Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. TƯ LIỆU THAM KHẢO Mặt trời “nhả” chùm lửa cực mạnh về Trái đất Thứ Năm, 17/02/2011 - 12:04 (Dân trí) - Mặt trời hôm thứ hai đã “nhả” chùm lửa mạnh nhất trong vòng 4 năm qua về phía Trái đất của chúng ta và làm gián đoạn liên lạc radio ở miền nam Trung Quốc. Chùm lửa có tên gọi chùm lửa loại X, loại mạnh có thể bắn ra từ Mặt trời. Đây thực chất là một vụ nổ lớn trên bề mặt Mặt trời, do hoạt động từ trường tạo ra và theo các nhà khoa học chúng có thể ảnh hưởng đến các hoạt động liên lạc trên Trái đất. Và ảnh hưởng đầu tiên được ghi nhận là ở Trung Quốc. Tân Hoa xã dẫn nguồn cơ quan khí tượng học Trung Quốc (CMA) cho biết, chùm lửa mặt trời đã ảnh hưởng tới hoạt động truyền tín hiệu ở miền nam Trung Quốc vào ngày thứ ba vừa qua. Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ NASA khẳng định rằng vụ phóng chùm lửa xảy ra vào ngày thứ hai vừa qua và là chùm lửa mạnh nhất, lớn nhất trong 4 năm qua. Các nhà khoa học dự đoán sự kiện này là do có hoạt động mạnh ở bán cầu bắc Mặt trời. “Những chùm lửa loại X mạnh nhất trong tất cả các sự kiện của mặt trời mà chúng có thể gây mất tín hiệu radio và tạo ra những cơn bão bức xạ kéo dài”, làm gián đoạn viễn thông cũng như mạng lưới điện, NASA cho hay. Các chùm lửa mặt trời được phân ra thành các loại A, B, C, M hoặc X, và loại sau lớn hơn loại trước 10 lần. NASA cũng cho biết chùm lửa mặt trời đã gây ra “sự nhiễu loạn điện ly đột ngột” trong bầu khí quyển bên trên Trung Quốc và CMA cảnh báo nhiều khả năng các chùm lửa mặt trời lớn sẽ xuất hiện trong vòng 3 ngày tới. Đài quan sát động lực học mặt trời của NASA quan sát thấy Mặt trời đã “nhả” ra một vòng tròn lửa lớn, bừng sáng và nó đang tiến về phía Trái đất với tốc độ 900km/s. Chùm lửa hôm thứ hai được bắn ra từ bán cầu nam của Mặt trời, bán cầu cho đến nay ít có hoạt động bắn lửa hơn bán cầu bắc. Hoạt động xảy ra khi các nhà khoa học quan sát được rất nhiều chùm lửa loại M và C trong những ngày gần đây. Một trận bão từ do một vụ phun trào tương tự của Mặt trời vào năm 1973 đã khiến 6 triệu người ở tỉnh Quebec, Canada, sống trong bóng tối. Phan Anh Theo AFP================================================ Theo Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - thì đây là trường hợp cục bộ nếu xét riêng Thái Dương hệ - Âm cực mạnh, dương cực suy. Xét tương quan Trái Đất mặt trời: Dương cực mạnh Âm cực suy. Năm nay, hạn hán, mất mùa, bão tố đều nghiêm trọng. Lấy miền nam Trung Quốc làm chuẩn, quay một vòng trái Đất giới hạn theo vĩ tuyến: Các quốc gia ở vùng này cần đề phòng thiên tại các loại - tùy thích ứng địa chất cho mỗi quốc gia.
  2. Đúng là quẻ Tử Xích khẩu còn có nghĩa là bịt đầu mối - không cho nói. Thương Tôc Hỷ có nghĩa là có mối liên hệ tình cảm từ trước. Nhà báo này - Thương Tốc Hỷ - đã phát hiện ra một cái gì đó - sợ bị phát giác nên đã bị giết. Chắc chắn không phải tự tử.
  3. Để tiện cho việc tham khảo, đối chiếu, tôi chép lại bài viết theo đường link của Thế Trung đưa lên đây. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em. Anh chị em các lớp Phong thủy thân mến. Đây là một bài viết rất tuyệt vời vì tính tổng hợp và khái quát cao với những ý tưởng rất mới trong mối liện hệ văn hóa và tri thức Đông Tây - liên quan đến Lý học. Anh chị em cần chép về tham khảo và suy nghiệm. Bài viết này có thể coi như kiến thức căn bản sẽ phát triển trong tương lai của những anh chị em nào nghiên cứu kết hợp giữa Lý học Đông phương và khoa học hiện đại. Cảm ơn Thế Trung ========================================================== Không, Hư vô, Chân không trong khoa học tự nhiên Đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân Đạo đức kinh Hà Dương TuấnĐể kính mừng Giáo Sư Hoàng Tuỵ thượng thọ 80. Đã đăng trong Kỷ Yếu tặng Giáo Sư Hoàng Tuỵ : Sĩ Phu thời nay, nxb Tri Thức, Hà Nội tháng 12-2007. Tiểu luận này trình bày những cách hiểu khác nhau trong lịch sử của khoa học tự nhiên 1 về cái không và cái chân không – bằng cách sử dụng khái niệm mô hình. Khái niệm then chốt của khoa học luận này ít khi được nhấn mạnh đầy đủ, có lẽ do hai lý do trái ngược nhau: hoặc như các nhà khoa học, coi đó là hiển nhiên vì phải vận dụng hàng ngày; hoặc không hề để ý đến nó do truyền thống văn hoá, không phân biệt hai thế giới khác nhau của ý thức và vật chất. Sơ bộ, thao tác mô hình hoá là việc dùng một ngôn ngữ chính xác để mô tả và khảo sát sự vật. Xin trở lại với nó rõ hơn sau. Có thể hiểu một lý thuyết khoa học như sự mô hình hoá các hiện tượng cơ bản của thế giới vật chất bằng cách phát biểu các quy luật của nó. Những quy luật này trở thành những tiên đề, và để áp dụng những tiên đề trong một hoàn cảnh đặc thù cần diễn dịch nó chung với những tham số của hoàn cảnh đó để rút ra những kết luận hữu ích. Thí dụ như người ta có thể từ định luật hấp dẫn vũ trụ của Newton và những đặc điểm của thái dương hệ để suy ra việc làm vệ tinh nhân tạo. Ngôn ngữ khoa học vì thế thường được gọi là một hệ thống tiên đề - diễn dịch. Ngôn ngữ có tính hệ thống, các khái niệm tự xác định ý nghĩa lẫn nhau trong một quan hệ tổng thể. Nhưng ngôn ngữ nói chung không chỉ có tính hệ thống; một mặt ý nghĩa của các khái niệm thay đổi với thời gian, và mặt khác các từ ngữ trừu tượng dùng cho những khái niệm mới thường thoát thai từ những từ ngữ và khái niệm có sẵn; do đó mỗi khái niệm thường phải được đặt trong một "vùng ngữ nghĩa" nào đó mà những người đối thoại cần hiểu ngầm với nhau, và không chắc như nhau... Với tính chất tiên đề - diễn dịch hoàn toàn chặt chẽ và chính xác, người ta có thể nghĩ rằng ngôn ngữ khoa học có tính hệ thống tuyệt đối, không có quá khứ, một ngôn ngữ lý tưởng để mọi người đều hiểu như nhau. Tuy nhiên, trong nghĩa rộng, ngôn ngữ mà các nhà khoa học dùng để suy tư, sáng tạo, và thảo luận với nhau, thì không hẳn thế. Những khái niệm căn bản nhất, trên đó khoa học chính xác đã xây dựng được những hệ thống tiên đề - diễn dịch rất bao quát và thống nhất như hiện nay, chẳng hạn như : cái có và cái không, khẳng định và phủ định... vẫn thoát thai từ trực giác. Có từ lâu đời trên mọi nơi của địa cầu, những trực giác ấy đã được phát triển thành khái niệm theo những hướng khác nhau. Do đó ngôn ngữ khoa học không chỉ là một mớ những khái niệm ròng lý thuyết, mà ở nơi sâu thẳm nhất nó còn vương vấn những sắc thái văn hoá đặc thù. Trong một giai đoạn ổn định, các sắc thái ngôn ngữ ấy đã được vượt qua và không còn ảnh hưởng gì trong khoa học. Nhưng đến khi có khủng hoảng, thí dụ với những nghịch lý của cơ học lượng tử, thì đào sâu nhận thức về thế giới tự nhiên còn là đào sâu vào nền tảng của tư tưởng 2, và khi đó những sắc thái văn hoá đặc thù của ngôn từ có thể xuất hiện trở lại : người ta đã nhận thấy điều ấy trong những luận thuyết về một sự tương hợp nào đó của tư tưởng Á Đông 3 và khoa học hiện đại... Điều cần trân trọng ở đây là ý thức về sự dung hợp văn hoá đó, tối cần thiết và khẩn cấp trong thời đại toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Nhưng chính vì thế có lẽ nên nhận định rõ đâu là ước mong và đâu là thực tế. Có chắc gì những từ tương đương giữa các ngôn ngữ – như hư vô / néant, chân không / vide... – đã được cảm nhận hoàn toàn như nhau giữa một người thấm nhuần văn hoá Á Đông và một nhà khoa học Tây phương ? trong cuộc đối thoại giữa một thiền sư và một nhà vật lý lý thuyết ? Ở đây sự đồng cảm đích thực sẽ rất quý giá, nhưng chắc không dễ dàng. Tác nhân của những hiểu lầm và ảo tưởng có thể xẩy ra, ngoài cái bất đối xứng về sức mạnh vật chất giữa Á Đông và Tây phương – nguồn gốc của những mặc cảm có khả năng bóp méo nhận định và suy luận – , còn là sức nặng lịch sử của ngôn từ. Cho nên tưởng cũng không thừa nếu chúng ta bắt đầu con đường đi đến đồng cảm và dung hợp ấy bằng cách tìm hiểu ý nghĩa trong khoa học hiện đại của những ngôn từ / khái niệm cơ bản, dựa trên những trực giác sâu thẳm, như cái có và cái không... Tiểu luận này gồm ba phần chính, phần đầu tóm lược một đặc tính của khoa học có liên quan tới chủ đề, đó là sự chấp nhận hiện thực khách quan, và coi hoạt động khoa học là sự mô hình hoá hiện thực khách quan đó; phần hai dựa trên đặc tính này để phát triển rõ hơn các khái niệm "không" và "hư vô" trong luận lý học và toán học, và phần ba trình bày những quan niệm về "chân không" như một đặc tính của không gian chúng ta đang sống, với những biến chuyển trong lịch sử khoa học. 1. Thực tại và mô hình 1.1. Có chăng Hiện thực khách quan ? Để mọi người có thể đồng ý với nhau trên câu hỏi "hiện thực là cái gì ?" "có chăng một hiện thực khách quan ?" thật không dễ. Trong khung cảnh khoa học tự nhiên của tiểu luận này, xin chỉ có vài phân biệt ngắn gọn, rồi hy vọng các thuật ngữ sẽ phần nào tự xác định rõ thêm trong các ngữ cảnh. Theo thiển ý có ba cách hiểu chữ "hiện thực" : Một là tất cả những hiện tượng vật chất của đời thường, mà mọi người có lý trí và giác quan bình thường đều nắm bắt được. Xin gọi chung là "hiện thực vật chất nghiệm sinh" ("hiện thực", nếu ngữ cảnh cho phép) theo nghĩa đó là tất cả những hiện tượng cụ thể trong nghiệm sinh của con người, cảm nhận được bằng giác quan, trực tiếp hay gián tiếp qua đo lường. Hai là một cái gì bao trùm tất cả, vừa sâu sắc hơn, vừa thống nhất hơn, vừa đơn giản hơn "hiện thực vật chất nghiệm sinh" nói trên, nó "nằm ở đằng sau", và làm nảy sinh mọi hiện tượng. Xin gọi nó là "bản thể của hiện thực", nói gọn là "bản thể" trong ngữ cảnh của tiểu luận này. Đây không phải là "bản thể" theo nghĩa triết học, mà ở đây không đề cập đến. "Bản thể của hiện thực", vì không thể được trực tiếp nghiệm sinh, chỉ thuần tuý là một khái niệm sơ khởi, mà việc có thể được hiểu toàn bộ và thấu đáo hay không, là tuỳ thuộc niềm tin của từng người. Cách hiểu thứ ba gộp hai cách hiểu trên làm một, cho rằng mọi hiện tượng vật chất đều đã được khoa học giải thích thoả đáng và đầy đủ bằng một số quy luật cơ bản và thống nhất. Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản thể, người ta giải thích được tại sao và như thế nào các hiện tượng nảy sinh, cũng như biết đi ngược từ hiện tượng đến bản thể, tuy không thể chính xác 100% do giới hạn của các công cụ đo lường. Đây là cách hiểu của một thời khi người ta nghĩ rằng khoa học đã giải thích được tất cả, chỉ còn một vài vấn đề nhỏ... xin gọi cách hiểu như thế là sự khẳng định "hiện thực tuyệt đối". Khoa học chỉ nói về các hiện tượng, cho nên thế giới vật chất mà các nhà khoa học mô tả nếu hiểu một cách nghiêm ngặt thì chỉ là hiện thực hiểu theo nghĩa thứ nhất nói trên. Nhưng trong tinh thần khoa học có một niềm tin tiên thiên (a priori) sâu hơn thế: thế giới hiện tượng này là biểu hiện của một bản thể tồn tại và biến chuyển theo những quy luật độc lập với ý thức con người, biết được xuyên qua việc khảo sát hiện thực nghiệm sinh. Cho đến nay chưa có luận cứ có tính thuyết phục nào đi ngược lại niềm tin này 4. Xin gọi đó là niềm tin về hiện thực khách quan. Niềm tin này không hẳn là niềm tin vào một hiện thực tuyệt đối. Đại đa số các nhà khoa học, trong hoạt động khoa học của mình, luôn luôn hành xử với niềm tin về hiện thực khách quan, vì chính hoạt động khoa học là sự tìm hiểu những mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng. Có thể coi những quy luật nhân quả đó như sự biểu hiện của "một cái gì đó" mà ta đã gọi là "bản thể", vì nếu giữa hai hiện tượng chỉ là hư vô, thì không thể có một quy luật nhân quả nào nối liền chúng với nhau. Thí dụ khi người ta bắn một hạt điện tử (electron) lên một màn huỳnh quang, chỉ biết lúc bắn ra và lúc nó chạm vào màn huỳnh quang thì nó có những tính chất vật lý đã đo được, ở hai thời điểm đó có hai hiện tượng mà ta gọi là điện tử; giữa hai thời điểm đó ta vẫn gọi "nó" là điện tử, nhưng thực ra không biết "nó" là cái gì. Tuy nhiên "nó" hiện hữu và biến chuyển theo một quy luật khách quan mà người ta đã dùng để làm nên màn ảnh huỳnh quang hiện ra phong cảnh đẹp đẽ. Khái niệm bản thể hiểu như thế không thể được coi là trống rỗng. Mặt khác, những mô hình toán học hiện đại dùng để biểu diễn các quy luật và tiên đoán các hiện tượng trở nên rất khác biệt với chúng, phức tạp, kỳ lạ và đi ngược lại trực giác. Do đó có những nhà khoa học lớn phủ nhận bất cứ cái gì "đằng sau" hiện thực nghiệm sinh. Theo thiển ý, có lẽ những phát biểu đó phản ảnh sự bất lực của lý trí trước những nghịch lý của vật lý hiện đại, từ đó đi quá đà đến sự phủ nhận bản thể. Theo những phân tích ở trên, đây thực chất là phủ nhận hiện thực tuyệt đối. Có một số quan điểm thoạt đầu nghe rất khác niềm tin về hiện thực khách quan, nhưng thực ra không khác. Thí dụ như : cái thế giới vật chất duy nhất này chỉ là một ảo tưởng chung, liên chủ quan (intersubjectif – tuy thuộc chủ quan của mỗi người, nhưng lại đồng nhất với nhau), của mọi sinh vật có ý thức. Sở dĩ thế giới đó mang những trạng thái và những quy luật xác định được cũng như tiên đoán được, là vì tất cả các sinh vật có ý thức có cùng chung những ảo tưởng, do đã trải qua cùng những quan hệ nhân quả (có thể gọi cái Ý Thức lớn, viết hoa, mẫu số chung của mọi ý thức cá nhân đó là "cộng nghiệp"). Nhưng như thế không có gì cho phép phân biệt hiện thực và ảo tưởng. Nếu ảo tưởng (kể cả sống, chết, mất, còn) là của tất cả, thì ảo tưởng cũng là hiện thực sắt đá của tất cả: Có thì muôn sự có,Không thì tất cả không 5. Cho nên nếu hiểu niềm tin "cộng nghiệp" như thế thì nó hoàn toàn có thể được đồng hoá với niềm tin thứ ba này : Thượng Đế đã sáng tạo tất cả vũ trụ cách đây bốn nghìn năm trước (mà nói chỉ một sát na trước thì cũng không khác), rồi sau đó Thượng Đế không can thiệp vào thế giới vật chất nữa; sáng tạo ấy bao gồm tất cả những quy luật vật lý cũng như tất cả các chi tiết hợp quy luật cho phép người ta nghĩ rằng vũ trụ đã có từ 13 tỷ năm trước, và loài khủng long đã để lại những bộ xương từ hơn một trăm triệu năm. Sự khác biệt chỉ nằm ở nguồn gốc của hiện thực khách quan, một vấn đề siêu hình. Thế giới của ý thức bao gồm những cảm giác và những khái niệm diễn ra trong tâm tư và trí tuệ con người, có thể được biểu thị qua hành động hay trao đổi với nhau qua ngôn ngữ. Thế giới ý thức vừa có ảnh hưởng hỗ tương, vừa độc lập tương đối với thế giới vật chất. Ý thức dĩ nhiên có thể làm thay đổi thế giới vật chất, nhưng để làm được điều đó cho đến nay nó phải vận dụng những quy luật độc lập với nó của thế giới vật chất. Niềm tin về hiện thực khách quan được hình thành do con người đã tích tụ những kinh nghiệm ngày càng phủ định về tác động của ý thức lên thế giới vật chất một cách trực tiếp, không thông qua môi giới vật chất. Một trong những bí ẩn đầu tiên, có thể nói là huyền bí, của cơ học lượng tử (CHLT) là hiện tượng lưỡng tính hạt và sóng, điều đó khiến cho những nhà khai phá hàng đầu như Bohr và Heisenberg đã có những tuyên bố dễ làm người ta hiểu lầm về vai trò của ý thức, nhưng thực ra trong ngữ cảnh của những tuyên bố này luôn luôn có sự hiện diện của môi giới vật chất, đó là các thí nghiệm cụ thể với các thiết bị đo lường cụ thể, một cấu hình thí nghiệm nào đó sẽ cho thấy tính chất hạt của lượng tử (hay nguyên tử), và một cấu hình khác sẽ cho thấy tính chất sóng của nó 6. Nhưng tại sao lại có hai hiện tượng – của tự nhiên, độc lập với ý thức người quan sát – bất nhất như thế ? Làm sao có được cái nhìn về thế giới vật chất dung hợp được những hiện tượng mà thuyết tương đối (TTĐ) và CHLT đã thiết lập ? Theo thiển ý, hiện nay chưa ai trả lời được rốt ráo những câu hỏi loại này. Chính vì thế chúng ta càng nên thận trọng phân biệt rõ bản thể – hiểu trong tính tổng thể và tính thống nhất của nó, và vẫn còn nằm ở chân trời phía xa – với những mô hình mô tả được những khía cạnh khác nhau của hiện thực, rất hiệu quả và là nguồn gốc của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vũ bão hiện nay, tuy chưa có một mô hình hoàn chỉnh và tổng thể để cho phép hiểu hiện thực (một cách) tuyệt đối. 1.2. Mô hình và giới hạn của mô hình Trong nghĩa thông thường, "mô hình hoá" một hiện tượng nào để khảo sát nó, là dùng một ngôn ngữ chính xác để mô tả hiện tượng ấy trong những khía cạnh liên hệ và bỏ đi những mặt không liên hệ đến mục đích khảo sát, đây chính là "trừu tượng hoá" hiểu theo nghĩa đen, vì "trừu tượng" nguyên nghĩa là giữ lại cái đặc trưng, đã được dùng để dịch "abstraction" mà nguyên nghĩa là bỏ đi cái không cần thiết. Nhưng mô hình hoá không phải chỉ là giữ và bỏ mà còn là thêm vào.Chính vì qua việc khu biệt hoá và thuần khiết hoá những lớp bài toán đặc thù, nó là một công cụ cho phép hiểu rõ hiện thực hơn, từ đó khám phá những những quy luật còn bị ẩn dấu của tự nhiên, giải thích những hiện tượng chưa giải thích được, khám phá những hiện tượng mới. Mặt khác, bản thể của hiện thực, nếu hiểu được, phải thống nhất và bao trùm, nhưng mô hình cho một khía cạnh nào đó của hiện thực thì không cần như thế, tuy sự tìm hiểu hiện thực ngày càng được mở rộng, để hy vọng đi đến một mô hình tổng thể. Khái niệm "mô hình", rất quen thuộc trong văn hoá Tây phương, hình như hoàn toàn vắng bóng trong văn hoá Á Đông. Có thể coi khái niệm mô hình bắt nguồn từ "thế giới ý tưởng" của Platon 7. Nếu không quen với khái niệm triết học này người ta rất dễ đánh đồng thực tại với mô hình của thực tại, là những lý thuyết khoa học, vì thông thường người ta chỉ có thể nói với nhau về thực tại bằng ngôn ngữ khái niệm, tức ngôn ngữ của mô hình. Đến khi phải dùng những cách nắm bắt thực tại khác nhau cho những hoàn cảnh thực nghiệm khác nhau... người ta mới không khỏi vò đầu bứt trán : tại sao thực tại khi thì thế này, khi thì thế kia ? khi thì là hạt, khi thì là sóng ? Nếu đổi lại thành một câu hỏi chính xác hơn : tại sao mô hình của thực tại lại khi thế này khi thế kia... thì có lẽ dễ thở hơn, ít ra về mặt tâm lý. Sau đây là một thí dụ phổ biến của sự đánh đồng thực tại với mô hình, rồi từ đó đi đến ngộ nhận: người ta nói đến "hiệu ứng cánh bướm" (một con bướm vỗ cánh ở Brasil liệu có thể gây nên bão tố ở Texas) như là thí dụ của việc một nguyên nhân nhỏ có thể gây nên hậu quả lớn. Vậy có gì lạ đâu ? đó là một hiện tượng ai cũng biết, tục ngữ có câu "rút dây động rừng". Ý nghĩa của câu nói này không phải thế, không có một quan hệ nhân quả nào giữa một con bướm cụ thể nào và cơn bão; mỗi lúc tại Brasil có hàng triệu con bướm vỗ cánh, vậy con bướm nào gây ra bão tố đây ? "Hiệu ứng cánh bướm" không nói đến điều ấy, mà nói đến khả năng có hạn của mô hình khoa học trên một số bài toán, đặc biệt bài toán dự báo khí tượng. Do vì, từ khác biệt ban đầu rất nhỏ (như cái vỗ cánh của một con bướm) mô hình sẽ cho ra những kết quả khác biệt rất lớn (như có bão hay không có bão) sau một thời gian nào đó, cho nên khi đó mô hình trở thành vô ích. Khi hiểu đúng văn cảnh 8 của ẩn dụ nổi tiếng này thì con bướm và bão tố đều chỉ là những hình tượng văn vẻ (và rất đáng tiếc dễ gây hiểu nhầm) cho các đại lượng trừu tượng trong mô hình, không phải những hiện tượng thật. Điều oái oăm ở đây là hình ảnh quá cụ thể này đã đẩy người ta vào cái sai lầm mà chính nó muốn nói đến. Thực vậy, về mặt nhận thức luận ý nghĩa của "hiệu ứng cánh bướm" quan trọng hơn rất nhiều cách hiểu "rút dây động rừng". Đó là : không thể dự báo (cũng có nghĩa là không thể tác động đến như ý muốn) về tương lai lâu dài của một số hệ thống. Sự bất lực có tính lý thuyết này có hệ luận là : trên thực tế không thể đánh đồng thực tại với mô hình, và sẽ không bao giờ làm được như thế. Khoa học luận hiện đại cần chúng ta có ý thức thường trực và rõ rệt về sự phân biệt này. Chúng ta có thể tin tưởng hay không là một ngày nào đó sẽ có một lý thuyết bao quát và thống nhất về thực tại trên mọi khía cạnh 9 – khi đó sẽ có thể nói là con người đã hoàn toàn hiểu thế giới vật chất – , nhưng dù có như thế thì sự áp dụng lý thuyết đó trên một số khía cạnh thực tế để dự phóng về tương lai cũng sẽ chỉ cục bộ và giới hạn trong một khoảng thời gian nhất định. Trong một số bài toán hiện nay có thể nói : tiên đoán được không có nghĩa là hiểu, nhưng trong một số bài toán khác thì mãi mãi hiểu cũng không có nghĩa là tiên đoán được quá xa. 2. Chữ "không" trong luận lý học và toán học Lôgích học là công cụ của toán học, nó cho phép bảo đảm tính chặt chẽ khi xây dựng một lý thuyết toán. Và, trong phạm vi của tiểu luận này, toán học là công cụ của vật lý học, nó cho phép xây dựng những mô hình của thực tại với những đại lượng cơ bản nhất như không gian, thời gian, năng lượng, vật chất... và những quy luật tương tác giữa những đại luợng ấy. Những mô hình thích hợp với thực nghiệm sẽ cho phép quan sát hay/và tác động lên thực tại, rồi tiên đoán chính xác kết quả... Do đó khoa học trở thành nguồn gốc của những tiến bộ kỹ thuật đã làm thay đổi đến chóng mặt cuộc sống con người. Trong mối liên hệ đa tầng đó, chữ "không" vừa vẫn mang cái trực giác ban đầu : ngược lại với "có một cái gì" là "không có gì cả", vừa mang những sắc thái khác nhau vì mỗi tầng của cái cấu trúc trí tuệ đó có những đối tượng riêng. Trước hết, để khảo sát thế giới cần một ngôn ngữ ngắn gọn và chính xác, đó là ngôn ngữ toán học. Từ đầu thế kỷ thứ 17 sau tuyên ngôn nổi tiếng của Galileo Galilei (1564-1642) "cuốn sách của tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ toán", các nhà bác học đã tìm ra nhiều quy luật của tự nhiên trong cơ học, quang học, hoá học, điện từ học... và những quy luật rất hiệu quả ấy là cơ sở cho sức mạnh vật chất của phương Tây. Công cụ toán học cần thiết cho việc khám phá những quy luật đó và phát triển chúng cho những tính toán ứng dụng, chính là toán vi tích phân, đồng thời được Newton và Leibniz sáng tạo độc lập với nhau. Nhưng khởi đầu toán vi tích phân được các nhà vật lý vận dụng một cách tương đối không chặt chẽ, công cuộc phát triển toán học kéo dài trong suốt các thế kỷ 17, 18 cho đến cuối thế kỷ 19 mới coi như làm chủ được hoàn toàn cái vô cùng tận hiện hữu (infinité réelle) 10, cần thiết cho toán vi tích phân để định nghĩa rõ rệt thế nào là sự liên tục của không gian. Để đặt nền móng lý luận chặt chẽ cho toán học, ngành học về lôgích có từ thời Aristotle đã phát triển mạnh trở lại, nó có tên mới là "toán luận lý" (logique mathématique) hay "luận lý học hình thức" (logique formelle), để cho gọn xin gọi là lôgích học. Kết quả là toán học đã được xây dựng trên nền tảng của thuyết tập hợp tiên đề hoá 11 (théorie axiomatique des ensembles); nằm giữa hai tầng cấu trúc tri thức, nó vừa được coi là toán học vừa được coi là lôgích học. Cuộc xây dựng thuyết này khá trắc trở, phải vượt qua nhiều nghịch lý (paradoxes) mới được chặt chẽ như ngày nay. Tính chặt chẽ này được bảo đảm bằng một phương pháp hai giai đoạn, dĩ nhiên "hai giai đoạn" ở đây không hàm ý trước sau theo thời gian mà chỉ là một thứ tự thuần lý. Giai đoạn thứ nhất là xây dựng thuyết tập hợp tiên đề hoá bằng lôgích học, trong giai đoạn này một thuyết tập hợp hạn chế, hay thuyết tập hợp hồn nhiên (naif), được sử dụng. Điều mặc nhiên được công nhận là như sau : đối tượng của lôgích học chỉ là những chuỗi ký hiệu (của toán học hay của bản thân lôgích học), trong một tập hợp hữu hạn (hữu hạn cũng có nghĩa là rời rạc), mà trong khung cảnh hữu hạn thì trực giác con người là tuyệt đối giống nhau khi nhận biết, lý luận và tính toán (đi từ một chuỗi ký hiệu này đến một chuỗi ký hiệu khác) một cách hồn nhiên. Thêm nữa, tuy lôgích học hình thức không dùng đến khái niệm vô tận, nó không cần và không thể xác định con số hữu hạn của những ký hiệu là bao nhiêu. Trong bài này xin dùng thuật ngữ "thế giới diễn ngôn" để chỉ tập hợp tất cả các mệnh đề đúng cú pháp viết bằng các ký hiệu lôgích và toán học, trong một lý thuyết tiên đề - diễn dịch. Đây quả thực là một ngôn ngữ có tính hệ thống tuyệt đối, không quá khứ, như đã nói ở đầu bài. Giai đoạn thứ hai: với những chuỗi ký hiệu, mà sự vận dụng theo lôgích chỉ cần cái trực giác hồn nhiên nói trên, không những người ta xây dựng được trongthuyết tập hợp tiên đề hoá những tập hợp có vô tận phần tử, mà còn xây dựng được nhiều loại vô tận khác nhau, cái vô tận "đếm được", và cái vô tận liên tục. Những tập hợp vô tận này là khởi đầu của việc "xây dựng" được những lý thuyết toán học đáp ứng được việc mô hình hoá không gian, thời gian... và những quy luật vật lý. Thực ra những lý thuyết này đã có từ trước, hoặc được sáng tạo theo nhu cầu áp dụng, hoặc như những sáng tạo trừu tượng đi trước yêu cầu; chữ "xây dựng" viết ở đoạn trên, do đó, chỉ có nghĩa là củng cố chặt chẽ về mặt lý luận mà thôi. 2.1. Chữ "không" trong Luận lý học hình thức Thuyết tập hợp hồn nhiên chỉ là sự phát biểu lại những nguyên tắc lý luận đã có từ cổ đại, theo một cách khác. Thí dụ tam đoạn luận nổi tiếng : "làm người ai cũng phải chết, Socrate là người, vậy Socrate cũng phải chết", có thể được phát biểu như sau : "Tập hợp người nằm trong tập hợp những thực thể sẽ phải chết, Socrate là một phần tử của tập hợp người, vậy thì Socrate cũng có trong tập hợp những thực thể sẽ phải chết". Như thế mọi lý luận được đưa về một loại quan hệ độc nhất : quan hệ "có trong" giữa một phần tử và một tập hợp. Một quan hệ phái sinh rất thuận tiện, định nghĩa được từ quan hệ đầu, là quan hệ "nằm trong" giữa hai tập hợp. Đó chỉ là một cách nhìn, nhưng cách nhìn này đưa đến nhiều thuận lợi: Viết ra được những ký hiệu ngắn gọn: thí dụ (phần tử a có trong tập hợp A), (tập hợp B nằm trong tập hợp A)... Xác định được rõ ràng ý nghĩa của những khái niệm lôgích căn bản : phủ định, hay, và, dẫn đến... Tránh được những nghịch lý do sự thiếu chặt chẽ của những lý luận bằng ngôn ngữ tự nhiên đưa đến, Và sau cùng, ở thời đại chúng ta không thể không nhấn mạnh : những thao tác trên các ký hiệu do đó hoàn toàn có thể tự động hoá được. Khả năng này được sử dụng đại trà trong các máy tính điện tử dưới nhiều hình thức. Thí dụ chuỗi ký hiệu : được đọc như sau : điều kiện cần và đủ (xem ký hiệu 1) để B nằm trong A là, với bất cứ phần tử x nào (xem ký hiệu 2), nếu x có trong B thì x cũng có trong A (xem ký hiệu 3). Bằng một một số rất nhỏ các thao tác hoàn toàn máy móc để thay đổi các ký hiệu, người ta (hay máy tính) có thể "nhắm mắt" viết chuỗi ký hiệu: ; đọc như sau : điều kiện cần và đủ để B không nằm trong A (xem ký hiệu 7) là có một phần tử a (xem các ký hiệu 4 và 5), có trong B và (xem ký hiệu 8) không có trong A (xem ký hiệu 6). Xin xem giải thích của các ký hiệu trong khung đi kèm dưới đây, trong đó hàm không(...) là hàm phủ định tổng quát của lôgích. Ngay ở đây ta thấy có hai chữ "không" khác nhau. Đoạn trên là một thí dụ về chữ không trong tính toán lôgích. Chữ "không" thứ hai ta gặp khi đem áp dụng lôgích trong đời thường. Phủ định trong đời thường là phủ định của một tính chất nào đó của một sự vật (hay tập hợp sự vật) nào đó, "xe của ông Nguyễn màu đen" là một mệnh đề, và phủ định của mệnh đề đó là : "xe của ông Nguyễn không phải màu đen". Như vậy lôgích hình thức là một phép lý luận tổng quát dựa trên việc biến đổi các chuỗi ký hiệu trừu tượng một cách máy móc; và lý luận bằng ngôn ngữ trong đời thường là nói về tính chất của các sự vật cụ thể trong đời thường. Ở giữa hai bên là thao tác mô hình hoá, đi từ cụ thể đến trừu tượng, và thao tác diễn tả, đi từ trừu tượng đến cụ thể. Thí dụ câu nói P : "Có một chiếc tải xe màu đen do hãng Ford sản xuất". P đúng hay sai ? Có hai cách để có câu trả lời. Một là điểm qua tất cả các xe có trên đời này, điều trên nguyên tắc làm được, vì số xe ấy hữu hạn. Hai là tin tưởng vào một đặc tính nào đó phổ quát hơn, và suy ra kết luận trên, thí dụ : hãng Ford làm đủ mọi loại xe, mỗi loại xe của hãng Ford đều một nửa là màu đen; cách này cho phép suy luận nhanh hơn, nhưng phức tạp hơn, và để chế ngự cái phức tạp thì việc áp dụng những mô hình lôgích là có ích. Không thể làm cách thứ nhất với những tập hợp vô tận, vậy để áp dụng lôgích hình thức, cần có những mệnh đề tiên thiên được chấp nhận là đúng, nói đơn giản là muốn có kết luận đúng thì cần lý luận chặt chẽ và khởi đi từ những điều đúng; thêm nữa những mệnh đề tiên thiên đó phải không mâu thuẫn với nhau 12. Chúng được gọi là những tiên đề (axiomes). Thuyết tập hợp tiên đề hoá cũng là một hệ thống tiên đề, được mở rộng 13 từ lôgích hình thức hồn nhiên, và một lý thuyết toán học là một hệ thống tiên đề được mở rộng từ thuyết tập hợp tiên đề hoá. Khi tất cả được quy về tiên đề thì miền áp dụng của lôgích không cần thiết phải hữu hạn, vì chỉ cần suy luận bằng cách biến đổi các mệnh đề, không bao giờ cần "điểm qua tất cả những sự vật" nữa. Người ta yêu cầu tiên đề sau đây được chấp nhận: có một tập hợp không chứa một phần tử nào cả. Nói cách khác, khái niệm về "cái không" là khái niệm có thực. Người ta gọi nó làtập hợp rỗng (ensemble vide), và viết bằng ký hiệu Ø. Ø có trong thế giới diễn ngôn nhưng không biểu thị cái gì trong đời thường, nó là một cái hộp rỗng không, cái hộp ấy có thực. Tại sao phải như thế ? người ta cần viết ra và suy luận một cách tự nhiên trên những mệnh đề rất giản dị như "những xe tải do hãng Ford sản xuất", đó là một tập hợp gồm những xe vừa là xe tải vừa là xe do hãng Ford sản xuất; tập hợp đó có thể chứa một số xe nhất định, cũng như không chứa một cái xe nào; nhưng, trước khi tìm hiểu và suy luận, người ta không biết rõ điều ấy. Vì vậy cần thiết gán cho "cái không" vai trò của một tập hợp, nghĩa là cũng có thể được thao tác như mọi tập hợp khác. Có thể nói bằng lạm dụng ngôn từ là "ở trong tập hợp rỗng chỉ có hư vô", theo nghĩa không có gì trong thế giới thực tương ứng với hư vô: thời gian, không gian, màu sắc... đều không liên hệ gì với hư vô. Hư vô không phải là một khái niệm khoa học, nó khác với "chân không" mà ta sẽ bàn kỹ hơn sau, nhưng sự không phân biệt rõ ràng hai khái niệm này là nguồn gốc của một số lý luận sai lầm, ngay cả từ Descartes (1569-1650) và Leibniz14 (1646-1716). 2.2. Sơ lược về thuyết tập hợp tiên đề hoá, hạt nhân của thế giới toán-lý Như đã trình bày ở trên, thế giới các thực thể (entité) toán học phải là một thế giới có vô tận phần tử, trong khi thế giới diễn ngôn toán học là hữu hạn. Để cho thực rõ ràng xin hình dung một "siêu thế giới" gồm bốn tầng "thế giới": tầng dưới cùng là thế giới hiện thực; hai tầng giữa là thế giới (vô tận) của các thực thể và cấu trúc toán học (xin gọi tắt là thế giới toán) bên trên, và thế giới vật lý học bên dưới, dùng toán học như một công cụ để mô hình hoá những sự vật và hiện tượng trong thế giới hiện thực (xin gọi chung cả hai tầng này là thế giới toán-lý); tầng trên cùng là thế giới hữu hạn của diễn ngôn toán học (xin gọi tắt là thế giới diễn ngôn toán, bao gồm thế giới diễn ngôn lôgích). Bảng A tóm tắt các "thế giới" khác nhau của khoa học luận, mà sự hình thành có thể mường tượng như những vòng xoáy ốc theo trục nằm ngang, đi từ hiện thực (cụ thể) đến mô hình (trừu tượng) rồi trở về hiện thực... đồng thời phát triển rộng hơn và phức tạp hơn với thời gian theo hướng từ trái sang phải. Vòng xoáy giữa cụ thể và trừu tượng này là một vận động không ngừng của trí tuệ loài người, có thể giản lược thành ba giai đoạn lớn : thời tiền sử bắt đầu với sự xuất hiện của ngôn ngữ, rồi tới thời bùng nổ tư duy, từ khoảng một thiên niên kỷ trước công nguyên cho tới khi xuất hiện khoa học hiện đại, và cuối cùng là thời đại khoa học, từ đầu thế kỷ 17 cho tới nay: Bảng A: Mô hình hoá và hiện thực Thế giới toán có vô tận tập hợp, và có những tập hợp có vô tận phần tử, do đó không còn có thể tin tưởng vào sự đồng thuận giữa trực giác của mọi người để xác định một thực thể toán học là có trong hay không có trong một tập hợp (đồng nghĩa với việc nó mang một đặc tính nào đó). Người ta chỉ còn cách duy nhất là dựa trên nguyên lý sau : nếu một mệnh đề lôgích nào suy ra được từ các tiên đề của một lý thuyết toán thì mệnh đề đó là đúng. Việc chỉ cần lý luận trên các tiên đề cho phép người ta đồng thuận trên các kết quả đạt được mà không cần cùng nhau kiểm qua tất cả các sự vật trong một thế giới có thể vô tận. Dĩ nhiên nói chung phần lớn các tiên đề đã được đúc kết từ những tính chất hiển nhiên trong thế giới hữu hạn, mà dưới đây ta sẽ xem vài thí dụ. Tiên đề tập hợp rỗng : Có một tập hợp rỗng, không chứa một phần tử nào 15. Tiên đề ngoại diên – axiome d'extensionnalité yêu cầu rằng : nếu hai tập hợp có cùng những phần tử như nhau thì hai tập hợp đó là một. Tiên đề này cũng có hậu quả là mọi phần tử của tập hợp đều phân biệt được với nhau. Tiên đề có đôi – axiome de la paire : nếu có a và có b thì cũng có tập hợp {a,b} chứa cả a lẫn b và không chứa gì khác. (Xin dùng "{" và "}" để chỉ một tập hợp với các phần tử bên trong). Tiên đề gộp lại được – axiome de la réunion : với bất cứ hai tập hợp bất kỳ nào cũng có một tập hợp mà những phần tử của nó gồm, và chỉ gồm, các phần tử của hai tập hợp đầu. Tới đây ta thử xem, với 4 tiên đề vừa liệt kê, thế giới toán đã có thể chứa những gì ? Trước hết thế giới toán có ít nhất một thành viên : đó là tập hợp rỗng Ø (bây giờ ta đặt tên cho nó là số không), Ø ≡ 0 (ký hiệu ≡ có nghĩa hai vế phải trái là hai tên khác nhau của cùng một thứ) Sau đó : có một tập hợp {Ø} (tên của nó là số một), đó là trường hợp đặc biệt của tiên đề có đôi, khi cả a và b đều là Ø, khi đó theo tiên đề ngoại diên thì {Ø} chỉ có 1 phần tử. Số một là tên của tập hợp chứa số không, 1 ≡ {Ø} ≡ {0}. Vậy, lại theo tiên đề có đôi, có một tập hợp {Ø, {Ø}} ≡ {0,1}, chứa hai phần tử : số không và số một. Tên của nó là số hai. Như thế cũng lại có thêm một tập hợp nữa chứa số một và số hai {1,2}. Bây giờ sử dụng tiên đề gộp lại được với {1,2} và {0}, ta có một tập hợp chứa ba phần tử, là số không, số một và số hai. Tên nó là số ba. Tới đây ta nhận ra bằng cách nào các nhà luận lý học đã định nghĩa được các con số không, số một, số hai, ba, bốn... tới lớn bao nhiêu cũng được 16.Trong khuôn khổ bài này không thể trình bày tiếp tục làm thế nào, và với những tiên đề phụ trội cần thiết nào, người ta đã thiết lập được một thế giới toán có khả năng mô hình hoá những bài toán đơn giản của đời thường, như số phân, số lẻ, số âm... vòng tròn, đường thẳng... và cả những thực thể vật lý rất phức tạp như những không gian có nhiều chiều, những không gian "cong"... Thế giới toán đó đầy đặc vô tận những phần tử và những tập hợp, trong đó có một "cái không" duy nhất tên là Ø. Một miền của không gian vectơ toán học ba chiều có thể dùng để làm mô hình cho một khoảng không gian vật lý trong đó người ta có thể tin là "không có thực thể vật chất nào". Điều này đúng hay không đúng đều có nghĩa, nhưng miền không gian vectơ toán học tương ứng với khoảng không gian vật lý ấy chứa vô tận và đầy đặc những điểm toạ độ, thực sự là có trong thế giới toán.2.3. Con số không trong Toán học Toán học là một ngôn ngữ công cụ dùng để viết ra những quy luật vật lý. Nhưng nếu chỉ có thế thì vẫn còn hoàn toàn trừu tượng, "chân vẫn chưa chạm đất"; việc áp dụng toán học vào đời sống cuối cùng phải thoả mãn hai yêu cầu, thứ nhất là để trực tiếp biết về một đại lượng nào đó của một sự vật nào đó qua đo lường, thí dụ như chiều dài, chiều rộng, chiều cao, của một bể nước hình khối vuông góc ; yêu cầu thứ hai cũng là để biết, một cách gián tiếp, về một đại lượng nào đó qua tính toán từ những đại lượng đo lường được, bằng cách dùng những công thức vật lý thích hợp, thí dụ như để tính toán xem bể nước ấy chứa được bao nhiêu nước, bằng cách tính thể tích của nó qua phép tính nhân ba cạnh của bể nước với nhau. Trong vai trò đo lường, con số không không có ý nghĩa gì đặc biệt. Nó chỉ là cái mốc được chọn theo quy ước. Khi một đầu của chiều ngang (chẳng hạn) được áp vào vạch không của cái thước thì ở đầu kia người ta đọc được ngay giá trị của chiều ngang của bể nước. Trong vai trò tính toán thì con số không quả có những "ứng xử" khác các con số khác. Trong tính cộng thì nó là một phần tử trung lập : a + 0 = a, và a - a = 0 ; ở đây vai trò "tập hợp rỗng" vẫn tồn tại, nhưng hơi khác với khái niệm rất tổng quát "rỗng tức là không chứa gì cả" của ngôn ngữ lôgích học. Khi đem toán học áp dụng trên thế giới hiện thực, thì tuỳ khung cảnh áp dụng mà số không mô hình hoá một cái "không có" cụ thể hơn. Nếu a (khác 0) có thể là ba hay là bảy hòn sỏi thì 0 bây giờ là "không có hòn sỏi nào". Trong tính nhân ta lại có a*0 = 0. Vì a*x là sự mô hình hoá "x lần a", nên với bất kỳ đại lượng a nào, 0 lần a cũng là không. Nhưng điều cần để ý ở đây là : nhìn trên khía cạnh thao tác trong diễn ngôn toán thì chỉ cần định nghĩa +0 và *0 như hai hàm số đặc biệt, có các tính chất nói trên. Định nghĩa này vì độc lập với mọi áp dụng, nên không thể và không cần diễn tả ý nghĩa cụ thể của nó, ý nghĩa cụ thể chỉ có khi đem toán học áp dụng vào những trường hợp cụ thể. Cũng không thể quên vai trò của con số không trong việc hình thành hệ thống đếm thập phân. Những công trình khảo cổ cho biết có khả năng lớn là cách đếm thập phân như hiện nay chúng ta dùng đến từ Ấn Độ, niên đại vào khoảng năm -300. Trước đó, một nền văn minh vĩ đại như nền văn minh Babylone cũng đã đến gần thành công này từ khoảng -1800, nhưng không có được bước nhảy quyết định: họ có một hệ thống đếm theo cơ số 60 (một lần 10 và một lần 6), nhưng thật kỳ lạ: thay vì sáng tạo ra số không, họ chỉ để trống một khoảng cách. Người Hy Lạp cổ đại, với nền khoa học và triết học sâu sắc đồ sộ là thế, cũng không có số không. Người Trung Quốc với bàn toán tiện lợi một cách thần kỳ, cũng vậy. Tại sao sáng tạo số không khó khăn như thế ? Hiển nhiên là vào thời cổ đại ký hiệu chỉ được dùng để đại biểu cho những gì có thực trong đời thường, không có một ký hiệu nào đại diện cho cái "không có gì" vì ngay cả cái "không có gì" cũng là cái không ai nghĩ tới. 3. "Chân không" trong Vật lý học 3.1. Truyền thống Hy Lạp Có thể định nghĩa "chân không" 17 là đặc tính của một vùng không gian nào đó, mà trong đó tuyệt đối "không có gì". Tại Hy Lạp cổ đại, hai bậc thầy vĩ đại là Platon và Aristote đều coi là "không có cái chân không", "tự nhiên ghê tởm chân không"... cái chân không là không thể hiện hữu, quan niệm này thoát thai từ nhận định về vật chất, mỗi sự vật trong tự nhiên kể cả khí trời là bao gồm các thể chất (substance) liên tục, có thể rất cứng rắn hoặc rất mềm dẻo, chia nhỏ được mãi mãi, và ở vùng nào trong không gian cũng phải có một thể chất nào đó. Điều này đi ngược hẳn lại quan điểm của Leucipe và Democrite: sự vật do các nguyên tử cấu thành, nguyên tử, theo định nghĩa là rời rạc, tuyệt đối cứng rắn, không thể chia cắt, vậy để vật chất có thể biến chuyển được thì các nguyên tử phải chìm trong một môi trường "không có gì". Cho nên trường phái nguyên tử cũng chủ trương có chân không. Hai luồng tư tưởng hoàn toàn tư biện và hoàn toàn trái ngược nhau này tranh luận tự do, nhưng rồi tới thời Trung cổ thì ý tưởng nguyên tử rơi vào quên lãng trong vòng hơn một nghìn năm, cùng với nó là khái niệm chân không. 3.2. Từ Galilei tới Newton Đó là thời kỳ trước cuộc cách mạng khoa học mà người mở đường tiêu biểu là Galilei. Galilei cho rằng sự ghê tởm chân không của tự nhiên là có giới hạn, và giới hạn đó có thể đo được bằng một cột nước cao khoảng 10 m, quy luật này do ông phát hiện khi quan sát hiện tượng những máy hút nước bằng pít-tông không thể hút nước cao hơn thế, vì khi đó trong pít-tông tự nhiên hiện ra một khoảng "chân không" ở bên trên cột nước. Người thư ký của Galilei, Torricelli (1608-1647) năm 1643 nảy ra sáng kiến dùng cột thuỷ ngân thay cho cột nước, và thấy rằng sau khi tạo ra chân không thì áp suất của cột nước và cột thuỷ ngân ngang nhau. Ông giải thích chiều cao của cột thuỷ ngân bằng sức đẩy thuỷ ngân lên cao do sức ép của không khí trong khí quyển (đặt cơ sở cho phong vũ biểu Torricelli). Khái niệm "tự nhiên ghê tởm chân không, nhưng có giới hạn" hay khái niệm "sức hút của chân không" không còn cần thiết nữa, chân không là một trạng thái bình thường của tự nhiên, cũng như vật chất. Thuyết của Torricelli được Pascal (1623-1662) chứng minh hùng hồn bằng cuộc thí nghiệm nổi tiếng năm 1648 khi đo nhiều lần áp suất khí quyển từ dưới chân núi Puy de Dôme lên đến trên cao. Từ đó phe "bình thường hoá chân không" bắt đầu thắng thế, nhưng cuộc tranh luận với phe "chân không = hư vô = không thể hiện hữu" còn tiếp tục lâu dài, như chúng ta đã thấy với Descartes và Leibniz 14. Phải đến Newton (1642-1727) với quy luật vạn vật hấp dẫn thì trong thế kỷ thứ 18 mới hình thành một mô hình vũ trụ hoàn chỉnh trong đó vật chất quy tụ thành các ngôi sao, mặt trời và các hành tinh vận động trong một không gian cố định, vô tận, trống rỗng, và nhất là đo đạc được trong hệ thống toạ độ của Descartes. Ngoài những khoảng không gian chứa vật chất là chân không. Như vậy, phía ngoài trái đất, và bầu khí quyển bao bọc nó, chủ yếu là chân không.Mô hình này, do sự hoàn chỉnh của nó, được đánh đồng với thế giới hiện thực một cách vô thức, vũ trụ là như thế. Thế nhưng, nếu theo đúng định nghĩa "chân không" là cái nằm trong một khoảng không gian trong đó "không có gì cả", thì phải đặt câu hỏi : vậy trong vũ trụ chỉ có vật chất thôi sao ? Trong các thế kỷ 17 và 18 các bác học khi khảo sát thế giới vật chất đã gặp những khái niệm / hiện tượng không dễ quy về vật chất một cách hiển nhiên, nếu không muốn nói là hiển nhiên không quy về vật chất được : ánh sáng và năng lượng. Cho nên nếu người ta vẫn chấp nhận khái niệm chân không là rất hữu ích để quan niệm về một môi trường "có trước", như một sân khấu trong đó có vật chất vận động cũng như có ánh sáng truyền qua, thì cũng không thể nói dứt khoát một khoảng không gian trong đời thường là "không có gì cả" khi nó không chứa vật chất. Newton cho rằng ánh sáng cũng là một thứ hạt tương tự như vật chất; Huyghens lại cho rằng ánh sáng là sóng, và tương tự như sóng nước hay sóng âm thanh, nó không có bản chất riêng, mà chỉ là dao động của môi trường, do đó vũ trụ phải chìm trong một chất gọi là ête (éther), môi trường qua đó ánh sáng được truyền đi. 3.3. Khủng hoảng Vấn đề còn để ngỏ cho đến đầu thế kỷ 19 khi những nghiên cứu về ánh sáng của Young và Fresnel, kế thừa những công trình của Huyghens, giải thích được gần như toàn bộ các hiện tượng của ánh sáng. Trong thế kỷ 19 trường phái ête thắng thế, và như vậy không hề có "chân không". Nhưng ête vẫn là một cái gì rất lạ kỳ, vừa tuyệt đối "trong suốt", hoàn toàn không cản trở sự vận động của vật chất, vừa phải tuyệt đối "cứng rắn" để có thể truyền đi "tức thời" và với hiệu suất 100% trọng trường và năng lượng, và không ai làm được một thử nghiệm nào có khả năng trực tiếp hay gián tiếp phát hiện ra gì thêm về ête cả. Đến cuối thể kỷ 19, Maxwell thiết lập một phương trình truyền sóng duy nhất cho điện từ và cho ánh sáng, vừa thống nhất hai hiện tượng này, vừa cho thấy đây là một hình thức sóng mới, có thể được mô tả một cách hoàn toàn độc lập với mọi môi giới. Tiếp theo đó là thí nghiệm của Michelson nhằm tìm ête qua chuyển động của trái đất, mà kết quả là phủ định : vận tốc ánh sáng không thay đổi, dù được đo theo chiều chuyển động của trái đất hay ngược lại; trong khi nếu ánh sáng cần ête để truyền đi, và nếu trái đất bay quanh mặt trời trong vũ trụ thì đáng nhẽ kết quả phải khác, theo những nguyên lý của Newton. Khủng hoảng. Và như chúng ta đã biết, đầu thế kỷ 20 hai lý thuyết vật lý mới đã xuất hiện, mang lại những giải thích thoả đáng cho rất nhiều hiện tượng mà trước nay chưa giải thích được, do đó cũng mang lại rất nhiều ứng dụng hiệu quả trong đời sống... Đó là TTĐ và CHLT mà chắc độc giả đã quen thuộc với các khái niệm 18. Riêng về khái niệm chân không, hai thuyết này không thống nhất. 3.4. Einstein và Thuyết tương đối TTĐ ràng buộc thời gian, không gian và vật chất với nhau trong một mô hình toán học theo đó cấu trúc của vũ trụ ở mỗi điểm cục bộ có thể được mô tả gần đúng như một không gian ba chiều cổ điển, với chiều thứ tư là thời gian, nhưng toàn bộ vũ trụ thì không còn có thể được mô hình hoá với không gian ba chiều độc lập với thời gian nữa. Thời gian phụ thuộc vào vị trí và vận tốc của người (hay thiết bị quan sát) đang chuyển động, và không gian thì bị "uốn cong" theo sự hiện diện của các vật thể trong vũ trụ. TTĐ có hai bước phát triển : TTĐ hẹp khởi đi từ hai tiên đề : 1) tính tương đối của các hệ quy chiếu chuyển động thẳng đều với nhau – với ý nghĩa chính xác của chữ "tương đối" là các quy luật vật lý phải hoàn toàn như nhau trong các hệ quy chiếu này – và 2) vận tốc ánh sáng là hằng số trong tất cả các hệ quy chiếu 19. Từ đó suy ra công thức chuyển hoá vật chất - năng lượng E = mc2 lừng danh, và phát hiện không gian cũng như thời gian đều không tuyệt đối 20. Không gian và thời gian trở nên không độc lập với nhau, mà chỉ tồn tại như một dạng hợp nhất mô tả được bằng không-thời-gian của Minkowski 21. Nhưng TTĐ hẹp vẫn giữ một không-thời-gian Minkowski phẳng, nó là một tiệm cận gần đúng của TTĐ rộng trong trường hợp trọng trường rất nhỏ như tại những nơi trong vũ trụ cách xa các thiên thể, hoặc trong các bài toán mà hấp lực của trọng trường là không đáng kể so với các lực khác. TTĐ rộng "mở rộng" TTĐ hẹp theo nghĩa thuyết này khẳng định tính tương đối (vẫn theo nghĩa trên) của các hệ quy chiếu chuyển động bất kỳ. Để viết ra được những quy luật vật lý thống nhất trong mọi hệ quy chiếu như thế, Einstein đã phải nghiên cứu và tự mình phát triển toán học trong nhiều năm, cuối cùng ông đã đi tới một mô hình vũ trụ theo hình học phi Euclide kiểu Riemann. Chúng ta đã biết hình học trên bề mặt trái đất không phải là hình học phẳng mà là một hình học của bề mặt hình cầu có độ cong, mặt phẳng chỉ là tiệm cận của mặt cầu khi độ cong không đáng kể. Tương tự như vậy, trong vũ trụ của TTĐ rộng, thế giới cục bộ được diễn tả một cách tiệm cận như không-thời-gian bốn chiều Minkowski, nhưng khi nhìn tổng thể thì không-thời-gian của vũ trụ có độ cong, và lực hấp dẫn vũ trụ của Newton không gì khác hơn là độ cong của không-thời-gian theo hình học Riemann nói trên, và bài toán cơ học rốt cục được chuyển thành bài toán hình học thuần túy. Để dễ tưởng tượng ta giả thử không gian chỉ có hai chiều thôi, như thế ở mỗi lúc không gian đó như một bề mặt không bằng phẳng có các khối lượng (dẹp, vì hai chiều) và khoảng trống, có đồi núi và lũng sâu, nơi mật độ vật chất càng cao thì bề mặt càng lún sâu, hình dạng của bề mặt không cố định với thời gian mà liên tục trồi lên sụt xuống, uốn lượn, cùng với sự di chuyển của các khối lượng. Trong "không gian" đó có một con đường ngắn nhất giữa hai điểm nhất định, gọi là đường trắc địa (ligne géodésique) – đó là cái tương đương với đường thẳng nhưng không phải là đường thẳng vì ta giả định không gian hai chiều nên nó phải được vẽ lên bề mặt cao thấp quanh co – và nếu không có lực nào tác động lên nó, mọi vật đều sẽ đi theo một đường trắc địa. Với không gian "cong" ba chiều cũng thế, ta có thể tưởng tượng một vùng không gian ở đó trọng trường rất mạnh so với khoảng không gian xa hơn, thì đấy là một "lũng sâu" trên "bề mặt ba chiều" của không gian cong; và "đỉnh đồi" là một nơi mà trọng trường bằng không. TTĐ giải quyết sự chuyển động của sóng điện từ (bao gồm ánh sáng) như là chạy theo một đường trắc địa một cách tự nhiên, không cần môi trường nào khác. TTĐ cũng giải quyết bản chất của năng lượng vì vật chất là năng lượng, và khi vật chất phát ra sóng điện từ thì nó cũng nhẹ bớt, sóng điện từ không có trọng lượng nhưng có năng lượng do vật chất mất đi chuyển hoá thành. Vậy có thể nói trong TTĐ vẫn có chân không, đó là một khoảng không "tối đen" không có sóng điện từ, vì ngoài vật chất và sóng điện từ ra thì "không có gì khác", TTĐ đã giữ lại chân không của vật lý Newton và còn thuần khiết hoá bằng cách giải quyết hai vướng mắc cơ bản như đã nói trên. TTĐ khi áp dụng trong tầm vĩ mô của vũ trụ (và cả tầm trung mô của các vật thể ở tầm con người nhận thức được) là rất chính xác, vì ở kích cỡ đó lực hấp dẫn vũ trụ là quan trọng nhất, và cho đến nay không có phản nghiệm (réfutation, theo nghĩa của Popper) nào. Không-thời-gian của mô hình tính toán trong TTĐ có thể được đồng hoá với không-thời-gian đời thường một cách (rất) gần đúng ở kích cỡ cục bộ vi mô và trung mô, vì cũng chỉ có bốn chiều cơ bản, vận động trong đó là sóng điện từ và vật chất. Nhưng xin nhấn mạnh, không-thời-gian không "có trước", hay độc lập, với vật chất. Tất cả là một thể thống nhất, nếu không có vật chất thì cũng không có không-thời-gian. 3.5. Cơ học lượng tử CHLT được áp dụng một cách rộng khắp và rất chính xác cho những vật thể có kích cỡ vi mô, "hạ nguyên tử" (và hiện nay có thể lên đến kích cỡ phân tử), tuy nhiên như thế không có nghĩa ảnh hưởng của nó không có gì trên kích cỡ lớn hơn. Ngược lại, CHLT là cơ sở lý thuyết để hiểu sâu sắc hơn ngành hoá học và khoa học vật liệu, từ đó đã nảy sinh một cuộc cách mạng kỹ thuật từ nửa sau thế kỷ 20 cho đến nay, với bán dẫn, sợi quang học, lade, mạch tổ hợp ngày càng nhỏ với khả năng tính toán ngày càng lớn... như ta đã biết. Ở kích cỡ hạ nguyên tử thì lực vạn vật hấp dẫn là rất nhỏ so với ba loại lực khác mà người ta đã phát hiện là lực điện từ (1042 lần mạnh hơn, lực duy nhất đo được ở kích cỡ đời thường), lực tương tác yếu và lực tương tác mạnh, hai lực này chỉ có ý nghĩa bên trong hạt nhân các nguyên tử, và ở kích cỡ đó đến lượt lực điện từ cũng trở thành không đáng kể. Sự khác biệt về kích cỡ này giải thích một phần nào những khó khăn nếu người ta muốn thực hiện một thí nghiệm có cả vai trò của TTĐ rộng lẫn CHLT. Khi người ta muốn đo một cách có ý nghĩa các lực điện từ, lực tương tác yếu và mạnh thì chỉ có thể coi trọng trường bằng không, nghĩa là làm mô hình tính toán trong một không-thời-gian "phẳng". Có lẽ phần nào vì thế mà đứng về mặt lý thuyết hiện nay người ta mới chỉ kết hợp được CHLT và TTĐ hẹp. Kết hợp này vừa rất cần thiết vừa được thực nghiệm hỗ trợ, vì các hạt lượng tử có thể xuất hiện với vận tốc rất cao. Những nghiên cứu cơ bản của vật lý và toán học hiện nay là nhằm thống nhất vật lý lượng tử và TTĐ rộng. Cũng như những thí nghiệm vật lý khác, một thí nghiệm CHLT là một tình huống khách quan trong đời thường mà những nhiễu loạn ngoài ý muốn được thanh lọc (điều kiện để thí nghiệm có thể được lập lại). Người ta phải xác định rõ tình huống thí nghiệm một cách rất tổng thể ở điểm khởi đầu, mà những tham số được đem vào mô hình tính toán, sau đó kiểm nghiệm kết quả bằng đo lường trong một khung cảnh cũng được xác định rõ một cách tổng thể. Tuy nhiên, thí nghiệm CHLT có một số đặc điểm rất khác với các thí nghiệm cổ điển, đó là : Sự phân bố lượng tử trong thời gian và không gian ở điểm khởi đầu và điểm kết thúc của thí nghiệm đều chỉ có thể là một sự phân bố có tính xác suất. Ở giữa hai thời điểm đó là sự vận động thuần tuý trong mô hình, một cách tất định, của sóng xác suất, và trong mô hình chỉ có sóng xác suất. Một trong những kết quả của phương trình sóng của CHLT (phương trình Schrödinger, được Dirac mở rộng cho TTĐ hẹp) có nghĩa như sau : bình phương của biên độ sóng ở một điểm trong không gian là xác suất xuất hiện của lượng tử ở điểm đó. Đây là nguyên uỷ của sự diễn tả lượng tử như có lưỡng tính hạt và sóng. Trong cơ học cổ điển người ta không nghi ngờ gì về khả năng có thể phóng chiếu một cách liên tục mô hình của vũ trụ vào vũ trụ của đời thường (và ngược lại). Giả thử hai thí nghiệm được chuẩn bị với tình huống khởi đầu giống nhau ở thời điểm T0. Ở lần thí nghiệm đầu kết quả được đo vào thời điểm T2 là A. Trong thí nghiệm thứ nhì người ta ta đo một kết quả trung gian ở thời điểm T1 với T0 < T1 < T2 , và sau đó kết quả đo được tại T2 là A'. Trong vật lý cổ điển (kể cả TTĐ) hai kết quả A và A' rất gần nhau, có thể coi sự khác biệt là không đáng kể, do những sai số của điều kiện thí nghiệm và sự nhiễu loạn do đo lường ở thời điểm T1. Trong CHLT thì không như thế. Không phải chỉ vì sự nhiễu loạn do đo lường là rất mạnh trên lượng tử, mà còn vì những lý do khác sâu sắc hơn 22. Hai thí nghiệm là hoàn toàn khác nhau, có khi một bên làm tỏ rõ tính chất hạt, và một bên làm tỏ rõ tính chất sóng. Trong CHLT không có sự phóng chiếu liên tục giữa mô hình và hiện thực, không (chưa ?) thể nói lượng tử là gì trong khoảng thời gian giữa hai đo lường, ngoài việc có thể tính toán với nó để tiên đoán những kết quả đo lường ở những thời điểm rời rạc. Mà kỳ lạ thay, những tiên đoán đó lại vô cùng chính xác. Mô hình dùng để tính toán trở nên rất phức tạp, khi được phát triển để dung hợp với TTĐ hẹp nó càng phức tạp hơn. Người ta sử dụng những không gian vectơ có vô tận chiều kích (dimensions), sử dụng một lý thuyết "trường lượng tử ", kết quả của sự lượng tử hoá lý thuyết trường cổ điển. Người ta sử dụng hai toán tử mới : "toán tử tạo sinh" (opérateur de création) và "toán tử huỷ diệt" (opérateur d' annihilation) để mô tả những tương tác giữa các lượng tử. Lý thuyết "trường lượng tử" hiện nay là lý thuyết nền tảng của "mô hình chuẩn" trong CHLT, đó là mô hình được sự đồng thuận của các nhà vật lý vì nó bao quát các kết quả lý thuyết và thực nghiệm tốt nhất cho đến nay, để từ đó nghiên cứu xa hơn, và một lý thuyết mới dù sao cũng sẽ phải dung hợp được mô hình chuẩn. Điểm xuất phát của CHLT là hiện tượng một vật thể chỉ trao đổi năng lượng với bên ngoài qua từng đơn vị tối thiểu E = hλ, trong đó λ là tần số dao động của sóng điện từ mà nó phát ra. Vì h (hằng số planck) rất nhỏ nên trước cuối thế kỷ 19 hiện tượng này không được khám phá. h rất nhỏ nhưng hậu quả thật to lớn : ở tầng tế vi nhất của vật chất người ta gặp sự rời rạc. Cho đến nay sự rời rạc, sự bất định, và sự ngẫu nhiên, được coi là ba tính chất cơ bản của thế giới lượng tử. Xin thêm là công thức E = hλ tự nó đã biểu thị lưỡng tính sóng - hạt của lượng tử, vì tần số là một biểu hiện của sóng, và năng lượng phát ra thành từng gói cố định là biểu hiện của hạt.Những tiên đề làm nảy sinh CHLT bắt nguồn từ những hiện tượng của đời thường quan sát được ở kích cỡ vi mô, lý thuyết – gồm mô hình tính toán – được sáng tạo để giải thích các hiện tượng đó. Nhưng đến lượt nó các mô hình này đã tiên đoán nhiều vấn đề rất kỳ lạ, rất khó chấp nhận vì đi ngược lại với trực giác con người cũng như với những niềm tin tất định luận đã hằn sâu trong lý trí qua gần ba thế kỷ áp dụng vật lý học cổ điển. Đại đa số nhưng chưa phải tất cả các tiên đoán lần lượt được thực nghiệm khẳng định, với độ chính xác rất cao. Những điều ấy, cộng với việc cần dung hợp TTĐ rộng và CHLT trong một nền vật lý học tương lai 23, là những chủ đề còn đang được nghiên cứu. Dòng "bản thể" trong Bảng B muốn nêu ra khung cảnh của những bàn cãi hiện nay về những diễn tả khác nhau của CHLT. Theo cách hiểu chủ quan của người viết bài này, những diễn tả đó là những cố gắng sáng tạo một loại mô hình nằm giữa mô hình lý thuyết dùng để tính toán và những hiện tượng đời thường, một vũ trụ lý tưởng – mà những tham số được dùng trong lý thuyết và thực nghiệm – bao quát mọi hiện tượng của vũ trụ đời thường như sự tiệm cận gần đúng của nó. Một vũ trụ lý tưởng như thế có thể được gọi là bản thể. Khung "bản thể" của mô hình chuẩn hiện nay còn là một màu xám trống rỗng, vì các nhà vật lý tuy đồng ý với nhau khi áp dụng CHLT, chưa đồng ý với nhau về cách "có thể hiểu" một vũ trụ khách quan của CHLT. Bảng B : Hiện tại và những vấn đề tương lai Những đề nghị khác nhau về bản thể có thể được coi là những ý tưởng gợi hứng cho việc phát triển nghiên cứu khoa học của mỗi trường phái, nhưng dù sao sự phát triển cũng vẫn phải theo phương pháp khoa học, đó là bằng cách lập hệ thống tiên đề diễn dịch, tính toán, và thực nghiệm. Ở trên viết "có thể hiểu" vì lý do đó, vì chỉ "hiểu được" thế nào là bản thể, trong nghĩa một vũ trụ khách quan, khi nó là duy nhất và bao quát mọi hiện tượng. Khi đó với thời gian, với sự trợ giúp của giáo dục, truyền thông, và nhất là của những ứng dụng diệu kỳ có ích cho cuộc sống mỗi người, thì vũ trụ lý tưởng đó do khoa học diễn tả sẽ trở thành vũ trụ đời thường của mọi người. Và chúng ta sẽ trở về một thời hoàng kim như thời hoàng kim của vật lý cổ điển, thời mà người ta không có nghi ngờ gì về bản thể của vũ trụ, "nó là như thế "; không nên quên rằng vũ trụ của Copernic-Galilei-Kepler-Newton đã cần cả thế kỷ để trở thành sự "hiển nhiên" phổ quát. Đây là nói như những người mang niềm tin "có thể hiểu". Có những nhà vật lý học lớn cho rằng vĩnh viễn con người sẽ không hiểu được "bản thể". Nhưng dù sao đi nữa, ngoài lưỡng tính hạt và sóng, ít nhất có thêm hai hiện tượng chúng ta phải chấp nhận. Một là hiện tượng "không cục bộ" vô cùng nhức nhối, theo đó hai lượng tử được tạo thành từ một biến cố nào đó sẽ "vương vấn" với nhau dù đã xa nhau sau một khoảng thời gian. Vương vấn theo nghĩa nếu ta đo trị số của một đại lượng nào đó của lượng tử thứ nhất – một điều bí hiểm nữa là lượng tử chỉ có trị số đó một cách ngẫu nhiên khi được đo – thì lượng tử thứ hai lập tức sẽ mang một trị số của đại lượng ấy, có tương quan (correlation) mật thiết với trị số thứ nhất (khi được đo). Lập tức ở đây không có nghĩa chúng "thông tin" rất nhanh được cho nhau, mà ở đây cách hiểu giản dị nhất là phải coi chúng như một thực thể duy nhất, tuy chúng vẫn ở hai vị trí khác nhau trong không gian. Hiện tượng này không những đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm, mà người ta đã dùng nó trong một thủ thuật truyền tin để bảo đảm bí mật tuyệt đối. Và hai là "chân không" theo thuyết lượng tử không phải "không có gì". Nó hàm chứa năng lượng 24, mật độ năng lượng của chân không đã được tính toán. Hiệu ứng Casimir là một tiên đoán về tác động có thực của năng lượng này trên vũ trụ đời thường, hiệu ứng này cũng đã được thực nghiệm chứng minh là có. Vậy "chân không" theo CHLT là gì ? xin trích dẫn nhà vật lý học Phạm Xuân Yêm : "Chân không lượng tử được định nghĩa như trạng thái cơ bản tận cùng của vạn vật, nó vô hướng, trung hoà, mang năng lượng cực tiểu trong đó vật chất, tức là tất cả các trường lượng tử, bị loại bỏ hết." 25. Chỉ xin thêm là người ta đã đi đến khái niệm chân không lượng tử sau khi trải qua cả một thời kỳ xây dựng lý thuyết và thực nghiệm để kiểm chứng, nên chỉ có thể nắm bắt được khái niệm này trong toàn bộ khung cảnh của CHLT. Chẳng hạn như việc chân không lượng tử hàm chứa năng lượng chính là một hệ luận của nguyên lý bất định 25. 4. Tạm kết Tiền nhân nhiều khi có những trực giác kỳ diệu về thế giới và về nhận thức của con người. Trong các triết gia Á Đông hay Tây phương đều có những người như thế. Tuy nhiên nếu nhìn khuynh hướng chung thì có thể nói nhị nguyên là đặc điểm của tư tưởng Tây phương, phân biệt rõ thế giới ý tưởng và hạ giới, từ đó có ảnh hưởng đến sự phát triển của toán học như là ngôn ngữ của tự nhiên. Mặt khác tinh thần khoa học thực nghiệm – đã trở thành một sở hữu tư tưởng của cả loài người từ thế kỷ thứ 17 – là sự kết hợp của tinh thần thực dụng (mà ở đâu cũng có ít hay nhiều trong đời sống thực tế) và tinh thần trọng lý thuyết, vì thực nghiệm là so đọ giữa lý thuyết với quan sát hay đo lường. Do đó thiển nghĩ định lượng là một yếu tố nội tại của khoa học tự nhiên, kể cả về mặt lý thuyết. Một lý thuyết hay một quan niệm triết học về thực tại, nếu không có yếu tố định lượng thì chỉ có thể gọi là "tiền khoa học" mà thôi. Tiền khoa học ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa : đó có thể là một tư tưởng của thời kỳ trước thời kỳ khoa học hiện đại, và đó cũng có thể là một tư tưởng manh nha gợi hứng cho một lý thuyết khoa học chưa hoàn chỉnh vì chưa được mô hình hoá thành ngôn ngữ toán học với các tham số định lượng. Hai nghĩa này không loại trừ nhau. Sự sáng tạo luôn luôn hiếm có và bí ẩn, để sáng tạo một lý thuyết khoa học thì cảm hứng có thể đến từ bất kỳ đâu, kể cả cảm năng thẩm mỹ. Tuy nhiên có lẽ những ý tưởng sáng tạo không đến từ hư vô, những tư tưởng kỳ vĩ và phong phú của các tiền nhân Á Đông cũng như Tây phương là một nguồn cảm hứng lớn cho phép chúng ta hy vọng. Nhưng rồi mọi sự vẫn phải trở thành một lý thuyết vật lý, và với khoa học hiện đại thì lý thuyết đó, vì đã rời xa trực giác, chỉ có thể mang nặng tính hệ thống tiên đề - diễn dịch của luận lý học và toán học. Lấy hai chữ không và chân không làm thí dụ, chúng ta đã thấy ý nghĩa của chúng, mặc dù thoát thai từ những trực giác đầu tiên của loài người, đã biến chuyển tuỳ theo thời đại. Sự biến chuyển đó có thể nói là do hai nguyên nhân chủ yếu: thứ nhất, học thuật và sáng tạo luôn luôn cần một môi trường tự do tư tưởng, tranh luận hoà bình, có như vậy mới giàu ý tưởng và mới có thể cọ sát những ý tưởng khác nhau rất cơ bản, nảy sinh từ những niềm tin, những nền tảng văn hoá sâu thẳm, của những người thực sự bác học và yêu chân lý. Thứ hai, tư tưởng nào được chấp nhận hay không trong khoa học là tuỳ theo yêu cầu nội tại của khoa học trong từng thời kỳ. Để lấy một thí dụ của thời hiện đại, cuộc tranh luận không nhân nhượng suốt 30 năm về những bí ẩn của lượng tử giữa hai người khổng lồ đồng thời là hai người bạn như Einstein và Bohr, là một tấm gương tuyệt vời về văn hoá khoa học. Cuối cùng, khi một tư tưởng khoa học tương đồng với những tư tưởng cổ đại thì điều ấy có thể làm cho chúng ta sửng sốt và vui thú, tuy nhiên có lẽ không nên quên rằng những tư tưởng cổ đại đó là những tư tưởng tiền khoa học, mà sự phát triển thành một tư tưởng khoa học được đồng thuận rộng rãi là cả một quá trình gian khổ. Người viết tiểu luận này xin cảm tạ các nhà khoa học Nguyễn Mai Ninh, Nguyễn Ngọc Giao, Hà Dương Tường, Nguyễn Xuân Xanh và Phạm Xuân Yêm, đã đọc trước bản thảo, khích lệ, và cho những góp ý quý giá. Mọi sai lầm và thiếu sót hoàn toàn thuộc trách nhiệm của tác giả. Tháng 8.2007 Hà Dương Tuấn Chuyên gia công nghệ thông tin Sách tham khảo : (ngoài các trang mạng đã ghi chú) Dẫn trong bài (theo thứ tự xuất hiện): Nguyễn Xuân Xanh, Einstein, nxb Tổng Hợp, tp HCM, 2007 Fung Yu Lan, A short story of Chinese philosophy, The free press, NewYork, U.S.A. 1948, 1976. Đây là bản rút gọn của tác phẩm tiếng Trung Quốc, A History of Chinese philosophy, nxb Princeton university press, 1983. do Derk Bodde lược dịch. Ông cũng là dịch giả nguyên bản đầy đủ mà người viết vì không biết Trung văn nên không thể dẫn bản nguồn. Tác phẩm lớn này có bản dịch tiếng Việt : Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc, bản dịch của Lê Anh Minh, nxb Khoa học Xã hội, 2007. Trang quy chiếu ở đây do một người bạn tìm hộ. Maurice Eduard Berthon, Les grands concepts scientifiques et leur évolution, nxb Publication Universitaire, Paris 2000. Các sách tham khảo khác : Richard Feynman : La Nature de la physique, nxb Seuil, coll. Points Sciences, Paris 1980, bản dịch tiếng Pháp này tập hợp 7 bài nói chuyện tổng quát về vật lý học cho sinh viên tại đại học Cornell, Hoa Kỳ, 1964; có thêm bài diễn từ nhận giải Nobel. G. Cohen-Tannoudji & M. Spiro : La matière-espace-temps, nxb Fayard, coll. folio, Paris 1986,1990. Bertrand Russell : ABC of relativity, nxb Routledge, 1993 (in lần đầu 1925). Nhiều tác giả : Demain la physique, nxb Odile Jacob, 2004, tác phẩm phổ biến khoa học do 10 bác học đương đại người Pháp viết, với sự bảo trợ của Hàn lâm viện Khoa học. Nguyễn Quang Riệu : Vũ trụ, phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại, nxb Giáo dục, 1995 Trịnh Xuân Thuận : La mélodie secrète, nxb Fayard, 1988, bản dịch tiếng việt của Phạm Xuân Thiều : Giai điệu bí ẩn. Và con người đã tạo ra vũ trụ, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, 2001, Mathieu Ricard & Trịnh xuân Thuận : Cái vô hạn trong lòng bàn tay, bản dịch của Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ, nxb Trẻ - Tia sáng, 2005. Nguyên bản : L'infini dans la paume de la main, nxb Robert Lafont, Paris, 2000. Đối thoại hiếm có giữa một tu sĩ Phật giáo vốn nghiên cứu sinh học và một nhà vật lý thiên văn học thấm nhuần đạo Phật. Chú thích 1 Xin giới hạn "khoa học tự nhiên" trong nghĩa rất hẹp của ba bộ môn: luận lý học hình thức, toán học và vật lý học. 2 Điều này được biểu lộ rất rõ trong những tranh luận về hiện tượng và bản thể của các nhà khoa học đã đặt nền tảng cho Cơ học lượng tử, thí dụ như để thiết lập "diễn giải Copenhagen"... nhưng đây là một chủ đề khác. 3 Nhân bài này xin đề nghị thay thế từ Đông phương bằng từ Á Đông để nói về vùng văn hoá Hoa-Ấn bằng nguồn gốc địa lý của nó. Nếu Tây phương tương đốikhông mơ hồ là vùng văn hoá gốc Hy Lạp - La Mã, và bây giờ bao gồm cả Hoa Kỳ... thì từ Đông phương (Orient) do "Tây phương" tạo ra và đuợc hiểu rất khác nhau tuỳ văn cảnh. 4 Có một số nhà vật lý học lớn, thí dụ như Eugene Wigner, giải Nobel vật lý 1963, đã từng khẳng định vai trò của ý thức trong sự vận động của vật chất. Nhưng sau khi ông đã nhận ra những sai lầm của mình thì những sai lầm đó vẫn tiếp tục gợi hứng cho nhiều người khác (nhận định đó của Wigner viết năm 1962, và năm 1973 ông đã tự bác bỏ điều ấy). xem http://philsci-archive.pitt.edu/archive/00001574/01/ReviewOfWigner'sWork.pdf . 5 Đó là hai câu đầu, hai câu sau là : Có, không, trăng đáy nước,/ Đừng mắc có cùng không. Do hoà thượng Thích Thanh Từ dịch từ bài kệ nổi tiếng của Từ Đạo Hạnh : Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không. Hữu không như thủy nguyệt, Vật trước hữu không không. Danh nhân phật giáo Việt Nam, Thích Thanh Từ, trích theo trang nhà Quảng Đức : http://www.quangduc.com/Danhnhanvn/91thiensuvietnam02.html 6 Để có thể có một ý niệm về vấn đề này, xin đọc chương 7, đọc kỹ hai đoạn 11&12 (tr. 174-224), đặc biệt hai trang 190-191 về diễn giải Copenhagen, trong tác phẩm : Einstein, Nguyễn Xuân Xanh, nxb Tổng Hợp, tp HCM, 2007. Đoạn này dài 50 trang, nhưng khó có thể viết sáng rõ hơn mà ngắn như thế. Không có con đường đế vương, dù chỉ để bước đầu nắm bắt vấn đề khoa học cốt lõi này, khi nó là chủ đề tranh luận suốt 30 năm giữa hai người khổng lồ Einstein và Bohr! 7 Học giả Trung Quốc Phùng Hữu Lan (1895-1990) khi bàn về chữ "lý" của Chu Hi (1130-1200), một trong hai bậc thầy của nho giáo (Trình-Chu) trong giai đoạn cuối, cho rằng ông rất gần Platon. Mỗi thực thể trên đời này đều có cái "lý" của nó, và cái "lý" đúng là tinh chất của thực thể, là cái xác định chức năng của nó và quan hệ của nó với các thực thể khác. Tuy nhiên có điểm khác biệt với Platon là Chu Hi coi cái "lý" như một thành tố gắn liền vào bên trong của thực thể, không phải nằm trong một thế giới khác như "thế giới ý tưởng" của Platon. Xem: Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc, bản dịch của Lê Anh Minh, nxb Khoa học Xã hội, 2007; tập II, tr. 601. Hoặc Fung Yu Lan, A short story of Chinese philosophy, The free press, NewYork, U.S.A. 1948, 1976. pp. 294-303. 8 Nhà khí tượng học Lorenz trong một hội nghị khoa học năm 1972 đã đọc tham luận có tựa là "Về khả năng dự báo : một con bướm vỗ cánh ở Brasil liệu có thể gây nên bão tố ở Texas ?". Sau khi ẩn dụ này bị giới truyền thông hiểu nhầm (tội lỗi của nó là quá đẹp) mặc dù đoạn đầu của cái tựa (ở đây được in đậm), do ban tổ chức hội nghị đặt, là rất rõ, ông đã lên tiếng cải chính nhưng không ăn thua gì, sai lầm có khi lan truyền nhanh hơn sự thật. xem : http://fr.wikipedia.org/wiki/Effet_papillon 9 Câu hỏi đặt ra là khi đó liệu có đi ngược lại định lý không đầy đủ của Godel ? xin để ngỏ vấn đề, nếu quả thực không-thời-gian là liên tục thì có lẽ như thế, vì một mô hình chứa cái liên tục hiện hữu (infinité réelle), như không gian toán học hiện nay, sẽ chứa những câu hỏi không có trả lời. Nhưng có thể là những câu hỏi loại đó không có liên hệ với hiện thực khách quan. Và biết đâu trong tương lai người ta sẽ không nghĩ rằng không-thời-gian là liên tục nữa ? Xin xem thêm các chú thích 12 và 23. 10 Bước đột phá là những công trình của Cantor (1848-1918). Nhà toán học lớn Hilbert (1862-1943), năm 1925, đã nói : "Không ai có thể đuổi chúng ta ra khỏi thiên đường mà Cantor đã sáng tạo cho chúng ta". Về vô cùng tận hiện hữu và câu trích dẫn này, xin xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Actual_infinity 11 Có thể có nhiều thuyết tập hợp tương đương, tuỳ theo sự lựa chọn tiên đề. 12 Định lý thứ hai của Godel cho biết là không thể chứng minh tính không mâu thuẫn của một hệ tiên đề - diễn dịch bằng bản thân nó, nếu nó có vô tận phần tử. Điều này làm phá sản hy vọng có thể xác lập sự tin tưởng tuyệt đối vào toán học qua lý luận, tuy nhiên sự tin tưởng vẫn đến qua những áp dụng rất hiệu quả của toán học. Người ta viết thứ hai để phân biệt với định lý nổi tiếng hơn, thường được gọi là "định lý của Godel" hay "định lý không đầy đủ của Godel", theo đó một hệ như trên luôn luôn hàm chứa những mệnh đề "bất định" (không thể chứng minh được là đúng, cũng không thể chứng minh được là sai). Về lôgích học và định lý Godel có thể xem giáo trình rất hay của John L. Bell : Notes on Formal Logic : http://publish.uwo.ca/~jbell/LNOTES.pdf 13 Ngoài những tiên đề "hồn nhiên" người ta thêm vào những tiên đề khác để bảo đảm thao tác được với khái niệm vô tận. 14 Leibniz là người đã phát biểu rành mạch "nguyên lý lý do đầy đủ (principe de la raison suffisante)", theo đó mọi sự vật đều phải có lý do đầy đủ để hiện hữu (mọi sự đều có nguyên nhân), "chân không" nếu thực là chân không thì không thể có lý do hiện hữu (chân không từ đâu ra ?); Descartes thì coi ngay cả việc nằm trong không gian cũng là một sự hiện hữu, vậy trong không gian không có "chân không"... Hai ông đều suy ra khái niệm "chân không" từ những đặc tính siêu hình của "hư vô" mà không thấy có thể có một định nghĩa "chân không" rất thực tế, đó là là đặc tính của một khoảng không trong đó "không có gì"; thế mà hình học giải tích của Descartes với không gian ba chiều cho phép quan niệm rất dễ dàng một điều như vậy. Sau Leibniz (và Kant), nguyên lý "lý do đầy đủ" được giảng dạy như một nguyên tắc của luận lý học, với niềm tin tuyệt đối vào tất định thuyết trong suốt hai thế kỷ 18 và 19 người ta không ai nghi ngờ điều này. Nhưng đến nay đã rõ đây chỉ là một niềm tin tiên thiên, không áp dụng được trong cơ học lượng tử. Niềm tin này còn đậm nét trong Einstein khi ông thốt lên "Thượng đế không chơi trò súc sắc". Và phải nói rằng nguyên lý này vẫn mãi mãi hữu ích trong học thuật nói chung, khi nó thúc đẩy người ta không bao giờ bằng lòng ngay với một khẳng định, mà phải đi tìm những lý do sâu xa của chúng. Về nguyên lý này và sự đánh giá của Kant, xem : http://lyc-sevres.ac-versailles.fr/p_leibniz_pub.synth.php 15 Để thí dụ, tiên đề này có thể viết như sau : . 16 Ở đây người ta không khỏi liên tưởng đến Đạo Đức kinh : Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. (câu 42). Và "Đạo" là gì : Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vạn hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. (câu 25). Những trích dẫn ở đây, cũng như câu đề từ, được chép từ bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, nguồn : wikisource. Có lẽ sự tương đồng không ngẫu nhiên. Cả hai đều muốn khởi đi từ cái "có" cơ bản nhất, và như thế chỉ có thể là "có" "cái không", và cái "có" này đến lượt nó lại là cái "có" thứ hai... Nhưng trong khi thuyết tập hợp chỉ là một mô hình của nhận thức, được xây dựng trầy trật để làm nền tảng cho toán học; thì Đạo Đức kinh có lẽ không phân biệt rõ nhận thức và bản thể, và cuốn sách nền tảng này dĩ nhiên không liên hệ gì đến toán học. 17 Các tiểu đoạn 3.1, 3.2 và 3.3 trong bài này đa phần được tóm tắt từ mục "Vide" (tr. 428-438) của tác phẩm "Les grands concepts scientifiques et leur évolution", Maurice Eduard Berthon, nxb Publication Universitaire, Paris 2000. 18 Đã có nhiều cuốn sách rất hay về những chủ đề này được viết bằng tiếng Việt hoặc dịch ra tiếng Việt, ngoài cuốn Einstein đã dẫn, còn có các tác phẩm của các nhà vật lý thiên văn học Nguyễn Quang Riệu và Trịnh Xuân Thuận. Xin xem phần sách tham khảo. Sách ngoại quốc thì không thể kể xiết. 19 Gallilei đã khẳng định sự tương đối giữa các hệ quy chiếu chuyển động thẳng đều với nhau, nhưng thời ông người ta chưa nghiên cứu về ánh sáng. Cơ học của Newton coi điều đó là đương nhiên. Nhưng sau Huyghens tất cả các nhà khoa học đều tin vào ête, như thế vô hình trung là bỏ ý tưởng tương đối vì xác định có một hệ quy chiếu "tuyệt đối" trong đó ête không di chuyển. Einstein là người đầu tiên khẳng định lại ý tưởng tương đối trong nghĩa trên. 20 Theo nghĩa kết quả việc đo lường không gian và thời gian trong hai hệ quy chiếu chuyển động với nhau là khác nhau. 21 Xem thêm Nguyễn Xuân Xanh, sách đã dẫn, tr. 50-57. 22 Đó là nguyên lý bất định của Heisenberg, theo đó sai số của vị trí nhân với sai số của xung lượng phải lớn hơn hằng số planck chia cho 2π. Đây là nguyên lý của thế giới vật chất chứ không phải giới hạn của khả năng đo lường, nói cách khác: càng muốn đo chính xác vị trí của một hạt, càng mất chính xác trên xung lượng của nó, và ngược lại. 23 "Theo tôi hiểu thì cái khó khăn để hoà hợp CHLT và TTĐ rộng là ở chỗ CHLT đã "lượng tử hoá" vật chất, trong khi không-thời-gian của TTĐ rộng hãy còn liên tục. Vì thế Alain Connes (nhà toán học Pháp) muốn đề nghị "lượng tử hoá" cả không-thời-gian bằng hình học không giao hoán (non commutative geometry) của ông. Không gian và thời gian cũng đứt quãng thành gói hết, chẳng còn liên tục nữa. Nhưng Connes cũng như Poincaré ngày xưa chắc còn thiếu một cái gì để mở đường cho một chân trời mới... một trực giác vật lý học của một Einstein mới." (Trích Phạm Xuân Yêm, thư riêng). Và như thế, biết đâu trong tương lai người ta sẽ hiểu tính liên tục như một tiệm cận của tính rời rạc ? 24 Vậy biết đâu Leibniz và Descartes lại không sai ! nhưng không sai không hẳn là "có lý" ! xin xem chú thích 14. 25 Đặc biệt liên hệ với chủ đề của tiểu luận này là bài "Cái Không trong lượng tử" của nhà vật lý học Phạm Xuân Yêm, http://vietsciences.free.fr/ số tháng 8-2007. Bài này không chỉ nói về "cái không", nó còn cho thấy một toàn cảnh về vật lý đương đại. Đây là bản tác giả đã cập nhật từ bản đăng trong Chim Việt Cành Nam, số 21, tháng 11.2005: http://chimviet.free.fr/index2.htm
  4. Đây là một diễn đàn học thuật mở, ngoại trừ những kẻ phá đám, chỉ trích phong long thì bị loại đã đành. Nhưng ngay cả những người thiện chí cũng không phải vấn đề gì cũng có thể tham gia tranh luận được. Trong tranh luận học thuật không nói phong long , mà phải có luận cứ - dù đúng hay sai - để người tham gia biết kết luận của mình căn cứ vào đâu mà tham gia. Tôi không tán thành cách thể hiện của Hoangnt. Vấn đề cần giải quyết trong topic này đến đây đang là: Một định nghĩa chuẩn về khái niệm "Tập hợp" - giải quyết vấn đề này xong đã. Còn nếu ko ai có ý kiến gì hoặc giới thiệu một định nghĩa từ nới khác thì tạm lấy khái niệm của Thế Trung với sự bổ sung của tôi để quán xét và giải quyết tiếp.
  5. Trương Thái Du - một nhân vật khá được chú ý trong giới nghiên cứu sử học, viết nhiều bài về cổ sử Việt - Bài viết của ông ta được hẳn BBC do Nguyễn Giang chủ bút phần tiếng Việt đăng cùng với các vị có quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt. Độc đáo nhất là bài của Đỗ Ngọc Bích - nữ nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Hoa Kỳ - trắng trợn phát biểu nguồn gốc Việt sử có từ Trung Quốc! - Cá nhân tôi từ đó nhìn xứ sở Anh Quốc như một đám lộn xộn qua hình ảnh BBC tiếng Việt. Những lập luận của họ hoàn toàn phi khoa học, chủ quan, áp đặt, cắt xén, rất siêu hình... tóm lại là một thứ suy luận thiển cận. Về việc thiền sư Lê Mạnh Thát thì hội sử Học có ý định tổ chức một cuộc hội thảo công khai - việc này cũng đã đăng báo công khai. Nhưng sau đó im lặng một cách khó hiểu cho đến ngày nay. Trường hợp xảy ra hội thảo - tuy cá nhân tuy chưa tán thành hoàn toàn những luận điểm của ông Lê Mạnh Thátì - nhưng tôi sẽ đứng bên cạnh ông để minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến . Tôi đã có nhiều bài phê phán từ trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê trở xuống....về các vấn đề liên quan đến cổ sử, dẫn chứng chi tiết, không bỏ một dấu phẩy, chứ không phải cắt trích, nói phong long kiểu này. Đã vài ba năm trôi qua, uy tín như hội sử học tuyên bố hội thảo mà còn im re thì mấy bài viết té nước theo mưa của người này không đáng quan tâm. Tôi đã không dưới một lần phát biểu rằng: :Những kẻ dốt nát sẽ vỗ tay khen những kẻ có chút ít chữ nghĩa. Nhìn đám rơm rác thì rất khó chịu.
  6. Khủng hoảng chính trị xã hội, vùng trung tâm địa cầu..... Biểu tình lan đến Libya 16/02/2011 23:59 Biểu tình tiếp tục lan rộng tại Bahrain - Ảnh: AFP Kênh truyền hình Al-Jazeera đưa tin ít nhất 38 người bị thương khi cảnh sát dùng hơi cay và dùi cui giải tán một cuộc biểu tình chống chính phủ ở thành phố Benghazi của Libya sáng qua. Người biểu tình hô khẩu hiệu chống những “lãnh đạo tham nhũng”, ném bom xăng và đá vào cảnh sát và những người ủng hộ chính phủ. Họ cũng kêu gọi một “Ngày phẫn nộ” vào hôm nay nhằm thách thức 41 năm cầm quyền của Đại tá Muammar Gaddafi. Libya là nước Ả Rập mới nhất bị cuốn vào làn sóng nổi dậy bắt đầu từ Tunisia và Ai Cập. Tại Bahrain, hàng ngàn người hôm qua tiếp tục chiếm một quảng trường ở thủ đô Manama để đòi cải cách chính trị, theo AFP. Cùng ngày, những người ủng hộ Chính phủ Iran đụng độ với phe phản đối tại lễ tưởng niệm 1 người thiệt mạng trong cuộc tuần hành của phe đối lập trước đó 2 ngày. Tehran cũng cáo buộc phương Tây kích động chống đối tại nước này. Bạo lực giữa phe ủng hộ và phe chống đối cũng tiếp tục diễn ra tại thủ đô Sanaa của Yemen. Hôm 15.2, Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov cảnh báo việc khuyến khích làn sóng nổi dậy ở Trung Đông sau các cuộc biểu tình chấn động thế giới Ả Rập sẽ gây “phản tác dụng”. Trùng Quang
  7. Nếu chúng ta định nghĩa "chiều" như kiến thức đã học ở chương trình phổ thông có nghĩa là hướng chuyển động của một vật thể từ điểm xuất phát thì gọi là chiều chuyển động của vật thể đó. Nếu chỉ quan niệm như vậy thì chúng ta có một vũ trụ đa chiều. Nhưng nếu chúng ta quy ước những chiều không gian tối thiểu để thể hiện hình khối của một vật thể thì vũ trụ gồm ba chiều quy ước trong không gian. Tôi mở topic này vì vấn đề liên hệ với bài viết của Nhật Tâm với mục đích trao đổi ý kiến.
  8. Cá nhân tôi xác định rằng: Cantor đúng khi đưa định đề III và không hề có mâu thuẫn với tập hợp của tất cả tập hợp. Đây chính là sự phân loại của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tri thức khoa học hiện đại chưa đi đến tận cùng bản chất của vật chất. Bởi vậy khái niệm thế nào là một tập hợp mơ hồ. Trên cơ sở đó người ta thấy nghịch lý của Cantor. Nhưng thuyết Âm Dương Ngũ hành thì không! Về phần tôi thế là đủ chúng nghiệm. Còn tính phổ biến của nó thì cần một định nghĩa chuẩn về Tập hợp để mọi người cùng thừa nhận. Toán học phải phản ảnh một thực tại bằng những ký hiệu và khái niệm của nó. Cũng như Thuyết Âm Dương Ngũ hành vậy. Vài lời chia sẻ .
  9. Anh Vuivui thân mến. Như vậy anh xác định là ông Thọ không định nghĩa về "Tập hợp". Vậy tôi nghĩ: Nghịch lý Cantor cần phải có một định nghĩa chuẩn về "Tập hợp" mới giải được. Tôi nghĩ tôi đã giải xong bài toán này bằng định nghĩa của tôi phát triển từ cơ sở ban đầu của Thế Trung. Cho đến lúc này, tôi vẫn xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất. Vấn đề còn lại là sự phục hồi hệ thống và sự hoàn thiện của nó.
  10. Khủng hoảng chính trị xã hội Bahrain: Biểu tình lan tới thủ đô Thứ tư, 16/02/2011 12:10 CAO) Các cuộc biểu tình tại Vương quốc Bahrain đã lan đến thủ đô Manama. Từ hôm chủ nhật vừa qua, ở Bahrain đã diễn ra hoạt động biểu tình phản đối mà chính phủ cho là trái phép do những người tham gia đòi quyền tự do chính trị. Cảnh sát dùng lựu đạn hơi cay để giải tán đám đông, làm chết ít nhất hai người biểu tình. Hàng động phản đối bùng nổ từ làng Shiit, ở phía nam quận Karkazan. Các cuộc biểu tình tại Vương quốc Bahrain đã lan đến thủ đô Manama Biểu tình tại quốc đảo Bahrain xảy ra trong bối cảnh các cuộc đấu tranh chống chính phủ, bao trùm khu vực. Đây được coi là cuộc biểu tình mang hiệu ứng dây truyền: Ngày 14-01, ở Tunis đã có cuộc Cách mạng hoa nhài. Vào thứ sáu tuần trước, Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak đã phải tuyên bố từ chức, chuyển giao lại quyền lực trong nước. trong khi nhiều cuộc đụng độ giữa cảnh sát và người biểu tình đòi cải cách dân chủ xảy ra ở Algeria. Tại Yemen cũng diễn ra hàng ngàn cuộc biểu tình chống chính phủ bị lực lượng cảnh sát giải tán. M.K (VOR
  11. Hôm nay là ngày thứ tư. Còn năm ngày nữa. Chờ quẻ nghiệm. ================================================ Vụ nhà báo bị đốt: Bộ CA tham gia phá án Cập nhật lúc 16/02/2011 08:55:17 AM (GMT+7) Nguồn tin ngày 15/2 của báo NLĐ cho biết, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã cử điều tra viên đến Công an tỉnh Long An để nghe báo cáo tiến độ điều tra vụ nhà báo Lê Hoàng Hùng, phóng viên Báo NLĐ, bị đốt cháy vào rạng sáng 19-1 dẫn đến tử vong. Vợ nhà báo Hoàng Hùng khai gì? Máy tính nhà báo Hoàng Hùng vừa bị lục soát Nhà báo Hoàng Hùng lặng thinh về thủ phạm Theo báo này, nhiều khả năng Bộ Công an sẽ phối hợp với cơ quan Công an tỉnh Long An để điều tra. Đại tá Nguyễn Tri Phương, Phó Cục trưởng Cục CSĐT Tội phạm về trật tự xã hội (C45) - Bộ Công an, xác nhận cơ quan này đã tăng cường một lực lượng đến tỉnh Long An để tham gia phá án. Thực hiện sự chỉ đạo của Tổng cục Cảnh sát, C45 sẽ rà roát lại toàn bộ diễn biến vụ việc, xem xét các kết quả điều tra của Công an tỉnh Long An, đồng thời phối hợp triển khai các biện pháp nghiệp vụ để nhanh chóng làm rõ kẻ giết người cũng như các thủ đoạn, động cơ của chúng. Cũng đưa tin về vụ việc đang được dư luận quan tâm này, báo Tuổi Trẻ cho hay, bà Nguyễn Thị Kim Nga (74 tuổi, mẹ ruột cố nhà báo Hoàng Hùng) đã chính thức nộp đơn xin làm người đại diện cho phía bị hại. Công ty luật Biển Đông ở quận Bình Thạnh (TP.HCM) nhận bảo vệ quyền lợi miễn phí cho phía bị hại. Về thông tin có người đến lục soát máy vi tính của cố nhà báo Hoàng Hùng tại nhà riêng, trao đổi với báo này, thượng tá Phạm Văn Tiến - Trưởng Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Long An - khẳng định đến nay cơ quan điều tra chưa cử cán bộ nào thực hiện việc trên. Tuy nhiên, tới đây cơ quan điều tra sẽ thu giữ chiếc máy vi tính này để phục vụ điều tra. "Theo ông Tiến, từ khi xảy ra vụ án đến nay, cơ quan điều tra đã liên tục triệu tập bà Trần Thúy Liễu (vợ ông Hoàng Hùng) và những người khác đến để thẩm vấn. Tuy nhiên “không có chuyện cơ quan điều tra triệu tập làm việc từ sáng đến nửa đêm như một số báo đã đưa” - Tuổi Trẻ cho hay. V.T (tổng hợp)
  12. Máy bay hybrid sắp cất cánh 15/02/2011 8:30 Một chiếc máy bay hybrid (dùng 2 loại nhiên liệu) của hãng World SkyCat (Anh) chuẩn bị cất cánh. SkyLiner (ảnh), được xem là phương tiện hàng không mới trong thế kỷ 21.Theo ông Michael Steward, giám đốc điều hành SkyCat, máy bay này là sự kết hợp giữa máy bay và khinh khí cầu. Theo đó, sức nâng của máy bay sử dụng khí hellium và động cơ máy bay. Máy bay có trọng tải từ 200 tấn tới 1.000 tấn. Lợi thế của máy bay là có thể cất cánh và hạ cánh như trực thăng, kể cả nơi có địa hình khá gồ ghề. Theo Sài Gòn Giải Phóng =========================================== Trong tương lai không xa, tàu cao tốc sẽ vào bảo tàng: Đây là phương tiện vận chuyển của tương lai.
  13. Anh Vuivui thân mến.Vậy anh cho tôi biết khái niệm chuẩn về "tập hợp" - nếu anh cho khái niệm chuẩn theo ông Thọ thì anh đồng ý với khái niệm của tôi không (Vì nó hàm chưa khái niệm của ông Thọ)? Thế Trung cũng đề nghị với anh như vậy. Chúng ta cần một khái niệm chuẩn - ít nhất được ba người công nhận đã - từ đó mới giải bài toán này.
  14. TƯ LIỆU THAM KHẢO Nguy cơ khủng hoảng xã hội, khủng hoảng nhân đạo..... Ngân hàng Thế giới: giá lương thực tăng đến mức nguy hiểm Tuổi Trẻ Online - cách đây 29 phút TT- – TTO - "Giá lương thực đã tăng nhanh đến gần mức nguy hiểm và đe dọa tính mạng hàng chục triệu người nghèo toàn cầu". Đó là nhận định mới nhất của chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) Robert Zoellick trước thềm hội nghị Bộ trưởng Tài chính G20. Ngân hàng Thế giới: giá lương thực tăng đến mức nguy hiểm Giá lương thực tiếp tục tăng kỷ lục AFP dẫn số liệu mới nhất của chỉ số Giám sát giá lương thực của WB cho thấy giá thực phẩm đã tăng thêm 15% từ tháng 10-2010 đến tháng 1-2011. Giá ngày càng tăng cao và chỉ còn kém 3% nữa là chạm mốc của năm 2008 - giai đoạn bạo loạn bùng phát trên thế giới vì giá lương thực tăng cao. WB nhận đình giá lương thực tăng cao đã đẩy 44 triệu người vào đói nghèo ở những quốc gia đang phát triển kể từ tháng 6 năm nay. Lúa mì là một trong những nông sản có giá tăng cao nhất, gấp đôi trong giai đoạn từ tháng 6 năm ngoái đến tháng 1 năm nay. Nguyên nhân chủ yếu là do Nga hạn chế xuất khẩu, vụ mùa ở Australia bị tàn phá do lũ lụt và phần lớn vụ mùa đông xuân sắp tới tại Trung Quốc có nguy cơ tương tự do hạn hán kéo dài. Tuy nhiên, WB cũng chỉ ra một tín hiệu vui: các đợt thu hoạch lúa rất tốt, và giá của loại ngũ cốc này tăng chậm hơn so với các loại khác. Ở châu Phi, người dân đã biết thay thế những sản phẩm nhập khẩu bằng các sản phẩm địa phương như lúa miến và sắn. Giá lương thực tăng dẫn đến bất ổn chính trị? Một vấn đề khác từ giá lương thực tăng cao mà báo Christian Science Monitor đặt ra: liệu có một cuộc nổi dậy tương tự Ai Cập sẽ xảy ra ở châu Phi do giá lương thực tăng? Theo báo này, mặc dù không phải nguyên nhân hàng đầu, nhưng giá lúa mì tăng quá cao trong khi nguồn cung trong nước lại không đủ cũng là yếu tố khiến bất ổn tại khu vực Bắc Phi trở nên trầm trọng. Trong vòng 12 tháng tới, 30 quốc gia châu Phi sẽ tổ chức bầu cử, trong đó có những quốc gia khan hiếm lương thực như Chad và Madagascar cùng với những quốc gia đang bất ổn như Nigeria và Cộng hòa Dân chủ Congo. "Không khó nhận thấy yếu tố nguồn cung lương thực ảnh hưởng trực tiếp đến các cuộc nổi dậy như thế nào", Lester Brown - nhà sáng lập Viện Chính sách Trái đất, cố vấn cao cấp tại Washington, nói trên báo Guardian. "Vấn đề không còn chỉ là sự chống đối của các đảng đối lập, cũng như không còn thuộc về riêng chính trị. Đó là về nạn đói, về nghèo khổ, về sản xuất thực phẩm, về sự thay đổi của kinh tế thế giới... chính là những phần rất lớn dẫn đến sự bất ổn", nhà kinh tế học Jefferey Sachs nói với Reuters. WB lo ngại tình hình chính trị bất ổn tại khu vực Trung Đông cũng có thể khiến những quốc gia như Ai Cập tăng sản lượng ngũ cốc dự trữ và đẩy giá lúa mì cùng giá nhiều ngũ cốc khác lên cao. Còn tại những quốc gia chủ yếu dựa vào nhập khẩu thực phẩm như Albania hay Tajikistan thì việc này có thể đe dọa ngân sách khi họ không thể chi trả cao hơn. TẤN KHOA
  15. Cháy nổ tăng nặng hơn..... Cháy lớn tại Philippines, 10.000 người mất chỗ ở Tuổi Trẻ Online - Thứ Ba, 15/2 TT- – TTO - Một trẻ em thiệt mạng và khoảng 10.000 người khác lâm vào cảnh màn trời chiếu đất sau khi "bà hỏa" quét qua một trong những khu ổ chuột lớn nhất Philippines tại Manila hôm nay, 15-2. Cháy lớn tại Philippines, 10.000 người mất chỗ ở Hãng tin AFP dẫn nguồn tin thanh tra cảnh sát chữa cháy Catherine Albino cho biết ngọn lửa đã thiêu rụi khoảng 500 căn nhà tại khu ổ chuột Bahay Toro, một bé trai 5 tuổi thiệt mạng, 6 người khác bị thương. Theo thống kê của chính quyền, vụ cháy khiến 2.000 hộ gia đình mất chỗ ở. Albino nói trung bình mỗi hộ gia đình ở Bahay Toro có 5 thành viên, và nhiều hộ thường ngụ chung trong một căn nhà. Các nhân viên cứu hỏa đã phải chật vật chống chọi với ngọn lửa suốt hơn ba giờ mới khống chế được nó. Hiện chưa rõ nguyên nhân gây cháy. Hỏa hoạn tại các khu ổ chuột thường xuyên xảy ra ở thủ đô 12 triệu dân của Philippines. Tuần trước, một vụ cháy khác cách Bahay Toro khoảng 2km đã thiêu rụi 600 căn nhà và làm 20.000 người trở thành vô gia cư. TƯỜNG VY
  16. Ngày mùng 2 hoặc 26 tháng Hai Âm lịch.
  17. Ngăn chặn tình trạng "sa mạc hóa văn hóa" Tác giả: Nguyễn Bỉnh Quân Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản.: 1 giờ trước Hiện nay nhiều nhà văn hóa bi quan cho rằng cứ phải đợi 2-3 thế hệ nữa hãy nói tới chuyện văn hóa tinh hoa, hãy hy vọng các ông chủ này hưởng thụ và đầu tư - cho văn hóa tinh hoa. Xin nhìn thực trạng, thực tế văn hóa nước nhà thời gian qua để thấy rằng muốn phát triển một cách bền vững nhất thiết phải có quốc sách mới về văn hóa. Chúng ta đang bị "sa mạc hóa" văn hóa Theo một điều tra mới đây thì 30-40% dân ở Hà Nội và Sài Gòn không được tiếp cận văn hóa-nghệ thuật (ngoại trừ cái ti vi). Nếu suy ra cả nước thì tỷ lệ này có thể lên tới 60-70%. Phải chăng chúng ta đang bị "sa mạc hóa" văn hóa. Nếu hố ngăn cách giàu nghèo tăng lên, mà điều này chắc chắn sẽ xảy ra, thì số người bị bần cùng hóa văn hóa sẽ tăng lên theo. Trình độ văn hóa thấp và sự nghèo đói văn hóa (thí dụ như tính theo tỷ lệ phần trăm thu nhập được chi cho nhu cầu văn hóa giải trí) là căn bệnh suy dinh dưỡng, mất khả năng đề kháng, làm cho số người đông đảo này dễ bị lây nhiễm tệ nạn, chỉ tiếp nhận được các độc tố, các chất thải của văn hóa đương đại, dẫn tới việc dân trí bị đánh sụt xuống cùng sự băng hoại của đạo đức, chất lượng nguồn nhân lực tụt hậu. Cái vòng cùng quẫn này hoàn tất và lại bắt đầu ở cấp báo động cao hơn. Hai là đối với chính quyền, tầng lớp nhà giàu mới và trung lưu - tầng lớp cầm cân nảy mực về văn hóa của quốc gia - thì trong hơn 20 năm qua ta thấy chỉ có văn hóa đại chúng, "văn hóa công nông" là phát triển còn văn hóa tinh hoa, văn hóa đỉnh cao bị bỏ rơi. Về mặt sáng tạo, xây dựng, ba "chủ đầu tư" này chỉ chi tiền, tổ chức và khuếch trương các thứ văn hóa nghệ thuật tuyên truyền, phong trào đơn giản (thí dụ như tượng đài, hội diễn, liên hoan, lễ hội kỷ niệm... rất tốn kém, không chất lượng và không bền vững về thẩm mỹ. Khu vực này cũng gây ra tham nhũng, gian lận, dối trá, cửa quyền xin-cho...). Từ thiện, tâm linh, giải trí là các lĩnh vực duy nhất lớp nhà giàu mới đầu tư cho văn hóa với mục đích kiếm tiền, chào bán sản phẩm, quảng bá thương hiệu là chính. Các đền chùa miếu mạo mới to 'khủng' hoặc các di tích được "xã hội hóa" để trùng tu, phục chế đều ở mức "đại chúng" sơ sài hoặc làm hỏng, làm hại di sản! Các dự án của họ (kể cả các khu nghỉ dưỡng, du lịch, sân golf...) chiếm đoạt hết những diện tích "ngon" nhất của tài nguyên thiên nhiên Việt Nam, cướp mất quyền được hưởng thụ các cảnh quan, môi trường đẹp trong lành của dân thường. Bất bình đẳng đến cả việc ngắm nhìn phong cảnh. Các dự án, sự kiện tâm linh thiếu hàm lượng văn hóa dẫn tới hệ lụy mê tín dị đoan tăng vọt. Làm sao để văn hóa tinh hoa lên ngôi? Với tư cách người sử dụng và hưởng thụ thì 3 bên nói trên sa vào thực dụng khi sử dụng văn hóa (chỉ để truyền giảng, kể thành tích, xoa dịu dư luận, kiếm tiền, quảng cáo...) và sơ lược công thức khi hưởng thụ (xài hàng hiệu, đồ xa xỉ trong khi nhà cửa, công sở, trụ sở công ty, lễ hội, lễ kỷ niệm... đều ở mức "tầm tầm", "vô thưởng vô phạt" hoặc "sản phẩm du lịch giá rẻ", bệnh "kỷ lục" quá sơ khai: chỉ thích to nhất, dài nhất, cao nhất... không cần chất lượng thẩm mỹ bền vững). Cần ngăn chặn tình trạng "sa mạc hóa văn hóa". Ảnh minh họa Làm sao để văn hóa tinh hoa, đỉnh cao lọt mắt, lọt tai 3 bên chủ đầu tư và 3 thành phần trụ cột văn hóa này là điều rất khó khăn. Hiện nay nhiều nhà văn hóa bi quan cho rằng cứ phải đợi 2-3 thế hệ nữa hãy nói tới chuyện văn hóa tinh hoa, hãy hy vọng các ông chủ này hưởng thụ và đầu tư - cho văn hóa tinh hoa. Giá như chính quyền, giới doanh nhân-nhà giàu và giới trí thức trung lưu ý thức lại sứ mạng, nghĩa vụ làm trụ cột phát triển văn hóa bền vững của mình mà đưa ra được một "chiến lược quốc gia xóa đói giảm nghèo về văn hóa đạo đức". Rồi từ chiến lược đó đi tới các "gói giải pháp" cụ thể thiết thực để nâng cấp đời sống văn hóa của dân. Có vậy mới mong thoát khỏi tình trạng thụ động, "nhập siêu" văn hóa trong kết nối toàn cầu, mới chặn được tình trạng "sa mạc hóa văn hóa" quốc nội đang lan rộng. Theo Tia sáng ========================================= Văn hóa là một khái niệm như thế nào? Tôi đã có định nghĩa về khái niệm này. Nhưng nó là của riêng tôi - chưa được "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học thế giới công nhận". Còn đây là một cách hiểu về văn hóa rất cụ thể: Nhân ngày mùng 6 Tết ngay tại nhà tôi: Có một bà cũng đi thuê nhà như tôi trong "khu phố văn hóa" đã phát hiện ra một đống cứt chó trước cửa. Bà mét với chủ nhà và xác quyết là chó nhà tôi ị. Bà chủ nhà vốn là một quý tộc mới lên ngôi - chiều đi đánh cầu lông, sáng dắt chó đi dạo....theo văn minh Tây - đã đến nhà tôi, mời vợ tôi ra nói chuyện. Bà ấy xác định rằng "Chó nhà tôi đã ị bậy". Vợ tôi nói không có. Bà này nhất quyết là có. Vợ tôi không muốn nói nữa bỏ quay vào nhà, vì cứ cãi nhau thế này thì đến Tết Maroc mới có kết quả . Bà quí tộc mới lên ngôi phán ngay một câu xanh dờn: "Đồ vô văn hóa!". Tôi nghe nói tức quá! Vì tôi biết chắc chắn rằng: Chó nhà tôi không bao giờ sinh hoạt vô văn hóa như vậy! Lý do: Một con chó nhà tôi chạy rông ra đương đã bị chó berge xé xác. Bởi vậy, từ đó trở đi, mỗi lần thả chó ra đương đều có ít nhất hai người canh cho ị đúng chỗ xong xua về. Đó là lý mà chó nhà tôi từ nửa năm nay sinh hoạt rất văn hóa ("Văn hóa là sinh hoạt" theo dịnh nghĩa của Đào Duy Anh - Việt Nam văn hóa sử cương). Bởi vậy, tức quá, tôi bèn phải sử dụng một loại hình văn hóa khác để chứng tỏ tính văn hóa mình cũng có vậy - Vâng! Văn hóa chửi! Tôi chửi toáng lên. Quảng cáo ầm ĩ cả khu phố một loại hình văn hóa mới. Từ đó mọi chuyện im re. Cuối cùng, những người hàng xóm khác xác định được rằng: Những con chó nơi khác đến sinh hoạt trước cửa nhà bà kia không phải chó nhà tôi. Vâng! Cuộc sống trở lại bình thường - những hiện tượng văn hóa và vô văn hóa không xảy ra từ mùng 6 Tết đến nay. Tôi cũng chẳng có việc gì để nói nữa. Nhân thấy hai bài viết trên, nên vào quán vắng suy ngẫm về một hiện tượng tượng cụ thể liên quan đến văn hóa: Muốn có văn hóa thì trước tiên là phải chính danh khái niệm "Văn hóa" đã. Còn không thì bàn chơi cho vui.
  18. Trợ lý tướng Giáp lên tiếng về thư mạo danh Đại tướng Tác giả: Lan Phương Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản.: 2 giờ trước Đầu năm nay, trên mạng lan truyền bức thư "Đề nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp" gửi lãnh đạo Đảng. Ngày 15/2/2011, Đại tá Nguyễn Huyên, trợ lý của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có thư gửi VietNamNet, khẳng định bức thư trên là mạo danh. Ông Huyên cho biết: "Trong thời gian gần đây Đại tướng không hề có bức thư nào cả". Trợ lý của vị tướng huyền thoại cũng cảnh báo "cần cảnh giác với những hoạt động của kẻ xấu bịa đặt, xuyên tạc" Được biết, lá thư tung lên mạng đề ngày 7/01/2011, tự nhận là của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình, đồng kính gửi đến toàn thể nhân dân Việt Nam. Ảnh: VOV news Đây không phải là lần đầu tiên xảy ra hiện tượng mạo danh những nhân vật có uy tín trong xã hội trên mạng Internet. Ngày 10/12/2010, trên mạng cũng lan truyền một lá thư được cho là do Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn viết, gửi tới các lãnh đạo gửi tới các lãnh đạo Đảng và Nhà nước, có nội dung quy chụp, bôi nhọ một số tổ chức và lãnh đạo. Ngày 13/12, tướng Đồng Sỹ Nguyên đã có thư chính thức gửi lãnh đạo Đảng, Chính phủ và Quốc hội bác bỏ lá thư này và đề nghị làm rõ vụ việc.
  19. Cảm ơn Liêm Pha vì bài viết này! Tôi nhận thấy hình tượng Naga ở Ấn Độ trong bài viết của Liêm Pha giới thiệu có những hình tượng giống hệt hình tượng Phục Hy và Nữ Oa ở Hồ Nam - Nam Dương tử cách đây hơn 2000 năm - thuộc quyền cai trị của nhà nước Văn lang. Chúng ta so sánh hai hình này dưới đây: Bích tượng Phục Hy và Nữ Oa ở Hồ Nam. Tượng cổ Ấn Độ miêu tả rắn thần Naga.
  20. Anh Vuivui, Thế Trung và quí vị quan tâm thân mến. Cảm ơn anh Vuivui đã cho biết khái niệm về "Tập hợp" của ông Thọ. Tôi nhận thấy rằng khái niệm này chính là một trong những ý của khái niệm tập hợp do Thế Trung và tôi đưa lên. Hay nói cách khác: Khái niệm tập hợp do tôi và Thế Trung hàm chứa khái niệm tập hợp của ông Thọ. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì: Vấn đề căn bản vẫn là:Chưa có một khái niệm chuẩn về tập hợp được công nhận trong cộng đông khoa học - cụ thể là trong "tập hợp những nhà toán học" - để từ đó giải bài toán nghịch lý Cantor. Nhưng thuyết Âm Dương Ngũ hành thì giải xong và nó đã xác định như tôi đã trình bày - Trên cơ sở định nghĩa về "tập hợp" của tôi và Thế Trung. Đây chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước.
  21. Cây chuối cụt mọc nải từ giữa thân Cập nhật lúc 15/02/2011 04:45:00 PM (GMT+7) - Mấy ngày nay, nhiều người đã đổ xô đến nhà chị Nguyễn Thị Kim Dung (ở thôn Văn Đang 3, xã Vĩnh Lương, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa) để xem cây chuối nhà chị dù đã bị chặt, thân cây đã khô nhưng vẫn mọc ra một nải chuối từ giữa thân. Trong cuộc trao đổi với PV Báo VietNamNet chiều 15/2, ông Nguyễn Viết Vây - Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Vĩnh Lương - đã xác nhận thông tin trên. Ông Vây cho biết, chuyện cây chuối nhà chị Dung dù đã bị chặt, thân cây đã khô nhưng vẫn mọc ra một nải chuối từ giữa thân là có thật. Cây chuối nhà chị Dung dù đã bị chặt, thân cây đã khô nhưng vẫn mọc ra một nải chuối từ giữa thân. (Ảnh: Dân trí) Cây chuối này được chị Dung trồng từ tháng 7/2010. Sau đợt mưa lũ cuối năm 2010, vườn nhà chị Dung bị đọng nước khiến cây chuối bị khô héo hết lá. Thấy vậy, người anh của chị Dung đã chặt ngang thân từ cuối năm ngoái. Tuy nhiên, sau đó không lâu, từ phần thân còn lại của cây chuối đã mọc ra nải chuối có 11 quả. Nải chuối này nằm ở vị trí gần như chính giữa thân cây chuối, quả có hình dạng bình thường. Bên cạnh, nhiều cây chuối khác vẫn phát triển bình thường. Khoảng 1 tuần trước đây, nhiều người hiếu kỳ cũng kéo đến nhà ông Đỗ Xuân Thân (ở thôn Phú Quý, xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) để xem một cây chuối trổ buồng giữa thân cây. Bình thường, cây chuối khi đến tuổi trưởng thành sẽ ra hoa và trổ buồng, ra nải trên ngọn và oằn buồng hướng xuống mặt đất. Thế nhưng cây chuối nhà ông Thân khi đến tuổi trưởng thành thì phần thân gần ngọn bỗng nhiên phình to khác thường. Từ chỗ nứt phình to đó sau này nứt ra một buồng chuối hướng lên trời. Buồng chuối này chỉ ra có 4 nải. Theo lời ông Thân, bụi chuối này được trồng từ giống chuối già hương bình thường được xin trong làng. Bụi chuối phát triển bình thường. Chỉ đến lúc ra buồng thì không ra trên đọt mà nứt ở giữa thân và trổ buồng. Thái Hòa
  22. Thế Trung thân mến. Dù Thế Trung chưa có bằng Tiến sĩ, chú đồng ý về hình thức là như vậy. Nhưng đã học xong chương trình - chỉ vì ....không thi lấy bằng. Nhưng đối với chú thì bằng cấp thực chất chỉ là chứng chỉ xác định kết quả một quá trình tích lũy kiến thức. Nó sẽ là một giới hạn của tri thức trong một cuộc sống luôn phát triển. Đấy là chú nói tiến sĩ thật và bằng thật, chứ chưa nói đến tiền sĩ lấy bằng bằng nhiều cách khác. Trong cái nhìn của chú thì chú vẫn luôn coi Thế Trung là tiến sĩ thực sự và luôn xứng đáng với tri thức của mình trong sự phát triển tri thức chung. Chú nhìn nhận khách quan đấy! So với một tiến sĩ toán chia 2622 năm trị vì của Thời Đại Hùng Vương cho 18 vị vua Hùng truyền thuyết thì chú thấy - nếu họ xứng đáng tiến sĩ thì chắc chú...từ trần mất . Vấn đề định nghĩa "tập hợp", chú nghĩ đưa thêm thành tố "đồng đẳng" về cấu trúc tối thiểu của một phần tử là cần thiết trong trường hợp tập hợp này bao trùm lên tập hợp kia. Còn trong trường hợp không đưa thành tố này vào thì không có vấn đề tập hợp này lớn hơn tập hợp kia. Mà nó sẽ trở thành tập hợp cơ bản đầu tiên. Chú không biết sử dung danh từ như vậy có đúng khái niệm toán học hiện đại không. Nhưng chú lấy ví dụ thế này: * Tập hợp đầu tiên "A": gồm: Ấm trà, cái bút và bật lửa (sản xuất nội địa). * Tập hợp lớn hơn "A" - có hai khả năng: A1/ Gồm: (Ấm trà, cái bút, bật lửa) + Chiếc máy ảnh. A2/ Gồm: (Ấm trà, cái bút, bật lửa - nội địa) + (Ấm trà, cái bút, bật lửa - ngoại nhập) +.... Như vậy, theo quan niệm chú vừa trình bày thì chỉ có A2 là tập hợp lớn hơn "A" , còn A1 thì vẫn là tập hợp cơ bản đầu tiên - để xác định cấu trúc các phần tử trong một tập hợp cơ bản đầu tiên khi đi tim một tập hợp lớn hơn. Một thí dụ khác: một nhóm các phần tử có ký hiệu ab, mb; xyb; nyb và dz; gz, stz; hz. Chúng được phân làm 8 tập hợp con gồm: 1/ "ab"; "mb"; "xyb", "nyb" và "dz"; "gz", "stz"; "hz" 2/ 8 tập hợp này lại gom lại thành 4 tập hợp lớn hơn là: ("ab + mb"); ("xyb + nyb") và ("dz + gz"); (stz + hz"). 3/ 4 tập hợp này lạ có thể cấu trúc thành hai tập hợp lớn hơn là; Tập hợp I = (ab +mb + xyb + nyb) và Tập hợp II (dz + gz + stz + hz). Đến đây thì như chú định nghĩa các phần tử phải có cấu trúc đồng đẳng tối thiểu, như tập hợp I có cấu trúc đồng đẳng tối thiểu là thành tố "b". Hoặc ở tập hợp II cấu trúc đồng đẳng tối thiểu là "z". Chú nghĩ rằng: Tiêu chí phân loại thì phải có yếu tố tính đồng đẳng tối thiếu trong cấu trúc. Nhưng nếu gộp tập hợp 1 và II thì ý nghĩa là một tập hợp lớn hơn sẽ không còn, mà nó trở thành tập hợp cấu trúc đầu tiên để đi tim tập hợp lớn hơn theo định để III của Cantor. Điều này giải thích những phần tử trong tập hợp quái Khảm gồm: Cây có lõi cứng và to, là vực sâu, là con ngựa.....và cả Mặt trăng. Như vậy những phần tử trong tập hợp của quái Khảm phải có thành tố đồng đẳng tối thiểu để phân biệt không nằm trong tập hợp của quái khác - như Ly chẳng hạn.
  23. Tốt rồi. Chúng tôi sẽ thiết kế ngôi nhà này lại. Sáng ngày 16 Âm lịch sẽ gửi cho anh. Vị trí nhà và hướng nhà có thay đổi.
  24. Thiên tai tăng nặng..... Hàn Quốc khốn đốn vì trận “bom tuyết” khủng khiếp Thứ Ba, 15/02/2011 - 00:46 (Dân trí) - Đợt tuyết rơi dày nhất trong vòng hơn 100 năm qua ở bờ biển miền đông Hàn Quốc hiện đang gây ra hỗn loạn khắp khu vực, với hàng trăm ngôi nhà bị sập. Một tờ báo còn gọi đây là trận “bom tuyết”. Chính phủ Hàn Quốc đã huy động 12.000 binh sỹ nhằm cứu người dân bị mắc kẹt trong tuyết và dọn dẹp tuyết. Khu vực bị gánh chịu hậu quả nặng nề nhất là tỉnh Gangwon. Các chuyên gia thời tiết cho biết tuyết sẽ còn rơi ở khu vực trong thời gian tới. “Tôi đã 83 tuổi rồi. Đây là đợt tuyết rơi dày nhất tôi từng chứng kiến trong đời. Tôi thực sự cảm ơn sự giúp đỡ của các binh sỹ”, một cụ già cho biết. Được biết, xứ Hàn thường có mùa đông lạnh hơn những nơi có cùng vĩ độ, với sương và tuyết là chuyện thường tình. Nhưng năm nay lại đặc biệt khác. Tháng 1 vừa qua là tháng lạnh nhất kể từ những năm 1960. Tại tỉnh Gangwon, ở bờ biển miền đông, có thành phố phải hứng chịu lượng tuyết rơi dày tới 80cm trong chỉ có 1 ngày. Đây là lượng tuyết rơi dày nhất trong vòng 24 giờ từng được ghi nhận từ năm 1911. Ước tính thiệt hại do tuyết rơi gây ra lên tới nhiều triệu đô la Mỹ. Hàng trăm lái xe bị mắc kẹt trong tuyết rơi dày. 4 trường tiểu học tại tỉnh Gangwon, cách Seoul 240km đã phải đóng cửa. Ngoài ra, hơn 30 chuyến bay ở sân bay quốc tế Gimhae của Busan đã phải hạ cánh hoặc bị hoãn giờ rời đi. Sông Hàn ở thủ đô Seoul lần đầu tiên trong nhiều năm đã bị đóng băng. Tuy nhiên cho đến nay thủ đô Hàn Quốc không bị ảnh hưởng bởi đợt tuyết rơi. Ảnh hàng xe hơi đậu trên phố ở Gangneung, tỉnh Gangwon bị chôn vùi trong tuyết. Vũ Quý Theo BBC, AFP, Yonhap, Korea Times
  25. Tai nạn tăng nặng...... Thứ trưởng Honduras chết trong tai nạn máy bay Thứ Ba, 15/02/2011 - 08:02 (Dân trí) - Một Thứ trưởng của Honduras và 13 người khác đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay thảm khốc gần thủ đô Tegucigalpa hôm qua. Máy bay gặp nạn tại thị trấn Las Mesitas, cách thủ đô Tegucigalpa 30km về phía nam. Chiếc máy bay thương mại loại nhỏ thuộc hãng Central American Airlines đang thực hiện chuyến bay theo lịch trình thông thường từ thành phố duyên hải San Pedro Sula tới thủ đô Tegucigalpa thì gặp nạn vào sáng qua.Máy bay gặp nạn tại thị trấn Las Mesitas, cách thủ đô Tegucigalpa khoảng 30km về phía nam. Trong số 14 người thiệt mạng có Thứ tưởng Bộ công trình công cộng, giao thông và nhà ở Rodolfo Robelo, cựu Bộ trưởng tài chính Carlos Chain và lãnh đạo một nghiệp đoàn thương mại, Israel Salinas Jorge Castellanos. Hiện trường vụ tai nạn thảm khốc làm 14 người chết. Một xe cứu thương và các trực thăng đã được phái tới hiện trường vụ tai nạn. Nhưng khu vực máy bay nơi được cho là có nhiều cây cối nên khó tiếp cận. Tư lệnh Không quân Honduras, Ruis Landa, cho hay chiếc máy bay động cơ kép Let 410 mất liên lạc với cơ quan kiểm soát không lưu tại một khu vực ở phía nam Tegucigalpa. Máy bay đâm xuống một khu vực nhiều cây cối. Người dân địa phương nghe thấy tiếng nổ khi máy bay đâm xuống đất và nhanh chóng tới hiện trường để tìm kiếm những người sống sót. Nhưng khi tới nơi, họ chỉ nhìn thấy một cảnh tượng đáng sợ với các thi thể nằm khắp nơi, một thị trưởng địa phương cho hay. 2 phi công cũng nằm trong số 14 người chết. Các mảnh vỡ nằm la liệt tại hiện trường. Các nguồn tin ban đầu cho biết một trong số 2 phi công sống sót nhưng người này đã qua đời sau đó trước khi được chuyển tới bệnh viện. Một cuộc điều tra về nguyên nhân vụ tai nạn đang được tiến hành. Một quan chức chính phủ cấp cao nằm trong số những người thiệt mạng. Tại nạn hôm qua xảy ra tại cùng khu vực nơi một chiếc máy bay của hãng hàng không SAHSA bị đâm năm 1989, làm 131 người thiệt mạng. An Bình Theo BBC, AP