Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. "Bí hiểm cầu "ma ám" Thứ Hai, ngày 24/05/2010, 08:09 (24h) - Một cây cầu được xây dựng cực kỳ hiện đại và kiên cố. Tuy nhiên bỗng chốc cầu lại uốn lượn như một dải lụa. Hãy xem video để thấy cây cầu bị "ma ám" như thế nào. Cây cầu bị "ma ám" Xem Video ở đây: http://hn.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/bi...c46a298834.html Nếu không xem được video vui lòng bấm vào đây để tải và cài flash player
  2. Việc xây Thiên Môn ở Bắc Kinh - Thiên An Môn nhìn về hướng nam vì một nguyên nhân khác: Thiên Tử tọa Bắc triều Nam - Còn trời đi về Hướng Nam nên gọi là Thiên Môn. Nhưng ngay trong việc định hướng của La Bàn thì Sơn Thìn thuộc Đông Nam. - Thìn Khôn Tỵ (Theo Lạc Việt) - Thìn Tốn Tỵ (Theo Tàu). Vì trái đất nghiêng, nên hướng chính đông - vuông góc với trục Bắc Nam nằm cao hơn phương mặt trời mọc. Vì vậy đúng là biểu kiến ở cung Thìn chính là mặt phẳng Hoàng Đạo. Tương tự, Mão được coi là sơn có mặt trời mọc - Nhưng Dậu - con gà - Mão nhật tính Quân lại ở cung đối xứng.
  3. TƯ LIỆU THAM KHẢO Ngoại trưởng Mỹ và Chủ tịch Trung Quốc Trung - Mỹ nhất trí đảm bảo ổn định trên bán đảo Triều Tiên Thứ tư, 26/05/2010, 08:29(GMT+7) VIT - Ngày 25/5, Trung Quốc và Mỹ đã nhất trí hợp tác để bảo đảm sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên trong bối cảnh vụ chìm tàu tàu chiến của Hàn Quốc đổ lỗi cho phía Triều Tiên đang căng thẳng. “Chúng tôi mong đợi hợp tác với Trung Quốc nhằm đáp trả hành động khiêu khích của Triều Tiên và thúc đẩy sự ổn định trong khu vực,” Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton phát biểu với báo giới sau cuộc đối thoại kinh tế và chiến lược Trung – Mỹ kéo dài 2 ngày tổ chức tại Bắc Kinh. “Tôi nghĩ rằng, rõ ràng Trung Quốc không chỉ được đánh giá cao, mà còn rất tận tâm đối với cam kết ổn định trong khu vực, và chia sẻ với chúng tôi mục tiêu phi hạt nhân hoá bán đảo Triều Tiên”, Ngoại trưởng Clinton phát biểu. Được biết, Ngoại trưởng Clinton dự kiến sẽ tổ chức hội đàm với Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak và Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Yu Myung Hwan tại Seoul vào hôm thứ Tư (26/5). Trước đó, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak cho biết hôm thứ Hai (24/5) rằng Hàn Quốc sẽ đưa sự cố ngày 26 tháng 3 lên Hội đồng Bảo an LHQ sau khi một nhóm các nhà điều tra kết luận hồi tuần trước rằng ngư lôi của Triều Tiên gây ra vụ chìm tàu hộ tống Cheonan tải trọng 1.200 tấn tại biển Hoàng Hải, khiến 46 thủy thủ thiệt mạng. Trong khi Mỹ và Nhật Bản ủng hộ ông Lee đưa vụ án Cheonan ra Hội đồng Bảo an LHQ, thì Trung Quốc đã phản ứng với hành động của Seoul trên cương vị là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an có quyền phủ quyết đang giám sát rất chặt chẽ sự việc. Vào sáng thứ Ba (25/5), Trung Quốc kêu gọi các cường quốc trong khu vực không hành động để duy trì an ninh ổn định trong và xung quanh bán đảo Triều Tiên, với tuyên bố các bên hãy “bình tĩnh” và “kiềm chế” giữa lúc bất đồng về vụ việc ngày càng gia tăng. “Giữ gìn hòa bình và ổn định trên bán đảo Triều Tiên và Đông Bắc Á là vì lợi ích của tất cả các bên, và cũng là trách nhiệm của chúng tôi”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Jiang Yu phát biểu tại cuộc họp báo. “Trung Quốc kiên quyết phản đối bất kỳ hành vi nào trái ngược với nguyên tắc trên. Trong hoàn cảnh hiện nay, hành động của bất cứ quốc gia nào cần phải có lợi cho hòa bình và ổn định của bán đảo, thay vì phá vỡ nguyên tắc trên”, phát ngôn viên Jiang nói. Được biết, Triều Tiên đã nhiều lần phủ nhận liên quan tới vụ chìm tàu Cheonan và đe dọa tiến hành cuộc “chiến tranh toàn diện” nếu bị trả đũa và áp đặt lệnh trừng phạt. Ngoài ra, tại cuộc hội đàm Trung - Mỹ cấp Bộ trưởng, hai quốc gia có nền kinh tế lớn nhất và lớn thứ 3 thế giới cũng đã thảo luận về vấn đề hạt nhân Iran, mối quan hệ quân sự song phương, quan hệ thương mại hai chiều và chính sách tiền tệ của Bắc Kinh. Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton và Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner, đồng đại diện cho phái đoàn Mỹ gồm khoảng 200 quan chức, trong khi phái đoàn Trung Quốc do Dai Bingguo Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc và Phó Thủ tướng Wang Qishan dẫn đầu. Trước đó hôm thứ Hai, Chủ tịch Trung Quốc Hu Jintao đã cam kết tiếp tục cải cách hệ thống trao đổi tỷ giá hối đoái kiềm chế đồng đô-la Mỹ của Bắc Kinh, nhưng ông không cho biết khi nào Trung Quốc sẽ nâng giá đồng nhân dân tệ. Được biết, trong những tháng gần đây, Bắc Kinh đã phải đối mặt với áp lực từ Washington yêu cầu nâng giá đồng nhân dân tệ như một biện pháp để cân bằng thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc. Đối thoại Trung - Mỹ được thiết lập tại hội nghị thượng đỉnh giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và ông Hu Jintao tại London vào tháng 4/2009. Trước đó, vòng đàm phán đầu tiên được tổ chức tại Washington vào tháng 7/2009. Thanh Hoa (Theo AP) Tin dịch
  4. Tôi biên tập - chủ yếu là sắp xếp các mục và sửa chính tả. Nhờ Artmisia đưa vào trang chủ.Cảm ơn nhiều. --------------------------------------- Đi thăm chiến trường thời Tống Lý. (Tựa bộ Nam Quốc Sơn Hà) Thư viết cho tuổi trẻ tộc Việt Để giải những nghi vấn lịch sử : Những giòng dưới đây tôi viết dành cho tuổi trẻ Việt, chưa có chút vốn về thư tịch của chiến thắng Bắc phạt thời Lý, đánh chiếm các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch. Mong những bậc cao minh bỏ qua. Chẳng nên bận tâm. Trân trọng. I - Mở đầu. Hồi còn để chỏm, tiền nhân giảng dạy sử Hoa-Việt cho tôi, mỗi khi đề cập đến những chiến công oanh liệt của năm lần phạt Tống, một lần kháng Tống thời Lý, các người thường giảng rất kỹ, rất chi tiết, cùng bình luận. Nhưng chỉ giảng kỹ bốn lần đầu thôi. Còn lần cuối, với lần kháng Tống, vĩ đại nhất, oanh liệt nhất thì lại lướt qua. Trong khi lướt qua, các người ít chịu nhắc đến huân nghiệp của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt; thảng hoặc bất đắc dĩ phải đề cập đến, thì nói bằng giọng lạnh nhạt : « Người cầm quân đánh sang Khâm, Ung, Liêm là ngài Tôn Đản, công-chúa Ngô Cẩm-Thi với viên hoạn quan Lý Thường-Kiệt» Rồi khi khuyên tôi Viết lịch-sử tiểu-thuyết, chỉ khuyên viết các bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, thuật cuộc khởi nghĩa của vua Trưng cùng 162 tướng; Anh hùng Đông-a thuật cuộc bình Mông thời Trần; Anh hùng Lam-sơn, thuật cuộc khởi nghĩa của vua Lê; Anh-hùngTây-sơn, thuật chiến công đánh Mãn-thanh của vua Quang-Trung. Còn những chiến công thời Lý thì bỏ qua. Tâm lý chung của tuổi trẻ là tò mò. Vì các người không nhắc đến, thì tôi lại âm thầm tìm hiểu. Mỗi khi tìm thấy những điều mới lạ, mà người trên không biết, không cần biết tới, không muốn biết, tôi lại cảm thấy thú vị. Sau lớn lên, tôi mới biết rằng sở dĩ các người lãnh đạm với huân nghiệp của Lý Thái-úy, vì ngài là một hoạn quan. Mà trong lịch sử Hoa-Việt, các Nho-gia cực kỳ ghét bọn hoạn quan. Vì bọn này thường nhờ vào vị thế hầu hạ, tôi tớ các vị vua, các bà trong hậu cung, rồi lộng quyền, làm hại dân, hại nước. Chính vì thế, mà tiền nhân tôi không khuyến khích tôi viết về thời Lý, chứ không cấm. Những năm sau 1975, tôi làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaceutique, viết tắt là CEP) , Viện Pháp-á (Institut Franco- Asiatique, viết tắt là IFA), Ủy-ban y học Pháp-Hoa (Comité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), có nhiều phương tiện tìm hiểu lịch sử thời Lý, tôi thấy rằng: Vì thiếu sử liệu, nên các sử gia Việt chỉ biết tên có hai tướng cầm quân Bắc phạt là Lý Thường-Kệt với Tôn Đản; rồi cho rằng huân công Bắc phạt, kháng Tống là của hai vị này. Trên thực tế, hai vị này chỉ là hai trong mấy chục anh hùng thời đó. Vì vậy, không ngần ngại, tôi đã viết năm bộ về thời Tiêu-sơn, dù tiền nhân không khuyến khích (chứ không cấm). - Một là, Anh-hùng Tiêu-sơn, 3 quyển, 907 trang, thuật công nghiệp của các vị tăng ni yêu nước đã lập lên triều Lý; cuộc Bắc-phạt lần thứ nhất. - Hai là, Thuận-Thiên di sử, 3 quyển, 909 trang, thuật việc dùng đức từ-bi, bác-ái của nhà Phật; nhân-nghĩa của nhà Nho để trị nước...Khiến sử gia Hoa, Việt không ngớt khen ngợi rằng đây là thời kỳ dân Việt sung sướng như thời Nghiêu, Thuấn bên Trung-hoa. Nhưng sự thực các sử gia Trung-quốc đã lầm. Vua Lý Thái-tổ đã dùng chủ đạo của tộc Việt (Idéology) cai trị dân mà thôi. - Ba là, Anh-hùng Bắc-cương, thuật công cuộc giữ nước của 207 bộ tộc của các sắc dân thiểu số ở biên giới Hoa-Việt; cùng cuộc Bắc phạt lần thứ nhì. Tôi cũng trình bầy rất chi tiết, rất rõ ràng những vùng như núi Ngũ-lĩnh, sông Tương với ba địa danh Tương-trung, Tương-âu, Tương-Nam là nơi phát sinh ra Quốc-mẫu Âu-Cơ. Nhất là trình bầy vùng đất linh của tộc Việt : Núi Thiên-đài, nơi vua Đế Minh lập đàn tế cáo trời đất phân chia lãnh thổ cho Trung-nguyên, Lĩnh-Nam. - Bốn là, Anh-linh thần võ tộc Việt, thuật cuộc Bắc-phạt lần thứ ba. Sang lần thứ tư giúp Nùng Trí Cao chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương , vua Trưng, lập nước Đại-Nam. - Năm là, Nam-quốc sơn hà, thuật cuộc Bắc phạt lần thứ năm, và cuộc kháng Tống. Trong năm bộ trên, với những sử liệu tìm được, tôi đã trình bầy không biết bao nhiêu bí ẩn lịch sử tiềm ẩn trong các sách Hoa-Việt, bao gồm: Quốc-sử, địa dư chí (quốc chí, địa phương chí, phủ huyện chí), truyện ký, thần-tích ngọc phả, mộ-chí, bia-đá, gia-phả. Trong ba bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại-sử, Cẩm-khê di-hận, cứ mỗi cuối hồi, cuối một quyển, tôi lại chú giải, ghi chép các sử liệu, để giới trẻ biết nguồn gốc sử liệu, mà tìm hiểu sâu sa hơn. Sang bốn bộ Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-Thiên di sử, Anhhùng Bắc-cương, với ý nghĩ lẩm cẩm rằng: Chú giải, ghi chép thêm là thừa, nên giới trẻ có nhiều ngộ nhận : Chính những sự kiện lịch-sử, thì bị coi là tiểu thuyết, những yếu tố tiểu thuyết lại được coi là lịch sử. Cho nên sang bộ Nam-quốc sơn-hà, lúc đầu, tôi chú giải sau mỗi hồi. Nhưng tiếp xúc với ông Trương Đình-Nho, giám đốc nhà xuất bản Đại-Nam, tôi mới biết rằng: Khi đọc đến chỗ chú giải, độc giả lại phải mất công lật xuống cuối hồi để tìm tòi; sao bằng chú giải ngay dưới sự kiện. Đây là một kinh nghiệm mà tôi học được. Cho nên sang quyển hai, thì tôi không còn chú giải ở cuối hồi nữa. Bây giờ tái bản ở trong nước, tôi quyết định, tất cả chú giải ngay dưới sự kiện. II - Làm sáng tỏ những sự kiện lịch sử thời Lý Trong bộ Nam-quốc sơn hà này, tôi cố gắng trình bầy một số sự kiện lịch-sử. Trước tiên là: II - 1. Bốn nghi vấn lịch sử Trong năm bộ sách, thì bộ cuối cùng là bộ tôi đắc ý nhất. Nam-quốc sơn-hà là bốn chữ lấy trong bài thơ, tương truyền của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt, sáng tác trong trận đánh sông Như-nguyệt với quân Tống vào năm 1076: Nam-quốc sơn hà, Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư. Như-hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Nghĩa là, Nước Nam là nơi vua nước Nam cai trị, Điều này đã định tại bộ sách trời. Bọn giặc kia, sao dám xâm phạm ? Nhất định bọn bay sẽ phải đại bại. Bài thơ này đến nay (1996) trải 920 năm, mà dường như hầu hết người đọc đều hiểu lầm ý nghĩa chữ Thiên-thư. Các sách đều giải thích rằng Lý Thường Kiệt dùng chữ Thiên-thư như một vật thể trừu tượng là ý trời. Cũng có sách không giải thích. Hồi niên thiếu, khi được tiền nhân giảng Tống-sử, phần Chân-tông bản kỷ, tôi đã được giải thích tỷ mỉ. Thiên-thư là tên một bộ sách, được soạn vào thời vua Tống Chân-tông. Việc chép Thiên-thư này, được ghi rõ trong Tống-sử quyển 7, Chân-tông bản kỷ, trang 135. Sự thực bấy giờ phía Bắc Tống bị Liêu uy hiếp, bắt cắt đất, nộp vàng lụa. Phía Tây bị Tây-hạ tấn công. Phía Nam bị Đại-Việt ép. Bọn 5 gian thần bị Tống-sử gọi là Ngũquỷ gồm Vương Khâm Nhược, Trần Nghiêu Tá (Tẩu) , Đinh Vị, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Hoa mới bầy ra trò bịp bợm. Niên hiệu Đại-trung Tường-phù đời vua Chân-Tông (1008) thay vì tổ chức binh bị giữ nước, thì Tể-tướng Vương Khâm Nhược đề nghị nên dùng hình thức Phong-thiện, tức tế cáo trời đất ở núi Thái-sơn để trấn phục bốn phương. Nhưng muốn tỏ ra việc cúng tế đó là linh ứng tự trời, cần phải tạo ra bộ sách, dối là Thiên thư, của Thiên-đình ban xuống. Bộ sách này được chính Tể-tướng Vương Khâm Nhược, điều động một số văn thần soạn, đến tháng ba niên hiệu Thiên-hy thứ ba ( Kỷ Mùi 1019, vẫn thời vua Chân-Tông) thì xong. Vua sai viên Tuần-kiểm Chu Năng cùng viên Thái-giám Chu Hoài Chính đem dấu vào hang núi Càn-hựu, phía Nam Trường-an, rồi sai bọn đồng cốt nói rằng : « Từ nghìn xưa, có sách từ trời rơi xuống hang núi Càn-hựu ». Song sĩ dân không ai tin. Bấy giờ danh sĩ Khấu Chuẩn, trước từng là Tể-tướng, bị biếm vì tội nói thẳng, rất được sĩ dân tin tưởng. Oâng đang trấn nhậm đạo Vĩnh-hưng quân gần núi Càn Hựu. Sĩ dân nói rằng : « Cái vụ Thiên-thư là bịa đặt. Nếu như có thì ắt Khấu Chuẩn đã dâng về triều ». Vua Chân-Tông mật sai Chu Hoài Chính ngỏ ý rằng Khấu Chuẩn nên giả vào núi, tìm thấy Thiên-tư rồi dâng lên vua, sẽ được vua tái trọng dụng. Lúc đầu Khấu Chuẩn từ chối, nhưng vì say quyền hành, muốn về triều, ông phải bán rẻ cái chính khí. Khi ông mang Thiên-thư về Biện-kinh, nhà vua thân ra cổng thành rước. Dĩ nhiên Khấu Chuẩn thanh vân đắc lộ. Thế là tháng sáu năm đó, Vương Khâm Nhược chết, Khấu Chuẩn được phong chức Tể-tướng kiêm Lại-bộ thượng-thư. Một danh sĩ đương thời là Ngụy Dã người Thiểm-châu đã đã làm một bài thơ châm biếm Khấu Chuẩn. Khấu Chuẩn đau lắm, ông làm thơ để biện luận cho mình như sau : Tặng Ngụy dã xử sĩ. Nhân văn danh lợi tẩu trần ai, Duy tử cao nhàn hối thịnh tài. Hâm chẳm dạ phong huyên tiết lệ, Bế môn xuân vũ trưởng môi đài. Thi đề viễn tụ kinh niên đắc. Tăng luyến u hiên kế nhật lai, Khước khủng minh quân trưng ẩn dật, Khê vân nan đắc, cận bồi hồi. Dịch. Người đời danh lợi thích bon chen, Duy chỉ ngài đây quả thực nhàn. Ôm gối ngồi nghe thanh gió thổi, Mưa xuân, cửa khép cảnh rêu lan. Hang núi xa xăm thư gửi lại, Tăng nhân yêu thích hiên hoang tàn. Chỉ sợ vua trưng người ở ẩn, Còn đâu mây, suối cảnh xanh lam ! Thế rồi, triều đình tế cáo khắp nơi, nào núi Thái-sơn, nào Khổng-miếu, nào tế Đạo-tổ. Các châu quận cũng tế , dân cũng tế, náo loạn cả nước. Nội dung Thiên-thư nói rằng : Vua Trung-nguyên là thiên-tử được sai xuống cai trị Thiên-hạ. Sắc dân Bắc là Địch, Tây là Nhung, Đông là Di, Nam là Man phải quy phục. Trong sách cũng định rõ cương thổ của Trung-nguyên với bốn vùng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sách lại được vua cho người núp trên các nóc đền thờ Tam-hoàng, Ngũ-đế đọc. Dân chúng nghe thấy tưởng đâu trời sai thiên tướng xuống đọc. Họ chép lại rồi lưu truyền. Sau vụ này tinh thần quân, dân Tống hưng khởi lên, giữ được cương giới phía Bắc hơn năm mươi năm. Ghi chú: Bộ sách này Trung-hoa thư cục Bắc-kinh có tái bản nhiều lần, bản mà tôi đọc là bản do Bắc-kinh đệ nhị Tân-hoa ấn chế xưởng in năm 1965. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân sang đánh Đại-Việt, quân Tống tiến tới sông Như-nguyệt, chỉ còn cách Thăng-long có 25 km. Lý Thường-Kiệt cho làm bài thơ, ngụ ý Thiên-thư đã định ranh giới Hoa-Việt, kẻ nào xâm lăng Đại-Việt là trái với sách trời, ắt phải bại. Sau đó ông sai người núp trong đền thờ chư thần, mà đọc. Binh tướng Tống nghe được, lại tưởng là trời sai thần xuống kể tội, rồi truyền nhau về sự tích Thiên-thư, về trận đánh Hỏa-giáp. Họ thì thầm: Như vậy việc Tống ra quân trái với Thiên-thư, thì trước sau rồi cũng đến chết hết. Đó là một nguyên do đưa đến quân Tống mất hết tinh thần chiến đấu, rồi bị bại. Suốt 920 năm qua, người Việt đọc bài thơ trên thấy câu ”Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư” thì cứ cho thiên thư là danh từ chung để chỉ sách trời do Thường-Kiệt bịa ra; không ai biết rằng đó là danh tự riêng để chỉ bộ sách ra đời vào thời vua Chân-Tông. Vì hệ thống tuyên truyền của Tống triều trải từ thời Chân-Tông qua thời Nhân- Tông, Anh-Tông, bấy giờ là thời Thần-tông, (1076) trên từ vua, đại thần, cho đến dân Trung-hoa đều tin vào Thiên-thư nên Thường-Kiệt mới nhân đó, dùng gậy ông đập lưng ông. Chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà mới hiểu rõ ý nghĩa chữ Thiên-thư này mà thôi. Thái-úy Lý Thường-Kiệt là nhân vật tài trí bậc nhất thời Thần-vũ (Lý Thánh-tông) và Anhvũ Chiêu-thắng (Lý Nhân-tông). Ngài là một anh hùng đã lập được huân công vĩ đại cho tộc Việt. Hiện còn nhiều đền thờ ngài. Tôi đã được viếng thăm đền thờ tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa hai lần. Hiện hầu hết các đền thờ anh hùng dân tộc trong nước đều được dân địa phương trùng tu rất khang trang. Nhưng dân Ngọ-xá quá nghèo, vì vậy đền tiêu điều như hình trên.(Hình chụp tháng 8-2001) Trên giữa cổng chính là ba chữ Lý Đại Vương (chữ Lý ở giữa. Bên phải là chừ Đại, bên trái là chữ Vương. Đôi câu đối cổng chính: Phạt Tống, bình Chiêm vạn cổ danh phương thùy vũ trụ, Hộ dân bảo quốc thiên thu công đức quán sơn hà. (Phạt Tống, bình Chiêm tiếng thơm vạn cổ tràn vũ trụ. Giúp dân, giữ nước, công đức nghìn thu khắp non sông). Hình dưới là cổng phụ bên trái, đôi câu đối là: Anh hùng chí khí sinh dũng tướng, Hào kiệt uy phong hóa phúc thần. (Chí khí anh hùng sinh tướng mạnh, Oai phong hào kiệt hóa phúc thần) Còn cổng bên phải có đôi câu đối: Hách hách uy phong trừ nội nghịch, Đường đường kính khí diệt ngoại xâm. (Uy phong hách hách trừ phản tặc, Khí cứng đường đường diệt ngoại xâm) Tưởng niệm vị đại anh hùng dân tộc, mà không có lối vào nên nét mặt như bị bỏ đói mấy ngày! Hình chụp năm 1994, cổng vào đền thờ của ngài Thái-úy Lý Thường-Kiệt tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa: Cánh cổng không còn. Thuật giả muốn vào thắp hương tưởng niệm vị đại anh hùng dân tộc, mà không có lối vào nên nét mặt như bị bỏ đói mấy ngày! Đền thờ chính Mái ngói lâu ngày đã mục hết. Các đồ thờ bên trong còn mục hơn nữa. Dân xã nghèo quá, ăn không đủ, lấy tiền đâu mà cúng, mà trùng tu Nội dung bộ Nam-quốc sơn hà thuật giai đoạn hùng tráng nhất lịch sử Việt-Nam. Phía Nam, bình Chiêm, sát nhập ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh vào lãnh thổ Đại- Việt. Phía Bắc ba lần đánh Tống. Đây là cuộc Bắc-phạt lừng danh nhất lịch-sử Việt-Nam. Bởi các chiến công khác đều là cuộc kháng chiến giữ nước, còn cuộc đánh Tống này, do Đại-Việt khởi sự, chiến cuộc diễn ra trên đất Trung-nguyên. Tiếp theo, Đại-Việt lại đánh bại cuộc xâm lăng của Tống, trả thù trận Ung, Liêm, Khâm. Chiến công có một không hai trong lịch-sử Đại-Việt này vĩ đại biết là chừng nào, thế nhưng những bộ sử như Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Việt-sử lược (VSL), Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), chỉ dành chỗ cho khoảng một trang mà thôi. Trong khi Tống-sử (TS), Tục tư trị thông giám trường biên (TTTTGTB), Ung-châu kỷ sự (UCKS)ï, Tống Thần-tông thực lục (TTTTL), Quách thị Nam-chinh (QTNC), Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký (TTCTGCK), Tống triều công thần bi ký (TTCTBK) của Trung-quốc lại chép rất chi tiết tỷ mỉ. Vì sự khác thường ấy, người sau đặt ra những nghi vấn lớn như: II.1.1. - Nghi vấn thứ nhất : Người lãnh đạo. Một là, chiến cuộc xẩy ra trong ba năm 1075, 1076, 1077, dưới thời vua Lý Nhân Tông. Bấy giờ vua mới chín tuổi, cho rằng vua thông minh, tài trí đi; thì với cái tuổi đó làm sao có thể quyết định một việc lớn như vậy? Làm sao có đủ khả năng chỉ huy tiếp vận cho một chiến cuộc vĩ đại như vậy? Thế ai là người lãnh đạo Đại-Việt bấy giờ? Ai là người tổ chức tiếp vận? II.1.2. - Nghi vấn thứ nhì :Tiểu sử các tướng. Hai là, sử sách đều cho rằng chiến công này của Lý Thường-Kiệt và Tôn Đản. Ngoài ra còn nhắc đến một vài tên nữa như hoàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, đô-đốc Lý Kế-Nguyên, lang tướng Nguyễn Căn. Trong khi truyền-sử lại nói có 18 tướng và 18 phunhân đã chiến đấu oanh liệt, rồi tuẫn quốc. Thế 18 tướng ấy hành trạng ra sao? Huân nghiệp thế nào? Gia phả của họ Lý ở Hùng-xuyên, Đại-hàn cũng có đôi câu đối nói về việc này: Thập bát anh hùng, giai Phù-đổng, Tam thiên nữ kiệt, tỷ Mê-linh. Nghĩa là: Mười tám anh hùng đều là con cháu Phù-Đổng thiên vương, ba nghìn nữ kiệt đều sánh với gái Mê-linh (để chỉ nữ binh thời Trưng-vương). II. 1.3. - Nghi vấn thứ ba: Tôn Đản là ai ? Ba là, ngay hai tướng lịch sử ghi danh là Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt, thì cũng không biết Tôn Đản là ai. Thế tiểu sử ngài ra sao? Sử cũ cho rằng ngài là một tướng nào đó. Lại có những người đưa ra lý luận ngớ ngẩn, nhân thấy âm Tôn Đản với Nùng Tông-Đán hơi giống nhau, thì cho ngay rằng Tôn Đản chính là tên Nùng phản phúc Nùng Tông-Đán đã theo Tống từ lâu. II. 1.4. - Nghi vấn thứ tư :Ý nghĩa bài thơ đánh Tống. Bốn là, chữ Thiên-thư trong bài thơ trên, người sau không tham khảo kỹ Tống-sử, cho rằng thiên-thư là danh từ chung, Lý Thường-Kiệt dùng như một hiện thể trừu tượng để chỉ ý trời. Nhưng thực ra đó là tên bộ sách làm chủ đạo cho Tống triều mang tên Thiên-thư nghị chế. Lý Thường-Kiệt dùng gậy ông đập lưng ông. Dưới đây tôi xin giải các nghi vấn đó. II - 2 - 1. Về nghi vấn thứ nhất, Người chỉ đạo cuộc chiến là Linh Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo, cũng là người nắm vững guồng máy cai trị, bảo đảm an ninh hậu phương, tiếp vận cho tiền tuyến là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Nhưng tại sao sử Việt lại không chép sự kiện này? II. 2. 1.1. Lý do sử Việt không chỉ rõ, Ta thấy nguyên nhân có ba: * Một là sự nhập cung của bà có hơi khác thường. Vua gặp gỡ giữa đường, đem về phong là Ỷ-Lan phu-nhân. Khác với tất cả cung-phi khác, phải qua nhiều cuộc tuyển chọn phức tạp. Bà nhập cung vượt ra khỏi luật lệ Lý triều, nên chi người sau cho rằng bà chỉ là một cô gái quê tầm thường, nhờ con làm vua, mà trở thành Linh-Nhân hoàng thái hậu, rồi nhiếp chính. * Hai là, sau Linh-Nhân hoàng thái hậu, triều Lý có đến ba bà thái-hậu nhiếp chính rồi lăng loàn, dâm đãng, đưa đến mất nghiệp. Đó là Lê thái hậu vợ vua Thần-tông; Đỗ thái hậu vợ vua Anh-tông và Trần thái hậu vợ vua Huệ-tông. Các Nho gia với quan niệm: Sử là tấm gương cho người sau soi chung, nên không muốn có sự tham dự của đàn bà vào chính sự, mà dân gian gọi là tình trạng gà mái gáy. Vì vậy khi chép sử, các sử gia đã bỏ bà ra ngoài huân nghiệp vĩ đại của Linh-Nhân hoàng thái hậu. * Trong thực tế, chúng ta thấy chính Linh-Nhân hoàng thái hậu là người lãnh đạo cuộc Bắc phạt. Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt chỉ là tướng cầm quân mà thôi. Vì: * Bấy giờ vua Nhân-tông mới chín tuổi, Linh-Nhân hoàng thái hậu nhiếp chính. Nói khác đi là cầm quyền. Bảo rằng nhà vua chỉ đạo, thì không ai có thể chấp nhận. Vì với tuổi đó, dù thông minh chăng nữa, nhà vua cũng không đủ trí khôn, kiến thức để thấu đáo vấn đề; huống hồ đưa ra quyết định lớn lao, táo bạo. * Cuộc Bắc phạt thời Thái-Ninh (1075) với đạo quân hơn mười vạn người ngựa, ít ra cũng phải có 40 vạn dân phu chuyên chở, tiếp tế lương thảo; chi tiêu cực kỳ tốn kém. Tiếp theo là cuộc kháng Tống giữ nước. Những công việc khó khăn đó, đòi hỏi ba điều. Một là nền cai trị vững chắc để có an ninh ở hậu phương. Hai là tiếp vận lương thảo, cực kỳ tốn của, tốn sức người. Ba là bổ xung tổn thất; phi người tài trí, không đương nổi. Vì thế trong bộ Nam-quốc sơn hà tôi sẽ trình bầy rõ: Linh-Nhân hoàng thái hậu đã dùng tới bẩy phụ tá, như một siêu triều đình. Đó là công chúa Thiên-Ninh, Thiên-Thành, Động-Thiên, vương phi Trung-Thành vương là Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi Tín-Nghĩa vương Lê Ngọc- Nam, phu nhân tướng Nguyễn-Căn là Vũ Thanh-Thảo, phu nhân tướng Bùi Hoàng-Quan là Trần Ngọc-Huệ. Điều này chưa một sử sách Việt nào nói tới. * Cũng có người bảo rằng chính Thái-sư Lý Đạo-Thành đã chủ trương, chỉ đạo cuộc Bắc phạt. Vô lý, bởi ông bị Linh-Nhân hoàng thái hậu đầy vào Thanh-Nghệ, chỉ được ân xá về triều để giúp việc nội trị khi cất quân Bắc phạt. Hơn nữa ông là người chủ hòa, lại ở vào tuổi tám mươi hơn, nên quyết định Bắc phạt không thể là ông; mà phải là Linh-Nhân hoàng thái hậu. * Bảo rằng, quyết định này của Lý Thường-Kiệt ư? Có thể. Bấy giờ Thường- Kiệt lĩnh chức Thái-úy (QTNC nói ông lĩnh chức Đại-tư-mã), nhưng quyết định tối hậu vẫn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Bởi ngay thời vua Thánh-tông còn tại thế, trong khi bình Chiêm, đã giao quyền cho bà. Không những bà tổ chức cai trị, tiếp vận chu đáo; mà còn tỏ ra xuất sắc hơn nhà vua trong lúc không chiến tranh nữa. II. 2.1. 2. Di tích về Linh-Nhân hoàng thái hậu. Vì những huân nghiệp vĩ đại, nên sau khi băng hà, bà được thờ kính khắp nơi. Tôi tạm ghi ở đây những đền hiện nay (1995) vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói, vì ngài rất linh ứng: * Phú-thị từ (Đền Phú-thị) Ở xã Phú-thị, tiếng nôm là làng Sủi (tên thời Lý là làng Thổ-lỗi hay Thổ-lội, sau đổi ra Siêu-loại), thuộc tổng Kim-sơn, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh cũ, nay thuộc Hà-nội. Tài liệu ghi chép: Bắc-ninh tỉnh thần tích. * Lý thái hậu từ (Đền Lý Thái-hậu) Ở xã Dương-xá, tổng Dương-quang, huyện Siêu-loại tỉnh Bắc-ninh, sau thuộc tỉnh Hà-Bắc. Nay là xã Dương-xá huyện Gia-lâm, Hà-nội. Tài liệu ghi chép: Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. Cổng chính từ ngoài vào Hình chụp năm 1994, tại xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội: một trong 72 ngôi chùa, Linh-Nhân hoàng Thái-hậu (Minh-Đệ) xây để đáp lời hứa với Minh-Không thiền sư. Chùa này nằm trong cùng khuôn viên với đền thờ ngài * Lý triều đệ tam hoàng thái hậu từ. Ở xã Quang-lệ, huyện Phù-dung, sau là huyện Phù-cừ, tỉnh Hưng-yên, nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép: Đại-Việt địa dư chí, Bắc-thành địa dư chí lục. * Lý hoàng thái hậu từ. (Đền thờ hoàng thái hậu triều lý). Ở xã Cẩm-cầu, huyện Gia-lộc, tỉnh Hải-dương. Tài liệu ghi chép: Bắc-thành địa dư chí lục. Đồng-Khánh địa dư. Đại-Nam nhất thống chí (Hải-dương). * Hội-châu từ (Đền Hội-châu). Ổ thôn Bản-kỷ, xã Hội-châu, huyên Thanh-quan, nay là huyện Thái-thụy tỉnh Tháibình. Đây là quê ngoại của ngài. Tài liệu ghi chép: Thái-bình địa dư-ký. * Yên-thái từ (đền An-thái). Ở làng Yên-thái, huyện Thọ-xương, nay là số 8, ngõ Tạm-thương, Hà-nội. Tài liệu ghi chép: Kim-cổ thôn bi ký. Hà-nội tỉnh thần tích. 3.7. Cẩm-đới đình. Ở làng Cẩm-đới, tổng Bao-trung, huyện Gia-lộc, nay là Tứ-lộc, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép: Hải-dương tỉnh thần tích. SƯA 3ĐẾNN ĐÂY 3.8. Đồng-thiên quán Một trong bốn quán lớn ở Thăng-long. Hồi sinh thời ngài dựng để thờ Tam-thanh (Ngọc-thanh, Thượng-thanh, Thái-thanh) ở thôn Kim-cổ huyện Thọ-xương. Nay ở số 73 Đường Thành, Hà-nội. Đã bị hủy hoàn toàn, chỉ còn bức tường. Tài liệu ghi chép: Bắc-thành địa dư chí lục. Hoàng-Việt địa dư chí. Thăng-long cổ-tích khảo. Long-biên bách nhị vịnh. Đại-việt địa dư chí. 3.9. Đồng-lâm tự (chùa Đồng-lâm) Chùa nằm ở giữa hai thôn Ngọc-trì và Vệ, xã Cổ-linh, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắcninh. Nay thuộc huyện Gia-lâm Hà-nội. Đây là một trong 72 ngôi chùa, mà hồi sinh thời bà cho dựng lên. Tài liệu ghi chép: Lâm-cổ ký. Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. 4. Những cuộc bình Nam, Bắc phạt thời Tiêu-sơn. Thời Lý (1010-1225) các văn gia xưa gọi là thời Tiêu-sơn, vì Tiêu-sơn là ngọn núi phát tích ra triều Lý. Thời nào Đại-Việt ta cũng có những vị anh hùng xả thân cứu nước. Công nghiệp của các ngài, thành cũng nhiều, mà bại cũng lắm. Dù thành, dù bại, sau khi các ngài lìa thế thì hoặc dân chúng, hoặc các triều đại kế tiếp đều lập đền thờ, để tưởng nhớ huâncông. Ngoài chính sử ra, tại đền thờ các ngài, thường có cuốn phổ (còn gọi là ngọc phổ hay ngọc phả) chép hành trạng. Năm 1407, Trương Phụ, Mộc Thạch đã phá hầu hết di-tích, đền-miếu thờ các ngài đã đành, mà còn thu tất cả các cuốn phổ mang về Kim-lăng. Năm 1428, vua Lê Thái-tổ tái lập nền tự-trị, một số di-tích, đền-miếu được trùng-tu, được táitạo. Những cuốn phổ cũng được chép lại theo trí nhớ, thành ra tam sao thất bản, không còn đúng với sự thực. Lại nữa người Việt có tục kiêng húy, nên những di-tích, đền-miếu tuy đã dựng lại, mà đôi khi người sau không còn nhớ được họ, tên các ngài. Thủa nhỏ, tiền nhân giảng dậy cho tôi rất kỹ về huân-nghiệp của các anh hùng năm nghìn năm tộc Việt. Trong đó có lướt qua cuộc đánh Tống, bình Chiêm thời Tiêu-sơn. 4.1. Các cuộc bình Chiêm. Về bình Chiêm có ba lần. 4.1.1. Lần thứ nhất. Vào thời vua Thái-tổ (1020), người cầm quân là Khai-Thiên vương (sau là vua Thái-tông) với Đào Thạc-Phụ. Mục đích cuộc hành quân chỉ để trừng phạt Chiêm vào cướp phá Nam biên Đại-Việt. 4.1.2. Lần thứ nhì, Do Khai-Quốc vương lãnh-đạo (1044), vua Thái-tông thân chinh, Tôn Đản tổng chỉ huy. Cuộc hành quân này có mục đích phá chủ lực quân Chiêm, vì bấy giờ Chiêm liên kết với Tống, dự trù đánh vào Nam thùy, khi Tống tiến quân vào Bắc-cương. Kết qủa, vua Chiêm là Sạ-Dẩu bị giết tại trận, ta còn bắt cả hoàng hậu Mỵ-Ê mang về. Hai chiến công này đã thuật sơ trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. 4.1.3. Lần thứ ba (1069) Do vua Thánh-tông thân chinh, Lý Thường-Kiệt tổng chỉ-huy, Tôn Đản làm quân sư. Cuộc hành quân này có hai mục đích; một là phá thế liên minh Tống, Chiêm dự xâm lăng Đại-Việt; hai là chiếm vùng đất Chiêm có nhiều Việt kiều sinh sống. Kết quả, vua Chiêm là Chế-Củ bị bắt cùng với năm vạn quân. Chế-Củ dâng ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh để được ân xá. Cuộc hành quân này được thuật tỷ mỉ trong bộ Nam-quốc sơn-hà. 4.2. Các cuộc phạt Tống. Về việc đánh Tống có sáu lần, thì trong đó có năm lần đánh sang lãnh thổ Trungquốc và một lần kháng chiến chống xâm-lăng. 4.2.1. Lần thứ nhất, Do vua Lý Thái-tổ ban chỉ, Khai-Thiên vương tổng chỉ huy, đánh sang trại Nhưhồng của Tống, để trừng phạt quân Tống tại đây thường vượt biên sang Đại-Việt cướp bóc. Toàn thắng. Cuộc chiến tranh có tính cách trừng phạt một khê-động. 4.2.2. Lần thứ nhì , Do Khai-Quốc vương lãnh đạo, tổng chỉ huy là công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa và phò-mã Thân Thừa-Quý. Mục đích chiếm lại mấy châu động đã mất về Tống, do các biên thần Tống chủ trương. Toàn thắng. Cuộc chiến có tính cách tự vệ, dằn mặt các biên thần Quảng-Tây. Tống triều không chủ trương. 4.2.3. Lần thứ ba, Dưới thời vua Thái-tông, do Khai-Quốc vương lãnh đạo (1053), mục đích chiếm lại lãnh thổ thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, bị người Hán chiếm mất, rồi đẩy dân Việt về sống ở vùng Bắc-cương thành 207 trang-động. Cuộc khởi binh thành công, đưa Nùng Trí-Cao lên làm vua, lấy lãnh thổ vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Quý-châu lập thành nước Đại-Nam. Cuộc ra quân này, đã thuật chi tiết trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt. Lúc đầu thắng, sau bị bại. Cuộc chiến tranh có tính cách toàn diện. Đại-Việt không ra mặt khai chiến với Tống. Tống biết, nhưng không dám trả thù. 4.2.4. Lần thứ tư, Cũng do Khai-Quốc vương lãnh đạo, diễn ra dưới thời vua Thánh-tông. Người tổng chỉ huy là công-chúa Bình-Dương với phò mã Thân Thiệu-Thái (1059-1060). Mục đích cuộc Bắc phạt này là chiếm lại một số trang động do các bộ tộc thiểu số tự trị; bị Tống lấn chiếm, hoặc chiêu dụ phản Việt theo Tống. Sau khi chiếm lại các trang đã mất, trả đất cho các tộc bị mất, quân Việt tiến sâu vào vùng Tả-giang, Hữu-giang, chiếm hơn mười ải, giết nhiều tướng Tống. Tống cực kỳ phẫn uất, nhiều đại thần khuyên vua Tống Nhân-tông đem quân sang đánh Đại-Việt để trừng phạt; nhân đó chiếm nước đặt làm quận huyện. Ngặt vì bấy giờ phía Tây, Tống đang mắc họa với Hạ, phía Bắc thì Liêu chiếm đất, đòi cống vàng lụa; vả vua Tống cũng sợ binh hùng tướng mạnh của Đại-Việt, nên bàn hòa. Công-chúa Bình-Dương đòi nhiều điều kiện khắt khe mới chịu rút quân. Tống cũng phải nhượng. Thắng toàn diện. Chiến công oanh liệt trên thuật trong bộ Nam-quốc sơn-hà. Đến đây chiến cuộc leo thang. Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống, nhưng để cho công chúa Bình- Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái làm. 4.2.5. Lần thứ năm, Diễn ra dưới thời vua Nhân-tông vào năm 1075, bấy giờ vua mới chín tuổi, Linh- Nhân hoàng thái hậu phụ chính. Vua còn thơ, chư sự lớn nhỏ đều do Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định. Nguyên do: Vua Tống Thần-tông dùng những cải cách về kinh-tế, nôngnghiệp, binh-bị, tài-chánh của Vương An-Thạch từ năm 1066, đã được chín năm, khiến binh lực trở thành hùng hậu, quốc-sản sung túc. Nhà vua muốn nhân đó tiến quân lên Bắc đánh Liêu, chiếm lại đất cũ, để rửa nhục. Nhưng Vương An-Thạch lại khuyên nên đánh Đại-Việt trước. Sau khi bại Đại-Việt, thì Chiêm-thành, Chân-lạp, Ai-lao, Xiêm-la, Đại-lý phải quy hàng. Bấy giờ dùng nhân lực, tài lực sáu nước, đem lên Bắc, thì thắng Liêu dễ dàng. Vua nghe theo, bí mật cho các châu Nam biên luyện binh, tích trữ lương thảo. Cuộc chuẩn bị được ba năm, thì bị Đại-Việt biết được. Linh-Nhân hoàng thái hậu quyết định: Ngồi yên đợi giặc, sao bằng mình ra tay trước. Mục đích cuộc hành quân là phá hết các kho lương thảo, vũ khí, thành trì, cầu cống, diệt các đạo quân mới huấn luyện của Nam thùy Tống. Thế là cuộc Bắc phạt nổ ra vào cuối năm 1075. Quân Việt tiến đánh 18 ải dọc biên thùy Tống, rồi công phá các châu Khâm, Liêm, Ung, Dung, Nghi, Bạch, cùng diệt viện quân ở núi Đại-giáp. Nhiệm vụ chu toàn rồi, quân Việt rút về. Thắng toàn diện. Đến đây Đại-Việt ra mặt khai chiến với Tống. Cả hai bên cùng đem toàn lực ra đối phó với nhau. 4.3. Kết qủa cuộc Bắc phạt vĩ đại, Cuộc ra quân của Việt lần này quá lớn lao, phá nát kế hoạch cải cách của Tống ở Giang-Nam. Quá uất hận, Tống chịu nhục; nhường Hạ ở phía Tây, cắt đất dâng cho Liêu ở phương Bắc... để cho rảnh tay, rồi họ mang quân nghiêng nước sang định chiếm Đại-Việt đặt làm quận huyện (1076-1077). Nhưng Tống lại bị thất bại phải rút quân về, và chịu hòa. Người có hùng tâm, tráng-chí, lãnh đạo là một thiếu phụ ở tuổi ba mươi, đó là Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan). Còn người Tổng chỉ huy cuộc vượt biên Bắc phạt là Lý Thường- Kiệt, Tôn Đản, Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên. Nội dung bộ Nam-quốc sơn hà thuật cuộc Bắc phạt, cùng kháng Tống trên. 4.4. Rung chuyển Trung-nguyên, Sau cuộc Bắc phạt, và giữa lúc cuộc kháng Tống của Đại-Việt, chiến cuộc đang diễn ra cực kỳ khốc liệt (1076), Vương An-Thạch bị cách chức Tể-tướng, giáng xuống tri Giang-ninh phủ lĩnh Trấn-Nam quân tiết độ sứ, Đồng-bình chương-sự. Lúc Vương độ giang, bị một nhân sĩ bắt con sâu bỏ lên xe rồi làm bài thơ mỉa mai như sau: Thanh-miêu, trợ-dịch lưỡng phương nông, Thiên hạ ngao ngao oán tướng công. Độc hữu hoàng trùng thiên cảm đức, Hữu tùy xa giá, quá Giang-Đông. Dịch : Thanh-miêu trợ dịch hại canh nông, Thiên hạ nhao nhao oán tướng công. Chỉ có sâu vàng theo tiễn biệt, Cùng trên xa giá, quá Giang-Đông. Có người ví cái thất bại của Vương An-Thạch cũng đau đớn như cái thất bại của Hạng Võ xưa, khuyên Thạch nên tự tử: Khi Hạng-Vương mưu đuổi hươu ở Trung-nguyên, bị thất bại, lui về Nam; lúc qua sông này tự cảm thấy xấu hổ, đã tự tử, mà hậu thế kính phục. Tôi khuyên ông cũng nên tự tử để lưu danh muôn thủa. Nhưng Thạch không đủ can đảm. Tiếc thay, một cuộc cải cách về kinh-tế, binh-bị, tài-chánh, xã-hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ; bị tan vỡ, bị hủy bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại-Việt của Vương An-Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung-quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung-quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng muôn đời mặt trời vẫn ở phương Đông, chứ không ngả về Tây như hồi thế kỷ thứ 18 cho đến nay và bao giờ..???...??? 5. Tìm những danh tướng thời Tiêu-sơn. 5.1. Đi tìm anh hùng nghìn năm trước. Chủ trương Bắc-phạt là của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Tướng cầm quân là Thường-Kiệt, Tôn Đản. Thế nhưng không phải chỉ hai tướng ấy mà tạo ra chiến công lừng lẫy như vậy! Phải có thêm nhiều người. Sử nhắc đến Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên, Nguyễn-Căn. Nhưng vào cái thời đó, cứ một người ra trận, thì phải năm người tiếp vận; ấy là không kể bộ máy kinh-tế, tài-chánh, cai trị để cung cấp nhu cầu cho binh tướng. Vậy những nhân vật nào đã làm bằng ấy công tác? 5.1.1. Tìm trong nhà. Khi tiền nhân giảng về giai đoạn lịch sử này cho tôi, các người thường than thở rằng: Tương truyền bấy có sáu vị nữ quan, phụ trách sáu bộ, cạnh Linh-Nhân hoàng thái hậu như một siêu chính phủ. Thế mà nay sử sách không lưu truyền sáu bà ấy là những bà nào. Lại nữa, trong cuộc đánh Tống, Việt có mười tám tướng, cùng mười tám phu nhân cũng là mười tám nữ tướng; mà mười hai vị xuất thân cùng khổ; tất cả đều tuẫn quốc trong trận kháng Tống, nhưng tiếc thay tiểu sử lại rất mơ hồ. Nếu nói quá đi, gần như không còn. Lúc lớn lên, tôi có tìm đọc những sách do Quốc-sử quán triều Nguyễn soạn để tìm hiểu thêm. Về sử như Đại-Nam thực lục tiền biên, Đại-Nam thực lục chính biên. Về chí như Đại-Nam nhất thống chí, Đại-Nam quận huyện phong thổ vật lược chí, các bộ Địaphương chí, Phủ-huyện chí, Truyện ký, Thần-tích, Ngọc-phả. Nhưng cũng không tìm ra được chút ánh sáng nào. 5.1.2. Tìm ở nước người. Cho đến khi ra trường (1964) có chỗ đứng trong xã hội về tài chính, có phương tiện, tôi đã lần mua đọc các bộ sách của Trung-quốc. Từ những bộ lớn như: Tục tư trị thông giám trường biên, Tống Thần-tông thực lục, Tống-sử v.v. tới những bộ nhỏ như Ung-châu kỷ-sự, Hy-Ninh cảo lục. Nhưng cũng không tìm ra được gì hơn. Phải chờ đến giai đoạn 1977-1995, nhờ đi trong phái đoàn trao đổi y-học Pháp-Hoa (CMFC), Liên-hiệp các viện bào chế châu Aâu (CEP), viện Pháp-Á (IFA) tôi có dịp lần mò vào những thư viện, bảo tàng địa phương Trung-quốc. - Nào thư-viện, bảo-tàng cao nhất của cấp tỉnh, nào thư viện đại học Văn-sử, nào thư viện đại học Sư-phạm... cho tới thư-viện cấp huyện của các tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam. - Tôi đã đi Nam-ninh (Ung-châu) lên núi Đại-giáp, Hỏa-giáp, suối Ngọc-tuyền; tới Khâmchâu, Liêm-châu để quan sát địa hình chiến trường thời Tống-Lý. - Nhờ các cuốn địa-phương chí, nhân vật chí, địa dư chí từ đời Minh, đời Thanh còn lưu truyền; tôi tìm ra đền thờ các tướng Tống tử trận trong chiến tranh Tống-Lý, được lập đền thờ. Trong các chí đó, có nói đến nhiều danh tướng Việt. - Tôi cũng lần mò đọc các tấm bia ở ngoại ô Nam-ninh trên gò chôn tập thể dân quân Tống chết trong trận Ung-châu. Tại núi Đại-giáp, tôi được thăm lăng mộ, đền thờ, đọc bia ký của năm tướng Trương Thủ-Tiết, Hứa Dự, Ôn Nguyên-Dụ, Trương Biện, Vương Trấn. Các tướng này tử trận khi mang quân cứu viện thành Ung. Trong các bia, phổ, gia phả của năm tướng, thuật rất chi tiết về chiến cuộc Côn-lôn, Đại-giáp, và nhắc đến tên nhiều tướng Đại-Việt. Cảm động nhất là trong khi viếng đền, tôi được gặp hậu dụệ chư tướng ấy đang họp nhau, quyên góp tiền trùng tu đền. Họ đem sổ vàng ra, khiến tôi không biết phải hành-xử như thế nào? Bởi cúng, thì tôi còn mặt mũi nào để đến quỳ gối tại đền thờ Linh- Nhân hoàng thái hậu? Công chúa Thiên-Ninh, và 18 anh-hùng tuẫn quốc thời Thái-Ninh! Mà chối thì hóa ra người hẹp hòi, gây khó khăn khi mượn gia phải của chư tướng Tống để tìm tài liệu lịch sử! Cuối cùng tôi đành để người bạn gái người Hoa là danh ca Chu Cẩm- Hồ cúng một số tiền nhỏ (500 $ US, dĩ nhiên tiền đó của tôi), gọi là tưởng nhớ những người trung-nghĩa mà bỏ mình. - Tại một số thư viện khác, tôi đã tìm ra không biết biết bao tài liệu quý báu. Tài liệu quý nhất là bộ Tống triều công thần bi ký nội dung chép văn bia, mộ chí của hầu hết những nhân vật văn võ thời Tống liên quan đến Đại-Việt. Nhờ nội dung văn-bia, tôi biết thêm nhiều chi tiết lịch-sử, mà trong các bộ sử lớn, nhỏ không chép. 5.1.3. Tìm di tích bằng y-khoa. Xin mở cái ngoặc ở đây: Khi chúng tôi sang Trung-quốc công tác cho CMFC thường có hai phái đoàn, một phái « trao” tức giảng dạy cho người, một phải đoàn « đổi” tức học của người. Lúc đầu tôi đi trong các phái đoàn với tư cách thông dịch viên, sau kiêm thêm liên lạc tổ chức, rồi dần dần (sống lâu lên lão làng) tôi làm trưởng phái đoàn cho đến nay (1995). Vì dịch riết rồi những vấn đề dịch nhập tâm, lĩnh hội được, nên tôi thu thái rất nhiều khi « trao”. Như trước 1978 tôi chỉ có một số kiến thức khiêm tốn về giải phẫu chỉnh hình (orthopédie), nhất là giải-phẫu thẩm mỹ như lột da, căng da, cắt mắt, nâng cao mũi, lấy mỡ bụng, làm môi trái đào, sửa ngực. Đến năm 1981 tôi nghiễm nhiên trở thành phụ giảng khi trao, và từ năm 1986, tôi là một trong những giảng viên về các món lỉnh kỉnh này. Tôi nghĩ: Xưa Lã Bất-Bi buôn vua, thì nay tôi cũng buôn y-học. Tôi dùng khả năng y-học thẩm mỹ để làm quen với quý bà. Ở cái xã hội nào cũng thế, các bà đều thích đẹp, và cồng bà bao giờ cũng mạnh hơn lệnh ông. Lệ không thành văn của phái đoàn trao đổi y-học là: Ngoài công tác chính tại các đại-học, bệnh viện, các giáo-sư có quyền điều trị cho dân chúng, nhưng không được nhận thù lao. Dùng cái võ công lột da mặt, cắt mắt, làm môi trái đào, lấy mỡ bụng, nâng cao mũi, tôi đã thành con mọt sách lớn, lọt vào được những tủ sách gia đình, địa phương của nhiều tộc mà tôi muốn. Tôi đã làm quen, đã tìm lại được giòng dõi các quan lại, các tướng liên hệ đến việc sang đánh Đại-Việt của Tống, rồi xin đọc gia phả Tổ tiên anh hùng của họ. Tôi đã được đọc gia phả chép về Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Tiêu Chú, Oân Cảo, Tiêu Cố, Lý Sư-Trung, Vương An-Thạch, Thẩm Khởi, Lưu Di, Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ, Diêu Tự, Lý Hạo, Trương Chi-Giám, Dương Vạn, Lôi Tự-Văn, Lữ Chân, Lý Hiếu- Tôn, Trương Thế-Cự, Địch Tường, Khúc Chẩn, Quản Vi, Vương Mẫn. 5.1.4. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ. May mắn nhất là năm 1985, nhờ làm đẹp cho mấy phu nhân của những sĩ quan cao cấp của Bộ Tư-lệnh hai Quân-khu tiếp giáp với Việt-Nam và của Bộ Chỉ-huy Quân-sự hai tỉnh Quảng-Tây, Quảng-Đông tôi đã được vào thư viện của bộ Tư-lệnh hai quân khu có chung biên giới vơí Việt-Nam. Mặc dầu bấy giờ cách thư viện tôi ngồi không bao xa, giữa quân đội Trung-Quốc, Việt-Nam đang nã đại pháo vào nhau; mặc dù các sĩ quan Trungquốc đều biết tôi là Tây gốc Việt. Nhưng họ cũng biết rằng tôi là tên thầy thuốc dốt chính trị nhất thế giới, khù-khờ lẩm cẩm nhất thế giới. Vì vậy họ cho tôi đọc thả dàn, đọc sướng con mắt; đọc đến phải mang bánh bao, vịt quay vào thư viện vừa ăn, vừa đọc! Nhưng họ không cho tôi mang máy vào, sợ tôi scaner Ngồi bên kho tài liệu, tôi cảm thấy kinh hoàng vô cùng, vì Trung-Quốc bảo tồn được tất cả những tài liệu liên quan đến ngoại-giao, quân-sự giữa hai nước để các sĩ quan tham khảo thiết kế hành quân. - Cổ nhất là cuộc đánh sang Việt thời Tống Thái-tông của Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Quách Quân-Biện, Triệu Phụng-Huân (981); - Ba cuộc tiến quân thời Lý Bắc-phạt (1053, 1059, 1075), - Cuộc Nam xâm thời Tống Thần-tông (1076-1077); - Ba lần (1257, 1285, 1288) Mông-cổ đánh Đại-Việt, - Cuộc xâm lăng của Trương Phụ (1407)... cuối cùng là cuộc hành quân chưa xong của Bắc-kinh dạy Việt-Nam bài học, mà chúng tôi thường đùa rằng đó là cuộc tiến quân môi cắn răng 1978; vẫn chưa dứt. Trong thư viện ấy, tôi tìm được hai bộ sách chưa xuất bản, in bản thạch, rồi photocopie. Đó là hai bộ nhật ký hành quân của Quách Quỳ tên Quách-thị Nam chinh (QTNC), của Triệu Tiết mang tên Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký (TTCTGCK); là hai tướng tổng chỉ huy cuộc đánh Đại-Việt thời Lý (1076-1077). Hai bộ sách do chính Quách Quỳ, Triệu Tiết chép, sau này con cháu họ có tu bổ. Vào niên hiệu Thiệu-Hưng thứ tư (1134); cháu bốn đời Quách Quỳ là Quách Gia; cháu năm đời Triệu Tiết là Triệu Dụng có dâng lên vua Tống Cao-Tông để xin minh oan, cùng phục hồi danh dự cho tổ tiên mình. Bấy giờ Lý Hồi mới được giữ chức Đoan-minh điện đại-học sĩ, quyền tri tam tỉnh, Khu-mật viện-sự tức Tể-tướng toàn quyền. Ông này sợ Quách Gia, Triệu Dụng được trọng dụng; nên bài bác các đoạn nói về sức mạnh, về tổ chức quân đội, cùng tiểu chuyện các tướng Đại-Việt thời Thái-Ninh, Anh-vũ chiêu-thắng (1072-1084), và cho rằng đó là những điều bịa đặt. Tuy vậy trong hai tập sách trên có ghi chép đầy đủ hình thể núi sông, phong tục, tiểu-sử công thần, tổ chức hành chánh, quân sự Đại-Việt, nên nhà vua vẫn sai trao chu Khu-mật viện cất để làm tài liệu. 5.2. Anh hùng nước tôi còn đó. Sau khi kiểm lại các bộ gia-phả, địa-phương chí, địa dư chí, nhân vật chí, bia đá, mộ chí cùng đọc kỹ hai bộ trên. Tôi đã giải được gần như trọn vẹn những nghi-vấn về lịch sử do tiền nhân tôi để lại. Tôi tin đến tuyệt đối, vì những điều trong sử Việt, Hoa bỏ qua không ghi như: 5.2.1. Bà chúa kho, Sử Hoa-Việt nói đến công-chúa Thiên-Thành hạ giá với phò-mã Thân Cảnh-Long; có nói đến công-chúa Động-Thiên, còn công chúa Thiên-Ninh thì không hề nói tới. Trong thực tế, đền thờ công-chúa Thiên-Ninh (Bà chúa kho) rất lớn, mà dân miền Bắc ai cũng biết; nhất là dân Hà-nội, cứ vào đầu Xuân, lũ lượt kéo nhau đến đền thờ bà xin... vay tiền. Trong hai bộ QTCN và TTCTGCK chép rất chi tiết tiểu sử của bà, chép rõ đền thờ tại đâu, xây cất năm nào nữa. Trên: Cổng ngoài, cổng trong. Dưới: Chính điện thờ Công-chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) ở Thị-cầu, Bắc Ninh. 5.2.2. Hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn, Sử Hoa-Việt chép vài giòng về hoàng-tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn tử trận Kháotúc, không chép hai ngài giữ chức gì, tiểu sử ra sao? Hai bộ QTCN và TTCTGCK chép rất chi tiết rằng hai vị là con của Khai-Quốc vương và quốc-mẫu Thanh-Mai. Tước phong của Hoằng-Chân là Trung-Thành vương và Chiêu-Văn là Tín-Nghĩa vương. 5.2.3. Sáu nữ tướng thời Anh-vũ Chiêu-thắng. Sử không chép về phu nhân của các tướng. Trong khi đó hai bộ trên chép rất chi tiết: Sáu nữ phụ tá của Linh-Nhân hoàng thái hậu, như một siêu chính phủ bấy giờ gồm: - Phụ-tá về Binh-bộ là công chúa Thiên-Thành; - Phụ-tá về Hộ-bộ là công chúa Thiên-Ninh; - Phụ tá về Hình-bộ là công-chúa Động-Thiên; - Phụ-tá về Lễ-bộ là bà Trần Ngọc-Huệ phu-nhân của tướng Bùi Hoàng-Quan; - Phụ-tá về Công-bộ là bà Vũ Thanh-Thảo, phu nhân của tướng Nguyễn Căn; - Phụ-tá về Lại-bộ là bà Lê Ngọc-Nam, vương-phi của Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn; - Phụ tá về Khu-mật viện là bà Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi của Trung- Thành vương Lý Hoằng-Chân. 5.2.3. Quan sát y phục, biết danh tính, Khi hành hương đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu ở xã Dương-xá, huyện Gia-lâm Hànội, tôi thấy tượng Thái-hậu ngồi chính giữa, mỗi bên có ba tượng của ba bà, mà bà thủ từ chỉ biết tên có một bà tên Nguyễn-thị Trinh-Dung. Như vậy rõ ràng hai bộ QTNC và TTCTGCK đã chép chi tiết, chép đúng với chính sử. Từ trái sang phải: 1. Ninh-đức, Trang-duệ, Hiếu-khang công chúa nhũ danh Lê Ngọc-Nam. 2. Công-chúa Động-Thiên. 3. Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa Vũ Thanh-Thảo Từ trái sang phải: 4. Công-chúa Thiên-Thành, 5. Công chúa Động-Thiên, 6. Công chúa Nguyễn-thị Trinh-Dung. Ghi chú: Giữ đền này (1994) có tới bốn người, tôi không nhớ tên. Tôi chỉ nhớ được hai người. - Một người to lớn tự giới thiệu đã ớ trong ngành Công-an ba mươi năm, nay được cử về đây để bài trừ tín ngưỡng dị đoan. Theo lời ông thì: Vua Tống là Vương An-Thạch đem quân sang đánh VN !!! Tôi có nhắc: Không phải đâu, các vua Tống đều họ Triệu; hồi đem quân đánh Việt-Nam thời Linh-Nhân hoàng thái hậu là Tống Thần-tông. Vương An- Thạch chỉ là tể tướng, một tể tướng rất yếu. Nhưng ông này vẫn không chịu. Tôi biết ông là một thứ « ông bình vôi”", nên cười, rồi cáo từ. - Một người nữa là một bà lớn tuổi phụ trách thắp hương, dâng lễ, tôi tạm gọi là bà thủ-từ. Tôi có cúng một số tiền nhỏ (200 USD) dùng tu bổ đền. 5.2.4. Chi tiết cuộc Bắc phạt, Sử Tống, Việt chép về việc Lý đánh các châu Khâm, Liêm, Ung, Nghi, Dung, Bạch của Tống rất sơ sài, vỏn vẹn có mấy trang. Trong khi hai bộ trên chép rất kỹ, rất chi tiết về trận đánh 18 ải biên giới; trận đánh Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu; trận đánh viện binh ở Côn-lôn, ở Đại-giáp. 5.3. Hành trạng các tướng, Về chư tướng, sử Việt, Hoa chỉ thấy nói đến Lý Thường-Kiệt, Tôn-Đản và vài giòng về Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, Lý Kế-Nguyên, Nguyễn Căn. Người sau muốn biết thêm thì không tìm ra đến một chút chi tiết nhỏ. Thế nhưng tương truyền bấy giờ Việt có 18 tướng trí dũng tuyệt vời, và các phu nhân cũng theo quân giữ nước. Khi 18 tướng tuẫn quốc, các phu nhân cũng tuẫn quốc một lúc. Sau chiến tranh, triều đình lao tưởng, cho lập đền thờ. Vậy thì 18 tướng ấy là ai? Đền thờ ở đâu? Không ai biết. Nhưng trong hai bộ QTNC và TTCTGCK lại chép rất chi tiết về xuất thân của 18 tướng, 18 phu nhân cùng huân công đánh Chiêm, đánh sang Ung, Khâm, Liêm của các ngài; rồi (Quách Quỳ, Triệu Tiết) khoe rằng họ giết được các ngài trong trường hợp nào, đền thờ tại đâu. 6. Thập bát anh hùng giai Phù-Đổng. Căn cứ vào QTNC, TTCTGCK chép, tôi đã tìm ra một điều thú vị vô cùng tận, rồi bật lên tiếng than: Hỡi ơi! Những đền thờ các ngài vẫn còn đó. Huân nghiệp các ngài có chép trong rất nhiều các sách sử Việt-Nam của Quốc-sử quán triều Nguyễn như Đại-Nam nhất thống chí, Bắc thành địa dư chí, hay những cuốn phổ. Nhưng vì tam sao, thất bản đến nỗi chỉ biết đền thờ rất sơ lược, mà không biết rõ tên tuổi sự nghiệp ra sao. Căn cứ vào hai bộ sách trên, tôi đối chiếu với sách Việt, tìm lại rất đầy đủ tên họ, quê quán, huân nghiệp và chỉ rõ đền thờ hiện còn hay mất, ở đâu. Dưới đây là những danh tướng, sử ghi tên, nhưng không đầy đủ, nhất là bỏ sót tên các nữ anh hùng. 6.1. Lý Hoằng-Chân, Chức tước như sau: - Kiểm-hiệu thái-sư, Thượng trụ quốc, Thượng-thư lệnh kiêm trung-thư lệnh, Thăng-long tiết độ-sứ, Tả kim-ngô đại tướng quân, quản Khu-mật viện, Trung-Thành vương. - Vương phi là Nguyễn-thị Trinh-Dung, tước phong Minh-đức, thạc-hòa, chí nhu công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Kháo-túc. Tượng thờ vương phi Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân, nhũ danh Nguyễn-thị Trinh- Dung. Tước phong của ngài là Minh-đức, Thạc-hòa, Chí-nhu công chúa.Hình chụp tại đền thờ Linh-nhân hoàng Thái-hậu ở xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội. 6.2. Lý Chiêu-Văn, Chức tước như sau: - Kiểm-hiệu thái-phó, khai-phủ nghị đồng tam tư, Võ-minh quân tiết độ-sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Phụ-quốc đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, Tín-Nghĩa vương. - Vương-phi Lê Ngọc-Nam tước phong Ninh-đức, Trang-duệ, hiếu khang công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Kháo-túc. 6.3. Bùi Hoàng-Quan, Chức tước như sau: - Thái-tử thiếu-bảo, Phiêu-kị đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, Binh-bộ tham-tri, Gia-viễn hầu. - Phu nhân là Trần Ngọc-Huệ tước phong Nhu-mẫn, đoan-duệ, anh-văn công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Vĩnh-an (Ngọc-sơn). Tượng thờ Nhu-mẫn, đoan-duệ, anh-văn công chúa Trần Ngọc-Huệ 6.4. Dư Phi, Chức tước như sau: - Thái-tử thiếu-sư, Vũ-dực đại-tướng quân, đồng-tri Khu-mật viện, Nam-sơn hầu. Tuẫn quốc trận Đâu-đỉnh (Bắc-sơn). 6.5. Nguyễn Căn, Chức tước như sau: - Quang-lộc đại phu, Trấn-Bắc thượng tướng quân, Tản-viên hầu. - Phu-nhân là Vũ Thanh-Thảo, tước phong Hoà huệ, ninh tĩnh, ôn văn công chúa. Cả hai vị đều tuẫn quốc tại chiến lũy Như-nguyệt. Tượng thờ vương phi của Nhân-võ, Hùng-huân, Trấn-Bắc đại vương Nguyễn Căn, nhũ danh 6.6. Phò-mã Hoàng Kiện, Chức tước như sau: - Phụ-quốc thái-úy, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Binh-bộ thượng thư, Kinh-Bắc tiết độ sứ, Uy-viễn đại học sĩ, Khu-mật viện sứ, Sơn-Nam quốc-công. - Vương-phi là công chúa Động-Thiên, con vua Thánh-tông. Cả hai vị đều tuẫn quốc trận Phú-lương. 7. Anh linh thánh Gióng. Trên đã thuật về mười một vị có cấp bộ cao nhất tử trận. Kế tiếp là hai mươi bốn vị ở cấp trung, nhưng chết rất oai hùng. Đó là: Long-biên ngũ hùng và Tây-hồ thất kiệt, gồm mười hai vị, cộng mười hai phu nhân là hai mươi bốn vị. Long-biên ngũ hùng có tên Phạm Dật, Vũ-Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Tây-hồ thất kiệt có tên Trần Di, Dương Minh, Triệu Thu, Mai Cầm, Quách Y, Ngô Ức, Tạ Duy. Sáu tướng, năm phu nhân trên trong sử có nói đên, tôi không cần nhắc lại nữa. Ở đây tôi xin chép tiểu chuyện của 12 tướng có xuất thân rất đặc biệt: Ăn mày, ăn trộm, móc túi, thế rồi nhờ lòng yêu nước mà trở thành anh hùng. Mười hai tướng đó, được vua Lý Thánh-tông phong cho mỹ hiệu là Long-biên ngũ hùng và Tây-hồ thất kiệt. 7.1. Long-biên ngũ hùng. Long-biên ngũ hùng là năm đại tướng quân thời vua Lý Thánh-tông, Lý Nhân-tông. Năm vị có tên là Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Long-biên ngũ hùng đều xuất thân từ chùa Từ-quang ở làng Thổ-lội, huyện Gialâm, lộ Kinh-Bắc, ngày nay là xã Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội. Năm vị đều là con mồ côi, được sư Viên-Chiếu đem về nuôi dạy. Cả năm đều chịu nhiều thăng trầm thời thơ ấu với Linh-Nhân hoàng thái hậu (Tức Ỷ-Lan thần phi nhũ danh Yến-Loan); được bà nhận làm em nuôi. Sau cả năm được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Năm vị học văn, luyện võ đều thành. Năm vị thu nhận một số thiếu niên đồng tuổi, rồi luyện võ, dạy bắn cung cho họ, lập thành đội Thần-tiễn Long-biên khoảng 500 người. Mỗi tráng sĩ trong đội Thần-tiễn đều có thể bắn trúng chim đang bay. Vua Thánh-tông ban cho năm vị mỹ hiệu là Longbiên ngũ hùng. Năm 1069, Long-biên ngũ hùng mang đội Thần-tiễn tùng chinh đánh Chiêm, được đặt dưới quyền chỉ-huy của Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương có hai thiếu nữ Việt-kiều tên Lê Kim-Loan, Võ Kim- Liên cảm tài đức, kết bạn với năm ngài, xin theo trong quân làm thông dịch và dẫn đạo. Kim-Loan kết bạn thanh mai trúc nhã với Phạm Dật; Kim-Liên với Vũ Quang. Sau chiến thắng Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Long-biên ngũ hùng được lệnh trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn ở mặt trận Nam-giới. Trong trận đánh Bố-chánh, năm ngài gặp thêm hai thiếu nữ Việt-kiều tên Trần Ngọc-Liên, Trần Ngọc- Hương kết bạn, xin theo trong quân làm thông dịch viên và dẫn đường. Ngọc-Liên kết bạn thanh mai trúc nhã với Lý Đoan; Ngọc-Hương với Trần Ninh. Riêng Đinh Hoàng-Nghi gặp một thiếu nữ Chàm là tù nhân, tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la Nang Chang-Lan (Sri Varman Nangchanglan). Suốt trận chiến, Long-biên ngũ hùng cùng bốn người bạn gái lập đại công trong trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Ma-linh, Địa-lý, Nam-giới, Nhậtlệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Chiến thắng trở về, Ỷ-Lan thần-phi làm lễ cưới cho Long-biên tứ hùng với bốn thiếu nữ. Riêng Đinh Hoàng-Nghi với thiếu nữ Chàm, vì kẻ Việt người Chàm, rồi có chuyện hiểu lầm sinh duyên tình trắc trở, Chang-Lan bỏ đi tu, khiến ngài ôm mối hận tình suốt đời. Ngài được Ỷ-Lan thần phi hỏi một thiếu nữ văn võ kiêm toàn, nhan sắc diễm lệ con gái đô-đốc Trầm Lâm tên Trần Phương-Quỳnh cho. Khi phong công thần bình Chiêm, Long-biên ngũ hùng đều được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, mỗi vị chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Bốn vị phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu bên Tống, Long-biên ngũ hùng cùng các phu-nhân được đặt dưới quyền chỉ huy của Longthành ẩn-sĩ Tôn Đản, và phu nhân Ngô Cẩm-Thi. Năm vị lập huân công lớn, đánh chiếm 18 ải biên giới, rồi tiến lên vây Ung-châu. Khi Tống sai năm danh tướng từ Kinh Hồ giải vây Ung-châu. Năm ngài được lệnh mang quân đánh viện ở Hỏa-giáp, Đại-giáp, Ngọctuyền, phá tan năm đạo binh, giết năm tướng. Năm ngài đánh những trận rung động Trungquốc, khiến các tướng Tống đặt cho mỹ danh là Giao-chỉ ngũ kiêu (năm con cú của đất Giao-chỉ). Chiến thắng trở về cả năm được phong chức thượng tướng quân, tước hầu. Các phu nhân đều được phong quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân đánh Đại-Việt, Long-biên ngũ hùng cùng năm phu nhân tử chiến, và đều tuẫn quốc. Cả năm được phong tước đại vương, các vị phu-nhân được phong công chúa, lập đền thờ. Trải qua bao thỏ lặn, ác tà của nghìn năm, ngày nay tôi còn tìm được bốn đền thờ của các ngài Phạm Dật, Vũ Quang, Lý Đoan, Trần Ninh. Dân chúng vẫn hương khói thờ cúng vào dịp giỗ các ngài hay ngày sóc ngày vọng. Còn đền thờ ngài Đinh Hoàng-Nghi ở Ninh-bình thì không tìm được dấu vết. Có tài liệu nói rằng ngài là con cháu vua Đinh, nên đương thời Linh-Nhân hoàng thái hậu truyền tu bổ đền thờ vua Đinh, rồi ngài được phối thờ. Tôi đã hành hương đền thờ vua Đinh, nay ở thị-xã Ninh-bình; thì chỉ thấy tượng, bài vị thờ vua Đinh Tiên-hoàng, Việtvương Đinh-Liễn, thái-tử Hạng-Lang, Vệ-vương Đinh-Toàn. Còn bài vị thờ ngài thì không thấy, nên tôi không tin thuyết này. Dưới đây là tiểu chuyện các ngài. 7.1.1. Phạm-Dật (1049-1077) Tên thực là Lê Dương-Thịnh, quán làng Đông-cứu, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Vì mắt ngài hơi lé, nên bạn hữu gọi đùa ngài là Dật-lé. Phụ-thân là Lê Dương-Thái, mẫu thân là Đặng-thị Nhạn. Song thân ngài vốn là tá điền, chẳng may gặp năm mất mùa, không đủ lúa nộp tô cho chủ điền, ông phải làm lực điền cho chủ kiếm ăn. Bà thì đi ở, còn ngài thì được sư Viên-Chiếu nhận làm học trò, nuôi cho ăn học cùng với bốn người bạn là Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Vì tức giận chủ điền hành hạ cha mẹ, một đêm ngài lẻn đến nhà y, cầm dao giết cả hai vợ chồng ác nhân, rồi cải tên là Phạm Dật, trốn lên Thăng-long ăn mày. Sau ngài được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử; ngài học văn rất uyên bác, làu thông kinh-sử, giỏi võ-nghệ. Năm 1069, ngài theo vua Lý Thánh-Tông bình Chiêm. Ngài được đặt dưới quyền của Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương ngài gặp một Việt kiều tên Lê Kim-Loan, tình bạn thanh mai trúc nhã sinh ra. Hai vị hợp sức đánh giặc, lập đại công trong các trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Sau khi chiến thắng trở về ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Ngự-long; bà được Khai-Quốc vương nhận làm con nuôi, được phong nhất phẩm-phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm bên Tống, hai ngài được đặt thuộc quyền chỉ huy của Thái-tử thiếu bảo, Quảng-nguyên hầu, Phiêu-kị đại tướng quân Lưu-Kỷ, phụ trách đánh các ải Thái-bình, Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Quy-hóa. Các tướng Tống như Giám-áp trại Quách Vĩnh-Nghiêm, Quản-hạt Ngũ Cử, Trấn Nam tướng quân Thái Bằng; kẻ bị ngài đánh bại, kẻ bị bắt làm tù binh, người bị giết. Có lần đóng quân ở làng An-cư, sai quân giúp dân khẩn hoang, trừ ác thú. Sau đó ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản và phu-nhân Ngô Cẩm-Thi tiến lên đánh Ung-châu, rồi đem quân chặn viện binh Tống, giết năm tướng Tống. Chính ngài cùng phu nhân đã cùng với Đô-thống Trần Ninh và phu nhân đồng chế ra loại Lôi-tiễn, gây kinh hoàng cho quân Tống. Sau chiến thắng, triều đình nghị công tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong ngài là Long-nhương thượng quân, tước Thiện-Tâm hầu. Bà được phong Thiên-ân Nhu-mẫn quận-chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân sang đánh Đại-Việt. Hai ngài phụ trách giữ phòng tuyến cuối cùng bảo vệ Thăng-long. Chiến lũy Như-nguyệt bị phá, quân Tống tràn về Thăng-long như nước vỡ bờ. Hai ngài chỉ huy hiệu binh Ngư-long dưới quyền chỉ huy của công chúa Thiên Ninh, đánh bật quân Tống về Bắc Như-nguyệt. Cuối trận đánh cả hai ngài đều tuẫn quốc. Triều đình truy phong ngài là Long-biên, Vũliệt, Chiêu-thắng đại vương, bà được phong Thiên-ân, Nhu-mẫn, Hồng-đức công chúa; truyền lập đền thờ ở đình xã An-cư tục gọi là làng Gờ, tổng Đông-bối, huyện Linh-giang, nay là huyện Linh-thanh, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép. Việt-Nam, Hải-dương tỉnh thần tích. Trung-quốc: a/. Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Tống-triều công thần bi ký, Ung-châu kỷ-sự, Quảng-Tây địa dư ký, Quảng-Tây chư thần ký, Hy-Ninh hận sự bi ký, Thần-tích Hoả-giáp ngũ đại vương từ, b/. Thái-bình phong vật chí, Hoành-sơn sơn xuyên phong vực, Ôn-nhuận sự tích, Quý-hóa địa dư chí. 7.1.2. Vũ Quang (1050-1077) Tên thực là Vũ Thành, bản tính ngài hiền hậu, nhưng rất can đảm. Hồi thơ ấu các bạn gọi đùa ngài là Quang con gái. Phụ thân ngài tên Vũ An, thân mẫu tên Trần-thị Nữ. Phụ thân ngài mất khi ngài mới bẩy tuổi. Mẫu thân không có tiền chôn cất phải vay tiền của một phú gia. Vì không trả được nợ, bà phải làm lẽ phú gia để trừ nợ. Nhưng ông nhà giầu chỉ thích mẹ, mà không ưa con, nên đánh đập ngài hoài. Sư Viên-Chiếu làng Thổ-lội (nay là Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội) đem ngài về nuôi dạy cùng bốn người bạn là Phạm Dật, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh. Ngài lầu thông binh pháp, giỏi võ nghệ. Sau được Khai-Quốc vương nhận làm đệ tử. Năm 1069, Đại-Việt đem quân bình Chiêm, ngài được vua Thánh-tông cho tòng chinh. Ngài được đặt dưới quyền Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Trong trận đánh Vọng-hương, ngài gặp một Việt kiều tên Võ Kim-Liên, con gái danh-y Võ Thương. Tình bạn thanh mai trúc nhã sinh ra. Hai ngài cùng sát cánh trong các trận đánh Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang; lập đại công. Thắng Chiêm, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Quảngthánh. Bà được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch châu bên Tống. Hai ngài được đặt thuộc quyền Thái-tử thiếu bảo, Môn-châu hầu, Trấn Bắc thượng tướng quân Hoàng Kim-Mãn, phụ trách đánh ải Vĩnh-bình. Tướng trấn thủ Vĩnh-bình là Tô Tá bị ngài bắt sống. Sau khi chiếm Vĩnh-bình, hai ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, đem quân tiến về Ung-châu. Trong trận Ung-châu, hai ngài phụ trách đem hiệu Thiên-tử binh Quảng-thánh chặn viện quân đến từ Quế-châu. Hết giặc trở về, triều đình nghị công, tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong ngài là Hổuy thượng tướng quân, tước Thành-Tâm hầu, bà được Trang-hòa, Thiên-đức quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh sang Đại-Việt, vượt sông Như-nguyệt sắp tới Thăng-long. Hai ngài đem quân đánh cảm tử chặn giặc. Bị chém một đao gần đứt cổ, ngài ôm đầu chạy về đến xã A-hộ, huyện Lục-ngạn, trấn Kinh-Bắc; gặp một người đàn bà, ngài hỏi trong cơn mê loạn: Đầu bị chém có sống được không? Người đàn bà đáp: E không sống được. Ngài buông kiếm, buông đầu, ngã ngựa, tuẫn quốc. Phu-nhân chỉ huy hậu quân rút về đến nơi, thấy ngài chết rồi, cũng rút kiếm tự tử theo. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong ngài là Tri-tôn đầu thượng tướng quân, quả cảm Hùng-vĩ đại vương. Phu nhân được phong Trang-hòa, Thiên-đức, Trinh-tĩnh côngchúa, truyền lập đền thờ. Hiện đền thờ hai ngài vẫn còn, mang tên đền Bảo-linh, ở xã Ahộ, huyện Lục-ngạn, nay là xã Biện-sơn, huyện Lục-ngạn, tỉnh Hà-Bắc. Trên đây tôi thuật theo Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống-triều bi thần ký. Còn Lục-Nam địa dư chí chép rằng ngài được vua Lý gả công chúa cho. Khi công chúa nghe tin ngài tuẫn quốc, thì tự tử theo. Tài-liệu ghi chép. - Việt-Nam, Lục-Nam địa chí. Trung-quốc: a/. Xem Phạm-Dật . b/.Vĩnh-bình sơn xuyên phong vực chí, Vĩnh-bình chư thần chí. 7.1.3. Đinh Hoàng-Nghi (1051-1077) Ngài con của Tể-tướng Đinh Nho-Quan triều đình Đại-Nam (Nùng Trí-Cao), thân mẫu là Dương Hồng-Hạnh. Hồi còn niên thiếu, người ngài hơi thấp, nên bạn bè gọi đùa là Nghi-lùn. Trong trận đánh cuối cùng ở Côn-luân phố giữa quân Tống với quân Đại-Nam. Đại-Nam bị bại, bà Hồng-Hạnh tuẫn quốc. Đinh Nho-Quan lưng đeo con trai duy nhất phá vòng vây, chạy về làng Thổ-lội. Nho-Quan được sư Viên-Chiếu chữa trị. Sau khi vết thương lành, Nho-Quan trao đứa con nhờ Viên-Chiếu giữ dùm, để đi cứu bạn hữu. Viên- Chiếu đặt cho đứa trẻ đó cái tên Hoàng-Nghi, ngài nuôi dạy cùng bốn trẻ khác là Phạm Dật, Vũ Quang, Lý Đoan, Trần Ninh. Lớn lên Hoàng-Nghi được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Ngài học một biết mười, lầu thông kinh, sử, tử tập, võ nghệ cao cường, mưu thần chước thánh. Năm 1069, vua Lý Thánh-tông bình Chiêm, ngài được tùng chinh, đặt đưới quyền Trung-Thành vương. Sau khi thắng trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được lệnh trợ chiến Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn ở Nam-giới để đánh Bố-chánh. Trong trận này ngài gặp một cô gái Chàm mang tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la Nangchang-Lan (Sri Varman Nangchanglan) kết bạn thanh-mai trúc nhã. Vì ngài lập đại công trong các trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang, ; chiến thắng trở về ngài được phong tước Bá, lĩnh chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ. Vì vấn đề kẻ Việt, người Chàm, rồi sinh hiểu lầm đưa đến Chang-Lan bỏ đi tu, làm ngài ôm hận suốt đời. Ngài được Ỷ-Lan thần phi hỏi cho một tiểu-thư sắc nước hương trời con gái đô-đốc Trần Lâm tên Phương-Quỳnh. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Liêm, Khâm châu bên Tống. Ngài được đặt thuộc quyền của Thái-tử thái phó, Trấn-võ thượng tướng quân, Tô-mậu hầu Vi Thủ- An. Ngài cùng phu nhân phụ trách đánh ải Cổ-vạn. Các tướng Tống như Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu-Am, Bát-tác sứ Toàn-Hưng, Chiêu-thảo sứ Nùng Hiệp-Thành, bị hai ngài giết chết. Hạ ải xong, ngài đem quân chặn đánh viện quân giặc từ Khâm-châu tiến về cứu Tây-bình, Cổ-vạn, rồi tiến về vây Ung-châu. Tiếp theo, Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản giao cho hai ngài đem quân trấn ở đỉnh Hỏa-giáp, đánh viện binh Tống tiếp cứu Ung-Liêm. Sau chiến thắng, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hâu phong ngài là Quán quân thượng tướng quân, tước Chính-Tâm hầu. Phu nhân được phong Tuyên-đức, Thạc-hòa quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân trấn tại Chi-lăng, khiến quân Tống không tiến được, phải đi vòng sang vùng Tam-đảo. Khi quân Tống tiến đến Như-nguyệt, quân của ngài mất đường về. Ngài cùng phu nhân rút vào rừng kháng chiến đánh tập hậu. Nhận lệnh phò mã Thân Cảnh-Long, ngài cùng phu nhân vượt biên đánh cảm tử, đốt lương quân Tống ở Liêm-châu. Cả hai ngài đều tuẫn quốc trận này. Quách thị Nam-chinh chép thêm rằng: Khi ngài và phu nhân tuẫn quốc, chính Nang-chang-Lan bí mật đem xác về Trường-yên (Ninh-bình) chôn trong một ngôi chùa, không rõ chùa nào? Hết giặc, triều đình phong ngài là Hiển-uy, Trung-nghĩa, Duệ mưu đại vương phu nhân được phong Nghi-hòa, Tuyên-đức, Trang-duệ công chúa truyền lập đến thờ ở vùng Nho-quan, Trường-yên, ngày nay là Ninh-bình. Chúng tôi không tìm ra di tích đền này. Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký chép thêm rằng ngài được Linh-Nhân hoàng thái hậu yêu thương như con. Khi ngài tuẫn quốc, thái-hậu khóc đến bỏ ăn bỏ ngủ. Một hôm ngài hiện về trong giấc mộng nói với Hậu rằng: Ngài không phải là người thường, tiền thân ngài là con của Lạc-long quân vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai làm Việtvương Đinh Liễn đánh 12 sứ quân. Nay lại đầu thai đánh Tống. Vì vậy Linh-Nhân hoàng thái hậu sai tu sửa đền thờ vua Đinh ở Trường-yên, trong đền thờ cả Việt-vương Đinh Liễn, tức là ngài. Đền nay vẫn còn ở thị-xã Ninh-bình. Tôi không mấy tin thuyết này. Tài-liệu ghi chép: Việt-Nam: không. Trung-quốc: a/. Xem Phạm-Dật ở trên . b/.Khâm-châu địa dư chí, Hổ-môn chư thần ký, Cổ-vạn sơn xuyê cương vực ký. 7.1.4. Lý Đoan (1051-1077) Ngài tên thực là Lê Phúc, thân phụ tên Lê Mậu, thân mẫu tên Trần-thị Nương. Nguyên ông Lê Mậu là thợ rèn, ứng nghĩa tòng quân, được xung vào đạo Thiên-tử binh Đằng-hải. Trong cuộc khởi binh của Nùng Trí-Cao, tướng Lý Nhân-Nghĩa được lệnh Khai- Quốc vương đem quân giúp Trí-Cao, vượt biên đánh trại Như-hồng, ông tử trận. Triều đình phủ tuất ruộng cho bà Nương nuôi con. Ngài được ban quốc tính Lý. Mấy năm sau bà Nương chết, làng giao ruộng cho sư Viên-Chiếu trông coi nuôi dạy ngài cùng với Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Trần Ninh. Ngài rất giỏi y lý, nhưng bạn hữu gọi đùa ngài là lang-băm. Sau ngài trở thành thầy thuốc danh tiếng. Ngài lại được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Năm 1069, ngài theo vua Lý Thánh-Tông bình Chiêm, đặt trực thuộc Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Sau khi đánh chiếm Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được lệnh trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Lý-Chiêu-Văn đánh Bố-chánh. Trong trận này ngài gặp một thiếu-nữ Việt kiều tên Trần Ngọc-Liên. Hai vị kết bạn thanh-mai trúc nhã, sát cánh đánh giặc lập đại công trong các trận Bố-chánh, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Khải hoàn, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổngnhật, phu nhân được phong Liên-hương, Nhu-mẫn quận chúa. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch của Tống; hai ngài được đặt thuộc quyền chỉ huy của Kiểm-hiệu tư-không, Thượng-thư hữu bộc-xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghĩa-dũng quốc công tức phò-mã Thân Cảnh-Long. Hai ngài được trao nhiệm vụ đánh ải Tây-bình. Tây-bình bị hạ, tướng trấn thủ là Chiêu-thảo-sứ Nùng Toàn-An bỏ chạy, Trấn-viễn đại tướng quân Lưu Khải bị bắt. Tiếp theo hai ngài được lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, đem hiệu Thiên-tử binh Bổng-nhật vây Ung-châu, chặn đánh viện binh Tống ở núi Hỏa-giáp. Sau trận này ngài có đề nghị với nguyên-soái Lý Thường-Kiệt nên đem quân vượt Ngũ-lĩnh chiếm Trường-sa, nhưng không được chấp thuận. Chiến-thắng trở về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) phong cho ngài chức Hoài-hóa thượng tướng quân, tước Trực-Tâm hầu. Phu nhân được phong Thiên-y, Đại-từ quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân sang đánh Đại-Việt, hai ngài được lệnh trấn vòng đai thứ ba, tại Yên-dũng, bảo vệ Thăng-long. Khi danh tướng Yên Đạt, Khúc Chẩn, phá vỡ chiến lũy Phú-lương, công chúa Động Thiên, phò mã Hoàng Kiện tuẫn quốc. Quân Tống như nước vỡ bờ tấn công Yên-dũng. Ngài cùng phu nhân dùng Ngư-binh đánh tan quân Tống, chiếm lại chiến lũy Phú-lương. Trong trận đánh, dù bị thương, hai ngài vẫn cương quyết chiến đấu. Đạt thắng lợi, hai ngài mới tuẫn quốc. Hết giặc, ngài được phong Thiên-y, Ưu-dũng, Chí-nhân đại-vương. Phu nhân được phong Nam-thiên, Liên-hoa, Đoan-nhu công-chúa. Truyền lập đền thờ. Đền thờ hai ngài ở làng Cẩm-chàng, xã Bồng-lai, huyện Quế-dương nay là huyện Quế-võ tỉnh Hà-Bắc. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Bắc-ninh tỉnh thần chí. Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Tây-bình chư thần chí, Tây-bình sơn xuyên cương vực chí. 7.1.5. Trần Ninh (1052-1077) Thời niên thiếu, da ngài hơi đen, nên bạn hữu gọi đùa là Ninh-đen hay Ninh Mai Hắc-đế. Thân-phụ tên Trần Công-Bình, thân mẫu tên Lưu Tuệ-Trinh, quán làng An-mỹ, tổng Dương-quang, huyện Gia-lâm, lộ Kinh-Bắc. Ông Trần Công-Bình nguyên giữ chức thủ-bạ ở làng Thổ-lội. Trong một lần đi qua bờ sông Nguyệt-đức (sông Cầu), đêm bà mơ thấy một vị sứ giả của Ngọc-Hoàng thượng đế giáng xuống nói rằng : Vợ chồng nhà ngươi ăn ở phúc đức, nên Ngọc-Hoàng truyền cho con trai thứ chín của Lạc-Long quân giáng sinh làm con; sau sẽ làm đại tướng trấn thủ Nam-phương. Trở về bà mang thai, đẻ ra ngài. Khi ngài mới bẩy tuổi, thì song thân đều qua đời. Sư Viên-Chiếu đem về làng Thổ-lội nuôi dạy cùng với Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi, Lý Đoan. Lớn lên ngài được Khai- Quốc vương thu làm đệ tử. Ngài học văn, luyện võ đều thành. Ngài có biệt tài leo cây nhanh như vượn, lặn dưới nước như cá. Trong lần bình Chiêm (1069), vua Lý Thánh-tông cho ngài tùng chinh, đặt dưới quyền Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân. Sau khi lập công trong trận Vọng-hương, Vọng-giang, Tư-dung, ngài được gửi đến trợ chiến cho Tín-Nghĩa vương Chiêu-văn ở trận Nam-giới. Tại trận đánh Bố-chánh ngài gặp một thiếu nữ Việt-kiều tên Trần Ngọc-Hương. Hai ngài kết bạn thanh mai trúc nhã, cùng sát cánh đánh giặc. Hai ngài đã lập đại công trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Đồ-bàn, Phong-sa-trang. Chiến thắng trở về, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải. Bà được phong nhất phẩm phu nhân. Năm 1075, Đại-Việt đem quân đánh Tống, chiếm châu Khâm, Liêm, phá châu Ung, Dung, Nghi, Bạch; hai ngài với hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải được đặt thuộc quyền chỉ huy của Kiểm-hiệu tư không, Thượng-thư hữu bộc xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghiã-dũng quốc công tức phò mã Thân Cảnh-Long. Hai ngài có nhiệm vụ đánh ải Lộc-châu. Lộc-châu bị phá, tướng trấn thủ là Chiêu-thảo sứ Nùng Tông-Đán bỏ chạy. Tiếp theo, ngài nhận lệnh Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, mang quân tiến về đánh Ungchâu, rồi đem quân chặn đánh viện binh ở núi Đại-giáp. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, tâu lên; Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài lĩnh ấn Vân-ma thượng tướng quân tước Nhu-Tâm hầu. Phu-nhân được phong Thiên-hương, Thuần-mẫn quận chúa. Khi Quách Qùy, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt. Hai ngài theo Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân, Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn đánh trận Kháo-túc. Cả hai ngài đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình phong ngài là Anh-duệ, Chiêuthắng, Trung-liệt, Nguyệt-đức Long-vương. Phu nhân được phong Trang-duệ, Thuần-mẫn, Thiên-hương công chúa; truyền lập đền thờ ở bờ sông Nguyệt-đức, thuộc hai xã Chân-hộ, Hộ-trung huyện Yên-phong tỉnh Bắc-ninh, nay là tỉnh Hà-Bắc. Trên đây tôi thuật theo Quách-thị Nam chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống triều công thần bi ký. Còn tài liệu Việt thì chép giản dị rằng: Đền bên sông Nguyệtđức xã Chân-hộ, Hộ-trung huyện Yên-phong tỉnh Bắc-ninh thờ Thủy-thần thủy tộc Longvương. Nguyên thần là con Lạc-Long quân. Đền còn thờ hai vị thần nữa là Hoàng-Hà đoan khiết phu nhân, và Tam-giang công chúa. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam: Đại-Việt địa dư chí, Bắc-ninh tỉnh địa dư, Bắc-thành địa dư chí lục, Đại-Nam nhất thống chí, Bắc-ninh toàn tỉnh địa dư chí. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Lộc-châu sự tích, Lộc-châu cương vực chí. 7.2. Tây-hồ thất kiệt Tây-hồ thất kiệt là bẩy đại-tướng quân thời vua Lý Thánh-tông, Lý Nhân-tông. Vì hoàn cảnh nhà nghèo khó, cả bẩy vị đều sống lang thang ở Thăng-long; khi thì quét nhà, rửa chén cho những tửu lầu ở đế đô; khi thì làm mướn cho ngư-dân quanh sông Hồng, hồ Tây. Có lúc nghèo túng quá, cả bẩy vị đều đi ăn mày, móc túi, ăn cắp vặt. Duyên may đến, bẩy vị được Minh-Không bồ-tát thu làm đệ tử, rồi đem gửi cho hoàng-tử Lý Chiêu- Văn nuôi. Hoàng-tử Chiêu-Văn là con trai Khai-Quốc vương. Một dịp may đến nữa bẩy vị lại được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử. Về văn, các ngài chỉ học đủ đọc sách, nhưng về võ, các ngài luyện tập được bản lĩnh tối cao. Trong thời gian ở hồ Tây, bẩy ngài luyện được phép lặn dưới nước như giao-long. Một cơ duyên khác, bẩy vị gặp một thiếu nữ tên Lê-thị Yến-Loan, được nhận làm em nuôi. Khi Yến-Loan được phong làm Ỷ-Lan phu nhân, bà đem tài bẩy ngài tâu lên vua. Vua ban cho mỹ hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Bẩy ngài là những người đầu tiên chế ra bánh tôm. Sau này mang tên bánh tôm Tây-hồ, mà bất cứ người Việt nào cũng từng nếm qua. Nơi mà thời thơ ấu, năm ngài lưu ngụ ăn mày, nay nằm khoảng từ đền Trấn-vũ tới đê Yên-phụ. Thời gian này Tây-hồ thất kiệt thu dụng 500 thiếu niên cùng khổ, ăn mày, đem về nuôi dạy, khiến cho họ có bản lĩnh bơi lội dưới nước như rái cá, rất giỏi thủy chiến, được vua Thánh-Tông ban cho mỹ hiệu Giao-long Tây-hồ. Năm 1069, cả bẩy ngài với đội Giao-long Tây-hồ đều theo vua Lý Thánh-tông bình Chiêm; từng lập công lớn trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Khải-hoàn trở về cả bẩy ngài đều được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống. Mỗi ngài chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Ỷ-Lan thần-phi cưới cho bẩy ngài bẩy tiểu thư văn-võ toàn tài, đệ tử của Lý Thường-Kiệt, để phu thê có thể cùng nhau phò tá xã-tắc. Năm 1075, trong cuộc vượt biên đánh sang châu Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch bên Tống; bẩy ngài lập công lớn. Trở về, bẩy ngài đều được phong đại-tướng quân, tước hầu. Bẩy phu-nhân được phong quận-chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt mang quân sang đánh Đại-Việt. Bẩy ngài cùng bẩy quận-chúa đánh những trận kinh thiên động địa, nên trong Quách-thị Nam chinh, người Tống gọi bẩy ngài là Giao-long thất quái. Trong Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký gọi bẩy ngài là Giao-chỉ thất long. Bẩy ngài và bẩy phu nhân đều tuẫn quốc trong cuộc kháng Tống. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong bẩy ngài tước đại-vương, các phu-nhân được phong tước quận chúa, truyền lập đền thờ. Trải qua nghìn năm, ngày nay đền thờ các ngài vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói vào ngày giỗ, ngày sóc, ngày vọng. Dưới đây là tiểu chuyện các ngài: 7.2.1. Trần-Di (1051-1077) Thủa niên thiếu dáng người ngài gầy, mà cao, nên còn có tên là Di-sậy. Phụ thân tên là Nguyễn Giang-Hồng, mẫu thân tên Trần-thị Yến. Ông bà làm nghề đánh cá ở xã Mộ-đạo, huyện Vũ-tiên, phủ Kiến-xương. Nay là huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Ông bà ngoại của ngài không có con trai, nên nuôi ngài như con. Vì vậy ngài mang họ Trần. Năm ngài lên tám tuổi, song thân đi đánh cá, gặp bão thuyền lật, cả hai đều qua đời. Ngài lưu lạc theo thuyền buôn lên Thăng-long. Tại Thăng-long ngài gặp sáu người đồng cảnh mồ côi, kết bạn với nhau, sau vua Lý Thánh-tông ban cho bẩy ngài mỹ hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Tương truyền Tây-hồ thất kiệt có tài lặn dưới nước hàng giờ, hai tay không bắt được cá, và chạy nhanh hơn ngựa. Ngài lớn tuổi nhất trong Tây-hồ tất kiệt. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, Tây-hồ thất kiệt lập công lớn ở trận Nam-giới, Nhật-lệ, Pandurango. Trở về, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vũ-thắng. Ỷ-Lan thần phi cưới cho ngài một tiểu-thư sắc nước hương trời, văn võ kiêm toàn tên là Bùi Phương-Lý, cháu của quan Văn-minh điện đại-học sĩ Bùi Hựu. Trong cuộc Bắc phạt năm 1075, ngài cùng phu-nhân chỉ huy hiệu Vũ-thắng, phụ trách đánh ải Thiên-long. Đây là ải kiên cố nhất, quân phòng thủ cũng tinh nhuệ nhất. Hai ngài phải đánh hai ngày mới hạ được, tướng trấn thủ là Giám-áp Phong Hiển bị bắt. Sau khi hạ Thiên-long, hai ngài được lệnh đánh Nghi-châu. Nghi-châu bị hạ trong năm ngày. Tín-Nghĩa vương lại ra lệnh cho hai ngài đem quân tiến về đánh Ung-châu. Chiến thắng trở về, ngài được phong chức Quy-đức đại tướng quân, tước Hư-Tâm hầu. Vì phu-nhân có theo trong quân trợ chiến, nên được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Qùy, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân sang đánh Đại-Việt. Ngài được lệnh trấn ở phòng tuyến Vạn-xuân. Quách-Quỳ dùng cách đánh biển người. Ngài cùng phu nhân tuẫn quốc. Sau khi hết giặc, triều đình truy phong ngài là Nhân-dũng, Tráng tiết, Thần oai, Thủy-tế Long-vương, phu nhân được phong Hoà-thạc, Chí nhu, uyển mị Đông-hải công chúa, truyền lập đễn thờ tại quê ngài. Trải qua nghìn năm mưa nắng, biết bao lớp sóng phế hưng, ngày nay đền thờ ngài vẫn còn tại xã Mộ-đạo, huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Trên đây tôi thuật theo bộ Quách-thị Nam chinh và bộ Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Quảng-Tây địa dư chí, và một số bia đá, mộ chí của các tướng Tống. Trong khi tập Ngọc-phả cổ lục của Việt-Nam chép rằng: Ngài có tên chàng Hai, cha mẹ làm nghề đánh cá. Một hôm bà bị giao-long nổi lên quấn quanh người. Đêm đó ông mơ thấy thần tự xưng là Đệ-nhị thủy thần dưới Long-cung đầu thai, sau giúp vua giữ nước. Quả nhiên bà mang thai, rồi sinh ra một bọc. Bỗng có tiếng sét nổ lớn rồi bọc vỡ ra. Trong bọc có bé trai lớn, khắp người phủ vảy cá, phụ thân đặt tên là chàng Hai. Năm tám tuổi, chàng Hai cao lớn dị thường. Vua Lý Nhân-tông nghe tiếng mời ra cầm quân đánh Chiêm. Sau khi bình Chiêm, chàng Hai trở về quê. Một ngày trời mưa, nước lụt, chàng Hai cùng đám giao long bơi về Long-cung mất. Dân làng vớt quần áo mang về thờ. Tôi giải đoán rằng: Sau khi ngài tuẫn quốc, triều đình cho lập đền thờ, chắc có chép phả đầy đủ. Nhưng năm 1407, Trương-Phụ thu mang về Kim-lăng. Cho đến khi vua Lê dành lại độc lập, dân làng mới chép lại phả theo lối huyền thoại như trên. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Ngọc-phả cổ-lục. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Thiên-long địa dư chí, Khâm-châu chư thần ký, Nghi-châu địa dư chí. 7.2.2. Dương-Minh (1051-1077). Trong mười hai đại tướng quân tuẫn quốc vào thời gian kháng Tống (1076-1077) thì Trung-vũ đại tướng quân Cao-sơn đại vương được thờ nhiều nhất, cũng bị huyền thoại hóa nhiều nhất. Vào thời Trần, có khoảng 21 đền, miếu thờ ngài. Ngài là vị thần còn nhiều di tích nhất. Với hoàn cảnh khó khăn sau bao nhiêu thăng trầm, cho đến nay (1995) chúng tôi ghi lại được chín di tích như sau: 7.2.2.1. Đình thờ chung của ba xã Ôn-cập (làng Gắp), Lạc-yên (làng Khốm), Hoàng-liên (làng Sen), tổng Hoàng-vân. Nay thuộc huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc. Khi tử trận Kháo túc, ngài uất ức than rằng: Sao đã vội chết, khi chưa đền xong nợ nước. Nên sau đó ngài lại đầu thai trở lại. Bắc-giang tỉnh thần tích chép kiếp này ngài được tiên ở cầu Thấp-tần cho áo tàng hình. Ngài thường tàng hình vào công khố lấy thóc lúa, tiền bạc giúp dân nghèo. Đời vua Lý Anh-tông, nhà Tống sai Đàm Hữu-Lượng đem quân sang đánh Đại-Việt. Ngài dùng áo tàng hình vào trại bắt tướng giặc. Ngài được vua gả công chúa, cho cai quản từ sông Lục-đầu tới Cao-bằng. Sau ngài mất ở Thạch-long. Vua Lý Anh-Tông thương tiếc, cho dân ba xã trên lập đền thờ. 7.2.2.2. Đền thờ thần Cao-sơn ở xã Lương-nhàn, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-hưng. Tương truyền thần thường hiện ra làm thầy lang chữa bệnh cho dân. Có lần thần trị được hàng trăm trẻ bị bệnh đậu mùa sắp chết. Khi dân húng tiễn thầy lang về, thì thầy chỉ lên ngọn núi Lương-nhàn mà bảo: Nhà ta ở đó, rồi biến mất. Dân chúng lần theo tay thầy lang chỉ, lên ngọn núi, thấy toà cổ miếu, trong có tượng, cổ tượng có vết đao chém, thì biết là ngài. 7.2.2.3. Đền thờ Cao-sơn đại vương ở phường Đông-tác, huyện Thọ-xương, nay thuộc quận Đống-đa, Hà-nội. Tương truyền thần là một trong năm mươi con của Lạc-Long quân theo mẹ lên núi, và là vị thần thứ nhì được thờ bên tả đền Tản-viên. Đến thời vua Lý Thái-tông, thần được lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế xuống đầu thai để giúp vua đánh Tống, bình Chiêm. Trong trận đánh sông Như-nguyệt, bị chém vào cổ, thần ôm đầu chạy về quê, rồi tuẫn quốc. Hồi vua Lê Tương-Dực (1505-1516) bị binh biến phải chạy về Thanh-hóa. Vua từng đến đều cầu xin trợ giúp. Sau khi hết giặc, vua về Thăng-long, sai Đông-các đại học sĩ, Lễ-bộ thượng thư, Quốc-tử giám tế tửu Lê Tung soạn văn bia để ghi ơn. 7.2.2.4. Đình thờ ở thôn Điền-niêm, xã Đông-tạ, huyện Vĩnh-bảo, nay thuộc Hải-phòng. Tương truyền thời vua Giản-Định đời hậu Trần, dân gian có nhiều người bị bệnh đậu mùa, cầu trời; thì có thần hiện xuống cứu, xưng là Cao-Sơn đại vương. Thần trị hết bệnh cho tất cả dân chúng. 7.2.2.5. Đền thờ Cao-sơn đại vương ở thôn Bất-lự, xã Đại-sơn, huyện Tiên-du, nay là huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Đền thờ thần Tản-Viên. Nhưng lại nói, đến thời vua Lý Thái-tông, thần vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai, làm tướng đánh Tống, bình Chiêm. Sau tuẫn quốc ở trận Như-nguyệt. 7.2.2.6. Đình thờ làng Cung-bái, huyện Lục-ngạn, nay là huyện Yên-thế, tỉnh Hà-Bắc. Đền thờ Cao-Sơn đại vương và Quý--Minh đại vương. Tương truyền hai thần sinh vào thời vua Hùng Duệ-Vương. Bà mẹ mơ thấy rồng phun nước vào bụng, rồi sinh ra một bọc, nở ra hai con trai. Lớn lên hai ngài đều có tài văn võ, giúp vua Hùng đánh Thục, sau tuẫn quốc ở núi Tản. Đến đời Lý, thần Cao-Sơn đầu thai xuống làm tướng giúp vua Lý Thánh-tông bình hiêm, giúp vua Nhân-tông đánh Tống, rồi tử trận ở sông Như-nguyệt. 7.2.2.7. Đình thờ làng Đông-lỗ, tổng Đông-lỗ, huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc, thờ thần tên Cao-Sơn Quý-Minh, tên thực là Dương Tự-Minh quê ở làng Quan-triều, huyện Phú-lương, tỉnh Thái-nguyên. Thần nguyên là tướng thời vua Lý Nhân-tông, tử trận sông Như-nguyệt, tái đầu thai. Nhân được thần cho chiếc áo tàng hình, ngài thường vào cung lấy trộm vàng bạc đem giúp dân nghèo. Chẳng may một lần bị bắt, đem chém. Vua Lý Anh-tông thương tình tha cho. Bấy giờ quân Tống sang xâm lược, ngài dẹp giặc có công, được vua gả công chúa Thiều-Dung cho. Ngài lại có công dẹp nội loạn Anh-Vũ, được vua gả công chúa Diên-Bình. Sau ngài cáo quan về quê ở Phú-lương. Có kẻ tố cáo ngài mưu phản, vua sai bắt chém, nhưng khi giải đến bờ sông, ngài hóa. Vua thấu tình phong làm thần, truyền cho các làng từ Cao-bằng đến sông Lục-đầu lập đền thờ. 7.2.2.8. Đền thờ ở xã Quỳnh-giản, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương. Thần tích giống như đền thờ xã Lương-nhàn, mục số 7.2.2.7 trên. 7.2.2.9. Đình thờ xã Đồng- Áng, tổng Hoàng - Vân, huyện Hiệp - Hòa, tỉnh Hà - Bắc, thần tích giống như đền Đông - Lỗ, mục số 7.2.2.7. trên. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Đại-Nam nhất thống chí, Đồng-Khánh địa dư chí, Công-dư tiệp ký, Hoàng-Việt địa dư, Bắc thành địa dư chí lục, Hà-nội sơn-xuyên phong tục, Đại-Việt địa dư chí, Thăng-long cổ-tích khảo, Hải-dương tỉnh thần tích, Bắc-giang tỉnh thần tích, Chư dư tạp biên. - Trung-quốc, a/.Như Phạm-Dật trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Như-tích sơn xuyên phong vực chí, Để-trạo địa dư chí, Dung-châu sư tích. QTNC và TTCTGCK chép ngài tên thực là Dương Minh, thân phụ là Dương Đức, thân mẫu là Vũ-thị Ngân. Vì thời thơ ấu ngài hơi ngọng, nên các bạn gọi ngài là Minh ngọng. Song thân ngài làm nghề đánh cá ở sông Lục-đầu. Khi ngài lên bẩy tuổi, thì ông bà đi đánh cá bị gió cuốn, thuyền lật chết đuối. Ngài phải ăn mày khắp nơi kiếm sống. Năm mười một tuổi (1062) ngài lưu lạc về Thăng-long, gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết bạn với nhau. Bẩy ngài cắt gỗ, dựng lều tranh ở ven hồ Tây, rồi khi thì kéo lưới mướn, khi thì mò cua bắt ốc, có khi phải xúc phân trâu bán. Một vài lần đói quá phải ăn cắp gà, móc túi. Trong thời gian này, ngài được Khai-Quốc vương phi dạy về y. Tương truyền ngài đã tìm ra phương thuốc chữa bệnh đậu mùa, bênh đậu Lào, và thường đeo túi lang thang đi trị bệnh cho dân. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, được vua Thánh-tông cho tòng chinh, ngài lập công lớn trong trận Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandu- rango. Khi luận công phong thần, ngài được phong tước bá, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Long-dực. Ỷ-Lan thần phi hỏi cho ngài một tiểu thư tài sắc vẹn toàn tên Hoàng Phương-Lý, con quan Hình-bộ thượng thư Hoàng Khắc-Dụng. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Long-dực, phụ trách đánh ải Như-tích, Để-trạo. Gặp sức kháng cự của quân Tống cực kỳ mãnh liệt, ngài và phu nhân đều bị thương, nhưng vẫn cương quyết đi tiền phong xung sát. Sau hai ngày cầm cự, Như-tích, Để-trạo thất thủ. Tướng trấn thủ là Ngũ Hoàn bị giết tại trận. Sau đó ngài được lệnh Tín-Nghĩa vương tiến đánh Dung-châu. Chỉ sau ba ngày, hiệu Long-dực hạ được thành Dung, tướng trấn thủ là Đô-giám Vương Kính tử thương. Tiếp theo ngài tiến quân về đánh Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, ngài được phong chức Trung-vũ đại tướng quân tước Kính-Tâm hầu. Phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt (1076-1077), ngài cùng phu nhân nhận nhiệm vụ đánh cảm tử vào khu đóng quân của Tống. Công tác hoàn thành, nhưng hai ngài đều tử thương. Hết giặc, triều đình nghị công, truy phong ngài là Cao-Sơn, Thiên-y, Trung-vũ đại vương. Phu nhân được phong Trang-Hòa quận chúa, truyền lập đền thờ. 7.2.3. Triệu Thu (1052-1077) Ngài quán làng Cao-xá, trấn Nghệ-an. Phụ-thân tên Phạm Dung, mẫu-thân tên Trần Ngọc-Lan. Hai vị làm nghề đánh cá, chỉ sinh được mình ngài, đặt tên là Phạm Minh. Năm ngài lên bẩy tuổi, thì song thân qua đời. Ngài được một ngư dân ở phường Thọ-xương tên Triệu Nguyên nhận làm con nuôi, vì vậy ngài mang họ Triệu. Năm ngài mười tuổi, thì nghĩa phụ chết, để lại một căn nhà nhỏ, với chiếc thuyền câu. Ngài đem sáu người bạn cùng lứa, đang lang thang vô sở bất chí quanh hồ Tây về sống chung. Được năm tháng, lý trưởng trong làng muốn chiếm đất, nhà của ngài, y vu cáo cho bẩy ngài là phường du thủ, du thực. Vì vậy ngài phải cùng các bạn sống lang thang ven hồ Tây, khi thì ăn mày, khi thì kéo lưới mướn, có khi đói quá phải đi móc túi. Năm 1069, trong cuộc bình Chiêm, bẩy ngài cùng đội Giao-long Tây-hồ được vua Thành-tông cho tùng chinh. Ngài từng lập đại công trong trận đánh Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Ca khúc khải hoàn, ngài được phong tước bá, giữ chức đôthống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Thần-điện. Ỷ-Lan thần phi cưới tiểu thư con quan Thamtri Hộ-bộ Phàn Trọng-Tân, là Phàn Phương-Liễu cho. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Thần-điện đánh úp căn cứ thủy quân, cùng xưởng đóng chiến thuyền của Tống. Hai ngài thành công thực dễ dàng, rồi kéo quân về Khâm-châu. Tín-Nghĩa vương lệnh cho hai ngài đem quân công phá Bạch-châu. Gặp sức kháng cự mãnh liệt của quân Tống, ngài dùng hỏa công đốt thành. Sau mười ngày, dân trong thành hết lương đánh lại quân Tống, mở cửa xin hàng. Hạ Bạch-châu, ngài tiến quân về công hãm Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công tâu Lê, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Tuyên-vũ đại tướng quân, tước Tín-Tâm hầu. Phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt, hai ngài tử chiến ở trận Kháo-túc, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công, ngài được truy phong Anh-văn Tuyên-vũ đại vương. Phu-nhân được phong Trang-Ninh quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện đền thờ ngài ở xã Cung-nhượng, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắcgiang, nay là tỉnh Hà-Bắc. Bắc-giang tỉnh thần tích chép ngài theo vua đánh Chiêm, khi trở về được ba tháng, thì Chiêm cho người sang ám sát, xác ngài trôi theo sông Thiên-đức tới làng Cung-nhượng thì dạt lên bờ. Phu nhân nghe tin này nhảy xuống sông tự tử. Tài liệu ghi chép:. - Việt-Nam, Bắc-giang tỉnh thần tích. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Đông-hải Hy-Ninh bản mạt, Bạch-châu địa dư chí. 7.2.4. Mai-Cầm (1052-1077) Ngài quán tại trang Vạn-phân, huyện Đông-thành, tỉnh Nghệ-an. Vì ngài có cái thẹo trên cằm, nên các bạn gọi là Cầm-thẹo. Thân mẫu ngài tên Mai Xuân-Huệ, không chồng mà chửa, lúc lâm bồn sinh ra một con trai, đặt tên là Mai-Cầm. Bà bị làng bắt khoán, nên phải bỏ quê ra đi; đến làng Đạo-sử thì được một phú ông tên Lưu Khánh cưu mang, đổi tên ngài là Lưu Hùng. Năm ngài lên chín tuổi, thì nghĩa phụ và thân mẫu bị cọp vồ chết. Các con ông Lưu Khánh đuổi ngài ra khỏi nhà. Ngài lang thang ăn mày, lưu lạc tới Thăng-long, rồi gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết thành bạn. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, ngài được vua Thánh-tông cho tùng chinh. Nhờ lập đại công trong trận đánh Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Panduran- go. Sau khi chiến thắng khải hoàn, ngài được phong tước bá, giư chức đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư con quan Kinh-lược an-vũ sứ Trường-yên tên Tôn Sơn là Tôn Phương-Đơn cho. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài được nguyên-soái Thường-Kiệt trao cho nhiệm vụ tấn công vào cửa Đông, sau đó vượt ra cửa Tây, trấn ở Tiểu-dã để chặn phục binh. Việc đánh chiếm Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu xong, nguyên soái Thường- Kiệt truyền cho ngài đem quân về đánh Ung-châu. Hạ xong thành Ung, quân Việt rút về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong ngài chức Tuyên-uy đại tướng quân, tước Từ-Tâm hầu. Phu-nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân đánh đại Việt, ngài cùng phu nhân trấn ở phòng tuyến Như-nguyệt, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công truy phong ngài là Tuyên-uy phúc tướng đại vương. Phu nhân được phong Trang-Mẫn quận chúa, truyền lập đền thờ. Trải qua gần nghìn năm, đến nay đền thờ ngài vẫn còn tại làng Đạo-sử, tổng Phálãng, huyện Lang-tài, nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Một đền thờ thứ nhì tại làng Đông-hương, tổng Phá-lãng nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-Bắc. Trong Bắc-ninh tỉnh thần tích lại chép rằng: Thân mẫu ngài thấy con trâu vàng tắm ở ven biển. Khi bà tới hần thì trâu biến mất, chỉ còn lại hai cái lông, bà giắt hai cái lông vào gấu áo. Hai cái lông chảy thành nước, ngấm vào bụng bà. Từ đó bà mang thai, sinh một bọc hai trai. Bị dân làng chê cười, bà bỏ làng ra đi. đến làng Đạo-sử được một phú ông cưu mang. Bà đặt tên con là Hùng và Huy. Hùng có tài võ, huy có tài văn. Sau hai anh em theo vua bình Chiêm. Thắng trận hai ông trở về làng khao thưởng quân sĩ rồi vào triều nhận chức. Khi thuyền chở hai ông đến trang Đông-sá, phủ Thiên-trường thì bị đắm. Xác hai ông trôi về quê sắc diện còn tươi. Dân làng dâng biểu về triều, vua ban cho sắc phong để thờ phụng. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Bắc-ninh tỉnh thần tích. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật trên. b/. Khâm-châu chư thần ký, Liêm-châu địa dư chí, Hổ-môn chư thần chí. 7.2.5. Quách Y (1052-1077) Tên thực ngài là Phạm Trọng-Y. Chính quán ngài tại đâu không rõ. Chỉ biết song thân ngài làm nghề trồng hoa. Thân phụ tên Phạm Trọng-Khâm, thân mẫu tên Quách-thị Phùng. Vì ngài hói đầu, nên bạn hữu gọi đùa là Y-hói. Khi ngài lên bẩy thì song thân cùng bị bạo bệnh qua đời. Ngài được người cậu đem về nuôi, cải tên là Quách-Y. Năm ngài mười tuổi lại đến lượt ông cậu qua đời. Ngài sống bơ vơ, ăn xin độ nhật ở Thăng-long. Sau cùng gặp sáu người đồng tuổi, đồng cảnh ngộ, kết thân với nhau làm nghề kéo lưới mướn, rửa bát. Có lúc nghèo quá phải đi ăn mày, móc túi, ăn cắp vặt để sống. Bẩy ngài sau được vua Thánh-tông ban cho mỹ hiệu Tây-hồ thất kiệt. Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, ngài được vua Lý Thánh-tông cho tùng chinh, từng lập đại công trong các trận Nam-giới, Bố-chánh, Nhật-lệ, Thi-nại, Pandurango. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công phong cho ngài tước bá, giữ chức đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư Phạm Phương-Tiên con quan Kinh-lược an-vũ sứ Thanh-hóa là Phạm Nhật-Chiêu cho ngài. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh, tiến đánh thành Khâm. Thành Khâm bị hạ, ngài được lệnh tiến về công thành Ung. Sau khi chiến thắng trở về, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Minh-uy đại tướng quân, tước Minh-Tâm hầu, phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt đem quân sang đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân tử chiến ở phòng tuyến Như-nguyệt, rồi tuẫn quốc. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công phong ngài là Minh-uy Lôi-trấn đại vương, phu nhân được phong Trang- Thanh quận chúa. Hồi đem quân bình Chiêm trở về, ngài có dừng quân ở núi Lôi-sơn, xã Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an. Bấy giờ trong núi có bầy sói cực kỳ hung bạo, thường hay tràn về thôn xóm bắt bắt gia súc ăn thịt. Ngài dùng đại nỏ bắn mã-não, hoàng thạch giết sạch bầy sói. Nên dân chúng lập đền thờ sống ngài. Sau khi ngài tuẫn quốc, triều đình ban ruộng cho dân làng để tiếp tục hương khói. Cho đến nay, gần nghìn năm trôi qua, đền thờ của ngài vẫn còn, dân chúng vẫn hương khói quanh năm. Nhưng trong Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Hoàn vũ ký, Đại-Nam nhất thống chí thì chép giản dị rằng: Tương truyền đời Lý có tướng quân họ Phạm, không rõ tên, đem quân đi dẹp giặc, khi qua núi Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an thình lình có tiếng sấm nổ, rồi ngài biến mất. Vua Lý cho lập đền thờ, gọi là đền Độc-lôi(!). Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Hoàn vũ ký, Đại-Nam nhất thống chí. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. 7.2.6. Ngô Ức (1053-1077) Ngài là hậu duệ của Ngô-vương Quyền, thuộc giòng dõi Nam-Tấn vương Ngô Xương-Văn, thế hệ thứ 5 (Quyền sinh Văn, Văn sinh Đức, Đức sinh Tuệ, Tuệ sinh Ức). Phụ thân tên Ngô Vĩnh-Tuệ, quê ở xã Đường-lâm, huyện Phúc-thọ, thuộc thị-xã Sơn-tây. Thời vua Lý Thái-tông, ông nộp đơn dự thi tuyển võ tướng. Khai-Quốc vương đọc bản cung khai lý lịch, biết ông là cháu Ngô-vương, đặc cách cho ông khỏi thi. Sau khi huấn luyện, ông được phong chức đô-thống coi hiệu binh trấn ở Tiên-yên. Tương truyền sau khi thắng quân Nam-Hán, Ngô-vương kéo quân về thăm cố-đô Cổ-loa, tu bổ cố-cung thời vua An-Dương, lại trồng một cây đa rồi tuyên chỉ rằng Khi nào cây đa này chết, thì linh khí Cổ- Loa mới hết. (Cây đa này, nay là năm 1995 vẫn còn). Vì vậy một lần về Thăng-long hội quân, ông Đinh Vĩnh-Tuệ hành hương Cổ-loa, rồi qua đêm tại đây. Đêm đó ông mơ thấy vua An-Dương hội triều thần, có tứ trụ đại thần là Tể-tướng Phương-chính hầu Trần Tự-Minh, Đại-tư-mã Vạn-tín hầu Lý Thân, Đại-tư đồ Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Đại-tư-không Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung đứng hầu. Ông hành lễ với đức vua. Đức vua chỉ một võ quan bảo: - Ta thấy hung khí phương Bắc thịnh, thì thời gian con vua Bắc-đế đem quân Nam xâm đến nơi rồi. Vậy người hãy mau đầu thai để bảo vệ Viêm-bang. Viên võ quan hỏi: - Tâu bệ hạ, thần sẽ đầu thai vào cửa nào? Vua An-Dương chỉ vào Vĩnh-Tuệ: - Ta thấy Vĩnh-Tuệ là kẻ có lòng, vậy nhà ngươi hãy đầu thai làm con y. Thấy viên võ quan còn ngần ngữ, ngài dạy: - Ta chỉ bắt người xuống thế có hai mươi lăm năm mà thôi. Đừng có ngại ngùng. Hôm sau Vĩnh-Tuệ rời Cổ-loa ra đến đầu làng thì gặp một thiếu nữ xinh đẹp hái hoa sen, chẳng may bị rắn cắn vào bụng. Không kể nguy hiểm, ông ghé miệng hút nọc độc cứu cô. Người con gái thoát nạn, chắp tay: - Đa tạ tướng quân cứu mạng. Tên thiếp là Cao Tường-Vân. Tướng quân ơi! Tiểu nữ là con gái đồng trinh, thân thể chưa nhiễm bụi trần. Nay vì bị nạn, mà phải tùng quyền để tướng quân chạm vào khắp người, thì cái thân này thuộc về tướng quân vậy. Vĩnh-Tuệ bèn cưới Tường-Vân làm vợ, năm sau sinh ra một trai, đặt tên là Ngô Vĩnh-Ức. Khi Vĩnh-Ức được một năm, thì Vĩnh-Tuệ đem quân đi bắt cướp, trúng tên chết. Tường-Vân đem con về ở Nghi-tàm, ngoại ô Thăng-long làm nghề trồng hoa sống qua ngày. Năm Vĩnh-Ức bẩy tuổi, thì mẹ qua đời. Không nơi nương tựa, ngài lang thang cùng sáu người bạn,(sau là Tây-hồ thất kiệt), sống vất vưởng ở Thăng-long. Khi thì kéo lưới mướn, khi thì rửa bát, có khi phải ăn cắp vặt, móc túi kiếm sống. Vì khi cười miệng ngài hơi méo, nên bạn hữu họi ngài là Ức-méo. Rồi duyên may đưa đến, bấy ngài gạp Minh-Không thiền sư, Khai-Quốc vương, đgợc thu làm đệ tử, lại được Ỷ-Lan phu nhân nhận làm em nuôi. Năm 1069, vua Thánh-tông đem quân bình Chiêm, Tây-hồ thất kiệt được tùng chinh, và được đặt dưới quyền Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn. Sau chiến thắng Nam-giới, Bố-chánh, ngài lại tham dự trận Nhật-lệ. Trong trận này ngài là người duy nhất bị thương. Tiếp theo ngài dự trận Thi-nại, Pandurango. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, ngài được phong tước Bá, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược. Ỷ-Lan thần phi hỏi tiểu thư Quách Phương-Dược, con quan Lễ-bộ thượng thư Quách Sĩ-An cho ngài. Trong những ngày cùng Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt luyện quân, chính ngài là người chế ra loại tên lửa mang theo ống nứa trộn nhựa cháy, mã não, hoàng thạch để đốt thành địch. Đây là sáng kiến đầu tiên, rồi sau này Phạm Dật, Trần Ninh mới chế loại Lôi-tiễn gây kinh hoàng cho quân Tống trong trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ung-châu. Trong cuộc Bắc chinh năm 1075, ngài cùng phu nhân đem hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược tham dự trận đánh Khâm-châu, rồi tiến về đánh thành Ung. Ca khúc khải-hoàn, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức Định-viễn đại tướng quân, tước Huệ-Tâm hầu. Phu nhân được phong Trang- Ninh quận chúa. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ đem quân đánh Đại-Việt. Ngài cùng phu nhân tử chiến ở Vạn-xuân, Kháo-túc, cả hai đều tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình nghị công, truy phong ngài là Định-viễn Lôi-thần đại vương, phu nhân được phong Trang-duệ, Ninh-tĩnh quận chúa; truyền phối thờ ở đền Kê-lạc cùng với tiên vương Ngô triều. Trải bao lớp sóng phế hưng, nắng mưa, nay (1995) đền Kê-lạc vẫn còn tại xứ Kêlạc, xã Nghĩa-chế, huyện Tiên-lữ, tỉnh Hưng-yên; nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Hưng-yên tỉnh nhất thống chí, Bắc-kỳ giang-sơn cổ-tích danh thắng bị khảo, Các tỉnh địa dư chí, Đồng-khánh địa dư chí lược. - Trung-quốc, a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. 7.2.7. Tạ Duy (1053-1077) Nguyên quán ngài tại An-lãng, thuộc Cửu-chân, trấn Thanh-hóa. Phụ thân tên Tạ Trọng-Nguyên, mẫu thân tên Lưu Huyền-Mẫn. Ông là một thầy đồ dạy học thuộc lộ Kinh- Bắc thời vua Lý Thái-tông. Ông bà sinh được hai con trai, con lớn tên Tạ Duy hay Tạ ĐộĐàm, con nhỏ tên Tạ Giang-Ba. Vì ông bà ngoại không có con, nên Tạ Giang-Ba mang họ ông ngoại, cải tên là Lưu Ba. Năm Tạ Duy tám tuổi, thì cha mẹ bị đắm thuyền chết hết. Hai anh em phải ở với người thím họ. Gặp bà thím ác độc đánh đập, hành hạ khổ sở, hai anh em bỏ nhà ra đi, và lạc nhau. Tạ Duy lên Thăng-long, vô sở bất chí, gặp sáu người đồng cảnh ngộ, kết bạn với nhau, sau là Tây-hồ thất kiệt. Bẩy người lang thang ở Thăng-long, khi thì kéo lưới mướn, khi thì rửa bát. Có khi túng thiếu quá, phải ăn cắp vặt, móc túi kiếm sống. Vì dáng người ngài hơi thấp, nên các bạn gọi là Duy-lùn. Trong dịp bình Chiêm năm 1069, vua Thánh-tông cho Tây-hồ thất kiệt tòng chinh, đặt dưới quyền Tín-Nghĩa vương Lý Hoằng-Chân. Chiến thắng trở về, triều đình nghị công, ngài được phong tước bá, giữ chức Đô-thống chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vạn-tiệp. Ỷ- Lan thần phi hỏi tiểu thư Lý Phương-Quế, con gái đại đô đốc Lý Kế-Nguyên cho ngài. Năm 1075, Đại-Việt đem quân Bắc-phạt, ngài cùng phu nhân chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vạn-tiệp đánh thành Khâm-châu, rồi tiến về công hãm Ung-châu. Ca khúc khải hoàn, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong ngài chức Ninh-viền đại tướng quân, tước Dũng-Tâm hầu, phu nhân được phong nhất phẩm phu nhân. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ mang quân sang đánh Đại-Việt, ngài cùng phu nhân tử thủ phòng tuyến sông Như-nguyệt, cả hai tuẫn quốc. Hết giặc, triều đình truy phong ngài là Ninh-viễn Trung-chính đại vương, phu nhân được phong Trang-hòa Ninh-tĩnh quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện nay đền thờ hai ngài vẫn còn tại xã Lưu-xá huyện Hưng-nhân, thuộc huyện Hưng-hà, tỉnh Thái-bình. Hưng-yên tỉnh nhất thống chí ghi giản dị: Anh là Lưu Độ-Đàm, em là Lưu Ba có công đánh Tống, bình chiêm, được phong chức Tiết-độ sứ. Sau khi mất được dân chúng lập đền thờ, mộ cũng chôn tại đấy. Trong đền thờ có tấm hoành phi sơn son thiếp vàng khắc bài thơ của vua Lê Hiển-Tông đề, nhắc công lao hai vị. Nhiều người lầm Lưu Độ-Đàm tức Ngô Ức với Lưu Khánh-Đàm sau này. Về Lưu Khánh-Đàm, Đại-Việt sử ký toàn thư, Lý kỷ, Nhân-tông bản kỷ chép rằng niên hiệu Thiên-phù Khánh-thọ, tháng 12 (DL 1228) vua Lý Nhân-tông sắp băng, tuyên triệu Thái-úy Lưu Khánh-Đàm vào cung để thác việc lập thái tử Dương-Hoán nối ngôi, lại cũng ghi Khánh-Đàm mất năm Thiên-chương Bảo-tự thứ tư (DL.1136). Tài liệu ghi chép: - Việt-Nam, Hưng-yên tỉnh nhất thống chí, Đại-Việt sử ký toàn thư ( Lý kỷ, Nhân-tông kỷ). - Trung-quốc a/. Xem Phạm-Dật ở trên. b/. Xem Mai-Cầm ở trên. Trên đây, tôi đã dẫn quý độc giả lướt sơ qua trang sử anh hùng thời Tiêu-sơn. Tôi xin ngừng ở đây, và mời quý độc giả đi vào hào quang của tổ tiên ta để lại, trong bộ Nam quốc sơn hà này. Viết tại Pontault Combault, Pháp-quốc, mùa hè, tháng sáu, năm Ất-hợi (1995). Yên-tử cư-sĩ Trần-Đại-Sỹ. Chưa hoàn chỉnh
  5. Ông Trần Đại Sỹ viết: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...showtopic=14386
  6. Anh Vuivui thân mến. Quan niệm Tuất là Thiên Môn không phải chỉ ở Tố Vấn, mà trong Phong Thủy, cũng có việc này. Mỗi phương trong Phong Thủy chia làm 3 sơn. Tất cả 24 sơn hướng. Phương Càn cũng chia làm 3 là Tuất - Càn - Hợi. Bởi vậy Tuất được coi là Thiên Môn. Bài viết của tác giả rất đáng lưu ý và suy ngẫm. Vài lời chia sẻ.
  7. Wildlavender thân mến.Theo tôi, nếu cụ đề nghị như vậy thì Ok luôn đi. Nhưng với cái bình hơi thì tiền hợi nặng đấy. Ngày nào rảnh, W hoặc Thiên Đồng đi hỏi giá cái bình hơi và dụng cụ sửa xe bao nhiêu tiền. Chi tiết nha, cả nhựa vá xe, các miếng vá, bộ gõ cho chắc....Tốt nhất hỏi một ông sửa xe chuyên nghiệp xem mua ở đâu và gồm những gì. Đồng thời cũng phải lót tay cụ một ít tiền, phòng khi mấy ngày đầu không có khách.
  8. TƯ LIỆU THAM KHẢO 'Súng lên đạn' ở hai miền Triều Tiên BÁO ĐẤT VIỆT Cập nhật lúc :11:21 AM, 25/05/2010 Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-Il vừa đặt quân đội vào tình trạng báo động sau khi Mỹ, Hàn Quốc thông báo kế hoạch tập trận chống tàu ngầm trên Hoàng Hải, nơi tàu Cheonan bị chìm hồi tháng 3. Ngay khi thông tin trên bị rò rỉ, nhiều chỉ số tài chính của Hàn Quốc đồng loạt mất điểm. Tuy nhiên, theo Reuters, tới nay thì Hàn Quốc, Mỹ chưa có phản ứng chính thức về việc Triều Tiên đặt quân đội vào tình trạng báo động. Quân đội Triều Tiên đang trong tình trạng báo động. Trước đó, Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm qua thông báo kế hoạch tổ chức hai cuộc diễn tập quân sự ngoài khơi bán đảo Triều Tiên. Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Mỹ Bryan Whitman cho biết, các cuộc diễn tập sẽ tập trung vào việc phát hiện, theo dõi các hoạt động tàu ngầm trái phép. Nhà Trắng khẳng định, Tổng thống Mỹ trực tiếp ra lệnh cho các tư lệnh cộng tác với Hàn Quốc nhằm “đảm bảo quân đội sẵn sàng, răn đe mọi sự khiêu khích có thể xảy ra trong tương lai”. Theo AP, Mỹ hy vọng sức ép từ cộng đồng quốc tế, cộng với màn phô diễn sức mạnh quân sự sẽ răn đe Triều Tiên khỏi những hành động gây căng thẳng trong khu vực. Nhiều nhà phân tích nhận định, đây là biểu hiện của Mỹ nhằm thể hiện sự ủng hộ với Hàn Quốc hơn là đe dọa Triều Tiên bởi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton trước nữa khẳng định sẽ cố gắng tránh mọi hành động làm gia tăng căng thẳng. Vu Lan (theo Reuters, AP, Telegraph)
  9. Chùm tin vắn qua ảnh Dân Trí Thứ Ba, 25/05/2010 - 18:05 16 người Nga đã thiệt mạng và 25 người khác bị thương khi một chiếc xe buýt chở khách du lịch Nga bị lao ra khỏi một cây cầu, rơi xuống sông ở tỉnh Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ. Chiếc xe đang đi từ khu nghỉ mát Alanya, thuộc Địa Trung Hải, một địa điểm du lịch yêu thích với người Nga và Đức. 15 người đã thiệt mạng khi Ba Lan hứng chịu đợt mưa lớn kéo dài, khiến mực nước ở các dòng sông tăng cao, gây ra lũ lụt tồi tệ nhất trong vòng hơn một thế kỷ qua ở nước này. Nhân viên cứu hộ từ khắp châu Âu hiện đang phải vật lộn để ứng phó với thảm họa này. Phan Anh Tổng hợp Singapore: 2 tàu đâm nhau làm loang 2.000 tấn dầu (Dân trí) - Ước tính 2.000 tấn dầu thô đã loang ra biển khi một tàu chở dầu và một tàu chở hàng đâm nhau ở ngoài khơi bờ biển đông nam Singapore vào sớm nay. Theo cơ quan hải cảng Singapore, vụ tai nạn xảy ra vào khoảng 6h sáng nay, giờ địa phương, ở Eo biển Singapore, giữa tàu chở dầu MT Bunga Kelana 3 đăng ký Malaysia và tàu chở hàng MV Waily, đăng ký ở St Vincent và Grenadines. Ước tính khoảng 2.000 tấn dầu thô, tương đương 14.660 thùng, bị loang ra biển. Không có thông báo thiệt hại nào về người nhưng một tàu đã bị hư hại nặng. “Cả hai tàu hiện đang neo đậu ở Eo biển Singapore, một tuyên bố của cơ quan hải cảng Singapore cho hay. “Hiện giới chức trách đang tiến hành khống chế và dọn dẹp đống dầu loang”. Singapre được coi là trung tâm lưu trữ và buôn bán dầu lửa lớn nhất châu Á. Phan Anh Theo CCN, Bloomberg
  10. Người “hóa giải” nọc độc của mọi loài rắn Thứ Ba, 25/05/2010 - 12:31 (Dân trí) - Ông Hà Xuân Tỉnh ở thôn Trảy, xã Cẩm Thạch, huyện Cẩm Thuỷ, được người dân trong vùng mệnh danh là “nhà khắc tinh nọc độc của rắn”. Đơn giản bởi ông có một phương thuốc gia truyền giải được nọc độc của các loại rắn... Hễ rắn cắn, đến ông là khỏi Cho đến nay, ông Tỉnh không nhớ nổi mình đã cứu sống được bao nhiêu người bị rắn độc cắn. Hầu hết những người bị rắn độc cắn đến ông đều chữa khỏi, chỉ cần lúc ấy nạn nhân còn uống được thuốc. Ông khẳng định ông chưa chịu thất bại trước bất cứ một trường hợp nào. Ông Tỉnh cho biết thuốc luôn có sẵn ở trong rừng Ông Tỉnh chia sẻ: “Có những trường hợp bị rắn độc cắn khi đến nhà tôi chẳng còn hay biết gì nữa, toàn thân tê liệt, chỉ có tim là còn thoi thóp những nhịp đập cuối cùng. Thế nhưng khi tôi cho uống thuốc vào chỉ vài tiếng sau là bệnh nhân đã hồi phục sức khoẻ, trở lại bình thường”. Có những trường hợp đi rừng bị rắn độc cắn vào đầu, không có cách nào để ngăn chặn chất độc chạy vào tim, khi đưa đến nhà ông Tỉnh thì đã ở vào tình trạng nguy kịch, nhưng ngay sau đó nạn nhân như được hồi sinh chỉ với một chén thuốc của ông. Ông Tỉnh nhớ lại những kỷ niệm trong những lần cứu người của mình. Trường hợp anh Bùi Văn Hải ở thôn Thủy, xã Cẩm Thạch bị rắn hổ chúa nặng 4,8kg cắn vào tay. Đây là loại rắn có nọc cực độc nên ngay sau khi bị cắn, toàn thân anh Hải đã tê liệt không còn biết gì. Nhưng “còn nước còn tát”, mọi người cấp tốc đưa anh Hải đến nhà ông Tỉnh, lúc ấy tim của anh Hải dường như đã ngừng đập nhưng chỉ một lúc sau ông Tỉnh đã giúp anh Hải qua cơn nguy kịch trở lại bình thường. Nói về phương thuốc thần kỳ của ông Tỉnh, bác Nguyễn Văn Hùng, thôn Thủy, xã Cẩm Thạch, huyện Cẩm Thuỷ, vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Bác kể lần đó bác bị một con rắn xanh cắn, do tuổi cao sức yếu nên cả cơ thể nhanh chóng bị nọc độc rắn khống chế. Ngay sau đó bác được đưa đến nhà ông Tỉnh, và chỉ vài giờ sau ông Tỉnh đã đẩy hết chất độc của con rắn ra khỏi cơ thể bác. Nhờ ông Tỉnh, bác mới sống được đến bây giờ. Bác Nguyễn Văn Hùng đã từng bị rắn cắn và được ông Tỉnh cứu sống Tiếng lành đồn xa, tiếng tăm của ông không chỉ những người trong huyện mà cả những người ở huyện ngoài cũng biết đến. Nhiều khi giường ngủ nhà ông thành giường bệnh nhân. Có lúc nửa đêm, có người bị rắn độc cắn tìm đến nhờ giúp, ông sẵn sàng lặn lội lên rừng lấy thuốc về cứu chữa cho nạn nhân. Mặc dù đã cứu sống không biết bao nhiêu người nhưng ông không nhận bất cứ một sự đền đáp nào từ gia đình nạn nhân. Với ông, sự đền đáp lớn nhất là nạn nhân được bình phục. Phương thuốc chế ngự độc rắn Nói về bài thuốc giải nọc độc rắn thần kỳ của mình, chính ông Tỉnh cũng không biết có từ bao giờ. Chỉ biết rằng nó đã tồn tại bao đời nay và ông có được là do người cha truyền lại. Ông Tỉnh kể lại công việc chữa bênh rắn cắn của mình Ông kể, tổ tiên của gia đình ông có quy định rằng, chỉ khi nào thế hệ trước qua đi thì thế hệ sau mới được sử dụng phương thuốc ấy để cứu người bị rắn cắn và mỗi thế hệ trong gia đình chỉ có một người được truyền lại phương thuốc ấy. Vì thế, mặc dù ngay từ nhỏ ông Tỉnh đã theo cha vào rừng hái thuốc và được cha chỉ cho các loại cây tạo nên phương thuốc “thần” nhưng ông không được “hành nghề” khi cha ông còn sống. Ông Tỉnh tâm sự: “Đây là phương thuốc gia truyền và theo quy định của tổ tiên nó chỉ dùng để cứu người chứ không được phép dùng vì bất kỳ mục đích nào khác”.Mỗi lần có người bị rắn độc cắn đến nhờ cứu giúp, ông liền đi hái thuốc đem bỏ vào cối giã ra rồi đổ nước sôi vào, sau đó lấy nước cho bệnh nhân uống còn phần bã mang đắp vào vết rắn cắn. Thời gian chữa trị tùy thuộc vào từng trường hợp, nếu nhẹ thì chỉ vài tiếng đồng hồ, còn trường hợp nặng thì phải mất 1- 2 ngày bệnh nhân mới có thể bình phục. Hạn chế của phương thuốc này là không thể để dự trữ được thuốc trong nhà. Nếu mang những thảo dược đó phơi khô, dự trữ, chúng sẽ không còn tác dụng nữa. Đặc biệt nữa là cây chỉ mọc tự nhiên ở trên rừng chứ không sống được trong vườn nhà, trong điều kiện được con người chăm sóc. Bởi vậy mỗi lần có bệnh nhân đến, ông Tỉnh lại phải chạy vào rừng đi hái thuốc. Do nhà ông Tỉnh ở ngay dưới chân một khu rừng nên việc đi hái thuốc cũng khá tiện lợi, ông biết rõ được chỗ mọc của các cây thảo dược này. Trao đổi với chúng tôi, ông Phạm Quốc Phương, Chủ tịch UBND xã Cẩm Thạch, thừa nhận: “Trường hợp ông Tỉnh chữa bệnh rắn cắn ở địa phương có lâu rồi, ông Tỉnh chữa bằng phương thuốc nam, có nhiều trường hợp bị rắn cắn ở trong xã cũng như một số người ở địa phương khác đã được ông chữa khỏi. Địa phương cũng đã đến gia đình tìm hiểu và có hỏi về việc phổ biến phương thuốc, nhưng ông Tỉnh cho biết đây là bí quyết riêng nên không thể phổ biến được. Ông ấy không kinh doanh mà chỉ chữa bệnh cứu người thôi”. Còn ông Cao Thanh Hưng, Trưởng phòng Y tế huyện Cẩm Thủy, cho biết: “Chúng tôi cũng mới nắm bắt được việc này, tới đây chúng tôi sẽ có kế hoạch đến kiểm tra về nghiệp vụ y tế và sẽ làm việc với lãnh đạo huyện và Sở y tế, có thể mời cả Bộ vào để tiến hành thẩm định phương thuốc của ông Tỉnh. Nếu đúng là ông Tỉnh chữa bệnh rắn cắn giỏi như thế thì cũng nên tạo điều kiện để cho ông Tỉnh chữa bệnh cứu người”. Lục Văn - Duy Tuyên
  11. TƯ LIỆU THAM KHẢO Chùm ảnh: Hàn Quốc tập trận gần biên giới Triều Tiên Thứ ba, 25/05/2010, 15:35(GMT+7) VIT - Trong khi tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên đang leo thang, hôm nay (25/5), Hàn Quốc đã bất ngờ tiến hành tập trận gần biên giới với CHDCND Triều Tiên. Seoul không hề thông báo trên các phương tiện truyền thông về kế hoạch tập trận này. Binh lính lục quân Hàn Quốc tham gia cuộc tập trận quân sự tại một bãi tập bắn gần khu phi quân sự chia cắt hai miền Triều Tiên tại Paju, cách phía Bắc Seoul khoảng 45 km (28 dặm) hôm 24/5/2010. Binh sĩ Hàn Quốc kiểm tra súng trường trước khi thực hiện chiến dịch tìm kiếm gần khu phi quân sự tại Hwacheon, cách Đông Bắc Seoul khoảng 120km. Cuộc tập trận cũng được tiến hành tại Yanggu, cách Đông Bắc Seoul khoảng 180 km (112 dặm). Lính lục quân Hàn Quốc sử dụng trọng pháo gần khu phi quân sự tại Paju. Binh sĩ hô vang khẩu hiệu trước khi tiến hành chiến dịch tìm kiếm tại Hwacheon. Việc Hàn Quốc tập trận khiến dư luận cộng đồng quốc tế đặc biệt chú ý. NM (Theo THX) Tin dịch
  12. BÀI THAM KHẢO HIỆU ỨNG CẢNH TỈNH CỦA NGỤY TẠO VĂN HOÁ - KHOA HỌC NGUYỄN VĂN DÂN Mới đây, báo Văn nghệ số 16-2010 có đăng bài Sự kiện Sokal với mặt trái của lý thuyết hậu hiện đại của GS Phương Lựu. Bài viết nói đến tác động bài báo của Sokal đối với việc hiểu rõ “mặt trái của lý thuyết hậu hiện đại”. Nó đề cập đến một hiện tượng không hiếm trên thế giới nhưng ở Việt Nam có lẽ vẫn là một vấn đề tương đối mới, cho nên tôi muốn nói rõ hơn về hiện tượng này. Thế giới gọi hiện tượng đó là “nguỵ tạo văn hoá-khoa học”, nằm trong phạm trù “nguỵ tạo” nói chung. Nhưng theo tôi, nguỵ tạo có hai kiểu: một kiểu là nguỵ tạo vụ lợi cá nhân, chủ tâm lừa gạt để mưu lợi tiền bạc và danh vọng làm thiệt hại đến người khác hoặc đến xã hội. Trong văn hoá-khoa học, kiểu lừa gạt đó từng xảy ra với các dự án nguỵ tạo khoa học để xin tài trợ, để giành giải thưởng hoặc danh tiếng. Báo chí đã phê phán và nó được coi là một tội vi phạm pháp luật. Kiểu thứ hai là nguỵ tạo phi vụ lợi cá nhân, một sự giả mạo để chơi khăm, nhằm mục đích châm biếm, chế giễu, phê phán hoặc cảnh báo một khiếm khuyết hay một thói xấu trong đời sống; hoặc nguỵ tạo với mục đích cao cả là nhằm bảo vệ một tư tưởng đạo lý hay một sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc. Kiểu nguỵ tạo này sau đó sẽ tự nó hoặc được tác giả tiết lộ. Nói rộng ra, kiểu nguỵ tạo thứ hai có thể có nguồn gốc từ những chuyện biến hoá trong cổ tích hay thần thoại dân gian; từ những chiến thuật nguỵ tạo trong chiến tranh (khá phổ biến trong chiến tranh thời cổ đại ở Trung Quốc hay trong hoạt động tình báo thế giới sau này), thậm chí cả trong đời sống chính trị. Điển hình của nguỵ tạo chính trị hiện đại là vụ Đài Truyền hình Imedi của Gruzia ngày 13-3-2010 mới đây đã đưa một tin báo động giật gân là quân Nga đã kéo vào xâm lược Gruzia! Còn về mặt hài hước, nguỵ tạo châm biếm có nguồn gốc ở truyện cười dân gian, ở phong tục nói khoác của một số dân tộc, như ngày nói dối 1-4 ở phương Tây, thậm chí ở phong tục nói khoác của một làng (gọi là làng nói trạng, làng nói khoác...). Như vậy, trong bất kỳ trường hợp nào, người ta cũng không chấp nhận nguỵ tạo vì mục đích mưu lợi cá nhân gây thiệt hại cho người khác hoặc cho tập thể. Chỉ có kiểu nguỵ tạo thứ hai - nguỵ tạo phi vụ lợi - là có lý do để tồn tại. Trong văn hoá-khoa học, ở một chừng mực nào đó, kiểu nguỵ tạo phi vụ lợi có một tác động tích cực nhất định, chẳng hạn như nó cảnh tỉnh giới văn hoá-khoa học về một thói a dua, ham chạy theo mốt mà bỏ quên các nguyên tắc về tính nghiêm cẩn của tri thức [tiếng Anh: “intellectual rigour”]. Trong bài viết này tôi sẽ nói về kiểu nguỵ tạo phi vụ lợi trong văn hoá-khoa học cùng với những vấn đề liên quan. Nguỵ tạo văn hoá-khoa học phi vụ lợi có thể đã xuất hiện từ lâu, nhưng lịch sử chủ yếu ghi nhận những vụ nguỵ tạo từ cuối thế kỷ XIX đến nay.[1] Ví dụ như vụ nguỵ tạo nổi tiếng của nhà văn Pháp Léo Taxil (1854-1907) nhằm giễu cợt Nhà thờ Thiên chúa giáo. Vào những năm 1890, Taxil đã viết mấy cuốn sách giả vờ chống lại Hội Tam điểm, đối tượng truy quét của Nhà thờ Thiên chúa giáo. Giả vờ tin vào lời Giáo hoàng cho rằng thế giới âm phủ là của quỷ Satan “do Hội Tam điểm đem đến và tham dự”, Taxil đã kể lại những lời khai của các nhân chứng tham dự các buổi lễ thờ cúng quỷ Satan và kể rằng họ đã được chứng kiến sự hiện hình của quỷ sứ, để rồi đến 1897 Taxil tuyên bố rằng những điều ông viết hoàn toàn là bịa đặt. Mục đích của Taxil rõ ràng là nhằm chế giễu đạo Thiên chúa. Năm 1916, hai nhà văn Mỹ là Witter Bynner, dưới bút danh Emanuel Morgan, và Arthur Davison Ficke, với bút danh Anne Knish, đã xuất bản tập thơ Quang phổ: Những thể nghiệm thơ ca, trong đó có bài Tuyên ngôn về các phương pháp sáng tác của trường phái thơ Quang phổ. Là những nhà thơ theo trường phái cũ, Bynner và Ficke cảm thấy mệt mỏi với các thứ chủ nghĩa hiện đại phóng túng thời bấy giờ, những thứ mà theo hai người đã chiếm mất chỗ của thơ ca truyền thống. Mục đích của họ khi xuất bản tập thơ Quang phổ là để chế giễu tham vọng của các trường phái đó và làm cho chúng mất uy tín. Trong cuốn sách này, với bút danh nói trên, họ đã in những bài thơ dở dưới danh nghĩa là thơ của một trường phái hiện đại “Quang phổ”. Vậy mà có rất nhiều nhà thơ Mỹ đã bị lừa. Với thói chuộng lạ, họ hết lời ca ngợi “trường phái hiện đại” này. Cuối cùng thì trò nguỵ tạo cũng được tiết lộ. Năm 1924, bất bình trước những bức tranh tĩnh vật hiện thực chủ nghĩa của vợ mình bị ban giam khảo một cuộc triển lãm tiếp nhận lạnh nhạt, tiểu thuyết gia người Mỹ Paul Jordan-Smith liền vẽ một bức tranh mô tả một người đàn bà vùng đảo ngoài khơi Thái Bình Dương vung một chiếc vỏ chuối và đề tên bức tranh là “Cao hứng”. Ông lấy nghệ danh là Pavel Jerdanowitch (biến thái theo kiểu Nga của Paul Jordan), với tư cách là đại diện của trường phái “Disumbrationism” [tạm dịch: “Giải toả bóng tối”]. Ngạc nhiên thay, tranh của ông đã được giới phê bình hoan nghênh nhiệt liệt. Jordan-Smith tiếp tục vẽ những bức tranh theo phong cách loè loẹt và đem triển lãm. Trường phái “Giải toả bóng tối” “một thành viên” của ông đã được tiếp nhận như là một trong những trường phái hiện đại trong phong trào nghệ thuật tiên phong đang diễn ra sôi động lúc bấy giờ. Đến 1927, Jordan-Smith thú nhận trên tờ Los Angeles Times rằng hội hoạ Giải toả bóng tối của ông chỉ là một trò lừa bịp để trả thù cho vợ. Cùng trong xu hướng giễu nhại thói a dua theo chủ nghĩa hiện đại, năm 1944, hai nhà thơ trẻ người Ôstrâylia tên là James McAuley và Harold Stewart đã tạo ra một cú nguỵ tạo nổi tiếng để chơi khăm nhà văn Max Harris cùng tờ tạp chí theo xu hướng hiện đại chủ nghĩa Angry Penguins [Chim cánh cụt nổi giận] ở đất nước này. Chuyện xảy ra năm 1944, khi Max Harris, một nhà thơ và là nhà phê bình 22 tuổi theo xu hướng tiên phong, người sáng lập ra tờ tạp chí hiện đại chủ nghĩa Angry Penguins từ năm 1940, nhận được một bức thư của một người con gái có tên là Ethel, hỏi ý kiến ông về tập thơ của người anh trai quá cố của cô có tên là Ernest Lalor "Ern" Malley. Tập thơ bao gồm 17 bài thơ, không có bài nào dài quá một trang (vừa vặn đủ một tay sách). Tất cả được sắp xếp với chủ ý được đọc theo một chuỗi liên tiếp dưới đầu đề chung là Đường hoàng đạo u ám. Chỉ có vậy thôi nhưng nó đã tạo ra một sự khuấy động lớn trong đời sống văn hoá Ôstrâylia. Harris đã đọc tập thơ mà sau này ông nhớ lại là với niềm phấn khích gia tăng. Ông nghĩ Ern Malley phải là một nhà thơ ngang hàng với W. H. Auden và Dylan Thomas, hai nhà thơ hiện đại nổi tiếng, người thứ nhất là nhà thơ Mỹ gốc Anh, người thứ hai là nhà thơ Anh. Ông đưa cho bạn bè trong nhóm của ông đọc, họ khẳng định rằng đây là một nhà thơ hiện đại lớn, hoàn toàn chưa được biết đến từ trước đến nay mà bây giờ mới được phát hiện. Harris vội vã cho ra một số tạp chí đặc biệt dành cho tập thơ Đường hoàng đạo. Nhưng do chiến tranh nên đến tháng 6-1945 số đặc biệt này mới được in. Sau khi tạp chí ra mắt, Harris háo hức giới thiệu cho giới văn chương. Nhưng thật bất ngờ là phản ứng không được như ông mong đợi. Thậm chí một bài báo trên tờ báo sinh viên của Đại học Adelaide, nơi quê hương ông, còn giễu cợt tập thơ của Malley và nói bóng gió rằng Harris đã tự mình làm trò nguỵ tạo. Thế là dư luận trở nên ồn ào xung quanh nghi án nguỵ tạo. Harris hoảng hốt thuê thám tử tư điều tra. Nhưng chỉ một tuần sau, báo chí Ôstrâylia đã đưa tin rằng tập thơ Malley là do hai nhà thơ McAuley và Stewart chế tác. Chàng Malley yểu bệnh hoàn toàn là do họ hư cấu nên. Vậy họ đã chế tác tập thơ đó như thế nào? McAuley và Stewart đã sáng tác tập thơ Đường hoàng đạo chỉ trong một buổi chiều. Họ ngồi mở ngẫu nhiên các cuốn sách Từ điển giản yếu Oxford, Shakespeare tuyển tập và Từ điển trích dẫn, chọn bừa các từ ngữ, ghép lại thành những câu vô nghĩa, trích dẫn sai lung tung, và cố ý viết ra những câu thơ dở bằng cách chọn những vần thơ vụng về trong Từ điển gieo vần Ripman. Có thể nói hai người đã làm đúng theo Tuyên ngôn của trường phái Dada đầu thế kỷ XX như sau: Bạn muốn làm một bài thơ ư? Bạn hãy lấy một tờ báo. Lấy kéo cắt rời từng chữ ra. Nhét chúng vào một chiếc túi. Xóc nhẹ túi. Bạn lấy lần lượt từng chữ trong túi ra, sắp xếp chúng thành hàng. Bạn hãy chép lại các hàng chữ đó. Và thế là bạn có một bài thơ theo kiểu Dada![2] Hai nhà thơ trẻ thổ lộ rằng họ thích chủ nghĩa hiện đại thời kỳ đầu hơn là thời kỳ sau, và họ tiếc thương cho sự mất mát ý nghĩa của thơ ca. Họ đặc biệt coi thường tờ tạp chí Angry Penguins và những người như Harris. Chính vì thế mà họ làm một cuộc thử nghiệm này để thử tài những người a dua theo chủ nghĩa hiện đại châu Âu. Cuộc thử nghiệm, theo họ, cho thấy thói a dua theo mốt đã làm cho những kẻ hâm mộ mất hết cảm giác về sự phi lý và không còn khả năng phân biệt được những chân lý thông thường. (Nhân tiện tôi cũng muốn nói thêm rằng chủ nghĩa hiện đại cũng có những trường phái có những biểu hiện rất cực đoan và tầm phào. Vậy mà hiện tại ở nước ta, một số người bênh vực cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại lại đang muốn tìm kiếm một trong những tính đặc trưng cho chủ nghĩa hậu hiện đại bằng cách cho rằng trong khi chủ nghĩa hiện đại tìm đến cái sâu sắc lớn lao, thì chủ nghĩa hậu hiện đại đề xuất cái vụn vặt đời thường. Người ta không biết [hay làm như không biết?] rằng những cái vụn vặt đến mức tầm phào đó đã có trong chủ nghĩa hiện đại từ lâu, như trong bài thơ kiểu Dada mà tôi vừa giới thiệu.) Giống như những ví dụ trước, vụ nguỵ tạo của McAuley và Stewart là một sự chế giễu thói a dua cực đoan. Và đáng chú ý là đa số người dân Ôstrâylia, kể cả phần lớn những người được giáo dục về nghệ thuật, đều ủng hộ hai nhà thơ này. Cuốn sách Oxford Companion to Australian Literature còn đánh giá rằng vụ nguỵ tạo Ern Malley đã có tác động lớn đến sự phát triển của thơ ca Ôstrâylia. Điều lý thú là cuộc tranh luận xung quanh vụ nguỵ tạo còn kéo dài tới hơn hai mươi năm sau và vượt ra khỏi cả biên giới Ôstrâylia. Ngay cả nhà phê bình hiện đại nổi tiếng người Anh Herbert Read, tiểu thuyết gia hiện đại người Ôstrâylia Patrick White (giải Nobel văn học 1973), và một số danh hoạ trừu tượng, cũng bị lừa bởi ngòi bút của “Ern Malley”. Thậm chí, sau khi bị bẽ mặt, Harris còn trở nên khiêu khích bằng cách cho in lại tập thơ của Malley vào năm 1961. Cùng với Harris, những người theo chủ nghĩa hiện đại ở Ôstrâylia vẫn coi Malley là một nhà thơ hiện đại chủ nghĩa chân chính. Vụ Malley còn ảnh hưởng đến cả kịch nói, tiểu thuyết, hội hoạ đầu thế kỷ XXI này… Có thể nói, trong lịch sử nguỵ tạo văn hoá-khoa học, vụ Ern Malley là một trong số ít vụ nổi tiếng nhất. Trong tinh thần đó, vụ nguỵ tạo khoa học Alan Sokal 1996 ở Mỹ cũng nằm trong xu hướng giễu nhại và châm biếm những cái mà ông gọi là thói phi lý thời thượng trong việc lạm dụng khoa học. Xu hướng sùng bái các trào lưu triết học được gọi là hậu hiện đại ở phương Tây trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX đã biến các lý thuyết được gọi là hậu hiện đại trở thành thời thượng. Và việc xuất hiện những phản ứng chống lại chúng là điều đương nhiên. Một trong những phản ứng đó là công trình Mê tín cao ngạo: Cánh tả học thuật và những cuộc tranh cãi của nó với khoa học (1994) của hai nhà khoa học Mỹ Paul R. Gross và Norman Levitt. Đọc xong công trình này, Sokal đã phẫn nộ về những cái mà ông cho là “sự giả mạo tri thức”, về thái độ chủ quan nghi ngờ tính khách quan khoa học của chủ nghĩa hậu hiện đại. Và thế là ông quyết định làm một phép thử. Ông viết một bài báo với những cứ liệu và lập luận giả mạo đủ mức phi lý để làm cho bài báo không có giá trị, nhưng nó lại có hơi hướng “hậu hiện đại” và có vẻ đáng tin để có thể đánh lừa ban biên tập tạp chí Social Text [“Văn bản xã hội”], một tờ tạp chí hàng đầu của giới học thuật và theo khuynh hướng chủ nghĩa cấu trúc phân giải (có người dịch là chủ nghĩa giải cấu, chủ nghĩa giải kiến tạo...), một chủ nghĩa được coi là tiêu biểu của trào lưu hậu hiện đại. Về vụ việc này, GS Phương Lựu đã tường trình khá đầy đủ. Ở đây tôi chỉ muốn nói thêm rằng Sokal đăng bài báo với mục đích là để thử xem tờ tạp chí theo khuynh hướng hậu hiện đại đó sẽ đăng bài theo chất lượng khoa học của bài viết hay theo tên tuổi và khuynh hướng quan điểm của người viết. Quả nhiên bài viết của ông đã được đăng không phải vì chất lượng, (thực sự đó là bài viết nguỵ tạo khoa học), mà là vì khuynh hướng được gọi là “hậu hiện đại” của bài viết với tên tuổi của một giáo sư đại học ngành vật lý. Như vậy, ở đây có một sự đối đầu về quan điểm giữa các nhà khoa học theo xu hướng giải cấu trúc với các nhà khoa học tự nhiên phản đối nó, coi nó là một sự vô nghĩa thời thượng [t. Anh: “fashionable nonsense”], một sự lạm dụng thuật ngữ khoa học. Như thế, Sokal và các nhà khoa học khác đã phản đối chính cái bản chất của chủ nghĩa hậu hiện đại chứ không phải phản đối cái mặt trái của nó như GS Phương Lựu quan niệm. Điều này cho thấy một thực tế khách quan mà từ lâu tôi đã lưu ý rằng cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại không hề nhận được sự đồng thuận tán thành của các học giả ngay ở phương Tây. Và, cũng giống như các học giả phương Tây gọi nó là một sự lạm dụng thuật ngữ, tôi cũng đã gọi nó là một sự lạm dụng khái niệm.[3] Trong khi đó ở ta, thói sùng ngoại không phân biệt đã làm cho chủ nghĩa hậu hiện đại được giới thiệu như một sự nhất trí cao không phải bàn cãi trong tất cả các lĩnh vực văn học-nghệ thuật. Và vì không gán nổi được một đặc trưng riêng nào cho chủ nghĩa hậu hiện đại, nhiều người có khuynh hướng gọi tất cả các trào lưu hiện đại đầu thế kỷ XX là hậu hiện đại. Sức hấp dẫn vô cớ của thuật ngữ “hậu hiện đại” làm cho người ta dễ dàng từ bỏ thuật ngữ “hiện đại” đã tồn tại gần một thế kỷ chỉ bằng một cái phẩy tay! Thực tế vụ Sokal cho thấy trong những cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại cũng có cái tỏ ra tầm phào một cách “mê tín cao ngạo” đến mức fashionable nonsense! Một lần nữa, lịch sử văn hoá-khoa học rất cần có những nhà nguỵ tạo như Léo Taxil, Bynner - Ficke, McAuley - Stewart, hay Alan Sokal... để cảnh tỉnh cho các nhà khoa học, thậm chí cho toàn thể nhân loại, cảnh giác trước sức hấp dẫn của các trào lưu thời thượng dễ dãi. Văn nghệ, số 21-2010, ra ngày 22.5.2010 ------------------------------------------------------ [1] Có thể tìm thấy thông tin về các vụ nguỵ tạo trên mạng www.en.wikipedia.org. [2] Xem Mario de Micheli, Avangarda artistică a secolului XX [“Nghệ thuật tiên phong thế kỷ XX”], Ed. Meridiane, Bucuresti, 1968, tr. 277 (tiếng Rumani). [3] Xem thêm Nguyễn Văn Dân: “Chủ nghĩa hậu hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm”, trong Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn đề lý thuyết, Hội Nhà văn - Trung tâm VH-NN Đông Tây, H., 2003, tr. 108-146; hay “Cái gọi là ‘chủ nghĩa hậu hiện đại” - từ khái niệm đến thực tiễn”, trong NVD: Vì một nền lý luận-phê bình văn học chất lượng cao, KHXH, H.2005, tr. 184-237. NGUYỄN VĂN DÂN ----------------------------------------------- KÍNH THƯA QUÍ VỊ VÀ ANH CHỊ EM QUAN TÂM Có nhiều nhà khoa học trước đây và ngay cả bây giờ - thành thật một cách ngây thơ - cho rằng: Lý học Đông phương là một sản phẩm "giả khoa học". Bạn có tin rằng: Từ thời cổ đại, khi mà cả nhân loại chưa có khái niệm với danh từ khoa học - thì một hệ thống ứng dụng đồ sộ, bao trùm lên mọi lĩnh vực , từ Thiên Văn, y lý, lịch số, dự báo, phong thủy ....vv.....với một phương pháp luận nhất quán là Thuyết Âm Dương Ngũ hành , lưu truyền một cách có hiệu quả trải hàng thiên niên kỷ, nhưng lại được những người có kiến thức "Giả khoa học" thống nhất làm ra không? Nếu tất cả các nhà khoa học của cả thể giới cho rằng "Lý học Đông phương" là "giả khoa học" - thì - trong việc này chỉ có Thượng Đế mới làm giả được như vậy. Híc! Bởi vậy! Với các nhà khoa học còn như vậy, huống chi là đám háo danh, vụ lợi, phọt phẹt, biểu diễn, thể hiện, bày đặt tranh biện, giơ tay phát biểu ý kiến. Mệt mỏi quá.
  13. Ok mà. Mọi người đang suy nghĩ.Nhờ anh chị em giúp Trai Việt.
  14. Kính thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Tôi cho rằng, sẽ có nhiều người phản biện ông Đỗ Kiên Cướng mà không phải phong thủy gia. Bởi vì phương pháp lập luận của tác giả phi khoa học, thiếu tính hợp lý. Thí dụ: Ông ta dùng tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học để phản biện hiện tượng khách quan - Điển hình là bài viết bị phản hồi đã dẫn: Tuy nhiên những nhận định của ông Đỗ Kiên Cường này hoàn toàn chỉ là mang danh khoa học, mà thực sự thiếu sự nhận định chính xác.Và đây là ý kiến của một đọc giả của báo An Ninh chỉ ra sự lệch lạc trong lý luận của ông Đỗ Kiên Cường. 1. Sự tiến bộ không ngừng là tiêu chí của một khoa học tốt, nhưng môn ngoại tâm lý thì không đạt được một tiến bộ đáng kể nào sau cả trăm năm. Ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại trên thực tế chứ không phải là một lý thuyết hoặc một giả thuyết khoa học, nên không thể đòi hỏi sự phát triển. Cũng như quả cà chua là một hiện tượng tồn tại trên thực tế thì nó vẫn cứ vậy hàng ngàn năm không thể phát triển, đến khi điều kiện môi trường thay đổi . 2. Ngoại cảm được định nghĩa một cách khác thường, không phải theo nghĩa nó là cái gì mà theo nghĩa nó không là cái gì! Vì là một hiện tượng tồn tại trên thực tế và không phải là một hiện tượng phổ biến, nên việc định nghĩa và giải thích nó tủy theo khả năng tri thức nhận xét về nó. 3. Các tuyên bố về chứng cứ khoa học của ngoại cảm thường bị cách ly khỏi quan điểm thông thường của môn thống kê học. Là một hiện tượng tồn tại trên thực tế thì chính thực tế là chứng cứ tự thân khách quan của nó. 4. Các nghiên cứu ngoại cảm thường mắc lỗi giản lược trong phương pháp luận. Đó là do tri thức của các nhà nghiên cứu khi nhận xét về hiện tượng ngoại cảm, chứ không phải là chứng cứ phủ nhận một thực tại ngoại cảm. 5. Ngoại cảm không liên quan với bất cứ một lý thuyết khoa học đã được xác lập nào. Ngoại cảm là đối tượng nghiên cứu trên cơ sở các lý thuyết khoa học có giải thích được nó hay không, chứ bản thân nó không phải là một lý thuyết khoa học . Nó chỉ là một hiện tượng tồn tại trên thực tế . Bởi vậy không thể đạt điều kiện nó phải liên hệ với một lý thuyết khoa học. Mà ngược lại lý thuyết khoa học có giải thích được nó hay không . Không thể buộc cac 1lý thuyết khoa học hiện tại phải giải thích được tất cả mọi hiện tượng . Mà là chính các hiên tượng chưa giải thích được khiến con người phải hoàn chỉnh các lý thuyết hiện hữu. 6. Tính lặp lại là điều cốt tử của các khoa học thực nghiệm. Ngoại cảm không thỏa mãn tiêu chí này. Ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại trên thực tế chứ không phải là một thực nghiệm của một giả thiết hoặc lý thuyết khoa học, nên không thể đỏi hỏi điều kiện này . 7. Ngụy tạo, lừa gạt là bạn đồng hành với ngoại cảm trong suốt tiến trình lịch sử. Sự lừa đảo có thể xảy ra ngay trong nghiên cứu khoa học hoặc bất cứ ngành nghề nào. Tóm lại Ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại trên thực tế , chứ không phải là một phương pháp hoặc một lý thuyết khoa học, nên không thể lấy tiêu chí cho một lý thuyết khoa học để biện giải, mà vấn đề đặt ra là: Tri thức khoa học hiện tại giải thích hiện tượng này như thế nào. Và với những ý kiến của mình thì ông Đỗ Kiên Cường càng tự chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về những vấn đề ý thức và sự tồn tại của ý thức. Ngoại cảm chỉ là một hiện tượng nên nó không thể phát triển như lý luận và những hiện tượng này sẽ ngày càng phát triển, để giải thích những hiện tượng như vậy thì cần phải có cả một hệ thống lý thuyết đi kèm. http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=8266 Bởi vậy, luận cứ của ông ta bị phản bác dễ dàng với vài câu ngắn gọn. Để làm rõ hơn điều này, tôi trình bày cụ thể như sau: Trong nghiên cứu khoa học, phân biệt đối tượng khoa học và lý thuyết khoa học. Một trong những thành phần cùa "Đối tượng khoa học" là cái mà chính tác giả gọi là "sự kiện" trong chuỗi phát triển mà tác giả trình bày: "Sự kiện → Giả thuyết → Lý thuyết → Phản nghiệm". Sự kiện là tồn tại khách quan, là đối tượng nghiên cứu và khám phá của tri thức khoa học - từ đó, con người tìm hiểu bản chất của tự nhiên, xã hội, cuộc sống và con người. Khi tìm hiểu sự kiện, người ta có quyền đưa ra nhiều giả thuyết, hoặc tổng hợp nhiều sự kiện trở thành một lý thuyết giải thích bản chất sự kiện. Do đó, mới có tiêu chí khoa học cho một giả thuyết, lý thuyết khoa học được coi là đúng. Nhưng chúng ta thấy rất rõ rằng: Hiện tượng ngoại cảm có ở trong một số con người như: Bích Hằng, Hoàng thị Thiêm...vv... là những hiện tượng tồn tại khách quan - là đối tượng nghiên cứu khoa học. Tự thân nó không phải là một giả thuyết, hoặc lý thuyết khoa học - nên việc tác giả áp dụng tiêu chí khoa học vào để phản biện là một sai lầm căn bản về phương pháp luận trong phản biện. Cụ thể một con gà mái biết gáy - đó là hiện tượng khách quan cần nghiên cứu. Không thể vì nó trái ngược với thói quen nhận thức (Hoặc một lý thuyết nào đó) mà bảo nó vô lý được. Hiện tượng khách quan cần nghiên cứu đó, chính là một trong những yếu tố phản nghiệm mà các lý thuyết khoa học liên quan cần giải thích, hoặc là phát triển thành một lý thuyết mới bao trùm và tổng hợp hơn. Nhưng, đối với "Phong thủy" vốn là một phương pháp ứng dụng hệ quả của thuyết Âm Dương Ngũ hành với phương pháp luận của nó - Tức là tính thực nghiệm của một lý thuyết, hay nói cách khác theo ý tác giả: Sự phản nghiệm - thì tác giả lại dẫn những hiện tượng để phản biện. Sự phản biện của tác giả mới chính là sự giả khoa học thực sự. So với bài viết của học giả Nguyễn Văn Tuấn - dùng tiêu chí khoa học để phản biện - thì có thể nói tác giả Đỗ Kiên Cường hoàn toàn sai lầm về phương pháp. Tôi không biết nhiều về nhà khoa học Nguyễn Văn Tuấn, nhưng qua bài viết của ông thì tôi nhận thấy ông này xứng đáng là một nhà khoa học thật sự với tư duy khoa học nghiêm túc, phù hợp với hiểu biết đương đại (Tất nhiên không phải vì thế mà ông ta lúc nào cũng đúng). Những bài viết của ông Đỗ Kiên Cường, khiến cho người đọc có cảm tưởng tri thức khoa học hiện nay đã đạt tới chân lý cuối cùng. Cái gì mà khoa học không giải thích được thì nó không phải là chân lý; hoặc đã được khoa học giải thích rồi thì không thể sai khác được. Chúng ta có thể đặt vấn đề: Nghiên cứu và tìm hiểu bản chất của phong thủy và lý học Đông phương nói chung sẽ là sự phát triển tiếp tục của tri thức khoa học; hay tuyệt đối hóa tri thức khoa học đương thời như là một chân lý cuối cùng, là động lực phát triển của tri thức? Tất nhiên, tác giả sẽ phát biểu rằng: Ông ta không tuyệt đối hóa tri thức khoa học đương thời, không coi tri thức khoa học đương thời là chân lý cuối cùng. Nếu ông ta thực sự trả lời như vậy, thì vấn đề được đặt ra: Giữa ứng dụng của Lý học Đông phương - tôi không nói đến Phong Thủy nữa, mà nói đến một bộ môn vốn bị coi là "mê tín" nhất trong Lý học Đông phương là khoa Tử Vi, để cho ông dễ phản biện nhân danh khoa học hơn - là: Tác giả nghĩ thế nào về sự tồn tại và bản chất của môn này, khi nó xuất hiện công khai trong triều đại Tống và tồn tại đến bây giờ trải hàng ngàn năm? Tôi sẽ chứng minh cho tác giả và các nhà khoa học thấy rằng: Tử Vi là một môn khoa học và đó chính là chìa khóa để mở cánh cửa vào những bí ẩn vũ trụ, mà tri thức khoa học hiện nay chỉ là cơm khê, nấu nát so với sâm, yến bào ngư được chế tác bởi những đầu bếp thượng thặng. Tác giả có quyền nhân danh bất cứ một tiêu chí khoa học nào để phản biện. Môn Tử Vi còn dễ chứng minh là "mê tín" hơn cả Phong Thủy theo cách hiểu của tác giả, cho nên tôi tạo điều kiện để tác giả thể hiện bằng cách công khai xác định: Tử Vi là một khoa học thật sự. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh ----------------------------------- PS: Có lẽ tôi cần nói rõ thêm rằng: Tử Vi Lạc Việt mới chứng minh được tính khoa học của nó. Còn Tử Vi Tàu thì để các Tử Vi gia tài ba theo Tử Vi Tàu, có ý kiến. Mặc dù về ứng dụng dự đoán căn bản không sai lệch nhiều. Nhưng ở đây cần bàn về một lý thuyết, hoặc phương pháp được coi là khoa học, chứ không phải là đoán dở hay không.
  15. Linhnhi nói đúng. Trong binh pháp quả là có một thế trận gọi là Đào Hoa Trận. Đào Hoa trận trong phong thủy (Không phải phát minh riêng của Phong Thủy Lạc Việt) - chính là dùng từ của thế trận này. Thay cho khái niệm "trấn" và "yểm". Đào hoa trận trong phong thủy lưu truyền trong dân gian, thuộc về một phương pháp trấn yểm - Phong thủy Lạc Việt coi "Trấn yểm" là yếu tố thứ 5, sau 4 yếu tố là: Bát trạch, Cấu trúc hình thể, Loan đầu và Huyền Không. Bốn yếu tố trên - Tàu gọi là "trường phái" - còn có sách vở rơi rớt lưu truyền lại. Yếu tố thứ năm gần như thất truyền hoàn toàn, hầu hết truyền miệng, quen gọi là chiêu thức, dùng trong trấn yểm. Đào hoa trận nằm trong trường hợp này. Không riêng gì Đào Hoa Trận dùng từ "trận", trong phong thủy còn rất nhiều chiêu thức gọi là trận. Nói chung, tôi ít thực nghiệm vì tính khó diễn đạt, e các nhà khoa học nửa mùa - chưa giải thích được - dễ sinh dị nghị. Nên chỉ sưu tầm để nghiên cứu. Bức tranh Tử Vi trấn trạch Anh chị em lớp Phong Thủy Lạc Việt I & II thân mến. Vì tiện nên tôi viết ở đây. Chúng ta hãy suy ngẫm về ý nghĩa tên gọi của bức tranh này - mà ngay từ đầu khóa, tôi đã yêu cầu anh chị em chép lại bức tranh, sau này sẽ dùng đến. Mọi bình luận, thắc mắc, diễn giải chỉ trong nội bộ lớp Phong Thủy Lạc Việt khóa II.
  16. Tuấn Dương thân mến.Sự tiến hóa của con người trong bao nhiêu năm, mới có ngày nay. Bởi vậy, những giá trị văn hóa chính là tinh hoa của tri thức con người còn đọng lại. Do đó, mọi sự phá hoại văn hóa đều là đáng lên án. Chiến tranh là một sự phá hoại nặng nề nhất, đi ngược lại ước mơ sống của con người. Nhưng những gì mà con người tự đem lại đau thương cho mình, còn khủng khiếp chẳng kém gì thiên tai. Những cơn thịnh nộ của thiên nhiên như : Bão lụt, động đất...tuy khủng khiếp. Nhưng sau đó thiên nhiên tự hoàn nguyên trở lại. Còn con người khi mắc sai lầm tự hủy hoai thì không còn đường cứu vãn. Hồ Aral là một thí dụ cho sự hủy hoại môi trường khủng khiếp nhất. Đấy là cái mà con người dễ nhận thấy. Còn cái chưa nhận thấy khác đang từ từ tiêu diệt cuộc sống của con người. Đức Phật nói "Tham sân si là cội nguồn của mọi đau khổ". Hiểu nôm na là tham vọng và sự dốt nát là nguyên nhân để đẩy con người tự đưa mình vào sự đau khổ. Trái quy luật của tự nhiên, tất ảnh hưởng tới tự nhiên và tất tự nhiên phải tác động trở lại. Cái đó người xưa gọi là "Đất trời nổi giận". Nhưng làm sao có thể chuyển hóa được những nếp nghĩ trở thành thói quen của con người? Bởi vậy, không thiếu những bậc trí giả tự thấy bất lực, bỏ đi tu, hoặc sống cuộc đời ẩn dật. Thế là nghiệp chướng chẳng ai ngăn trở, duyên khởi trùng trùng. Trời đất nổi cơn thịnh nộ. Tan hoang hết cả. Uống bia tưới với heo mọi giả chồn, chính là những giây phút đi tu đấy! Nhưng ăn nhậu ít thôi. Sát sinh vừa vừa, không thì loạn lên cả.
  17. Trananh thân mến. Chẳng ai muốn có chiến tranh cả. Nhưng từ cổ chí kim, trên thế giới này, chiến tranh vẫn cứ xảy ra. Cổ nhất được ghi nhận trong lịch sử nhân loại, chính là cuộc chiến ở phương Đông với trận Xi Vưu Hoàng Đế, "Máu chảy trôi chày". Bên Âu Châu với trận thành Troa. Trong lịch sử nhân loại, bao nhiêu triết gia kêu gọi những giá trị nhân đạo, nhưng con người vẫn cứ lao vào chiến tranh với đủ các lý do và cả những lý do mà người ta bịa ra. Tất cả đều từ những tham vọng của con người và con người nghi kỵ lẫn nhau. Chú chứng kiến những con chim nhao nhác tìm đường sống, nhưng vẫn bị lần lượt vặt lông thui chết, để làm ròn rã thêm tiếng cười của con người trong cuộc say....Nghiệp chướng trùng trùng. Nếu những tri thức của khoa học hiện đại, nhận ra rằng: "Một con bướm vỗ cánh ở rừng Amazon có thể tạo ra một cơn bão ở Thái Bình Dương", thì sự đau khổ của muôn loài trên thế gian này phải chết vì con người sẽ là cái gì nhỉ? Đức Phật dạy: "Tất cả do nghiệp chướng", do tính tham, sân, si của con người. Cái gì sẽ xảy ra nếu chiến tranh xảy ra ở Cao Ly? Trong "Lời Tiên tri 2010", chú đã dự báo ba điều có thể xảy ra trên thế giới: 1 - Khủng hoảng kinh tế lần II 2 - Thiên tai tàn khốc và những tai nạn do chính con người gây ra cho mình. 3 - Một khả năng chiến tranh sẽ xảy ra. Những nơi đã chiến tranh như Afganixtan thì không nói làm gì. Mọi dự báo đều đổ dồn về Iran với tham vọng hạt nhân của nước này. Nhưng cho đến nay điều này dường như chưa đến nỗi căng thẳng như ở Cao Ly hiện nay. Quẻ bói của Trần Anh, nếu đúng thì có vẻ như mọi chuyện đã an bài và không nằm ngoài suy luận của Trần Anh, tuy nó có thể nhằm một mục đích khác. Nhưng đấy là "nếu đúng". Nhưng nếu sai thì sao? Tức là đúng Bắc Triều Tiên quả có phóng Ngư lôi thật. Thế tại sao phái đoàn Bắc Triều Tiên lại nói với đồng minh Trung Quốc của họ, ngay từ lúc chưa có kết luận điều tra là họ không bắn. Con người chỉ còn một hy vọng là cho đến lúc này, cả hai bên có vẻ chưa chuẩn bị dàn trận - Tư lệnh các quân sư đoàn chưa vào chỗ của mình. Một hy vọng mong manh. Nhưng câu hỏi là Nếu chiến tranh xảy ra thì điều tồi tệ nhất sẽ là gì? Điều tồi tệ nhất sẽ là cuộc chiến không chỉ giới hạn ở lãnh thổ Cao Ly mà lan rộng ra các vùng lãnh thổ và quôc gia liên quan. Thật là một điều buồn! Vì tôi tin rằng: Mọi con người đều muốn sống yên bình. Nhược đài sư tử thượng. Thiên hạ thái bình phong Rất tiếc! Tôi nói cũng nhiều. Nhưng mấy ai chia sẻ.
  18. TƯ LIỆU THAM KHẢO Hàn Quốc nối lại hệ thống loa tuyên truyền, Triều Tiên dọa bắn trả Thứ Hai, 24/05/2010 - 16:26 (Dân trí) - Bộ Quốc phòng Hàn Quốc hôm nay đã nối lại hệ thống loa phóng thanh sang Triều Tiên gần khu phi quân sự liên Triều (DMZ) - một biện pháp đáp trả vụ chìm tuần dương hạm Cheonan. Triều Tiên lập tức tuyên bố quân đội sẽ bắn phá hệ thống loa này. Triều Tiên cho rằng hành động của Hàn Quốc “là sự gây hấn quân sự nghiêm trọng” Trong cuộc họp báo chung của các Bộ trưởng Quốc phòng, Thống nhất và Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Kim Tae-young cho rằng hành động quân sự của Triều Tiên (liên quan đến vụ đắm tàu Cheonan) “là hành động gây chiến đối với Hàn Quốc và Hàn Quốc sẽ tái khởi động cuộc chiến tranh tâm lý đã bị ngừng kể từ tháng 6/2004”. Theo ông Kim, biện pháp đối phó này “rất thích hợp vì từ tháng 5/2008, Triều Tiên đã không tuân thủ việc phòng ngừa xung đột trên biển Tây mà 2 bên đã thỏa thuận và việc tấn công tàu hải quân Hàn Quốc bằng ngư lôi là vi phạm thỏa thuận giữa 2 miền”. Bộ trưởng Hàn Quốc cũng tuyên bố tàu thuyền của Triều Tiên sẽ hoàn toàn bị cấm đi lại trên biển Hàn Quốc từ ngày 24/5 và liên quân Hàn-Mỹ sẽ tiến hành huấn luyện đối phó tàu ngầm trong thời gian sớm. Bộ Quốc phòng cũng đang chuẩn bị huấn luyện ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân trên biển theo Sáng kiến phòng chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (PSI) do Mỹ khởi xướng. Ngay sau đó, hãng thông tấn Trung ương Triều Tiên KCNA dẫn tuyên bố của Tư lệnh Các lực lượng Quân đội Nhân dân triều Tiên (KPA) cảnh báo Hàn Quốc rằng nếu Seoul từ chối dỡ bỏ các khẩu hiệu và hệ thống loa phát thanh chống Triều Tiên được dựng lên dọc Đường Ranh giới Quân sự, KPA “sẽ bắt đầu bắn thẳng vào những mục tiêu này để phá hủy chúng”. Tuyên bố trên cũng cho rằng động thái của Hàn Quốc nhằm nối lại cuộc chiến tranh tâm lý chống Triều Tiên là “sự vi phạm rõ ràng thỏa thuận quân sự liên Triều, một hành động gây hấn quân sự nghiêm trọng với Triều Tiên và là vụ việc hướng quan hệ liên Triều vào giai đoạn tồi tệ nhất”. Hàn Quốc quyết định nối lại hệ thống loa phóng thanh sang Triều Tiên cùng ngày Tổng thống nước này Lee Myung-bak khẳng định Chính phủ của ông sẽ thay đổi chính sách an ninh, chuyển từ “tập trung vào quốc phòng” sang “chủ động răn đe”. Ông nói rằng miền Nam sẽ ngay lập tức sử dụng quyền tự vệ nếu miền Bắc có thêm những hành động khiêu khích quân sự trong lãnh thổ, lãnh hải và không phận của Hàn Quốc. Tổng thống Lee loan báo các tàu Triều Tiên sẽ bị cấm đi lại trên đường biển quốc tế trong lãnh hải Hàn Quốc, điều đã được cho phép theo thỏa thuận hàng hải liên Triều; ngoại trừ khu công nghiệp Kaesong, tất cả các dự án trao đổi và hợp tác liên Triều sẽ bị đình chỉ, nhưng Seoul sẽ tiếp tục cung cấp viện trợ nhân đạo cho trẻ em Triều Tiên. Việt Hà Theo Xinhua, Yonhap
  19. LỜI TIÊN TRI 2010 Đại ý: Cháy nổ, sụt lở....tăng nặng Hoả hoạn lớn thiêu rụi hàng trăm cửa hàng tại cố đô Myanmar Thứ Hai, 24/05/2010 - 17:58 (Dân trí) - Một vụ hoả hoạn lớn đã bùng phát tại trung tâm thương mại chính ở Yangon - cố đô và cũng là thành phố lớn nhất của Myanmar, thiêu rụi hàng trăm cửa hàng nhưng hiện chưa có thông báo về con số thương vong. Lửa và khói đen mù mịt bốc lên từ trung tâm thương mại Mingalar Zay. Trung tâm thương mại 5 tầng Mingalar Zay đã bốc cháy lúc khoảng 9 giờ sáng giờ địa phương. Hàng chục chiếc xe cứu hoả vẫn đang cố gắng dập tắt ngọn lửa vài giờ sau đó. Mingalar Zay - với khoảng 4.000 cửa hiệu và quầy hàng - được biết tới là trung tâm bán buôn của Myanmar. “Cửa hàng của tôi đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Tôi đã mất tất cả”, Myint Myint, 47 tuổi, một trong hàng trăm người có mặt tại hiện trường vụ hoả hoạn, cho biết.Hàng trăm xe cứu hoả đã lấy nước từ hồ Kandawgyi gần đó trong khi hàng trăm nhân viên cứu hoả nỗ lực để kiểm soát ngọn lửa. Có khoảng 4.000 cửa hiệu và quầy hàng bên trong Mingalar Zay. “Rất may không có nhiều người ở trong khu thương mại khi ngọn lửa bùng phát vì lúc đó trung tâm mới vừa mở cửa. Nếu không thì số người chết có thể sẽ rất cao”, chủ nhân một hiệu thuốc trong trung tâm nói. “Một nhân viên cứu hoả đã bị thương khi làm nhiệm vụ trên tầng 4. Ngoài ra chưa có thông tin thương vong nào được báo cáo. Chúng tôi hi vọng sẽ sớm kiểm soát ngọn lửa”, một quan chức an ninh tại hiện trường cho biết. Những người buôn bán tại trung tâm tin rằng ngọn lửa bốc lên từ tầng 4 do bộ nạp ắc quy quá nóng. Myanmar bị thiếu điện trầm trọng và các nhà máy, cửa hàng, bệnh viện thường xuyên chịu cảnh mất điện. Nhiều người phải phụ thuộc vào ắc quy khi mất điện và bộ nạp ắc quy quá nóng là một trong những nguyên nhân thường gây ra hoả hoạn. Các nhân viên cứu hoả đang nỗ lực dập tắt đám cháy. An BìnhTheo Reuters
  20. Kính thưa quí vị quan tâm. Hôm nay lang thang trên mạng, Thiên Sứ tôi xem được bài này, thấy ớn lạnh. Chờ đến 20 năm mới hết tắc đường thì còn gì là Hanoi Thủ Đô nữa. Bởi vậy, chẳng ngại tài hèn đưa lên đây để bàn .....cho vui. May ra gỡ được vài năm đỡ tắc thì hay quá. --------------------------------------------- “20 năm nữa Hà Nội mới hết ùn tắc là quá chậm!” (Dân trí) - Đạt bình quân 26 - 28m2 nhà ở/người vào năm 2015, giải quyết cơ bản vấn đề ách tắc giao thông vào năm 2030… là những mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Thủ đô nhận được nhiều ý kiến “mổ xẻ” nhất tại Hội đồng nhân dân Thành phố. Sáng 20/4, HĐND TP Hà Nội đã cho ý kiến về Chiến lược và Quy hoạch tổng thế phát triển Kinh tế - xã hội của thành phố đến năm 2020, định hướng đến 2030. Về mục tiêu về nhà ở, đại biểu Ngô Văn Ny cho rằng, đạt 26 - 28m2/người vào năm 2015, 31m2/người vào năm 2020 chỉ là… “xây”. Bởi lẽ, theo ông Ny, vấn đề quan trọng là học sinh, sinh viên, công nhân viên chức có thu nhập trung bình liệu có mua được nhà. “Nếu chỉ xây dựng bỏ đấy hoặc rơi vào tay một số người giàu, nhưng vẫn đem chia trung bình thì không ổn”, ông Ny băn khoăn. Đại biểu Phạm Thị Loan cũng băn khoăn, “số m2 nhà ở /người là tính diện tích đang ở hay đang nằm ở đâu đó”. Hơn nữa, theo bà Loan, đặt mục tiêu 31m2/người có phải là tới đây sẽ xây nhiều đô thị và nếu như vậy có phù hợp hay không? Chuyển sang vấn đề giao thông, đại biểu Ngô Văn Ny cho rằng, so với năm 2000, văn hóa giao thông hiện nay chưa bằng và vi phạm giao thông tăng hơn. Liệu đến các năm 2020 và 2030 Hà Nội có giải quyết được vấn đề này hay không là câu hỏi ông Ny đưa ra. Cũng theo ông Ny, mục tiêu đến năm 2030 mới không còn ách tắc giao thông là quá chậm. “Chẳng nhẽ phải mất đến 20 năm tức 4 lần kế hoạch 5 năm chúng ta mới giải quyết được vấn đề bức xúc này”, ông Ny nói. Đại biểu Ngô Văn Ny: chẳng nhẽ tới 2030 mới hết ùn tắc giao thông Phát biểu sau đó, đại biểu Phạm Thị Loan cũng cho rằng, 20 năm nữa mới giải quyết được vấn đề ách tắc giao thông là “không thiết thực”. Chuyển sang vấn đề tổng thể, bà Loan nhìn nhận, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố thiên về trung tâm dân cư, kinh tế, trong khi nhiều vấn đề khác không có số liệu cụ thể, không có giải pháp. Bà Loan dẫn chứng, vấn đề ngập úng, thoát nước vốn gây bức xúc dư luận đến khi nào sẽ giải quyết được. Về đường xá sẽ làm thêm bao nhiêu mét và sẽ đạt tỉ lệ như thế nào?... Theo bà Loan, phải có số liệu cụ thể để chứng minh cũng như các giải pháp đưa ra mới có thể thuyết phục mọi người, thành phố vẽ ra là thực, chứ không phải là bức tranh. Trong khi đó, đại biểu Trần Trọng Hanh cho rằng, trong các mục tiêu đưa ra chưa có vấn đề “sạch” mà theo ông “giàu, nhưng không sạch sẽ hết sức nguy hiểm”. Hơn nữa, chiến lược phát triển kinh tế này vẫn còn bỏ rơi khu vực nông thôn… Với các phân tích của mình, đại biểu Hanh lo ngại, sự phát triển như chiến lược đặt ra sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ như phát triển Thủ đô to, nhưng không mạnh, thị trường bất động sản rối loạn với hàng loạt dự án phân lô, bán nền… Về vấn đề nguồn lực, đại biểu Hanh cũng cho rằng, thu hút nguồn lực để có được con số 160 tỷ USD cho hai giai đoạn phát triển tới đây cũng là rất khó. Trong khi đó, nếu không đảm bảo được nguồn lực sẽ rất khó cho việc thực hiện mà thực tế đã có nhiều bài học. Dẫn chứng ông Hanh đưa ra là sau 10 năm thực hiện quy hoạch, đường Láng - Hòa Lạc vẫn còn dang dở, Đại học Quốc gia chưa giải phóng mặt bằng, làng Văn hóa các dân tộc đã có mặt bằng, nhưng vẫn để đó… Đại biểu Bùi Thị An nhìn nhận Thủ đô có rất nhiều tiềm năng về chất xám vì thế cần nhấn mạnh mục tiêu Hà Nội trở thành trung tâm hàng đầu về khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo có chất lượng cao… “Nếu không đi đầu về những lĩnh vực này, Hà Nội không thể đi đầu về những lĩnh vực khác”, bà An nói. Trước những ý kiến phản biện của các đại biểu, Phó Chủ tịch HĐND Lê Quang Nhuệ trong phần chốt lại phiên thảo luận đã thuyết phục rằng, sẽ “đính kèm” biên bản phiên thảo luận với Nghị quyết về Chiến lước phát triển KT - XH. Tiếp đó, HĐND Thành phố đã thông qua nghị quyết với 110/159 đại biểu tán thành. Cấn Cường
  21. TƯ LIỆU THAM KHẢO Hàn Quốc nâng mức báo động lên cấp 2 Vietnamnet.vn Thứ Hai, 24/05/2010 (GMT+7) , Trong khi thế giới đang dõi theo diễn biến trên bán đảo Triều Tiên thì một động thái đáng lưu ý lại vừa xuất hiện. Ảnh chụp tàu tuần tra Cheonan đúng 3 ngày trước khi gặp nạn. Ảnh AP. Đó là việc Seoul vừa mới quyết định nâng mức báo động khủng bố lên cấp 2 trên khắp lãnh thổ Hàn Quốc. Quyết định nâng mức báo động khủng bố lên cấp 2 cũng được gửi tới các phái bộ của Triều Tiên ở nước ngoài. Với việc nâng mức báo động, các lực lượng liên quan sẽ phải tăng cường an ninh tại các cơ quan đầu não và các cơ sở hạ tầng thiết yếu của đất nước. Theo lời Bộ Ngoại giao Hàn Quốc thì việc nâng mức báo động là để “đề phòng nguy cơ khủng bố”. Đáng chú ý là việc nâng mức báo động lại được đưa ra trong bối cảnh tình hình bán đảo Triều Tiên đang trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết, sau khi Seoul chính thức cáo buộc CHDCND Triều Tiên đánh chìm tàu Cheonan bằng ngư lôi. Trong khi đó, mấy ngày qua, Hội đồng An ninh quốc gia Hàn Quốc đã bắt đầu thảo luận phương án đối phó toàn diện với Triều Tiên. Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Kim Tae-young cũng đã tuyên bố Triều Tiên buộc phải trả giá vì đã đánh chìm tàu Cheonan khiến 46 người thiệt mạng. Tình hình hai miền Triều Tiên đang hết sức căng thẳng. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích tin rằng sẽ không có chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên do phía Hàn Quốc sẽ hành động thận trọng. Ở chiều ngược lại, giới phân tích cũng tin rằng Bình Nhưỡng thừa hiểu được hạn chế của họ. Chính vì vậy, khả năng nhờ tới sự can thiệp của cộng đồng quốc tế là khả dĩ nhất. Chính Tổng thống Lee cũng đã từng ám chỉ đưa vấn đề ra trước Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Nhật Vy (Theo CNN, Reuters, FT) ---------------------------------------------------------------- - "Ồn ào quá nhỉ!". - "Trẻ con đi chỗ khác chơi! Chỗ người lớn ăn nhậu! Phải không bác Thiên Sứ?". - "Uh! Dù sao tụi nó cãi nhau chỗ khác vẫn đỡ ồn hơn ở ngay gần chúng ta!".
  22. LỜI TIÊN TRI 2010 Đại ý: Rơi máy bay, lật tàu lừa....đau lòng hơn. Thanh Niên Online Tin vắn 24.5.2010
  23. Kính thưa quí vị quan tâm. Trong quá trình tìm hiểu và minh chứng lịch sử Việt với gần 5000 năm văn hiến, tôi đã chứng minh rằng: Nền văn hóa Hoa Hạ không phải chủ nhân đích thực của văn hóa Đông phương . Cội nguồn văn hóa Đông phương thuộc về người Lạc Việt, tổ tiên của dân tộc Việt hiện nay. Một trong những luận điểm chính - chứ không phải tất cả - chính là sự thống nhất của thuyết Âm Dương Ngũ hành và lấy Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ là nguyên lý căn để để lý giải mọi vấn đề liên quan. Điều tất yếu là mọi sự phát kiến mới mẻ đều có phản ứng. Một trong những sự phản ứng ấy - được không ít người cho là tiêu biểu chính là bài viết của Tubinh_giagia. Chính Tubinh_giagia đã gửi thư cho Kỳ Đức yêu cầu cho mở một topic để minh chứng tính khoa học của Chu Dich Trung Hoa và minh chứng những luận điểm của tôi đã sai. Tôi đã đồng ý việc này ở website trước. Bởi vậy, để rộng đường dư luận và sự nhận xét của mọi người khi Tubinh_giagia đã kết thúc từ lâu những luận cứ của mình, tôi đưa lên đây để quí vị quan tâm quán xét về tính hợp lý của hai luận điểm. Bài viết dưới đây trên tuvilyso.net. Văn hiến Lạc Việt Xin cảm ơn quí vị. Thiên Sứ * Phản biện của Tubinh_giagia Chủ đề: Hậu Thiên Bát Quái Văn VươngNgay lúc này là ngày 22 tháng 2 âm lịch năm Đinh Hợi, giờ Thìn , Tubinh_giagia muốn vạch trần và chấm dứt sự không chính danh, lừa lọc bấy lâu của tác giả Nguyễn Vũ Anh Tuấn aka Thiên Sứ về cái gọi là: Hậu thiên bát quái Lạc Việt(Đổi chỗ Tốn/ Khôn) và liên hệ với Hà Đồ Với Hậu thiên bát quái của Văn Vương liên hệ với Lạc Thư nói chung và những trích dẫn trong mục HÀ ĐỒ TRONG VĂN MINH LẠC VIỆT nói riêng. Sự việc rất đổi là đơn giản, vì rằng tác giả Nguyễn Vũ Anh Tuấn aka Thiên Sứ không hiểu và không nắm được cái NGUYÊN LÝ vì sao từ Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy BIẾN HÓA thành ra Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương như thế nào -- để mà TÙY TIỆN suy diễn cá nhân về sự hoán vị Tốn-Khôn để rêu rao về cái gọi là Hậu thiên bát quái Lạc Việt(Đổi chỗ Tốn/ Khôn) và liên hệ với Hà Đồ. Tác giả Nguyễn Vũ Anh Tuấn aka Thiên Sứ như đã có thể giải thích vì sao những định vị Bát Quái kia của Hậu Thiên Bát Quái vì sao như đã an vị như thế --- thì ắt hiểu vì sao Tốn-Khôn không cần phải hoán vị rồi; Cái chuyện, không đối xứng theo cái nhìn của rất nhiều người biết về thuật số trên thế giới (không nói đến số đông chẳng biết ất giáp gì ...) về Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương so với Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy hầu như là hầu hết đều có cái nhìn như thế --- nên mới có chuyện suy diễn Cá Nhân như tác giả Nguyễn Vũ Anh Tuấn aka Thiên Sứ đã bạo gan hoán vị Tốn-Khôn. Không phải sự suy diễn Cá Nhân đó là không hữu ích NHƯNG vẫn còn nằm trong MA TRẬN cửu cung BÁT QUÁI vì khi bị vấn nạn: Vì sao, những QUÁI kia lại an vị ở những cung còn lại như đã an ??? Thì chính tác giả Nguyễn Vũ Anh Tuấn aka Thiên Sứ cũng không có lời giải thích đặng nói riêng và những ai có đề ra những Hậu Thiên Bát Quái khác nói chung! Như vậy, thì còn nói gì được về tính đúng sai của: Hậu thiên bát quái Lạc Việt(Đổi chỗ Tốn/ Khôn) và liên hệ với Hà Đồ Với Hậu thiên bát quái của Văn Vương liên hệ với Lạc Thư Để rồi, đi sâu vào bài viết: HÀ ĐỒ TRONG VĂN MINH LẠC VIỆT để rộng đường tham khảo lại phát giác ra những không chính danh, mập mờ, lừa lọc trong bài viết và những trích dẫn không nguồn xuất xứ để lừa mỵ quần chúng; sẽ được Tubinh_giagia VẠCH TRẦN để CHẤM DỨT sự không minh bạch này! Tubinh_giagia
  24. Kính thưa quí vị và anh chị em. Hy vọng anh chị em và quí vị tham gia phân tích bài phản biện của ông Đỗ Kiên Cường, hoặc của tôi.
  25. Wikipedia nó nói thế thì coi nó là đúng sao? Nếu cở tướng vào Trung Quốc đời Đường thì trước đó người Trung Quốc chơi cờ gì? Khi hầu như các tài liệu cổ trước Đường của Trung Quốc - đến tận thời Xuân Thu Chiến Quốc - đều trực tiếp, hoặc gián tiếp nhắc đến chơi cờ? Những loại bài như thế này nên đưa ra ngoài. Trong giảng đường tập trung vào chuyên môn.