Đền Đồn và Rú Trăn tương ứng với các giai đoạn Phùng Nguyên và Gò Mun, còn giai đoạn giữa chưa phát hiện được.

Các nhà khoa học nước ta nói chung đều thống nhất về nguồn gốc bản địa của văn hóa Đông Sơn. Đông Sơn không phải là một cái gì từ bên ngoài tới mà là hệ quả của sự phát triển liên tục văn hóa từ thấp lên cao của các lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Lam. Đông Sơn là tập đại thành của sự phát triển ấy.

Một số nhà khoa học cho rằng đã tồn tại trong thực tế hai liên minh bộ lạc lớn, một ở sông Mã, một ở sông Hồng, họ là chủ nhân của các văn hóa ở lưu vực hai dòng sông này ngay trong thời đại Đông Sơn. (Những ý kiến của các nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi, Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Mạnh Lợi). Riêng Nguyễn Đổng Chi còn quan niệm rằng liên minh bộ lạc vùng sông Hồng có một cái tên là Keo, trong khi liên minh bộ lạc sông Mã có một cái tên là Đuôn, hay De, Ye. Nguyễn Đổng Chi cũng không khẳng định họ có nguồn gốc tộc người ra sao? Hai liên minh ấy thuộc về giống người nào? Trước đây học giả Pháp H. Maspéro cho rằng: “Ngôn ngữ tiền Việt xuất hiện do kết quả của sự hỗn hợp của một thổ ngữ Môn – Khơme (Nam Á), một thổ ngữ Thái và có thể cả một thổ ngữ thứ ba mà hiện nay chưa biết được” (theo các nhà nghiên cứu hiện đại đó chính là thổ ngữ Nam Đảo).

Trước Công Nguyên khoảng 2000 năm, nghĩa là cách ta ngày nay khoảng 4000 năm, bên bờ sông Thao, trong khu vực Phong Châu, địa bàn văn hóa Phùng Nguyên từng tồn tại một nhóm người có nguồn gốc Thái tộc. Nhóm này chiếm lĩnh một dải đất Phong châu về Hà Bắc (ngày nay) và phía trên, chạy dọc theo mé tả ngạn sông Thao. Nhóm (bộ lạc) Thái này có thủ lĩnh là Khun, Khún hoặc Pò Khun…Từ cái tên Thái này, về sau được Hán hóa và trở thành tên gọi “Hùng” như ta vẫn gọi ngày nay. Trong tác phẩm sử học Việt sử cương mục tổng tiết, sử gia nổi tiếng Đặng Xuân Bảng (1827 – 1910) cho rằng sở dĩ bộ lạc này được gọi là Văn Lang vì họ sinh tụ và phát triển bên con sông Văn Lang tức sông Thao. Khun (Hùng) chính là danh từ chung chỉ những thủ lĩnh tối cao, thủ lĩnh tộc người, thủ lĩnh quân sự, thủ lĩnh thế tục và đồng thời còn là thủ lĩnh tôn giáo của bộ Văn Lang.

Bộ Văn lang phát triển một nền nông nghiệp lúa nước và trồng trọt. Dù có nguồn gốc Thái Trắng cổ theo phụ hệ, thờ chim trắng (gà trắng) nhưng vì là cư dân nông nghiệp nên ở họ đã phát triển tín ngưỡng thờ các nữ thần nông nghiệp cùng tín ngưỡng thờ các thần tự nhiên: mặt trời, mây, mưa…Bộ Văn Lang được coi là bộ lạc hùng mạnh và phát triển nhất vào thời kỳ đó.

Còn liên minh bộ lạc sông Mã, họ tồn tại và phát triển như thế nào? Họ đóng vai trò gì trong quá trình hình thành người Việt cổ và nền văn hóa Đông Sơn chói lọi. Xin hẹn các bạn trong bài viết sau: “Chân dung chàng Sơn tinh ”.

Phan Hòa – Biên soạn theo nghiên cứu của PGS.TS Đặng Việt Bích

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chân dung chàng Sơn Tinh

Vào thời kỳ cổ đại của Đông Nam Á, có ba nhóm tộc người lớn sống trên lục địa là tộc người sử dụng ngôn ngữ Thái – Tày, nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme (Nam Á) và nhóm Malayo – Polynesien (Nam Đảo). Các dân tộc này có thể từ một cội nguồn chung nào đó thủa xa xưa mà dần hình thành nhiều nhóm khác nhau.

Posted Image Tranh minh họa: Sơn Tinh và Thủy Tinh

Địa hình phân cắt giữa lục địa và hải đảo, và trên lục địa do các dòng sông lớn và dãy núi lớn gây ra đã góp phần hết sức quan trọng trong sự phân chia các bộ tộc người này.

Vào thời kỳ lịch sử cách ta ngày nay 4000 năm, nghĩa là thời kỳ mở đầu của văn hóa Phùng Nguyên, tại sông Hồng và văn hóa Cồn Chân Tiên sông Mã thì nhóm Thái tộc chỉ chiếm cứ vùng Việt Bắc ngày nay và duyên hải của vịnh Hà Nội (lúc đó biển còn vào tận vùng Hạc Trì). Còn từ miền hữu ngạn sông Thao, vùng ngày nay là Tây Bắc, Ba Vì, Đà Giang cho đến cả vùng sông Mã mà có thể suốt cả rẻo miền Trung cho đến Hải Vân là địa bàn cư trú của các tộc Môn - Khơme.

Như vậy có thể thấy quanh lưu vực sông Đà, sông Mã và cả sông Lam nữa, hiện diện một liên minh bộ lạc lớn thứ hai, đó là liên minh bộ lạc của tộc người Môn – Khơme. Tộc người này cũng khá phát triển, họ có một nền văn hóa “trồng củ”, sống chủ yếu bằng hái lượm và săn bắn, một số bộ lạc sống ở đồng bằng biết trồng lúa nước, đã biết tới đồ gốm và đồ đồng sơ kỳ. Họ cũng búi tó và đi chân đất. Nhưng phát triển mạnh nhất là bộ lạc chiếm cứ vùng đất quanh núi Ba Vì – sông Mã và hạ lưu sông Đà. Bộ lạc này có tục thờ thần núi, cụ thể hơn ở đây chính là thần núi Ba Vì (tức Tản Viên Sơn Thánh).

Như vậy, cách quan niệm này có khác với các quan niệm cũ trước đó chút ít ở chỗ địa bàn của liên minh bộ lạc vùng sông Mã được mở rộng ra hạ lưu sông Đà và vùng quanh núi Tản Viên.

Trong một thời gian dài hàng trăm năm (thời kỳ từ Phùng Nguyên (2000 – 1500 TCN) đến Đồng Đậu (1500 – 1100 TCN), hai liên minh bộ lạc này sống bên nhau, giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau nhưng không đi tới một sự thống nhất. Phải đến thời kỳ Gò Mun (bắt đầu vào khoảng 1100 TCN), khi đứng trước một biến cố lớn của lịch sử, hai liên minh bộ lạc này mới tiến đến sự hợp nhất. Và sự lưỡng hợp giữa hai tộc người này được truyền tải một cách khéo léo qua truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh.

Theo PGS. Đặng Việt Bích thì truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh đương nhiên bao hàm ý nghĩa người Việt cổ chiến thắng thiên tai, lũ lụt. Nhưng đó chỉ là nội dung bề mặt. Còn nội dung chìm sâu sa chứa đựng trong truyền thuyết này chính là: Sự lưỡng hợp (được thể hiện trong truyền thuyết qua đám cưới của Mỵ Nương và Sơn Tinh) giữa hai tộc người (Thái trắng - Hùng Vương và Môn Khơme - Sơn Tinh) có cội nguồn khác biệt tạo thành sự ra đời của một tộc người mới, có sự thống nhất hữu cơ, có đặc tính của một tộc người riêng, có sức sống mạnh mẽ hơn hai tộc người cũ. Chính họ là chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn sau này.

Và ở đây, nhân vật Sơn Tinh trong truyền thuyết chính là ký hiệu để chỉ liên minh bộ lạc Môn – khơme mà tiêu biểu là bộ lạc cư trú quanh núi Ba Vì.

Nhưng biến cố lịch sử đe dọa đến sự sinh tồn của hai liên minh bộ lạc này là gì và nó diễn ra như thế nào? Xin mời đón đọc bài: "Sự xâm lăng của Thủy Tinh".

Phan Hòa (Biên soạn theo nghiên cứu của PGS.TS Đặng Việt Bích)

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cuộc xâm lăng của Thủy Tinh

Người Nam Đảo (Austronesian), còn gọi là người Mã Lai – Đa Đảo hoặc Malayo – Polynesien là một nhóm cư dân quan trọng ở Đông Nam Á. Hình thành ở miền duyên hải Hoa Nam, trong vùng từ cửa sông Thanh Giang tới cửa sông Dương Tử, người Nam Đảo tràn đi chiếm cứ một vùng rộng lớn của thế giới.

Phía tây họ làm chủ đảo quốc Madagasia (Madagasca hay Malgache) ở vùng biển Đông châu Phi. Họ chiếm cứ bán đảo Mã Lai, Nam Dương quần đảo Inam đảoonesia và Philippin, tiến xa vào châu Đại Dương. Văn hóa Sa Huỳnh ở Trung Bộ nước ta và văn hóa Calanay ở Philippin được coi là cùng một hệ, có niên đại mở đầu khoảng năm 1500 TCN. Mộ vò hay chum (tục mai táng người chết trong chum hoặc vò) là một đặc trưng văn hóa Sa Huỳnh – Calanay. Những kiểu mộ chum này còn tìm được tại đảo Okinawa (Nhật Bản). Rất có thể không chỉ Okinawa mà cả quần đảo Nhật Bản cũng thuộc về phạm trù văn hóa Nam Đảo trong một giai đoạn lịch sử. Địa bàn của người Nam Đảo còn bao gồm cả hải đảo Đài Loan và một số hải đảo hay miền duyên hải Trung Quốc. Trên đảo Đài Loan hiện còn có 15 tộc người thuộc nhóm Nam Đảo.

Posted Image

Tranh minh họa: Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh

Các nhà khoa học đã xác nhận có một sự tiến công của người Nam Đảo vào bao lơn bán đảo Đông Dương. Họ đã tiến công và chiếm cứ được duyên hải miền Trung suốt từ sông Gianh qua Hải Vân vào tới Nam Bộ. Cả vùng này vốn là lãnh thổ cư trú của các nhóm Môn – Khơme. Từ Quy Nhơn người Nam đảo theo nhiều con đường tràn lên Tây Nguyên, tranh chấp đất đai với các nhóm Môn – Khơme cư trú lâu đời trên cao nguyên.

Tại duyên hải Trung Bộ, từ sông Gianh trở vào Nam, về sau này người Nam đảo đã thiết lập được quốc gia riêng của họ, đó là vương quốc Chăm Pa (hay còn gọi là Chiêm Bà, Chiêm Thành, nước Hồ Tôn Tinh…) tồn tại từ cuối thế kỷ II (193), chấm dứt hoàn toàn ở cuối thế kỷ XVII (1693).

Người Nam đảo cũng tiến công vào vùng vịnh Bắc Bộ, song không thu được kết quả như ở phía Nam. Họ chiếm cứ được vùng Vân Đồn và vùng đất của tỉnh Quảng Ninh ngày nay (rất có thể người Nam đảo là chủ nhân của văn hóa Hạ Long), song không chiếm sâu được vào vùng đất sông Hồng, sông Mã.

Cuộc tiến công của người Nam đảo, tộc người hung hãn đến từ biển đã được tổ tiên ta phản ánh lại thông qua thần thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh. Thủy Tinh, ông thần biển, thần nước vô cùng hung hãn , trước nay vẫn được xem là vị hung thần, tiêu biểu cho lực lượng thiên nhiên, sức mạnh của nước, đại diện của cái Ác. Còn Sơn Tinh, kẻ có vận may cưới được Mỵ Nương, chiến thắng thủy quái, tiêu biểu cho sức mạnh, trí tuệ người Việt cổ trị thủy chống lại thủy tai, đồng thời tiêu biểu cho cái Thiện.

Bảo truyền thuyết này phản ánh cuộc đấu tranh chống trường kỳ của người Việt cổ chống lũ lụt, thiên tai thì không sai. Nhưng ta còn thấy bên cạnh nội dung bề nổi đó, người xưa còn lồng ghép vào đó một hiện tượng lịch sử là cuộc tiến công của nhóm người Nam Đảo vào vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.

Sự tiến công của người Nam đảo vào Bắc Bộ không chỉ diễn ra một lần mà nhiều lần, trong nhiều năm, có thể hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Nhưng họ vấp phải sự đánh trả quyết liệt của 2 bộ lạc lớn rất phát triển và được tổ chức tốt thời bấy giờ là bộ Văn lang của Hùng Vương và nhóm Môn – Khơme của Sơn Tinh. Cuộc chiến không khoan nhượng liên quan đến sự sinh tồn của 3 bộ lạc lớn này diễn ra như thế nào? Xin hẹn các bạn ở bài sau.

Phan Hòa (Biên soạn theo nghiên cứu của PGS.TS Đặng Việt Bích)

(Còn tiếp) ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Theo PGS. Đặng Việt Bích thì truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh đương nhiên bao hàm ý nghĩa người Việt cổ chiến thắng thiên tai, lũ lụt. Nhưng đó chỉ là nội dung bề mặt. Còn nội dung chìm sâu sa chứa đựng trong truyền thuyết này chính là: Sự lưỡng hợp (được thể hiện trong truyền thuyết qua đám cưới của Mỵ Nương và Sơn Tinh) giữa hai tộc người (Thái trắng - Hùng Vương và Môn Khơme - Sơn Tinh) có cội nguồn khác biệt tạo thành sự ra đời của một tộc người mới, có sự thống nhất hữu cơ, có đặc tính của một tộc người riêng, có sức sống mạnh mẽ hơn hai tộc người cũ. Chính họ là chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn sau này.

Tôi đang ốm yếu nên đọc những bài viết kiểu này thiệt là khó thở anh TP thân mến ạ!?

Theo tôi, họ toàn tư duy ngược theo kiểu quả - nhân. Thật là tào lao, tào lao vì bài viết cũng như tào lao vì cái học hàm... lâu năm lên lão làng này !?

Thân mến

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi đang ốm yếu nên đọc những bài viết kiểu này thiệt là khó thở anh TP thân mến ạ!?

Theo tôi, họ toàn tư duy ngược theo kiểu quả - nhân. Thật là tào lao, tào lao vì bài viết cũng như tào lao vì cái học hàm... lâu năm lên lão làng này !?

Thân mến

Kính anh Quangnx !

Tôi đang đi vào những chuỗi lập luận của họ liên quan đến sự khác biệt ngữ hệ mà tôi có đề cập đến trong những bài viết trước trong topic này. Về yếu tố tộc người và nhóm ngôn ngôn ngữ trong các vấn đề nghiên cứu cổ sử Việt tôi đã muốn đề cập đến lâu rồi, nhân topic này thấy có nói đến các hang động ở Quảng Bình, tức có liên quan đến những tộc người còn giữ lại những ngữ âm cổ ở VN và hiện vẫn sinh sống ở đó, nên tôi mới mổ xẻ thẳng vào vấn đề từ chủ đề này, không cần mở topic khác.

Rất thông cảm với sự "khó thở" của anh, đó cũng chính là tâm trạng của tôi. :blink: Nhưng cũng thử phân tích xem do đâu mà thời dựng nước của ông cha ta chỉ là những tộc người lạc hậu mới thoát khỏi đời sống "hang đá", được lãnh đạo bởi thủ lĩnh của "liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố", ... Nếu được rất mong anh góp ý thêm.

Tôi sẽ trở lại sau.

Mến chào anh !

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi đang ốm yếu nên đọc những bài viết kiểu này thiệt là khó thở anh TP thân mến ạ!?

Theo tôi, họ toàn tư duy ngược theo kiểu quả - nhân. Thật là tào lao, tào lao vì bài viết cũng như tào lao vì cái học hàm... lâu năm lên lão làng này !?

Thân mến

Hi. Cảm ơn anh Quangnx tham gia. Hôm nay chắc tôi bận túi bụi. Vừa vào mạng được 30 giây, mới xem lượt các bài viết mà anh Trần Phương sưu tầm đưa lên. Từ nay đến sáng mai - qua đêm, tôi rất bận. Chiều mai về. Tối mai tôi sẽ chứng minh những luận điểm tronmg bài viết sai.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính anh Quangnx !

Tôi đang đi vào những chuỗi lập luận của họ liên quan đến sự khác biệt ngữ hệ mà tôi có đề cập đến trong những bài viết trước trong topic này. Về yếu tố tộc người và nhóm ngôn ngôn ngữ trong các vấn đề nghiên cứu cổ sử Việt tôi đã muốn đề cập đến lâu rồi, nhân topic này thấy có nói đến các hang động ở Quảng Bình, tức có liên quan đến những tộc người còn giữ lại những ngữ âm cổ ở VN và hiện vẫn sinh sống ở đó, nên tôi mới mổ xẻ thẳng vào vấn đề từ chủ đề này, không cần mở topic khác.

Rất thông cảm với sự "khó thở" của anh, đó cũng chính là tâm trạng của tôi. :blink: Nhưng cũng thử phân tích xem do đâu mà thời dựng nước của ông cha ta chỉ là những tộc người lạc hậu mới thoát khỏi đời sống "hang đá", được lãnh đạo bởi thủ lĩnh của "liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố", ... Nếu được rất mong anh góp ý thêm.

Tôi sẽ trở lại sau.

Mến chào anh !

Anh Trần Phương thân mến.

Mặc dù anh có thể không ủng hộ quan điểm phủ nhận Việt sử và truyền thống, nhưng tôi cho rằng anh đang lúng túng trước lập luận của những vị gọi là "giáo sư" trong cái "hầu hết" kia. Vì rất cả có khả năng - với cái nhìn của anh - anh cho họ có tính hợp lý. Nhưng với cá nhân tôi, thật tình là tôi không kiêu ngạo - những người gần gữi tôi biết rất rõ điều này, mà chỉ phản ánh một thực tế thôi - Tôi chỉ cần nghe sơ về nội dung một luận điểm nào đó thuộc về điều mà tôi quan tâm, tôi biết ngay nó sai ở chỗ nào. Thậm chí, ở một vài trường hợp tôi không cần xem bài viết cụ thể của họ, tôi cũng biết họ sẽ lập luận như thế nào để chứng minh điều họ nói. Tôi đã thí dụ nhiều lần trên diễn đàn v/v ông Đào Duy Anh, bậc thầy của các giáo sư trong cái "hầu hết" - kể cả Trần Quốc Vương. Tôi đã khẳng định ông Đào Duy Anh sai khi tôi chưa hề xem ông ấy viết gì, mà chỉ cần biết ông ta có quan điểm hoài nghi truyền thống Việt sử. Tôi đã chứng minh điều này trong chương V của cuốn sách "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp".

Việc đời đại để nó như thế này:

Một học sinh cấp I sẽ thấy lý luận của một người tốt nghiệp cấp II đúng. Một học sinh cấp II sẽ thấy học sinh cấp III đúng. Nhưng với một người có tri thức vượt trội sẽ thấy sự không hoàn chỉnh trong kiến thức của những người kia. Tôi không kiêu ngạo - nhưng thành thật mà nói rằng: Những bài viết tầm cỡ giáo sư Bích nào đó - do tôi chưa xem kỹ, tôi không cần phải xem trước nội dung, cũng đủ khả năng chỉ ra cái sai của họ.

Việc anh thắc mắc:

Nhưng cũng thử phân tích xem do đâu mà thời dựng nước của ông cha ta chỉ là những tộc người lạc hậu mới thoát khỏi đời sống "hang đá", được lãnh đạo bởi thủ lĩnh của "liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố", ...

Thì có thể nói rằng: Anh đã sai lầm ngay từ cách đặt vấn đề: do đâu mà thời dựng nước của ông cha ta chỉ là những tộc người lạc hậu mới thoát khỏi đời sống "hang đá" .

Với cách đặt vần đề này, vô tình anh đã xác quyết ngay từ đầu rằng: "Ông cha ta chỉ là những tộc người lạc hậu - bắt đầu tạo dựng sự nghiệp trên mảnh đất Việt hiện nay trên cơ sở căn cứ vào những cái mà nhóm "hầu hết" phát hiện di chỉ ở các hang động mà bài viết nêu - và từ đó dẫn đến sự hoài nghi của anh về sự phát triển đến xã hội Việt văn minh hiện nay.

Tôi nghĩ anh sẽ không thoát khỏi sự hoài nghi với cách đặt vấn đề này. Vì nó là các đặt vấn đề sai. Nó tương tự như cách đặt vấn đề: Vì lý do gì Chúa đã sinh ra muôn loài.

Tôi khẳng định với anh Trần Phương rằng: Sở dĩ tôi dám một mình một ngựa phản bác lại cái đám "hầu hết" và "cộng đồng", chính vì tôi đã nhìn thấy những sai lầm rất căn bản của họ. Nó tương tự như một người có chuyên môn sâu mà nhìn mấy học sinh phổ thông cấp II đang tranh luận về tình hình chính trị thế giới vậy.

Tôi biết rất rõ rằng: Những người thật sự có tinh thần khoa học vốn trước đây ủng hộ quan điểm của cái "hầu hết" và "cộng đồng" đang hoài nghi trở lại chính cách suy nghĩ của họ. Tuy nhiên, có thể có một số người chưa đủ khả năng tư duy và lập luận để thoát ra ngoài các luận cứ hợp lý hình thức của các "hầu hết" kia. Nó tương tự như học sinh cấp I thấy anh cấp III có vẻ hợp lý khi tranh luận với anh cấp II, nhưng không đủ khả năng tư duy vượt ra cái nhìn của anh cấp II và hiểu được anh cấp III nói gì.

Tôi tin rằng quan điểm Việt sử trải 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử sẽ là chân lý cuối cùng về cội nguồn sử Việt.

Tôi sẽ minh chứng với anh về các bài viết mà anh sưu tầm là sai mà không bỏ một chữ nào trong bài viết của họ, để chứng tỏ tính khách quan.

Thật tình với anh - Về mặt khả năng tư duy khoa học - tôi thấy họ dốt quá đến mức tôi phải hoài nghi : Có thật những vị mang hàm giáo sư đó lại dốt đến mức độ ấy không? Hay là có v/d gì đằng sau cái vỏ khoa học này?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Trần Phương thân mến

Tôi bắt đầu chứng minh sai lầm của PGS. TS Đặng Việt Bích, đề vạch ra cái sai của ông này như một thí dụ điển hình cho những giáo sư tiến sĩ khác trong cái "hầu hết" và "cộng đồng" có quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Tôi đã lần lượt phân tích cái sai trong từng bài viết thể hiện quan điểm phủ nhận vắn hóa sử truyền thống Việt mà tôi sưu tầm được ngay mục "Cổ Văn hóa sử" này. Cuối cùng họ đông quá, mà Thiên Sứ thì không có thời gian, nên tạm ngừng. Nhưng nay vì tình cảm với anh, tôi sẽ minh chứng lại điều này và vạch ra những sai lầm rất căn bản của họ. Mặc dù lúc tôi gõ những chữ này, tôi vẫn chưa xem kỹ bài viết của giáo sư Bích. Nhưng ông ta phải sai.

Cảm ơn sự quan tâm của anh

Việt Nam và cơ tầng Đông Nam Á cổ đại

Trước Công lịch gương mặt văn hóa người Việt ra sao?! Về giai đoạn này các nhà nghiên cứu, đặc biệt các nhà nghiên cứu ở Viện Đông Nam Á – Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn ưa thích đưa ra khái niệm một cơ tầng Đông Nam Á cổ đại.

Lúc ấy Đông Nam Á cổ đại, về địa lý, chạy dài từ lưu vực Dương Tử phía bắc xuống đến Java phương Nam, từ Assam phía tây đến cửa sông Dương Tử phương Đông, có thể đến quần đảo Nhật Bản nữa. Một địa vực rộng lớn như thế tương ứng với sự hiện diện của các tộc người Nam Á, Đa đảo, Tạng - Miến, Miêu tộc…

Khi đó khái niệm Trung Hoa hay Trung Quốc mới chỉ giới hạn ở lưu vực Hoàng Hà. Trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Thiên chúa, người Trung Hoa còn bận xung đột nội bộ do sự sụp đổ của nền thống trị của vương triều Chu. Lịch sử gọi đây là là thời Xuân Thu - Chiến Quốc.

Đông Nam Á với một quan niệm rộng có thể được coi như là hệ quả của những thác nước lớn - những dòng sông lớn - từ dãy Himalaya, mái nhà của thế giới, đổ xuống. Đó là Dương Tử, Mê Kông, Mê Nam, Irrawaddy, rồi sông Hồng, tuy không phát nguyên từ mái nhà thế giới nhưng cũng có thể kể vào danh sách ấy. Đây là nói về Đông Nam Á lục địa. Nó gợi lên một cái quạt giấy, bên cạnh những dẫy núi là những dòng sông, giữa núi một bên và sông một bên là những thung lũng, những cánh đồng. Ngoài ra còn Đông Nam Á hải đảo, trên đó, sinh sống chủ yếu là người Mã Lai – Đa đảo, những tộc người đánh cá, đi biển, buôn bán đường biển.

Trên lục địa, là các dân tộc thuộc các ngữ hệ Môn – Khơme, Thái tộc, Miêu, Tạng - Miến…có thể từ một cội nguồn chung nào đó từ thuở xa xưa mà dần hình thành ra nhiều nhóm khác nhau. Địa hình phân cắt giữa lục địa và hải đảo, và trên lục địa do các dòng sông lớn và dãy núi lớn gây ra đã góp phần hết sức quan trọng trong sự phân chia các bộ tộc người này.

Nét chung dễ nhận thấy ở cư dân Đông Nam Á lục địa là: Trồng cấy lúa nước, chọi trâu, chọi gà, ăn trầu nhuộm răng, xăm mình, đi thuyền rồng, dùng cồng chiêng đồng, trống đồng, thờ rồng…Đây cũng là nét chung của các tộc người mà thư tịch Hán gọi là Bách Việt sống từ lưu vực Dương Tử đến vùng núi Hải Vân.

Địa hình chia cắt bởi những dòng sông, dãy núi lớn là đặc điểm vô cùng quan trọng để phân biệt Đông Nam Á cổ đại với Trung Nguyên – lưu vực sông Hoàng Hà và Ấn Độ. Chính vì thế mà nó không đạt tới một sự thống nhất chính trị, không hình thành ra được một trung tâm quyền lực nào đủ sức chi phối cả một khu vực rộng lớn như thế. Ở Đông Nam Á cổ đại không hình thành ra được một trung tâm quyền lực duy nhất của khu vực, các quốc gia và dân tộc ở đây sống trong trạng thái rời rạc, ai biết phận nấy, chỉ có trời chung. Dân chúng thì lo làm ăn, sinh sống, trồng cấy…lúc rỗi rãi thì bận hội hè, đình đám, thả chim, đua thuyền…Bởi thế, Tần – Hán mới có thể xóa sổ hẳn sự tồn tại của phần lớn các nhà nước Bách Việt.

Trong khi Khổng giáo phương Bắc đề cao vai trò của quân vương, nhà nước, tập trung quyền lực của nhà vua thì phương Nam khoái trở về với tự nhiên, vô vi, không làm gì cả mà cứ như là làm và quay lại tình trạng nước nhỏ, dân ít, người nước này nghe được tiếng gà gáy, chó sủa của nước kia. Nước bé tí tẹo thế chỉ là bộ lạc, làm sao đủ sức chống nổi quân hùng tướng mạnh của nhà Tần, nhà Hán.

PGS.TS. Đặng Việt Bích

Như vậy, tôi đã trích dẫn đầy đủ và không sót một chữ nào trong bài viết của phó giáo sư tiến sĩ Đặng Ngọc Bích.

Bây giờ chúng ta xem lại từng đoạn một và tôi sẽ chứng minh sai lầm của ông ta như thế nào?

Trước Công lịch gương mặt văn hóa người Việt ra sao?! Về giai đoạn này các nhà nghiên cứu, đặc biệt các nhà nghiên cứu ở Viện Đông Nam Á – Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn ưa thích đưa ra khái niệm một cơ tầng Đông Nam Á cổ đại.

Đoạn in đậm này là phần đặt vấn đề của bài viết. Trong nghiên cứu khoa học, nhà nghiên cứu có quyền đặt vấn đề về nguyên nhân hiên tượng để định hướng nghiên cứu. Nói rộng ra, con người - ở bất cứ đẳng cấp nào và mọi hoàn cảnh - cũng có thể đặt vấn đề lý giải bất cứ một hiện tượng nào mà họ quan tâm. Do đó, ngay từ cách đặt vấn đề sẽ là một yếu tố rất quan trọng dẫn đến sự định hướng nghiên cứu, hoặc giải quyết nguyên nhân hiện tượng. Thí dụ: Một cái ví/bóp bị mất. Vấn đề đặt ra: Đánh rơi, bị mất cắp....Trở lại cách đặt v/d trong nghiên cứu khoa học - Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu nó sẽ xác định vấn đề đặt ra là sai, nếu mọi yếu tố liên quan mâu thuẫn với vấn đề đặt ra, hoặc mâu thuẫn ngay trong nội dung của những luận cứ; hoặc nó sẽ có khả năng đúng, nếu nó hợp lý trong việc giải thích hầu hết những hiện tượng liên quan đến nó. Bởi vậy, ngay từ cách đặt vấn đề sẽ là một yếu tố xác định định hướng nghiên cứu đi tìm sự thật. Sự quyết định đúng hay sai trong giải quyết hiện tượng mà vấn đề được đặt ra còn tùy thuộc vào những yếu tố khác như: Khả năng tư duy logic, sự tổng hợp và khối lượng kiến thức...vv...Ở đây, ngay cách đặt vấn đề qua lời giới thiệu trên đã không hoàn chỉnh.

Đây - nó không hoàn chỉnh ở chỗ này:

Trước Công lịch gương mặt văn hóa người Việt ra sao?!

Phó giáo sư tiến sĩ Đặng Ngọc Bích đã đưa ra một cái mốc thời gian mà điểm xuất phát là năm 0 CN và kéo dài vô tận về quá khứ. Chính vì sự khiếm khuyết do không có giới hạn thời gian, nên những lập luận của ông khiến cho nó không xác định được không gian hoạt động của cái mà ông ta gọi là: "một cơ tầng Đông Nam Á cổ đại" liên quan đến nội dung bài viết của ông khi liên hệ với "gương mặt văn hóa người Việt" trong cái thời gian vô tận đó.

Bởi vì khi xác định "gương mặt văn hóa người Việt", - liên quan đến cội nguồn dân tộc Việt thì hoàn toàn có mốc và giới hạn thời gian, cho dù anh theo quan điểm nào. Thí dự theo Thiên Sứ thì nước Văn Lang bắt đầu từ 2879 BC đến hết 258 BC, với không gian là Nam Dương Tử; còn theo quan điểm phủ nhận nền văn hóa sử truyền thống thì "Khoảng thế kỷ thứ VII BC và kết thúc vào 179 BC"....đại loại vậy. Đằng này Phó giáo sư tiến sĩ Đặng Ngọc Bích phóng đền tận.....giây "0" trước Bicbang. Như vậy với cách đặt vần đề này thì về mặt thời gian phải nói là khiếm khuyết, khiếm khuyết. Khiếm khuyết nghiêm trọng. Nên cả bài viết của ông ta phải nói là - theo ngôn ngữ miệt vườn Nam bộ - rất "phong long".

Còn tiếp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ,

Thì có thể nói rằng: Anh đã sai lầm ngay từ cách đặt vấn đề: do đâu mà thời dựng nước của ông cha ta chỉ là những tộc người lạc hậu mới thoát khỏi đời sống "hang đá" .

Có lẽ ở đoạn trên nên thêm một chút để hiểu đủ ý tôi hơn : "do đâu mà, theo họ, thời dựng nước của ông cha ta chỉ là những tộc người lạc hậu mới thoát khỏi đời sống "hang đá"

Như tôi đã trình bày với anh, ngoài việc xác định qua các di chỉ khảo cổ, thì việc xác định hệ thống ngôn ngữ Việt cổ qua quá trình diễn tiến và hình thành dân tộc Việt trong cổ sử là một hướng mà nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng (như ông Đặng Việt Bích). Chuỗi logic của họ, theo tôi, là : với những nhóm tộc người cho đến tận giữa thế kỷ 20 vẫn còn duy trì lối sống trong hang đá, hay sinh hoạt thuần nông với gen di truyền của bàn chân "giao chỉ" (tôi có post bài ở trên), ... mà đáng nói là chính những tộc người đó lại có hệ ngôn ngữ gần nhất vơi người Kinh, tức là họ vẫn còn giữ những ngôn ngữ cổ thuần Việt, khác với người Kinh ngày nay có quá nhiều yếu tố Hán Việt, ... Như vậy, điều dễ hiểu là hệ quả suy ngược trở lại : vào thời dựng nước, tức chưa có sự tiếp xúc ngôn ngữ với Hán Hoa, tổ tiên chúng ta chỉ là những tộc người lạc hậu thuần nông mang nặng bản sắc ngôn ngữ bản địa với những người dân "ở trần đóng khố" như anh vẫn hay nói đến đấy.

Về hệ thống các bài nghiên cứu giải mã của ông Đặng Việt Bích, tôi vẫn chưa post hết, nhưng anh cứ phân tích cái sai từng bài, tôi sẽ tiếp tục đưa lên sau vậy.

Share this post


Link to post
Share on other sites