Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. BÀI THAM KHẢO QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC VỀ PHONG THỦY ---------------------- Trung Quốc: Tranh cãi về lớp phong thủy kiến trúc Những ngày gần đây, 2 máy điện thoại tại văn phòng làm việc của ông Từ Thiệu Sam - Phó Tổng thư ký Trung tâm Văn hóa kiến trúc Trung Quốc - hầu như không lúc nào ngớt réo chuông. Họ là những người gọi đến đăng ký xin học lớp “Văn hoá phong thủy kiến trúc”. Văn phòng chiêu sinh lớp “Văn hoá phong thủy kiến trúc” gây tranh cãi Ông Từ than vãn: Sao họ không truy cập vào website của chúng tôi, từ sáng đến giờ chúng tôi đã phải trả lời tới 500 cú điện. Một số người sợ không ghi danh được đã gửi tiền đến trước. Chúng tôi quyết định mở thêm một địa điểm chiêu sinh nữa ở Bắc Kinh. Muốn học phải nộp 2 vạn tệ học phí Sự bận rộn của Từ Thiệu Sam bắt nguồn từ việc Trung tâm VHKT trực thuộc Bộ Xây dựng Trung Quốc gần đây ủy quyền cho Viện Nghiên cứu Dịch học thuộc ĐH Nam Kinh mở lớp về “Văn hóa phong thủy kiến trúc”, ai học xong và đạt yêu cầu sẽ được Trung tâm cấp Giấy hành nghề “Văn hóa phong thủy kiến trúc”. Ông Từ cho biết khoá học sẽ khai giảng vào ngày 1/10, kéo dài 10 ngày, chia làm 2 bậc: phổ cập và chuyên nghiệp. Chương trình học bao gồm: Dịch học (cơ sở triết học của phong thủy), Kiến trúc phong thủy học, Cổ thiên văn học (cơ sở thiên văn học của phong thủy), Phong thủy kiến trúc và môi trường, Phong thủy kiến trúc và quy hoạch kiến trúc. Thời gian học bậc phổ cập kéo dài một tuần, phải nộp lệ phí thi 5.800 tệ, phí nhận bằng 580 tệ (1 tệ tương đương gần 2.000 VND). Bậc chuyên nghiệp thì chưa xác định thời gian học, nhưng học phí tổng cộng tới 19.680 tệ (gần 40 triệu VND). Học viên: Có cả thầy bói dạo Trong khi đến văn phòng của ông Từ lấy tin, phóng viên phát hiện vấn đề được nhiều người quan tâm nhất là học viên vào học có cần có kiến thức cơ sở về Dịch học không? Ông Từ trả lời: “Có thì tốt, không có cũng không sao. Chúng tôi không từ chối bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực này”. Ông nói, hiện nay học viên ghi danh gồm 3 loại: người làm quy hoạch kiến trúc, người xem phong thủy và những người mong học để biết nghề xem phong thủy. Khi được hỏi “người xem phong thủy có gồm cả những người đi bói dạo ngoài phố không?” ông Từ đáp: “Đúng là gồm cả một số người đang hành nghề bói dạo. Nhưng nếu họ muốn học để nâng cao trình độ bản thân thì chúng tôi không từ chối. Là cơ quan đào tạo, chúng tôi không thể cự tuyệt học sinh”. Đại học Nam Kinh: Chúng tôi không dính dáng đến lớp học này! Tin Đại học Nam Kinh sắp mở lớp “Văn hóa phong thủy kiến trúc” nhanh chóng lan đi đã gây nên tranh cãi sôi nổi. Phần lớn ý kiến đều cho rằng, cái gọi là “đào tạo đại sư phong thủy” chỉ là giương chiêu bài để hốt tiền, còn thực chất là mê tín kiểu phong kiến. Trước những ý kiến phê phán gay gắt kiểu đó, Giáo sư Lý Hữu Thư tỏ ra rất khó chịu. Ông nói: “Phong thủy kiến trúc không thể coi là hoạt động mê tín. Đó là môn địa lý học cổ đại của Trung Quốc… Ai nói đó là mê tín phong kiến là không hiểu biết gì về phong thủy cả”. Ông còn nói, phong thủy là một loại thuật số Chu Dịch, một hình thái văn hóa đặc thù của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Chúng tôi giảng dạy là nhằm chuyển những nội dung khoa học, hợp lý thành kiến thức ứng dụng. Nếu qua quản lý hành nghề có thể dần dần biến các phong thủy sư hành nghề lén lút thành nghề có bằng cấp. Phía trường ĐH Nam Kinh thì kiên quyết bác bỏ thông tin nói nhà trường mở lớp “Văn hóa phong thủy kiến trúc”. Lớp học này cũng không liên quan gì đến khoa Triết, Giáo sư Lý Hữu Thư tham gia mở lớp này hoàn toàn với tư cách cá nhân, ông ta đã nghỉ hưu, không còn là giảng viên của khoa nữa. Trong phong thủy có được bao nhiêu phần khoa học? Bối Tân Danh - Đại sư phong thủy kiến trúc nổi tiếng thế giới - nói: “Phong thủy kiến trúc có tới mấy loại.Ví dụ nói chúng ta làm nhà phải “Bối sơn bàng thủy” (Tựa núi cạnh sông), đó cũng là phong thủy kiến trúc. Tôi cho rằng chúng ta nên tin vào nó, nhưng nếu quá đi một chút sẽ thành mê tín. Điều này thì tôi phản đối”. Giáo sư Tiến sỹ Thái Đạt Nông - Chủ nhiệm khoa Văn Bác ĐH Phúc Đán, người nổi tiếng trong nghề - cũng cho rằng không nên phóng đại liều lượng khoa học trong phong thủy kiến trúc. Ông cho rằng trong xã hội hiện đại, việc vận dụng phong thủy đã trở thành hành vi thương mại, điều này có liên quan đến tâm lý cầu may mắn tránh rủi ro của mọi người, ngày càng thông dụng. Trên thực tế, thuật phong thủy cổ đại đã bị thất truyền từ lâu. Cái gọi là phong thủy hiện nay khác biệt rất xa về mặt nội dung với thuật phong thủy cổ đại”. T.H (Theo Đại dương) Việt Báo (Theo Tien Phong) ------------------------------------------------------- Văn minh Lạc Việt. I - Cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nền văn minh Hoa Hạ đã được minh chứng không phải là cội nguồn Lý học Đông phương. Vậy thì phải có một nền văn minh, một xã hội là chủ nhân của nền văn minh này. Vì nó không thể từ trên trơì rơi xuống. Nền văn minh ấy đã được mình chứng rằng: Đó chính là nền văn minh Lạc Việt ở miền nam sông Dương Tử. Những di sản phi vật thể còn lại của nền văn minh này, nhưng tư liệu lịch sử, những bằng chứng khảo cổ đã minh chứng những dấu ấn của thuyết Âm Dương ngũ hành còn lại trong nền văn minh này và xác nhận chú quyền của nó. Lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về người Lạc Việt ở Nam Dương tử, sẽ chẳng có tác dụng gì, nếu nó vẫn ngớ ngẩn với nguyên si nội dung mà sách Hán chuyển tải đến ngay nay, theo kiểu "Thái Cực tức là Vô cực"...Nó sẽ chỉ là một thứ tranh chấp bản quyền ngớ ngẩn vì quyền lợi và thói hư danh của con người, như các vụ kiện xảy ra trên thế giới. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy... II - Nội dung thuyết Âm Dương Ngũ hành nhìn từ văn minh Lạc Việt. Nền văn minh Lạc Việt xác định khác hẳn về nguyên lý căn để của tất cả các phương pháp ứng dụng trong cổ thư chữ Hán. Đó là nguyên lý: "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt". Hậu Thiên Lạc Việt - Cửu cung Hà đồ Đây chính là chiếc chìa khóa mở ra tất cả những bí ẩn của nền văn minh Đông phương, một thời bí ẩn đến huyền vĩ. Nguyên lý này đã thay thế cho nguyên lý "Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư", mà văn bản chữ Hán miêu tả có nguồn gốc từ trên lưng con rủa ở sông Lạc Thủy.Từ nguyên lý căn để này, giải thích một cách hợp lý tất cả các vấn đề liên quan trong mọi phương pháp ứng dụng và điều quan trong hơn cả là nó đã thống nhất tất cả các phương pháp ứng dụng trong nguyên lý căn để này. Từ đó, nó xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một học thuyết nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hợp lý nội tại, tính quy luật và tính khách quan - ngay từ sự hình thành nên nó - và khả năng tiên tri. Hay nói cách khác: Nội dung thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến Lạc Việt với lịch sử trải gần 5000 năm, hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học hiện địa cho một lý thuyết khoa học. Trên cơ sở này chính là điều kiện để thống nhất tất cả những cái gọi là "trường phái " Phong Thủy trong các giai đoạn phát triển khác nhau được coi là xuất phát từ văn minh Hán, trở về với cội nguồn đích thực của nó là một khoa ứng dụng nổi tiếng của nền văn minh Đông phương - Tôi gọi tên là Phong Thủy Lạc Việt để xác định lịch sử của nó và phân biệt với khái niệm phong thủy vốn lưu truyền sai lệch trong các bản văn chữ Hán. III - Khả năng phản ánh thực tại khách quan: Trân cơ sở nguyên lý căn để được xác định từ văn minh Lạc Việt - Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" - Thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ rất rõ nét một thực tại khách quan làm nền nền tảng nhận thức tạo ra nó. Đó chính là tri thức thiên văn cổ Đông phương và sự tương tác có tính quy luật của vũ trụ. III - 1: Nó minh chứng rằng: Tử Vi chính là các hiệu ứng tương tác có qui luật từ các ngôi sao trên Thái Dương Hệ và trên bầu trời Thái Dương hệ So sánh tính chất Ngũ hành của Hà đồ với Thiên Bàn 12 cung Tử Vi (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...htbqlv-hdcc.jpg) (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...ien1112/64h.jpg) III - 2: So sánh Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt với mô hình qui ước tương quan trái Đất và bầu trời Hoàng Đạo. (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...en1112/164h.jpg) III - 3: So sánh vận động quĩ đạo chuyển động đảo biểu kiến khi quan sát các vì sao từ trái Đất với qui ước biểu kiến trong cách tính đại hạn của Tử Vi. (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...en1112/dbk1.jpg) (IMG:http://s286.photobucket.com/albums/ll114/t...112/th_dbk2.jpg) III - 4: Giải thích mối liên hệ của cửu tinh trên Thái Dương Hệ với Địa cầu (Được đặt tên theo Ngũ Hành - Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ...) (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...ien1112/284.jpg) vv......vv....... IV - Kết luận: Có thể nói rằng: Kể từ khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ là một học thuyết khoa học nhất quán, hoàn chỉnh có khả năng miêu tả mọi điều trong vũ trụ và cuộc sống quanh ta bằng những khái niệm của nó. Học thuyết này giải thích từ sự hình thành vũ trụ cho đến mọi vần đề liên quan đến con người, từ những hạt vật chất đến các thiên hà khổng lồ có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Đây chính là tiêu chí của một lý thuyết thống nhất khoa học mà nhân loại đang mơ ước. Tri thức khoa học hiện đại đang tiếp tục tiến về phía trước. Nhưng lý thuyết khoa học mới nhất bây giờ và trong tương lai, có thể đúng và có thể sai. Nhưng tất cả những tri thức khoa học được thừa nhận là phản ánh chân lý khách quan, đều có thể tìm thấy những điểm tương đồng của nó trong thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Để kết luận bài viết này trên diễn đàn, tôi xin được nhắc lại câu nói nổi tiếng của SW Hawking: Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất, thì chính nó quyết định còn người có tìm ra nó hay không? Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.(*). -------------------------- * Chi tiết về những minh chứng này. Xin xem các sách đã xuất bản và các tiểu luận của Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn và trên trang chủ của diễn đàn ----------------------------------------------------------- Bác Liêm Trinh thân mến.Người xưa từ những nhận thức trực quan sinh động - trải qua bao thăng trầm và sự tiến hóa mới đạt đến Lý thuyết xuyên suốt - Lý thuyết thống nhất. Chỉ cần nhìn lại 10. 000 năm tiến hóa của nhân loại hiện đại với lịch sử nhận thức được như hiện nay thì chúng ta thấy rằng: Để có được một cái kiến thức khoa học hiện đại như hiên nay - vẫn còn đang mơ hồ về việc có hay không một lý thuyết thống nhất - thì nhân loại đã trải qua bao thăng trầm, vinh quang và tủi nhục. Như vậy, để có một lý thuyết thống nhất, còn gian nan như thế nào? Nếu chúng ta lặp lại con đường mà cổ nhân đã đi qua để xác định thì không khác gì chúng ta bước lại chặng đường đầy gian nan trải hàng vạn năm tiến hóa. Chúng ta có con đường tắt đi nhanh hơn nhiều. Về nguyên tắc thì một lý thuyết thống nhất sẽ quan niệm vũ trụ bản chất không có thời gian, không gian và lượng số. Tất yếu không có quá khứ, vị lại và hiện tại. Chúng ta có thể xác định chuyện này qua việc đi tắt. Nó tương tự như chuyện khoa học viễn tưởng về cỗ máy xuyên không gian và thời gian vậy. Nếu cái thế giới này sẵn sàng bỏ ra hàng trăm tỷ Euro để đi tìm Hạt của Chúa - mà Thiên Sứ tôi đã xác định thất bại - thì nó chỉ cần nhín ra 1 tỷ Euro để phục hồi và hoàn thiện "một lý thuyết từ một nền văn minh cổ xưa sẽ quay lại với nhân loại" (Lời của nhà tiên tri Vanga). Lý thuyết ấy sẽ quyết định tương lai của nhân loại , khi SW Hawking phát biểu rằng: Nếu quả thật có một lý thuyết thống nhất thì nó sẽ quyết định con người tìm ra nó hay không?(*) ------------------------------ *Chú thích: Để phục hồi và hoàn thiện thuyết Âm Dương Ngũ hành: Điều kiện tiên quyết là xác định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Không thừa nhận điều này thì chính lý thuyết ấy quyết định rằng: Con người sẽ không bao giờ tìm ra một Lý thuyết thống nhất!
  2. - Lịch sử hình thành học thuyết. Một học thuyết dù theo bất cứ quan niệm nào và nhân danh bất cứ cái gì, dù đúng, dù sai thì cũng phải có một lịch sử hình thành nên nó. Xuất phát bởi nền tảng tri thức của xã hội mà nó ra đời. Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch được coi là sản phẩm của văn minh Hán. Cổ thư truyền lại từ hơn 2000 năm về những v/d này viết bằng chữ Hán. Người Hán có tác giả hẳn hoi cho từng tác phẩm theo dòng lịch sử mà chúng ta co01 thể thống klê lần lượt theo thuận tự thời gian như sau: - 4000 năm BC: Vua Phục Hy thấy con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng hà, trên mình có những xoáy bèn nghĩ ra Hà Đồ. Căn cứ trên Hà Đồ làm ra Tiên Thiên bát quái. Nhưng, những điều này chỉ được lịch sử ghi nhận sự kiện va 2không có văn bản nào cho biết rõ ký hiệu Tiên Thiên bát quái và Hà Đồ có cấu trúc như thế nào. Những đồ hình này chỉ thực sự xuất hiện vào đời Tống sau đó 5000 năm. - 2300 năm BC: Vua Đại Vũ thấy con rủa thần hiện ra trên sông Lạc Thủy có những chấm trên đầu, chân, mai bèn nghĩ ra Lạc Thư và viết Hồng Phạm cửu trù. Trong Hồng Phạm cửu trù nói tới Ngũ Hành. Hồng phạm cửu trù được nhắc tới trong thiên Vũ Cống của kinh Thư và đồ hình Lạc thư như thế nào cũng không rõ. Nó cũng chỉ được công bố vào đời Tống, tức là hơn 3000 năm sau khi cổ thư nhắc tới sự kiện này. - 1100 năm BC: Vua Văn Vương bị giam trong ngục Dữu Lý 7 năm, dựa vào Lạc Thư, đổi sắp lại Tiên Thiên Bát quái thành Hậu Thiên Văn Vương và sau đó cùng con trai là Chu Công Đán viết Soán Từ, Hào từ cho 64 quẻ Chu Dịch. Đồ hình Hậu Thiên Bát quái văn vương, cũng chỉ được công bố vào đời Tống sau đó 2000 năm. - 500 năm BC: Khổng Tử lúc về già, viết thập Dực, Hệ từ thương, Hạ truyện và thuyết quái truyện - hoàn thành bộ Chu Dịch truyền đến ngày nay. Đến đây, bộ Kinh Dịch theo bản văn chữ Hán với nhận xét của các nhà nghiên cứu coi là căn bản hòan thành. Khái niệm "Âm Dương" - "Thái cực sinh Lưỡng nghi" xuất hiện trong được coi là của Khổng Tử viết. - 300 năm BC: Xuất hiện phái Âm Dương gia xác định và phân loại vạn vật theo Ngũ hành. Tuy gọi là Âm Dương gia , nhưng trước tác của phải này không thấy nói đến Âm Dương. Các nhà nghiên cứu Hán hiện đại cho rằng thuyết Âm Duơng và Ngũ hành hòa nhập vào đời Hán. - 300 năm AC: Xuất hiện những tác phẩm về Phong Thủy - cụ thể là Quách Phác đời Tấn được coi tác giả của cuốn Táng Thư. - 500 năm AC: Xuất hiện tác phẩm Dương trạch Tam yếu được coi là của Triệu Cửu Phong. - 1000 năm AC: Xuất hiện các đồ hình - Hà Đồ, Lạc Thư, Hậu thiên, Tiên thiên bát quái - do các đạo gia như Thiệu Khang Tiết, Trần Đoàn Lão Tổ công bố và họ vẫn thừa nhận tác giả những đồ hình này thuộc về Phục Hy, Đại Vũ và Chu Văn Vương như trên. Trần Đoàn Lão tổ còn được coi là tác giả của môn Tử Vi , Thiệu Khang Tiết còn được coi là tác giả của Mai Hoa Dịch số. Trong suốt hơn 2000 năm, việc nghiên cứu, tìm hiểu Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành được các nhà nghiên cứu Hán nho - tiềm hiểu từ đó đến nay - bắt đầu từ: Mao Diên Thọ, Kinh Phòng, Mạnh Hỷ - Đời Hán...vv..mỗi đời đều để lại những triết gia nổi tiếng về thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nhiều thành tựu nhất là đời Tống nổi tiếng với Chu Hy với thuyết Vô cực và đến bây giờ các nhà nghiên cứu vẫn nhắc đến như là một chân lý: "Thái cực bản Vô cực dã....". Kính thưa quí vị quan tâm Quí vị có thể xem toàn bộ phần minh chứng tính không nhất quán, bất hợp lý của lịch sử kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành theo cổ thư chữ Hán theo đường link dưới đây: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/News/03/...han-I-7/51/537/ Nhưng trong buổi thuyết trình tôi đã tóm tắt như sau: Sự nghịch lý về thứ tự thời gian trong thuận tự của thuyếtt Âm Dương Ngũ hành theo cổ thư chữ hán: - Ngũ hành - là hệ thống phân loại vật chất trong vũ trụ được coi là do vua Đại Vũ phát hiện, xuất hiện trước Âm Dương được coi là do Khổng từ phát hiện, sau đó 1500 năm. Trong khi đó, Âm Dương phải có trước - "Thái cực sinh lưỡng nghi" - ngay từ khởi nguyên của vũ trụ, miêu tà thuộc tính căn bản của vạn vật. Bàng tóm lược lịch sử kinh dịch và những vấn đề liên quan Để bạn đọc dễ dàng theo dõi những vấn đề đã trình bày ở Phần I, xin đươc tóm lược trong bảng sau về lịch sử kinh Dịch và những vấn đề liên quan. Qua phần tóm lược này, bạn đọc sẽ nhận thấy giữa thời gian và không gian trong nội dung cổ thư chữ Hán với thực tế, hoặc theo cái nhìn của nhà nghiên cứu thì sự chênh lệch phải tính đến đơn vị bằng thiên niên kỷ. Chỉ có giai đoạn từ Chu Văn Vương đến Đổng Trọng Thư tương đối ổn định. Nhưng về mặt nội dung, vấn đề được đặt ra trong giai đoạn này thì lại chứa đựng những mâu thuẫn không thể lý giải. Những mâu thuẫn về mặt nội dung trong sự phát triển của kinh Dịch từ Chu Văn Vương đến Trâu Diễn hoặc Đổng Trọng Thư xin được trình bày rõ hơn ở phần II tiếp theo đây. * Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Kính thưa quí vị quan tâm. Riêng cuốn Hoàng đế Nội Kinh tố vấn - được coi là xuất hiện từ thế kỷ thứ II BC đến thế kỷ I AC có nội dung bản văn miêu tả Hoàng Đế đối thoại với Kỳ Bá và Quỉ Du khu từ 5000 năm BC và hoàn toàn dùng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành - được coi là phương pháp luận căn bản của Đông Y thì không thể đặt vào bất kỳ thời kỳ lịch sử nào trong văn minh Trung Hoa. Kết luận: Bất cứ một lý thuyết nào cũng phải được hình thành từ nhận thức trực quan sinh động đến tư duy trừu tương và tổng hợp thành một lý thuyết. Tất nhiên nó phải có một nền tảng tri thức xã hội hình thành nên lý thuyết đó với những khái niệm được phổ biến trong nền văn minh tạo ra nó. Nhưng hàng ngàn năm tiếp theo đã trôi qua, Chính nền văn minh Họa Hạ cũng không lý giải được những khái niệm của một lý thuyết mà được coi là của họ . Khi văn hoá Đông Tây hội nhập, thì ngay cả nền văn minh hiện đại của toàn nhân loại phối hợp với văn minh Hoa hạ - được cả thế giới coi là cội nguồn văn minh Đông Phương - đã bốn lần tổ chức hội thảo về Kinh Dịch với sự bảo trợ của cơ quan văn hóa Liên Hợp Quốc ở Bắc kinh - cũng không thể lý giải nổi những bí ẩn huyền vĩ của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đó là những lý do mà nền văn minh Hoa Hạ không phải cội nguồn của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về văn minh Hoa Hạ. Muốn lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về văn minh Hoa Hạ thì phải viết lại toàn bộ xuất xứ theo thuận tự nói trên, mà chính bản văn chữ Hán ghi nhận. Nhưng như vậy thì tức là tự phủ nhận toàn bộ lịch sử hình thành Thuyết âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán. Còn tiếp II - Nội dung học thuyết . Một học thuyết phải có một nội dung hợp lý với chính nó, cho dù chỉ là một sự hợp lý hình thức với những giả qui luật. Kính thưa quí vị quan tâm Tôi đã trình bày với quí vị về tính mâu tuẫn trong lịch sử hình thành Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán. Chỉ cần một điều kiện này, cũng đủ chứng tỏ nền văn minh Họa Hạ không thể là chủ nhân của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Khi những thuận tự xuất hiện trong lịch sử thời gian của nó hoàn toàn bất hợp lý theo kiểu: "Sinh con rồi mới sinh cha. Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông". Nhưng có thể nói rằng: Đó cũng chỉ là một yếu tố. Yếu tố thứ hai không kém phần quan trong và xác minh một cách rõ nét nhất rằng: Nền văn minh Hoa Hạ không thể là chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch chính là nội dung của nó. Mâu thuẫn trong nội dung của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán thể hiện ở những vấn đề quan yếu sau đây: 1 - Trên thực tế, một học thuyết xuất hiện phải trên cơ sở nền tảng tri thức phổ biến của xã hội đó để có thể tiếp tục những khái niệm của nó. Nhưng trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch lưu truyền trong cổ thư chữ Hán lại không thỏa mãn điều kiện này. Ngay bây giờ, chính Thiệu Vĩ Hoa - được coi là truyền nhân đời thứ 20 của Thiệu Khang Tiết - một danh gia đời Tống công bố Mai Hoa Dịch số - cũng không biết căn cứ vào đâu để có bảng Lục Thập Hoa giáp. Ông ta đã thừa nhận điều này trong các tác phẩm của mình. Đồng thời xác định rằng: Đã nhiều thế kỷ, những nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng không thể hiểu được vì sao có bảng Lục thập hoa giáp. Thật là vô lý hết sức, khi mà cả một nền văn minh tự coi là cội nguồn của thuyếtt Âm Dương Ngũ hành mà lại không thể biết được tổ tiên của họ căn cứ vào đâu để có chính những sản phẩm ứng dụng truyền lại. Điều này tự thân nó xác định rằng: Xã hội Trung Hoa cổ không phải là nền tảng tri thức để hình thành nên học thuyết ADNH và Kinh Dịch. Đấy cũng chỉ là một thí dụ. Còn rất nhiều những khái niệm mơ hồ và mâu thuẫn ngay trong nội dung của học thuyết này mà tôi tiếp tục trình bày dưới đây: 2- Mâu thuẫn ngay từ nguyên lý căn để của học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. 2 - 1: Hà Đồ và Tiên thiên Bát quái. Đồ hình dưới đây miêu tả cửu cung Hà Đồ phối với Tiên Thiên Bát quái, được cho là của vua Phục Hi phát hiện trên lưng con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và nghĩ ra Tiên Thiên Bát quái phối với Hà Đồ. Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái I (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...ien1112/52h.jpg) Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống – chúng ta nhận thấy: * Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa/ Chính Nam trên Hà đồ. Như vậy Hỏa vị khắc Kim quái. * Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 2 là Âm Hỏa/ Đông Nam trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa vị khắc Kim quái. * Ly (Hỏa) nằm ở độ số 3 Dương Mộc/ Chính Đông của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị sinh Hỏa quái. * Chấn (Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị hòa Mộc quái. * Khôn (Thổ) nằm ở độ số 1 Dương Thủy/ Chính Bắc của Hà đồ. Như vậy, Thổ quái khắc Thủy vị. * Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 6 Âm Thủy/ Tây Bắc của Hà đồ. Trường hợp này: Thổ quái khắc Thủy vị. * Khảm (Thủy) nằm ở độ số 9 Dương Kim/ Chính Tây của Hà đồ. Trường hợp này Kim vị sinh Thủy quái. * Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim/ Tây Nam của Hà đồ. Trường hợp này, Kim vị khắc Mộc quái. Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ. Có người dẫn sách khác cho rằng vị trí sắp xếp trên Càn - nằm ở phương Nam là không chính xác mà Càn nằm ở vị trí chính Bắc, Khôn nằm ở vị trí chính Nam trên Hà đồ. Tương quan các vị trí của các quái trong Bát quái Tiên thiên không thay đổi. Chúng tôi đã sắp xếp theo vị trí được đặt ra ở trên và thể hiện dưới đồ hình sau đây. Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái II (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...n1112/TT-HD.jpg) Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống. * Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 1 Dương Thủy / Chính Bắc, * Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 6 là Âm Thủy/ Tây Bắc trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Kim quái sinh Thủy vị * Ly (Hỏa) nằm ở độ số 9 Dương Kim / Chính Tây của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa quái khắc Kim vị. * Chấn (Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim / Tây Nam của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Kim vị khắc Mộc quái. * Khôn (Thổ) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa / Chính Nam của Hà đồ. * Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 2 Âm Hỏa / Đông Nam của Hà đồ. Trường hợp này: Hỏa vị sinh Thổ quái. * Khảm (Thủy) nằm ở độ số 3 Dương Mộc / Chính Đông của Hà đồ. Trường hợp này Thủy quái sinh Mộc vị. * Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Trường hợp này, Mộc quái tương hòa Mộc vị. Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ đã được thay đổi như trên. Trên thực tế, với tương quan của đồ hình Tiên thiên bát quái thì dù bạn đọc có xoay như thế nào cũng không thể nào tìm được sự tương thích giữa quái vị và phương vị trên cơ sở Ngũ hành của Hà đồ và Ngũ hành của bát quái. Đây chính là điều mà học giả Nguyễn Hiến Lê đã phải thốt lên: Nội dung trích dẫnNhất là so sánh những hình đó với hình Bát quái thì dù giàu trí tưởng tượng tới mấy cũng không thể bảo rằng Bát quái phỏng theo hai đồ hình đó được”. (Kinh Dịch - Đạo của người quân tử) Để tiếp tục tìm sự bí ẩn qua câu hỏi này, chúng ta tiếp tục quán xét sự tương thích theo cổ thư chữ Hán là: “Hậu thiên bát quái bản Lạc thư dã” (Đồ hình Hậu thiên bát quái xuất phát từ với Lạc thư Chu Hy). Xin quí vị quan tâm xem hình dưới đây: Đồ hình Cửu cung Lạc thư (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...en1112/ltcc.jpg) Hậu Thiên Bát quái Văn Vương (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...ien1112/56h.jpg) Hậu thiên bát quái Văn Vương liên hệ Lạc thư (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...2/htbq-ltcc.jpg) Như vậy, với ngay cả Hậu thiên bát quái vốn là một cơ sở của những phương pháp ứng dụng bao trùm trên mọi lĩnh vực cũng không hề có sự tương thích với Lạc thư. Đây chính là nguyên nhân để học giả uyên bác Nguyễn Hiến Lê cho rằng: Nội dung trích dẫnNhất là so sánh những hình đó với hình Bát quái thì dù giàu trí tưởng tượng tới mấy cũng không thể bảo rằng Bát quái phỏng theo hai đồ hình đó được”. (Kinh Dịch - Đạo của người quân tử) Chính vì tính bất hợp lý của sự liên hệ giữa Tiên thiên với Hà đồ và Hậu thiên với Lạc thư – được lưu truyền trong cổ thư chữ Hán từ hàng ngàn năm nay – đồng thời với sự xuất hiện muộn màng của những đồ hình này – sau hơn 1000 năm – tính từ thời Hán, nên đã tạo cơ sở cho những luận điểm sai lầm là: 1) Âm Dương trong Kinh Dịch không liên quan gì đến Ngũ hành. 2) Âm Dương Ngũ hành là của người Việt và Bát quái là của người Hán. Hai học thuyết này hoà nhập vào thời Hán. Những sai lầm của luận điểm này vì những nhà nghiên cứu đã không xuất phát từ một tiêu chí và phương pháp luận khoa học. Họ chỉ nhìn thấy một cách trực quan từ những nội dung trong bản văn chữ Hán và không biết rằng cổ thư chữ Hán không phải là những căn bản hoàn chỉnh về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chính từ những sai lầm từ nguyên lý căn để ngay trong nội dung của nó, khiến cho dù có sự cố gắng trải hơn 2000 năm, người Hán và cả thế giới này vẫn không thể tìm ra những bí ẩn của nền văn minh Đông Phương. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. III - Sự phản ánh một thực tại khách quan mà học thuyết đó tổng hợp. Và nó phải giải thích một cách hợp lý tất cả những vấn đề liên quan có tính nhất quán, hoàn chỉnh. Với một học thuyết khoa học thì còn cần tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Một học thuyết ra đời phải xuất phát từ một thực tại khách quan trong quá trình tiến hóa và phát triển của nhận thức - Từ trực quạn sinh động - nhận thức thực tại - đến tư duy trừu tượng - khái quát thực tại và sự tổng hợp những nhận thức đó tiến đến hình thành một học thuyết giải thích các hiện tượng nhận thức được. Dù đó là học thuyết gì, nhân danh tôn giáo, tâm linh, sự sai lầm hay đúng đăn, đúng một phần hay toàn bộ thì nó vẫn phải có một hiện thực để phản ánh mà co người nhận thức được. Thí dụ như cách giải thích theo tôn giáo cho các học thuyết tôn giáo: Giải thích từ sự hình thành vũ trụ - do ý muốn của Thượng Đế, cho đến sự vận động của các thiên hà, đến mọi hiện tượng ...đều do ý muốn của Thượng đế. Thuyết tôn giáo này giải thích thực tại khách quan mà con người nhận thức được. Thuyết tôn giáo này có tính hệ thống, tính nhất quán và nó giải thích một cách hợp lý trên cơ sở phương pháp luận của nó. Nhưng nó không mang tính khoa học vì thiếu tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Chẳng ai đoán được Thương Đế muốn cái gì và ý muốn của Thượng Đế thì không tuân thu theo quy luật nào. Nhưng, trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành thì chúng ta không thể lý giải được chúng phản ánh một thực tại nào làm nên khả năng tiên tri của Dịch và các bộ môn tiên tri. Nhưng khái niệm rất mù mờ, Quẻ Càn vừa là trời, vừa là cha, vừa là con ốc, vừa là con ba ba....vv....Hoặc oái oăm hơn - Trong Phong Thủy thì Khôn lại tượng cho người đàn ông chứ không phải đàn bà, mẹ...vv...như trong Dịch học. Vậy bản chất của chúng là gì? Hoặc Cấn là núi, Đoài là đầm ..không lẽ trước khi vũ trụ hình thành đã có núi, có đầm? Đây cũng là thắc mắc của các nhà nghiên cứu Dịch ở miền Nam trước 1975. Hay nói chính xác hơn, người ta không thể hiểu được vì sao lại có mối liên hệ với các thực tại trên với nội dung các quẻ được miêu tả trong các bản văn chữ Hán. Nhưng các nhà khoa học hàng đầu lại nhận thấy mối tương quan giữa tri thức khoa học hiện đại với những giá trị minh triết Đông phương. Họ đều nhận thấy tính quy luật, tính khách quan và những cấu trúc mang tính hệ thống trong các phương pháp ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Còn khả năng tiên tri thì cực kỳ huyền vĩ. Có thể nói rằng: Không có một lý thuyết khoa học hiện đại nhất được vinh danh trong thời đại hiện nay có thể tạo ra những phương pháp tiên tri như vậy. Tuy nhiên, có thể nói rằng: Mặc dù trong các bản văn chữ Hán, thiếu hẳn tính hợp lý cho việc giải thích các vấn đề liên quan, thiếu tính nhất quán, tính hoàn chỉnh, nhưng đầy đủ tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri, thể hiện trong các phương pháp ứng dụng. Hay nói cách khác: Đây chính là hệ quả và những yếu tố phù hợp với tiêu chí khoa học cho một học thuyết khoa học. Cả thế giới đã chú ý đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã bốn lần tổ chức những cuộc hội thảo với qui mô hoàng tráng tại Bắc kinh - Thủ đô của nền văn minh Hoa Hạ - nới được cả thế giới cho rằng là cội nguồn của nền văn minh Đông phương. Nhưng đã thất bại. Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn sừng sững thách đố tri thức nhân loại. Người ta không thể lần ra manh mối những thực tại nào được phản ánh trong các khái niệm liên quan từ các bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Kết luận: Như vậy, xét trên ba tiêu chí cho một lý thuyết khoa học là: Tính lịch sử, tính nhất quán và hợp lý trong nội dung, tính phản ánh thực tại khách quan đều không thể thỏa mãn cho việc Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch có cội nguồn từ văn minh Hán. Cho đến ngày nay, khi quí vị đang đọc những dòng này thì toàn bộ những di sản của thuyết Âm Dương Ngũ hành có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán, vẫn dậm chân tại chỗ và không hề phát triển. Ngay tại Trung Quốc, nơi được coi là cội nguồn Lý học Đông phương thì chính các học giả Trung Quốc cũng lên tiếng đòi dep bỏ Đông y, coi Phong thủy chỉ là sự bịp bợm. Sự bế tắc cả hàng ngàn năm trong bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyếtt Âm Dương Ngũ hành là một minh chứng xác đáng tính mơ hồ và không có đủ khả năng phản ánh một thực tại khách quan trong các bản văn chữ Hán. Nên nó đã bị phủ nhận bởi chính người Trung Quốc và ngay cả những học giả uyên bác, cũng cho rằng: Lý học Đông phương chỉ truyền lại bởi trực giác và kinh nghiệm. Nhưng mọi vấn đề trở nên khác hẳn, khi nền văn minh Lạc Việt trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử - được minh xác: Chính là cội nguồn của Lý học Đông phương và mọi yếu tố liên quan đến những tiêu chí khoa học hiện đại được sáng tỏ, đồng thời chỉ thẳng đến một lý thuyết thống nhất vũ trụ - Lý thuyết xuyên suốt - mà con người đang mơ ước. Đây cũng chính là một minh chứng sắc sảo: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và biên giới Văn Lang một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương tử: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn Đông giáp Đông Hải và Tây giáp Ba Thục. Danh xưng vắn hiến của dân tộc Việt chính bởi căn cứ vào một học thuyết xuyên suốt giải thích từ sự hình thành vũ trụ, cho đến mọi vấn đề liên quan đến con người, từ những thiên hà khổng lồ đến các hạt vật chất nhỏ nhất. Đó là những bí ẩn vũ trụ đã được phát hiện từ một nền văn minh vào thời Hoàng Kim của loài người - Văn minh Atlantic, mà dân tộc Việt chính là hậu duệ còn sống sót của nền văn minh này, còn giữ lại trong nền văn hiến 5000 năm những bí ẩn huyền vĩ đó. Có thể coi như đây là một giả thuyết và được minh chứng sau đây. Còn tiếp ------------------------------------------------------------------------------ Văn minh Lạc Việt. I - Cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nền văn minh Hoa Hạ đã được minh chứng không phải là cội nguồn Lý học Đông phương. Vậy thì phải có một nền văn minh, một xã hội là chủ nhân của nền văn minh này. Vì nó không thể từ trên trơì rơi xuống. Nền văn minh ấy đã được mình chứng rằng: Đó chính là nền văn minh Lạc Việt ở miền nam sông Dương Tử. Những di sản phi vật thể còn lại của nền văn minh này, nhưng tư liệu lịch sử, những bằng chứng khảo cổ đã minh chứng những dấu ấn của thuyết Âm Dương ngũ hành còn lại trong nền văn minh này và xác nhận chú quyền của nó. Lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về người Lạc Việt ở Nam Dương tử, sẽ chẳng có tác dụng gì, nếu nó vẫn ngớ ngẩn với nguyên si nội dung mà sách Hán chuyển tải đến ngay nay, theo kiểu "Thái Cực tức là Vô cực"...Nó sẽ chỉ là một thứ tranh chấp bản quyền ngớ ngẩn vì quyền lợi và thói hư danh của con người, như các vụ kiện xảy ra trên thế giới. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy... II - Nội dung thuyết Âm Dương Ngũ hành nhìn từ văn minh Lạc Việt. Nền văn minh Lạc Việt xác định khác hẳn về nguyên lý căn để của tất cả các phương pháp ứng dụng trong cổ thư chữ Hán. Đó là nguyên lý: "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt". Đây chính là chiếc chìa khóa mở ra tất cả những bí ẩn của nền văn minh Đông phương, một thời bí ẩn đến huyền vĩ. Nguyên lý này đã thay thế cho nguyên lý "Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư", mà văn bản chữ Hán miêu tả có nguồn gốc từ trên lưng con rủa ở sông Lạc Thủy.Từ nguyên lý căn để này, giải thích một cách hợp lý tất cả các vấn đề liên quan trong mọi phương pháp ứng dụng và điều quan trong hơn cả là nó đã thống nhất tất cả các phương pháp ứng dụng trong nguyên lý căn để này. Từ đó, nó xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một học thuyết nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hợp lý nội tại, tính quy luật và tính khách quan - ngay từ sự hình thành nên nó - và khả năng tiên tri. Hay nói cách khác: Nội dung thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến Lạc Việt với lịch sử trải gần 5000 năm, hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học hiện địa cho một lý thuyết khoa học. Trên cơ sở này chính là điều kiện để thống nhất tất cả những cái gọi là "trường phái " Phong Thủy trong các giai đoạn phát triển khác nhau được coi là xuất phát từ văn minh Hán, trở về với cội nguồn đích thực của nó là một khoa ứng dụng nổi tiếng của nền văn minh Đông phương - Tôi gọi tên là Phong Thủy Lạc Việt để xác định lịch sử của nó và phân biệt với khái niệm phong thủy vốn lưu truyền sai lệch trong các bản văn chữ Hán. III - Khả năng phản ánh thực tại khách quan: Trân cơ sở nguyên lý căn để được xác định từ văn minh Lạc Việt - Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" - Thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ rất rõ nét một thực tại khách quan làm nền nền tảng nhận thức tạo ra nó. Đó chính là tri thức thiên văn cổ Đông phương và sự tương tác có tính quy luật của vũ trụ. III - 1: Nó minh chứng rằng: Tử Vi chính là các hiệu ứng tương tác có qui luật từ các ngôi sao trên Thái Dương Hệ và trên bầu trời Thái Dương hệ So sánh tính chất Ngũ hành của Hà đồ với Thiên Bàn 12 cung Tử Vi (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...htbqlv-hdcc.jpg) (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...ien1112/64h.jpg) III - 2: So sánh Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt với mô hình qui ước tương quan trái Đất và bầu trời Hoàng Đạo. (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...en1112/164h.jpg) III - 3: So sánh vận động quĩ đạo chuyển động đảo biểu kiến khi quan sát các vì sao từ trái Đất với qui ước biểu kiến trong cách tính đại hạn của Tử Vi. (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...en1112/dbk1.jpg) (IMG:http://s286.photobucket.com/albums/ll114/t...112/th_dbk2.jpg) III - 4: Giải thích mối liên hệ của cửu tinh trên Thái Dương Hệ với Địa cầu (Được đặt tên theo Ngũ Hành - Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ...) (IMG:http://i286.photobucket.com/albums/ll114/t...ien1112/284.jpg) vv......vv....... IV - Kết luận: Có thể nói rằng: Kể từ khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ là một học thuyết khoa học nhất quán, hoàn chỉnh có khả năng miêu tả mọi điều trong vũ trụ và cuộc sống quanh ta bằng những khái niệm của nó. Học thuyết này giải thích từ sự hình thành vũ trụ cho đến mọi vần đề liên quan đến con người, từ những hạt vật chất đến các thiên hà khổng lồ có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Đây chính là tiêu chí của một lý thuyết thống nhất khoa học mà nhân loại đang mơ ước. Tri thức khoa học hiện đại đang tiếp tục tiến về phía trước. Nhưng lý thuyết khoa học mới nhất bây giờ và trong tương lai, có thể đúng và có thể sai. Nhưng tất cả những tri thức khoa học được thừa nhận là phản ánh chân lý khách quan, đều có thể tìm thấy những điểm tương đồng của nó trong thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Để kết luận bài viết này trên diễn đàn, tôi xin được nhắc lại câu nói nổi tiếng của SW Hawking: Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất, thì chính nó quyết định còn người có tìm ra nó hay không? Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.(*). -------------------------- * Chi tiết về những minh chứng này. Xin xem các sách đã xuất bản và các tiểu luận của Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn và trên trang chủ của diễn đàn
  3. Oct 30 2009, 10:43 AM Kính thưa quí vị quan tâm. Bài viết dưới đây là nội dung email của học giả Phạm Viết Hưng, gửi cho những thành viên của buổi tọa đàm. Được sự đồng ý của tác giả, tôi đưa lên đây để quí vị quan tâm tham khảo và tôi cũng xin trả lời nội dung này công khai ở đây. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị. -o0o- Hànội ngày 28-10-2009 Kính gửi GS Đào Vọng Đức, GS Phan Đình Diệu, Kính gửi các nhà nghiên cứu: Ngô Trung Việt, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thế Trung, Thưa các anh, Cuộc toạ đàm tại Tia Sáng về chủ đề Lý học Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh để lại trong tôi một ấn tượng thú vị, vì: 1-Tôi thích những quan điểm mạnh bạo của anh Tuấn Anh. Cho dù trong những quan điểm anh nêu lên, có nhiều điểm còn phải bàn cãi, phải nghiên cứu thêm, và phải chờ sự thẩm định của thời gian. Tuy nhiên, điều đáng quý là anh Tuấn Anh đã thể hiện một tư duy độc lập, không phụ thuộc vào những lối mòn. Đây là điều rất cần thiết của tư duy khoa học. 2-Mặc dù còn nhiều điều tôi chưa hiểu trong những nội dung do anh Tuấn Anh trình bầy, nhưng tôi thấy anh Tuấn Anh có một công trình nghiên cứu công phu, có một hiểu biết sâu sắc về Lý học Đông phương. 3-Tuy nhiên, tôi hiểu rằng anh Tuấn Anh có 2 ý chính: Một, anh muốn chứng minh cội nguồn Lý học Đông phương, trong đó cốt lõi là Kinh Dịch, là thuộc về nền văn hoá Lạc Việt. Hai, anh muốn chứng minh rằng Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành có thể là một Lý thuyết thống nhất. Tên gọi này đã nói lên rằng có sự ảnh hưởng văn hoá Tây phương vào trong Lý học Đông phương của anh Tuấn Anh. Bởi tên gọi Lý thuyết thống nhất chính là tên gọi của Vật lý, mà Einstein là người chủ xướng, và hậu duệ ngày nay gọi là Lý thuyết về mọi thứ (Theory of Everything). 4-Nếu tôi không lầm thì ý tưởng của anh Nguyến Thế Trung là dùng công nghệ thông tin để giúp anh Tuấn Anh hoàn thiện Lý học Đông phương, cụ thể là sử dụng các phương pháp mô phỏng theo con đường của Wolfram đã vạch ra, nghĩa là dùng computer để tái hiện lại toàn bộ mọi hiện tượng trong vũ trụ, xuất phát từ một Hệ tiên đề nào đó của Âm-Dương Ngũ Hành. Ý tưởng vừa táo bạo vừa hấp dẫn, nhưng có thể sẽ vô cùng khó khăn, vì nhiều lẽ. Tôi đã nhận được các files ghi âm và word về cuộc trao đổi giữa GS Đào Vọng Đức với nhà nghiên cứu Tuấn Anh. Trong toàn bộ cuộc đàm thoại này, tôi đặc biệt chú ý đến 2 ý kiến sau đây: 1* Ý kiến của anh Tuấn Anh: Khái niệm về “lý thuyết thống nhất” là em hiểu từ tinh thần trong các sách của ông SW. Hawking. 2* Ý kiến của GS Đào Vọng Đức: Không có cái gì có thể chứng minh một cách triệt để Tôi xin mạn phép trao đổi về 2 ý kiến đó: 1* Từ khi Stephen Hawking ra cuốn sách “Lược sử Thời gian” đến nay, khoa học đã có rất nhiều sự kiện mới cho thấy Lý thuyết thống nhất không dễ gì thành công. Bản thân tôi đã có nhiều bài báo về vấn đề này. Vả lại, như GS Đào Vọng Đức nói: “Nguyên lý thống nhất ta gọi bây giờ, chỉ là trên cơ sở những lực tương tác cơ bản mà ta đã phát hiện được thôi. Nhưng sau này có thể còn nhiều yếu tố tương tác khác mà ta chưa phát hiện được. Bởi vậy, chúng ta gọi là lý thuyết thống nhất thì chỉ là trên cơ sở những tương tác mà chúng ta đã phát hiện hiện nay. Sau này còn nguyên lý thống nhất mới nữa, do những phát hiện những tương tác mới thì nguyên lý thống nhất mới sẽ phải thống nhất những tương tương tác sau này, mà chúng ta sẽ phát hiện ra”. Điều đó có nghĩa là chẳng bao giờ có một Lý thuyết thống nhất cuối cùng. Vì thế, tôi cho rằng tham vọng chứng minh lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thành một lý thuyết thống nhất sẽ còn gặp những khó khăn lớn hơn Lý thuyết thống nhất của khoa học Tây phương, bởi lẽ căn bản sau đây: -Lý học Đông phương dựa trên căn bản là sự chiêm nghiệm và cảm nhận trực giác, trong khi khoa học Tây phương thì cái gì cũng đòi chứng mình thuyết phục ngay cả đối với những người không có sự chiêm nghiệm trực giác đó. -Nói cách khác, tham vọng chứng minh một lý thuyết Đông học về căn bản đã đi ngược lại với con đường tiếp cận chân lý của chính Đông phương. -Tôi nghĩ rằng Lý học Đông phương truyền thụ từ người này sang người khác không phải bằng con đường chứng minh và lý luận, mà bằng con đường chiêm nghiệm. Các đệ tử của Lý học Đông phương phải tiếp thu tri thức bằng chiêm nghiệm và cảm thụ trực giác là chủ yếu, thay vì học theo lý luận và chứng minh. -Cố GS vật lý Nguyễn Hoàng Phương trước đây cũng đã từng có một công trình đồ sộ nghiên cứu rất công phu về Kinh Dịch trên cơ sở Tiên đề hoá và toán học hoá. Tài liệu đó đã được gửi đến nhiều địa chỉ của các nhà khoa học trong nước và nước ngoài, nhưng đến nay vẫn chìm trong im lặng. Riêng cá nhân tôi, tôi đã đọc một số chương mục trong cuốn sách đồ sộ đó của cố GS Nguyễn Hoàng Phương, và tôi đã nói với cố GS rằng: “Theo em thì những chứng minh này không cần thiết, bởi vì anh sẽ chẳng bao giờ có được một công thức toán học chính xác để áp dụng trong mọi trường hợp, kiểu như 3 định luật của Newton. Mà khoa học ngày nay đã cho thấy rằng mọi công thức chỉ đúng trong một phạm vi, một bộ phận nào đó trong vũ trụ mà thôi, sẽ chẳng bao giờ có được một công thức cho tất cả vũ trụ. Vì thế dù là Kinh Dịch hay Lý thuyết thống nhất của vật lý thì cũng chỉ là lý thuyết áp dụng trong một phạm vi giới hạn nào đó mà thôi. Chính Werner Heisenberg cũng đã từng đưa ra một công thức toán học cho Lý thuyết thống nhất nhưng rồi cũng không được giới vật lý thừa nhận”. Tôi vừa viết xong bài “Hiệu ứng con bướm”, trong đó tôi dành một trang cuối để nói về ý tưởng logic hoá các khoa học Đông phương. Tôi đã gửi tới toà soạn, và sẽ gửi tới các anh bản thảo, nếu không làm mất thì giờ quý báu của các anh. Kính thư Phạm Việt Hưng -o0o- Thiên Sứ Oct 30 2009, 12:32 Kính thưa quí vị quan tâm. Bài viết của nhà nghiên cứu và là dịch giả của những cuốn sách khoa học nổi tiếng trong văn hóa Việt Phạm Viết Hưng - đã đặt những vấn đề mang tính phản biện khoa học. Và đây là sự phản biện một cách nghiêm túc trên tinh thân khoa học. Bởi vậy, tôi thực sự tôn trọng tác giả vì tính nghiêm túc trao đổi , phản biện trên tinh thần khoa học thật sự, nên đã xin phép được đưa lên diễn đàn và trả lời công khai những vấn đề mà nhà nghiên cứu Phạm Viết Hưng đặt ra. Kính thưa quí vị quan tâm. Những vấn đề cốt lõi của nhà nghiên cứu Phạm Việt Hưng đưa ra là: Kính thưa quí vị quan tâm. Như vậy, nhà nghiên cứu Phạm Việt Hưng có kết luận: Hay nói cách khác không thể chứng minh được rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Lý thuyết thống nhất - qua những luận cứ mà tác giả đã trình bày ở trên.Có thể nói rằng: Tôi rất cảm ơn nhà nghiên cứu Phạm Viết Hưng - khi có những ý kiến phản biện cao cấp mà từ lâu tôi mong đợi. Tôi cho rằng: Đó chính là điều kiện mà giới khoa học cho rằng: "Mọi cuộc tranh luận sẽ làm sáng tỏ chân lý". Chúng tôi đã có dịp gặp gỡ nhau trước khi có cuộc tọa đàm ở tòa soạn báo Tin Sáng trong một nhà hàng Nhật Bản ở Hanoi. Tôi tin rằng: Với những nhà khoa học nghiêm túc và trí tuệ như giáo sư Đào Vọng Đức, Phan Đình Diệu, Phạm Viết Hưng...quan tâm đến Lý học Đông phương, sẽ gây được sự chú ý của giới khoa học quốc tế. Đây chính là mong mỏi của tôi - khi đã một lần thất vọng bởi sự ra đi đột ngột của Giáo sư tiến sĩ Trần Quang Vũ - Trưởng Khoa Vật lý Thiên Văn của Đại học quốc gia Áo - khi ông ngỏ ý muốn tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế về những ý tưởng của tôi. Tôi xin được phép biện minh trước những vấn đề mà anh Phạm Viết Hưng đã đặt ra như sau: Về vấn đề thứ I: Tôi hoàn toàn đồng ý rằng: Chính Stephen Hawking cũng chỉ đặt vấn đề về một lý thuyết thống nhất và chưa hề xác nhận một lý thuyết thống nhất đã tồn tại. Nhưng ông đã đưa ra một tiêu chí về lý thuyết thống nhất. Trong đó ông xác nhận: " Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất tồn tại và con người có thể tím ra nó nếu có đủ khả năng thì chính lý thuyết đó sẽ quyết định con người có thể tìm ra nó hay không?" Tôi nghĩ rằng: Thế giới đã ca ngợi Stephen Hawking là một thiên tài về vật lý lý thuyết. Còn tôi cảm nhận được thiên tài của ông qua câu này: " Chính lý thuyết đó sẽ quyết định con người có thể tìm ra nó hay không?". Ông chưa xác định có hay không một lý thuyết thống nhất. Nhưng ông đã đặt vấn đề về một trong những định tính cho lý thuyết này. Nếu nói ở mức độ khiêm tốn thì chính lý thuyết này quyết định tương lai của nhân loại, khi nó có khả năng quyết định con người có tìm ra nó hay không. Thật là mơ hồ khi lý thuyết này quyết định con người không thể tìm ra nó. Sự huyền bí vĩnh viễn bao trùm vũ trụ mênh mông đầy bí ẩn. Còn nếu phát biểu ở một trình độ cao cấp hơn thì cần khẳng định rằng: Lý thuyết thống nhất đã quyết định con người phải tìm ra nó. Trong tác phẩm của mình, ông Stephen Hawking đã đưa ra một tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất, chứ không công bố về một lý thuyết thống nhất với những hệ luận cụ thể của nó và tôi đã nói về tiêu chí này trong tiểu luận "Định mệnh có thật hay không?". Tiêu chí này xác định rằng: Một lý thuyết thống nhất phải có khả năng giải thích từ sự hình thành vũ trụ cho đến mọi hành vi của con người, giải thích từ những hạt vật chất nhỏ nhất cho đến những thiên hà khổng lồ....". Tôi đã căn cứ vào những tiêu chí về một lý thuyết thống nhất mà Stephen Hawking đã đưa ra trong "Lược sử thời gian" để đặt vấn đề về Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một lý thuyết thống nhất - khi học thuyết này thỏa mãn tiêu chí trên. Luận điểm của Giáo sư Đào Vọng Đức trong buổi trao đổi tại tòa soạn báo Tia Sáng sau đó, là hoàn toàn chính xác trong thực tế tri thức nhân loại đang tiếp tục khám phá những bí ẩn vũ trụ, khi Giáo sư cho rằng: “Nguyên lý thống nhất ta gọi bây giờ, chỉ là trên cơ sở những lực tương tác cơ bản mà ta đã phát hiện được thôi. Nhưng sau này có thể còn nhiều yếu tố tương tác khác mà ta chưa phát hiện được. Bởi vậy, chúng ta gọi là lý thuyết thống nhất thì chỉ là trên cơ sở những tương tác mà chúng ta đã phát hiện hiện nay. Sau này còn nguyên lý thống nhất mới nữa, do những phát hiện những tương tác mới thì nguyên lý thống nhất mới sẽ phải thống nhất những tương tương tác sau này, mà chúng ta sẽ phát hiện ra”. Theo luận điểm của Giáo sư, tôi hiểu rằng: Nếu như ngay bây giờ, các nhà khoa học hiện đại có thống nhất được bốn lực tương tác căn bản của vũ trụ mà nhân loại phát hiện ra hiện nay - Lực tương tác hạt nhân mạnh, lực tương tác hạt nhân yếu, lực tương tác hấp dẫn, lực tương tác điện từ - thì đó chỉ có thể coi là "Lý thuyết thống nhất trên cơ sở trí thức hiện nay", chứ không phải là lý thuyết thống nhất trong tương lai - khi mà khoa học tiếp tục phát triển và con người còn phát hiện ra nhiều cái mới khác và các tương tác phát hiện trong tương lai sẽ là: Buộc tri thức trong tương lai của con người phải tiếp tục hoàn chỉnh lý thuyết thống nhất mới khi nó buộc phải xác định những tương tác mới mà con người có khả năng phát hiện trong tương lai. Hoàn toàn chính xác với tri thức của một tri thức bậc thày về vật lý lý thuyết. Nhưng vấn đề mà giáo sư đặt ra trên cở sở tri thức khoa học hiện đại, lại không phải thực trạng của Thuyết Âm dương Ngũ hành. Thuyết Âm dương Ngũ hành không có nền tảng tri thức phát triển trên cơ sở lịch sử văn minh nhân loại hiện đại. Mà nó thuộc về nền văn minh khác - mà tôi minh chứng và đặt tên là: Nền văn minh Atlantic - đã tồn tại trên trái Đất và đã bị hủy diệt. Bởi vậy, nó vẫn có khả năng tổng hợp những trí thức vượt trội so với tri thức của nhân loại hiện đại sẽ phát triển trong tương lai. Do đó, khi tôi hiệu chỉnh lại những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành - Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ - nó đã thỏa mãn những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học về tính hợp lý nội tại trong hệ thống lý thuyết của nó và phản ánh một thực tại làm nên lý thuyết đó với khả năng tiên tri. Vậy vấn đề còn lại là so sánh những giá trị được phát hiện và phục hồi - dù là chưa hoàn hảo - của thuyết Âm Dương Ngũ hành với nhưng lý thuyết mới nhất trong tri thức khoa học hiện đại để tìm sự tương đồng - Giáo sư Đào Vọng Đức đã nhất trí về nhiều điểm tương đồng giữa tri thức khoa học hiện đại với những luận điểm được phục hồi của học thuyết này. Bởi vậy, cho dù trong tương lai khoa học hiện đại có phát triển đến đâu thì Thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn có giá trị là một lý thuyết thống nhất khi nó luôn vẫn có điểm tương đồng với những tri thức khoa học trong tương lai. Một thí dụ cho luận điểm này của tôi: Theo lý thuyết mới nhất của Wolfram về khả năng những quy luật tương tác vô cùng phức tạp vẫn có thể bắt đầu từ những quy luật đơn giản. Lý thuyết này mô tả bằng một mô hình như sau: Kính thưa quí vị quan tâm. Quí vị hãy so sánh mô hình này với mô hình Kim Tự Tháp: Mô hình Kim Tự Tháp chính là một di sản còn lại của văn minh cổ nhân loại có mặt khắp nơi trên vành đai Địa cầu, và là bằng chứng cho sự thống nhất về văn hóa của một nền văn minh toàn cầu đã tồn tại trên trái Đất. Tôi đã viết về Kim Tự Tháp trong tiểu luận "Định mệnh có thật hay không?" trước khi biết đến lý thuyết của Wolfram. Chưa hết, quí vị có thể thấy một biểu tượng rất huyền bí của Kim Tự Tháp - Đó là phần chóp Kim Tự Tháp có cấu trúc vật liệu khác với cấu trúc phía dưới. Đây cũng chính la phần được coi là thiêng liêng nhất của Kim Tự tháp. Điều này phải chăng nó thể hiện nhưng quy luật tuy đơn giản như lý thuyết của Wolfram, nhưng là quy luật chủ yếu ban đầu hình thành nên vũ trụ này?! Sự trùng hợp này không thể coi là ngẫu nhiên. Khi mà Hình tượng Kim tự Tháp minh chứng cho lịch sử xuất xứ của một lý thuyết thống nhất ra đời trong nền văn minh đó. Do đó, lý thuyết Âm Dương Ngũ hành sẽ mãi mãi sẽ là lý thuyết thống nhất, nếu những phát minh trong tương lai của nhân loại tiếp tục chứng tỏ sự tương đồng mới nó. Mà lý thuyết của Wolfram là một thí dụ cập nhật. Còn tiếp -o0o- Thiên Sứ Oct 30 2009, 04:19 PM Kính thưa quí vị quan tâm. Nhà nghiên cứu Phạm Việt Hưng cho rằng: Là một người có duyên với lý học Đông Phương từ lá số tử vi đầu tiên nhận thấy trong cuộc đời, năm 19 tuổi, đến nay ngót đã 42 năm. Tôi cho rằng nhận xét của nhà nghiên cứu cũng là nhận xét của rất nhiều nhà khoa học ít quan tâm đến Lý học Đông phương và cũng là quan niệm của những người nghiên cứu, tham khảo lý học Đông phương chỉ nhằm mục đích ứng dụng. Trên thực tế, điều này chỉ phản ánh tính thất truyền của một hệ thống lý thuyết đã tồn tại trong quá khứ rất xa xôi của thời gian. Bởi vậy, ngay cả những người có nghiên cứu về Lý học Đông phương mang tính thuần ứng dụng cũng tưởng như vậy. Họ nói rất nhiều đến"trực ngộ tâm linh", đến sự chiệm nghiêm, đến khả năng trực giác khi dự báo, đến tính huyền bí của Lý Học và tin vào điều này. Hay nói cách khác: cách nhận xét của học giả Phạm Việt Hưng chính là sự nhận xét khá phổ biến của ngay những người đang nghiên cứu về Lý học Đông phương hiện nay. Nhưng thực tế trải hàng thiên niên kỷ tồn tại của các bộ môn ứng dụng - trong điều kiện một nguyên lý lý thuyết đã thất truyền đã bác bỏ điều mà hầu hết mọi người đều tường như vậy. Người ta không thể lưu truyền những kinh nghiệm xuyên không gian và thời gian khi điều kiện cuộc sống thay đổi. Cụ thể, có ai truyền đạt cho bạn kinh nghiệm nấu bếp bằng rơm, khi mà từ nhỏ bạn đã làm quen với bếp ga? Chính sự tồn tại xuyên qua thời gian tính bằng thiên niên kỳ và qua mọi không gian văn hóa, văn minh nhân loại cho đến nay của các bộ môn ứng dụng thuộc Lý học Đông phương đã bác bỏ điều này. Những bộ môn ứng dụng của Lý học Đông phương - thí dụ như Tử Vi, Phong Thủy, Bốc Dịch hoàn toàn là những phương pháp có tính cấu trúc hệ thống, nguyên tắc và qui định rất chặt chẽ. Và những phương pháp đó có hiệu quả ứng dụng, hoàn toàn lưu truyền bằng văn bản và đầy đủ khả năng truyền đạt bằng văn bản và ngôn ngữ cho các thế hệ tiếp nối , để lưu giữ nền văn minh. Thí dụ như phương pháp coi Tử Vi. Đây là một bộ môn ứng dụng để tiên tri về số phận của từng con người. Chúng có cả một hệ thống cấu trúc có nguyên tắc và qui định chặt chẽ dựa trên dữ kiện ban đầu là ngày, giờ, tháng, năm sinh của mỗi con người. Sự luận đoán một lá số Tử Vi căn cứ trên qui ước hình thành những bộ sao được lập thành trên lá số. Tất nhiên, không thể nói rằng: Những hệ thống cấu trúc phương pháp luận đoán và lập thành lá số tử vi chỉ là do kinh nghiệm. Mà phải xác định đó chính là một phương pháp ứng dụng, hệ quả của một lý thuyết đã thất truyền, nên người ta không thể hiểu được trên cơ sở nào để tồn tại những phương pháp ứng dụng đó. Tính kinh nghiệm và chiêm nghiệm chỉ xuất hiện trong người dự đoán khi lá số đã lập thành, và mọi người đều nhầm tưởng rằng tính kinh nghiệm và chiêm nghiệp là cốt lõi của các bộ môn ứng dụng trong Lý Học Đông phương. Thực ra, nó chỉ phản ánh một hệ thống lý thuyết cơ sở đã bị thất truyền và người ta cần có kinh nghiệm và sự nhậy cảm trực giác để có thể đạt hiệu quả cao cho tính ứng dụng rất cụ thể cho từng trường hợp. Tính trực giác, kinh nghiệm trong dự đoán và phương pháp dự đoán là hai bộ phận khác nhau làm nên hiệu quả dự đoán. Tính trực giác, kinh nghiệm có thể ví với trí thông minh, sự cần cù - phương pháp dự đoán có thể ví với bài học được dạy trong lớp cho tất cả các học sinh. Trên cơ sở biện minh này thì chúng ta thấy rằng, luận cứ của học giả Phạm Viết Hưng là không chính xác - khi nó là hệ quả của nhận định trên: Thực tế con đường tiếp cận chân lý của Lý Học Đông phương - nếu bắt đầu từ lịch sử văn minh Atlantic - thì chúng cũng hoàn toàn không ngoài qui luật nhận thức từ nhận thức trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và tổng hợp thành lý thuyết - Nhưng nền văn minh này bị hủy diệt lần thứ nhất do thiên tai ("Địa tai" bởi Đại Hồng thủy - giả thiết có cơ sở như vậy); hủy diệt lần thứ hai do "Nhân họa", khi nền văn minh Lạc Việt bị sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử (Đã chứng minh qua các sách và tiểu luận). Bởi vậy, tính thất truyền và sai lệch trong cấu trúc hệ thống là không tránh khỏi. Nhưng chỉ những phần còn lại rời rạc, manh mún của Lý Học Đông phương đã tồn tại xuyên mọi không gian văn minh trong lịch sử nhân loại và thời gian tính bằng Thiên niên kỳ - đã đủ thấy sự huyền vĩ của hệ thống trí thức này. Cho đến tận ngày hôm nay, chỉ những khái niệm còn lại được phục hồi sau hàng thiên niên kỷ chìm lấp, cũng cho thấy những nét tương đồng với những tri thức khoa học hiện đại nhất, đã cho thấy sự kỳ diệu của nó.Chính những tương đồng này và sự ra đời của những tiêu chí khoa học cho những lý thuyết khoa học phát triển hiện nay là cơ sở xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Lý Thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước. Nói một cách khác: Thuyết Âm Dương Ngũ hành ở thể bản nguyên của nó vốn tự thân đã là mộtt lý thuyết thống nhất trong thời đại của nó. Học thuyết này phát triển từ lịch sử văn minh tạo nên nó và không thuộc về trí thức hiện đại. Sự so sánh những khái niệm của học thuyết này với tri thức hiện đại chỉ để xác minh tính khoa học của nó mà thôi.Học giả Phạm Viết Hưng viết; Sự biện minh cơ bản tôi đã trình bày ở trên. Nhưng ở đây tôi thấy cần nói rõ thêm rằng: Sự truyền thụ những hệ quả của lý học Đông Phương thì đúng hơn là sự truyền thụ của cả nền Lý học Đông phương - Hay nói cách khác: Đó chỉ là sự truyền thụ những phương pháp ứng dụng của lý học Đông phương - những mảnh vụn còn rời rạc, còn sót lại của nó, chứ không phải là toàn bộ nền lý học Đông phương - vốn đã sai lạc và thất truyền. Bởi vậy tính minh chứng và lý luận là thiếu vắng. Chúng ta có thể thí dụ về một người thợ máy xe hơi, ông ta có thể rất giỏi, nhưng không cần biết đến các nguyên lý cấu trúc vật liệu chế tạo và các thuyết vật lý, kỹ thuật để làm ra cái xe đó. Kính thưa quí vị. Chúng ta quán xét luận cứ cuối cùng của học giả Phạm Viết Hưng: Về luận điểm này tôi cho rằng: Giáo sư Hoàng Phương đã có một trực giác rất nhạy bén khi so sánh Lý Học Đông phương với khoa học hiện đại - khi ông viết cuốn"Tích Hợp đa văn hóa Đông Tây". Tôi vẫn trân trọng ông vì cách đặt vấn đề của ông. Nhưng ông đã không thành công khi minh chứng tính tương đồng giữa Lý học Đông phương từ cổ thư chữ Hán với khoa học hiện đại. Sai lầm lớn nhất của ông, chính là ông vẫn cho rằng những nguyên lý căn để ứng dụng trong Lý học Đông phương từ cổ thư chữ Hán là đúng. Giáo sư Hoàng phương đã dùng toán học để minh chứng Hậu thiên Văn Vương là đúng và tôi đã phân tích sai lầm này của ông, ngay chính bằng phương pháp luận của ông trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" (Xuất bản lần thứ 1 - năm 2001). Người ta không thể tím ra cái đúng từ một cái sai. Còn việc Werner Heisenberg không được giới vật lý thừa nhận khi đưa ra công thức toán học cho lý thuyết thống nhất là hoàn toàn không có gì đang ngạc nhiên. Khả năng của trí thức khoa học hiện đại chưa đủ để làm nền tảng hình thành và tổng hợp nên một lý thuyết thống nhất. Nó chỉ tiến rất sát đến lý thuyết thống nhất trong tương lai qua những sự tương đồng của Lý học Đông phương được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt với những trí thức khoa học hiện đại. Để kết luận cho bài viết có mục đích biện minh trước những ý kiến phản biện của học giả Phạm Viết Hưng, tôi xin được lấy luận điểm của Stephen Hawking nói rằng: 'Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất, thì chính nó sẽ quyết định nhân loại tìm ra nó hay không!" Vâng! Chính xác là như vậy. Chúng ta hoàn toàn có quyền đặt ra một giả thuyết rằng: "Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất, mà nó quyết định nhân loại vĩnh viễn không tìm ra nó thì mọi phản biện cho rằng Thuyết Âm Dương Ngũ hành không phải lý thuyết thống nhất đều được coi là đúng". Nhưng tôi có thể nói thế này: "Khi Thượng Đế đã được công nhận trong lịch sử nhân loại thì lý thuyết thống nhất sẽ được trí thức khoa học tìm ra nó". Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị và học giả Phạm Viết Hưng. Nguyễn Vũ Tuấn Anh -o0o- Thiên Sứ Oct 30 2009, 09:35 PM Kính thưa quí vị quan tâm. Bài viết biện minh đã hoàn tất. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. -o0o- Oct 31 2009, 06:30 AM -o0o- Vo Truoc Oct 31 2009, 07:22 AM Cảm ơn anh Thiên Sứ về bài phản biện thật suất sắc và mẫu mực. Về phản biện vấn đề thứ 2 và luận điểm của nhà nghiên cứu Phạm Viết Hưng, theo tôi, anh đã phân tích khá rõ ràng và rốt ráo. Tôi chỉ xin có mấy ý kiến nhỏ về vấn đề thứ nhất: Khái niệm về “lý thuyết thống nhất”. Theo tôi, tiêu chí của lý thuyết thống nhất, nếu nó tồn tại, chỉ có một thôi. Đó là, như Stephen Hawking viết: “ Một lý thuyết thống nhất phải có khả năng giải thích từ sự hình thành vũ trụ cho đến mọi hành vi của con người, giải thích từ những hạt vật chất nhỏ nhất cho đến những thiên hà khổng lồ....". Nói cách khác, tổng quát hơn, một lý thuyết thống nhất phải có khả năng giải thích tất cả mọi hiện tượng, không có một giới hạn nào trong bất cứ lĩnh vực nào. Như vậy, việc nó có quyết định rằng, con người có khả năng tìm ra nó hay không, chỉ là một hệ quả được rút ra từ tiêu chí đó. Bởi vì, việc tìm ra lý thuyết thống nhất chỉ là một hiện tượng của thực tại. Trên tư cách là lý thuyết thống nhất được hiểu như trên, nó phải tiên đoán được. Một lý thuyết bất kỳ là một hệ thống tri kiến của con người, do con người tạo ra. Một lý thuyết không phải là một thực thể như Mặt trời, Trái đất, Thiên hà hay các proton, electron, … mà là một sản phẩm tinh thần của con người. Điều đó có nghĩa là, nếu tồn tại lý thuyết thống nhất thì đương nhiên nó cũng phải do con người sáng tạo ra. Nếu nói, tồn tại lý thuyết thống nhất nhưng con người không thể tìm ra nó, thì đó là một câu vô nghĩa. Bởi vì, khi nói lý thuyết đó tồn tại đồng thời cũng bao hàm nghĩa nó đã do con người tìm ra. Như vậy, vấn đề ở đây chỉ còn là, liệu có tồn tại lý thuyết thống nhất hay không? mà thôi. Nếu nó không tồn tại thì chẳng nói làm gì. Nhưng nếu nó tồn tại thì con người phải tìm ra. Nói cách khác, vấn đề ở đây là, tri kiến của con người liệu có khả năng biết được tất cả mọi hiện tượng, không một giới hạn nào trong bất cứ lĩnh vực nào hay không? Nếu, giống như học thuyết ADNH quan niệm, ta coi thực tại hiện hữu tồn tại như một thể thống nhất, liên quan chặt chẽ không thể tách rời. Mọi thành phần của nó đều có chung nguồn gốc, tương tác với nhau ở mọi chi tiết và cấp độ thì đương nhiên, trong bất kỳ một thành phần nào của nó cũng phản ánh tất cả những thành phần còn lại. Vì thế, về nguyên tắc, phải tồn tại một phản ánh của tất cả thực tại hiện hữu trong tri kiến của con người, bởi vì, tri kiến của con người cũng chỉ là một thành phần của thực tại hiện hữu. Điều đó có nghĩa là, con người hoàn toàn có khả năng biết được tất cả mọi hiện tượng, không một giới hạn nào trong bất cứ lĩnh vực gì. Nói cách khác, lý thuyết thống nhất có tồn tại. Như vậy, lý thuyết thống nhất tồn tại và con người hoàn toàn có thể tìm ra được nó. Vấn đề còn lại là khi nào, con người phát triển tới mức nào thì có được lý thuyết đó? Rõ ràng khoa học ngày nay còn rất xa vời với cái đích là lý thuyết thống nhất. Nội những mâu thuẫn, bất cập, không tương thích trong bản thân nó cũng chưa được giải quyết rốt ráo thì nói gì đến những lĩnh vực khác của thực tại, cực kỳ khó khăn, phức tạp, rộng lớn mà cho đến nay khoa học cũng chưa có một tý khái niệm nào như tâm linh, ngoại cảm … Những ứng dụng của khoa học tuy to lớn kỳ vĩ, mang lại rất nhiều lợi ích cho nhân loại nhưng cũng luôn luôn bị giới hạn trong những biên giới hẹp. Nó đang hàng ngày vươn tới nhưng cũng vẫn chưa thấy được tia sáng cuối đường hầm nào. Học thuyết ADNH tuy đã thất truyền những nguyên lý căn đế hàng ngàn năm, chỉ còn sót lại những ứng dụng như những mảnh vỡ manh mún, biến dạng mà vẫn làm kinh ngạc giới Khoa học hiện đại. Hơn nữa, phạm vi ứng dụng của học thuyết này, về nguyên tắc, hầu như không có giới hạn nào dù những lĩnh vực rất khác nhau. Thử hỏi, khi chưa thất truyền thì học thuyết này còn kỳ vĩ đến đâu! Như vậy, chính đặc điểm không giới hạn miền ứng dụng của học thuyết ADNH, sức sống mãng liệt, hiệu quả đáng kinh ngạc của nó, cho dù, chỉ còn sót lại những mảnh vụn ứng dụng thiếu hẳn những nguyên lý căn đế, mà học thuyết ADNH rất có thể là học thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm. Vấn đề còn lại là phục hồi lại học thuyết ADNH như vốn có trước khi thất truyền và xem xét xem, nó có giới hạn nào hay không. Đương nhiên, nếu ta không quan niệm như học thuyết ADNH, về tính thống nhất, liên quan chặt chẽ, không thể tách rời của thực tại hiện hữu thì một thành phần nào đó của thực tại không nhất thiết phản ánh tất cả những thành phần còn lại thì trong tri kiến của con người không chắc có phản ánh mọi hiện tượng tự nhiên và do đó, lý thuyết thống nhất không tồn tại. Khoa học hiện đại cho rằng, không có cái gì tồn tại có thể chuyển động nhanh hơn vận tốc ánh sáng, thì những hiện tượng ngoài phạm vi đã tới được của ánh sáng từ chúng ta không phản ánh vào tri kiến của con người. Ngoài phạm vi đó không phải là hư không mà còn cả một thế giới hiện tượng khác. Như vậy, không phải toàn bộ thực tại hiện hữu có thể được phản ánh trong tri kiến của con người. Điều đó có nghĩa là lý thuyết thống nhất không thể tồn tại. Như vậy, khoa học đưa đến chỗ phủ nhận sự tồn tại của lý thuyết thống nhất thông qua giới hạn vận tốc của mọi thứ trong vũ trụ không vượt qua vận tốc ánh sáng. Vận tốc ánh sáng đã giới hạn nhận thức của con người. Vì thế, thuật ngữ lý thuyết thống nhất mà khoa học đề cập có lẽ chỉ nên hiểu là thống nhất những cái mà khoa học đã biết mà thôi, tức là giải quyết những vấn đề mâu thuẫn, không tương thích nội tại chứ không thể hiểu như là: một lý thuyết thống nhất phải có khả năng giải thích tất cả mọi hiện tượng không có một giới hạn nào trong bất cứ lĩnh vực nào. Vì thế, giáo sư Đào Vọng Đức mới nói theo quan điểm của khoa học hiện đại như sau về lý thuyết thống nhất như sau: “Nguyên lý thống nhất ta gọi bây giờ, chỉ là trên cơ sở những lực tương tác cơ bản mà ta đã phát hiện được thôi. Nhưng sau này có thể còn nhiều yếu tố tương tác khác mà ta chưa phát hiện được. Bởi vậy, chúng ta gọi là lý thuyết thống nhất thì chỉ là trên cơ sở những tương tác mà chúng ta đã phát hiện hiện nay. Sau này còn nguyên lý thống nhất mới nữa, do những phát hiện những tương tác mới thì nguyên lý thống nhất mới sẽ phải thống nhất những tương tương tác sau này, mà chúng ta sẽ phát hiện ra”. Tuy nhiên, học thuyết ADNH quan niệm khác: thực tại hiện hữu tồn tại như một thể thống nhất, liên quan chặt chẽ không thể tách rời. Quan niệm này dẩn đến sự tồn tại (và con người tất yếu sẽ tìm ra) của lý thuyết thống nhất có khả năng giải thích tất cả mọi hiện tượng không có một giới hạn nào trong bất cứ lĩnh vực nào. Lý thuyết thống nhất đó, rất có khả năng chính là học thuyết ADNH. Đó cũng chỉ là khả năng rất lớn. Chỉ khi nào chúng ta phải phục hồi hoàn toàn học thuyết kỳ vĩ này của Tổ tiên rồi mới có thể khẳng định chắc chắn. Thân ái! -o0o- Rin86 @ Oct 22 2009, 06:33 AM Thưa bác Thiên Sứ, cháu tìm đường link sang tạp chí Tia Sáng thì được thông báo trên, có nghĩa là "xin lỗi, trang wed này hiện thời đang xây dựng, nhưng nó sé sẵng sàng (để truy cập) trong thời gian ngắn thôi! -o0o- Hatgaolang Cái này do lỗi DNS thôi mà, đâu có gì ???? -o0o- hạt gạo làng Oct 31 2009, 04:31 PM - Sau khi đọc bài viết trả lời của chú Thiên Sứ, có thể thấy rằng phần Fractal là chú Thiên Sứ so sánh với Kim Tự Tháp cho thấy trong khoa học hiện đại có sự tuơng đồng với nền văn minh cổ xưa với góc độ nhìn thấy được. Chú Thiên Sứ không có ý định nói Fraction là lý thuyết để làm ra Kim Tự Tháp mà chính Fraction chỉ là một phần nhỏ nhoi có khả năng tương đồng với Kim Tự Tháp. - Theo như những gì GS Đào Vọng Đức trả lời với Lý Thuyết của chú Thiên Sứ cho thấy rằng: (xin được nói theo suy nghĩ bởi khoa học hiện đại chưa thể tìm ra tính khoa học của Lý Học Đông Phương và Lý học Phương Đông đã có thể giải thích một cách logic từng phần của khoa học hiện đại) Lý học Phương Đông có thể giải thích bao trùm lên vạn vật cho thấy tính xuyên suốt của nó mà Khoa học hiện đại chỉ mới phát kiến ra từng phần của lý thuyết tự nhiên của vũ trụ. - Việc đưa ra Fraction so sánh với Kim Tự Tháp chỉ cho thấy tính tương đồng của sự việc chứ không cho thấy tính bao trùm. Vài dòng thiển nghĩ của bản thân, không tự cho là đúng -o0o- Thiên SứTôi không chống lại ông Einstein. Ông ta có thể đúng trọng hệ quy chiếu của ông ta. Nhưng Giao Sư Đào Vọng Đức xác nhận tốc độ vũ trụ phát hiện được theo hiểu biết của con người hiện nay lớn hơn tốc độ ánh sáng. Và xác nhận tính hợp lý của tốc độ tuyết đối =/0/ trong điều kiện không không gian, không thời gian. Giáo sư xác nhận tính tương đồng rất cao giữa thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt và lý thuyết khoa học hiện đại. Rất tiếc! Tôi không biết cách nào chuyển băng quay phim đưa lên mạng, nên chưa công bố được buổi trao đổi giữa tôi và Giáo sư Đào Vọng Đức. Trong cuộc đối thoại này - Giáo sư chỉ khuyên nên gọi là "Nguyên lý xuyên suốt" và không nên gọi là "Lý thuyết thống nhất". Tôi cũng nhất trí với thầy. Bởi tôi quan niệm rằng: Gọi thế nào cũng được, miễn là khai niệm liên quan không đổi với thuyết ADNH. Còn việc báo Tia sáng. Nếu họ ủng hộ tôi một cách khách quan vô vụ lợi thì họ không thể chết được. Mặc dù tôi không biết cái gì xảy ra. Nhưng tôi chắc chắn là như vậy. -o0o- Mộc Công Oct 31 2009, 12:51 PM Phần trên cậu Kakalot nói có phần hơi quá, nhưng phần này thì anh Thiên Sứ nên xem xét kỹ vì tôi thấy rất có lý đấy anh ạ. -o0o- Mộc Công Oct 31 2009, 01:06 PM Kính gửi anh Thiên Sứ Tôi chưa được xem phần anh phản biện với GS Đào Vọng Đức cho nên chưa dám nói gì. Còn về phần anh phản biện với anh Phạm Viết Hưng tôi xin có vài ý kiến như sau: -Anh Hưng đưa ra Chaos Theory để nói : Không thể tiên tri được và nếu có chăng chỉ là tiên tri trong khoảng thời gian rất ngắn. Xin thưa Chaos theory không nói gì về sự tiên tri mà nó chỉ nói về sự dự đoán Output ra sao khi mà Input cho trước. Hơn nữa để thỏa mãn là sẽ xảy ra chaos cần hội tụ đủ 3 điều kiện: + Hệ phải rất nhạy với dữ kiện ban đầu cho sẵn + Phải topologically mixing (hòa hợp theo nghĩa topo : chỉ là tam dịch vậy) + quỹ đạo tuần hoàn của nó phải trù mật Xét cụ thể ví dụ như Tử Vi : đầu vào là Năm, Tháng, Ngày, Giờ . Đầu ra là Lá số có thể thấy đơn giản thế này: lá số có thể thay đổi hoàn toàn chỉ do khác giờ sinh, nhưng cũng có những lá số chỉ thay đổi chút ít. Hai lá số cùng CAN năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ, và chỉ khác nhau ở chi NĂM thì chỉ khác nhau ở vòng Thái Tuế và 1 số phụ tinh. Như vậy liệu ta có thể nói Hệ Tử Vi là rất nhạy với dữ kiện ban đầu hay không? Trong khoa học thì họ dùng hàm mũ Lyapunov để nói về điều này. Cho nên ví dụ anh Hưng đưa ra về 2 chị em sinh đôi để minh họa cho Chaos theory và phản biện anh theo tôi là chưa được chính xác cho lắm. Vấn đề sinh đôi nó là sai số hệ thống của Tử Vi cũng như sai số mà bất cứ môn khoa học nào cũng có. Vài dòng như vậy thôi, nói thật với anh tôi rất thích câu nói: Khoa học không phải là để bác bỏ Chúa Trời. Chúc anh sức khỏe mong có ngày gặp được anh Kính -o0o- Thiên Sứ Oct 31 2009, 01:09 PM Quí vị quan tâm thân mến. Trước hết tôi trân trọng cảm ơn báo Tia Sáng và Anh Nguyễn Thế Trung đã tạo điều kiện cho tôi lần đầu tiên có tiếng nói chính thức trước các nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam về bản chất thuyết Âm Dương Ngũ hành - Lý thuyết thống nhất vũ trụ - mà những tri thức khoa học tiên tiến nhất đang mơ ước. Chỉ trong vòng 60 phút và với một sự chuẩn bị không chu đáo vì cuộc sống bận rôn nhiều mặt của tôi. Nên tôi không thể nói được hết ý với các nhà khoa học hàng đầu - tuy không chuyên môn về Lý Học Đông phương - nhưng rất dồi dào về tư duy logic và khả năng tổng hợp những sự kiện để đưa ra một kết luận đúng với sự nắm vững nhưng tiêu chí khoa học của họ. Bởi vậy, bắt đầu từ bài viết này tôi tổng hợp lại những ý chính mà tôi trình bày trong buổi tọa đàm để quí vị quan tâm tham khảo và cũng là sự tổng hợp những điều tôi muốn nói đến các nhà khoa học bậc thầy của Việt Nam để minh định sự nghiêm túc của vấn đề tôi trình bày. Trong buổi tọa đàm dó, khi trình bày về một lý thuyết đã tồn tại trên thực tế thì nó phải gồm ba bộ phận cấu thành chủ yếu như sau: I - Lịch sử hình thành học thuyết. Một học thuyết dù theo bất cứ quan niệm nào và nhân danh bất cứ cái gì, dù đúng, dù sai thì cũng phải có một lịch sử hình thành nên nó. Xuất phát bơi nền tảng tri thức của xã hội mà nó ra đời. II - Nội dung học thuyết . Một học thuyết phải có một nội dung hợp lý với chính nó, cho dù chỉ là một sự hợp lý hình thức với những giả qui luật. III - Sự phản ánh một thực tại khách quan mà học thuyết đó tổng hợp. Và nó phải giải thích một cách hợp lý tất cả những vấn đề liên quan một cách hợp lý, nhất quán, hoàn chỉnh. Với một học thuyết khoa học thì còn cần tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. IV - Lý thuyết thống nhất. Minh chứng những yếu tố xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất. Kính thưa quí vị quan tâm, Như vậy mỗi một chủ đề tôi chỉ được trình bày trong không quá 15 phút. Đó là lý do tôi phải tóm tắt lại những điều tôi đã trình bày ở đây. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị. Còn tiếp
  4. Vào đầu những năm 1920, một đồng xu bằng đồng giống như đồ tạo tác đã được phát hiện khi nạo vét một chiếc giếng ở Lawn Ridge, Illinois. Địa tầng của đồng xu này có độ sâu được ước tính khoảng 114 feet dưới lòng đất và địa chất của tiểu bang Illinois đã được xác định rằng, nó có độ tuổi khoảng từ 200.000 đến 400.000 năm. Trên thực tế những hình vẽ của “đồng xu” này đã được tạo ra trước cả đồ tạo tác, đồng xu này đã được gửi tới Viện Smithsonian để được lưu giữ trong trạng thái tốt nhất. Đáng tiếc rằng “đồng xu” này, cũng như nhiều thứ đồ cổ khác không phù hợp với bất kì niên đại nào của lịch sử, kể từ khi không còn được sự quan tâm của Viện Smithsonian nó đã rơi vào quên lãng cũng như chính những hình vẽ của nó vậy. Những hình được vẽ trên đồng xu có hình một con gì đó to lớn với 2 chân, trên đầu đội một vật gì đó bằng lông, tay cầm một chiếc gậy và dưới chân nó là một người đang nằm. Xung quanh viền “đồng xu” là một số những kí tự có thể là cùng một loại dạng chữ viết. Bây giờ chúng chuyển sang một sự kiện xảy ra vào tháng 11 năm 1967, khoảng 11h rưỡi đêm, có một luồng ánh sáng đã chiếu xuống sân golf Riverside, Edmonton, Alberta, Canada. Một nhân chứng nói rằng anh ta nhìn thấy từ nhà mình cách đó khoảng 1,500 feet có một vật thể bay không xác định có hình dạng như những chiếc đĩa đồng dẹt trên sân golf này. Anh ta nhìn thấy những ánh sáng được chiếu xuống và cuối cùng chúng chuyển thành những quả cầu. Những ánh sáng đầu tiên thì có màu đỏ nhưng sau đó thì chúng chuyển sang màu tím nhạt và anh ta cũng nghe thấy những tiếng ù ù như tiếng phát ra từ một chiếc máy biến thế. Anh ta đã chứng kiến những vật thể này bay qua sông Saskatchewan, sau đó ánh sáng từ những chiếc phi thuyền biến mất và anh ta còn nhìn thấy nó tỏa ra thứ ánh sáng màu bạc dưới ánh trăng. Khoảng 5 phút sau thì những ánh sáng đó quay trở lại và những vật thể bay này phi thẳng vào không trung và biến mất. ) Ngày hôm sau, người đàn ông đó đã đi đến khu vưc sân golf đó và hi vọng có thể tìm thấy một vật thể lạ nào đó. Sau một cuộc tìm kiếm ngắn ngủi anh ta phát hiện ra một vòng tròn trên thảm cỏ bị nghiền nát, và những hình tròn này rộng khoảng 15 foot. Khoảng 6 foot bên ngoài phía vòng tròn là một hố có đường kính khoảng 4 inch. Khi anh ta tìm toàn bộ xung quanh khu vực đó, anh ta đã nhặt được một miếng kim loại rộng khoảng 7 inch, dài 5 inch và dày 1 mm. Trên một mặt của miếng kim loại này được khắc một số đường kẻ và những kí tự không thể hiểu nổi, chúng có thể là một bản đồ địa hình nhỏ. Một số kí tự trên miếng kim loại này đồng dạng với một số kí tự của đồng xu được tìm thấy ở Illinois. Mảnh kim loại thứ 3 của những kí tự kì lạ này được chụp từ một vật thể bay lạ có hình dạng kì lạ trên ngọn đồi Appalachian. Tuy nhiên bức ảnh không đủ rõ để nhìn rõ những kí tự của vật thể lạ này, tất cả những gì có thể nhìn thấy trong bức ảnh này là một phần “cánh” có ghi những kí tự trùng khớp vớI đồng xu ở Illinois, miếng kim loại. Nếu những kí tự này được coi là trùng khớp với nhau thì hẳn nó phải xuất phát từ một thứ ngôn ngữ chung, và những thứ ngoài trái đất này đã ở trên hành tinh của chúng ta từ rất rất lâu rồi. Wm. Douglas Mefford
  5. Quí vị quan tâm thân mến. Cách đây vài ngày, Thiên Sứ tôi có thử nghiệm cảm ứng tương tác - và xác định rằng: Sẽ không có máy bay rơi trên toàn thế giới kể từ 0g ngày mùng 8 - 11 - 2009. Nhưng hôm nay, ngay trước mắt tôi - tôi đang ở Yên Bái - một chiếc máy bay Mig 21 đã rơi. Cuộc thử nghiệm không thành công. Tuy nhiên, sự thất bại này có thể lý giải là do Hacker, nên tính tương tác không còn. --------------------------------------------------------------------------------------- Việt Nam: Máy bay quân sự Mic 21 rơi tại Yên Bái, 2 phi công tử nạn Vitinfo Vào hồi 2h chiều nay, ngày 12-11, một chiếc máy bay quân sự Mic 21 đã gặp nạn và rơi xuống sát một khu dân cư đông đúc tại thành phố Yên Bái. Hai phi công trên chiếc máy bay này đã tử nạn. Chiếc máy bay Mic 21 rơi vào khu vực đông dân cư giáp đường 379 - tuyến đường trung tâm thành phố Yên Bái. Nơi máy bay rơi xuống là gần một nhà kho, và làm xập ngôi nhà này. Vụ tai nạn này đã làm cho hai phi công trên chiếc máy bay này đã tử nạn, may mắn không có thường dân nào bị thương, Nhiều nhân chứng sống ở phường Yên Ninh (thành phố Yên Bái) cho biết, chiếc máy bay quay tròn vài vòng, bốc khói đen trên bầu trời, sau đó phát ra tiếng nổ lớn gây hoảng loạn cho cả khu dân cư rồi rơi xuống đất. Tại hiện trường, chiếc máy bay đã cháy đen, phần đầu đâm vào hẻm đồi giáp đường 379, toàn bộ đuôi vỡ vụn. Hiện trường vụ tai nạn đang được phong tỏa giữ nguyên hiện trang để lực lượng công an và quân đội đến tiếp quản. Mic 21 là máy bay tiêm kích phản lực loại nhẹ do Liên Xô sản xuất vào những năm 60 của thế kỷ trước. Các phi công Việt Nam đã từng sử dụng những chiếc máy bay loại này để chiến đấu và bắn hạ nhiều máy bay của Mỹ, trong đó có pháo đài bay B52. Theo Vnexpress
  6. Tòa nhà quốc hội Scotland này quá tệ về mặt Phong Thủy. Đất nước này mà đi lên được thì lý thuyết phong thủy phải xem lại vì nó sai. Híc!
  7. Cảm ơn bác Liêm Trinh.Cũng hy vọng vậy. Nghe tin hành lang: Giáo Sư Đào Vọng Đức hiện là giám đốc Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Không phải tướng Chu Phác. Nếu đúng vậy thì hy vọng sẽ có sự hợp tác với TT này. Tuy nhiên sự khám phá tiềm năng này cần được mọi người công nhận một số tiền đề của Lý học Đông phương phục hồi từ văn minh Việt.
  8. Mỹ sẽ chia sẻ "quyền bá chủ" với Trung Quốc và Ấn Độ VIT - Theo nhận của Bộ trưởng Cố vấn Singapore Lý Quang Diệu, đến nửa thế kỷ nữa, nước Mỹ có thể sẽ phải phân chia quyền lợi từ vị thế kinh tế của mình cho Trung Quốc và Ấn Độ. Trong quá trình trả lời phỏng vấn của New York Times, ông Lý Quang Diệu cho biết, trong nửa đầu của thế kỷ 21, thế giới đều do nước Mỹ đứng đầu, nhưng đến nửa cuối của thế kỷ này, nước Mỹ sẽ buộc phải phân chia sự thống trị cho hai "đại gia mới nổi" đến từ châu Á là Trung Quốc cùng Ấn Độ. Theo ông Lý Quang Diệu, trong 30 năm qua, Trung Quốc và Ấn Độ, nếu không phải tính theo điều kiện bình quân đầu người, thì tổng thể nền kinh tế của họ đã vượt qua kinh tế Mỹ. Ông Lý cũng chỉ ra rằng, thế giới đang có những cách nhìn khác nhau khi tiếp cận kinh tế Trung Quốc, bởi Trung Quốc đang trở thành nền kinh tế lớn không chỉ ở khu vực châu Á. Tuy nhiên, theo ông Lý Quang Diệu, mặc dù kinh tế Trung Quốc đã có nhiều thập kỷ tăng trưởng mạnh, có hy vọng vượt qua Mỹ, nhưng để đạt được tiêu chuẩn về đời sống và tiêu chuẩn công nghệ của Mỹ, Trung Quốc cũng cần ít nhất là 100 năm nữa. Thế hệ người Trung Quốc hiện tại cũng nhận thức được rằng, họ chưa đủ khả năng để so sánh với các nước phương Tây đặc biệt là nước Mỹ, nhất là trong lĩnh vực khoa học công nghệ mà điển hình là công nghệ quân sự. Theo nhận định của Bộ trưởng Cố vấn Singapore, về phương diện của nước Mỹ, ông cho rằng, nước Mỹ đã có những điều chỉnh, biểu hiện sớm nhất đó là, Mỹ đa đưa Trung Quốc trở thành đối thủ chiến lược, nhưng đồng thời cũng là đối tác tương quan về lợi ích. Đối với Ấn Độ, ông Lý cho rằng, nước này cần một thời gian dài nữa mới có thể thách thức được vị trí đứng đầu của Mỹ, nhưng nếu như Ấn Độ có một cơ chế quản lý vững chắc và tập trung thì vấn đề này cũng không phải là khó. Cuối cùng ông Lý Quang Diệu khẳng định, nếu như nước Mỹ không bảo toàn được vị trí của mình ở bên kia Đại Tây Dương thì sẽ mất đi vị trí là bá chủ thế giới, hơn nữa nếu muốn bảo toàn được vị trí của mình, Mỹ cần phải giảm bớt quy mô của thâm hụt ngân sách cũng như vị trí suy yếu của đồng USD. Ông Lý Quang Diệu là thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hoà Singapore, ông đảm nhiệm chức vụ này từ năm 1959 đến năm 1990. Mặc dù đã rời bỏ chức vụ, hiện nay ông vẫn được xem là chính khách có ảnh hưởng lớn thứ nhì tại đảo quốc này (chỉ sau thủ tướng). Ông tiếp tục phục vụ trong chính phủ của thủ tướng Ngô Tác Đống trong cương vị Bộ trưởng cao cấp. Hiện nay Lý Quang Diệu đang giữ một chức vụ được kiến tạo riêng cho ông, Bộ trưởng Cố vấn (Minister Mentor). N.S (CE, Wikipedia) --------------------------------------------
  9. AFP: Cuộc chiến về tỷ giá tiền tệ toàn cầu sẽ nổ ra VIT - Một đồng USD yếu, một đồng EURO kiên cường, một đồng Nhân Dân Tệ với tỷ giá thấp,...có tạo nên một cuộc chiến về tỷ giá tiền tệ toàn cầu hay không, tất cả vẫn đang đợi vai trò của Mỹ, châu Âu và cả Trung Quốc. Từ Washington đến Paris, Brussels, đều “vang vọng” lời kêu gọi về việc làm cho đồng USD mạnh lên. Bởi đồng USD mất giá có thể khiến cho người châu Âu không vui, họ lo lắng về việc giá cả hàng hóa xuất khẩu sẽ tăng lên trong quá trình nền kinh tế đang phục hồi. Trung Quốc cũng không vui khi đồng USD mất giá, bởi kho dự trữ ngoại hối khổng lồ của nước này cũng đứng trước nguy cơ bị đe dọa. Trong khi đó đương sự là nước Mỹ lại cam tâm đứng nhìn, khi đối mặt với cuộc khủng hoảng thanh khoản người Mỹ chỉ biết cách bơm thật nhiều đồng USD vào thị trường do đó làm cho đồng USD bị mất giá. Theo nhận định của một chuyên gia phân tích người Pháp, Chính phủ Mỹ sẽ phải tiến hành nhiều phương án chỉ để cắt giảm con số thâm hụt ngân sách, nhưng hiệu lực chỉ có thể thấy về dài hạn. Chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Ben Bernanke tuyên bố Chính phủ Mỹ đã áp dụng các hành động rõ ràng cho việc khống chế thâm hụt ngân sách, nhưng hiệu quả chưa thấy rõ. Hiện tại tình hình của các nước trong khối sử dụng đồng tiền chung châu Âu cũng trở nên phức tạp khi các nước thành viên có những quan điểm khác nhau trong việc đưa ra những chính sách can thiệp vào thị trường tiền tệ. Những ngân hàng trung ương độc lập tại khu vực châu Âu có thể xem xét đến phương án can dự vào thị trường như của FED. Nhưng phương án này hiếm gặp. Hành động gần đây nhất là vào năm 2000 khi các ngân hàng đưa ra chính sách có mức hỗ trợ thấp nhất cho các đơn vị tiền tệ. Năm 1985, năm ngân hàng trung ương tại Eurozone đã đạt được thỏa thuận về việc ngăn chặn sự tăng giá của đồng USD. Tại Bắc Kinh, tình hình là hoàn toàn không giống như ở châu Âu. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc tiếp tục can thiệp sâu vào thị trường tiền tệ, với mục đích là để kích thích xuất khẩu của nước mình và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Bởi nếu không có sự can thiệp đó, thâm hụt thương mại lớn của Trung Quốc sẽ tự động thúc đẩy sự đánh giá của đồng Nhân Dân Tệ. Trên thực tế, chính sách tiền tệ của Bắc Kinh càng trở lên khó áp dụng ở thời điểm hiện tại. Bộ Tài chính Mỹ cho rằng, chính sự "cứng đầu "của đồng Nhân Dân Tệ là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho các nhà đầu tư phải quan tâm. Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Châu Âu Jean - Claude Trichet tuyên bố trong bối cảnh hiện tại, Trung Quốc cũng nên cân nhắc được rằng đâu là “vật hy sinh cần thiết”. N.S (Lược theo CE) Nhời bàn của Thiên Sứ: Cuộc khủng hoảng tiền tệ nhất định xảy ra. Hay nói theo ngôn ngữ AFP thì cuộc chiến này tất cả đều tơi tả. Nhưng vị thế đồng Dollas của Hoa Kỳ vưỡn chưa bị hạ bệ khỏi ngôi bá chủ, sau cuộc chiến tiền tệ. Mặc dù cũng tơi tả vì những vết thương trong trận chiến. Vừa rồi Thiên Huy đề nghị tôi độn quẻ xem bao giờ cuộc chiến xảy ra, hay nói cách khác: Bao giờ khủng hoảng tiền tệ xảy ra? Trước đây tôi chỉ đoán nhắm chừng. Nhưng hôm nay xin xác định rằng : Tháng 4 Âm lịch năm tới cuộc khủng hoảng tiền tệ bắt đầu. Thế giới này te tua cho đến tháng 9 năm 2011.. Thiên Sứ tài hèn, có thể sai. Mong các cao nhân cho ý kiến tham khảo. Thiên Huy viết: Về đoạn trên của Thiên Huy có nói tới Việt Nam. Dù sao đi chăng nữa thì Việt Nam không phải là một nước tham gia cuộc chiến tiền tệ. Nên ảnh hưởng xấu cũng chẳng đến nỗi nào. Thiên Sứ tôi chỉ có thể có lời khuyên thế này với những người đang có tham vọng làm giầu: "Tham thì thâm. Phật đã bảo thầm rằng chớ có tham". :blink:
  10. Anh chị em có nhu cầu Ap vong thân mến. Tối hôm qua, đúng hẹn tôi đã liên lạc với cô Thiêm. Chồng cô nghe máy và cho biết hiện rất bận, nên không thể vào Sài Gòn giúp chúng ta được. Anh cho biết tuần này vợ chồng anh phải xuống Lâm Đồng tìm mộ. Tôi đề nghị từ Lâm Đồng anh chị có thể đi thẳng xuống T/p HCM. Nhưng anh chị Thiêm cho biết là không hứa trước và nếu có xuống thì chỉ một ngày. Anh chị yêu cầu gọi điện thoại liên lạc lại vào Chủ Nhật tuần này. Tôi hiện nay đang rất bận, phải tập trung làm nhiều việc. Bởi vậy, tôi giao hẳn việc này cho cô Wildlavender phụ trách và chịu trách nhiệm liên hệ với cô Thiêm, cũng như đối với anh chị em có nhu cầu áp vong và mọi v/d liên quan. Cá nhân tôi, nếu có thể thì chỉ tham gia một vài giờ với mục đích tìm hiểu bản chất của việc thấu thị và mối liên hệ với vong qua hiện tượng áp vong.
  11. Oh. Thế thì tốt quá.Bác Xuyền chắc sẽ rất vui khi có những người có tâm như Phuctuan với nền văn hóa dân tộc Việt.
  12. Giả thiết của Phuctuan về khả năng chữ Phạn xuất phát từ chữ Khoa Đẩu cổ hoàn toàn có cơ sở. Nếu Phuctuan ở Hanoi thì hôm nào tôi mời Phuctuan lên Phú Thọ g8ạpp bách Xuyền. Hy vong Phuctuan sẽ giúp bác ấy được những ý tưởng gì không?
  13. Toàn văn buổi đối thoại Lý học Đông phương và khoa học hiện đại sẽ được đánh máy và đưa lên topic này.
  14. Trộm vào nhà cũ: Kỷ niệm xưa bị mất. Vusonganh học Lý học được rồi đấy.
  15. Rubi có thể đem đề tài nghiên cứu của mình sang một topic khác. Ở đây chủ đề là "Kinh Dịch của Trung Quốc?" Chúng ta nên tập trung vào chủ đề này. Rubi có hẳn một topic riêng của mình trong diễn đàn mà. Tôi xóa những bài không liên quan đến chủ đề.
  16. Đã gọi là niên tinh 2009 rồi mà. Đâu có nói Vận tinh 8 đâu.
  17. Ngày xưa ở Việt Nam có Viện Nghiên cứu Đông Y. Ở đâu có bài thuốc hay là đem về nghiên cứu tập hợp lại. Nhưng nay viện ấy đã giải tán. Những tài năng như vậy mai một dần. Thật đáng tiếc.
  18. Bài viết của ông Trần Vân Hạc cần biên tập lại một vài đoạn và rất xứng đáng đưa ra trang chủ Lý học Đông phương.
  19. Mỹ tuyên bố “tình trạng khẩn cấp” về cúm A/H1N1 Nguồn Thanh nien Online 25/10/2009 16:12 Người dân xếp hàng chờ tiêm vắc-xin chống cúm A/H1N1 miễn phí tại Chicago, Mỹ - Ảnh: Reuters (TNO) Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tuyên bố “tình trạng khẩn cấp” quốc gia đối với dịch cúm A/H1N1 khi số người nhiễm bệnh cúm này ở Mỹ đã lên đến hàng triệu và hơn 1.000 người chết vì bệnh này, hãng tin AFP dẫn thông tin từ Nhà Trắng hôm 24.10 cho biết. “Dịch cúm A/H1N1 năm 2009 tiếp tục lây lan. Tỷ lệ người nhiễm bệnh này tiếp tục gia tăng nhanh chóng trong nhiều cộng đồng trên cả nước”, ông Obama nói. Cũng theo nguồn tin từ Nhà Trắng, tuyên bố của nhà lãnh đạo Mỹ nhằm tăng cường khả năng khám chữa bệnh của các cơ sở y tế trong bối cảnh số bệnh nhân cúm A/H1N1 ngày càng tăng, đồng thời cho phép các bác sĩ và y tá tạm thời bỏ qua một số yêu cầu của liên bang (như chương trình bảo hiểm y tế và một số chương trình chăm sóc sức khỏe khác) để họ có thể tập trung tốt hơn vào việc phòng chống dịch cúm A/H1N1. Tuyên bố trên được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Bộ trưởng Y tế Kathleen Sebelius cảnh báo về việc nhu cầu chích ngừa cúm A/H1N1 đã vượt qua nguồn cung cấp vắc-xin cho bệnh này. Tuy nhiên, giới chức Mỹ cho biết tuyên bố trên được đưa ra chỉ là một biện pháp phòng chống dịch bệnh cúm A/H1N1 lây lan thêm. Việc làm này cũng tương tự như tuyên bố tình trạng khẩn cấp thiên tai trước khi các cơn bão đổ bộ vào nước Mỹ. Huỳnh Thiềm ------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ; Rất tiếc! Thiên Sứ đã dịch hẳn ra tiếng Anh và gửi tổ chức y tế thế giới v/v này, khi mới chớm ở Mehico. Bây giờ thì chịu.
  20. Thiên Sứ tôi thấy động đất ở Indo xảy ra hoài, người chết như rạ, thấy không "khoa học" và động lòng trắc ẩn, nên lên quẻ và có lời tử tế với một quốc gia láng giếng. Động đất xảy ra ở Afganixtan, không xảy ra ở Indo nữa. Vừa mới "khỏi vòng, đã cong đuôi", hạ viện Indonesia vừa thông qua một đạo luật có nội dung như sau:Tàu tuần tiễu của họ có quyền bắn bỏ tất cả những tàu đánh cả xâm nhập lãnh hải. Ngư dân Việt Nam kêu trời. Nhỡ lạc vào vùng biển Indo thì chỉ có chết. Bởi vậy Thiên Sứ ngẫm lại, thấy những nước ở nơi có vết nứt gẫy của vỏ trái Đất thường xảy ra động đất là "hoàn toàn khoa học". Vậy thôi.
  21. Kính thưa quí vị quan tâm. Toàn bộ buổi tọa đàm về mối liên hệ giữa Lý học Đông phương và tri thức khoa học hiện đại đã được đưa lên trong topic này (Phần một xin xem ở topioc cùng chủ đề). Quý vị có thể tham khảo. Xin cảm ơn.
  22. Cá nhân tôi tôn trọng tất cả mọi ý kiến có tính phát minh khác cái cũ. Nhưng nó phải phù hợp với một tiêu chí nhất quán. Cho dù tiêu chí đó nhân danh Thương Đế thì cũng phải hợp lý với chính nó. Riêng tôi, tôi chọn tiêu chí khoa học làm tiêu chí nhất quán trong các chủ đề của tôi. Rubi cứ việc nghiên cứu theo định hướng của mình.
  23. Về mặt lý thuyết thì Phong Thủy Lạc Việt không phải là một môn phái. Mà là sự tổng hợp và hiệu chỉnh tất cả các v/d và trên thực tế của môn Phong Thủy còn lưu truyền qua văn bản hay ứng dụng thực tế, trên cơ sở nguyên lý căn để: Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ (Cổ thư Hán: Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư).
  24. Việc chỉnh lại Hậu Thiên; Tiên Thiên - phối Hà Đồ hay Lạc Thư....ai đưa ra ý kiến gì cũng được. Thí dụ: Thiên Sứ: Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ, Nguyễn Tiến Dũng: Trung Thiên bát quái đồ; Trần Quang Bình: Hâu Thiên Âu Lạc phối Hà đồ....vv .... Nhưng việc hiệu chỉnh này - Hà Đồ - Lạc Thư - Bát quái Tiên, Hậu Thiên - mang tính nguyên lý lý thuyết cho tất cả mọi phương pháp ứng dụng cua thuyết Âm Dương Ngũ hành - thì - nó phải là một sự giải thích hợp lý tất cả mọi vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó và miêu tả được một thực tại khách quan có khả năng nhận thức được và hình thành nên lý thuyết đó. Nếu thỏa mãn điều kiện này thì sự hiệu chỉnh đó được coi là đúng. Nếu thuyết của Rubi muốn được coi là đúng thì nó phải giải thích được tất cả mọi lĩnh vức ứng dụng liên quan. Thí dụ như: Phong Thủy, Đông Y...vv...