Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Theo tôi: Cuộc tranh cãi này là lý thuyết ứng dụng rất cụ thể dùng trong xây dựng. Vậy chỉ cần làm một thí nghiệm chứng minh. Xong. Tại sao người ta phải cãi nhau chuyện này?
  2. Điều này tôi đã trả lời Dare rồi:Khái niệm tương tác của tôi là khái niệm chung đã ứng dụng. Tôi không hề nói: Tương tác qua năng lượng". Dare xem lại. Riêng đoạn này: Tôi tuân thủ theo đúng tiêu chí khoa học và đã nhắc nhiều lần trên diễn đàn.
  3. Vì sao vũ trụ tồn tại bền vững? (Phần 1) Hà Yên chungta.com Các Định luật bảo toàn Trong Tự nhiên tồn tại một số hiện tượng mang tính yếu tố, mà định lượng của nó không đổi, không phụ thuộc thời gian, và có mặt trong mọi lĩnh vực của Thế giới vật lý. Vật lý học gọi chúng là các đại lượng bảo toàn. Đó là những nền móng và tuyệt đối của Tự nhiên. Chúng có ý nghĩa hết sức to lớn trong vai trò kiểm soát và dẫn dắt diễn biến của mọi quá trình vật lý diễn ra trong Tự nhiên. Vì vậy, chúng có thể cho phép tiên đoán diễn biến của các quá trình Vật lý, nghĩa là các quá trình này phải diễn ra, sao cho không làm thay đổi giá trị của các đại lượng bảo toàn đó. Mặc dù một số, trong hệ thống các định luật bảo toàn, thuộc về những định luật có điều kiện, nghĩa là chúng chỉ bảo toàn ở mức độ gần đúng, hoặc chỉ trong một số quá trình nhất định. Một số định luật bảo toàn khác là vô điều kiện, nghĩa là chúng luôn luôn thỏa mãn trong mọi quá trình với mọi độ chính xác mà dụng cụ đo cho phép. Đó là tính tuyệt đối , có liên quan chặt chẽ với tính chất đối xứng của các hệ Vật lý tồn tại trong Không – thời gian. Và, cũng chính vì vậy, các định luật bảo toàn có một ý nghĩa rất sâu xa về mặt nhận thức Tự nhiên -Vũ trụ. Mặt khác,có một số đại lượng bảo toàn chỉ bộc lộ dưới dạng tích hay tỷ số của các đại lượng khác, như động lượng (tích của khối lượng và vận tốc), mô-men động lượng đối với một điểm đã cho (tích của vectơ động lượng với khoảng cách của vật đến điểm đó), v.v.. Không một hiện tượng Tự nhiên nào mâu thuẫn với định luật bảo toàn bất kỳ. Nếu xuất hiện mâu thuẫn, mà việc giải thích hiện tượng Tự nhiên đó là đúng, thì người ta bắt buộc phải xét lại cơ sở của Vật lý học. Nhiều khi, vì sự xét lại đó, lại dẫn đến một khám phá mới : đó là trường hợp phát hiện ra hạt nơtrino. Tập hợp các đại lượng bảo toàn và các Hằng số Vũ trụ lập thành “đội ngũ” những Trật tự viên” kiểm soát và điều chỉnh, hết sức chính xác, mọi diễn biến trong quá trình tiến hóa của Vũ trụ và Tự nhiên, theo những ‘cột mốc”, những ranh giới mà tại đó Vũ trụ mãi mãi ổn định trong trạng thái cân bằng động lực. Bài toán chỉ có “Trời” mới giải được Thử tưởng tượng ra một tình huống như sau : Một Xí nghiệp sản xuất theo kế hoạch được giao, Với mỗi lô sản phẩm nào đó được cấp cho số vốn ban đầu, chẳng hạn là một tỷ đồng. Xí nghiệp phải cân đôi, sao cho, giứa sức sản xuất và lực lượng sản xuất, phải được giữ hài hòa, để guồng máy Xí nghiệp hoạt động không ngừng. Giá trị mỗi lô sản phẩm đưa ra, xí nghiệp luôn được hoàn trả đủ. Giá trị gia tăng, vừa đủ làm nghĩa vụ và tái sản xuất loạt sản phẩm tiếp theo. Tóm lại, xí nghiệp phải được quản trị ổn định với một độ chinh xác định lượng như một cỗ máy. Vấn đề là tổng quyết toán bất kỳ thời điểm nào, sau mỗi lô sản phẩm, số vốn một tỷ đồng kia vẫn được Bảo toàn. Rõ ràng vận hành Xí nghiệp trong mối tương hỗ vật tư – máy móc – nhân công – tiêu hao…phải được tính toán điều tiết hết sức chính xác trong mọi biến động, để nó luôn khớp được với hạn mức đã cho trước tại bất kỳ thời điểm nào. Cái hạn mức ấy, trong Tự nhiên, được gọi là Đại lượng bảo toàn. So với sơ đồ tổ chức và quản trị Xí nghiệp, Bộ máy tổ chức khổng lồ của Tự nhiên còn phức tạp hơn cả tỷ tỷ lần. Chính vì thế, Tự nhiên cần một hệ thống các Đại lượng bảo toàn. Hệ thống đó có tên gọi chung là Định luật bảo toàn và biến đổi năng lượng. Ngoài một số ít ỏi các Đại lượng bảo toàn và các hằng số Vũ trụ học đóng vai trò duy trì “cấu hình” và vận động của một hệ tối ưu, Tự nhiên còn có một số công cụ hỗ trợ hữu hiệu trong “quản trị” vận hành, đó là một số Nguyên lý cơ bản như : Nguyên lý Tác dụng tối thiểu : Một Hệ vật lý chuyển động với một năng lượng nào đó, từ vị trí này đến vị trí khác, thì trong số các lộ trình khả dĩ, hệ sẽ luôn luôn chọn một lộ trình nhanh nhất (không nhất thiết là ngắn nhất) , nghĩa là hệ chọn phương án tối ưu nhất để tiết kiệm thời gian, và do đó, năng lượng mà hệ sử dụng cũng đạt tối ưu. Vì vậy, Vật lý học xem tích của năng lượng và thời gian là một đại lượng vật lý được gọi là Tác dụng. Theo đó, quĩ đạo chuyển động của hệ là lộ trình ứng với tác dụng tối thiểu . Đây là định luật, được gọi là Nguyên lý tác dụng tối thiểu (hay còn gọi là nguyên lý Hamilton), nó diễn đạt một cách tổng quát định luật chuyển động của các hệ cơ học. Nguyên lý tổng quát này cho phép rút ra phương trình chuyển động của hệ và một loạt các định nghĩa, và các khái niệm đặc trưng khác. Trong các lĩnh vực khoa học khác, ngoài cơ học, người ta cũng khám phá thấy các thuộc tính tương tự :Từ đầu thế kỷ 17, Pièrre de Fermat (một nhà toán học Pháp) đã nhận thấy thuộc tính tiết kiệm do sự chọn lựa tối ưu của Tự nhiên, đã khám phá một nguyên lý, gọi là nguyên lý Fermat, phát biểu như sau : Chuyển động của ánh sáng luôn luôn diễn ra dọc theo quang lộ, sao cho thời gian chuyển động là ngắn nhất. Nhờ nguyên lý Fermat, ta có thể giải thích được tất cả các định luật của quang hình. Đặc biệt là định luật khúc xạ ánh sáng. Đối với vật lý hiện đại, từ cuối năm 1900, M. Planck đã tìm ra một trong những đại lượng cơ bản nhất, mà lúc đó bản thân ông cũng không hiểu được ý nghĩa của nó : Đó là sự tồn tại một lượng tử tác dụng cơ bản h . Thực tế chỉ ra rằng, Tác dụng không phải là một đại lượng có thể có giá trị nhỏ tùy ý , trái lại nó luôn luôn có một giá trị nhỏ nhất bằng h, và được gọi là hằng số Planck, có giá trị rất nhỏ : h = 6,626. 10-34 js. Đó là lượng tử tác dung tối thiểu tồn tại trong Thế giới lượng tử, và chỉ có Cơ học lượng tử, một lý thuyết ra đời sau đó hơn hai chục năm , mới giải thích được ý nghĩa và bản chất của lượng tử tác dụng h này. Trong đời sống vĩnh hằng của mình, Tự nhiên sử dụng một cách phổ biến chiến lược tiết kiệm.Thuộc tính ấy được con người nhận biết từ rất lâu : Từ cuối thế kỷ thứ XIII , nhà Thần học và triết học Guillaume d’Occam đã tìm ra Nguyên lý tiết kiệm này và thường được gọi là “Lưỡi dao cạo Occam”. Với lưỡi dao sắc ngọt Occam, Tự nhiên sẽ gọt bỏ những gì rườm rà phung phí năng lượng một cách vô ích. Sự lãng phi nào cũng đều là nguyên nhân của sự bất ổn định dẫn đến sụp đổ. Các nguyên lý tác dụng tối thiểu, kiểm soát năng lượng chuyển động của các hệ Cơ học, là biểu hiện trực tiếp của Nguyên lý tiết kiệm. Cái nguyên lý có thể là một gợi mở cho cơ hội trả lời một câu hỏi lớn : “Vì sao Vũ trụ tồn tại một cách bền vững”, mà không ít các nhà Vật lý và Triết học vẫn luôn trăn trở. Bởi vì một hệ tồn tại bền vững, thì nó phải ở trạng thái cân bằng bền với thế năng cực tiểu. Mặt khác, bằng kinh nghiệm quan sát những hiện tượng diễn ra trong Tự nhiên, cũng chứng tỏ rằng, Tự nhiên luôn luôn sử dụng cái lượng tối thiểu để làm nên cái chất tối đa. Chẳng hạn, khi đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc của Vật chất, Các Nhà Vật lý nhận ra rằng, với số họ hàng đông đúc trong Thế giới các hạt cơ bản, Tạo hóa chỉ cần 3 hạt để tạo ra toàn bộ Vật chất trong Vũ trụ với tất cả sự phức tạp và đa dạng của Tự nhiên. Đó là electron và hai hạt kia là proton và nơtron. Tổ hợp hai hạt cơ bản này tạo thành Hạt nhân. Và nhờ tương tác điện trường mà electron “vồ” lấy hạt nhân và “quấn quít” quay quanh nó: Thế là nguyên tử ra đời. Số Proton trong hạt nhân nguyên tử tăng (kéo theo sự tăng tương ứng của nơtron), làm cho khối lương của nguyên tử tăng ( gọi là Nguyên tử số Z), số electron quay quanh hạt nhân cũng tăng theo để nguyên tử trung hòa về điên. Toàn bộ quá trình thay đổi về lượng đó, dẫn đến sự thay đổi về chất. Nghĩa là từ một hình thái cấu trúc nguyên tử chuyển thành các hình thái cấu trúc các nguyên tố hóa học khác nhau : Tiền đề của cấu tạo hình thái vạn vật trong Tự nhiên. Và cũng chỉ có 92 nguyên tố hóa học mà thôi, để bắt đầu bước lên nấc thang thứ nhất của con đường tiến hóa. mà khởi đầu là 3 hạt cơ bản. Thật là một con số quá ít ỏi so với muôn hình muôn vẻ giống loài Trong Tự nhiên. Hóa ra, bí mật chính là ở cách kết nối của các nguyên tố hóa học. Lấy một ví dụ nhỏ : Một người tò mò quan sát và đếm số “cái bắt tay” của 10 người bạn lâu ngày gặp lại, anh ta ngạc nhiên với con số 45 cái bắt tay đã đếm được ! Nghĩa là 10 người đã tạo ra 45 sắc thái tình cảm khác nhau trong cuộc tái ngộ. Trong Tự nhiên còn tiếp tục diễn ra chuỗi kết nối “thứ cấp” , chắp nối theo nhóm, ngày càng rộng và càng phức tạp, kéo theo sự hình thành chất vô cùng đa dạng : từ khoáng chất cho đến sinh chất, cao nhất là các hình thái sống… Vì mỗi kết nối được thực hiện, là một sản phẩm mới ra đời, với bản chất hoàn toàn khác nhau, cho nên sự đa dạng của muôn loài mà Tạo hóa đã ra tay xếp đặt, chỉ chiêm ngưỡng thôi cũng không xuể, chứ nói gì đến đo đếm. Như vậy, với số lượng “vật liệu” ít ỏi ban đầu, bằng nghệ thuật kết nối,Tạo hóa đã giải quyết hết sức thông minh bài toán Tối ưu, chẳng những trong tiến trình phát sinh hinh thái, mà còn tối ưu cả trong tầm kiểm soát tính ổn định của chúng trong mọi nấc thang tiến hóa. chỉ bằng cách nắm giữ 92 “hồ sơ gốc” cùng với sơ đồ kết nôi chúng mà thôi. Khám phá ra chân lý này, con người như nhận được sự gợi ý từ Thiên nhiên, tạo ra vô số những phương tiện, tiện nghi theo ý muốn : Ngày nay, chúng ta biết rằng mọi tiện nghi vật chất tân tiến nhất, do kỷ thuật điện tử số cung cấp, từ chiếc Điện thoại di động đa dụng (vừa là công cụ thông tin liên lạc toàn cầu, vừa là máy chụp ảnh, quay video, xem truyền hình, giải trí GO…,), cho đến các thiết bị Y tế, như máy chụp công hưởng từ (MRI), các thiết bị laser, máy tính, họ hàng Robot v.v.. đều là sản phẩm của “công nghệ kết nối” theo các sơ đồ lôgic cơ bản. Toàn bộ những thành quả đó được tạo ra chỉ từ một số rất ít ỏi linh kiện cơ bản có thể đếm được trên đầu ngón tay! Đó là : Transistor, Diot, Thyristor, Triac, Diac, Tụ điện, Điện trở, Cuộn cảm, cùng một vài đèn chân không phát xạ đặc biệt. Và cũng nhờ “Nguyên lý tối ưu” đó mà nhà chuyên môn có thể kiểm soát hiệu quả toàn bộ thành quả kỷ thuật của mình vận hành chính xác, bền vững trong mọi điều kiện. Triết lý nhân sinh Phương đông có nêu lên bốn cột mốc đời người : Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Trong đó, Lão và Tử là quá trình tất yếu của chu trình sống. Sinh và Bệnh là quá trình đấu tranh giữa sinh tồn và đào thải đầy thử thách. Bao đời nay, trong dân gian lưu truyền câu thành ngữ : Trời sinh voi ắt Trời sinh cỏ. Câu này đã bị hiểu sai lệch sang nghĩa thực dụng hơi nhiều, thực ra ý nghĩa Triết học của nó sâu sắc hơn thế : Tạo hóa đã làm ra sự sống thì Tạo hóa cũng phải tạo ra nguồn nuôi để duy trì sự sống đó. Nó tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau, để con người và muôn thú khai thác tự nuôi mình. Nhưng các Triết gia còn quên đúc kết một triết lý tương tự khác : Trời cho sinh ắt Trời cho thọ. Nhưng, lộ trình của chữ thọ thì gập ghềnh với quá nhiều ngẫu nhiên, do chữ Bệnh mà ra, có lẽ vì vậy mà Tạo hóa cũng phải tạo ra nguồn dược liệu, tiềm ẩn trong tự nhiên, để bù lại những rủi ro tính mạng mà tự thân con người không kiểm soát được. Có lẽ vì thế mà “thảo dược học” ứng dụng đã nảy sinh rất sớm, từ buổi con người còn sống nguyên sơ, và được phát triển ngày càng hoàn thiện. Đến nay, con người đã làm chủ công nghệ chiết xuất, chế biến từ côn trùng, thảo mộc, thành những đon vị dược liệu cơ bản, mà số lượng cững chỉ đếm được trên đầu ngón tay : Thục địa, Trần bì, Đương qui, cam thảo, Nhân sâm, đại táo, Bạch truật, quế chi v.v.. Và, cũng lại bằng cách kết nối (phối hợp) công năng từ các đơn vị dược liệu cơ bản đó, lúc ít lúc nhiều, đã tạo ra vô số những toa thuốc chữa trị rất nhiều bệnh tật khác nhau. Thật là tài tình vậy ! Và cũng từ thực tiễn này của cuộc sống, một lần nữa, ta thấy một cơ chế Tối ưu mà Tạo hóa sử dụng, để làm ra toàn bộ hiện thực Tự nhiên, giống như đã dùng chỉ 92 nguyên tố hóa học vậy. Nếu sơ đồ giản lược nhất của Ý thức là một chuỗi những so sánh lôgic “đúng” – “sai” giữa thông tin về ý tưởng của mục đích hành động và thông tin từ kho trải nghiệm sống, thì có lẽ ta cũng phải thừa nhận Vũ trụ (Tự nhiên) cũng có một “Ý thức” ở một mức độ nào đấy, biểu hiện trong hành vi chọn lựa những điều kiện tối ưu để tồn tại. Có vẻ sự khác nhau duy nhất giữa Ý thức người và Ý thức của Tự nhiên là : Trong khi Con người lấy kinh nghiệm sống, tích lũy được của riêng mình, làm tham chiếu so sánh giữa đúng và sai để dẫn dắt hành động, thì Vũ trụ không có cái gọi là kinh nghiệm tích lũy đó, mà dường như, hành động theo sự dẫn dắt của một loại “Mã” nào đó tồn tại ngay trong lòng nó. Phát thảo tuy còn sơ lược trên đây, cho thấy một sự thật, rằng tiết kiệm không đồng nghĩa với khắc khổ mà là một vẻ đẹp. Vẻ đẹp rực rỡ của Thiên nhiên, sự uy nghi hùng vĩ của Tạo hóa làm say đắm lòng người, lay động trái tim biết bao thế hệ nghệ sĩ. Nó vẫn mãi mãi còn đó, vẫn tiếp tục những nấc thang tiến hóa của mình, không bao giờ tàn lụi. Phải chăng, đó là bằng chứng làm cơ sở cho niềm tin để nhận thức một chân lý, giúp định hương cho tư duy và hành động suốt cuộc đời. (Còn nữa) http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Vu-Tru/Vi_sao_vu_tru_ton_tai_ben_vung_2/
  4. Số lượng lần phạm tội tăng nặng........... ===================================== 10 người chết trong một vụ cuồng sát 15/04/2011 14:47 (TNO) Một vụ cuồng sát vừa xảy ra hôm 14.4 ở tỉnh Liêu Ninh (Trung Quốc) khiến 10 người chết, Tân Hoa Xã dẫn nguồn tin từ giới chức cảnh sát tỉnh trên cho hay ngày 15.4. 10 nạn nhân nói trên được phát hiện đã thiệt mạng ngay tại một hồ bơi công cộng và điểm rửa xe hơi kế bên, thuộc làng Nhị Đài Tử, thị trấn Ninh Viễn, TP Yên Sơn, tỉnh Liêu Ninh. Theo điều tra ban đầu, cảnh sát đã xác định nghi can là Chu Vũ Hân (nam) 33 tuổi, là chủ hồ bơi công cộng và cơ sở rửa xe nói trên. Hiện cảnh sát đang truy lùng nghi can Chu. Trong số các nạn nhân bị giết hại có vợ, con trai, bố của Chu và một nữ công nhân ở hồ bơi. Trí Quang ===================================== Đất chuồi nuốt gọn xe buýt, 15 người chết 15/04/2011 9:27 (TNO) Một chiếc xe buýt đang chạy ngon trớn ở thành phố Manizales (Colombia) bỗng bị khối đất đá khổng lồ từ trên đồi đổ ụp xuống, cuốn chiếc xe vào sâu trong khu vực đồi. Ít nhất 15 người đã thiệt mạng. Đất chuồi xảy ra giữa những trận mưa lớn và kéo dài. Khiêng xác một nạn nhân trong vụ xe buýt bị đất chuồi vùi lấp - Ảnh: Reuters Reuters đưa tin, các nhóm cứu hộ đã tìm được thi thể 15 người. Năm người khác đang thuộc diện mất tích nhưng không có nhiều hy vọng sống sót do khối đất, đá đổ sập lên chiếc xe buýt quá lớn. Hiện cư dân tại một số khu vực ở Manizales đã được sơ tán trước nguy cơ có thể tiếp tục xảy ra đất chuồi. Theo BBC, lũ lụt trên diện rộng ở Colombia trong thời gian qua đã lấy đi mạng sống của hơn 300 người, buộc hai triệu người khác phải di tản. Mùa mưa 2010-2011 ở Colombia được đánh giá thuộc loại tồi tệ nhất trong lịch sử, gây ra những trận lụt kinh hoàng. Thiệt hại về vật chất lên đến hàng tỉ dollar. Đoan Nhật
  5. Dare thân mến.Thì ra là vậy. Đó là do cách sắp xếp và suy luận của Dare khi tìm hiểu luận điểm của tôi (Những cũng không loại trừ khà năng diễn đạt chưa thật dễ hiểu của tôi) Tôi nói thêm để Dare thấy rõ hơn như sau: Trong luận đề tôi đã nói rõ nội dung: Mọi người thừa nhận ý thức tương tác với vật chất. Vậy thì nó phải có năng lượng để thực hiện sự tương tác. Chứa đựng năng lương và tương tác thì nó mang thuộc tính vật chất - So với định nghĩa vật chất của tôi.
  6. Tai nạn tăng nặng: Cháy nổ..... ========================== Trung Quốc: nổ nhà máy hóa chất, 9 người chết Thứ Năm, 14/04/2011, 10:33 (GMT+7) TTO - Nhà chức trách Trung Quốc sáng nay 14-4 cho biết ít nhất 9 người đã bị thiệt mạng trong một vụ nổ nhà máy hóa chất ở tỉnh Hắc Long Giang, đông bắc nước này. >> Read this on Tuoitrenews.vn Vụ nổ xảy ra lúc 10g10 tối qua 13-4 tại Nhà máy hóa chất Fuxing, thuộc thành phố Daqing. Vào thời điểm nổ có 14 người đang ở trong nhà máy. Chín người đã chết ngay tại chỗ, năm người kia may mắn thoát được, theo Tân Hoa xã. Vụ nổ đã gây ra một đám cháy lớn bao trùm nhà máy ba tầng này. Các nhân viên cứu hỏa tuy nhanh chóng dập được lửa nhưng không khí gần nhà máy nồng nặc mùi cháy khét. Các nhà điều tra hiện đã vào cuộc để điều tra nguyên nhân gây nổ. MINH ANH
  7. Thiên nhiên không xác định ngày tốt/ xấu. Tốt/ xấu là do con người xác định bởi chính con người. Tất cả những ngày tốt/ xấu trong tất cả các sách lưu truyền trên thế gian chí cần lưu ý khi khởi đầu và kết thúc. Việc đang làm cứ làm. "Quân tử vấn dịch để biết lẽ tiến thoái. Không thay đổi ý chí của mình".
  8. Cảm ơn Kinhthu có lời chúc lành.Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt chính là giải pháp của tương lai. Nhược đài sư tử thượng. Thiên hạ thái bình phong. Tương truyền đây là câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Sư tử là biểu tượng của đất nước Singapor. Khi đất nước này trỗi dậy thì thiên hạ thái bình. Không phải! Sư tử chính là hình ảnh của Long Mã - biểu tượng của Hà Đồ - nguyên lý căn để của một lý thuyết thống nhất vũ trụ, thuộc về nền văn minh Lạc Việt, trải gần 5000 lịch sử. Khi cả thế giới này thừa nhận lý thuyết thống nhất vũ trụ thì sẽ an bình. Đấy chính là giá trị nhân văn cao cả nhất.
  9. Vì sao vũ trụ tồn tại bền vững? (Phần 2) Hà Yên chungta.com Nguyên lý tương ứng Bohr 1.Về Nguyên lý tương ứng – Nhà vật lý lừng danh người Áo Niels Bohr đã khám phá ra Nguyên lý này. Với Vật lý hiện đại, nguyên lý chỉ ra rằng: Các kết quả thu được từ lý thuyết lượng tử phải hội tụ về các kết quả thu được từ lý thuyết cổ điển. Những con đường khám phá đi đến Cơ học lượng tử đã xác nhận một sự thật là Thế giới vi mô và Thế giới vĩ mô luôn có những hiện tượng, những sự thể, tương ứng và tương đương. Ví dụ : Các biến động lực như tọa độ x và vận tốc v là những đại lượng liên hợp, đặc trưng đầy đủ để mô tả trạng thái của một hệ cơ học thông qua phương trình chuyển động. Chúng là những đại lượng đo lường được, có ý nghĩa xác định khi nhận các giá trị đo. Thế nhưng, khi khám phá ra Cơ học ma trận (tiền thân của Cơ học lượng tử), người ta phải viết phương trình chuyển động của hệ cơ học này, không phải bằng các biến động lực thông thường : tọa độ x và vận tốc v, mà tương ứng với chúng, lại là những dạng thức đã được trừu tượng hóa. Đó là những ma trận, những cái bảng vuông, trên đường chéo là các con sô 1 những chỗ còn lại là các con số 0. Chúng không phải là những đại lượng đo được, những đại lượng có thể được gán những giá trị số. Để khẳng định sự tồn tại của Nguyên lý tương ứng, một nguyên lý nêu lên khả năng nhất thể hóa các yếu tố không hoàn toàn tương thích của thế giới Tự nhiên, Heisenberg – Nhà vật lý đã dựa theo sự dẫn dắt của Nuyên lý tương ứng này mở toang cánh cữa bước vào Thế giới vi mô, đã tuyên bố: “Cơ học lượng tử xuất hiện từ những nổ lực mở rộng Nguyên lý tương ứng cua Bohr thành một sơ đồ Toán học hoàn chỉnh bằng cách chính xác hóa những khẳng định của ông” Về sau, chính các nhà vật lý lý thuyết lừng danh như Paul Dirac, Pascual Jordan đã xác lập một cách có hệ thống các định luật của Cơ học cổ điển đã được chuyển sang hệ thống mới của Cơ học lượng tử mà hoàn toàn không cần thay đổi. Cái cần sửa đổi là các đại lượng, những yếu tố là các biến động lực, được coi là cơ sở của Cơ học (như vị trí và vận tốc chẳng hạn), bị những định luật này chi phối. Tóm lại, nhờ dựa trên Nguyên lý tương ứng mà các Nhà vật lý lý thuyết đã vượt được một quãng đường dài, đầy chông gai, trong thời kỳ chuyển tiếp từ Vật lý cổ điển xâm nhập vào Vật lý lương tử, bằng cách đoán chừng, trong đó, coi mỗi công thức, mỗi phương trình của Cơ học lượng tử đều được gợi ra từ một công thức, một phương trình tương ứng của Cơ học cổ điển. 2. Về ý nghĩa Triết học: Tương ứng – Chiếc cầu nối Tự nhiên – Xã hội Có hai nội dung mang ý nghĩa sâu sắc của Nguyên lý tương ứng: Thứ nhất, phát hiện sự tương ứng của các công thức và phương trình Vật lý mô tả vận động Vật chất của hai Thế giới vĩ mô và vi mô (chỉ có các biến động lực là thay đổi), là một minh chứng hùng hôn về sự tương đương, với mức độ khác nhau, của các qui luật Tự nhiên của hai Thế giới ấy: Hai Thế giới mà người ta quá nhấn mạnh về mặt không tương thích của chúng. Sự thật là, cho đến đầu thế kỷ 21, mặc dù với một nỗ lực to lớn, các Nhà vật lý lý thuyết trên thế giới vẫn chưa xây dựng được mô hình Toán học cho một lý thuyết hợp nhất Hấp dẫn lượng tử - tức là một lý thuyết hợp nhất Thế giới vĩ mô với Thế giới vi mô, được hoàn toàn công nhận. Nhưng đó là thực tại Vật lý chứ không phải thực tại Vũ trụ. Vũ trụ vẫn thế từ lúc hình thành cho đến 15 tỷ năm sau. Nó vận hành vô cùng chính xác trong một thể thống nhất hài hòa. “Vũ trụ thống nhất ở tính Vật chất của nó” Mác và Lênin – những Nhà biện chứng vĩ đại nhất – đã viết như vậy khi hai ông chưa biết đến “Lý thuyết siêu dây” trong không gian trừu tượng 11 chiều, mà ngày nay được bàn luận náo nhiệt. Thứ hai, Thế giới Tự nhiên và Thế giới nhân sinh có những yếu tố hình thái không tương thích, nhưng đều là bộ phận của một cơ thể thống nhất : Vũ trụ. Sự không tương thích cơ bản nhất, là Thế giới nhân sinh không thuần túy chỉ là vận động Vật chất như trong Thế giới Tự nhiên, mà còn là một Thế giới ngự trị bởi Ý thức và Tinh thần. Dù có thuộc tính khác biệt như vậy, Thế giới nhân sinh vẫn phải vận hành trong giới hạn qui luật vận động chung, đảm bảo tính thống nhất của toàn Vũ trụ. Nguyên lý tiết kiệm sử dụng phương án dùng chung bằng cái được gọi là Nguyên lý tương ứng như chúng ta đã biết. Không thể tồn tại một Vũ trụ, mà trong đó, mỗi hình thái, mỗi hiện tượng, tự xác lập cho mình một hệ thống các nguyên lý, các định luật riêng. Điều này tương đương với sự tan rã tất yếu của một Quốc gia, nếu cho phép các địa phương, các miền, tự ban hành hệ thống pháp luật riêng theo “ý chí tự do” của mình vậy. Với thuộc tính khác biệt đó, Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội không thể cứng nhắc tuân theo tương ứng một – một, mà tuân theo hệ quả tương đương, được chỉ ra bởi Triết học. Chính vì thế mà Triết học hiện đại không thể phát triển mà không dựa vào những thành tựu mới nhất của Khoa học, đặc biệt là Vật lý học. Vì vậy, mối quan hệ giữa Vật lý và Triết học là mối liên hệ khăng khít hình với bóng. Một mệnh đề đúng của Triết học phải là hệ quả tương ứng của một qui luật Tự nhiên hay một định luật Vật lý nào đó. Trong tác phẩm Triết học nổi tiếng :”Chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”của mình, V.I.Lênin đã dẫn những lời của L. Boltzmann khi nói đến tính tương đương lạ lùng của các phương trình vi phân mô tả các hiện tượng khác nhau theo bản chất vật lý của chúng. Tính tương đương này phản ảnh sự đồng dạng của các khách thể có bản chất khác nhau. Sự đồng dạng ấy tạo ra khả năng mô hình hóa. Tính tương đương, theo Lênin, là một trong những biểu hiện sự thống nhất của giới Tự nhiên, của Vũ trụ. Trước Lênin, C.Mac và Ph. Ănghen đã rất chú ý đến mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa các Khoa học. Trong bản thảo “Kinh tế - Triết học” năm 1844, C.Mác đã cho rằng : Tình trạng tách rời giữa các Khoa học, sự phân biệt một cách quá cứng nhắc giữa Khoa học Tự nhiên và Khoa học Xã hội là có nguyên nhân lịch sử và nguyên nhân nhận thức của nó. Nhưng đó không phải là vĩnh viễn. Với sự phát triển lịch sử và văn hóa của nhân loại, tình trạng đó sẽ được khắc phục” C.Mac còn nhấn mạnh : “Về sau, Khoa học Tự nhiên bao hàm trong nó Khoa học về con người, cũng như Khoa học về con người bao hàm trong nó Khoa học Tự nhiên: Đó sẽ là một Khoa học đích thực”. Vũ trụ thống nhất ở tính Vật chất của nó, cho nên các Khoa học phải phản ảnh được tính thống nhất đó, và vì thế sự tác động và sự thống nhất của tri thức khoa học là điều tất yếu. 3. Về vai trò dẫn dắt của Nguyên lý tương ứng trong phát minh Vật lý Vào những năm đầu của Thế kỷ XX, mô hình nguyên tử được hình dung như hệ Mặt trời thu nhỏ/ Trong đó các electron chuyển động trên những quĩ đạo quanh hạt nhân theo đúng các định luật cơ học Newton. Cho đến năm 1913, Niels Bohr đưa vào mô hình này một nguyên lý Lượng tử, đòi hỏi rằng, chỉ có một số quĩ đạo trong vô vàn những quĩ đạo khả dĩ là thực sự được phép. Khi các electron nhảy giữa các quĩ đạo này thì nguyên tử hoặc nhận vào, hoặc phát ra một lượng tử năng lượng điện từ - gọi là một photon – phù hợp với hiệu năng lượng gữa hai quĩ đạo đó. Cơ chế này đã giải thích được, tại sao các nguyên tử lại có những dấu hiệu phổ đặc trưng, khi phát hay hấp thụ ánh sáng chỉ ở một số những tần số xác định. Như vậy, mô hình hành tinh của nguyên tử, tuân theo Vật lý cổ điển, lần đầu tiên được khoác chiếc áo lượng tử, mà ngày này người ta hay gọi là lý thuyết lượng tử cũ. Lý thuyết lượng tử cũ không giải thích được rất nhiều những nét tinh tế trong phổ nguyên tử. Người ta nghi ngờ các electron trong nguyên tử chuyển động theo nguyên tắc khác một cách căn bản so với cơ học cổ điển. Điều này đã làm bối rối các Nhà vật lý tài năng nhất lúc bấy giờ, trong số đó có Werner Heisenberg. Ông cho rằng, chắc chắn phải tồn tại một định luật mà phương trình viết cho nó không phải liên kết các biến vị trí và vận tốc của electron như trong cơ học cổ điển, điều mà người ta xem là quá hiển nhiên. Chẳng hạn, nếu Einstein không phá bỏ cái khuôn mẫu hiển nhiên tuyệt đối của khái niệm không gian và thời gian để định nghĩa lại nó một cách cơ bản và rộng lớn hơn, thì làm sao có được Thuyết tương đối vĩ đại ra đời? Với tư duy ấy, Heisenberg đưa ra ý kiến xét lại khái niệm cứng nhắc về vị trí và vận tóc, từ cơ học cổ điển, áp dụng cho electron trong Thế giới lượng tử. Nghĩa là phải tìm những đại lượng tương ứng có thể liên kết một cách chặt chẽ trong phương trình chuyển động viết cho electron trong nguyên tử. Vây, những đại lượng tương ứng, giữ vai trò là những biến chính tắc ấy, là những đại lượng gì? Một lóe sáng bất chợt, Heisenberg nghĩ đến hình ảnh hình học của một dao động tuần hoàn : Một điểm bất kỳ chuyển động trên đường tròn, có thể triển khai, theo thời gian, thành một sóng sin có biên độ và chu kỳ, đúng bằng chu kỳ vá bán kính đường tròn mà trên đó điểm chuyển động. Lập tức, ông nhận ra các biến chính tắc để viết nên phương trình dao động ở đây phải là biên độ và tần số. Nhưng với dao động bất kỳ thì thế nào, Chẳng hạn dao động của dây đàn violon phát ra âm thanh réo rắc đầy quyến rũ? Đó là tổ hợp hài hòa các âm sơ cấp của dây đàn. Một diễn đạt như thế, thì vị trí và vận tốc tức thời của một điểm bất kỳ dọc theo dây đàn, đều được biểu diễn bằng một tổng, có trọng số, của âm cơ bản và các họa âm của dây đó. Về hình thức luận Toán học, thì một dao động bất kỳ có thể khai triển thành chuỗi Fourier, mà các số hạn của chuỗi chính là những tần số sơ cấp, cũng là những âm sơ cấp của dây đàn vậy. Sự chói sáng thiên tài của Heisenberg là ở chỗ, ông nhận ra sự Tương ứng, hoàn toàn lôgic, giữa Thế giới vĩ mô và Thế giới vi mô, áp dụng cho chuyển động của electron trong nguyên tử. Ví dụ được viện dẫn trên đây, một lần nữa, cho thấy, tính phổ quát của Nguyên lý tương ứng, trong Tự nhiên, được biểu hiện dưới nhiều hình thức phong phú. Sự tương đương giữa các đối ứng tồn tại trong Thế giới vĩ mô và Thế giới vi mô, như các biến động lực, các phương trình chuyển động, các đại lượng tác dụng tối thiểu, v.v.. Tuy chúng hiện hữu với “độ nhòe”khác nhau, nhưng có cùng ý nghĩa Vật lý, và thống nhất trong một hệ hình thức hết sức chặt chẽ, thậm chí, có thể chuyển đổi cho nhau, từ Vật lý lượng tử sang Vật lý cổ điển. Chẳng hạn, trường hợp phương trình Schcrödinger mô tả chuyển động của electron trong nguyên tử, như một sóng dừng trải rộng. Nhà vật lý Mỹ David Bohm đã sử dụng cách phát biểu thủy động lực học do E. Madelung đề xuất năm 1926, để chuyển phương trình này thành phương trình chuyển động có dạng như trong Vật lý cổ điển (nhưng thêm vào đó một số hạng gọi là thế lượng tử). Cũng cần lưu ý đến những bài viết gần đây, trong đó nêu lên những lập luận không tán thành mở rộng các khái niệm, các sự kiện lượng tử liên hệ với Thế giới vĩ mô với bất kỳ mức độ nào. Đặc biệt trong bài viết “Lời giới thiệu của Paul Davies” trong cuốn VẬT LÝ & TRIẾT HỌC của W.Heisenberg. (Paul Davies là Nhà vật lý, Nhà văn. Giáo sư Triết học Tự nhiên Đại học Macquarie – Sydney). Khi nói về Nguyên lý bất định, P. Davies thừa nhận đó là nguyên lý mấu chốt của cuộc cách mạng lượng tử, và ông cũng viết rằng :”Người ta quá quen thuộc với tính bất định trong nhiều quá trình Vật lý – thí dụ, trong thị trường chứng khoán, hoặc trong Nhiệt động lực học – nhưng trong trương hợp này, tính bất định là do sự thiếu thông tin chứ không phải là do bất kỳ hạn chế cơ bản nào trong những thứ có thể biết được về các hệ này”. Có thể P. Davies đã quá bó hẹp khái niệm Thông tin chăng ? Ở đây ông coi “Thông tin”chỉ là lượng tin trong một thông báo. Ngày nay, khái niệm Thông tin có nội hàm sâu rộng hơn rất nhiều: Các quá trình hóa học, sinh học, vật lý, điều khiển học v.v.., thậm chí là các quá trình lôgic đều là những quá trình vận động Thông tin. Với ý nghĩa đó, thì độ bất định của quĩ đạo của electron trong nguyên tử chẳng hạn, cũng phải là do thiếu Thông tin, chứ không riêng gì tính bất định – nói là do thiếu thông tin - của Thị trường chứng khoán. Hơn thế nữa, gọi là một “Nguyên lý” thì nó phải có tính khái quát cao. Chẳng hạn, nguyên lý bất định nếu chỉ là quan hệ của sai số đo thì nó đâu được coi là trung tâm của Cơ học lượng tử, thậm chí là Vũ trụ học lượng tử. Như Nhà Vật lý vũ trụ - Giáo sư Stephen Hawking – tuyên bố : “Một lý thuyết thống nhất (toàn thể Vũ trụ) thành công phải chứa Nguyên lý bất định” Mặt khác, sự thiếu Thông tin là thuộc tính của Tự nhiên. Bởi vì, hệ quả Triết học của định lý Bất toàn Kurt Göden chỉ ra rằng, một hệ thống, nếu nhất quán thì nó không đầy đủ. Đó chính là hạn chế cơ bản của Tự nhiên, mà Nguyên lý bất định là biểu hiện trực tiếp. Và, khi nói về Nguyên lý chồng chập, với những nghịch lý gây tranh cãi nhiều nhất trong cách giải thích Cơ học lượng tử ở thế kỷ XX, trong đó, nghịch lý “con mèo Shcrödinger” tồn tại trong một trạng thái lơ lửng : Mèo vừa sống, lại vừa chết, trong một thí nghiệm (giả định) : Con mèo bị nhốt trong một cabin, trong đó có đặt một lọ cyanua. Phía trên lọ có treo một chiếc búa mà sự rơi xuống của nó được kiểm soát bằng sự phân rã của một chất đồng vị. Ngay khi nguyên tử đầu tiên bị phân rã, chiếc búa rơi xuống làm vỡ lọ và chất độc cyanua thoát ra : con mèo kia chết. Theo những qui luật của Vật lý lượng tử, ta không thể biết lức nào xảy ra phân rã phóng xạ, mà chỉ có thể nói theo xác suất, chẳng hạn, có 50% khả năng xảy ra một phân rã trong vòng một giờ. Nếu không mở cabin để quan sát, thì sự tiên đoán con mèo còn sống hay đã chết là rất mong manh. Như vây, rõ ràng bên trong cabin là một sự trộn lẫn kỳ lạ những hiện thực lượng tử gồm 50% con mèo còn sống và 50% con mèo đã chết. Một tình huống mà Schrödinger cho là không thể chấp nhận được. Nhưng theo nguyên lý chồng chập, một hệ có thể tồn tại bỡi các trạng thái riêng, và vì vậy, theo một cách nào đó, nó lơ lửng giữa các thực tại cổ điển khác nhau. Ở khía cạnh mà chúng ta đang theo đuổi, thí nghiệm giả định về nghịch lý “Con mèo”, nói lên rằng, các quá trình trong Thế giới vi mô (phân rã phóng xạ) có thể được liên kết với vật thể vĩ mô (con mèo), và như vậy Nguyên lý chồng chập cũng phải được áp dụng cho Thế giới vĩ mô, cho dù nó có dẫn đến nghịch lý. Đây là một ý tưởng mới của nhiều Nhà vật lý, hướng sự khám phá hiện thực vào quá trình chuyển tiếp giữa Thế giới vi mô và Thế giới vĩ mô, mà trước đây người ta cho rằng hai Thế giới ấy là cách biệt vì chúng không tương thích. Chẳng hạn, vào năm 1986, một số Nhà vật lý phát triển “Cách tiếp cận cục bộ tự phát” do P. Pierle đề xuất, trong đó, bổ sung thêm vào phương trình Schrödinger một số hạng phi tuyến đủ nhỏ, gọi là số hạng hiệu chỉnh, có tác dụng làm cho sự chồng chập lượng tử chuyển về một trang thái riêng xác định khi kích thước của hệ trở thành vĩ mô. Số hiệu chỉnh này đủ nhỏ để không làm nhiễu các định luật lương tử đã biết trong Thế giới vi mô. Một hướng nghiên cứu khác được gọi là Lý thuyết mất kết hợp, do Nhà vật lý W. Zurek vào những năm 1981 – 1982 xây dựng nhằm xóa bỏ sư ngăn cách giữa những chồng chập các trạng thái vi mô (được mô tả bỡi phương trình Schrödinger) và trạng thái vĩ mô quan sát được do suy biến Hàm sóng. Cho đến năm 1996, người ta tiến hành những thí nghiệm nhằm kiểm tra lý thuyết “Mất kết hợp”, để xem con mèo vừa sống, vừa chết của Schrödinger có thể chuyển sang Thế giới vĩ mô trở thành hoặc là sống, hoặc là chết như thé nào . Để tiến hành thí nghiệm,các nhóm nghiên cứu phải chế tạo cho được những hệ vừa là vĩ mô vừa là vi mô – có thể gọi là những hệTrung mô – nhằm làm cho quá trình diễn ra trong đó đủ chậm để có thể quan sát được. Nhóm thứ nhất tiến hành tại Viện tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Mỹ (NIST). Nhóm thí nghiệm thứ hai được tiến hành tại Trường Cao đẳng Sư phạm Paris. Những thí nghiệm trên đây, mặc dù theo nhận xét của một số Nhà vật lý cho rằng, những vật thể được chọn thí nghiệm chưa hoàn toàn là những vật thể vĩ mô, tuy nhiên chúng đã chứng tỏ một triển vọng lớn khả năng thăm dò bằng thực nghiệm, tìm con đường chuyển tiếp từ Thế giới lượng tử (vi mô), sang Thế giới cổ điển (vĩ mô) theo lý thuyết mất kết hợp. Đặc biệt là sự kiện thực nghiệm thành công, được coi là một trong 10 thành tựu Vật lý của năm 2010, mà Tạp chí PhysicsWorld bình chọn, do nhóm Andrew Cleland thực hiện : làm cho các hiệu ứng lượng tử có thể thấy được bằng mắt thường trong điều kiện Thế giới vĩ mô. Bằng cách giảm biên độ dao động trong một hộp cộng hưởng ở nhiệt độ rất lạnh (0,1độ K). Và nhờ đó tạo nên hiện tượng chồng chất (superposition) đồng thời của trạng thái kích thích và không kích thích trong hộp công hưởng. Điều này tương đương với tình huống con mèo nổi tiếng của Schrödinger – đồng thời vừa chết vừa sống. Có thể nói đây là lần đầu tiên, chúng ta thực sự có một tia sáng rọi vào ranh giới bí ẩn giữa Thế giới lượng tử và Thế giới cổ điển. Tóm lại, những yếu tố Tương ứng giữa Vật lý cổ điển và Vật lý lượng tử là bằng chứng nói rằng Thế giới vĩ mô và Thế giới vi mô chỉ là hai cực của một thực tại Vũ trụ duy nhất, như hai cực của một giải phổ trải dài: ở cực này là “xứ sở” của cái vô cùng bé, cái phi kích thước, cái tiềm năng, còn ở cực kia là “xứ sở” của cái vô cùng lớn, cái có kích thước, cái cụ thể. Dọc theo giải của “phổ” là trật tự hài hòa của những nấc thang hình thái và trạng thái vật chất, phản ảnh sự thống nhất trong một tổng thể Vũ trụ.
  10. Soi rọi khoảnh khắc đầu tiên của vũ trụ Hàm Châu Sài Gòn tiếp thị Trong một lĩnh vực khoa học hoàn toàn mới và cực kỳ phức tạp như vật lý thiên văn hạt cơ bản, có một người Việt Nam được các Tạp chí thông tin khoa học có ảnh hưởng rộng trên thế giới như New Scientist rồi Physics Today, to Physics World thích thú giới thiệu. Anh đang giữ chức giáo sư Đại học Washington (Mỹ). Tên anh là Đàm Thanh Sơn. Nói "khoảnh khắc đầu tiên" là nói một cách "văn hoa", chứ muốn cho thật chính xác, thì phải nói 10 micro giây đầu tiên của Vũ trụ. Từ Vũ trụ ở đây viết hoa, bởi lẽ nó là tên riêng chỉ cái Vũ trụ nơi ta đang sống. Trong năm năm gần đây, các nhà vật lý tại Trung tâm Máy gia tốc ion nặng thuộc Phòng thí nghiệm Brookhaven, NewYork, đã tạo ra được vật chất ở nhiệt độ cao chưa từng thấy trên Trái đất. Mục đích của thí nghiệm này là tái tạo trạng thái từng tồn tại trong 10 micro giây đầu tiên sau. Vụ nổ lớn (Big Bang) từ đó dần dần hình thành Vũ trụ này. Trong 10 micro giây ngắn ngủi khó tưởng tượng nổi ấy, các quark và gluon còn ở trạng thái plasma, chứ chưa kết hợp lý thành proton, neutron, rồi nguyên tử, phân tử và cuối cùng thành các vật thể thiên hình vạn trạng quanh ta khi Vũ trụ nguội dần. Theo lý thuyết trường lượng tử truyền thống, thì vật chất tạo ra trong 10 micro giây đầu tiên của Vũ trụ này phải là chất khí. Nhưng thực tại vật lý lại không phải thể, mà là... chất lỏng! Brookhaven và các trung tâm vật lý họp tác cùng làm thí nghiệm đó rất nhiều lần, thế mà lần nào kết quả cũng vẫn vậy thôi! Vẫn chỉ thu được chất lỏng, chứ chẳng phải chất khí như tiên đoán lý thuyết! Các nhà thực nghiệm Mỹ đâm ra lúng túng, nấn ná, không dám công bố ngay kết quả, bởi lẽ nó "trái khoáy" với khẳng định như "đinh đóng cột" của lý thuyết trường lượng tử chuẩn mực, kinh điển! Nhà khoa học trẻ Đàm Thanh Sơn Cho đến đầu xuân năm 2005, khi Đàm Thanh Sơn và cộng sự cho in bài báo khoa học mô hình lỗ đen lỏng trong không - thời gian 10 chiều trên tờ Tạp chí vật lý hàng đầu Physieal Review Letters, thì Brookhaven một lý giải được tường minh kết quả thực nghiệm mà họ vẫn thu được suốt 5 năm qua, nghĩa là vật chất được tạo ra đúng là một chất lỏng! Nhóm Đàm Thanh Son sử dụng lý thuyết dây trong không - thời gian 10 chiều để tính toán. Điều đáng ngạc nhiên là: tiên đoán lý thuyết của nhóm Sơn trùng khớp với kết quả thực nghiệm của Brookhaven. Do vậy, các kết quả mà Brookhaven công bố tại Hội nghị tháng 4/2005 của Hội Vật lý Mỹ ở Tampo, Florida, đã nhắc tới những tính toán của nhóm Son. Đây là lần đầu tiên lý thuyết dây được ghi nhận trong thông báo của một cuộc thí nghiệm lớn, tinh vi. Vậy lý thuyết dây (string theory) là gì? Nói một cách "nôm na" là, theo lý thuyết này, thì các hạt cơ bản của vật chất (như proton, neutron, electron...) không phải là những điểm, những "hạt" như người ta vẫn tưởng, mà là những dao động khác nhau của một vật thể một chiều gọi là dây (string). Nét đặc sắc của lý thuyết dây là nó bao hàm được cả lý thuyết tương đối rộng, thống nhất cả bốn tương tác, kể cả tương tác hấp dãn, làm sáng tỏ câu danh ngôn của Albert Einstein "Chúa không chơi trò xúc xắc”, tiến tới xây dựng thành công lý thuyết thống nhất vĩ đại (Grand unified theory). Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất là chưa từng có một bằng chứng thực nghiệm nào xác nhận lý thuyết dãy có liên quan với thực tại vật lý! Theo "lương tri" và "trải nghiệm" của những người bình thường, thì không gian chỉ có 3 chiều, nếu gắn thêm 1 chiều thời gian, thì không - thời gian cũng chỉ có 4 chiều. Thế nhưng, lý thuyết dây lại cho ràng không-thời gian có những... 10 chiều cơ đấy! Chỉ có điều các chiều phụ nén lại, cuộn lại trong một mặt cầu có bán kính tột cùng nhỏ bé, chỉ bằng một phần triệu tỉ tỉ tỉ (10-33) centimét! cho nên "người trần mắt thịt" thì làm sao mà tưởng tượng nổi! Lần đầu tiên trên thế giới, Đàm Thanh Sơn và cộng sự đã chứng tỏ được rằng lý thuyết dây có ứng dụng thiết thực. Và ứng dựng ấy được một phòng thí nghiệm lớn với máy gia tốc tối tân như Brookhaven xác nhận. Mặc dù hết sức tốn kém, các cuộc thí nghiệm vẫn đang được tiếp tục nhằm xác minh tiên đoán lý thuyết của nhóm Đâm Thanh Sơn. Nếu nay mai, được thực nghiệm hoàn toàn xác nhận, thì Đàm Thanh Sơn sẽ là người khám phá ra một hằng số mới, một quy luật mới của vật lý học. Một phát minh tầm cỡ đấy chứ? Đàm Thanh Sơn sinh năm 1969 giữa Hà Nội đạn bom và sơ tán, trong một gia đình trí thức yêu nước và thanh bạch. Thời thơ ấu của Sơn là những tháng năm gian nan mà thánh thiện, "mỗi tấc đất ngày đêm bỏng giẫy/ mỗi lòng người như nước suối trong". Cha anh là giáo sư dược học Đàm Trung Bảo, mẹ là phó giáo sư, tiến sĩ sinh hoá Nguyễn Thị Hảo, chú ruột là giáo sư vật lý Đàm Trung Đồn. Từ nhỏ, Sơn đã bộc lộ năng khiếu toán vượt trội, nếu không muốn nói là "thần đồng”; mới lên lớp 3, đã giải được nhiều bài đại số lớp 12! Sau khi kiểm tra kỹ, Sở Giáo dục đặc cách cho phép cậu bé học nhảy cóc. Là học sinh chuyên toán trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, mới 15 tuổi, Sơn đã lọt vào đội tuyển quốc gia đi thi Olympic toán quốc tế tại Prague, đoạt huy chương vàng với số điểm tuyệt đối 42/42. Lòng đầy mộng ước, Sơn sang Liên Xô, vào học Đại học Lomonosov danh tiếng trên đồi Lênin giữa cánh rừng bạch dương thân cây từng loá như dát bạc. Rồi anh bảo vệ luận án tiến sĩ tại Viện nghiên cứu hạt nhân Matxcơva khi mới 23 tuổi Nào ngờ Liên xô sụp đổ! Thấy anh còn quá trẻ và đầy triển vọng, viện trưởng V. Rubakov, một nhà bác học danh tiếng và là người có "tấm lòng vàng", giúp anh sang Mỹ để có thể tiến xa hơn trên con đường sáng tạo khoa học. Mấy năm đầu đến NewYork, anh vào làm việc tại Đại học Columbia, phụ tá cho GS. Lý Chính Đạo (Tsung Dao Lee), nhà bác học lừng danh người Mỹ gốc Hoa, được tặng Giải thưởng Nobel năm 1956, khi vừa tròn 30 tuần GS. Lý giờ đã bát tuần, hết lòng nâng niu một tài năng trẻ trung tràn trề nhựa sống như Sơn. Nhưng rồi anh đành chia tay ông để chuyển tới Đại học Washington ở Seattle, bên bờ Thái Bình Dương ấm áp, nơi khí hậu dễ chịu hơn đối với một người vốn sinh ra ở vùng nhiệt đới như anh. Chính tại Seattle, không "ăn theo", "nấp bóng" một “cây đa cây đề" nào cả, bằng tư tưởng tượng mạnh mẽ của chính mình và những tính toán chi li, cẩn trọng, Đàm Thanh Sơn và cộng sự đã khám phá ra một quy luật mới của vật lý học. Nguồn: Sài Gòn tiếp thị
  11. Để biện minh cho phản biện của Dare tôi trả lời vắn tắt như sau:1 - Tương tác là khái niệm phổ biến trong ngôn ngữ khoa học và triết học. Tôi dùng đúng nghĩa của từ này. Nếu tôi phải định nghĩa lại thì hoặc là tôi đúng và tất cả định nghĩa tương tác trước sai. Hoặc thống nhất khái niệm. 2. Tôi đã phân tích rõ tính mâu thuẫn trong sự phân biệt giữa ý thức và vật chất trong quá trình phát triển của lịch sử triết học và khoa học. Nếu cứ theo tất cả các khái niệm về vật chất và ý thức có trước hệ thống của tôi thì không giải quyết được mâu thuẫn. Đó là điều kiện cần để phải định nghĩa lại về vật chất . Trên cơ sở này, tiếp tục giải quyết vấn đề về mặt lý thuyết. Theo tôi hiểu thì trước Lê Nin , Mar đã có định nghĩa về vật chất, Sau đó trong quá trình phát triển của nền văn minh Lê Nin đã định nghĩa lại. Phải không nhỉ? Bây giờ tôi định nghĩa lại một lần nữa. Vậy thôi. Tôi còn nhớ. Trong cuốn "Biện Chứng Pháp" Nxb ST - do các triết gia Maxit Pháp được dịch. Có đoạn như sau: Thuyết Duy vật biện chứng là thành tựu cuối cùng chứ không phải kết luận cuối cùng. Dare hiểu vấn để này như thế nào? Nếu tất cả cái gì đã có trong tri thức nhân loại là kết luận cuối cùng và là chân lý tuyệt đối thì Dare hãy xác định điều này! Đại ý vậy. Tôi xem cuốn này từ khi mới 17 tuổi, nên không nhớ nguyên văn. 3. . Nhưng vấn đề Dara đưa ra là những vấn đề cần tiếp tục giải quyết chứ không phải là điều kiện phản biện. Nhưng nó phải hoàn chính hệ thống của nó đã. Tôi viết chưa xong mà..
  12. Tai nạn tăng nặng: Rơi máy bay........ ================================= Malaysia: Trực thăng của phó thủ tướng rơi, phi công chết Thứ Ba, 12/04/2011, 10:17 (GMT+7) TTO - Chỉ vài phút sau khi chở Phó thủ tướng Malaysia Muhyiddin Yassin cùng đoàn tùy tùng, chiếc trực thăng này đã bị rơi ở bang Sarawak hôm 11-4. Chiếc trực thăng sau khi bị rơi - Ảnh: Malaysiatoday Báo Malaysia The Star cho biết chiếc trực thăng thuộc dòng Bell 206, xuất phát từ Bintangor đưa ba viên tùy tùng của Phó thủ tướng Muhyiddin Yassin đến gần khách sạn tại Sibu. Ba phút sau đó, trực thăng cất cánh từ quảng trường thị trấn Sibu để bay về sân bay Sibu liền gặp sự cố và rơi xuống đất lúc 13g15. Đội cứu hỏa và cứu hộ đã được triển khai đến hiện trường vụ tai nạn chỉ trong vài phút. Viên phi công Sahimi Ghazali, 38 tuổi, điều khiển chiếc trực thăng đã bị thương nặng và qua đời lúc 8g30 ngày 11-4 tại bệnh viện Sibu. Lúc 23g15 cùng ngày, Phó Thủ tướng Muhyddin đã đến thăm anh ở phòng cấp cứu và bày tỏ lòng thương tiếc cùng gia quyến. Thi thể anh Sahimi sẽ được an táng tại quê nhà Kajang. Theo báo The Star, chiếc trực thăng đó là chiếc thứ hai cất cánh từ quảng trường thị trấn, đối diện trước tòa nhà Wisma Sanyan 28 tầng. Nơi đây cũng đặt văn phòng của Hội đồng Hành chính Sibu và một số văn phòng nhà nước khác. Phi công Kapt Yusof Ali, người điều khiển chiếc trực thăng đầu tiên đã bay trước đó, nói vụ tai nạn không thể gây ra do thời thiết. "Thời tiết lúc đó hoàn toàn thích hợp để cất cánh", anh nói. CẢNH TOÀN
  13. Còn nữa......Nhân ngày Giỗ Tổ Hung Vương, các luận điểm phủ nhận quan điểm truyền thống ồn ào quá nhỉ?! =============================================== "Tiền thân" của kinh đô Phong Châu vốn ở Hà Tĩnh? 10/04/2011 05:55:30 - Chúng ta cắt nghĩa thế nào về một cố đô Ngàn Hống xuất hiện trước khi có kinh đô Văn Lang, nhất là khi những ghi chép đó lại xuất hiện trong Ngọc phả Hùng Vương, như một sự truy niệm về kinh đô cũ? TIN LIÊN QUAN Cha Rồng mẹ Tiên đã gặp gỡ và chia tay ở đâu? Cho đến nay, thời kỳ Hùng Vương được các nhà sử học khẳng định là thời kỳ có thật trong lịch sử. Tuy nhiên, không có một tư liệu thành văn nào ghi chép về thời kỳ này cho nên chúng ta tạm bằng lòng với việc “dựng” lại lịch sử bằng các truyền thuyết dân gian, dân tộc học, ngôn ngữ học, địa phương học, kết hợp với kết quả của ngành khảo cổ học. Vì vậy, nếu đề cập tới thời kỳ Tiền Hùng Vương thì còn khó khăn gấp bội phần. Tuy nhiên, chúng ta cắt nghĩa thế nào về những ghi chép của các sử gia Trung Hoa về một đất nước Việt Thường xuất hiện rất lâu trước thời kỳ Hùng Vương, trong khi đó thì quốc gia Văn Lang lại không được các sử gia Trung Hoa ghi lại? Chúng ta cắt nghĩa thế nào về một cố đô Ngàn Hống xuất hiện trước khi có kinh đô Văn Lang, nhất là khi những ghi chép đó lại xuất hiện trong Ngọc phả Hùng Vương, như một sự truy niệm về kinh đô cũ? Xin cung cấp cho các nhà nghiên cứu và bạn đọc hai tư liệu trên. 1. Sự tích cố đô Việt Thường (Truyền thuyết ) Tục truyền, cha của Long Vương là Dương Vương, khi mới mở nước, đi xem phong cảnh núi sông, tìm nơi xây dựng kinh đô. Khi về phương Nam, đến vùng Ngàn Hống, thấy phong cảnh núi non trùng trùng điệp điệp, 99 ngọn (Ngọc phả Hùng Vương ghi là 199 ngọn) cao tận trời xanh, chân núi vờn đến gần cửa Đơn Hay (tức cửa Đan Nhai, tức Cửa Hội) có thế rồng vây hổ chầu, Dương Vương rất lấy làm vừa ý. Vương bèn quyết định đắp thành dưới núi, lấy nơi này làm đô ấp, cứ như vị trí ngày nay thì thành ấy là đất Nội- Tả - Hữu Thiên Lộc thuộc Châu Hoan (nay thuộc phạm vi các xã Thiên Lộc, Phúc Lộc, Tùng Lộc thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Dựng xong đô ấp, Dương Vương lại cưỡi thuyền thẳng về hướng bắc, tiếp tục đi xem phong cảnh đất nước. Thuyền đang đi, bỗng có một người con gái “tóc dài ngài (người) đẹp, da phấn mặt hoa” từ dưới nước nổi lên, tự xưng là Thần Long. Sau khi chào hỏi ân cần, vương mời nàng lên thuyền, đôi bên trò chuyện rất ăn ý. Dương Vương đưa nàng về đô ấp Ngàn Hống và cưới làm vợ. Vương lại tiếp tục tuần thú phương Bắc. Đến vùng núi như ngày nay là Sơn Tây, vương thấy cảnh núi sông thật là hùng vĩ đặc biệt ngã ba Hạc là nơi thủy bộ thuận lợi, xem ra nhiều chỗ ưu việt hơn đất Hoan Châu. Vương bèn cho xây dựng đô ấp mới ở vùng Nghĩa Lĩnh, từ ngã ba Hạc đến vùng núi Hi Cương, làm nơi hành tại. Dương Vương lại lên vùng Hưng Hóa - Tuyên Quang bây giờ, lấy thêm một người con gái họ Mã là nàng Ngọc Nương làm vợ và dựng một cung sở cho nàng ở, cung sở đó xưa là vùng Tiên Cát, gần Việt Trì ngày nay. Vương ở Tiên Cát ít lâu rồi trở về đô ấp Ngàn Hống. Lúc này, nàng Thần Long đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa, sinh con trai đầu lòng. Đó là Long Vương, con trưởng của Dương Vương, tức là Vua Hùng thứ nhất, sau này gọi là Hùng Hiền Vương (tức Lạc Long Quân). Khi Long Vương lớn lên, Dương Vương giao cho đô ấp Nghĩa Lĩnh để trông coi việc nước ở phương bắc và thay cha chăm sóc bà mẹ thứ là Mã Ngọc Nương. Trong thời gian ở kinh thành Nghĩa Lĩnh, nhân một chuyến đi tuần thú, Long Vương gặp nàng Âu Cơ ở vùng Sơn Tây cũ và lấy làm vợ.Long Vương đưa nàng Âu Cơ về động Hi Cương, còn mình thì ở luôn Phong Châu (gần ngã ba Hạc) làm việc nước. Về sau Long Vương bỏ kinh đô cũ Ngàn Hống, lấy Phong Châu làm kinh đô chính, đặt tên nước là Văn Lang, chia làm 15 bộ. Từ đó cố đô Việt Thường ở Ngàn Hống bị thời gian xóa dần dấu vết. (Theo Địa chí huyện Can Lộc, Huyện ủy, UBND huyện Can Lộc, Sở VHTT Hà Tĩnh, 1999, trang 224-225) 2. Hùng đồ thập bát diệp thánh vương ngọc phả cổ truyền (Ngọc phả 18 đời Hùng Vương) Ngọc phả này hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương. Sách chữ Hán, khổ 19x25 gồm 21 tờ, 42 trang, mỗi trang 10 dòng, tổng số gần 1.000 chữ. Ngọc phả Hùng Vương lưu tại Bảo tàng Hùng Vương Đặc biệt Ngọc phả này có ghi về đô thành Ngàn Hống như là một kinh đô của người Việt cổ trước khi có kinh đô Văn Lang. Đó là nội dung ghi ở các trang 2a , 2b, 3a và 3b. Nguyên văn như sau: Dương Vương vâng chỉ, nghiêm túc theo uy trời, đến núi Nam Miên, đi xem phong thủy, chọn được thế đất tốt để lập đô ấp. Bèn qua Hoan Châu... xem khắp hình thế, thấy một vùng phong cảnh lâu đài vạn lớp, gọi là núi Hùng Bảo Thiếu Lĩnh, gồm 199 ngọn, gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống, giáp với cửa Hội Thống ngoài biển. Núi đi gấp khúc, nước chảy vòng theo, rồng cuộn hổ nằm. Xem khắp bốn phía, bèn dựng đô thành để định bốn phương triều cống. Bấy giờ khí xuân ôn hòa, vạn vật đua sắc. Vua bình sinh vốn yêu phong thủy, bèn cử giá tuần du ngoài biển, xem khắp địa đồ, bất giác thuyền rồng đến thẳng hồ Động Đình. Về việc chuyển kinh đô từ Ngàn Hống ra núi Nghĩa Lĩnh Ngọc phả ghi như sau: Về sau vua lại đi tuần thú, trải khắp núi sông, xa giá đến xứ Sơn Tây, thấy địa hình trùng điệp, núi đẹp sông hay. Vua bèn tìm địa mạch, nhận thấy từ núi Côn Luân giáng xuống qua cửa ải, tựa như cầu vồng thoát mạch, rồng vút đi xa. . . Lấy sông Bạch Hạc làm nội Minh Đường, ngã ba Lãnh của sông lớn làm trung Minh Đường, núi Tượng Sơn của Nam Hải làm ngoại Minh Đường. Nghìn núi quay lại, vạn sông chầu về, tất cả đều hướng về núi Tổ Nghĩa Lĩnh, thu hết hình thế. Vua nhận thấy thế đất này quý hơn hẳn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh thường ngự giá lưu lại ở đây. Bên ngoài dựng đô thành Phong Châu (nay đô thành cũ còn thấy ở thôn Việt Trì, xã Bạch Hạc của huyện Bạch Hạc). Vua xa giá trở về đô thành cũ Hoan Châu, dựng lập đô thành, trước ở núi Thiếu Lĩnh, sau ở núi Nghĩa Lĩnh. Nay lấy núi Thiếu Lĩnh làm đô ấp sở tại của họ Việt Thường. Khi ấy vua đi tuần thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh, thấy bà cung phi Thần Long Quân nữ mang thai, có điềm lành ứng rồng, ánh hào quang đỏ đầy ắp nhà, trong trướng sinh hương, mùi hương ngào ngạt mấy tuần. . . Trên đây là một số tín hiệu cho thấy đã từng xuất hiện kinh đô Ngàn Hống của nước Việt Thường trước khi có kinh đô Phong Châu của các vua Hùng. Ngàn Hống hay Hồng Lĩnh là một ngọn núi lớn ở phía bắc Hà Tĩnh. Núi nằm giữa các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc và thị xã Hồng Lĩnh ngày nay. Kinh đô Ngàn Hống được định vị ở phía nam núi Hồng Lĩnh, trên phần đất các xã Thiên Lộc, Phúc Lộc, Tùng Lộc (huyện Can Lộc) ngày nay. Tất nhiên, chúng ta không hoàn toàn tin vào truyền thuyết, nhưng truyền thuyết cũng gợi cho chúng ta một hướng tìm tòi nghiên cứu và biết đâu mở ra một hướng mới trong việc nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương. Phan Duy Kha ======================================== Tôi chẳng bao giờ căn cứ vào chính nội dung truyền thuyết để minh chứng cho lịch sử. Không bao giờ căn cứ vào việc giải mã coi là bằng chứng khoa học. Nhưng với họ thì là "khoa học".Kẻ khác thì không và là siêu hình! .
  14. Nhưng rất tiếc. Cái mác giáo sư tiến sĩ đã làm cho nhiều người bị lóa mắt mà theo. Đúng là thứ tư duy "ở trần đóng khố".
  15. Đằng nào cũng tốn tiền thuê. Thuê nhà khác đi. Khó sửa đấy.
  16. Xe buýt nhanh gỡ ùn tắc 09:02 | 13/04/2011 TP - “Sau gần 10 năm hoạt động, hệ thống xe buýt hiện nay không còn phù hợp với tình hình giao thông. Vì vậy, phát triển mô hình vận tải hành khách công cộng mới, hiệu quả hơn như xe buýt nhanh chạy trên làn đường riêng (BRT) trở nên bức thiết với TPHCM”, lãnh đạo Sở GTVT khẳng định. Xe buýt thường chưa giải quyết được nạn ùn tắc giao thông tại TPHCM Ảnh: Huy Thịnh Hiệu quả cao, chi phí thấp Mới đây, UBND TPHCM đã chấp thuận chủ trương lập dự án đầu tư xây dựng tuyến BRT đầu tiên, lộ trình dài hơn 12km chạy dọc theo Đại lộ Võ Văn Kiệt thay tuyến xe điện mặt đất số 1 (tramway 1). Vì sao TPHCM chọn BRT? Theo thạc sỹ Lê Trung Tính, Trưởng phòng Quản lý Vận tải Đường bộ (Sở GTVT), hiện nay, mạng lưới xe buýt đóng vai trò chủ lực trong vận tải hành khách công cộng (VTHKCC) song vẫn chưa giải quyết được bài toán tắc đường. Vì vậy, TPHCM hướng đến các phương thức vận tải khối lượng lớn hơn. Khảo sát tại nhiều nước, BRT là giải pháp khả thi nhất trong tương lai gần. Xe buýt nhanh là xe khách loại lớn, có sức chở cao gấp 2 - 3 lần xe buýt (tùy vào số lượng toa xe) chạy trên làn đường dành riêng nhằm tiết kiệm thời gian, không gây ùn tắc, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, không trùng tuyến gây lãng phí... Có tính năng, sức chở tương tự như metro, tốc độ cao, tiện nghi cao cấp song chi phí đầu tư BRT chỉ từ 1 - 2 triệu USD/km, thấp hơn gần 20 lần so với xe điện mặt đất (20 triệu USD/km) và gần 100 lần so với tàu điện ngầm (100 triệu USD/km). Ngoài ra, thời gian thi công BRT chỉ khoảng 2 năm. Do những tính năng và tiện ích vượt trội nên các nước có dân số cao trên thế giới, kể cả các nước phát triển như các nước EU, Nhật Bản... đều lựa chọn BRT. Theo Sở GTVT, từ năm 2009, Sở đã phối hợp với Trường Đại học Bách khoa TPHCM nghiên cứu xây dựng hệ thống VTHKCC theo mô hình hệ tuyến trục. Xe mini buýt 12 chỗ ngồi làm nhiệm vụ gom hành khách ở các hẻm. Trên các tuyến trục, chính hoặc nhánh, xe buýt hoặc BRT sẽ nhận khách từ các xe mini buýt. Tất cả những điều này nhằm đảm bảo cho hành khách có thể tiếp cận xe buýt và BRT trong vòng bán kính từ 200m trở xuống. Không còn cách chọn lựa khác Từ năm 2005, việc phát triển BRT đã được Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ kinh phí nghiên cứu. Ngoài WB, một nhóm chuyên gia Pháp thuộc PADDI (Trung tâm Dự báo và nghiên cứu đô thị ở TPHCM) cũng đang nghiên cứu ứng dụng BRT tại TPHCM. Tháng 8-2010, dự án nghiên cứu phát triển hệ thống BRT do cơ quan hợp tác KOICA của Chính phủ Hàn Quốc tài trợ với kinh phí 2 triệu USD, được triển khai. Dự kiến, trong tương lai, hệ thống BRT nói trên sẽ liên thông, trung chuyển liên hoàn với mạng lưới xe buýt, tàu điện ngầm. Xe buýt nhanh BRT đang được sử dụng phổ biến trên thế giới vì các ưu điểm vượt trội. Trên cơ sở các nghiên cứu trên, TPHCM sẽ xây dựng và vận hành một tuyến thí điểm, từ đó mở rộng dần. Đến năm 2020, TPHCM sẽ có khoảng 20-25 tuyến BRT, đáp ứng khoảng 8%-10% nhu cầu đi lại của nhân dân. Theo ông Lê Trung Tín, tuy phần lớn đường phố của TPHCM chật hẹp song vẫn có khoảng 10% tuyến đường có từ 6 làn xe trở lên, rất phù hợp để triển khai các hệ thống BRT. Ông Tín nói TPHCM chỉ cần nghiên cứu, sắp xếp lại hoạt động giao thông theo hướng dành hẳn một làn xe thì BRT đã có thể hoạt động. Việc mua toa xe, đầu máy chạy, xây dựng bến đỗ, trạm dừng… thực hiện bằng giải pháp xã hội hóa. Theo Sở GTVT, để đạt mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020, hệ thống VTHKCC ở TPHCM nói riêng phải phục vụ tối thiểu 40% nhu cầu đi lại của người dân. Tuy nhiên, hiện nay xe buýt ở TPHCM mới đáp ứng khoảng 7,2% nhu cầu. Dù tái cấu trúc, đầu tư đổi mới phương tiện thì hệ thống này chỉ đáp ứng trên 20% nhu cầu. Theo quy hoạch đến năm 2020, TPHCM sẽ có 6 tuyến tàu điện ngầm, hàng loạt tuyến monorail song do chi phí đầu tư quá cao, khối lượng bồi thường giải tỏa lớn nên nhiệm vụ này khó hoàn thành. Riêng hệ thống taxi thì hiện đã quá tải với trên 12.000 xe. Phạm Lê Thư ===================================== Lại buyt! Cũng may Thiên Sứ tôi ít ra khỏi nhà. nên không có cảm giác tắc đường. Chỉ sợ mất điện và rớt mạng internet.
  17. Kinhthu thân mến. Bài viết dưới đây cho thấy các nhà khoa học Nhật và Hoa Kỳ đã cho rằng: Dư chấn sau trận động đất ngày 11. 3 sẽ kéo dài 10 năm. Nhưng Kinhthu cũng biết rằng: Tôi đã xác định một nhà khoa học nổi tiếng của Hoa Kỳ về động đất sai, khi ông ta cho rằng: Sẽ có một trận động đất vào ngày 26. 3 . 2011 tại California. Không có động đất tại California vào ngày 26. 3. 2011. Đó là xác định của tôi. Và bây giờ, một lần nữa tôi xác định với Kinhthu và tất cả các nhà khoa học Nhật - Hoa Kỳ rằng: Dư chấn của trận động đất ngày 11. 3. 2011 sẽ không thể vượt quá tháng Ba Tân Mão Việt lịch. Nhưng trận động đất sau đó ở nước Nhật sẽ thuộc về những tác nhân hoàn toàn mới - nếu có. Nước Nhật bắt đầu tương đối yên bình sau 15. 3 Việt Lịch và ổn định sau tháng Ba Việt lịch. ==================================
  18. Gốc tích tục thờ Hùng Vương 12/04/2011 23:30 Các nhà nghiên cứu đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu, khảo cổ, sưu tầm thần tích, thần phả, văn hóa dân gian để “giải ảo” Hùng Vương và thời đại các vua Hùng. Hàng vạn người hành hương về Lễ hội đền Hùng sáng qua (12.4) - ảnh: L.Q.P Ngay trước ngày giỗ Tổ Hùng Vương và Lễ hội đền Hùng năm nay, VN đã chính thức gửi hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận tín ngưỡng Hùng Vương là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đây chính là dịp để mọi người VN bồi đắp cho cội rễ văn hóa của mình, và tìm thấy trong đó sức mạnh đi vào tương lai. Muốn vậy, phải nhận thức đúng giá trị của truyền thống này, cũng như tìm ra phương thức duy trì và phát huy nó trong điều kiện một quốc gia đa dân tộc đang trên con đường hội nhập toàn cầu. Theo GS Trần Quốc Vượng, vua Hùng là trưởng bộ tộc (còn được gọi là pò khun) trên núi Hy Cương ở vùng Phong Châu (khu vực đền Hùng hiện nay). Núi Hy Cương được cho là ngọn núi thiêng vì nằm ở chóp tam giác của châu thổ sông Hồng, quy tụ núi sông. Bộ tộc đó được coi là khởi hình của nhà nước phong kiến ngày xưa. TS Nguyễn Xuân Diện (Viện Hán Nôm) cũng cho rằng, từ thời xa xưa, tín ngưỡng thờ vua Hùng là tín ngưỡng thờ các vị sơn thần (thần núi). Các bài vị cổ xưa của Hùng Vương là bột ngột cao sơn, những vị được ghi tên là các tên núi. Sử sách trước thời Lê ít nhắc đến Hùng Vương và thời đại các vua Hùng. Theo GS Trần Quốc Vượng trong Văn hóa cổ truyền VN (lịch, tết, tử vi và phong thủy) (Từ điển Bách khoa và Viện Văn hóa, 2009): trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái được biên soạn trong các triều đại Lý - Trần (và cả đầu Hậu Lê), tập hợp lại các câu truyện truyền thuyết dựa vào những chất liệu đền miếu, huyền thoại, huyền tích còn đọng lại trong tâm thức dân tộc và trong dân gian từ trước thời Bắc thuộc, qua thời Bắc thuộc và chống thời Bắc thuộc, có “những ký ức rất lờ mờ về Hùng Vương”. Trong Đại Việt sử lược được biên soạn vào thời Trần, “thời Hùng chỉ được nhắc đến qua quít”. Đến năm 1435, khi biên soạn Dư địa chí, Nguyễn Trãi mới đưa Kinh Dương Vương, Lạc Long, Hùng Vương vào tòa đền chính sử VN, coi Kinh Dương Vương là Tổ Bách Việt và Hùng Vương tiếp nối ngôi vua, dựng nước, gọi là Văn Lang. Cách nhìn nhận đó được tiếp nối và phát triển bởi Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, đồng tác giả của Đại Việt sử ký toàn thư (1475) - văn phẩm lịch sử chín muồi thời Hồng Đức. GS Trần Quốc Vượng kết luận: hiện thực lịch sử thời Hùng, việc coi vua Hùng là vua Tổ dựng nước là một sự tự ý thức của triều Lê. Đến giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến từ thế kỷ X trở đi, đặc biệt là từ thời Lê, ông cha ta đã sáng tạo nên hình tượng, biểu tượng quốc tổ Hùng Vương (vốn mang yếu tố truyền thuyết đậm đặc). Vì sao lại đặc biệt từ thời Lê? Giải thích điều này, GS Ngô Đức Thịnh (Ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia) cho rằng, đây là thời kỳ ông cha đã giành được độc lập và xây dựng nhà nước Đại Việt, nhu cầu củng cố nhà nước là rất mạnh mẽ, nhất là khi đất nước luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược. Quốc tổ Hùng Vương là biểu tượng quy tụ cội nguồn dân tộc, tăng cường sức mạnh đoàn kết dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng quốc tổ là sự phóng chiếu từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, gia tộc của người VN, nhà có tổ tiên, nước có quốc tổ. GS Ngô Đức Thịnh cho rằng, biểu tượng Hùng Vương là biểu tượng siêu giai cấp, mọi chế độ xã hội đều nhìn thấy ở đó mẫu hình quy tụ cội nguồn dân tộc, đây là sức mạnh đã giúp chúng ta vượt qua nhiều biến cố trong lịch sử như những lần mất nước hay chống giặc ngoại xâm. Tại đền Hùng năm 1954 (thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược), Bác Hồ đã nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được đánh giá là sự sáng tạo độc đáo của dân tộc VN. Hiếm có quốc gia nào trên thế giới xây dựng biểu tượng quốc tổ, thực sự quy tụ dân tộc như chúng ta. Thờ cúng Hùng Vương khẳng định dân ta có chung một cội nguồn, từ đó tạo thành động lực để yêu thương, gắn kết cộng đồng. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành tâm thức của người VN từ thế hệ này sang thế hệ khác. Minh Ngọc - Lưu Quang Phổ ================================== Xem bài này này xong thì thấy chẳng còn sự thiêng liêng nào của ngày Giỗ Tổ cả: Trần Quốc Vượng: TS Nguyễn Xuân Diện (Viện Hán Nôm): Cá nhân tôi nhìn vào thực chất của sự việc và thấy thật là buồn. Trên thực tế những kẻ đội lốt học giả đã phủ định cội nguồn dân tộc Việt.
  19. Đồng ý với nhận xét của Dare. Nhưng một lý thuyết thống nhất nó phải khái quát được tất cả mọi lý thuyết hiện hữu và giải thích được những vấn đề mà con người quan tâm. Nếu như ở mỗi lý thuyết chuyên ngành - mà những dẫn chứng đụng chạm tới - đều đòi hỏi một kiến thức thẩm định chuyên sâu thì thật là điều bất khả cho cá nhân tôi. Bởi vì: Không ai có một kiến thức chuyên sâu cho tất cả mọi ngành từ toán , lý, xã hội, sinh , địa, triết...vv.... Do đó, vấn đề sẽ là: Tôi sẽ trình bày những kết luận cuối cùng củng các chuyên gia hàng đầu về lý thuyết của họ. Hoặc trên cơ sở khái quát những luận điểm của họ. Trên cơ sở đó tôi sẽ chứng minh cho luận điểm của tôi. Tôi rất thận trọng khi thu thập tư liệu. Một lần nữa cảm ơn Dare chia sẻ. Tôi sẽ lưu ý hơn.
  20. Nhờ anh chị em nào rành về cách đưa hình ảnh lên diễn đàn, chỉ giúp bác Liêm Trinh. Bác Liêm Trinh thân mến. Bác có thể nhờ đứa trẻ nào trong nhà giỏi vi tính đều làm được cả đấy. Chúng nó "chát chít" được là đều làm được đấy. Tôi cũng nhờ chúng nó chỉ. Nhưng diễn đạt lại khó quá!
  21. ============================== Bởi vì thời tiết tháng Ba ở Bắc bộ trời lạnh. Nên người ta không thể "ở trần đóng khố" trên thực tế khách quan (Tức tính khoa học thực sự). Nhưng những bộ quần áo màu da người này là một biểu tượng cho điều này! Đây là hiện tượng tự mâu thuẫn trong phương pháp tư duy. Tất nhiên hậu quả sẽ là bế tắc, trì trệ. Hay nói cho văn chương một tý: Nhiều vấn đề còn cần được khai thông! Thí dụ như tắc đường chẳng hạn ....
  22. Tương lai khó lường cho Bờ Biển Ngà 12/04/2011 23:56 Ổn định tình hình tại Bờ Biển Ngà sau khi đối thủ Laurent Gbagbo bị bắt sẽ là nhiệm vụ rất khó khăn của ông Alassane Ouattara. Là nước phát triển hàng đầu tại Tây Phi, trên lý thuyết, Bờ Biển Ngà sẽ không gặp nhiều trở ngại trong việc khôi phục kinh tế. Nhưng để xây dựng đất nước một cách bền vững, Tổng thống được LHQ công nhận Ouattara phải hóa giải được sự chia rẽ vẫn còn rất nóng bỏng. Tuy Yamoussoukro là thủ đô chính thức của Bờ Biển Ngà nhưng hầu như mọi hoạt động kinh tế, hành chính đều diễn ra tại Abidjan và phần lớn dân cư ở thành phố lớn nhất nước này đều ủng hộ Tổng thống mãn nhiệm Gbagbo. Bất chấp lời kêu gọi hòa giải của ông Ouattara, giao tranh hôm qua vẫn diễn ra dữ dội tại Abidjan, nhất là ở các khu vực đông người ủng hộ ông Gbagbo, theo AFP. Ông Gbagbo tại khách sạn Golf ở Abidjan - Ảnh: AFP Ông Gbagbo bị bắt tối 11.4 sau nhiều ngày kháng cự quân của ông Ouattara cũng như lực lượng LHQ và Pháp. Việc xử lý ông đang là câu hỏi hóc búa đối với ông Ouattara. Theo tờ Le Figaro, xét xử đối thủ ở Tòa án Quốc tế hay tòa án tại Bờ Biển Ngà đều tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ông Ouattara. Nếu phiên tòa diễn ra trong nước có nguy cơ tăng thêm sự chia rẽ giữa miền bắc (ủng hộ ông Ouattara) và miền nam (ủng hộ ông Gbagbo) từ hơn 10 năm nay. Chưa kể, phiên tòa này chắc chắn sẽ kéo dài, tiếp tục gây mất ổn định. Chưa hết, cả hai phe đều bị cáo buộc vi phạm nhân quyền và phạm tội ác chiến tranh trong đợt xung đột vừa qua và nếu ông Gbagbo bị xử ở Tòa án Quốc tế thì ông Ouattara cũng khó thoát. Giả thiết tiếp theo là để ông Gbagbo lưu vong, có thể tới Angola hay Nam Phi. Nhưng khả năng này sẽ khó được ông Ouattara chấp nhận vì ông không muốn để lại “hậu họa”. Vợ chồng ông Gbagbo vẫn đang bị giữ tại khách sạn Golf ở Abidjan và chi tiết về việc bắt giữ họ vẫn chưa được công bố. AFP dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Gérard Longuet khẳng định quân đội nước này và lực lượng LHQ tại Bờ Biển Ngà không tham gia vụ bắt giữ hôm 11.4. Cũng trong hôm qua, Bộ trưởng Tài chính Pháp Christine Lagarde thông báo nước này sẽ hỗ trợ khẩn cấp 400 triệu euro cho Bờ Biển Ngà để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của dân chúng. Giới quan sát đánh giá việc Pháp can thiệp quân sự vào Bờ Biển Ngà sau đó nhanh chóng ra tay cứu trợ nhằm giành lại ảnh hưởng tại đây, đặc biệt trước sự cạnh tranh của Trung Quốc. Những năm gần đây, Trung Quốc đang dần trở thành đối tác chiến lược của Bờ Biển Ngà với những kế hoạch đầu tư dài hơi. Theo trang tin Diploweb.com, năm 2009, Trung Quốc là nước xuất khẩu đứng thứ 3 vào Bờ Biển Ngà. Nguyễn Ngọc Lan Chi ====================================== Mọi việc sẽ ổn dần trong tháng Ba Việt lịch tại đây và lại xuất hiện chỗ khác và dưới một hình thức lộn xộn khác . Nhưng kết quả của sự ổn định ở trung tâm các đại lục địa là lãng nhách.
  23. Thách thức của Trung Quốc đối với biển Đông Á Tác giả: James Manicom, Trường Quan hệ Quốc tế Balsillie, Canada TUANVIETNAM.VN Bài đã được xuất bản.: 1 giờ trước Bài viết này tìm hiểu nguồn gốc của những thách thức này và tranh luận rằng các cuộc tranh chấp về việc xác định vị trí và phân loại các vùng nước đang tranh chấp đặt ra một thách thức có tác động mạnh mẽ đến ổn định khu vực, khác với các tranh chấp hiện thời về các đường biên giới biển chồng lấn. LTS: Bài viết của James Manicom, Trường Quan hệ Quốc tế Balsillie, Canada phân tích các ý đồ, suy nghĩ thực sụ đằng sau quan điểm của các quốc gia về vấn đề tranh chấp biển, trong trường hợp này là Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản. Bài viết của tác giả được đăng trên Series đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly của Trường Đại học Havard với chủ đề: "Tranh chấp biển- An ninh hàng hải tại Đông Á", (The Disputed Sea - Maritime Security in East Asia) tháng 12/2010. Vốn là một cường quốc lục địa trong lịch sử, Trung Quốc đang nỗ lực trở thành một cường quốc biển trong thế kỷ 21. Trong khi thực tế này nói riêng đã đặt ra một thách thức chiến lược lâu dài cho Mỹ và các đồng minh của mình, cách thức Trung Quốc theo đuổi kế hoạch bành trướng trên biển của nước này đặt ra một bài toán trực tiếp và cấp bách hơn cho Mỹ và trật tự khu vực Đông Á. Nhìn bề ngoài, một số khía cạnh của sự bành trướng trên biển của Trung Quốc có vẻ như khá ôn hòa. Việc đưa Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLAN) đến Vịnh Aden năm 2008 hẳn nhiên là một sự kiện bước ngoặt chứng tỏ khả năng phô diễn sức mạnh biển ngoài khu vực của Trung Quốc, nhưng sự kiện này lại nằm trong sự hưởng ứng một biện pháp đối phó của cộng đồng quốc tế đối với một vấn đề an ninh xuyên quốc gia. Tương tự như vậy, những nỗ lực phân định thềm lục địa mở rộng của Trung Quốc trong các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông là phù hợp với các tiến trình luật quốc tế và điều này có thể sẽ khiến Trung Quốc phải làm rõ cơ sở cho một số yêu sách của họ.[1]Tuy nhiên, những khía cạnh khác của sự bành trướng này có vẻ ít ôn hòa hơn do cách thức mà Bắc Kinh đã và đang khẳng định những yêu sách biển của mình bằng cả lời nói và hành động. Trong tháng 1/2010, báo The Economist đã cho rằng tranh cãi ngoại giao nảy lửa giữa Bắc Kinh và Tokyo báo hiệu Nhật Bản đang dần mất kiên nhẫn với thái độ không khoan nhượng của Trung Quốc tại biển Hoa Đông.[2] Sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại Biển Đông và việc áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá nghiêm ngặt trong các vùng nước tranh chấp dường như xác nhận những tham vọng không giới hạn của Trung Quốc.[3] Vì thái độ này tương phản rõ rệt với thái độ hợp tác thông thường trong các vấn đề tranh chấp biên giới biển kể từ năm 2004, nhiều lý giải về thay đổi trong ứng xử của Trung Quốc đã được đặt ra. Có thể lập luận rằng tình trạng suy thoái tại Mỹ đã làm nổi rõ sự đi xuống tương đối của Mỹ so với Trung Quốc, từ đó có thể khuyến khích Trung Quốc khẳng định mình một cách mạnh mẽ hơn tại khu vực biển (mà Trung Quốc cho là) của mình. Ảnh minh họa: Xinhuanet Theo những người khác, chiều hướng đối ngoại cứng rắn của Trung Quốc là nhằm đáp ứng làn sóng dân tộc chủ nghĩa trong nước.[4] Sự bành trướng về hải quân của Trung Quốc do đó có thể được hiểu là một biểu thị của chiến dịch xây dựng bản sắc quốc gia trong nội bộ nước này.[5] Bất kể lý do là gì chăng nữa, lối hành xử của Trung Quốc đã khơi mào cho hành động cân bằng từ các quốc gia biển khác tại Đông Á. Các bên yêu sách tại Biển Đông, đặc biệt là Việt Nam, đã và đang đáp lại cách hành xử của Trung Quốc bằng việc đầu tư vào vũ khí quân dụng hạng nặng, ví dụ như tàu ngầm loại Kilo, và nâng cấp quan hệ an ninh với Mỹ. Nhật đang chuẩn bị để trở thành một cường quốc biển chủ động hơn nữa bằng việc thực hành các quyền tài phán của mình tại Thái Bình Dương và khu vực biển Hoa Đông và đã tìm kiếm đảm bảo an ninh từ Washington. Thái độ của Mỹ đối với nhiều vấn đề biên giới biển tại Đông Á cũng đang thay đổi. Có thể xuất phát từ nhu cầu cần phản ứng trước việc Triều Tiên làm đắm tàu Cheonan vào tháng 3/2010, Washington rõ ràng đang sẵn sàng đóng một vai trò chủ động hơn trong các vấn đề an ninh khu vực. Ngoài các cuộc trình diễn quân sự nhằm ủng hộ Hàn Quốc, Mỹ đã có một lập trường ngoại giao thẳng thắn về các vấn đề an ninh khu vực. Phát biểu tại cuộc Đối thoại hằng năm Shangri-La, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đã phàn nàn về sự miễn cưỡng của Trung Quốc trong việc thúc đẩy các trao đổi quân sự. Trong khi đó, Ngoại trưởng Hillary Clinton cũng đưa ra tuyên bố thẳng thừng rằng Mỹ ủng hộ tự do hàng hải trong khu vực Biển Đông tại Diễn đàn Khu vực ASEAN và bộc lộ sự ủng hộ về mặt ngoại giao đối với việc dàn xếp các tranh chấp chủ quyền thông qua thương lượng.[6] Các tuyên bố ngoại giao này đã củng cố những nỗ lực cải thiện quan hệ quốc phòng với Việt Nam và trùng khớp với các kế hoạch tố chức một cuộc tập trận quân sự tác chiến thủy bộ với Nhật Bản.[7] Thái độ ngày càng chủ động của Trung Quốc đối với môi trường biển của mình và phản ứng của khu vực cho thấy môi trường an ninh tại Đông Á trở nên xấu đi. Trong khi mạng lưới các yêu sách chồng lấn liên quan đến các nguồn tài nguyên dưới đáy biển và các vùng đánh bắt cá tại Đông Á đã được nhiều người biết đến, những diễn biến gần đây cho thấy một thách thức mới với những hệ lụy quan trọng đến an ninh biển khu vực. Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) chia nhiều khu vực biển khác nhau trong đó các quốc gia có các quyền chủ quyền ở các mức độ khác nhau. Chủ quyền của một quốc gia là tuyệt đối trong các vùng nội thủy, gần như tuyệt đối trừ việc cản trở các quyền đi qua không gây hại đối với vùng lãnh hải, và giới hạn trong các quyền kinh tế đối với Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ). Cách diễn dịch của Trung Quốc đối với các quyền hàng hải được thừa nhận và các chuẩn tắc ứng xử trong các khu vực này mâu thuẫn với cách diễn dịch của Mỹ cũng như của Nhật Bản, đồng minh chính của Mỹ tại khu vực. Những khác biệt này càng trầm trọng trong trường hợp Nhật Bản do những căng thẳng liên quan đến cuộc tranh chấp biên giới biển tại biển Hoa Đông. Với lối hành xử ngày càng chủ động trên biển của Nhật, đã có chứng cứ rằng những khác biệt này dẫn đến những cuộc đối đầu trên biển mà có thể thấy qua cuộc đụng độ giữa một tàu tuần duyên và một thuyền đánh cá gần quần đảo Sensaku/Điếu Ngư tháng 9/2010. Bài viết này tìm hiểu nguồn gốc của những thách thức này và tranh luận rằng các cuộc tranh chấp về việc xác định vị trí và phân loại các vùng nước đang tranh chấp đặt ra một thách thức có tác động mạnh mẽ đến ổn định khu vực, khác với các tranh chấp hiện thời về các đường biên giới biển chồng lấn. CĂNG THẲNG HÀNG HẢI TRUNG-MỸ Mặc dù giữa Trung Quốc và Mỹ không có cuộc tranh chấp nào về đường biên giới biển, giữa hai nước tồn tại hai bất đồng cơ bản liên quan đến các quy định và chuẩn tắc ứng xử để kiểm soát hành vi tàu thuyền qua lại trên biển. Bất đồng thứ nhất về tự do hàng hải của các tàu quân sự hoạt động trong các khu vực nước của các quốc gia ven biển đã làm dấy lên một số rắc rối giữa hai nước. Tháng 3/2009, tàu hải quân Mỹ Impecable đã đụng độ với một đội năm tàu Trung Quốc, trong đó có hai tàu đánh cá dân sự có lưới rà, khi đang lai dắt một lưới định vị âm thanh trên Biển Đông. Mặc dù cuộc va chạm thu hút nhiều sự chú ý của giới truyền thông, nhất là vì cảnh phim các thủy thủ Trung Quốc cởi quần áo khi bị vòi rồng của tàu Impeccable bắn trúng, những đụng độ có cùng tính chất như vậy thực ra đã xảy ra giữa các phương tiện quân sự Mỹ và Trung Quốc từ năm 2001.[8] Tháng 4/2001, một máy bay trinh sát EP-3 của Mỹ đã va chạm với một máy bay đánh chặn F-8 của Trung Quốc, làm thiệt mạng phi công Trung Quốc, và buộc phải hạ cánh trên đảo Hải Nam. Tương tự, lực lượng không quân và hải quân Trung Quốc đã chặn tàu hải quân Mỹ Bowditch trên biển Hoàng Hải vào năm 2002 và lần nữa vào tháng 3/2009. Một tháng sau máy bay Trung Quốc lại tiến sát tàu hải quân Mỹ Victorious. Trong tất cả các trường hợp, các tàu và máy bay Mỹ đều đang tiến hành các hoạt động thăm dò và nghiên cứu mà Washington biện hộ là phù hợp với quyền tự do hàng hải theo luật biển quốc tế. Trung Quốc ngược lại tranh cãi rằng các hoạt động này của Mỹ, mà thực ra là tất cả các hoạt động khảo sát mà không có sự cho phép của quốc gia ven biển, đều bị cấm trong các vùng nước của Trung Quốc.[9] Mục đích của cuộc thảo luận này không phải là để xác định hành động của bên nào là chính đáng theo luật quốc tế mà nhằm vạch ra những suy nghĩ đằng sau quan điểm của mỗi nước. Thực tế, cả hai bên đều có thể đưa ra những lý lẽ biện luận cho hành động của mình theo cách hiểu của mỗi bên về luật quốc tế. Một số cho rằng mặc dù không tham gia UNCLOS, Mỹ chấp nhận đa phần công ước này như luật thông dụng quốc tế, đặc biệt là về tự do hàng hải mà Mỹ lâu nay luôn ủng hộ.[10] Tàu Impeccable bị chặn cách bờ đảo Hải Nam 75 hải lý, như vậy là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Tuy nhiên các học giả luật quốc tế sẽ nhanh chóng chỉ ra rằng các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải qua vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia ven biển và do đó tàu Impeccable đã không làm gì sai. Vùng đặc quyền kinh tế được hiểu tốt nhất như là một khu vực thỏa hiệp giữa các quyền kinh tế của các quốc gia ven biển và quyền quá cảnh của các quốc gia sử dụng khác. Nó trao cho các quốc gia ven biển toàn quyền tài phán trong khai thác tài nguyên và các hoạt động thương mại khác, trong khi đó vẫn duy trì tự do thông tin liên lạc và hàng hải cho các quốc gia sử dụng vùng biển đó.[11] Mặc dù UNCLOS nhập nhằng trong việc phân biệt những loại hoạt động thăm dò nào có thể chịu sự điều phối của một quốc gia ven biển trong phạm vi đặc quyền kinh tế của mình, Townshend-Gault và Schofield kết luận rằng rất khó để nói rằng hoạt động thăm dò của tàu Impeccable có thể được xem là một sự vi phạm quyền kinh tế của quốc gia ven biển là Trung Quốc.[12] Ít khả năng chính phủ Mỹ sẽ tìm kiếm lợi ích thương mại từ dữ liệu thu thập được qua cuộc thăm dò này.[13] Ngược lại, theo quan điểm của Trung Quốc thì Mỹ đang lạm dụng các quyền tự do hàng hải của mình để tiến hành các hoạt động thu thập tin tức tình báo gây tổn hại tới an ninh quốc gia Trung Quốc.[14] Theo Mark Valencia, các lực lượng Mỹ đang thử khả năng phát hiện tàu thuyền và máy bay nước ngoài của Trung Quốc bằng cách "phá nhiễu" các trạm ra-đa của Trung Quốc, làm gián đoạn liên lạc giữa tàu thuyền và bờ biển và tìm cách dò tìm phương thức các tàu ngầm Trung Quốc ra vào căn cứ.[15] Do đó, theo quan điểm của Trung Quốc, các hoạt động này là một dạng vận động chuẩn bị chiến tranh mà luật trong nước Trung Quốc ngăn cấm.[16] Theo Ji Guoxing, các dạng hoạt động này trái với Điều 301 của UNCLOS, trong đó quy định rằng các bên phải tránh đe dọa chủ quyền của nước khác khi sử dụng các quyền trên biển của mình.[17] Một vài tác giả Trung Quốc cũng đặt vấn đề rằng một nước không tham gia Công ước như Mỹ lại tranh cãi về cách diễn dịch các điều khoản về nghiên cứu và tự do hàng hải trong Công ước.[18] Vấn đề này do đó không chỉ đơn thuần là việc hai bên có cách diễn dịch khác nhau về luật hàng hải quốc tế. Hai cách diễn dịch của hai nước rất trái ngược và cả hai cách đều được các nước khác trong cộng đồng quốc tế ủng hộ. Theo Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Scot Marciel, "Trong một số trường hợp chúng ta không chia sẻ hay thậm chí không thể hiểu cách diễn dịch của Trung Quốc đối với luật hàng hải quốc tế".[19] Một vài học giả Mỹ cho rằng Trung Quốc đang theo đuổi một nỗ lực định hướng các luật lệ và chuẩn tắc quốc tế nhằm đảm bảo các luật lệ và chuẩn tắc này không giới hạn tự do hành động của Trung Quốc. Các "chiến binh pháp lý" của Trung Quốc có mục tiêu là hợp pháp hóa trên cả hai cấp độ trong nước và quốc tế cách diễn dịch của Trung Quốc về khái niệm chủ quyền.[20] Các nước đồng tình với thái độ của Trung Quốc đối với các hoạt động nghiên cứu quân sự bao gồm Bangladesh, Brazil, Cape Verde, Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Uruguay. Hành động của Trung Quốc đối với các tàu và máy bay Mỹ cần được hiểu trong bối cảnh này. Ngoài bất đồng về việc tàu thuyền có thể làm gì trong các vùng biển của các quốc gia ven biển, đã có bằng chứng cho thấy Trung Quốc và Mỹ có cách diễn dịch khác nhau về vị trí các khu vực biển này. Mặc dù truyền thông phương Tây không chú ý nhưng Bắc Kinh đã tuyên bố vào tháng 2/2010 rằng Trung Quốc vừa hoàn thành một dự án lắp đặt 13 công trình kiến trúc đóng vai trò như những cơ sở điểm trên nhiều bãi đá dọc bờ biển Trung Quốc.[21] Các điểm cơ sở này lần lượt được dùng để vẽ các đường cơ sở để đo lường các khu vực hàng hải của Trung Quốc, bao gồm lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Các vùng nước phiá trong gần đất liền của các đường cơ sở này là nội thủy. 49 căn cứ điểm như vậy được liệt kê trong Tuyên bố về Lãnh hải của Trung Quốc vào tháng 5/1996.[22] Nhiều căn cứ điểm này bị chỉ trích bởi các cường quốc láng giềng cũng như Mỹ với lý do chúng không phù hợp với các tiêu chuẩn của UNCLOS về điểm cơ sở. Các cơ sở điểm của Trung Quốc quá xa so với bờ biển, hoặc quá cách xa nhau - nhiều cái cách nhau hơn 100 hải lý - và do đó không phải là các địa điểm phù hợp dùng làm cơ sở điểm. Nỗ lực xây dựng các điểm đánh dấu trên 13 trong số các địa điểm này của Trung Quốc là nhằm xóa bỏ các chỉ trích này. Theo Điều 7 của UNCLOS, đoạn thứ 4, "các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế".[23] Nhiều cơ sở điểm của Trung Quốc nằm dưới mặt đại dương khi thủy triều lên, do đó không thể dùng làm căn cứ điểm trừ trường hợp một trong hai điều kiện kể trên xảy ra. Do tuyên bố đường cơ sở thẳng của Trung Quốc ít được quốc tế công nhận, các nỗ lực đánh dấu các địa điểm này bằng các ngọn hải đăng và các công trình khác của Trung Quốc là nhằm củng cố các lý lẽ của nước này về các điểm cơ sở đã nêu. Điều này có hệ lụy quan trọng đối với Mỹ trong thời kỳ mà Washington và Bắc Kinh đang tranh cãi về các chuẩn tắc và luật lệ được thừa nhận xung quanh việc các tàu thuyền và máy bay có thể làm gì trong các vùng nước tại Đông Á. Ví dụ, một trong các điểm cơ sở này, Waikejiao, nằm cách bờ biển Trung Quốc 73km.[24] Theo góc nhìn của Trung Quốc, công trình hải đăng vừa được xây dựng tại địa điểm này củng cố địa vị điểm cơ sở của đảo này. Khu vực nước phía tây của đảo này do đó, theo quan điểm của Trung Quốc, là khu vực nội thủy của quốc gia mà Trung Quốc có chủ quyền tuyệt đối. Ngược lại, từ góc nhìn của Mỹ thì Waikejiao cũng như 7 đảo/bãi đá khác được Trung Quốc sử dụng làm điểm cơ sở không đạt tiêu chuẩn UNCLOS.[25] Vì vậy, các khu vực nước phía tây các thực thể này được Washington xem như là một dạng kết hợp giữa lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, trong đó các tàu thuyền ít nhất cũng có quyền qua lại không gây hại. Sự tranh cãi này có những hệ lụy về mặt tác chiến đối với quân đội Mỹ. Trong khi Washington vẫn không công nhận các yêu sách đường cơ sở thẳng của Trung Quốc, để thể hiện lập trường nhất quán các tàu thuyền và máy bay Mỹ có thể sẽ phớt lờ các yêu sách đường cơ sở tham vọng của Bắc Kinh và tiến hành các hoạt động nghiên cứu và giám sát trong các khu vực này. Điều này phù hợp với luận điểm của Mỹ rằng các hoạt động nghiên cứu và giám sát là được cho phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, đồng thời thể hiện sự kiên định của Mỹ trong việc phủ nhận các điểm cơ sở mà Trung Quốc vạch ra. Kiên định với yêu sách của mình, Trung Quốc lại coi khu vực nằm trong các điểm cơ sở đã tuyên bố là nội thủy, và do đó cho rằng sự hiện diện của tàu quân sự Mỹ trong khu vực này là sự vi phạm chủ quyền Trung Quốc và là một sự xâm lược đối với nước Trung Quốc. Phản ứng gay gắt của Trung Quốc trong vụ Impeccable và cuộc va chạm EP3 cho thấy phản kháng của Trung Quốc đối với hoạt động của các lực lượng Mỹ trong các khu vực nội thủy mà Trung Quốc đã khẳng định sẽ rất gay gắt. Hai bất đồng về chuẩn tắc ứng xử trên biển này do đó đặt ra một thách thức rất nghiêm trọng cho an ninh Đông Á. Ngoài bất đồng về việc tàu thuyền Mỹ có thể làm gì trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, hai bên còn bất đồng về chính việc định vị các vùng nước mà trong đó các mức độ chủ quyền khác nhau được áp dụng. Cũng đã có một số chứng cứ nổi lên cho thấy rằng Trung Quốc đang tìm cách xác định lại địa điểm và các điều kiện cho phép các lực lượng Mỹ được triển khai ở Đông Á. Ví dụ, đáp lại vụ đắm tàu Cheonan, Mỹ đã tổ chức một loạt các cuộc tập trận trong khu vực biển gần Triều Tiên như một sự phô diễn lực lượng. Trung Quốc đã nhân cơ hội này khẳng định lại điều mà họ cho là hành vi hợp pháp đối với các lực lượng hải quân hoạt động trong các vùng biển khu vực bằng cách nhấn mạnh rằng các cuộc tập trận này không được diễn ra trong vùng biển Hoàng Hải.[26] Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Trung Quốc, tướng Mã Hiểu Thiên đã cảnh báo Washington không được điều tàu sân bay George Washington, vốn neo đậu tại Yokosuka, Nhật Bản, đến biển Hoàng Hải trong màn trình diễn lực lượng với Hàn Quốc.[27] Mục đích chính không phải là nỗ lực làm dịu sự công kích đối với Bình Nhưỡng mà đây là một cố gắng của Bắc Kinh nhằm hạn chế Mỹ tiếp cận Hoàng Hải. Rắc rối là ở chỗ điều này đi ngược lại chính sách của Trung Quốc trước đó. Tàu George Washington từng được điều đến Hoàng Hải vào tháng 11/2009 và không gặp phải bất kỳ sự phản đối nào từ Trung Quốc. Như Ralph Cossa tranh luận, sự phản đối của Trung Quốc đối với việc triển khai tàu sân bay này càng khiến cho việc triển khai nó trở nên cần thiết để bảo vệ các quyền tự do hàng hải.[28] Tóm lại, ngày càng rõ rằng Trung Quốc đang theo đuổi một cách diễn dịch hạn chế về cái và nơi mà Trung Quốc chấp nhận quyền hoạt động của các lực lượng Mỹ. Tại cuộc Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung năm 2010, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc đã nói với các viên chức Mỹ rằng Trung Quốc xem Biển Đông là một "lợi ích cốt lõi của quốc gia".[29] Điều này sau đó chưa từng được lập lại bởi một viên chức nào của Trung Quốc, nhưng tuyên bố này đã được hiểu là nhằm ý đồ thể hiện Bắc Kinh coi Biển Đông ngang hàng với Tây Tạng, Đài Loan và Tân Cương là các vấn đề nội bộ mà sự can thiệp của Mỹ không được hoan nghênh. Tương tự, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Đại tá Cảnh Nhạn Sinh đã tuyên bố Trung Quốc có "chủ quyền không thể tranh cãi" đối với Biển Đông, nhưng sẽ cho phép tự do hàng hải trong các khu vực này.[30] Không rõ điều này có nghĩa là gì. Một quốc gia không thể tuyên bố chủ quyền đối với một đại dương mà chỉ có thể tuyên bố chủ quyền đối với các đảo trong khu vực biển đó. Nếu điều này là đúng và nếu Trung Quốc thực sự làm vậy, như Đại tá Cảnh Nhạn Sinh xác nhận, hồ sơ hành xử của Trung Quốc đối với việc thực hiện các quyền tự do này trước đây vẫn gây nhiều băn khoăn. Sự không nhất quán của Trung Quốc sẽ gây khó khăn cho quân đội Mỹ trong việc dự đoán những tương tác sắp tới với Trung Quốc và có thể dẫn đến những tính toán sai trong tương lai. Còn tiếp....... =========================================== Theo Nghiên cứu Biển Đông Bản gốc tiếng Anh "Beyond Boundary Disputes: Understanding the Nature of China's Challenge to Maritime East Asia". Bài viết được in trong Series đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly với chủ đề "The Disputed Sea - Maritime Security in East Asia" tháng 12/2010. [1] Robert Beckman, "South China Sea: Worsening Dispute or Growing Clarity in Claims?" RSIS Commentaries 90, ngày 16/8/2010. [2] "Choppy Waters: East and South, China Makes a Splash," The Economist, ngày 21/1/ 2010. [3] Michael Richardson, "Changing Tides to Watch in the South China Sea," The Straits Times, ngày 14/6/2010. [4] Ian Buruma, "What is Driving China's Recent Thuggish Approach to Foreign Relations?" The Guardian, ngày 7/11/2010. [5] Robert Ross, "China's Naval Nationalism: Sources, Prospects, and the U.S. Response," International Security 34 (Fall 2009): 46-81. [6] Geoff Dyer, "Power Play in the South China Sea," Financial Times, ngày 9/8/2010. [7] Carlyle A. Thayer, "Vietnam's Defensive Diplomacy," Wall Street Journal, ngày 19/8/2010. [8] John M. Van Dyke, "Military Ships and Planes Operating in the Exclusive Economic Zone of Another Country," Marine Policy 28 (2004): 29-39. [9] Cheng Xizhong, "A Chinese Perspective on Operational Modalities," Marine Policy 28 (2004): 25-27. [10] James Kraska, "The Legal War Behind the Impeccable Incident," World Politics Review, ngày 16/3/2009. [11] R. R. Churchill và A. V. Lowe, The Law of the Sea, tái bản lần thứ 3. (Manchester: Manchester University Press, 1999), chương 9 và 13. [12] Ian Townsend-Gault và Clive Schofield, "Hardly Impeccable Behaviour: Confrontations between Foreign Ships and Coastal States in the EEZ," International Zeitschrift 5 (tháng 4/2009), truy cập ngày 9/9/2009, http://www.zeitschri.../indexv5n1.html [13] Sam Bateman, "Hydrographic Surveying in the EEZ: Differences and Overlaps with Marine Scientific Research," Marine Policy 29 (2005): 163-74. [14] Zhang Haiwen, "The Conflict between Jurisdiction of Coastal States on MSR in EEZ and Military Survey," trong Recent Developments in the Law of the Sea and China, eds., Myron H. Nordquist, John Norton Moore và Kuen-chen Fu, (Leiden: Martinus Nijhoff Publishers, 2006): 317-331. [15] Mark J. Valencia, "The South China Sea Brouhaha: Separating Substance from Atmospherics," Policy Forum 10-044, August 10, 2010, accessed August 11, 2010, http://www.nautilus....om-atmospherics [16] Ren Xiaofeng and Cheng Xizhong, "A Chinese Perspective," Marine Policy 29 (2005): 139-46. [17] Ji Guoxing, "The Legality of the "Impeccable Incident"," China Security 5 (2009): 18. [18] Zhang Haiwen, "Is It Safeguarding the Freedom of Navigation or Maritime Hegemony of the United States?-Comments on Raul (Pete) Pedrozo's Article on Military Activities in the EEZ," Chinese Journal of International Law 9 (2010): 31-47. [19] Scot Marciel, Điều trần tại Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện. Maritime Issues and Sovereignty Disputes in East Asia, ngày 15/7/2009. [20] Peter Dutton, "China's Views of Sovereignty and Methods of Access Control," Điều trần trước Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Mỹ-Trung, ngày 27/2/2008. [21] Peh Shing Huei, "Beijing Lays Markers for East China Sea," The Straits Times, ngày 9/2/2010. [22] Declaration of the Government of the People's Republic of China on the baselines of the territorial sea, ngày 15/5/1996, http://www.un.org/De...eclaration.pdf. [23] Công ước LHQ về Luật biển, Phần II, Điều 7, đoạn thứ 4. [24] Will Clem, "Engineers Finish Marking Of Sea Borders," South China Morning Post, ngày 10/2/2010. [25] US Department of State, "Straight Baseline Claim: China," Limits in the Seas, No. 117 (Bureau of Oceans and International Environmental and Scientific Affairs), 1996: 6. [26] "Strategic Jousting between China and America," The Economist, ngày 29/7/2010. [27] Michael Richardson, "Steering a Fine Line in the Yellow Sea," Straits Times, ngày 23/8/2010. [28] Ralph Cossa, "Not China's Coastal Waters," Japan Times, ngày 1/9/2010. [29] Edward Wong, "Chinese Military Seeks to Extend its Naval Power", New York Times, ngày 23/4/2010. <a name="_ftn30" href="http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/1345-tim-hiu-bn-cht-thach-thc-cua-trung-quc-i-vi-khu-vc-bien-ong-a#_ftnref30"> [30] Cheng Guangjin and Wu Jiao, "Sovereign Waters are not in Question," China Daily, ngày 21/7/2010. =========================================== Dạo này người Trung Quốc gây được sự chú ý khắp nơi. Nghe nói còn tập trận bắt hải tặc để bảo vệ thương thuyền ở Địa Trung Hải. Hình ảnh chảng cao bổi Texa bắn súng như trong phim, có vẻ ngày càng mờ nhạt trước hảo hán Lương Sơn Bạc suốt ngày nhậu như hũ chìm với thit chó.
  24. Phát minh tinh vi hơn........ ======================= Mỹ lần đầu “kích hoạt” súng laser trên tàu hải quân Thứ Ba, 12/04/2011 - 10:25 (Dân trí) - Lực lượng hải quân Mỹ đã lần đầu tiên thử nghiệm bắn súng laser từ trên tàu. Cuộc thử nghiệm đã thành công tốt đẹp. Súng laser trước mắt sẽ dùng trong quân đội. Các nhà nghiên cứu đã dùng laser năng lượng cao (HEL) để vô hiệu hóa một con tàu ở ngoài khơi California bằng cách đốt cháy động cơ của nó. Hệ thống tương tự trước đó cũng đã được thử nghiệm trên đất liền, tuy nhiên, không khí ẩm trên biển đã làm giảm cường độ của tia laser. Hải quân Mỹ cho biết súng laser gắn trên tàu có thể được dùng để bảo vệ tàu thuyền khỏi các tàu tấn công nhỏ hơn. Quân đội Mỹ đã thử nghiệm vũ khí laser từ những năm 1970. Hệ thống ban đầu sử dụng các tia lớn, dựa vào hóa chất, phát ra khí độc nguy hiểm. Nhưng gần đây, các nhà khoa học đã phát triển laser dạng rắn. Hệ thống laser mới được gắn trên boong tàu. Cho đến nay, HEL được thiết kế nhằm bắn hạ tên lửa hoặc các mục tiêu trên mặt đất. Cuộc thử nghiệm mới nhất cho thấy khả năng lớn hơn của vũ khí laser. Năm 2010, công ty sản xuất vũ khí BAE Systems đã công bố súng dùng tia sáng laser hữu hình, có thể khiến hải tặc bị mù tạm thời. Phan Anh Theo BBC