Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. CHIẾC GẬY THẦN - DẠNG THỨC NGUYÊN THỦY CỦA HÀO ÂM HÀO DƯƠNG Nguyễn Thiếu Dũng Kinh Dịch được xưng tụng vào hàng kỳ thư của thế giới là do người làm ra Dịch biết vận dụng một cấu trúc độc đáo làm ngôn ngữ diễn đạt. Ngôn ngữ của Dịch chỉ có hai ký tự: một hào âm và một hào dương. Hào dương là một vạch liền (-), hào âm là một vạch đứt (--). Đó là hai ký hiệu biểu trưng cho hai năng lực đối lập trong vũ trụ phối hợp với nhau tạo nên vận động của vũ trụ . Vũ trụ được quan niệm như một thái cực, thái cực có hai năng lượng âm dương (lưỡng nghi) cọ xát nhau, đun đẩy nhau, biến hóa sinh thành tám dạng thức (tám quẻ đơn hay tám kinh quái) Tám dạng thức này có hai đường vận động: Tám quẻ đơn vận động trên vòng tròn tạo thành ba thiên đồ: Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ. Trung Quốc chỉ lưu hành hai đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Trung Thiên Đồ không được lưu hành ở Trung Quốc vì Trung Quốc không thế nào tìm được thiên đồ này, lý do là Việt Nam cha đẻ Kinh Dịch đã giấu biệt không cho Trung Quốc biết. (Xin xem Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam - cùng tác giả). Tám quẻ đơn chồng lên nhau từng đôi một, tạo thành 64 quẻ kép (hay 64 biệt quái). Ba Thiên Đồ và 64 quẻ kép bao quát hết mọi qui luật vận động của vũ trụ giúp con người có thể hiểu biết thế giới, cũng như hiểu biết chính mình, qua đó quán chiếu được vận mệnh của mình và của vũ trụ. Hai hào âm dương có công năng đa trị như thế chẳng khác chi chiếc gậy thần có phép biến hóa giúp con người có khả năng quán thông mọi sự, mọi việc. Hai hào âm dương tuy đơn giản nhưng lại là phát minh quan trọng có tính quyết định. Đó là cách hệ thống thuyết âm dương, chuyển thành biểu tượng, nhờ biểu tượng - một phương pháp đặc thù của Kinh Dịch - con người có thể đạt đến minh triết. Có thể nói không có hào âm, hào dương không có Kinh Dịch. Do đâu người xưa sáng tạo được hai hào âm dương thần kỳ như vậy? Đây là thắc mắc mà nhiều người muốn được giải thích. Vương Ngọc Đức tổng kết một số kiến giải của các triết gia Trung Quốc: Dịch. Hệ từ hạ trả lời: "Xưa Bào Hy thị làm vua thiên hạ, ngẩng lên trời quan thiên tượng, cúi xuống đất xem địa pháp, quan sát muông thú và chất đất, gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vật. Vậy là sáng tạo ra bát quái". Người ta không thỏa mãn với lời giải đáp này, vì nó không nói được mối quan hệ giữa các hiện tượng của trời đất với quái hình của bát quái. Khổng Dĩnh Đạt đời Đường trong Chu Dịch chính nghĩa - Tự, giải thích: "Thánh nhân ngày xưa vẽ vạch cương, vạch nhu cho bát quái, tượng trưng cho hai khí. Sắp xếp ba vị trí, tượng trưng cho âm khí và dương khí"... Quách Mạt Nhược trong Trung Quốc cổ đại nghiên cứu chỉ ra rằng, bát quái tượng trưng cho bộ máy sinh dục nam nữ, nguồn gốc của bát quái, ta thấy rất rõ đó là tàn dư của sự sùng bái sinh thực khí thời cổ. Nét - tượng trưng dương vật của nam, chia làm hai -- tượng trưng cho âm hộ của nữ, từ đó mà có quan niệm về nam nữ, cha mẹ, âm dương, cương nhu, trời đất" (1, tr.45). Trên đây là cách giải thích của người Trung Hoa về phương cách lập thành hai hào âm dương. Kiến giải này nặng về tính dục. Để xác định nguồn gốc của biểu tượng hào dương và hào âm, các nhà Dịch học Trung Quốc còn xướng thuyết "Dịch hào khởi nguyên từ phệ số". Có người cho rằng Dịch hào do bói cỏ thi mà ra. Người ta dùng 50 cọng cỏ thi, bỏ 1 còn 49, sau ba lần biến họ được các con số: 36, 32, 28, 24, đem các số này chia cho 4, kết quả sẽ được 4 con số: 9, 8, 7, 6. Số 9 và số 7 là số lẻ thuộc dương tương đồng với hào dương vạch liền (-), số 8 và 6 là số chẳn thuộc âm tương đồng với hào âm vạch đứt (- -). Do đó họ kết luận hào dương hào âm xuất phát từ phệ số cỏ thi. Ta thấy rõ đây là lối giải thích quá khiên cưỡng kiểu thấy người sang bắt quàng làm họ. Số và tượng chỉ mới có mối tương đồng chứ không thể là một, đường ai nấy đi, gặp nhau chỉ là chuyện tình cờ. Số là số, tượng là tượng. Đối với Dịch chỉ có tượng mới qui định số, chứ số không thể chuyển hóa thành tượng nếu không được qui định. Ở đây ta thấy có một sự song hành giữa bói cỏ thi và Dịch. Bói cỏ thi dùng phệ số, được số rồi phải đi tìm lời đoán, phệ số dừng lại ở định mức này không thể tiến xa hơn để phát triển thành triết học. Trong khi đó Dịch khởi nguyên từ tượng, có tượng hào âm hào dương mới có Dịch, không có tượng hào âm hào dương không thể khai sinh ra Dịch. Có tượng rồi mới có số, chỉ có số không thể tạo ra Dịch, thì làm thế nào Dịch lại từ bói cỏ thi mà ra. Bói cỏ thi là môn bói toán thịnh hành thời nhà Chu Trung Quốc. Dịch là của Việt Nam truyền qua. (Lưu ý: Dịch được đề cập ở đây là Kinh Dịch nguyên thủy không kể Dịch Truyện là phần tinh hoa của Trung Quốc do chịu ảnh hưởng của Dịch nguyên thủy phát triển thành. Trung Quốc gộp chung Dịch Kinh và Dịch truyện thành Kinh mà họ gọi là Chu Dịch). Bói cỏ thi đang bế tắc vì không có hào từ qui định gặp được Dịch như cây gặp đất lành, cây lớn rất nhanh, phát triển thành rừng che kín cả đất.Về sau người ăn cây trái chỉ biết có cây, có rừng quên hẳn Đất. Đây cũng là chiến thuật trước ở ngoài sân sau lần vào bếp, mượn của người làm của mình, rồi soán đoạt luôn. Bói cỏ thi dựa vào Dịch, rồi biến Dịch thành công cụ, sau đó đồng hóa sáp nhập. Kẻ đi vay mượn trở thành chủ nhân. Bói cỏ thi được Dịch nuôi dưỡng trở mặt thành cha đẻ của Dịch. Gần đây, Trương Chính Lãng căn cứ vào những chữ số khắc trên những mảnh giáp cốt của đời Thương, đào được ở An Dương cũng khẳng định bát quái bắt nguồn từ phệ số, cho rằng hào dương là do số lẻ biến thành và hào âm là do số 6 (chữ lục) biến thành. Trên giáp cốt văn hay trên kim văn người ta phát hiện có những nhóm chữ số kỳ lạ, gồm có ba chữ số hoặc sáu chữ số tạo thành. Điều này khiến người ta liên tưởng đến các quẻ Dịch cũng do 3 hào hay 6 hào tạo thành. Rõ ràng là mối tương đồng này chỉ mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để kết luận đấy là quẻ Dịch. Trương Chính Lãng cho rằng trong các quẻ phệ số tìm được, chữ số 1 (chữ nhất -) và chữ số 6 (chữ lục, thời cổ đại viết là /\) sau này chữ nhất biến thành hào dương (-) và chữ lục /\ biến thành hào âm (--) do đó mặc dầu các chữ phệ số có nhiều số khác như 5, 7, 8 vẫn tùy theo số chẵn hay lẻ đều có thể đổi thành âm hoặc dương. Đây cũng là cách chặt đầu chặt chân để bỏ cho vừa rọ. Thuyết của Trương Chính Lãng cũng chỉ là thuyết khiên cưỡng như bói cỏ thi. Nhóm Chu Bá Côn đã thẳng thắn bác bỏ thuyết này: "Cách lý giải cho rằng quái tượng và hào tượng do chữ số biến hóa mà thành xem ra rất hợp lý. Song về khía cạnh lôgic, chúng không thể giải quyết được vấn đề kết cấu của "Kinh Dịch". Chúng ta đã biết, bản thân cuốn sách Kinh dịch là do Bát quái và Lục thập tứ quái (64 quẻ) tạo thành, vì thế cho nên sẽ là 8 kinh quái, 64 biệt quái, hơn nữa đơn vị cơ bản cấu thành chúng là sự gắn chặt của (-) và (--). Bởi vì hai loại nét ngang liền và nét ngang đứt đoạn được chồng 3, chỉ có thể có 8 đồ hình khác nhau, xét trên góc độ toán học thì là 2.2.2 = 8. Còn 8 loại đồ hình khác nhau khi được bình phương lên thì cũng chỉ có 64, tức là 8.8 = 64. Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1, 5, 6, 7, 8 v.v… không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biệt quái"(2, tr.63). Đó là sự cách biệt một trời một vực giữa phệ số và Dịch, không thể đồng hóa phệ số là Dịch, cũng không thể nói số lẻ số chẵn dễ dàng chuyển hóa thành vạch liền vạch đứt được. Trong khi người Trung Hoa còn đang lúng túng về khởi nguyên của dạng hào vạch, thì trên trống đồng Đông Sơn của quê hương Việt Nam hào âm, hào dương và quẻ được khắc rất rõ khắp nơi trên mặt trống, trên tang trống, trên thân trống với nguyên hình, nếu chịu nhìn là nhận ra ngay. Trên đồ đồng Đông Sơn ta thường gặp những hình tượng biểu lộ tín ngưỡng phồn thực nhưng đối với người Văn Lang tính dục không phải là mối bận tâm hàng đầu, vì thế hình tượng sinh thực khí không phải là nguyên mẫu ảnh hưởng đến người sáng tạo ra Dịch. Những họa tiết hoa văn trên trống đồng Đông Sơn cho ta một cách tiếp cận khác, thực tế hơn. Nhìn những chiếc thuyền trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ, ta không khỏi tự hỏi: Tại sao trên mạn những chiếc thuyền này có vẽ những hoa văn vạch và chấm? Đó có phải là hình những chiếc nan tre gợi ý thuyền làm bằng tre đan, điều này khó thành hiện thực vì đầu thuyền và đuôi thuyền đều được uốn cong lên và có chạm tỉa hình đầu chim rất tỉ mỉ, chứng tỏ thuyền phải làm bằng gỗ. Có người cho rằng những đường vạch ngắn đó tượng trưng cho việc ghép những mảnh ván gỗ. Kiến giải này khó chấp nhận vì những vạch ngắn ở đây thường nằm đứng mà gỗ ghép thuyền thì phải nằm ngang theo chiều dài của thuyền. Đáng chú ý nhất là những đường vạch chấm chấm có mặt ở đây, không thể nói đây là những hàng đinh đóng. Vậy thì những hàng chấm chấm này biểu trưng cho cái gì? Thuyền trên trống đồng Hoàng Hạ. Nguồn: Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam Một khi ta đã ý thức rằng những họa tiết hoa văn trên trống đồng có liên hệ đến Dịch, ta sẽ nhận ra sự việc hết sức đơn giản rằng đó chỉ là hình tượng những hào âm, hào dương. Hào dương vạch liền, hào âm vạch chấm chấm. Trên thuyền chỗ nào cũng đầy những con mắt Dịch (xin xem "Con mắt Dịch" - cùng tác giả), thì thân thuyền trang trí đầy những hào quẻ không có gì lạ chẳng qua tất cả đều nằm trong một hệ thống. Có sự khác biệt giữa hình dạng hào đang lưu hành và hình dạng hào nguyên thủy. Người Trung Hoa giữ nguyên trạng hào dương một vạch liền nhưng đã cải biến hào âm thay vì vạch nhiều chấm họ đã đổi thành một vạch đứt. Có cách thay đổi này có thể là để vẽ cho nhanh. Không phải đợi đến thời kỳ Đông Sơn hào âm dạng nhiều chấm mới xuất hiện, thật ra hào âm nhiều chấm đã có mặt từ thời văn hóa Phùng Nguyên trước hào âm dạng vạch đứt cả nghìn năm. Khi những triết gia Văn Lang muốn tìm một hình ảnh để biểu tượng cho hào dương họ không phải mất nhiều thời gian, trong tay họ thường ngày vẫn cầm nắm những dụng cụ lao động: ngọn giáo đi săn, cây đâm trống, những dụng cụ này gợi ý cho họ chọn một vạch liền để tượng trưng cho hào dương. Nhưng với hào âm thì có thể phải mất nhiều thời gian suy tư. Triết gia thời cổ đại không ngồi trong phòng giấy để suy tưởng. Minh triết của họ gắn liền với thao tác lao động. Họ làm việc, thâm nhập vào cuộc sống, suy gẫm từ cuộc sống. Một buổi sớm mai trời còn mờ mờ, nhà hiền triết Văn Lang đã cầm ngọn giáo theo đoàn người lên nương, hôm nay họ trồng một loại ngũ cốc. Một người đàn ông đi giật lùi, vừa đi người đàn ông đó vừa cắm mạnh ngọn giáo xuống đất, rồi giựt mạnh ngọn giáo lên, một cái lỗ nho nhỏ hiện ra, một người đàn bà tay ôm bọc đậu bước lần theo, bàn tay kia bốc một hạt đậu khom lưng xuống tra hạt đậu vào lỗ. Cứ thế một người đi lui, một người bước tới, họ tỉa đậu một cách nhịp nhàng. Nhìn những người anh em hăng say canh tác, xa xa có tiếng suối reo vọng về hòa lẫn tiếng chim hót líu lo trong lúc ánh bình minh đang lên, lòng nhà hiền triết dâng lên một một niềm vui rộn rã, khoan khoái, bỗng một tia chớp vụt lóe sáng, nhà hiền triết cảm thấy như đang ngập tràn trong niềm hạnh phúc vô biên. Ngài cắm mạnh ngọn giáo xuống đất, ngắm đi, ngắm lại cái lỗ nhỏ vừa được tạo ra. Ngài sung sướng lẫm bẩm với chính mình: "đây rồi!". Nhà hiền triết như thấy được ngày mai, từ cái lỗ nhỏ những cây đậu mọc ra những lá mầm xanh mơn mởn, chẳng khác gì hình ảnh những bà mẹ hoài thai sinh ra những đứa con xinh xắn. Vạn vật theo dòng năm tháng sinh sôi nảy nở. Nhà hiền triết Văn Lang, cha đẻ của Kinh Dịch, thở phào nhẹ nhõm, ngài đã tìm ra hình ảnh tượng trưng cho hào âm, đấy là những chấm nhỏ nối nhau như những lỗ tra hạt giống. Phát minh của nhà hiền triết Văn Lang được khắc ghi lại trên đồ gốm Phùng Nguyên và hậu duệ của ngài tiếp tục truyền thống đó ghi lại trên trống đồng. Những vạch chấm đó được vẽ trên hình chim, trông mường tượng như lông chim khiến hậu thế hiểu lầm. Với chim thì còn giống, còn dễ lầm nhưng với bò trên trống đồi Ro những hình trang trí đó cũng gọi là lông bò được sao, và cả trên hình thuyền trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hạ, chẵng lẽ là lông thuyền! Quan sát một mẫu thuyền trên trống Miếu Môn ta thấy rất nhiều hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm chấm được trang trí trên mạn thuyền. Vì là trang trí nên khó xác định được quẻ, nhưng các nhà thiết kế thường dùng nhiều quẻ Càn 3 vạch liền. Vạch chấm chấm nằm rải rác nên ta có thể đọc được rất nhiều dạng quẻ tùy vị trí của nó như quẻ Đoài có một vạch chấm chấm ở trên và hai vạch liền ở dưới, quẻ Ly có một vạch chấm chấm ở giữa và hai vạch liền hai bên, quẻ Tốn có một vạch chấm chấm ở dưới và hai vạch liền ở trên. Các vạch hào âm dương này cũng được trang trí trên chim đang săn mồi cạnh thuyền. Trên lưng chim còn có hình con mắt một vòng tròn có chấm ở giữa đó là hình dạng quẻ Ly, chấm giữa và vòng tròn bên ngoài là hào dương, vòng trắng ở giữa chính là hào âm. Theo Kinh Dịch quẻ Ly có các biểu tượng là con chim, con bò, lưới săn. Trên đầu những người ngồi trên thuyền có đội mũ hình ba vạch đó là tượng quẻ Càn (trời), không phải là lông chim, đây là loại mũ Dịch dùng để đội khi tế lễ. Tất cả những họa tiết trên trống đồng thường được gọi là lông đều nằm trong một hệ thống. Đấy là những hào âm, hào dương, biểu tượng của Dịch. Những chiếc mũ trên đầu người trên trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ không phải là những chiếc mũ lông chim như vật trang trí của những bộ lạc Di Địch quanh Trung Quốc, mà đấy là biểu tượng của Dịch, một nét đặc thù của người Văn Lang. Nếu là lông chim thì toàn bộ chỉ là những đường sọc kéo xuống sao lại còn có những đường chấm chấm kéo xuống? Đường nhiều chấm là hào âm, đường liền là hào dương. Cho nên ta có thể nói những chiếc mũ đó là những chiếc mũ Dịch thường được dùng để đội mỗi khi hành lễ. Vũ sĩ trên trống đồng Miếu Môn. Nguồn: Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam Trong hình vũ sĩ trên trống Miếu Môn, ta có thể tìm thấy một cách rõ ràng các quẻ Ly trên tấm mộc, quẻ Càn trên mũ vũ sĩ, quẻ Đoài trên áo vũ sĩ, quẻ đoài tượng trưng cho sự hoan lạc. Dải băng trắng và dải băng có chấm chấm là hào âm. Dải băng có hình tam giác và dải băng có hình hai vòng tròn có chấm ở giữa là hào dương. Cứ ba băng làm thành một quẻ đơn ta có thể đọc lần lượt từ trên xuống quẻ. Chấn/Lôi, quẻ Khảm/Thủy, quẻ Cấn/Sơn. Nếu đọc theo quẻ kép ta có hai quẻ: Lôi Thủy Giải và Thủy Sơn Kiển (Quẻ Khảm/Thủy nằm giữa vừa thuộc quẻ trên vừa thuộc quẻ dưới, do yêu cầu trang trí tỉnh lược). Trên thân bò khắc trên trống Đồi Ro hay trống Làng Vạc I có hình những con bò rất đặc biệt, con nào cũng có lông là hình khắc vạch các hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm chấm. Những con bò trên trống Đồi Ro. Nguồn: Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam Ta có thể tìm thấy nhiều nhất là hình dạng các quẻ Tốn. Đây có thể là hình những con bò được đem làm lễ tế vì quẻ Tốn, quẻ thứ 41, hào Lục Tứ có câu: điền hoạch tam phẩm. Theo Vương Bậc - Chu Dịch chú: "Tam phẩm là ba loại thịt dùng để tế tự, để đãi tân khách, và để đưa vào nhà bếp". Cái u trên lưng bò có hình con mắt Dịch tức là quẻ Ly - hình vòng tròn có chấm. Ta biết, theo Dịch Ly có tượng là con bò. Bên cạnh con bò còn có quẻ Lôi Thủy Giải và Thủy Sơn Kiển vẽ theo dạng đứng. Giải Kiển tức là Giải nạn, nạn hạn hán hay là lũ lụt. Vậy đây là những con bò dùng trong lễ hiến tế để cầu giải hạn. Trên trống Ngọc Lũ I hay trống Hoàng Hạ có những ngôi nhà sàn mái hình vòng cung vồng lên (sống lồi) hay võng xuống như ở trống Sông Đà (sống võng), mặt trước nhà có trang trí những hình vòng tròn có chấm, có hay không có tiếp tuyến (hình 5). Nguyễn Văn Huyên và Hoàng Vinh cho đó là ngôi nhà có liên quan đến nghi lễ tôn giáo, đề nghị gọi là "nhà cầu mùa" và dẫn thêm ý kiến của những tác giả khác: Pac-măng-chi-ê gọi đó là vật hình vòng cung (arche). (H. Parmentier, 1918, Anciens tambours de bronze,BEFEO T. XVIII, Hà Nội, P.5) Đào Duy Anh tán thành ý kiến của Gô-lu-bép cho đây là cảnh đánh chiêng (Đào Duy Anh, 1957, Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt, Hà Nội, tr. 34) Văn Hựu xem đó là những tấm phên (Văn Hựu, 1957, Cổ đồng cổ đồ lục, Bắc Kinh). Nguyễn Ngọc Chương cho đó là ngôi nhà để tiến hành nghi lễ có liên quan đến việc cầu mùa (Nguyễn Ngọc Chương, 1971, Tìm hiểu một số hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ, Nghiên cứu Lịch sử, số 141, Hà Nội) (3, tr.2). Rất có thể đây là nhà cầu mùa hay nhà cầu giải hạn, đúng như các tác giả đã nói là ngôi nhà có liên quan đến nghi lễ tôn giáo, theo thiển ý ngôi nhà này có nhiều liên hệ đến Dịch, tư tưởng chủ đạo của thời Hùng Vương chi phối mọi sinh hoạt của cư dân Văn Lang thời ấy. Ngôi nhà bói dịch trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam Các ngôi nhà trên cả ba trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà đều có điểm chung là dùng các hào dương vạch liền, hào âm vạch chấm chấm và vòng tròn có liên quan đến Dịch để trang trí. Các vòng tròn ở đây không thể quan niệm là những chiếc chiêng có núm được vì trên lưng hai con chim trên nóc nhà trống Hoàng Hạ cũng có vòng tròn có chấm này và tất nhiên chim đó không thể mang chiêng trên mình nó. Lại thêm những vòng tròn có chấm trên trống Sông Đà có tiếp tuyến không thể xem đó là những sợi dây buộc chiêng được. Hai con chim trên nóc nhà trống Hoàng Hạ có thể gọi là hai con chim Dịch, một con lớn và một con nhỏ, như một trống một mái, hai con đang cọ mỏ vào nhau tượng cho âm dương giao hoán theo nghĩa giao dịch của Kinh Dịch. Hai cột trang trí hai bên hông nhà không thể là hai trụ cột vì nó nằm nghiêng và không chấm đất, chỉ có thể là hai cột trang trí, các cột này trên cùng có hình các vòng tròn đồng tâm, vòng tròn có thể xem là biến thái của chấm, tượng trưng cho nguyên lý âm, vòng tròn có chấm ở giữa tượng trưng cho nguyên lý dương. Các vòng tròn nhỏ có chấm giữa là những con mắt Dịch, biểu tượng của Dịch Văn Lang (đã giải rõ hơn trong bài "Con mắt Dịch" - cùng tác giả). Các chấm và các vạch ngang dùng để trang trí gợi nhắc đến hào âm và hào dương. Đường tiếp tuyến chính là hào dương - cây gậy thần nối những con mắt Dịch dẫn đưa trí tuệ của Dịch Văn Lang lan tỏa khắp không gian. Vì những liên hệ đó với Dịch có thể gọi đây là Nhà Bói Dịch hay đúng hơn là Nhà Bói Diệc (Chữ Dịch còn đọc là Diệc, chỉ một loại Cò, xin xem "Đi tìm định nghĩa Dịch trên trống Đông Sơn" cùng tác giả). Cư dân Văn Lang tìm đến những ngôi nhà này để hỏi về cát hung, về cách giải quyết các vấn đề của cuộc sống, các nhà lãnh đạo đến những ngôi nhà này để cầu mùa, cầu giải hạn, giải quyết những vấn đề nhân sinh. Cảnh sinh hoạt được khắc họa trên trống đồng chính là cảnh sinh hoạt của một ngày hội Dịch. Không những con người hân hoan rộn ràng ca múa chào đón ngày Hội, mà cả sinh vật cũng hòa chung niềm vui với con người, từng đàn chim Dịch bay lượn, từng đàn hươu Dịch con âm con dương nối bước nhau diễn quanh trống đồng theo chiều quay của trái đất. Không chỉ vui riêng cho mình, người Văn Lang còn đưa không khí Dịch đến từng sự vật con thuyền, mái chèo, ngọn giáo, đâu đâu cũng trang hoàng ký hiệu của Dịch: những con mắt Dịch, hào Dịch, quẻ Dịch. Người và vật cùng say sưa, ngây ngất trong mùa Hội Dịch hay đúng hơn là Hội Diệc bất tận đi mãi cùng thời gian. Nguyễn Thiếu Dũng Tài liệu tham khảo: 1. Vương Ngọc Đức, 1996, Bí ẩn của Bát Quái, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 2. Chu Bá Côn, 2003, Dịch Học toàn tập, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam, 1975, Những trống đồng Đông Sơn
  2. MƯỜI ĐIỂM CHỨNG TỎ KINH DỊCH LÀ SÁNG TÁC PHẨM CỦA VIỆT NAM Nguyễn Thiếu Dũng Xưa nay KINH DỊCH thường được xem là sáng tác của Trung Hoa. Ngộ nhận này kéo dài hơn 2500 năm, nay phải được thay đổi cách nhìn để phù hợp với sự thực của lịch sử. KINH DỊCH LÀ SÁNG TÁC CỦA VIỆT NAM, TRUNG QUỐC CHỈ CÓ CÔNG QUẢNG DIỄN VÀ PHỔ BIẾN. 1) DIỆC HAY DỊCH Khi tạo tác KINH DỊCH tiền nhân Việt Nam gọi là DIỆC, tên một loài chim nước giống cò, trên trống đồng Đông Sơn ta thấy khắc những con chim nước đang gắp cá có ghi dấu hiệu DỊCH, đó là một cách bói trước khi thuyền ra khơi xem có được mùa hay không. Người xưa khi dong thuyền ra sông ra biển để tế lễ hay để săn cá thường hay quen thuộc với hình ảnh những con cò, con diệc kiếm ăn trên bờ nước. Họ lấy kết quả các loài chim đó bắt được mồi hay không để chiêm nghiệm kết quả công việc mình làm. Chim bắt được cá họ nghĩ mình sẽ thành công, chim không bắt được cá họ liên tưởng mình sẽ thất bại, lâu ngày việc chiêm nghiệm này hình thành cách bói gọi là bói Diệc Người Việt Nam theo truyền thống vẫn gọi kinh Dịch là kinh Diệc, bói Dịch là bói Diệc. Trong Tự Điển của Pigneau de Béhaine thế kỷ XVIII chỉ ghi kinh Diệc chứ không ghi kinh Dịch. Cách gọi này còn thịnh hành cho đến nửa đầu thế kỷ XX. (Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam) Khổng Tử nói "Cho ta sống thêm mấy năm, đến 50 tuổi để học Diệc, có thể không phạm lỗi lầm lớn nữa" (Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học Diệc, khả dĩ vô đại quá hỹ) Lỗ Luận Ngữ, Tề Luận Ngữ, Cổ Luận Ngữ, cả ba đều đồng thanh xác nhận đây là lời nói thực của Khổng Tử: "Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học Diệc, khả dĩ vô đại quá hỹ". Khổng Tử nói là Diệc chứ không nói là Dịch vì ông là người nước Lỗ nên đọc theo âm nước Lỗ. 2) HÀO ÂM, HÀO DƯƠNG Trên trống đồng Đông Sơn Thanh Hóa Việt Nam, có trước Tả Truyện, hào dương khắc là vạch liền, hào âm là những vành trắng hay nhiều chấm hoặc nhiều vòng tròn nhỏ. Dịch Trung Hoa cải biên hào âm lại với nhau thành vạch đứt do nối các chấm lại với nhau. 3) TÊN CÁC QUẺ ĐƠN Tên các quẻ đơn là thuật ngữ chỉ có thể giải thích bằng tiếng Việt, tiếng Trung lúng túng không giải thích được: Càn, can kết lại; Khôn, khôn ngoan chỉ những lổ biết theo ý người gieo hạt mà nẩy mầm; Khảm, nạm vào, cẩn vào; Ly, âm của lửa; Cấn, cấn cái; Chấn, cái trống; Tốn, khuyết hãm ở dưới; Đoài, ao đầm. 4) TRUNG THIÊN ĐỒ Theo thuyết tam tài đã có Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ thì phải có Trung Thiên đồ nhưng Trung Hoa không có mà đồ này lại là cốt tủy của Dịch, nó là la bàn để dựa vào đó viết lời hào. Việt Nam đã tìm ra Trung Thiên đồ xếp theo vị trí Càn Nam, Đoài Đông Nam, Tốn Đông, Khảm Đông Bắc, Ly Bắc, Cấn Tây Bắc, Chấn Tây, Khôn Tây Nam. 5) MÃ HÓA Việt Nam lại tìm ra chứng tích Trung Thiên đồ được mã hóa trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ. Càn là Lạc Long Quân, Khôn là Âu Cơ, Lạc Long Quân diệt Hồ tinh quẻ Đoài, Mộc tinh Tốn, Ngư tinh Khảm (Long Quân tính thủy Khảm), Ly Âu Cơ tính hỏa, dẫn 50 lên núi quẻ Cấn, tôn người con trưởng quẻ Chấn làm vua hiệu là Hùng Vương. 6) LUÂN XA Vị trí các quẻ trên Trung Thiên đồ hoàn toàn ứng với vị trí các luân xa trên cơ thể con người nên ta có thể hiểu rằng tổ tiên Việt Nam đã luyện khí công và thiền định mà giao hội với vũ trụ để viết nên Kinh Dịch.Người Hoa không hiểu được tại sao lại gọi quẻ Thiên Hỏa là Đồng Nhân chẳng qua là hai quẻ này nằm trên trục tung của Trung Thiên đồ, Càn ứng với Luân xa Thiên là Thiên môn, Bách hội. Ly Hỏa ứng với huyệt Trường Cường Hỏa Xà, hai Luân xa này hợp nhau thì sẽ hòa đồng với vũ trụ.Tiếp đó họ hiểu sai về quẻ Đại hữu là giàu có vật chất, thực ra đó là thành tựu lớn nhất của hành giả luyện công. Trung Thiên Đồ tương hợp với Luân xa 7) MẠCH VĂN Trong mỗi quẻ lời hào là một khối liên hoàn, nói cùng một chủ đề chứ không rời rạc như Dịch Trung Hoa quan niệm. 8) SAI VỀ NGUỒN GỐC Truyền thuyết Phục Hy vẽ bát quái không có thực, thuyết khởi nguyên Kinh Dịch của Khuất Vạn Lý, Trương Chính Lãng không thuyết phục vì không phù hợp với cơ chế cấu tạo Kinh Dịch. 9) TỬ HUYỆT VĂN VƯƠNG Việc cho Văn Vương vẽ Hậu Thiên đồ và viết quái hào từ Kinh Dịch lại càng chứng tỏ rõ rệt Trung Quốc không thể là người sáng tạo Kinh Dịch vì theo tam tài bao giờ cũng có ba cái đi liền nhau, đã có Tiên Thiên đồ thì phải có Hậu Thiên đồ tiếp đó là Trung Thiên đồ không hề có chuyện Phục Hy làm ra Tiên Thiên đồ từ 4.000 năm trước rồi 2.000 năm sau Văn Vương mới tà tà làm Hậu Thiên đồ thì còn chi là Dịch, là tam tài. 10) THÔNG ĐIỆP: Người Việt Nam phải biết trân quí di sản của tiền nhân, chúng ta phải xóa mặc cảm tự ti, đón nhận KINH DỊCH trở về với dân tộc. Kinh Dịch là ánh dương rực sáng soi rõ thời Sơ Sử của nước ta bấy lâu bị nhận chìm trong cõi huyền sử mờ ảo. Kinh Dịch là văn bản chính thức xác thực khẳng định sự hiện hữu tất yếu của Thời đại Hùng Vương ở những trang đầu của lịch sử mở nước của dân tộc ta. Kinh Dịch xác nhận truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ là trang Quốc phả của Việt Nam với bờ cõi mênh mông tới tận Nam Dương Tử, tồn tại từ hơn 5.000 năm trước. Kinh Dịch giúp ta chấm dứt tiếng than dài phi lý của các nhà viết sử Việt Nam, thời thượng cổ nước ta không có chữ, xóa bỏ án oan cho tiền nhân “HỌC MƯỢN VIẾT NHỜ” mà lẽ ra đó là chuyện của dân Hoa Hán. Vì chữ tượng hình để viết Kinh Dịch đương nhiên là chữ do người Việt sáng tạo. Tác động của Kinh Dịch ảnh hưởng trùm phủ văn minh Đông Phương, xác nhận VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG xuất phát từ người Lạc Việt. Người Việt Nam có bổn phận đón nhận Kinh Dịch để bảo vệ danh dự của dân tộc và trả lại công bằng cho Tổ Tiên. PHỤ CHÚ: ĐÔI ĐIỀU VỀ TRUNG THIÊN ĐỒ Hiện nay có nhiều Trung Thiên đồ nhiều người không nghiên cứu cứ nghe tên là đánh đồng làm một, vì vậy cần phân biệt. Kinh Dịch hiện đang lưu hành chỉ mới công bố 2 thiên đồ, Tiên Thiên và Hậu Thiên theo thuyết tam tài như vậy còn thiếu đồ thứ ba là Trung Thiên đồ. Ngoài các thiên đồ các nhà Dịch học còn ghép Hà Đồ Lạc Thư vào với Kinh Dịch làm biểu lý cho nhau. Nhưng xét cho cùng thì cấu trúc hai loại này hoàn toàn khác nhau. Hà đồ Lạc Thư khởi đi từ số, Hà đồ lấy số từ 1 đên 10 nên có tổng số 55, Lạc thư lấy số từ 1 đến 9 nên có tổng số là 45. Những số này được chuyển thành điểm tròn, đen là âm, trắng là dương. Trung Thiên Dịch của cụ Trần Cao Vân đi theo loại độ số này, đồ của cụ có 25 điểm đen và 25 điểm trắng tổng số là 50. Do 50 nằm giữa 45 và 55 nên cụ gọi đồ của cụ là Trung Thiên. Cấu trúc thiên đồ khác với Hà Đồ Lạc Thư, khởi đi từ tượng do tượng âm và tượng dương tạo thành, nhưng dịch Trung Hoa chỉ mới biết có Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ, không biết gì về Trung Thiên Đồ. Vì muốn nhận Kinh Dịch là của mình nên Trung Hoa bịa ra Tiên Thiên Đồ của Phục Hy làm ra từ 4.000 năm trước, Hậu Thiên Đồ của Văn Vương làm ra 2.000 năm sau. Đây là chỗ sơ hở của Trung Hoa giấu đầu lòi đuôi, theo tam tài thì phải có ba tài, Thiên, Địa, Nhân, nên quẻ đơn phải có 3 vạch, quẻ kép 6 vạch ghép thành 3 đôi, vậy chẳng có lý nào làm 1 đồ 4.000 năm trước rồi 2.000 năm sau mới làm cái thứ hai và mãi mãi không có cái thứ 3. Quá vô lý. Trung Thiên Đồ của tôi chính là để bổ túc khuyết điểm này, khi làm ra TTĐ tôi nắm được bí quyết và biết ngay Trung Quốc không hiểu vấn đề này. Khi 8 quẻ đơn chạy trên vòng bát quái các vị trí chuyển đổi cho nhau sẽ có 40.320 thiên đồ chứ không phải chỉ có 3 cái. Vậy sao Dịch chỉ dùng 3 cái, bắt buộc phải chứng minh. Ba đồ này là duy nhất, nếu đổi một vị trí sẽ thành đồ khác trong số 40.320 đồ, ai muốn phát huy kinh Dịch cứ chọn một đồ là có thể xưng hùng xưng bá. Về sau tôi phát hiện ra Trung Thiên Đồ ẩn giấu trong truyền thuyết, tôi ngộ ra tổ tiên ta đã viết kinh dịch qua đồ này, nhưng không thể kết luận ngay được mà phải chứng minh sự liên hệ của nó với 2 đồ kia và vai trò của nó trong kinh văn kinh dịch. Nói là di truyền của tổ tiên cũng phải chứng minh chứ có ai truyền lại đâu, phát minh đấy. Dịch học gia gọi là phát kỳ vị phát. Bảo Ba đời Nguyên trong sách Dịch nguyên áo nghĩa có lập Trung Thiên Đồ nhưng đồ này chỉ là biến thể Hậu Thiên đồ theo ý riêng của Bảo Ba chứ không đúng với nguyên bản Trung Thiên Đồ chính gốc của Dịch Hiện nay Trung Hoa còn đưa ra một Trung Thiên Đồ khác gọi là Trung Thiên Đồ Thiên Văn cũng không ăn nhập gì. Không phải cứ cùng mang tên là giống nhau, cùng một công dụng, một vai trò. N.T.D
  3. LÚA VÀ DỊCH NÒNG NỌC Trần Quang Bình Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp tiếng Việt. Quả đúng như vậy, tiếng Việt tuy được cấu thành từ hệ thống chữ đơn âm nhưng để phong phú ngôn ngữ của mình, người Việt cổ đã sáng tác ra nhiều cách khác nhau làm tăng vốn từ như: thanh, từ láy, nguyên âm và phụ âm kép…Cách đây vài năm, có người hỏi tác giả: “Tại sao tiếng Việt ta rắc rối làm vậy, chỉ một cây lúa thôi mà đã biết bao nhiêu danh từ: lúa, thóc, gạo, tấm, cám….Thấy có người giải thích cũng một hệ nhà “Lúa” như vậy mà từng danh từ người Việt ta mượn mỗi thứ một nơi của một chủng tộc khác. Quả là buồn cười.”. Vâng quả thật buồn cười! Chuyện giao lưu là việc tất yếu, không có gì đáng ngạc nhiên cả. Nhưng thấy một từ một ngữ của ta giống của người lại quy ngay là ta mượn thì quả có một niềm tự ti đáng nể. Muốn biết ai mượn của ai thì cần phải truy nguyên lại từ triết lý nào mà ngôn ngữ đó có những từ như thế. Kể cả trong việc vay mượn, tất yếu người ta cũng phải có cớ gì đấy mới vay mượn chữ này mà không phải chữ kia. Như tác giả đã từng trình bày trong một số tác phẩm của mình [1], [2], [3] tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo ra một cách có hệ thống, dưới một triết lý chủ đạo rõ ràng – đó là Dịch Nòng Nọc. Cây lúa là cây đã gắn bó đến những sắc dân Việt từ bao đời này. Trải qua mấy nghìn năm họ cày bừa trên một vùng đồng bằng rộng lớn từ châu thổ Nam Hoàng Hà, Dương Tử đến tận châu thổ Sông Hồng vậy khó có thể nói các từ liên quan đến Lúa – một cây biểu tượng cho dân tộc Việt là được vay mượn các dân tộc khác. Tại sao thấy giống nhau mà không nghĩ dân tộc kia vay mượn từ Tiếng Việt?! Trước đây, khi đi vào giải thích các nghĩa các quái, tôi cũng hơi nghĩ đến việc biết đâu quẻ Ly người ta mượn từ “lúa”. Và vì dân ta phát triển nông nghiệp từ lâu nên việc biến âm từ “lúa” sang “Ly” là việc làm hoàn toàn hợp lý. Nhưng tôi lại cho rằng không phải, bởi gỉ thì gì, con người vẫn phát minh ra lửa trước lúa. Nhưng sự liên quan giữa “lúa” và “lửa”, “ly” quả thật quá rõ ràng. Hình 1. Cánh đồng lúa. Cây lúa đối với con người Việt ta từ cổ đại cho đến nay đều là nguồn sống và là cái gì đó thiêng liêng vĩ đại. Dựa trên triết lý Kinh Dịch và qua hình tượng những hạt lúa chín rực đỏ vàng về màu và về hình dáng như một hình thoi giống quẻ Ly Nòng Nọc, người ta cho đó là hạt giống Lửa của trời được cấy vào Đất và được dung dưỡng bởi Đất và Nước để rồi mang đến nguồn sống cho con người (chính vì vậy mà nó mới thiêng liêng). Vì thế biến thể từ Ly-Lửa-Lúa rất phù hợp. Gần với “Lúa” có từ “Lụa” chỉ một những thứ có ý nghĩa chung là mềm mại, mịn màng, óng mượt, óng ả dễ phản quang tựa như những tia sáng óng ánh: lụa, lụa là gấm vóc, lụa cau, giò lụa. Hình 2. Lúa – quái Ly. Hạt lúa có thể gọi là hạt thóc hoặc hạt lúa nhưng cây Lúa không thể gọi là cây thóc được. Vậy thóc được dùng ở đây chỉ hạt lúa mà thôi và tôi cho rằng người ta hay dùng chữ “thóc” để chỉ về hạt giống dùng để cấy trồng. Vâng Thóc có phụ âm “th” giống như thánh, thần, thằng, thẳng, thang… là tượng cho việc Trời là việc “thọc”. Người ta thọc hạt lúa xuống để làm ra cây linh thiêng của họ. Và việc này rất thiêng liêng nên hạt giống lúa đó người ta lấy tên là “thóc”. Ý nghĩa ở đây là người ta cũng thọc nhiều giống khác xuống để trồng nhưng chỉ với cây lúa linh thiêng họ mới lấy từ “thọc-thóc”. Thóc tượng trưng cho Càn. Ngoài ra, trong [1], tác giả đã chỉ ra sự đối xứng qua trục (chứ không qua tâm) mang tính hình tượng vật chất giữa Càn – cây gậy, cái cây – thông thấu và Đoài – cái hồ lõm xuống – đất đỡ ôm cây đấy vào để nuôi nấng và phát triển ra vạn vật. Đây chính là hình tượng thọc rất rõ ràng và được ghi lại trong tiên đề đầu tiên của Kinh Dịch tức Hà Đồ hay chính là định luật phát triển đầu tiên của vạn vật theo triết lý của người Việt cổ. Chính thế nên thóc chính là mầm giống của một cây linh thiêng nên kế thừa được phụ âm TH thuộc trời và hành động cũng linh thiêng không kém là thọc. Khi cây mọc chồi non, người ta gọi là mạ đồng dạng với mẹ, mụ, mẫu, mầm,…Vâng đó chỉ là cái cây mà rồi họ phải nhổ lên để cấy vào ruộng. Tức là có hai thời kỳ cấy trồng: gieo thóc hơi dày xuống thửa ruộng mẫu, sau đó khi đã mọc nhú lên những cây lúa non lại lấy chúng để gieo trên cánh đồng lớn. Cây ấy gọi là mạ vì nó là mẹ, là mầm, là khởi nguyên của cây lúa vậy. Mạ ở đây tượng trưng cho quái Khôn với nghĩa là Mẹ linh thiêng. Ở Huế bây giờ người ta vẫn gọi mẹ là mạ. Cặp bài trùng mạ-lúa = cây lúc khi còn nguyên sơ-và cây lúa khi đã lớn còn được giải thích bởi triết lý Hà Đồ: chúng cùng cặp 2-7 trong Hà Đồ[4] (ý ở đây nói cùng một nguyên lý hình thành tên, chứ người ta không lấy chữ cám hay chữ nào khác để gọi tên cho cây mạ như bây giờ). Hình 3. Hà Đồ. Và trong “Kinh Dịch sản phẩm sáng tạo của nền văn hóa Văn Lang”, tác giả đã chỉ ra đồ hình bát quái đúng chân lý dưới đây. Trong đó 2 Hà Đồ tương đương với quái Khôn tức mẹ, mẫu, má, mạ, mu, mầm còn số 7 là quái Ly tức Lúa, lẻ, lẻ tẻ, li ti, lửa, Hình 4. Hậu Thiên Bát quái Văn Lang[4]. Gieo trồng được một thời gian, lúa bắt đầu đơm bông. Bông lúa non thì họ gọi là trổ đòng đòng. Đại từ điển Tiếng Việt giải thích[5]: đòng: dt, bông lúa non còn ở trong bẹ chưa trổ thành bông. Đó là đ, thời kỳ “thuyết ngôn hồ Đoài” vậy: vui mà đơm hoa kết trái-một sự phát triển mạnh nhưng chưa đến độ chín. Cây lúa đã không còn cây lúa nữa nó đã bắt đầu sinh sản và cho ra một lũ lúa con đông đúc, nhộn nhịp và tươi vui. Đ-đất, đoài, đợ, đi, đứng, đọi, đông, đông đúc, đòng đòng. Hình 5. Lúa trổ đòng. Hạt lúa chín, người ta đem đi xát trấu và nhận được ba sản phẩm chính gạo, cám và trấu và một sản phẩm phụ nữa là tấm. Hình 6. Cấu trúc hạt lúa. Gạo là cái tinh trắng nguyên là nguồn dinh dưỡng cho tất cả chúng ta. Nó chính là cái tinh của mẹ vậy: tượng trưng cho quái Khôn nhưng khác với mạ là mẹ, nó giống như dòng sữa tinh khôi của mẹ. Gạo – gà-kê, con cà con kê, hạt kê, gái-cái, giậu, gốc, gốc gác, cội…Đều là những từ chỉ quái Khôn cả. Hẳn nhiên, với một thực tiễn hàng mấy ngàn năm làm nông nghiệp, người Việt cổ đã có những quan sát rất kỹ lưỡng về sự phát triển của cây lúa nói chung lẫn hạt lúa nói riêng. Những hạt lúa non vẫn còn ướt át và có những hạt cám li ti. Đó chính là cái tinh nước của hạt gạo vậy. Và hạt gạo lớn dần nhờ cái nguồn nước đó. Một âm cổ Khảm là Cám[6] và đặc biệt giống cách đọc chữ “cám” của Việt Nam. Cám bị lao tù giữa hạt gạo đang nảy nở bên trong và cái vỏ trấu bên ngoài. Tượng của nó cũng chính là Khảm vậy. Tấm là gì? Là hạt gạo vỡ. Nếu ta cứ cho là hạt lúa vỡ đôi (cũng là tấm cả thôi) thì như tôi đã có lần giải thích tấm có tượng một nửa của quẻ ly hay nói cách khác nó là một thứ có hình tượng quả núi. Tấm khi đặt xuống nó lô nhô lổn nhổn chứ không nằm dài ra như lúa và gạo được. Tấm-Từng-Tầng-Tiến….Từng tấm, từng tấm…người ta xếp lên như từng tầng từng tầng để làm cái gì đó lớn lên, cao lên so với mặt bằng của Đất. Vậy về ngôn nó cũng biểu thị quả núi. Mồ hôi rịn rịn ra chưa thành hạt tròn lăn xuống thì gọi là lấm tấm – chính là chỉ những hạt nước nổi lên trên bề mặt cũng đồng nghĩa với núi. Hầu hết các từ liên quan đến tấm đều chỉ một cái gì đó nổi lên trên một bề mặt: tầm, tầm vóc, tâng, tâng bóng, tâng công, tâng bầng (tức tưng bừng), tưng tưng, tưng tửng, tùng tùng, tấm tắc (ca tụng), tấm tức (cũng là một trạng thái tình cảm nổi lên mặt tình cảm bình thường với mức độ vừa phải), tấm bé (nói đến một con người nổi lên một cách vừa phải trên một bình diện chung), tấp là chữ chỉ khi người ta đưa một vật gì đó lên trên bề mặt từng lớp từng lớp nhưng cũng ở mức độ vừa phải. Gạo, lúa, đòng đòng, cám đều có liên quan mật thiết đến hoặc Hà Đồ hoặc Hậu Thiên Bát Quái Văn Lang còn tấm thì sao? Hình 7. Hạt tấm nửa quái Ly là quái Cấn - Núi Như giải thích ở trên tấm hầu hết mang nghĩa của một quả núi về hình tượng lẫn ý nghĩa. Trong Hà Đồ quả núi chính nằm ở số 8 hay Tám. Vậy dễ thấy về âm tiết thì Tấm lại quá gần với Tám-Núi. Như trên đã nói, cây Lúa hay lúa gạo là một cây hay thực phẩm đặc biệt tối quan trọng mang tính linh thiêng và tôn giáo với người Việt cổ vì thế nó chắc cũng không nằm ở ngoài quy luật Hậu Thiên của Kinh Dịch Nòng Nọc (hình 8). Trấu là cái vỏ vàng óng ở ngoài. Nó vừa tượng trưng cho Trời ngoài đối với gạo là Khôn trong. Tr-Trời, trắng, trong, trên, trán, trước, trấu,…Vừa tượng trưng cho Tốn: bôi gio trát trấu hay bôi gio trát giấu, giấu-gió…Nhưng trấu không còn hình lúa nữa mà cũng không phải gạo. Cũng không thể sử dụng vào việc dinh dưỡng cho con người. Nó như một thực thể tồn tại từ lúa nhưng lại không có ý nghĩa gì giống như quái Tốn được úp lên trên quái Đoài để ra trùng quái Đoài Tốn đứng tại Đoài: có tên nhưng không còn là thực thể riêng biệt. Bên vế sản phẩm ta thấy có cháo – chấn: là thứ đã vì sức lửa hay sức nóng của nọc làm vỡ nát hay bị chấn động đến vỡ nát không còn ra thực thể gạo nữa. Hai cũng biết là từ gạo nhưng nó không còn mang dáng dấp hạt gạo nữa. Nó có thể nói là đối hình của tấm cũng nát như vậy nhưng tệ hơn tấm là hết hình thù cụ thể. Hình 8. Lúa và các sản phẩm dinh dưỡng từ lúa qua Hậu Thiên Bát Quái Văn Lang. Và trong trùng quái Cấn Chấn đóng tại phương vị Cấn-Núi-Tấm, Chấn-Cháo đóng một vai trò mờ nhạt, thứ yếu.Ta thấy từ hình 8 rõ ràng sự phát triển, hình thành cây lúa từ cây giống đến sản phẩm đúng theo khuôn mẫu của đồ hình Hậu Thiên Bát Quái Văn Lang. Hạt thóc – Càn (ánh vàng, rắn chắc,…) được gieo xuống đất không lâu sau nó sẽ trổ bông non hay trổ đòng đòng – Đoài (đông vui) và trở thành cây lúa có đủ bắp, lá và hạt. Hạt lúa non muốn phát triển đầu tiên hình thành lớp dinh dưỡng cho nó là lớp cám – Khảm, Cám từ đó hạt lớn dần đến được ½ (là biểu tượng ½) Tấm – Núi – Cấn và sản phẩm cuối cùng là gạo – gái, cái, cà, kê, gốc gác,…- Khôn. Đặc biệt đối với trường hợp cây lúa, Hậu Thiên Bát Quái Văn Lang triển khai phân biệt bên Dương và Âm không những ngôn từ mà còn tính chất: bên Dương (đỏ) là những thứ của một cây lúa trọn vẹn chưa ăn được vì còn lớp trấu, bên Âm (xanh lá cây) là những sản phẩm dinh dưỡng đã có thể ăn được. Hai sản phẩm phụ là Trấu, Cháo không có hình thù cụ thể tuy phảng phất vẫn biết là chúng từ đâu nhưng không có ý nghĩa gì đặc biệt lại phù hợp triệt để với hai quái Tốn và Chấn kể cả sự phân biệt cây hoàn chỉnh çè và sản phẩm dinh dưỡng nói trên. Cơm được nấu từ gạo và có cho nước vào. Hạt cơm chín là hạt đủ độ nở trong nước nhất định khi đun. Và cơm chính là cái mà chúng ta đưa vào miệng để lấy nguồn dinh dưỡng. Cơm chính là Khảm vậy cũng giống như cám và cùng âm với cám một bên là nuôi chúng ta, còn một bên là nuôi hạt gạo. Một từ gần giống quái Khảm-Cám hơn Cơm nữa là Cốm. Cốm là hạt gạo còn rất non và quanh nó còn dòng sữa dinh dưỡng. Có thể thấy được điều đó trong định nghĩa dưới đây[7]: “Nguyên liệu để làm cốm phải là những bông lúa nếp đã buông câu nhưng vẫn còn màu xanh lá mạ, được gieo ấy ở những mảnh ruộng riêng. Cho đến ngày lúa khum ngọn, hạt nếp còn sữa thì người ta mới gặt lúa về.”. Vậy theo người xưa tượng trưng cho Cốm không gì khác ngoài Cám hay Khảm – Nước. Hình 9. Cốm Vòng. Có nếp có tẻ: tẻ~lẻ: lẻ tẻ, li ti, lúng túng, lung tung…Tẻ chính là lúa vậy tượng quẻ ly, còn nếp lại tròn trịa hơn tượng cho quái Khôn. Chúng ta nhớ lại Hà Đồ: Khôn và Ly chính là hai sản phẩm của một cặp 7-2. Nếp và Tẻ không có gì đối kháng nhau cả, chúng là hai sản phẩm anh em với nhau: một cái có tượng âm một cái có tượng dương. Một cái có tượng dài, một cái có tượng tròn. Mà ở đây cũng còn liên quan đến nhiều khái niệm khác có dính dáng đến cặp Khôn Ly mà tôi sẽ nói đến sau như: khôn-dại, nghèo-giàu,…Từ một mẹ Khôn mà ra, một đứa thì giống mẹ ở lại, còn một đứa thì tính khí cương cường hơn đi ra. Chính vì thế mà nếp~nòng-tròn=Khôn còn tẻ~lẻ-ly. Và câu nói có nếp có tẻ với ý nghĩa có gái có trai cũng được đi từ triết lý Kinh Dịch Nòng Nọc. Tất cả những chữ “n” và “ep” hầu như đều chỉ một khuôn phép chật chội. Mà khuôn phép đó rất linh thiêng bởi vì nó thuộc trục Càn-Khôn: không khuôn phép nào có thể cao được hơn cả. Vì ở cùng trong một lỗ một khe nên khuôn phép này còn mang ý nghĩa chật chội: nếp: cây nếp anh em với cây lúa – quái Khôn; nếp nhà, thành nếp, nề nếp, nền nếp: khuôn phép; nép, khép nép: ở đây từ láy kh đi với n mà kh thường tượng trưng cho khôn (khung, khôn, không, khúc khuỷu, khuya,…) chỉ gò bó không dám tự tiện; nẹp: buộc cái gì đó lại cho thành nếp…Vấn đề cốt lõi ở đây, theo ý tác giả cặp song sinh nếp-lúa diễn tả đúng tinh thần Khôn-Ly (khôn thì nề nếp hơn, dính vào nhau hơn còn ly thì tươi vui hơn, nhiều hơn nhưng lại tách rời hơn, li tán hơn.). Cặp này tuy đơn giản vậy nhưng đứng về góc độ xác suất thì chúng là bằng chứng sáng giá cho việc chứng minh tồn tại cặp Khôn-Ly đi từ Hà Đồ, cũng là bằng chứng tốt cho Hậu Thiên Bát quái Văn Lang và tất nhiên là bằng chứng tuyệt vời để chống Hậu Thiên Bát quái Văn Vương (trong đó Đoài làm cặp với Ly và Khôn đi với Tốn). Bằng chứng Nếp – Tẻ çè Khôn – Ly được phụ họa và nâng tính thuyết phục lên bởi cặp Cơm-Xôi. Món nấu lên của Lúa, tẻ là Cơm mà của Nếp là Xôi. Trong ngôn ngữ tiếng Việt có hiện tượng biến âm rất phổ biến là x-th: Sài gòn – Thài gòn, làm sao – làm thao. Tính trời của những chữ có phụ âm x, s cũng dễ nhận ra như: trong sáng, trong sạch, trong suốt, gà trống => gà sống, trắng => sáng, bồ trốt => sọ, trướng => sình, thọc = xọc. Đặc biệt trong các cặp đối nhau thì càng có ý nghĩa như gần (gái, cái, gà, kê, gốc…) - Khôn çèxa – Càn. Dĩ nhiên ở trong cùng ổ thì sẽ gần mà cách ra tới đầu kia của bát quái (tức Càn đối với Khôn qua tâm) hiển nhiên là xa; mới (mụ, mầm, mẹ, mạ, mình, mù, …) – Khôn çèxưa – Trời – Càn…Chính bản thân từ “xôi” lại có trong từ xa xôi nếu xét trên Hậu Thiến Bát Quái Văn Lang: xa với quái Khôn chỉ có là Càn. Vậy chúng ta lại có thêm cặp Xôi-Cơm çè Càn-Khảm, một trong bốn cặp số Hà Đồ khác cặp 1-6 và cặp này lại đối xứng qua tâm với Ly-Khôn. Ta được một bộ tứ tuyệt diệu ở hình 9: Nếp – Tẻ çè Khôn – Ly Càn-Khảm çè Xôi-Cơm Hình 9. Bộ tứ Nếp Tẻ Xôi Cơm(*) Vấn đề tăng tính thuyết phục thêm của bộ tứ này ngoài những lý giải còn có sự minh chứng cho việc cố ý của người xưa đưa từ Xôi và quỹ đạo X tức quỹ đạo của Càn – Trời. Ví dụ, như ta thấy nếu như Cơm ngoài việc có âm giống Cám thì ta còn có thể giải thích: Lúa là cây thiêng liêng nên thực phẩm từ lúa để nuôi sống con người như một dòng sữa mẹ nên được lấy tên một quái để đặc cho nó có nghĩa là nước nuôi sống vạn vật là Cám-Khảm-Cơm. Nhưng để giải thích cho chữ “món nấu từ nếp”, ta cũng chỉ có thể giải thích na ná như Cơm và đặt tên là Côm, Côi hay Cuôm gì đó thì mấy từ này không tạo ra được cặp song sinh Côm-Cơm çè Càn-Khảm (6-1 Hà Đồ). Như vậy, đặt tên là Xôi đã cho thấy tính cố tình của người xưa tạo ra cặp song sinh theo đúng Hà Đồ Xôi-Cơm çè Càn-Khảm (6-1 Hà Đồ) và tạo nên bộ tứ tuyệt hảo nói trên. Kết luận: 1. Tất cả các từ chỉ cho lúa và sản phẩm từ lúa đều được hình thành từ triết lý Dịch Nòng Nọc. Tất cả các lý giải đều xuyên suốt và không hề được vay mượn ở bất kỳ hệ ngôn ngữ nào. 2. Quy trình trồng lúa đến sản phẩm dinh dưỡng theo đúng chính xác Hậu Thiên Bát Quái Văn Lang. Bằng chứng sáng giá chứng minh tính đúng đắn của HTBQVL. 3. Nếp – Tẻ çè Khôn – Ly bằng chứng sáng giá cho việc chứng minh có cặp song sinh Khôn – Ly ở Hà Đồ vì thế cũng là bằng chứng chống lại tính đúng đắn của HTBQVV và gián tiếp chứng minh tính đúng đắn của HTBQVL. Cặp Xôi-Cơm çè Càn-Khảm cũng có giá trị tương đương Nếp – Tẻ çè Khôn – Ly nhưng nó giá trị hơn vì minh chứng được sự cố tình của người xưa đưa xôi và quỹ đạo x hay Càn. Từ đây nếu xét góc độ xác suất(*) thì bộ tứ Nếp Tẻ Xôi Cơm trở thành bằng chứng không thể quay ngược của việc Dịch Nòng Nọc do người Việt sáng tạo ra và tiên đề của nó là HTBQVL và tiếng Việt được hình thành dưới sự chi phối của hệ thống triết học này. Như vậy chúng ta thấy, tất cả các từ liên quan đến lúa đều được biểu thị qua triết lý Kinh Dịch Nòng Nọc. Người Việt đã lấy triết lý thiêng liêng nhất của họ là Kinh Dịch Nòng Nọc làm chủ đạo để đặt tên cho cây thiêng liêng nhất đối với họ đó là Lúa. Trần Quang Bình. [1]. Trần Quang Bình. KINH DỊCH, SẢN PHẨM SÁNG TẠO CỦA NỀN VĂN HIẾN ÂU LẠC. Quyển 1. Chương 9. Vietsciences. 2006 [2]. Trần Quang Bình. KINH DỊCH, SẢN PHẨM SÁNG TẠO CỦA NỀN VĂN HIẾN ÂU LẠC. Quyển 2. Di sản phi vật thể. An Việt Toàn Cầu. 2006 [3]. Trần Quang Bình. Thần Bếp, Ông Táo qua lăng kính Kinh Dịch Nòng Nọc. Vietsciences. 2008 [4]. Trần Quang Bình. KINH DỊCH, SẢN PHẨM SÁNG TẠO CỦA NỀN VĂN HIẾN ÂU LẠC. Quyển 1. Chương 11. Vietsciences. 2006 [5]. Nguyễn Như Ý chủ biên. Đại từ điển Tiếng Việt. Nhà XB VH-TT. 1998. Trang 649. [6]. Dương Ngọc Dũng, Lê Anh Minh. Kinh Dịch, cấu hình tư tưởng Trung quốc. Nhà XB KHNV. 1999. Trang 260. [7]. Nguyễn Hoài Lâm Vy. Bí kíp cốm Vòng. Internet resource. 2010. http://giadinh.net.vn/xa-hoi/bi-kip-com-vong-20101007080310701.htm. (*). Nói sơ về xác suất: ví dụ hai từ Cám và Tấm có giá trị sau khi giải thích được sáng tác từ ảnh hưởng của Dịch là 0,9 hay xác suất ngẫu nhiên chỉ có 0,1. Vậy xác suất ngẫu nhiên của cả hai là 0,01. Nhưng trong trường hợp Lúa-Mạ lại khác vì Lúa-Mạ còn minh chứng cho cặp Ly-Khôn Hà Đồ và HTBQVL (HTBQVV không có cặp này) vì vậy xác suất ngẫu nhiên của chúng là 0,01x0.01=0.0001. Ấy mà cặp Lúa-Mạ lại không có tính minh chứng bằng cặp Lúa-Nếp vì dù sao hai từ Lúa và Mạ đều ra từ một gốc là hạt lúa cả, còn Lúa Nếp là hai cây khác nhau mà nó vẫn chỉ ra cặp Ly-Khôn thì xác suất cố tình ở đây lớn hơn Lúa-Mạ một bậc hay xác suất ngẫu nhiên là 0,000001. Tính minh chứng của cặp Xôi-Cơm lại lớn hơn Lúa-Nếp vì đã có dấu hiệu cố tình dùng chữ Xôi. Nên xác suất Xôi-Cơm là 10-8. Lúc này quý vị sẽ thấy xác suất ngẫu nhiên của bộ tứ trên là 10-14. Nhưng việc chưa dừng ở đó. Còn xác suất người ta phân biệt rõ ràng một bên cây và một bên sản phẩm để ăn nữa: cũng cố tình nữa. Vì thế xác suất ngẫu nhiên được tính đâu đó là 10-18. Nhưng vẫn chưa hết vì ngoài thỏa hai cặp Hà Đồ ra chúng còn thỏa luôn hai cặp đối xứng trong Hậu Thiên Bát Quái Văn Lang. Đến đây thì xác suất có thể nói gấp bình phương lên tức 10-36 ~ 0. Tức tính ngẫu nhiên ở đây hoàn toàn bị loại trừ.
  4. ĐỂ LÀM SÁNG TỎ MỘT SỰ THẬT ĐÃ BỊ KHUẤT LẤP THEO THỜI GIAN : DỊCH LÀ VIỆT & DỊCH LÀ CỦA VIỆT. Hà Hưng Quốc, Ph.D Chữ DỊCH được người Hoa ngày hôm nay viết là 易. Để hiểu chữ này một cách tường tận, chúng ta cần lội ngược về nguồn khám phá ra sự thật đã khuất lấp theo thời gian. Trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về chữ TRỜI. Chữ TRỜI (mặt trời) đã có từ rất lâu. Những phát hiện chữ viết trên mai rùa và xương thú, gọi là Giáp Cốt Văn 甲骨文, cho thấy chữ TRỜI được viết như những hình khắc bên dưới, xem H1. Người ta kết tập được ít nhất cũng khoảng 231 chữ TRỜI và những hình khắc trong H1 chỉ là một mớ trong số đó. Giáp Cốt Văn đã hoàn chỉnh vào thời Vũ Đinh (1250 TCN -1192 TCN) và được coi là loại chữ xưa nhất.[1] Kim Văn kế thừa Giáp Cốt Văn. Kim Văn 金文 hay Cát Kim Văn Tự còn gọi là Minh Văn 铭文hay Chung Đỉnh Văn 钟鼎文 là loại văn tự được khắc hoặc đúc trên đồ đồng, xuất hiện vào thời Thương và trở thành loại văn tự chủ đạo của thời Chu và kéo dài tới Tần Hán. H2 cho thấy một số chữ TRỜI Kim Văn. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, với chính sách thống nhất văn tự và đơn vị đo lường “thư đồng văn, xa đồng quỹ 书同文车同轨” (sách viết cùng loại chữ, xe có cùng cỡ trục) thì loại chữ Tiểu Triện 小篆,còn gọi là Tần Triện 秦篆, đã được Thừa Tướng Lý Tư phụ trách đưa vào sử dụng trong các văn bản chính thức. Tiểu Triện Văn được kiến tạo trên cơ sở chữ Đại Triện 大篆 của thời Tần qua tiến trình giản hóa và chọn lọc từ chữ viết của sáu nước lúc đó.[2] H3 cho thấy một số chữ TRỜI Triện Văn. được “vuông hóa” thành chữ 日 người Hoa vẫn đang sử dụng ngày hôm nay. Từ Giáp Cốt Văn tới chữ vuông ngày nay là một hành trình dài hơn 3200 năm.[3] Chữ 日 Hán Việt đọc là NHẬT. Chữ 日 Bắc Kinh đọc là RỨƠ. Chữ 日 Nôm Việt Cổ đọc là RỰC/RỎ và DIỆT. Chữ 日 Triều Châu (Mân Việt) đọc là DIỀT. DIỆT cũng là DIỀT do phát âm nặng nhẹ mà thành. Âm RỨƠ là biến âm của chữ RỰC/RỎ của Nôm Việt Cổ. “Diềt日 hay là Rực日 là Nôm ngày xưa của Việt, và chỉ có người Việt có phát âm Diềt日 nầy”. Âm DIỀT hay âm DIỆT cũng chính là âm VIỆT chữ quốc ngữ của người Việt chúng ta. “Tiếng Mân Việt - Việt Triều Châu là một phương ngữ rất xưa, được nhìn nhận bởi nhiều chứng minh là có cỡ ít nhất là 7000 năm lịch sử, xưa hơn âm Hán Việt thời nhà Đường. rất nhiều. Chữ Nôm với âm Nôm có trước là Diềt日chứ không phải là âm Nhật日 của Hán Việt có trước.” (Nguồn: Chữ Nôm Cổ Xưa Và Ý Nghĩa Của Việt của tác giả Đỗ Thành). Chữ thứ hai chúng ta cần xét tới là chữ TRĂNG. Chữ TRĂNG (mặt trăng) cũng đã có từ rất lâu. Những phát hiện chữ viết trên mai rùa và xương thú cho thấy chữ TRĂNG được viết như những hình khắc bên dưới, xem H4, và người ta đã kết tập được ít nhất là 74 chữ TRĂNG . Kim Văn kế thừa Giáp Cốt Văn và sau đó là Triện Văn, nên chữ TRĂNG cũng biến đổi theo. H5 cho thấy một số chữ TRĂNG Kim Văn và H6 cho thấy một số chữ TRĂNG Triện Văn. Và cuối cùng thì chữ TRĂNG từ được vuông hóa thành chữ 月người Hoa vẫn đang sử dụng ngày hôm nay. Chữ 月 Hán Việt đọc là NGUYỆT. Chữ 月 Bắc Kinh đọc là DUÊ. Chữ 月 Quảng Đông đọc là DUYỆT. “Tiếng Quảng Đông ngày nay vẫn đọc Nguyệt月 là Duyệt月 y như phát âm của chữ Việt粵 và Việt越. Tiếng [Hán] Việt ngày nay đọc là Nguyệt月 rất gần với âm Việt/Duyệt月. Tiếng ‘Nam Việt - Việt Quảng Đông’ cũng là phương ngữ xưa, xưa hơn âm Đường rất nhiều… Chữ Nôm với âm Nôm là Duyệt月 có trước, chứ không phải là âm Nguyệt月 của Hán Việt có trước.” (Nguồn: Chữ Nôm Cổ Xưa Và Ý Nghĩa Của Việt của tác giả Đỗ Thành). Chữ thứ ba chúng ta cần tìm hiểu là chữ DỊCH. Chữ DỊCH cũng đã có từ rất lâu. Những phát hiện chữ viết trên mai rùa và xương thú cho thấy chữ DỊCH được viết như những hình khắc bên dưới, xem H7. Người ta kết tập được ít nhất cũng khoảng 73 chữ DỊCH và những hình khắc trong H7 chỉ là một mớ trong số đó. Sau Giáp Cốt Văn là Kim Văn và Triện Văn. H8 cho thấy một số chữ DỊCH Kim Văn và H9 cho thấy một số chữ DỊCH Triện Văn. Và cuối cùng thì chữ DỊCH từ được “vuông hóa” thành chữ 易 người Hoa vẫn đang sử dụng ngày hôm nay. Chữ 易 Hán Việt đọc là DỊCH. Chữ 易 Bắc Kinh đọc là YI. Chữ 易 Triều Châu đọc là ÉCK. Chữ 易 Quảng Đông đọc là DIỀT và DIỆK. Chữ 易 Nôm Cổ Việt đọc là DIỀT và DIỆK. DIỀT và DIỆK là do phát âm nặng nhẹ mà thành, cận âm với chữ Việt quốc ngữ của chúng ta ngày nay. “Tiếng Quảng Đông đọc chữ Việt易 nầy là Diềt 易/Diệk易 hoàn toàn như người Triều Châu đọc chữ Việt日 nầy là Diềt日/Diệk日.” (Nguồn: Chữ Nôm Cổ Xưa Và Ý Nghĩa Của Việt của tác giả Đỗ Thành). Khảo sát tiến trình biến đổi từ chữ Giáp Cốt cho đến chữ vuông ngày hôm nay, không khó để chúng ta nhận ra chữ DỊCH là một tổng hợp biểu ý được hình thành từ hai chữ biểu hình là TRỜI 日 và TRĂNG 月 Hai chữ TRỜI TRĂNG ngang nhau thì biểu ý là MINH 明, còn TRỜI trên TRĂNG dưới thì biểu ý là DỊCH易. Phát âm của chữ TRỜI, chữ TRĂNG và chữ DỊCH theo Nôm Việt Cổ đều là âm VIỆT của chữ Việt quốc ngữ ngày nay. Nói một cách khác, DỊCH chính là VIỆT. Nói “hai chữ TRỜI TRĂNG ngang nhau thì biểu ý là MINH 明, còn TRỜI trên TRĂNG dưới thì biểu ý là DỊCH易” không phải là một phát biểu tùy tiện. Nhìn vào Giáp Cốt Văn thì sẽ thấy sự khác biệt giữa kết hợp TRỜI TRĂNG ngang nhau để biểu ý MINH, xem H10 và H11, và kết hợp TRỜI trên TRĂNG dưới để biểu ý DỊCH, xem H7 bên trên, là một chủ ý quá rõ rệt. Hai biểu ý riêng biệt với hai chủ ý rõ rệt này không những đã có ngay từ lúc ban sơ, tìm thấy trong đống Giáp Cốt, mà còn kéo dài và liên tục cho đến ngày hôm nay, kinh qua các giai đoạn Kim Văn và Triện Văn. Cả thảy 19 chữ MINH Giáp Cốt Văn (100%) đều theo cấu trúc TRỜI TRĂNG đặt ngang nhau và không có những tia sáng. Cả thảy 73 chữ DỊCH Giáp Cốt Văn (100%) đều theo cấu trúc TRỜI trên TRĂNG dưới và có những tia sáng. [Xoay những hình trong H7 cho vòng tròn mặt trời nằm trên, vòng cung mặt trăng nằm dưới, và các tia ánh sáng nằm dưới cùng sẽ thấy rõ. Thoạt nhìn thì thấy những hình này giống như là mặt trời vừa nhô khỏi đỉnh đồi nhưng nếu là vậy thì ánh sáng phải tỏa ra từ mặt trời và tỏa lên phía trên chứ không nằm phía dưới vòng cung do đó giải thích nghe hợp lý hơn thì những tia sáng hoặc là (1) biểu hình cho ánh sáng của mặt trăng hoặc là (2) biểu hình cho ánh sáng của cả hai. Từ đó có thể thấy sự khác biệt rất lớn giữa biểu ý Minh và biểu ý Dịch, dầu là cả hai đều từ sự kết hợp Trời và Trăng. Trong khi bản thân biểu hình mặt trăng và mặt trời là hai chủ thể chính biểu ý cho chữ Minh thì bản thân của những vạch biểu hình ánh sáng của mặt trăng hoặc/và mặt trời mới là chủ thể chính biểu ý cho chữ Dịch.]. Hai chữ biểu tượng TRỜI TRĂNG dùng để biểu ý chữ DỊCH vẫn còn để lại “dấu vân tay” trong chữ Hán Vuông ngày hôm nay. Thông tin trong H12, lấy ra từ Hán Việt Từ Điển, tự nó đã giải thích đầy đủ sự liên hệ mật thiết giữa các thành phần làm nên chữ DỊCH. Nhưng theo Đỗ Thành, một nhà nghiên cứu người Việt gốc Hoa thành thạo nhiều phương ngữ Trung, thì: “Việt易” đây là chữ Dịch易 chính là chữ tượng hình vẽ mặt trời hình tròn O với các tia sáng chung quanh được mỹ thuật hóa và vuông hóa thành chữ Nhật日 được đặt ở phía trên, và các tia sáng chung quanh được gom lại biến thành chữ Vật勿 để ở phía dưới thành ra Việt易. Chữ Việt nầy với chữ Việt cổ xưa nhất là vẽ hình mặt trời có tia sáng phát ra tứ phía là chung một chữ mà thôi. Thật ra Kinh Dịch易 là đọc trại âm từ chữ Kinh Việt易. Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh Việt = Mặt trời 日 + tia sáng 勿 = Việt/易.” Và Đỗ Thành còn khẳng định “Việt = Trời/Trăng soi sáng = Hình mặt trời các tia phát sáng trên trống đồng = viết bằng O với những tia sáng = 日 = 易 = 粵. Hai chữ Việt nầy, 易 và 粵, đều là ‘mặt trời cháy sáng’.” Ông giải thích: “Việt粵 Chữ Nôm đọc là Duyệt粵 ở Quảng Đông [Nôm Cổ Việt]. Ngày nay Hán Việt và Việt đọc là Việt粵, âm Bắc kinh đọc là Yué粵 (ghi chú: bên Triều Châu dùng chữ “Việt越” thay chữ “Việt粵” nầy). Cách viết chữ Việt粵 nầy rất giống chữ Dịch易”. Chữ Việt粵 nầy là Hướng向 về mặt trời Chiếu sáng với chữ Thể采 là ‘Bẻ’ để biểu hiện ý của âm ‘E’ là ‘Yue’ là ‘Việt’. Bản thân của chữ Thể采 trong cổ văn thì đó là chữ Nôm nghĩa là Cháy采, chữ ‘Cháy’ là Mộc木 đang phát cháy bằng mấy nét phía trên là ngọn lửa. Tôi là người Mân Việt nên hiểu rõ chữ Cháy采 nầy (Cháy采còn 1 phát âm khác là Bẻ采 để nói nghĩa khác, và “Bẻ” hay “Bén” cũng lại quay về âm Bén, cháy bén…) Cháy采 sáng nguyên 1 vòng cầu tức là “Cầu vòng” mà ngày nay được viết bằng Thể Hồng-彩虹 tức là Cầu vòng…Nhiều người cứ tưởng rằng Việt粵 với bên trong chữ Hướng向 là Mễ米 là gạo…, không phải vậy đâu. Bởi vì nghĩa cuả Việt là Nhật- Nguyệt là Quang Minh-Soi sáng… như trống đồng của Việt tộc đã lưu dấu trong lịch sử.” Như vậy thì luận điểm của Đỗ Thành tuy có hơi khác nhưng xét cho cùng thì cũng không khác vì theo ông (một cách gián tiếp) mặt trời/mặt trăng không là chủ thể chính [như trong chữ Minh] mà ánh sáng chiếu ra mới là chủ thể chính biểu ý của chữ Dịch. Và điều này đúng với hình ảnh trên Giáp Cốt Văn biểu ý chữ Dịch. Dầu chữ 易 là một tổng thể TRỜI trên TRĂNG dưới với những TIA SÁNG biểu ý DỊCH hay là một tổng thể chỉ có mặt trời với các tia ánh sáng được mỹ hóa thành chữ Vật để biểu ý DỊCH thì kết luận cũng vẫn như nhau: DIỀT = DIỆK = DUYỆT = DỊCH = VIỆT. Và như Đỗ Thành đã kết luận: “Kinh Dịch易 là đọc trại âm từ chữ Kinh Việt. Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh Việt.” Có hai vấn đề lớn nằm trong kết luận trên của Đỗ Thành. Với sự khẳng định chữ Hán phát triển trên nền tảng của chữ Nôm Việt Cổ, sẽ có một số lượng không ít những nhà nghiên cứu Việt không đồng ý, nếu không muốn nói là “chống kịch liệt”. Với não trạng “tự nô lệ hóa” và với thành kiến đảo lộn sự thật “lấy quả làm nhân” (ngôn ngữ của Hà Văn Thùy) cho rằng “hơn 70% tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán” nên họ luôn khẳng định tiếng Hán là chủ thể của tiếng Việt. Không còn gì sai hơn! Lấy một vụ khai quật mộ cổ nổi tiếng 馬王堆 vào đầu thập niên 1970 có liên quan đến Kinh Dịch làm thí dụ điển hình. Tiếng Hán Việt đọc là Mã Vương Đôi. Tiếng Anh dịch là “King Ma's Mound." Sự thật cho thấy chẳng có vị Vua Ngựa hay Vua Ma nào được chôn ở đó cả. Qua khảo chứng người ta đã xác định ba ngôi mộ cổ này được chôn cất từ hồi thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Chủ nhân của ba ngôi mộ là Lợi Thương, vị thừa tướng nước Trường Sa thời kỳ đầu Tây Hán, phu nhân Tân Truy của ông và con trai của hai ông bà. Chỉ là vị “quan” họ Lợi thì làm sao lại được ghi là “Mã Vương”? Sự thật không có gì bí ẩn. Trường Sa, Hồ Nam phía Nam Trung Quốc là vị trí nằm ngay trung tâm của người Việt Cổ do đó nói bằng tiếng Nôm Việt Cổ thì những ngôi mộ đó nằm ở Đồi Mả Quan, tức là cái đồi có mả (mồ) của quan. Địa danh Đồi Mả Quan tồn tại lâu dài trong cộng đồng Việt. Khi người Hoa xuất hiện thì do không phát âm đúng tiếng Việt và không hiểu nghĩa của tiếng “mả” nên đọc trại thành “mã” còn “quan” thành “wan” rồi thành “Wang” theo đó Đồi Mả Quan biến thành “Má Wang Tui.” Đến khi chuyển sang chữ vuông, người sau không còn hiểu lai lịch khu mộ mà chỉ “phiên ngang” theo âm nên ký âm bằng chữ vuông Mã Vương Đôi 馬王堆. Bằng chứng này cho thấy tiếng Nôm Việt Cổ đã có từ rất xưa (trong trường hợp này thì mốc thời gian là 2200 năm trước) và Nôm Việt Cổ không phải là sản phẩm vay mượn từ tiếng Hán, ngược lại mới đúng “sự thật như nó đã là.” Nhìn lại lịch sử chữ DỊCH từ thời Giáp Cốt Văn xuyên suốt cho tới thời Trung Văn ngày nay, xem H13, có lý nào để nói ngược ngạo rằng tiền nhân sống trên đất Việt xưa đã vay mượn chữ viết và tiếng nói của người Hán? Hay nói một cách khác, chẳng lẽ trước khi dân du mục phương Bắc tràn qua Hoàng Hà hòa huyết đẻ ra Hoa Hạ thì người Việt cổ sống trên đất Việt xưa không biết nói, không chữ viết và không văn hóa? Chẳng lẽ nhóm dân du mục “phương Bắc bạo cường” đó có sẵn một nền văn hóa “tầm cao” mang vào đất Việt xưa để áp đặt và thành công với sự áp đặt văn hóa để từ đó tự hào với cái gọi là văn hóa Hán tộc? Tuy người viết không phải là nhà ngôn ngữ học, cũng không phải là nhà khảo cổ, nhưng cũng có thể đủ sức để hiểu một điều là tiếng nói và chữ viết không thể từ trên trời bổng dưng rơi xuống đất Ân Thương để đám con lai Hoa Hạ lấy đó cho là của riêng Hán tộc. Còn Việt cổ sống trên đất Việt xưa có phải là Việt hay không thì cuốn Tìm Cội Nguồn Qua Di Truyền Học (2011) của Hà Văn Thùy đã giải thích rõ. Vấn đề thứ hai, khẳng định Dịch là của Việt thì chắc chắn là số người đồng ý sẽ không nhiều hơn số ngón trên hai bàn tay. Biết thực tế là vậy nhưng điều này không hề làm cho người viết nao núng. Hà Hưng Quốc đã từng viết nhiều cuốn sách để giải thích vì sau Dịch là của Việt. Không những Dịch mà luôn cả Âm Dương, Ngũ Hành, Hà Đồ, Bát Quái, Bảng Lục Thập Hoa Giáp, Ngũ Hành Nạp Âm, Tử Vi cũng là của Việt. Và đi xa hơn là cả nền văn hóa Trung Hoa hiện nay cũng được đẻ ra từ cái nôi văn hóa Việt cổ. Nhưng dầu cho lý luận có “hàn lâm” đến mấy thì cũng không qua được sự thật rất “bình dân” của Đỗ Thành, đó là: “Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh Việt.” Nếu chúng ta để ý thì sẽ thấy chữ DỊCH có nguồn gốc từ thiên văn. Mà có nguồn gốc từ thiên văn thì không thể nào là sản phẩm của giống dân du mục phương Bắc. Và nó phải là sản phẩm phát sinh từ cái nôi trồng lúa nước ở phương Nam, của Việt. Căn cứ vào chi tiết trong Thuật Dị Ký 述異記của sách Thông-chí 通志 (2AL, Q II, Ngũ Đế Kỷ Đệ Nhị, Chí #35, tr. 224) của sử gia Trịnh Tiều (1104-1162). Sách chép: “Đào Đường chi thế, Việt Thường quốc hiến thiên tuế thần quy, bối thượng hữu văn, giai khoa đẩu thư, ký khai tịch dĩ lai, Đế mệnh lục chi, vi chi Quy-lịch. 陶唐之世,越裳國獻千歲神龜,背上有文,皆科斗書,記開闢以來,帝命錄之,謂之龜歷。” Dịch: “Đời Đào Đường, nước Việt Thường dâng thần quy ngàn tuổi, trên lưng có văn, đều là chữ khoa-đẩu [chữ nòng nọc], chép việc từ thuở khai thiên tịch-địa đến bấy giờ, Đế sai chép và gọi là Lịch Rùa.” [Ngưng trích dẫn] Sách Cương Mục Tiền Biên của Kim Lý Tường cũng có chép rằng, “năm 2361 trước Công nguyên, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Ðường Nghiêu Sứ thần Việt Thường Thị sang chầu dâng rùa thần". Theo Kim Lý Tường con rùa gọi là thần quy vì rùa to hơn 4 thước ta [khoảng 1.20 mét], trên lưng có chữ nòng nọc [đẩu văn], ghi tổng quát lịch sử cấu tạo vũ trụ và nhân loại từ thuở ban đầu cho tới đời vua Ðường Nghiêu.[1] Giáo sĩ L.Wieger, một nhà thông thái dòng Tên, cũng ghi nhận "người Tầu đã dựa vào cống phẩm rùa thần mà làm ra Qui Lịch” (L.Wieger, Hisfoire des croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine, depnis l’ origine jusqu à nos jonrs./ Lịch Sử Tín Ngưỡng Và Quan Điểm Triết Học ở Trung Hoa, Từ Khởi Thủy Cho Đến Thời Đại Chúng Ta, trích dẫn bởi TS. Thái Văn Kiểm).[2] Cũng trong Kinh Thư, về việc hiến thần quy, “Ðế Nghiêu nhà Ðường sai Hy Thúc giữ việc này suy trác khí hậu ở Nam Giao, điều hòa mọi việc thời tiết sớm muộn về mùa hè... Suy trác cẩn thận để tháng trong Hạ được đúng với thời tiết. Lại phải xem đến việc thay đổi của người và trời đất.” (Lịch Với Lịch Sử Kinh Tế Chính Trị Và Chiến Tranh của Nguyễn Thường, Nghiên Cứu Lịch Sử số 3 (262) tháng 5 & 6-1992, tr.51-59).[3] Với người viết thì câu chuyện tặng rùa thần này là một sự kiện lịch sử rất quan trọng. Nó là dấu công chứng đóng “trực tiếp” lên cụm chữ DỊCH LÀ CỦA VIỆT. Đúng như học giả Zhou Jixu khẳng định: “Không giống như các dân cư Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ là những người đến từ miền Nam Trung Quốc, dân cư của Hoàng Đế đến từ phía Tây của Trung Quốc, từ phần phía Tây của lục địa Âu-Á. Họ chinh phục người dân của lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, những người thủ đắc nền văn hóa nông nghiệp phát triển . . . Lịch sử được ghi trong tài liệu truyền thống chỉ duy nhất tính đến việc người của Hoàng Đế đi vào trong thung lũng Hoàng Hà và phát triển văn minh ở đó. [Còn] những người đã sống trước đó và tạo dựng nền văn minh tiền sử huy hoàng của hai con sông đã bị chìm sâu sau màn sương lịch sử. Họ đã bị loại trừ khỏi sử biên niên truyền thống, trong đó bao gồm hầu như tất cả các sách lịch sử Trung Quốc, từ Thượng Thư, kinh Thi đến Sử ký . . . Đây là một lịch sử mang xu hướng đảo lộn vị trí giữa chủ và khách.”[7] Hà Hưng Quốc. Ngày 1 Tháng 3 Năm 2013 [1] “Giáp cốt văn hoàn chỉnh nhất là vào thời Vũ Đinh nhà Thương, và lượng văn tự được tìm thấy ngày nay cũng chủ yếu ở vào thời kì này.” (Nguồn: Chuyên Trang của Diễn Đàn Hán Ngữ, www.tiengtrung.org, Lịch Sử Chữ Hán 3: Đại Triện) [2] Khái niệm về loại chữ Đại Triện cũng không thống nhất. Có người cho rằng Đại Triện bao gồm Kim Văn và Lựu Văn, lại có người cho rằng Đại Triện là Lựu Văn. Cũng có khi người ta gọi tất cả các loại chữ cổ thời tiên Tần là Đại Triện. (Nguồn: Chuyên Trang của Diễn Đàn Hán Ngữ, www.tiengtrung.org, Lịch Sử Chữ Hán 3: Đại Triện). [3] “Hệ văn tự sớm nhất được phát hiện cho đến nay là chữ giáp cốt (giáp cốt văn 甲骨文) mà niên đại được xác định khoảng 1200 tcn.” (Nguồn: VietScience. Thưởng Thức Thư Pháp Trung Quốc của Lê Anh Minh, 1/9/2006) [4] Nguồn: Cỗi Nguồn Của Văn Minh Đất Nước Việt Nam của GS Cao Thế Dung. GS trích dẫn từ Cương Mục, bản dịch - Bộ VHGD, Sài Gòn 1965, tr.31. [5] Nguồn: Cỗi Nguồn Của Văn Minh Đất Nước Việt Nam, GS Cao Thế Dung. [6] Nguồn: Cỗi Nguồn Của Văn Minh Đất Nước Việt Nam, GS Cao Thế Dung. [7] Tái trích Zhou Jixu.The Rise of Agricultural Civilization in China: The Disparity between Archeological Discovery and the Documentary Record and Its Explanation. SINO-PLATONIC PAPERS Number 175 December, 2006. Trong bản thảo Viết Lại Lịch Sử Trung Hoa của Hà Văn Thùy.
  5. BÀN VỀ NGUỒN GỐC KINH DỊCH & VĂN MINH LẠC VIỆT Trần Khuê Kinh Dịch đã có chừng hơn 5000 năm tuổi, nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa biết chính xác ai là tác giả đích thực của Kinh Dịch nguyên thuỷ. Ngay các học giả Trung Quốc vẫn tiếp tục tìm cách xác minh nguồn gốc của KD nhưng hầu như tất cả đều lâm vào bế tắc. Kinh Dịch bắt nguồn từ Phục Hi ư? Và những truyền thuyết Long Mã, Hà đồ, Lạc thư . . . , hầu như không tin được nữa vì không có cơ sở thực tế và khoa học. Nghĩa là vấn đề Tác giả của Kinh Dịch vẫn hoàn toàn còn để ngỏ. Ở Việt Nam ta đã có một số người nghiên cứu mong tìm ra nguồn gốc KD. Họ khẳng định rằng Kinh Dịch là của Việt Nam nhưng đó chỉ là thể hiện tinh thần dân tộc cao cả chứ chưa đưa ra được những chứng cứ có sức thuyết phục. Trong số học giả này có lẽ xuất sắc nhất là Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Ông Tuấn Anh đã công phu trong việc tìm tòi chứng cứ xác nhận DỊCH là sở hữu trí tuệ của tộc Lạc Việt; và phần ưu việt là ông đã dựa vào văn hoá dân gian Việt Nam để phát hiện những chứng cứ có sức thuyết phục. Chỉ tiếc rằng trong phần phủ nhận những sai lầm của các nhà DỊCH HỌC Trung Quốc ông chưa có đủ chứng cứ xác thực và đôi chỗ còn có phần khiên cưỡng hoặc ngộ nhận. Trong khoảng vài ba chục năm qua tôi có để tâm nghiên cứu tìm tòi. Sau khi tìm ra một số chứng cứ tôi có thể khẳng định rằng tác giả Kinh Dịch không phải là Hoa Hạ-Hán tộc mà là Việt tộc. Phương pháp tôi sử dụng là phương pháp mà khảo cổ học thường dùng. Chỉ có điều khác là khảo cổ học thì đào vào lòng đất tức là đào vào không gian để tìm quá khứ. Còn tôi, tôi đã đào vào thời gian nghĩa là những “vật thể” mà tôi tìm được là chứng cứ về ngôn ngữ học đó là những chứng cứ phi vật thể. Nhưng những chứng cứ phi vật thể này bất cứ ai cũng có thể nhận biết dễ dàng. Trong bản tham luận ngắn này, tôi xin góp phần bàn luận sơ lược hai vấn đê: 1/ Ai là tác giả đích thực của bản DỊCH NGUYÊN THUỶ? 2/ Nền văn minh LẠC VIỆT LÚA NƯỚC hinh thành sau hay trước nền văn minh HOA HẠ -HÁN TỘC? Chứng cứ chủ yếu là chứng từ ngôn ngữ lịch sử. A/ TÁC GIẢ ĐÍCH THỰC CỦA DỊCH NGUYÊN THUỶ? Mấy nghìn năm qua Trung Quốc nghiễm nhiên coi Hán tộc là tác giả của Kinh Dịch và thường thuyết giải bằng những huyền thoại Phục Hy và Đại Vũ . . . không có sức thuyết phục. Đặc biệt khi gặp bế tắc họ chẳng hề ngần ngại quy cho tính chất huyền bí để lảng tránh. Các nhà nghiên cứu Dịch học Việt Nam đã từng đưa ra nhiều chứng cứ, nhất là những chứng cứ lấy từ văn hoá dân gian Việt Nam rất có lý nhưng cũng không thuyết phục nổi họ. Thành ra phần đông học giả Việt Nam đành cứ sao chép dịch thuật theo các thành tựu của họ rồi bàn thêm dăm câu ba điều hoặc có nêu thắc mắc hoài nghi rồi để đó, mặc cho mọi thứ trôi hoài theo thời gian. Rất tiếc ở Việt Nam ta có quá it người chú ý đến việc tìm chứng cứ trong ngôn ngữ lịch sử. TÊN GỌI TÁM QUÁI LÀ NHỮNG TỪ VÔ NGHĨA TRONG NGÔN TỪ HÁN TỘC. Nếu hỏi bất kỳ người Trung Quốc nào, kể cả các học giả chuyên nghiên cứu Dịch lý về nghĩa của 8 từ gọi tên các quái trong Bát quái, chắc chắn họ sẽ không trả lời được. May ra có từ có nghĩa như từ LY ( 離 ) thì nghĩa của nó lại là chia tách, lìa xa, cách biệt, chẳng liên quan gì đến khái niệm HOẢ hay LỬA. Vậy thế là thế nào? Có gì khó hiểu đâu! LY ( không có âm gần gũi với Hoả (火 ) trong ngôn từ của Hán tộc, nhưng lại gần gũi với từ LỬA trong ngôn từ của Việt tộc. Tất nhiên, tìm ra được sự biến đổi từ LY đến LỬA không hề dễ dàng. Nhưng nếu tra từ LỬA trong từ điển Việt-Bồ-La của A.De Rhodes xuất bản tại Roma năm 1651 thì sẽ đọc thấy dòng này: Lửa. Có một số người nói Lả. Thế nghĩa là cho đến giữa TK XVII người Việt ở một vài địa phương nào đó vẫn còn phát âm từ LỬA là LẢ. Cũng chẳng khác bao nhiêu với trường hợp cho đến đầu thế kỷ XXI mà có làng Cổ Định (Triệu Hoá -Thanh Hoá) vẫn còn phát âm LÚA là LÓ, NƯỚC là NÁC, VỀ là VIỀN . . . Một vài làng ở huyện Nam Trực (Nam Định) vẫn còn phát âm TRÂU là TÂU, khẩu SÚNG là khẩu THÚNG . . . Chứng cứ sau đây cũng khá thú vị. Tức là vào khoảng cuối TK XIII, sứ thần nhà Nguyên là Trần Cương Trung sang Đại Việt ta đã ghi lai những điều tai nghe, mắt thấy trong "Sứ Giao Châu thi tập". Ngoài những ghi chép về phong tục, tập quán, y phục . . ., ông còn ghi lại một số tiếng nói bản xứ như: Thiên ( 天): bột mạt ( 勃末 ) = trời; Địa ( 地 ): đát (怛) = đất? Sơn. ( 山 ): cán ôi (榦隈) = núi Thuỷ. ( 水): lược. (掠)= nước Tất cả khoảng 18 từ. Hoá ra đến thời Trần, dân Đại Việt vẫn còn gọi núi là CÁN ÔI. Và rõ ràng đó là nguồn gốc của phiên từ CẤN. Cảm tạ ngài Lê Quý Đôn đã ghi lại cho chúng ta những chứng cứ cực kỳ bổ ích trong tác phẩm "Kiến văn tiểu lục" của ngài. Và rõ ràng hơn nữa là: tên của 8 QUÁI đều vốn là những từ được người Hoa Hạ-Hán tộc phiên âm từ những từ cổ thuần Việt của Việt tộc lúa nước. Chẳng khác gì chúng ta từng phiên: Lang-sa (Francaise): Chớ tham đồng bạc con cò Bỏ cha, bỏ mẹ đi phò Lang-sa Mít-tinh (meeting): Rủ nhau đi dự mít-tinh Nghe cán bộ nói tình hình Mỹ thua. Nên nhớ nguyên tắc: đối với người bản xứ thì mọi từ phiên âm của từ ngữ ngoại bang đều vô nghĩa. Còn những từ ngữ bản địa thì qua quá trình biến đổi hàng ngàn năm rất nhiều trường hợp ngay người bản xứ cũng không còn nhận ra được bản lai diện mục của chúng nữa. Với những cứ liệu nêu trên, liệu có nên bác bỏ cái gọi là Hậu thiên Bát quái và cần độc tôn Bát quái nguyên thuỷ? VỀ THUYẾT ÂM DƯƠNG Ai nghiên cứu Kinh Dịch hoặc quan tâm đến Kinh Dịch đều thấy rằng vấn đề cốt tử hàng đầu của Kinh Dịch là vấn đề Âm Dương. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy Hán tộc không có khái niệm chính xác về Âm Dương. Đồng thời họ lại hay tự mâu thuẫn trong vấn đề này. Ai đã xem Tây Du Ký đều thấy rằng khi Tôn Ngộ Không cần triệu tập vị thần cai quản một vùng đất nào đó thì đều thấy hiện lên một ông già râu tóc bạc phơ. Và nhiều địa phương ở Trung Quốc trong nhà dân vẫn còn bàn thờ Ông Địa. Cho đến nay dù đã bước vào Thế kỷ XXI người dân Trung Quốc vẫn duy trì tục lệ tiễn chân Thổ Công//Táo Quân lên Thiên đình vào ngày 23 tháng Chạp ÂM lịch. (Không biết ta chịu ảnh hưởng TQ từ hồi nào mà cũng trưng bàn thờ ông ĐỊA và có tục thả cá chép tiễn ông Táo về trời vào 23 tháng Chạp. Họ quên mất truyện vua bếp Hai ông Một Bà, cũng quên cả truyện Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Thượng Ngàn . . . Nếu tính từ ngày có Âm Dương gia trong Bách gia chư tử cho đến ngày nay thì giới nghiên cứu/khảo cứu KD ở Trung Quốc đã quan niệm rõ ràng: CÀN vi Thiên (Trời) thuộc phạm trù Dương, còn KHÔN vi Địa ( Đất) thuộc phạm trù Âm. Giới Bác học cứ việc biên soạn, thuyết trình, giảng giải như thế; còn giới Bình dân thì vẫn cứ coi Thổ/Địa thuộc\ Dương. Và Thiên cũng lại thuộc Dương, nghĩa là có ông Thiên, đồng thời có cả ông Địa và ông Thổ. Do đó, họ lập bàn thờ ông Thiên ở ngoài trời, và lập bàn thờ ông Địa trên nền đất trong nhà. Sao lại có chuyện lạ kỳ như vậy? Và nên hiểu như thế nào? Và phải giải thích chuyện này ra sao? Riêng Việt tộc thì Đất dứt khoát phải thuộc Âm. Do đó, mà có Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Thượng Ngàn . . . Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là chính giới nghiên cứu Trung Quốc cũng có nhiều người nhầm lẫn về vấn đề này. Cứ xem họ xếp Trưởng nam, Trưởng nữ, Thứ nam, Thứ nữ lộn xộn âm dương ở Hậu thiên Bát quái đồ thì càng rõ. Trước khi trình bày những chứng cứ mới, tôi mạn phép hỏi các vị học giả, chuyên gia nghiên cứu về Kinh Dịch ở Trung Quốc và ở Việt Nam: một tộc người có sự hiểu biết sai lạc, nhầm lẫn về Âm Dương (như đã kể trên) liệu có khả năng sáng tạo ra Kinh Dịch không? Theo ý tôi (Trần Khuê), bất cứ dân tộc nào không hiểu biết chính xác về khái niệm cơ bản Âm Dương thì không thể nhận mình là tác giả Kinh Dịch. Do đó, dựa trên chứng cứ thực tiễn không thể bác bỏ, tôi có thể dứt khoát khẳng định: Hán tộc chắc chắn không phải là tác giả của Kinh Dịch. Nếu cứ còn khăng khăng nhất quyết cho rằng hoặc tin rằng Bát quái và cả Thiên Can lẫn Địa chi đều là bản quyền thuộc Trung Quốc thì kính mời trả lời ngay câu hỏi sau đây: Tại sao Hán tộc không gọi những danh xưng đó bằng ngôn ngữ của họ? Có ai chứng minh được rằng những danh xưng đó là những từ gốc Hán tối cổ? Thêm những chứng cứ sau đây minh định rằng tất cả những danh xưng đó đều là những từ tối cổ gốc Việt. TẠI SAO LẠI LÀ "Tí, Sửu, Dần, Mão . . . 子丑寅卯" MÀ KHÔNG PHẢI "Thử, Thuỷ ngưu, Hổ, Thố. . .鼠水牛虎兔?” Không rõ từ thuở nào, người Việt ta trong sách vở cũng như trong thực tế đã dịch NGƯU ( 牛 ) là TRÂU. Sự thật, trong thực tế và ngôn từ thì người Hoa Hạ (Hán tộc) từ thượng cổ cho đến ngày nay vẫn gọi NGƯU là BÒ. Tại sao lại có chuyện đó? Đơn giản thôi, vì vùng thảo nguyên du mục của người Hoa Hạ vốn khô cằn chỉ có thể là môi trường trường sống thích nghi với BÒ là con vật không có nhu cầu cao về Nước. Cho nên cái chữ NGƯU được vẽ ra (牛) chính là hình tượng khá gần gũi để mô tả con vật này. Chỉ khi vượt sông Dương Tử tràn xuống vùng lúa nước của Bách Việt, họ mới ngạc nhiên nhìn thấy con vật giống con NGƯU của họ lại đầm dưới nước. Họ liền gọi nó là THUỶ NGƯU (水牛 ). THUỶ NGƯU chính là tên chỉ CON TRÂU của vùng Bách Việt lúa nước ở vùng đất phía nam Dương Tử. Vậy con vât kéo cày này thì Việt tộc gọi tên là gì? Xin thưa rằng họ gọi nó là con SỦ. Hiện nay, còn một làng ở Thanh Hoá có tên là làng SỦ là làng buôn TRÂU, có sông chảy qua làng này tên là sông SỦ. Dân làng gọi con TRÂU là con TRU. Vậy biến thể SỦ > TLU > TRU và biến thể SỦ > TLÂU >TÂU >>TRÂU đã diễn tiến trong những bối cảnh lịch sử như thế nào, cần khảo cứu thêm. Nhưng chắc chắn SỬU là phiên âm từ SỦ, một từ cổ thuần Việt. Và người Hoa Hạ khi nói năm SỬU, tuổi SỬU cầm tinh con TRÂU (thủy ngưu) là rập theo lối nói, lối nghĩ của Việt tộc. Tôi hoàn toàn đồng ý với nhà nghiên cứu An Chi. Tất cả những từ NGƯU, HOÀNG NGƯU . . . trong các quẻ kép của Kinh Dịch đều phải dịch là BÒ, BÒ VÀNG. . . chứ không thể dịch là TRÂU, TRÂU VÀNG. Cụ Phan Bội Châu, cụ Ngô Tất Tố có sự nhầm lẫn trong chuyện dịch từ này. Điều quan trọng là những nhà nghiên cứu Kinh Dịch xưa cũng như nay ở Trung Quốc cũng cố tình làm ngơ, không ai coi người sinh năm SỬU là người cầm tinh con BÒ, mà là cầm tinh con TRÂU. Vậy tại sao có chuyện dùng danh xưng SỬU mà không dùng NGƯU hay THUỶ NGƯU? Đơn giản là họ đâu phải "mẹ đẻ" của những đứa con này. Do đó bà mẹ đẻ Lạc Việt đã đặt tên các con ruột của mình thế nào thì họ vẫn cứ thế gọi theo mà thôi. NÓI THÊM CHUYỆN MÃO VÀ THỐ. Với người Việt, từ thượng cổ tới nay người sinh năm MÃO thì là tuổi MÃO và tất nhiên là cầm tinh con MÈO. Vậy tại sao những người thuộc Hán tộc tuổi MÃO lại cầm tinh con THỎ. Và tại sao lại có chuyện MÃO nghĩa là THỎ. Nếu thỏ thì phải là Thố (兔 ) chứ Mão (卯) sao ổn. Có lẽ trên lưng rùa, người Lạc Việt vẽ 12 con giáp, đến con Mão thì cả người sao chép cũng như triều thần của Đế Nghiêu đều không biết nó là con gì; nhưng sau thấy nó có hai cái tai vểnh lên giống tai thỏ nên gọi đại nó là con Thố chăng? Chuyện tréo nghoe Tuổi Mão lại cầm tinh con Thỏ kéo dài mấy nghìn năm liền. Biết đến bao giờ thì ngài Thiệu Vĩ Hoa và giới Dịch học Trung Quốc mới để tâm đính chính những chuyện nhỏ như con Thỏ này? Thêm một minh chứng: 12 Địa chi cũng vẫn là những tên được phiên âm từ những từ gốc Việt. Một số tên khác NGỌ ( 午 ) rõ ràng có từ hậu duệ là từ NGỰA, từ HỢI ( 亥HEO . . . ) có hậu duệ là VĂN MINH LẠC VIỆT CÓ SAU HAY TRƯỚC VĂN MINH HÁN TỘC? Có lẽ chỉ cần xác định chữ viết của ai có trước là đủ. Rất nhiều người đã chú ý trích dẫn đoạn văn trong sách Thông chí của Trịnh Tiều nói về việc cống rùa vàng của tộc VIỆT THƯỜNG : "Đời Đào Đường (Đế Nghiêu- 2253 tr.CN), phương Nam có bộ tộc Việt Thường cử sứ bộ qua ba lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ đã sống nghìn năm, mình dài hơn ba thước, trên lưng có khắc văn KHOA ĐẨU ghi việc trời đất mở mang trở về sau. ĐẾ Nghiêu sai chép lấy gọi là QUY LỊCH (tức lịch Rùa).” Đáng tiếc không có ai quan tâm đầy đủ đến chứng cứ cực kỳ quan trọng và lý thú này. Tất nhiên, người nhận ra mặt chữ Khoa đẩu và người chép lại chữ Khoa đẩu hẳn phải là người thông thạo chữ Khoa đẩu. Vậy chữ Khoa Đẩu của Việt tộc đã có từ trước thời Đế Nghiêu. Tại sao người Hoa Hạ-Hán tộc lại phải vay mượn chữ viết của Lạc Viêt? Dễ hiểu thôi! Vì họ chưa có chữ viết. Hoăc có nhưng chưa đầy đủ và thuần thục như chữ Khoa Đẩu. Vậy phải chăng ta nên đặc biệt chú ý đến chữ KHOA ĐẨU (蝌蚪) (chữ Nòng nọc) được dùng ghi trên mai Rùa? Thật ngạc nhiên đến cực kỳ thú vị khi Khổng An Quốc, người cháu 12 đời của ngài Khổng Tử phát lộ rằng: những bộ Kinh Thi, Kinh Thư . . . tìm thấy khi phá vách nhà thầy Khổng cũng đều chép bằng chữ KHOA ĐẨU. Hoá ra thực tế lịch sử này đã hùng hồn chứng minh rằng: Ngài Khổng Tử đã dùng chữ Khoa Đẩu, chữ viết của Việt tộc để san định các bộ Kinh vốn được coi là sách kinh điển của NHO GIÁO. Và căn cứ vào bài Thạch Cổ Ca của ngài thi hào Hàn Dũ đời Đường thì cho đến thời đại nhà Đường ở Thế Kỷ VI, chữ viết Khoa Đẩu vẫn được người Hán sử dụng song hành với chữ Triện, chữ Lệ của Hán tộc : Từ nghiêm nghĩa mật độc nan hiểu Tự thể bất loại Lệ dữ Khoa (Nguồn: trích trong Thạch Cổ ca của Hàn Dũ: (Văn nghiêm nghĩa kín đọc khôn hiểu Dạng chữ khác xa Lệ và Khoa) Và ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh còn phát hiện trong truyện Thuỷ Hử của tác giả Thi Nại Am đời Nguyên có một chi tiết nói đến chữ Khoa Đẩu. Thế là có lẽ đến cuối đời Tống và đầu đời Nguyên, chữ Khoa Đẩu vẫn còn được người Hoa Hạ dùng song hành với chữ Triện và chữ Lệ? Liệu đã đã có thể chắc chắn kết luân rằng: kinh Dịch cũng được chép bằng chữ Khoa đẩu, không phải trên lưng rùa thần nổi trên sông Lạc, mà là chép trên lưng rùa do sứ giả Việt Thường mang cống Đế Nghiêu? Và cả chữ Khoa đẩu và kinh Dịch phải ra đời trước thời Đế Nghiêu. Trước bao lâu thì chưa rõ, phải nghiên cứu thêm. Nhưng rõ ràng chữ viết Khoa Đẩu của Lạc Việt đã ra đời trước chữ viết Triện của Hán Tộc khoảng vài ngàn năm. BÀN THÊM VỀ GỐC GÁC CỦA TỪ "DỊCH" Ngay từ DỊCH thì từ mấy ngàn năm nay mọi người vẫn yên trí đó là từ của người Hán; có người cho là từ cổ Lạc Việt thì lại cho rằng đó là sự đọc chệch đi từ DIỆC. Nhưng thực tế không ai chú ý là Đế Nghiêu sai chép lại những gì đã viết trên mai rùa rồi không phải ngẫu nhiên gọi đó là QUY LỊCH/LỊCH RÙA. Hiện nay nhiều địa phương phía Nam nước ta vẫn còn gọi tên Dích ( miền Bắc gọi là con VÍCH) để chỉ con RÙA BIỂN. Vậy phải chăng những gì ghi trên mai Rùa đã được gọi là DÍCH và sau này người Hoa Hạ phiên thành Dịch và thích nghĩa DỊCH (căn cứ vào nội dung nói về sự mở mang biến chuyển của Trời Đất) là biến chuyển? Thế là DÍCH vốn nghĩa là RÙA ( Lạc Việt) biến đổi thành DỊCH ( kinh Dịch, Chu Dịch) rồi nghiễm nhiên coi đó là sản phẩm văn hoá của Hán tộc. Thực ra, phải khôi phục lại từ Việt cổ để gọi Lịch Rùa là Lịch Dích và phải chăng nên bàn nhau đặt một tên VIỆT mới cho DICH LẠC VIỆT? Như thế là có những chứng cứ thép ( thiết chứng) nhằm lý giải một loạt vấn đề từ lâu vẫn làm bận tâm giới học giả chuyên nghiên cứu về Kinh Dịch. Có cần phải đưa thêm chứng cứ nữa không? - Theo tôi là không cần? Vì khảo cổ học chỉ cần đào được vài cái răng hoặc một khúc xương của người Nguyên thuỷ đã có thể dựng lại cả một người Nguyên thuỷ, thậm chí còn hình dung được cả môi trường và thời đại họ đã sống. Thiết nghĩ, với những cái "răng" đã trình bày ở trên cũng đủ kết luận rằng: - Lạc Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước rất sớm, có chữ viết (Khoa Đẩu) cũng rất sớm, ít nhất cũng cách ta ngày nay khoảng 5000, 6000 năm có lẻ. Hiện tộc LẠC VIỆT (tức Việt Nam ngày nay) còn lưu giữ nhiều chứng cứ lịch sử. - Người Việt cổ chủ nhân tạo dựng nền VĂN MINH LÚA NƯỚC đã từng tạo ra chữ viết Khoa Đẩu để viết sách, làm lịch và đã từng kính biếu Đế Nghiêu thuộc Hán tộc du mục văn bản LỊCH RÙA (Quy lịch) để quý vị Hoa Hạ tham khảo, học tập. CHÍNH VIỆT TỘC LÀ TÁC GIẢ CỦA KINH DỊCH, mà văn bản nguyên thuỷ hầu như đã thất lạc, chỉ còn văn bản đã bị sửa chữa, xuyên tạc đã lưu hành từ mấy nghin năm cho đến tận ngày nay. -Người Hoa Hạ đã từng sử dụng chữ Khoa đẩu, điển hình là ngài Khổng Tử và các tác giả đồng thời với ngài đã dùng chữ Khoa đẩu của Việt tộc để viết kinh sách. Nhiều thế hệ sau ngài, cho đến tận thế kỷ VI đời Đường, vẫn còn dùng thứ chữ viết này song hành cùng với chữ Triện, chữ Lệ để viết văn, làm thơ. Cũng cần lưu ý các bạn nhớ đến hai sự kiện lịch sử: một là Dân tộc LẠC VIỆT từng bị Hán tộc thống tri hơn ngàn năm liền và họ đã thành công trong việc hủy diệt chữ Khoa Đẩu. Hai là Minh Thành tổ mang quân xâm chiếm nước ta (Đại Việt thời Trần, thế kỷ XIII) đã lệnh cho tướng Trương Phụ tịch thu đốt hết tất cả sách vở và đập nát hết mọi tấm bia đá của Đại Việt. Cho nên, đừng ngạc nhiên khi thấy sách vở của Việt Nam từ thời Lý Trần trở về trước không còn gì cả. Điều đáng ngạc nhiên là: Hán tộc đã đô hộ Lạc Việt đến hơn 1000 năm mà không đồng hoá nổi. Tại sao thế? Đáng ngạc nhiên hơn nữa là: mặc dù đã chiếm đoạt Kính Dịch và ra công nghiên cứu mấy nghìn năm liền nhưng Hán tộc xưa cũng như nay chưa tỏ ra có sự hiểu thấu đáo, chưa nắm vững cái thần của Dịch. Do đó, tuy là một nước lớn mà chưa bao giờ thực sự hùng mạnh, trong suốt trường kỳ lịch sử luôn luôn bại trận một cách khốn khố và từng bị các Rợ (Hung Nô, Mãn Thanh) đô hộ hàng trăm năm liền. Đặc biệt, Hán tộc chưa sản sinh ra một nhà tiên tri nào đáng kể. Riêng LẠC VIỆT, tác giả đích thực của Kinh Dịch đã từng tạo ra những võ công chống ngoại xâm oanh liệt “lừng lẫy Năm châu, chấn động Địa cầu”. Đồng thời tộc LẠC VIỆT còn sản sinh ra những nhà tiên tri nổi tiếng như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Bình Khiêm, Hồ Chí Minh . . . Bài thơ NAM QUỐC SƠN HÀ biều hiện rõ khả năng hiểu thấu và vận dụng thành thạo kinh Dịch để có thể tiên tri chính xác sự thảm bại của giặc Tống xâm lược. Tài tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Chí Minh . . . sẽ bàn trong một dịp khác. NHIỆM VỤ HIỆN NAY CỦA CHÚNG TA Hán tộc đã tìm cách huỷ hoại, xuyên tạc hoặc cất dấu những công trình văn hoá của ta. Vậy ta có nên chấp nhận những công trình xuyên tạc hiện vẫn công khai lưu truyền từ mấy ngàn năm nay của họ hay không? Thứ nhất: ta phải kiên quyết, bằng những lý lẽ và chứng cứ xác đáng, minh định bằng được sự thật lịch sử: Âm dương, Ngũ hành, Bát quái, Dịch thư, chữ viết Khoa đẩu . . . đều là những sản phẩm trí tuệ của nền Văn minh Lúa nước LẠC VIỆT. Đó hoàn toàn không phải thuộc quyền sở hữu của nền Văn minh HOA HẠ. Do đó, tôi đề nghị phải phủ nhận cái gọi là Hậu thiên Bát quái mà từ vài ngàn năm nay, giới Dịch học Trung Quộc cứ bám vào đó để vu khoát và nhận vơ chủ quyền. Ta phải lớn tiếng khẳng định chủ quyền văn hoá của Việt Nam ta trong lĩnh vực này để giới khoa học Quốc tế hiện tại bớt dần sự ngộ nhận đã diễn ra quá lâu rồi. Thứ hai là: giới nghiên cứu Dịch học cuả ta hiện nay nên có sự hợp tác chặt chẽ cùng nhau nghiên cứu bản chất của Dịch và khẳng định giá trị chân thật của Dịch Lạc Việt nhằm góp phần xứng đáng vào nền khoa học hiện đại của quốc tế trong thế kỷ mới. Chúng ta phải nghĩ cách giải thích các công trình của Tổ tiên bằng những kiến thức và phương pháp luận Việt Nam trên cơ sở thực tiễn của cả tiến trình lịch sử và cơ sở khoa học hiện đại Tất nhiên, đây là nhiệm vụ cực kỳ nặng nề và khó khăn. Nhưng ta thử bình tâm suy xét: Chẳng lẽ từ hơn 5000 năm trước Tổ Tiên Lạc Việt ta có đủ năng lực trí tuệ sáng tạo ra những công trình khoa học lớn lao và quan trọng như Dịch học mà nay con cháu nòi Lạc Việt lại chiu bó tay sao? Chẳng lẽ sự xuất hiện một lớp nhân tài mới rất xuất sắc hiện nay trong khá nhiều lĩnh vực khoa học bao gồm những Lưu Lệ Hằng, Trịnh Xuân Thuận, Dương Ngọc Ánh, Ngô Bảo Châu, Nguyền Thục Quyên . . . lại không tăng thêm sự tự tin vào năng lực trí tuệ của chúng ta chút nào chăng? Đã đến lúc chúng ta phải dứt bỏ hẳn lối suy tư "thuật nhi bất tác" của Khổng Tử. Sao chép cũng nên vừa phải thôi để có thể tập trung thời gian và trí tuệ vào sự nghiệp sáng tạo những cái mới, hoàn toàn mới, nhằm đọ sức cùng nhân loại và xứng đáng với Tổ tiên Lạc Việt. Tất nhiên, dù tự hào là một dân tộc sáng tạo ra Kinh Dịch, sử dụng khá thành thạo kinh Dịch, và không chịu khuất phục bất kỳ đại cường hoặc siêu cường nào, ta cũng không nên tự túc, tự mãn với quá khứ mà cần khẩn trương khắc phục mọi nhược điểm của dân tộc, ra sức đẩy mạnh sự nghiệp nghiên cứu khoa học tiến thêm những bước mới, góp phần phát triển Đât Nước trong thế kỷ XXI, xứng đáng với Tổ tiên Lạc Việt đã sáng tạo ra nền Văn minh Lúa Nước từ hơn 5000 ngàn năm nay. TP.HCM, 9 tháng 3 Mậu Tuất (25/3/2018)
  6. NGƯỜI LẠC VIỆT LÀ CHỦ NHÂN KINH DỊCH Hà Văn Thùy Văn hóa là sản phẩm hoạt động xã hội của cộng đồng người diễn ra tại không - thời gian nhất định trong quá khứ. Tuy nhiên, trên một không gian thường có những cộng đồng khác nhau từng tồn tại ở những thời điểm khác nhau. Ngày nay khi nghiên cứu văn hóa cố, dựa vào di cốt cùng di vật, khoa học biết từng lớp người đi qua đã tạo ra những loại hình văn hóa gì. Đó là nói về văn hóa vật thể. Còn với văn hóa phi vật thể sẽ khó hơn, vì lẽ, có những sản phẩm tinh thần do lớp người trước tạo ra truyền cho lớp người đến sau. Nhưng rồi hôm nay, ta chỉ thấy lớp người đang sống với nền văn hóa họ đương sở hữu nên mặc nhiên cho rằng nền văn hóa tinh thần ấy là sản phẩm sáng tạo của chính họ! Con người và nền văn minh trên đất Trung Hoa là thí dụ điển hình. Hàng nghìn năm nay, người Trung Hoa cho rằng, họ là người Hoa Hạ, là con cháu của Viêm Đế và Hoàng Đế. Truyền thuyết cũng nói tới những vị tổ thời khai thiên lập địa là Bàn Cổ rồi Toại Nhân làm ra lửa, Phục Hy họa quái và Thần Nông “giáo dân nghệ ngũ cốc”… Ở thời hiện đại, khi đi tìm nguồn gốc của mình, dựa vào những khám phá khảo cổ, các học giả Trung Hoa cho rằng người từ phương Tây xâm nhập đồng bằng miền Trung Hoàng Hà làm nên văn minh Hoa Hạ. Người Hoa Hạ loại bỏ người bản địa Tam Miêu, Cửu Lê còn mông muội để trở thành chủ nhân của Trung Hoa và do sở hữu chữ viết, đã xây dựng nền văn minh vĩ đại của dân tộc Trung Hoa [1]. Trong những thành tựu của văn minh Hoa Hạ thì Kinh Dịch được coi là sáng tạo hàng đầu.Tuy nhiên sau 2000 năm dùng Dịch cho triết lý và bói toán, người ta thấy Chu Dịch có những điều bất cập không thể lý giải được mà mọi người chỉ có thể sử dụng như một quy ước, như định đề trong toán học. Ngay cả nguồn gốc của kinh Dịch cũng gây nghi ngờ. Sau những cuộc tranh biện với nhiều quan điểm và lý lẽ, cho đến nay, các học giả Trung Quốc vẫn không dám tin rằng đó là sản phẩm sáng tạo của người Trung Quốc.[2] Trong khi đó, nhiều học giả người Việt, bằng những chứng cứ và lý lẽ xuất phát từ nguyên lý của Dịch, từ những hạn chế bất cập của Chu Dịch, từ những hiện vật trên đất Việt đã chứng minh Kinh Dịch là sản phẩm sáng tạo của người Việt. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày nguồn gốc kinh Dịch dựa trên lịch sử hình thành con người và văn hóa ở Hoa lục. I. Sự hình thành dân cư. Thành tựu mới nhất của khoa học nhân loại thế kỷ XXI khẳng định, khoảng 250.000 năm trước, người Đứng thẳng Homo erectus rời khỏi địa bàn châu Á, trong đó có Trung Quốc. Điều này khẳng định hoàn toàn không có chuyện người đứng thẳng Chu Khẩu Điếm Homo pekinensis sinh ra người Trung Quốc. Sau hơn trăm nghìn năm vắng bóng người, 40.000 năm cách nay, người Lạc Việt [mã di truyền Halogroup O1 (Y-DNA)] từ Việt Nam đi lên, là người Khôn ngoan (Homo sapiens) sớm nhất đặt chân tới Hoa lục. Khảo cổ học tìm được di cốt của người Lạc Việt 27.000 năm trước ở Chu Khẩu Điếm. Tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây tìm được di cốt người Lạc Việt Khoảng 25.000 năm trước. 7.000 năm trước, tại văn hóa Ngưỡng Thiều miền Trung Hoàng Hà, người Lạc Việt thuộc loại hình Australoid hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà. Sau này di cư xuống phương Nam, chuyển hóa đại bộ phận dân cư Đông Á sang loại hình Mongoloid phương Nam, nay được gọi là người Nam Á. Khoảng năm 2698 TCN, người Mông Cổ du mục (North Mongoloid) ở bờ Bắc Hoàng Hà chiếm đất của người Việt ở bờ Nam, dựng vương triều Hoàng Đế. Tuy chiến thắng nhưng do nhân số ít và luôn bị chống trả, người Mông Cổ áp dụng cách cai trị mềm dẻo, đã xây dựng được nhà nước tương đối ôn hòa. Trong quá trình chung sống, diễn ra sự hòa huyết giữa người Mông Cổ và người Việt. Nhưng do người Mông Cổ ít trong khi đó người Lạc Việt quá đông nên chỉ thời gian ngắn, không tới 100 năm (từ Hoàng Đế tới chắt ông là Đế Khốc), trong nhà nước Hoàng Đế, không những người Mông Cổ không còn mà người Hoa Hạ cũng hòa tan vào cộng đồng Lạc Việt. Nếu Đế Khốc còn là chắt trực hệ của Hoàng Đế thì Đế Nghiêu, Đế Thuấn rồi Đại Vũ hoàn toàn là Việt. Dù sau này, nhà Thương và Chu có là dòng dõi của Hoàng Đế thì cũng chỉ là danh nghĩa, còn về máu huyết đã hoàn toàn là Việt (Thành Thang có nước da đen của người Lạc Việt). Lớp con lai ra đời, được gọi là Hoa Hạ. Về mặt di truyền, người Hoa Hạ mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, cùng bộ gen với người Lạc Việt bản địa. Đó là tầng lớp tinh hoa, thay thế cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội. Cuối đời Chu xảy ra loạn Chiến Quốc sau đó Tần Thủy Hoàng diệt Lục quốc lập nhà Tần. Diệt nhà Tần, Lưu Bang người nước Sở lập nhà Hán… Từ tri thức mới của thế kỷ XXI, chúng ta biết rằng, nhà Tần thuộc nhóm Tày-Thái của người Lạc Việt. Còn Lưu Bang là người nước Sở, mà trước đó là người Dư Việt (hay Dương Việt) chủ nhân của đồng bằng Trong Nguồn, những bộ tộc Lạc Việt mà cha ông là chủ nhân của văn hóa Ngưỡng Thiều. Việc người Hán tràn xuống Nam Dương Tử mở rộng vương triều Hán và “đồng hóa” dân cư vùng Giang Nam cũng chính là việc gom đất đai cùng dân cư người Việt vào nhà nước Trung Hoa. Lộng giả thành chân khiến cho cả cái khối người Việt khổng lồ trong các vương triều Trung Hoa chối bỏ nguồn gốc Tam Miêu, Cửu Lê để nhận vơ dòng giống Hoa Hạ dù trong máu huyết không hề có giọt nào của Hoàng Đế. Chỉ vì sỹ diện hão mà cả một dân tộc cam tâm bỏ mồ cha khóc đống mối! Một sự đui mù lịch sử. Quả là chuyện cười ra nước mắt! [3] Từ đó có thể thấy, như một ảo ảnh của lịch sử, cái gọi là người Hoa Hạ chỉ xuất hiện và tồn tại thời gian ngắn sau đó biến mất trong cộng đồng người Việt đông đảo. Người Việt không chỉ giữ vai trò lãnh đạo mà còn là chủ thể của dân cư Trung Quốc. Nhưng do không biết nguồn cội thực sự của mình, các vương triều Trung Hoa cố công vinh danh “tộc Hoa Hạ” để khẳng định nguồn gốc ưu việt của họ so với dân “tứ di”xung quanh. II.Sự hình thành văn hóa trên Hoa lục Khoảng 20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, người Lạc Việt sáng tạo đồ gốm đầu tiên của nhân loại. Cũng tại đây, 12.400 năm trước, cây lúa nước Oryza sativa sớm nhất được thuần hóa. 9000 năm trước, người Lạc Việt xây dựng văn hóa Giả Hồ tỉnh Hà Nam với công cụ đá, đồ gốm trình độ cao, nền nông nghiệp lúa nước phát triển. Rượu vang được chế bằng cách dầm rượu gạo với mật ong và táo gai. Những chiếc sáo được làm bằng xương chim hạc. Đặc biệt là những ký tự tượng hình đầu tiên trên yếm rùa và xương thú. Khoảng 6000 năm trước, tại các di chỉ Bán Pha tình Sơn Tây, Cảm Tang tỉnh Quảng Tây, Lương Chử Chiết Giang, chữ tượng hình khắc trên yếm rùa, xương thú đạt tới mức trưởng thành, được dùng cho bói toán và cúng tế. Khoảng 5300 năm trước, người Lạc Việt thành lập nhà nước với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ, có địa giới rộng bằng nửa Trung Quốc, có kinh tế nông nghiệp phát triển và nền văn hóa rực rỡ. Các học giả Trung Quốc xác nhận, Lương Chử là nhà nước sớm nhất ở phương Đông. Chủ nhân Lương Chử là người Lạc Việt (gồm hai chủng Indonesian mã di truyền M122 và Melanesian mã di truyền M119). Dựa theo những vật thờ bằng ngọc, trong đó nổi bật là thao thiết, những mặt nạ “hình người mặt thú,” họ cũng cho rằng người Lương Chử được gọi là “vũ nhân” hay “vũ dân” thờ totem kép chim và thú, Những khám phá này gợi cho thấy nhà nước Lương Chử chính là nhà nước Xích Quỷ của họ Hồng Bàng. Sau 80 năm khảo cứu văn hóa Lương Chử, các học giả Trung Quốc nhất trí nhận định: 1. Lương Chử là nhà nước sớm nhất ở phương Đông. Những nhà nước Hạ, Thương trước đây vốn được coi là sớm nhất nay phải trả lại vai trò cho Lương Chử. 2. Văn hóa Lương Chủ là cội nguồn của văn minh Trung Quốc. [4] Nhận định thứ nhất là chuyện hiển nhiên vì mọi thứ hiện vật khảo cổ bày ra giữa thanh thiên bạch nhật. Còn nhận định thứ hai giải thích làm sao? Trước hết, đó là sự lật đổ đối với quan niệm truyền thống về lịch sử Trung Hoa. Từ lâu nhân loại khẳng định rằng, văn hóa, lịch sử là thành quả hoạt động xã hội của cộng đồng người trong không-thời gian cụ thể. Điều này có nghĩa, cội nguồn văn minh phải xuất phát từ cội nguồn dân cư. Vậy làm sao giải thích được việc 2500 năm hình thành và hoạt động tại lưu vực Hoàng Hà, chân không hề chạm nước Trường Giang nhưng cội nguồn văn hóa của người Trung Hoa lại ở Nam Dương Tử, cách nơi nó sinh ra hàng ngàn dặm? Rõ ràng đó là nghịch lý. Nhưng bất chấp nghịch lý, sự tương đồng rõ rệt giữa văn hóa Lương Chử và Trung Nguyên, trong khi đó, văn hóa Lương Chử không chỉ tuổi cao hơn mà còn tiến bộ hơn rất nhiều khiến cho học giả Trung Quốc buộc phải thừa nhận “văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh Trung Quốc.” Tuy thừa nhận nhưng cho đến nay họ không thể giải thích thỏa đáng nguyên nhân của việc này. Thực tế chứng tỏ đó là cách nhìn hẹp. Nếu nhìn toàn diện hơn thì phải thấy rằng, người Lạc Việt là chủ nhân từ xa xưa của đất Hoa lục. Khi tới Nam Hoàng Hà đã tạo dựng văn hóa Giả Hồ, Ngưỡng Thiều, Long Sơn. Tại Nam Dương Tử làm nên văn hóa Hà Mẫu Độ, Lương Chử… Những nền văn hóa đó đều được sinh ra từ con người và văn hóa Lạc Việt. Do không nhìn thấy bức tranh toàn cảnh ấy mà chỉ nhìn vào điểm sáng Lương Chử nên học giả Trung Quốc cho rằng văn hóa Lương Chử là cội nguồn của văn minh Trung Quốc. Chính xác hơn, phải nói rằng, văn hóa Lạc Việt là cội nguồn của văn minh Trung Quốc. Năm 1987 các nhà khảo cổ phát hiện tại dốc Tây Thủy thành phố Bộc Dương tỉnh Hà Nam ngôi mộ cổ 6500 tuổi, thuộc về văn hóa Ngưỡng Thiều [5]. Ngôi mộ có biểu tượng trời tròn đất vuông, hình thanh long bạch hổ cùng với nhị thập bát tú và các tiết khí trong năm. Chuyên gia Phong thủy cho rằng, tại đây thể hiện trình độ thiên văn, phong thủy đã trưởng thành. Điều này cũng có nghĩa là với người Bộc Dương, tri thức về Dịch lý cũng đã trưởng thành. Thời điểm của mộ Bộc Dương cũng trùng với thời điểm xuất hiện của Phục Hy (6480 năm trước), cho thấy truyền thuyết Bào Hy họa quái là có cơ sở. Cố nhiên ta hiểu rằng, không phải Phục Hy làm ra Dịch mà đó là kết quả sáng tạo của rất nhiều người trong thời gian nhiều nghìn năm. Nhưng Dịch được thành tựu đúng vào thời trị vì của Phục Hy nên theo phong tục phương Đông “công quy vu trưởng”, dân gian quy công làm Dịch cho Phục Hy. 濮阳西水坡45号墓分析图 Mộ số 45 Sơ đồ phân tích mộ 45 Như vậy, Dịch lý xuất hiện cách nay 6500 năm, trước khi người Hoa Hạ ra đời 2000 năm. Điều này khẳng định Dịch là sản phẩm sáng tạo của người Lạc Việt. Có sự thật là, các vương triều Hoàng Đế nhờ chính sách cai trị tốt đẹp nên động viên được người dân Việt đem văn hóa Lạc Việt cùng năng lực, trí tuệ xây dựng đất nước, tạo nên thời Hoàng Kim trong lịch sử. Tuy nhiên, các vương triều Hoàng Đế với lối nhìn mục hạ vô nhân, tự cho mình là ưu việt, khinh thường các dân xung quanh là man di. Không những thế, lại luôn trong tình trạng chiến tranh với cộng đồng Lạc Việt đông đảo xung quanh nên vô hình trung bị tách khỏi nguồn cội văn minh Lạc Việt. Tình trạng bị tách khỏi nguồn cội, bị cô lập trong khi lầm tưởng rằng mình ưu việt tất yếu làm cho nền văn hóa Trung Hoa bị nhiều hạn chế. Nó chỉ nhận được những tri thức vừa cũ, vừa không đầy đủ, được lưu giữ trong kinh nghiệm của những người cao tuổi nơi vùng đất bị chiếm đóng. Do vậy, văn hóa các vương triều Hoa Hạ chỉ thu nhận phần không tiêu biểu của văn hóa Lạc Việt. Hệ quả tất yếu là nền văn hóa Trung Hoa vừa nông cạn vừa méo mó. Có thể nói một cách khái quát, tuy được tiếng là nền văn hóa rực rỡ ở phương Đông nhưng văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa tiên thiên bất túc. Phần văn hóa Việt còn khiếm khuyết của dân cư Nam Hoàng Hà dưới tác động của đặc trưng văn minh du mục Mông Cổ tạo nên sự bất toàn của văn minh Trung Hoa. Sự bất toàn này thể hiện trong lời đối thoại giữa Khổng Tử và Tử Lộ trong sách Trung Dung: “Tử Lộ vấn cường. Tử viết: Nam phương chi cường dư? Bắc phương chi cường dư? Ức nhi cường dư? Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo: Nam phương chi cường dã. Quân tử cư chi. Nhậm kim cách, tử nhi bất yếm. Bắc phương chi cường dã. Quân tử cư chi.”Tử Lộ hỏi về sức mạnh. Khổng Tử nói: “Sức mạnh của người phương Nam ư? Sức mạnh của người phương Bắc ư? Hay sức mạnh của ngươi ư? Lấy khoan dung mềm dẻo để dạy dỗ; không báo thù kẻ vô đạo. Đó là sức mạnh của người phương Nam. Người quân tử sống với sức mạnh đó. Lăn vào binh khí giáp trụ, không ngại chết choc, đó là sức mạnh của người phương Bắc. Kẻ vũ dũng sống với sức mạnh đó.” Đoạn trích trên cho thấy sự khác nhau của con người nhưng cũng chính là sự khác biệt về văn hóa giữa phương Nam và phương Bắc. Minh chứng rõ ràng nhất cho sự bất toàn của văn hóa Hoa Hạ là chuyện chữ viết. Ta biết, truyền thuyết nói rằng Hoàng Đế sai Thương Hiệt làm chữ. Nhưng suốt hơn nghìn năm từ Hoàng Đế tới nhà Thương, Trung Quốc chưa có chữ. Trong khi đó, từ hơn 4.000 năm trước khi Hoàng Đế ra đời, Giáp cốt văn đã xuất hiện ở Giả Hồ, sau đó là Bán Pha, Cảm Tang rồi Lương Chử… Chỉ từ năm 1300 TCN, khi Bàn Canh tiến sang đông, chiếm đất An Dương, phát hiện chữ trên yếm rùa và xương thú của người Lạc Việt, người Trung Hoa mới biết tới chữ tượng hình. Cho đến nay học giả thế giới vẫn cho rằng Giáp cốt văn là chữ của nhà Thương. Nhưng sự thực, đó là văn tự được sáng tạo từ hàng ngàn năm trước của người Lạc Việt. Chính chữ viết Lạc Việt mở ra sự phát triển rực rỡ của văn hóa nhà Chu. Nhưng văn hóa nhà Chu là gì? Đúng như Khổng Tử khẳng định, “ngô thuật nhi bất tác, ” ông chỉ thuật lại tư tưởng của thánh hiền xưa. Thánh hiền mà Khổng nói tới không phải là Nghiêu, Thuấn mà là Phục Hy, Thần Nông… Tuy vậy cũng phải thừa nhận sự thực là, mặc dù sáng tạo Dịch lý và chữ viết từ sớm, nhưng do không có nhà nước quân chủ mạnh nên người Lạc Việt không thể huy động được sức người sức của để hoàn thiện chữ viết cũng như sách Dịch. Do những tư tưởng của Dịch lý không được văn tự hóa mà chỉ lưu truyền bằng cách truyền miệng trong dân gian, dẫn tới rơi rụng, tam sao thất bản. Việc nhà Thương hoàn chỉnh chữ viết, sau đó nhà Chu ký tự hóa Dịch lý thành Chu Dịch là bước tiến lớn để bảo tồn Dịch lý. Tuy nhiên do ra đời trong những điều kiện như vậy nên Chu dịch không tránh khỏi những sai lầm bất cập. Những bất cập của Chu dịch: Ngoài việc nói theo truyền thuyết là Phục Hy thấy hình trên con long mã nổi trên sông Hà, lập ra Hà đồ; Hạ Vũ thấy hình trên lưng con rùa thần nổi trên sông Lạc, làm ra Lạc thư; Văn Vương bị giam trong ngục làm ra Chu dịch rồi Khổng Tử thêm vào Thập dực… người Trung Hoa không biết gì thêm mà chỉ chấp nhận và thực hành Dịch theo cổ nhân. Không ít người nhận ra rằng, cũng như khi viết kinh Xuân Thu, Khổng Tử chế biến sử nước Lỗ thành cuốn sách dạy đạo lý; khi san định Dịch, ông cũng biến cuốn kinh về sự vận hành của cõi Trời, Đất, Người thành cuốn sách dạy đạo lý! Do vậy, nhiều điều mâu thuẫn thậm chí sai lầm của Chu dịch vẫn tồn tại tới hôm nay! Có thể chỉ ra những khiếm khuyết sau của Chu dịch: 1. Quan niệm về Ngũ hành Chu dịch cho rằng, Ngũ hành là năm dạng vật chất tồn tại trên mặt đất, là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ, tức là vàng, gỗ, nước, lửa và đất. Quan hệ giữa các hành có tương sinh và tương khắc, theo một chiều. Tương sinh: Kim sinh Thủy sinh Mộc sinh Hỏa sinh Thổ sinh Kim. Tương khắc: Hỏa khắc Kim khắc Mộc khắc Thổ khắc Thủy khắc Hỏa…… Trong khi đó, tại Việt Nam, từ những truyền thuyết, những di vật do tiền nhân để lại, nhiều nhà nghiên cứu phát hiện ra Ngũ hành nguyên thủy của tộc Việt, phù hợp hơn với quy luật của tự nhiên và khắc phục được những khiếm khuyết của Chu dịch. Cũng là năm yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nhưng theo Dịch Lạc Việt, đó không phải là vật chất tĩnh tại trên mặt đất mà là năm ngôi sao vận động trên bầu trời, có quan hệ gắn bó không chỉ với Trái đất mà với số phận của từng con người. Không tương sinh, tương khắc một chiều như quan niệm của Chu dịch, Ngũ hành Lạc Việt vừa sinh vừa khắc lẫn nhau theo quy luật vạn vật hấp dẫn. 2. Quan niệm về Bát quái. Chu dịch có Tiên thiên bát quái và Hậu thiên bát quái. Tương truyền Hậu thiên bát quái do Văn Vương tạo ra và được ứng dụng cho tới nay. Nhưng qua hàng nghìn năm, nhiều người nhận ra hạn chế của bát quái Văn Vương ở chỗ không phản ánh đầy đủ sự biến hóa của tự nhiên vũ trụ cũng như cõi nhân sinh. Do vậy, khi áp dụng Chu dịch cho triết lý cũng như dự đoán đều gặp những hạn chế. Ngày nay, từ nhiều con đường, trong đó có kỹ thuật số, học giả Trần Quang Bình khám phá, trong tự nhiên có tới 40.320 bát quái đồ mà Hậu thiên bát quái Văn Vương chỉ là một trong 24 đồ hình đạt được 6 chiều đối xứng. Trong khi đó, Bát quái chuẩn của Việt tộc đạt được 8 chiều đối xứng. Khi mà chiều đối xứng tăng lên, tầm bao quát của Bát quái được mở rộng, sẽ phản ánh chính xác hơn về những đối tượng được khảo sát. Đồ hình của Hà Hưng Quốc 3. Quan niệm về Lục thập hoa giáp Ở trên là nói về chiều không gian của Dịch lý. Một chiều quan trọng khác là chiều thời gian, được thể hiện ở vòng Lục thập hoa giáp. Phương pháp Ngũ Hành Nạp Âm là một bí ẩn lớn trong nhiều thiên niên kỷ đối với học giả và danh sư lý số người Hoa. Sách Khảo Nguyên đã viết “. . . chẳng biết nó ở đâu đến. Khảo sát rõ nghĩa của nó, đại để là theo lời dạy của tổ tiên lấy ý của Dịch tượng, tức là lý của Tiên Thiên – Hậu Thiên Bát Quái vậy.” Thiệu Vĩ Hoa, một nhà nghiên cứu gốc Hoa hiện đại và rất nổi tiếng, cũng thừa nhận “Nạp âm ngũ hành trong bảng 60 Giáp Tý căn cứ theo nguyên tắc gì để xác định; người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch. Do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 Giáp Tý biến hoá vô cùng; đối với giới học thuật của Trung Quốc cho đến nay vẫn là huyền bí khó hiểu.” Thẩm Quát cũng nói “Nạp Âm lục thập Giáp Tí, rất ít người biết nguyên lý của nó.” Xin mượn lời học giả Hà Hưng Quốc bình về chuyện này: “Có thể nói lý thuyết Ngũ Hành Phổ Cập thâm nhập hầu hết mọi ngõ ngách của những xã hội Á Châu. Điều này chứng tỏ nó có sức hút rất lớn đối với quần chúng. Tuy là vậy, với suy nghĩ thực sự nghiêm túc, chúng ta không thể không nhìn thấy sự phi lý rõ rệt của lý thuyết Ngũ Hành Phổ Cập và sự tùy tiện trong ứng dụng đến mức độ khó chấp nhận. Dầu cho kho lý thuyết và ứng dụng của lý thuyết Ngũ Hành Phổ Cập có nhiều tới đâu, có biến hóa tới đâu, có diễm ảo tới đâu, có ly kỳ tới đâu, có tinh vi tới đâu đi nữa thì cũng vẫn không che giấu được sự sai lầm từ nền móng. Đó là, thế giới này không tạo dựng bởi năm loại vật chất Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thế giới này không vận hành theo qui luật Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy. Thế giới này cũng không vận hành theo qui luật Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Kho tàng lý thuyết của Ngũ Hành Phổ Cập chỉ là một toà lâu đài đẹp xây bằng hơi nước. Ứng dụng lý thuyết Ngũ Hành Phổ Cập vào các môn tiên đoán thì xác suất đúng sai của chúng có chắc gì hơn được xác suất sấp ngửa của một đồng tiền rớt trên mặt bàn? Xin lưu ý cho là chúng ta không phủ nhận thuyết Ngũ Hành mà chỉ phủ nhận lý thuyết Ngũ Hành Phổ Cập đặt trên nền móng ‘5 vật chất + 2 qui luật sinh khắc.’ Chưa bao giờ Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập đã có thể giải thích một cách “ngay thẳng và hợp lý” những vướng mắc trong Tam Hợp Cục, Tử Vi Cục, Vòng Tràng Sinh, Lục Xung, Lục Hợp, Lục Hại, và ngay cả trên chính cái cấu trúc 12 cung của Cung Bàn Tử Vi. Không thể là bởi vì bộ môn Tử Vi không được kiến tạo trên nền tảng của Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập. Không thể là bởi vì người Tàu không phải là chủ nhân đích thực của nó. Bộ môn Tử Vi đã được kiến tạo trên nền tảng của Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy và của Bảng Lục Thập Hoa Giáp. Chúng là sản phẩm văn hóa phi vật thể do tiền nhân Việt trước tác. Và chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này, vì cho đến bước giải trình này thì chúng ta đã kinh qua rất nhiều bằng chứng rồi.” [6] III.Kết luận Tri thức mới của thế kỷ XXI cho phép khẳng định rằng người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục đã sáng tạo ở đây nền văn minh nông nghiệp Lạc Việt rực rỡ. Muộn nhất 6500 trước, vào thời của Phục Hy người Lạc Việt đã sáng tạo Dịch lý. Từ đó, cuốn kinh vô tự lưu truyền trong dân gian. Đến đời Chu, Dịch được ký tự, gọi là Chu dịch. Sau đó được Khổng Tử san định. Những đời sau nhiều lớp học giả tu bổ để có hiện trạng như hôm nay, là một kỳ thư trong kho tàng tri thức nhân loại. Đó là thành tựu đáng trân trọng của bộ phận người Lạc Việt trên đất Trung Hoa. Tuy nhiên, do thời gian dài chưa có chữ, ý nghĩa của Dịch chỉ được truyền miệng qua nhiều nghìn năm nên xảy ra tình trạng tam sao thất bản. Mặt khác, do bị cắt đứt với nguồn cội Lạc Việt nên tri thức về Dịch trên đất Trung Hoa chưa đầy đủ. Vì vậy khi được ký tự, Chu Dịch không được trọn vẹn mà có những sai lệch. Công việc của những nhà nghiên cứu Dịch ngày nay là từ những khám phá về Dịch lý trên đất Việt Nam, ra sức chỉnh lý cuốn Dịch hiện có để phục nguyên Dịch của tổ tiên Lạc Việt. Tài liệu tham khảo 1. Zhou Jixu. The Rise of Agricultural Civilization in China:The Disparity between Archeological Discovery and the Documentary Record and Its Explanation. SINO-PLATONIC PAPERS Number 175 December, 2006 2. Nguyễn Trung Thuần: Học giả Trung Quốc không dám tin kinh dịch của mình."Thế giới những điều chưa biết" phần lịch sử, khảo cổ, Nhà xuất bản Giang Tô, Trung Quốc, năm 2008. . NXB Hội Nhà văn. H, 2016.Khám phá lịch sử Trung Hoa3. Hà Văn Thùy. 4.良渚文化_百度百科http://baike.baidu.com/view/1556.htm 5.徐韶杉:从阴宅风水看仰韶天文http://www.chinahexie.org.cn/a/yishupinsheji/gudongshoucang/shoucangshichang/2011/0106/6043.html 6. Hà Hưng Quốc. GIẢI MÃ BÍ ẨN LỤC THẬP HOA GIÁP vietdich.blogspot.com/p/giai-ma-bi-luc-thap-hoa-giap.html
  7. VIẾT LẠI LỊCH SỬ HÌNH THÀNH KINH DỊCH Hà Văn Thùy Kinh Dịch là thành tựu văn hoá kiệt xuất của phương Đông. Từ hơn 2000 năm nay, thế giới cho rằng đó là sản phẩm của người Trung Hoa. Khoảng 30 năm lại đây, một số tác giả lên tiếng đòi bản quyền sáng tạo Kinh Dịch cho người Việt. Ngày nay, nhờ những phát kiến quan trọng về khảo cổ và nhân chủng học, đã tới lúc phải bàn lại về vấn đề vô cùng quan thiết này. I. Nguồn gốc Kinh Dịch theo quan niệm truyền thống 1. Tóm lược Ngày nay, tất cả các cuốn Kinh Dịch viết bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới đều ghi: “Hà xuất Đồ, Lạc xất Thư, thánh nhân tắc chi.” Câu này có nghĩa là: “bức Đồ hiện lên ở sông Hoàng Hà, bức Thư hiện lên ở sông Lạc Hà, đấng thánh nhân bắt chước mà làm Dịch.” Đó là nguyên văn lời Khổng Tử ghi trong Hệ từ truyện. Nhưng không chỉ có vậy, hầu hết các sách cũng chép theo Khổng An Quốc rằng: “Phục Hy được bức Đồ trên con long mã ở sông Hoàng Hà, Đại Vũ được bức Thư trên con thần qui xuất hiện ở sông Lạc mà làm nên Dịch.” Phục Hy là ông vua thứ hai trong huyền thoại của người Trung Hoa, sau Toại Hoàng, sống vào khoảng năm 4480 TCN, đã căn cứ vào bức Đồ xuất hiện từ sông Hà rồi làm ra Bát quái, trùng quái. Dịch bắt đầu từ Phục Hy, trải qua đời Hạ, đời Thương đến Văn Vương thì được nâng lên một bước. Dịch của Văn Vương tuy đầy đủ nhưng cái lý vẫn còn bí ẩn. Năm trăm năm sau, Khổng Tử làm Thoán Tượng, buộc thêm lời vào ý của Văn Vương, mục đích làm sáng tỏ Dịch của Văn Vương. Từ cuốn sách bói toán, Văn Vương, Khổng Tử đã chuyển thành cuốn sách có ý nghĩa giáo hoá lớn nên được xếp vào Lục kinh. Phùng Ỷ viết: “Văn vương tán quẻ của Bao Hy, diễn số của cỏ thi, suy việc biến dịch của 9, 6 để sinh ra Hào, cho nên Quái, Hào đều liên hệ với nhau bằng lời, và định tên là Dịch. Từ khi Khổng Tử tán Dịch của Văn Vương thì các Dịch của Hạ, Thương đều bỏ. Bởi thế, từ Văn Vương, các sách Dịch mới bắt đầu gọi Dịch, còn trước Văn Vương, chỉ gọi là Quái mà thôi. Cho nên Khổng Tử nói Bào Hy vạch Bát quái chứ không nói làm Dịch.” [1] , đều là những quyển sách bói. Khi san định Kinh Dịch, chính Khổng Tử cùng với việc đưa nội dung triết lý, đạo đức vào Dịch, cũng dành ba chương IX, X, XI cho việc bói toán. Sau Khổng Tử, Dịch càng nghiêng hơn vào việc bói toán. Hán nho luận Dịch phần nhiều chủ về tai dị và thuật số. Đến đời Nguỵ, Vương Bật chú Dịch mới truất bỏ những lời bàn về toán số mà phát huy phần triết lý trong kinh Dịch. Do đó Dịch học chia làm hai phái: một phái chủ trương Dịch học là sách dùng để bói toán, người cầm đầu là Mạnh Hỷ đời Tây Hán, nổi danh nhất là Trần Đoàn và Thiệu Ung ở đời Tống. Cũng vào thời gian này, do nhiều trường phái Dịch ra đời khiến cho loạn thuyết, Dịch chính truyền bịChu Dịch, đời nhà Chu có Quy Tàng, đời Hoàng Đế có Liên SơnDịch vốn là công cụ bói toán. Đời Thần Nông có mai một nên Chu Hy đúc kết Dịch còn sót của dòng chính, sáng tác sách Châu Dịch bản nghĩa truyền tới ngày nay. Về công dụng của Dịch, Châu Dịch bản nghĩa của Chu Hy viết: Phục Hy đã “thắt dây lại mà làm ra cái vó, cái lưới để đi săn, đánh cá, đó là ngài đã lấy tượng của quẻ Ly.” Rồi “Họ Bào Hy mất. Họ Thần Nông lên thay, đẽo gỗ làm lưỡi cày, uốn gỗ làm cán cày, đem cái lợi về sự cày bừa dạy cho thiên hạ; đó là ngài lấy tượng của quẻ Ích.” Họ Thần Nông lại còn dạy dân họp chợ, giao thương: “Mặt trời đứng bóng thì họp chợ, đưa dân trong thiên hạ đến, tụ góp hàng hoá của thiên hạ lại, giao dịch xong rồi trở về, ai cũng được như ý; đó là Ngài lấy tượng ở quẻ Phệ hạp.” Rồi “Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn lấy tượng ở quẻ Kiền, quẻ Khôn, khoét cây làm thuyền, chuốt gỗ làm chèo, dùng thuyền dùng chèo để qua sông, qua ngòi, đi xa làm lợi cho thiên hạ: đó là lấy tượng ở quẻ Hoán. Dùng trâu ngựa để chở nặng, đi xa, làm lợi cho thiên hạ: đó là lấy tượng ở quẻ Tuỳ…” [3] 2. Nhận định Trên đây là quan niệm mang tính chính thống về nguồn gốc của kinh Dịch. Tuy nhiên, trong giới Dịch học, từ ngót hai nghìn năm nay luôn xuất hiện những ý kiến dị biệt: a. Có người cho rằng, không phải Phục Hy làm ra Dịch. Hà đồ, Lạc thư với long mã, thần quy chỉ là sự thêm thắt của Khổng An Quốc, không thể tin là xác thực vì Khổng Tử không hề nói vậy. “Đồ xuất hiện ở sông Hà, Thư xuất hiện ở sông Lạc, đấng thánh nhân đặt ra phép tắc.” Hai chữ thánh nhân đâu đã đủ để minh chứng Phục Hy? Khổng An Quốc đời Tây Hán có nói: “Hà đồ là tấm đồ biểu do con long mã mang ra khỏi sông Hoàng Hà thời vua Phục Hy ngự trị thiên hạ. Ngài bèn đem những chấm, những nét của tấm đồ biểu để vạch ra Bát quái.” Thuyết này thực cũng chỉ là do óc tưởng tượng của Khổng An Quốc đó thôi! b. Có người cho rằng: Không phải Phục Hy từ Đồ, Thư mà làm ra Dịch: Nếu đem Bát quái phối trí với Hà đồ thì 1 với 6 là Thuỷ, đóng tại phương Bắc thuộc ngôi vị của Khảm; 2 và 7 là Hoả, đóng tại phương Nam thuộc ngôi vị của Ly; 3 và 8 là Mộc, đóng tại phương Đông, thuộc ngôi vị của Chấn và Tốn; 4 và 5 là Kim, đóng ở phương Tây, thuộc ngôi vị của Đoài và Kiền; 5 và 10 là Thổ, giữ trung ương, ngôi vị của Thái cực. Sự phối trì này tượng trưng cho cuộc thuận bố của Ngũ hành. Tuy nhiên, còn có Khôn - Cấn, hai ngôi không thể phối hợp vào đâu được; điều đó chứng tỏ Bát quái không phải xuất xứ từ Hà đồ. [4], phản đối Hà đồ và Lạc thư có liên quan tới Dịch. Đến khi Hồ Vị làm Dịch đồ minh biện, đem phân tích rõ ràng rành mạch lai lịch giữa Hà đồ với Dịch, thì lúc đó mọi người mới lại thấy Đồ là Đồ, Dịch là Dịch, cả hai không có gì liên can tới nhau cả. Hà đồ Lạc thư nguyên quai Mao Kỳ Linh đời Thanh sơ làm c. Chúng tôi cho rằng việc gán cho các thánh nhân nhìn tượng các quẻ rồi làm ra vật dụng là không có cơ sở. Đây là điều trái với quy luật tư duy: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Chỉ có thể từ hình thể hang đá nơi trú ngụ, rồi những tổ chim trụ được qua mưa gió, con người nghĩ ra cách làm nhà. Bắt gặp con chim con thú bị mắc lại giữa đám dây leo, con người nghĩ ra cách kết dây thành lưới bắt thú bắt cá. Từ cây gỗ trôi trên sông, người ta học cách kết bè rồi làm thuyền… Không thể có chuyện các thánh nhân ngồi nhìn ngắm các quẻ Dịch rồi làm ra vật này vật khác mà phải như Sử Thiếu Vi viết: “Thần Nông ăn lá cây, một ngày chết đi sống lại đến năm lần rồi tìm ra thuốc chữa bệnh bằng cây cỏ.” Hiên Viên do "Kiến chuyển bồng nhi chế thừa xa" có nghĩa là nhìn cỏ bồng xoay theo gió mà chế ra xe. Toại Nhân thì dùi cây tìm ra lửa. Ta biết, Phục Hy sống ở khoảng 4480-4369 năm TCN, trong khi người hiện đại Homo sapiens ra đời từ 195.000 năm trước và phải đánh cá kiếm sống từ rất lâu trước khi Phục Hy ra đời. Nếu ngồi chờ Phục Hy “ngâm cứu” các quẻ Dịch mới làm ra thuyền chắc dân châu Á chết đói từ lâu! Như vậy hợp lý hơn không phải là từ quẻ Dịch nghĩ ra thuyền, lưới mà chính từ có thuyền, lưới, nhà cửa, quần áo, cày bừa rồi nghĩ ra Âm Dương, làm ra Dịch? Vì vậy, cũng không phải Phục Hy làm ra Dịch mà Dịch ra đời từ trước đó nhiều. Cùng lắm thì Phục Hy là người có sáng kiến, trên cơ sở những quẻ bói của dân gian làm ra Bát quái rồi trùng quái. Từ đó dân gian quy công cho Phục Hy. II. Những quan niệm khác. 1. Tóm lược Khoảng ba mươi năm trước, một số học giả như giáo sư Kim Định trong Việt lý tố nguyên, giáo sư Lê Văn Sửu với Nguyên lý thời sinh học cổ Ðông phương và Học thuyết âm dương ngũ hành, giáo sư Bùi Văn Nguyên với Kinh Dịch Phục Hy rồi giáo sư Nguyễn Tiến Lãng Kinh Dịch-sản phẩm sáng tạo của người Việt... đề xuất ý kiến đòi bản quyền sáng tạo kinh Dịch cho người Việt. Những năm gần đây xu hướng này thu hút thêm nhiều nhà nghiên cứu: Nguyễn Vũ Tuấn Anh với Tìm về cội nguồn Kinh Dịch [5] , Nguyễn Thiếu Dũng với những bài báo “Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?” và “Chiếc gậy thần - dạng thức nguyên thuỷ của hào âm hào dương”, [6] đặc biệt là Trần Quang Bình với cuốn sách dầy dặn Kinh Dịch, sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc. [7] trên gốm 3500 năm tuổi nên người Âu Lạc là chủ nhân của Kinh Dịch, còn người Trung Hoa, nhận được vật cống Hà Đồ của người Việt, nhưng chưa được người Việt dạy cho Bát quái chuẩn vì vậy đã dùng Bát quái sai lạc của Văn Vương. Lôi Thuỷ GiảiTrần Quang Bình dựa vào công cụ điện toán, phát hiện ra trong 40.320 đồ hình Bát quái lý thuyết, Bát quái Văn Vương chỉ là 1 trong 24 đồ hình đạt tới 6 chíều đối xứng. Chỉ duy nhất một đồ hình đáp ứng cả 8 chiều đối xứng, được gọi là Bát quái chuẩn. Ông cũng giải mã hoa văn khắc trên trống đồng và phát hiện Bát quái chuẩn trên trống Lạc Việt. Cũng nhờ giải mã hoa văn trống đồng, tác giả cho rằng Nòng và Nọc là hai ký hiệu nguyên thuỷ của hào Âm hào Dương của Dịch Lạc Việt. Ông cũng cho rằng mình tìm ra Bát quái Âu Lạc trong tranh Đàn Lợn của làng Đông Hồ. Từ đó ông kết luận, là người thủ giữ Bát quái chuẩn, lại có hiện vật là quẻ trên chiếc nồi đất thời Phùng Nguyên cách nay 3500 năm nên cho rằng Kinh Dịch là di sản sáng tạo của Việt Nam.Lôi Thuỷ GiảiNguyễn Thiếu Dũng phát hiện ra “Chiếc gậy thần – dạng nguyên thuỷ của hào âm hào dương” trên trống đồng Lạc Việt, quẻ Các nhà nghiên cứu lão thành đã bằng sự cảm nhận sâu sắc văn hoá phương Đông, thấy những chỗ bất cập của bản kinh Dịch truyền thống, nhận ra hồn vía văn hoá Việt trong tên gọi các quẻ, trong cách giải nghĩa Dịch mà cho rằng Dịch đã do tổ tiên người Việt sáng tạo. Giáo sư Kim Định nhờ phát hiện triết lý An vi trong Dịch, đồng thời căn cứ ở tư liệu lịch sử cho rằng trước khi người Hán vào Trung Nguyên thì người Việt đã tràn khắp 18 tỉnh của Trung Hoa; Phục Hy, Thần Nông là vị vua người Việt vì vậy, cố nhiên, Dịch phải là sản phẩm của người Việt. Nhìn chung, các vị đưa ra nhiều lý lẽ nghe có vẻ xuôi tai nhưng về chứng cứ chưa đủ mạnh nên chưa thuyết phục được ngay cả giới học giả trong nước. Những tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình, mỗi người theo khả năng của mình đưa ra nhiều bằng chứng mới để chứng minh cho ý tưởng Kinh Dịch là của người Việt. Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhận ra sự không hoàn chỉnh của Hậu thiên Bát quái Văn Vương và phát hiện ra Bát quái Lạc Việt nên cho rằng người Lạc Việt đã sáng tạo ra Hậu thiên Bát quái chuẩn chính là người làm ra Kinh Dịch. Hậu thiên Bát quái Âu Lạc (theo Trần Quang Bình) Nhận định 2. Ý tưởng của các học giả lão thành dù còn mơ hồ nhưng cũng là những gợi ý quý báu để hậu thế đi sâu tìm về cội nguồn của Kinh Dịch. Chung tôi cho rằng đó là những gợi ý sáng suốt có tính mở đường nên cần được tiếp thu một cách trân trọng. Với những tác giả lớp sau, chúng tôi nhận thấy: a. Chỉ dựa trên sự phát hiện cái gọi là “Bát quái chuẩn” trên trống đồng, trên tranh dân gian mà cho rằng người Âu Lạc là chủ nhân của Kinh Dịch là chưa đủ thuyết phục. Không thể loại trừ ít nhất khả năng, đó là sự sáng tạo độc lập của những nhóm người cư trú tại những lãnh thổ khác nhau, mà mức độ tinh xảo có khác nhau. Cho rằng người Trung Hoa ngẫu nhiên (bằng vật cống hay chiếm đoạt) có được Hà đồ rồi làm Dịch lại càng không có cơ sở, bởi lẽ nhiều tác giả chứng minh rằng không phải từ Hà đồ làm ra Dịch; mặt khác, nếu vậy, trên đất Trung Hoa không thể có một phong trào làm Dịch rộng lớn, bền bỉ trải dài nhiều thời kỳ, tạo nên di sản khổng lồ: tới đời Thanh, Tứ khố toàn thư tập hợp được 158 bộ gồm 1761 quyển, phụ lục 8 bộ, 12 quyển, b. Cho rằng, vào đời Hạ, đời Thương Trung Quốc chưa có Dịch là không đúng. Sách bói Liên Sơn, Quy Tàng đã truyền từ thời Phục Hy qua Thần Nông, Hoàng Đế. Di vật xóm Rền 3500 năm trước tương đương với đời Thương. Như vậy dấu tích cổ nhất về quẻ Dịch ở Việt Nam cũng muộn hơn những sách Dịch thời Thần Nông, Hoàng Đế. Ta từng nghe nói sách Tam phần mở đầu Thượng thư bị Khổng Tử loại bỏ khi san định kinh Thư thì chính đó là “Tam phần thư” mà Mao Tiệm phụng sứ đi kinh Tây, khi tới Đường Châu tìm được trong dân gian ba bộ sách gọi là Tam phần thư, gồm có Sơn phần, Khí phần, Hình phần. Sơn phần là Liên Sơn Dịch của Thiên hoàng, họ Phục Hy; Khí phần là Quy tàng Dịch của Nhân hoàng, họ Thần Nông; Hình phần là Kiền Khôn Dịch của Địa hoàng họ Hoàng đế. Mỗi bộ Dịch đều có 8 quẻ; dưới mỗi quẻ lại đều có 7 quẻ nữa, tổng cộng 8 x 8 = 64 quẻ. Như vây Tam phần là Dịch thời Tam Hoàng. Chúng có những cái tên Liên Sơn, Qui Tàng, Kiền Khôn và có 64 quẻ, gọi là: “Quân, Thần, Dân, Vật, Âm, Dương, Binh, Tượng; Qui, Tàng, Sinh, Động, Trưởng, Dục, Chỉ, Sát; Thiên, Địa, Nhật, Nguyệt, Sơn, Xuyên, Vân, Khí” tức là Kiền, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. [8] Điều này càng minh chứng cho việc Dịch có mặt ở Trung Nguyên ít nhất từ 4480 năm TCN. III. Sự hình thành kinh Dịch theo cách nhìn mới Có thể công cụ bói toán mà sau này có tên là Dịch được ra đời như sau: 1. Dựa vào phát hiện những dấu vết Dịch trên gốm Phùng Nguyên, trên trống đồng Đông Sơn, việc tìm thấy bản Dịch tại Mã vương đôi miền Hồ Nam cùng những bản sách Dịch thời Thần Nông, Hoàng Đế bên sông Hoàng Hà, ta có thể nhận định rằng: Bát quái, trùng quái được người Lạc Việt sáng tạo trên địa bàn rộng lớn từ bên sông Hồng sông Mã, tới Dương Tử, Hoàng Hà. Không phải ngẫu nhiên mà trên quốc kỳ của Đại Hàn dân quốc có đồ hình Thái cực và Bát quái. Họ chính là hậu duệ của dòng U Việt mà tổ tiên từ 3-4 nghìn năm TCN đã góp phần sáng tạo ra Dịch. Khám phá thiên nhiên huyền bí là khát vọng lớn lao của con người. Khát vọng lớn lao không kém nữa là dự đoán những may rủi, hoạ phúc đến với cộng đồng cũng như tới số mệnh của từng con người. Một công cụ để bói toán là điều bức xúc. Do quan sát thiên nhiên, dần dà con người biết được sự vận hành của mặt trăng, mặt trời, các vì sao cùng mối liên quan của chúng với Trái đất. Người ta cũng phát hiện ra hai yếu tố Âm, Dương cùng với Ngũ hành sinh khắc chi phối toàn bộ sự vận hành của Vũ trụ. Tới một lúc nào đó, những trí tuệ sáng láng nhất trong cộng đồng hình dung ra vũ trụ là Thái cực như một vòng tròn chứa nghi Âm và nghi Dương. Lưỡng nghi cọ xát thành Tứ tượng, Tứ tượng cọ xát thành Bát quái… Do quen với chữ Nòng Nọc nên lúc đầu người Việt dùng Nòng 0-0 để ký hiệu nghi Âm và Nọc 0 ký hiệu nghi Dương. Tới lúc nào đó, hai ký hiệu toán nhị phân trên được cải tiến thành vạch đứt - - tượng trưng cho Âm, vạch liền – tượng trưng cho Dương. Chồng những tượng Âm, Dương lên nhau thành Tứ tượng rồi Bát quái, trùng quái là việc không mấy khó. Cái khó hơn, khiến đau đầu người xưa là làm cách nào bố trí hợp lý 8 quái trên hoành đồ rồi viên đồ. Càng khó hơn khi bố trí một thứ tự thỏa đáng cho 64 quẻ trong mối tương quan đa chiều giữa quẻ này và quẻ khác trên phương đồ, viên đồ… Bằng sự kiên trì của loài kiến, dần dần người xưa cũng tìm ra Bát quái khả dĩ phục vụ cho mục đích của mình: Tiên thiên Bát quái. Có thể Phục Hy là người sáng chế ra Bát quái Tiên thiên này mà cũng có thể Ngài đã tổng kết hàng nghìn Bát quái trong dân gian để thành Tiên thiên Bát quái. Rồi dùng Tiên thiên Bát quái như một la bàn, Phục Hy đã sắp xếp vị trí 64 quẻ theo trật tự hợp lý nhất, đó là Trùng quái Phục Hy. Trùng quái Phục Hy trở thành cuốn sách bói truyền đến Thần Nông dưới tên Liên Sơn, tới Hoàng Đế có những bổ sung cải tiến và được gọi là Quy Tàng. Hai công cụ bói toán này truyền qua thời Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương… Trong dân gian người ta cũng dần dần phát hiện ra những bất cập, những sai lệch của Liên Sơn, Quy Tàng. Vì vậy tự nhiên, không ít đề nghị cải tiến sách bói được đưa ra. Theo truyền thuyết, Văn Vương là thánh nhân đáp ứng được việc này. Có thể do chính Ngài phát minh ra, cũng có thể Ngài tổng hợp những phương án xuất hiện trong dân gian, thành Bát quái mới mà sau này được gọi là Hậu thiên Bát quái hay Bát quái Văn Vương. So với Bát quái của Phục Hy, Bát quát Văn Vương là thành tựu nổi bật vì là 1 trong 24 đồ hình đạt được 6 đối xứng (theo Trần Quang Bình). Dựa vào Hậu thiên Bát quái, Văn Vương bố trí lại 64 quẻ rồi trước tác quái từ, hào từ, đưa sách bói thành công cụ bói ưu việt và Dịch ra đời. Năm trăm năm sau Văn Vương, Khổng Tử san định Dịch, viết Thập dực, làm cho Dịch có diện mạo như hiện nay và được xếp vào Ngũ kinh. Có thể có tình huống thế này: cũng như những chiếc búa đá mài được người Hoà Bình đưa lên Trung Nguyên, sau đó là giống lúa, giống gà, giống chó… Bát quái, rồi trùng quái cũng được người Lạc Việt sáng tạo rồi theo chân người Việt di cư mang tới bên sông Dương Tử, Hoàng Hà. Việc sáng chế là một quá trình hàng ngàn năm, bắt đầu là Bát quái Tiên thiên rồi Bát quái Hậu thiên. Đến khi người Phùng Nguyên khám phá ra Bát quái chuẩn, là Bát quái Lạc Việt thì xảy ra sự cố người Mông Cổ xâm chiếm đất đai Việt. Cuộc di cư lên phía bắc từ hàng vạn năm bị chặn đứng. Do không có người đi lên mà chỉ có người chạy loạn trở về nên nhiều yếu tố mới của văn hoá phương Nam, trong đó có Bát quái Lạc Việt không được đưa lên phương Bắc. Tíếp đó là những tao loạn thời Chiến Quốc càng làm khó con đường đi lên của người Việt. Tiếp theo là Thục Phán chiếm ngôi của Hùng Vương rồi nhà Tần xâm lăng. Không còn cách nào khác, người Âu Lạc đành khắc Bát quái Lạc Việt lên trống đồng để cất giữ. Do người xưa ký thác một cách quá bí hiểm nên kẻ xâm lăng phương Bắc thủ đắc trống hơn 1000 năm cũng như con cháu sau này tuy có tìm thấy trống cũng không thể giải mã nổi. Đến ngày nay, nhờ cố công của nhiều thế hệ người Việt và nhờ vào phương tiện khoa học hiện đại, những tác giả như Đoàn Nam Sinh, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình tìm lại được đồ hình Bát quái chuẩn trên trống đồng, tranh Đàn Lợn của Làng Hồ, tranh Ngũ Hổ đình Hàng Trống… Cố nhiên những khám phá này cần được kiểm chứng công nhận sự chính xác. Dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng vô cùng biết ơn người Trung Hoa anh em có công cực kỳ lớn lao trong việc tiếp thu sách bói Liên Sơn, Quy Tàng từ tổ tiên Lạc Việt rồi bỏ công sức, trí tuệ xây dựng nên Kinh Dịch với diện mạo hiện nay, một đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. 2. Khi đi tìm công cụ bói toán, người xưa buộc phải khám phá bản chất cùng sự vận hành của Vũ trụ. Không phải duy nhất một con đường đến La Mã thì cũng không phải chỉ một con đường duy nhất phát hiện bản chất vũ trụ là việc bói cỏ thi. Có thế là cùng với những quẻ Dịch, đã phát hiện ra hai công cụ bói toán khác là Hà đồ và Lạc thư dùng để bói rùa. Dựa vào việc bố trí những chấm Âm, Dương trên Đồ, Thư được vẽ trên mai rùa, khi nướng vỏ rùa, người ta căn cứ trên những vết nứt để định quẻ rồi giải đoán bằng Dịch. Như vậy là, dù được sáng tạo ra một cách độc lập nhưng Hà đồ, Lạc thư cùng phục vụ cho việc bói toán. Cùng là những công cụ mã hoá bản chất và sự vận hành của Vũ trụ nên Đồ, Thư và Bát quái có những tương đồng do quy chiếu vào bản chất vũ trũ. Tới thời gian nào đó, Đồ và Thư được gộp chung vào Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch. Khi san định Chu Dịch, Khổng Tử thấy trước mắt mình tất cả Quái, Đồ, Thư nên Ngài mặc nhiên tin rằng cả ba là thành phần bất khả phân ly của sách Dịch. Vì vậy Ngài cho rằng, thánh nhân (những vị tài giỏi sống rất lâu trước mình) nhận được Đồ, Thư từ sông Hà sông Lạc rồi theo đó vạch quẻ: “Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư, thánh nhân tắc chi.” Chính lời nói này khiến cho hậu thế nhầm theo là từ Hà đồ, Lạc thư mà làm ra Bát quái. Điều này không đúng với logic của tư duy: Quái đơn giản hơn Đồ, Thư nhiều nên theo tư duy logic thông thường, quái phải được làm ra trước Đồ, Thư. Hoặc giả cả ba cùng được tìm ra một cách riêng rẽ. Dầu sao thì cũng không thể từ Đồ, Thư mà làm ra Bát quái. Và quả như những chứng minh ở trên cho thấy, Đồ, Thư không liên quan tới Bát quái. Khổng Tử đã lầm nhưng cháu ông là Khổng An Quốc lại lầm hơn khi đưa ra những yếu tố dị đoan là con Long mã trên sông Hà, con Thần quy trên sông Lạc. Sự thêm thắt vô sở cứ này dẫn hậu nhân đến hoang đường lầm lạc và gọi ông là tội đồ của Dịch. IV. Kết luận 1.Từ chứng minh ở trên, ta có thể tin được rằng, kinh Dịch nguyên là công cụ bói toán do người Lạc Việt sống từ sông Hồng, sông Mã tới Dương Tử, Hoàng Hà sáng tạo. Khoảng năm 4480 TCN, Phục Hy đã từ những đồ hình Bát quái lưu hành trong dân gian, sáng tạo ra Tiên thiên Bát quái. Dựa vào cái la bàn này, Ngài đã sắp xếp một cách tương đối thoả đáng các quẻ trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, trở thành sách bói toán hữu dụng. Văn Vương dựa vào những bát quái do dân gian phát hiện, đã sáng tạo nên Hậu thiên Bát quái rồi từ đây điều chỉnh vị trí các quẻ và sáng tác Quái từ Hào từ, đưa cuốn sách bói toán trở thành Chu Dịch. Bằng công trình san định của mình, Khổng Tử đã đưa Chu Dịch trở thành bộ kinh điển đứng hàng đầu trong kho tàng tri thức nhân loại. Vì vậy nên chăng, người Việt Nam nên dựa vào Bát quái Lạc Việt làm ra cuốn Dịch Việt Nam để phục vụ tốt hơn cho nhân dân, đất nước mình. “Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiễn Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển: Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.” Dịch là cuốn sách triết lý về vũ trụ và nhân sinh nên sự chính xác của những luận đoán của nó phụ thuộc chặt chẽ vào vị trí, tức tọa độ của người dùng Dịch, do sự chi phối của lực hút Trái đất cùng tác động của các thiên thể. Giữa Việt Nam và Trung Quốc có khoảng cách về địa lý, múi giờ khác nhau. Dịch do người Trung Hoa làm ra như hiện nay chưa thật chính xác đối với người Trung Hoa thì độ chính xác sẽ kém đi đối với người ở vĩ độ khác. Xin dẫn ra đây một thí dụ từ bài viết của Nguyễn Thiếu Dũng: xếp lại đồ hình của 64 quẻ cho thật chính xác, từ đó chỉnh lại những chỗ chưa phù hợp của Quái từ, Hào từ, Hệ từ… 2.Tuy nhiên tới nay cũng chưa thể nói kinh Dịch là tác phẩm hoàn chỉnh, không còn điều gì để bàn bạc sửa chữa. Đọc bộ Dịch do Chu Hy truyền lại, không thiếu những chỗ người đọc phải chấp nhận một cách khiên cưỡng là chỉ dấu cho thấy điều này. Dịch vốn là công cụ bói toán, vậy mà gần hai ngàn năm nay, những nhân tài xuất chúng về bói toán chỉ đếm không hết trên đầu ngón tay, cho thấy bản thân công cụ bói toán có vấn đề. Vấn đề ở đây là do người Trung Hoa chỉ có thể đạt tới Bát quái Văn Vương với 6 đối xứng. Từ Bát quái bất toàn này đã dẫn đến những thiếu sót nghiêng lệch trong viếc sắp xếp các quẻ, khiến việc viết Quái từ, Hào từ, Thập dực thiếu chính xác. Chúng tôi cho rằng, Tiên thiên, Hậu thiên đồ chỉ phản ánh từng bước con người khám phá sự vận hành của vũ trụ. Do nhận ra đồ hình Bát quái của Phục Hy còn thiếu sót bất cập, trước thời Văn Vương, người xưa đã tìm ra một đồ hình khác. Khi đặt tên cho đồ hình mới này là “Hậu thiên”, thì đồng thời gọi đồ hình của Phục Hy là “Tiên thiên” để phân biệt. Về nguyên tắc, Tiên thiên Bát quái là vô nghĩa, vì lúc đó Vũ trụ chưa sinh, thì làm gì đã có những Càn, Khôn cùng sự vận hành? Một vũ trụ chưa có (tiên thiên) làm sao có thể tác động tới con người ở thời Hậu thiên? Nhưng trên thực tế, Tiên thiên đồ đã là công cụ bói toán hữu hiệu. Điều này chứng tỏ cái tên “tiên thiên” đặt cho đồ hình Phục Hy là không chuẩn. Ngày nay, khi nhận ra sự thiếu sót bất cập của Bát quái Văn Vương, con người cần phải tìm ra bát quái tiến bộ hơn. Tác giả Trần Quang Bình đã tìm ra Bát quái chuẩn (Bát quái Âu Lạc). Từ đây, công việc phải làm là xây dựng bộ Dịch mới theo chỉ đạo của Bát quái chuẩn: 3.Thoạt kỳ thủy, Dịch là sách bói. Có thời kỳ việc bói toán bành trướng làm Dịch bị suy đồi. Nay ta đang ở thái cực khác, coi bói toán là mê tín dị đoan nên trên phương diện chính thống, bị bài bác vùi dập. Đấy lại là một cực đoan. Cực đoan là tiêu cực. Nên chăng chúng ta ủng hộ cả hai cánh của Dịch học - triết lý và dự báo - để Dịch vừa phục vụ con người triết lý vừa phục vụ con người tâm linh? Dự báo tương lai với những cát hung hoạ phúc là khát vọng lớn của con người từ tuổi ấu thơ. Khát vọng đó ngày nay và có lẽ mãi mãi không bao giờ vơi cạn. Vì vậy việc cần làm là biến Dịch thành môn khoa học dự báo tương lai đạt tới độ tin cậy cao chứ không phải như lạc đà vùi đầu trong cát để phủ nhận bói toán. Cần đưa Dịch thành môn học trong trường phổ thông để công dân tương lai không bị mù dịch, ngu ngơ trước quy luật vận hành của vũ trụ, đứng ngoài thành tựu văn hoá của tổ tiên. Tài liệu tham khảo: [1]Phùng Ỷ. Hậu Trai Dịch học. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán Thương Hải. Dịch tập chú, Kinh thượng thiên, quyển 1, trang 1 (Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương trang 109). [2]Nguyễn Hữu Lương. Kinh Dịch với vũ trụ quan phương Đông; Nha tuyên uý Phật giáo. Sài Gòn 1971, trang 421 [3]Chu Hy, Châu Dịch bản nghĩa, Hệ từ Hạ, chương II [4]Nguyễn Hữu Lương, trang 536 [5]Nguyễn Vũ Tuấn Anh: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", www.tuvilyso.com [6]Nguyễn Thiếu Dũng: "Kinh Dịch-di sản sáng tạo của Việt Nam?" (http://web.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/4/4/80330.tno) và "Chiếc gậy thần - dạng thức nguyên thuỷ của hào âm hào dương (http://web.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/10/26/126878.tno) [7]Trần Quang Bình: Kinh Dịch, sản phẩm sáng tạo của văn hiến Âu Lạc (vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/kinhdich/1.htm) [8]Lý Quá: Tây Khê Dịch thuyết. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán, Thượng Hải, bài tựa, quyển 1, trang 5,6,7. Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương trang
  8. CỘI NGUỒN KINH DỊCH VÀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA TƯƠNG LAI. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Văn hiến Việt Nam, chìa khóa khám phá chân lý cuối cùng của vũ trụ, cho sự phát triển bền vững. Kính thưa quí vị, Hchất và cội nguồn của nó. quốc tế về kinh Dịch, nhưng vẫn chưa thể khám phá được bản ôm nay, chúng ta họp mặt nơi đây, để trao đổi và khám phá bản chất và cội nguồn của kinh Dịch với hệ thống ký hiệu quen gọi là Bát quái.Chúng ta cũng dễ dàng thống nhất ý kiến về tính bí ẩn huyền vĩ của bộ sách gọi là Chu Dịch này, vốn được coi là "tứ đại kỳ thư" của nền văn minh Đông phương. Vào thế kỷ trước, chính phủ Trung quốc, vốn tự nhận là cội nguồn của văn minh Đông phương, đã phổi hợp với UNESCO cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc, bốn lần tổ chức hội thảo Nhưng để tìm ra bản chất đích thực của sự kiện và vấn đề thì quy mô tổ chức không phải là yếu tố quyết định. Mà nó còn lệ thuộc vào phương pháp tiếp cận, khám phá bản chất hiện tượng. Cho nên, mặc dù với quy mô nhỏ hơn và bất cập về nhiều phương diện, chúng ta vẫn đủ tự tin để tổ chức một cuộc hội thảo về những bí ẩn của nền văn minh Đông phương. Nếu cuộc hội thảo khoa học về kinh Dịch lần này của chúng ta thành công với những kết luận của nó, thì đây chính là một đóng góp quan trọng, vì làm sáng tỏ bản chất của nền văn minh Đông phương kỳ vĩ và đầy huyền bí, đang sừng sững thách đố trí tuệ của toàn thể nhân loại. Ra ngoài khoa học, bà Vanga, nhà tiên tri nổi tiếng người Bungari đã nói: "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại trong tương lai". để chúng ta có mặt nơi đây ngày hôm nay. Từ những vấn đề được đặt ra, chúng tôi tin tưởng vào ý nghĩa của việc tìm kiếm những bí ẩn của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Mà một trong những bí ẩn lớn nhất chính là "Cội nguồn kinh Dịch", Lý thuyết cổ xưa đó nằm ở đâu trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại và nó có thật hay không? Phải chăng đó chính là một lý thuyết thống nhất vũ trụ còn tiềm ẩn trong lịch sử văn minh nhân loại, mà con người chưa khám phá ra? Chúng ta cũng đã biết rằng: mục tiêu của những khoa học gia hàng đầu, vẫn quan sát và tìm kiếm để tạo ra một lý thuyết thống nhất cho con người nắm bắt và làm chủ được cuộc sống của mình. S.W Hawking đã giúp lý giải cho động cơ của các nhà khoa học: “Nếu chúng ta thực sự tìm ra được một lý thuyết tối hậu về vũ trụ, thì điều đó có ý nghĩa như thế nào? Chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn hoàn toàn rằng quả chúng ta đã tìm ra được một lý thuyết hoàn chỉnh. Song nếu lý thuyết chặt chẽ về mặt toán học và luôn đưa ra được những tiên đoán phù hợp với quan sát, thì chúng ta có thể tin một cách hợp lý rằng đó là một lý thuyết đúng đắn. Nó sẽ kết thúc một chương dài và vinh quang trong lịch sử đấu tranh trí tuệ của con người để tìm hiểu vũ trụ. Đồng thời nó cũng cách mạng hóa sự hiểu biết các định luật vũ trụ của con người bình thường". Tuy nhiên, cũng chính Hawking đã viết: “Đến thời điểm này, đa số các nhà khoa học quá bận rộn vào việc phát triển những lý thuyết để trả lời câu hỏi như thế nào mà chưa bận tâm tới câu hỏi vì sao? Mặt khác, những triết gia là những người mà công việc là đặt ra câu hỏi vì sao, lại không đủ điều kiện để thông tuệ được các lý thuyết hiện đại.” Và để tiếp tục cho những vấn đề được đặt ra, tôi xin được bắt đầu trình bày với tiểu mục: I. Thế giới tìm hiểu những giá trị của văn minh Đông phương. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu và hội thảo về Kinh Dịch trên khắp thế giới, nhưng kết quả vẫn là sự huyền bí kỳ vĩ của nền văn minh Đông phương, sừng sững thách đố trí tuệ nhân loại, trong sự hội nhập của lịch sử các nền văn minh. "Gần đây có rất nhiều nhà khoa học ở đủ mọi ngành và ở nhiều nơi trên thế giới, với các phương tiện hiện đại có nhiều đặc tính ưu việt như: tinh vi, nhanh chóng, chính xác trong tay, họ đã và đang nghiên cứu nền tảng của di sản văn minh phương Đông này. Thế nhưng, sự tiếp cận thực chất của nó còn đang là một khó khăn to lớn".Giáo sư Lê Văn Sửu – một học giả có nhiều công trình nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương của Việt Nam – đã nhận xét trong tác phẩm "Nguyên lý thời sinh học cổ phương Đông" của ông như sau: Chính vì sự mặc định này, cho nên hệ quả tất yếu của nó là: Mặc nhiên xác định những yếu tố cấu thành nên nội dung của những giá trị phương Đông là những thành tựu của nền văn minh này và coi là đối tượng nghiên cứu, không cần biết đúng hay sai ngay trong nội hàm của nó. Hay nói cách khác: Sự hiểu sai về nguồn gốc của nền tảng tri thức, tạo nên một hệ thống tri thức sản phẩm của nó là kinh Dịch, đã tạo ra sự bế tắc - khi không thể hiểu được những phạm trù, thuật ngữ khái niệm... cấu thành nên hệ thống tri thức của kinh Dịch. Tất nhiên, khi ngay cả nội hàm những cấu trúc và câu từ mô tả trong kinh Dịch, còn mờ mịt khó hiểu thì không thể có khả năng hiểu toàn bộ hệ thống..Cái sai lớn nhất, chính là con người trong lịch sử nền văn minh đã mặc định kinh Dịch thuộc về nền văn minh HánNgười ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Cái sai thứ hai chính là phương pháp nghiên cứu. Nhận định của Giáo sư Lê Văn Sửu trong cuốn "Nguyên lý thời sinh học cổ phương Đông" của ông, đã cho thấy định hướng một phương pháp nghiên cứu sai. Và đó là nguyên nhân để những phương tiện kỹ thuật hỗ trợ cho nhận thức trực quan của việc khám phá cấu trúc thế giới vật chất, không phải là điều kiện đủ để thẩm định một hệ thống lý thuyết đúng hay sai.Chúng ta không thể đi tìm bản chất các ký hiệu Bát quái bằng kính hiển vi. Dù đó là kính hiển vi hiện đại nhất. Kinh Dịch là sản phẩm của tư duy tổng hợp trừu tượng; nó mô tả những quy luật tương tác của tự nhiên, vũ trụ, cuộc sống và con người có thể tiên tri. Hay nói rõ hơn: Kinh Dịch là sản phẩm của hệ thống tư duy trừu tượng và là thành tố trong một cấu trúc của một hệ thống lý thuyết. Trong khi đó, tất cả các phương tiện kỹ thuật, chỉ hỗ trợ cho sự nhận thức trực quan những trạng thái tồn tại của vật chất của con người. Hay nói rõ hơn: Chúng tôi xác định rằng:Bất cứ một học thuyết, một hệ thống lý luận nào, dù nhân danh khoa học hay tôn giáo, đều phải có những điều kiện cho sự hình thành và phát triển của nó. Những tiêu chí xác định một học thuyết, một hệ luận thuộc về nền văn minh nào phải gồm tối thiểu ba yếu tố sau đây: 1. Lịch sử phát triển và hình thành học thuyết được mô tả một cách hợp lý thuộc về lịch sử của nền văn minh đó. 2. Tính hệ thống, hoàn chỉnh, nhất quán và hợp lý nội tại của một học thuyết hình thành trong một nền văn minh. 3. Nền tảng tri thức của một nền văn minh là cơ sở cho sự hình thành một học thuyết thì nó phải có khả năng phục hồi lại học thuyết đó. Trên cơ sở những tiêu chí này, chúng tôi trình bày lần lượt các vấn đề liên quan để chứng minh quan điểm của chúng tôi và là cơ sở để tìm về cội nguồn kinh Dịch và bản chất của nó. II. Đi tìm cội nguồn kinh Dịch từ những tiêu chí khoa học. Chúng tôi xin bắt đầu từ tiêu chí thứ 1: II.1. Lịch sử phát triển và hình thành học thuyết mô tả một cách hợp lý thuộc về lịch sử của nền văn minh đó. Bắt đầu từ tiêu chí thứ nhất, chúng tôi lần lượt trình bày lịch sử kinh Dịch mô tả qua bản văn chữ Hán và rất phổ biến từ hàng ngàn năm qua, như sau: Hà Đồ và Tiên thiên Bát quái. II. 1.a. Theo truyền thuyết được ghi nhận trong các bản văn cổ chữ Hán: Vua Phục Hy - được coi là xuất hiện vào khoảng 6500 năm cách ngày nay, đi tuần bên sông Hoàng Hà, thấy con Long mã xuất hiện. Trên lưng Long Mã có những vòng xoáy. Căn cứ vào vòng xoáy trên lưng Long Mã, vua Phục Hy làm ra Hà Đồ và tạo ra Tiên thiên bát quái. Tuy nhiên đồ hình Hà Đồ và Tiên Thiên Bát quái chính thức xuất hiện vào cuối thời Tống - 1000 năm cách ngày nay - do Thiệu Khang Tiết công bố. Tức là nó chỉ chính thức xuất hiện vào 5500 năm sau khi được coi là do vua Phục Hy phát hiện theo truyền thuyết. Lạc Thư. II.1.b. Theo truyền thuyết được ghi nhận trong các bản văn cổ chữ Hán: đi trị thủy ở sông Lạc Thủy, thấy một con rùa thần, trên lưng, đầu tứ chi và đuôi có những chấm lạ. Dựa trên những chấm này, vua Đại Vũ phát minh ra đồ hình Lạc Thư và làm ra Hồng Phạm cửu trù. Trù thứ nhất chính là sự mô tả Ngũ hành. Vua Đại Vũ - được coi là 4000 năm cách ngày nay, (tức 2500 năm sau vua Phục Hy phát minh ra Hà Đồ phối Tiên Thiên Bát quái) Hậu Thiên bát quái và bản văn Chu Dịch. II.1.c. Theo truyền thuyết được ghi nhận trong các bản văn cổ chữ Hán: i. Vua Văn Vương, được coi là 3000 năm cách ngày nay , (Tức sau vua Đại Vũ 1000 năm và vua Phục Hy 3500 năm) - bị vua Trụ Vương giam ở ngục Dữu Lý 7 năm (Có sách chép 2 năm). Trong thời gian bị giam giữ, đã căn cứ vào đồ hình Lạc Thư của vua Đại Vũ, phát minh ra Hậu Thiên Bát quái và viết Soán Từ mô tả tính chất 64 quẻ Dịch Hậu Thiên bát quái. ii. Con của Chu Văn Vương là Chu Công Đán soạn ra Hào Từ. iii. Khổng tử - được coi là 2500 năm cách ngày nay , (Tức sau vua Phục Hy 3500 năm; sau vua Đại Vũ 1500 năm và cha con Chu Văn Vương 500 năm) soạn ra Thuyết quái, Thập Dực, Thoán từ thượng hạ truyện. Đến đây cuốn Chu Dịch được coi là hoàn tất theo truyền thuyết được ghi nhận trong các bản văn cổ chữ Hán. II.1.d . Một điều rất đáng lưu ý là: Theo những bản văn cổ sưu tầm được thì cả những đồ hình như "Tiên Thiên Bát quái phối Hà Đồ" (Được coi là do vua Phục Hy sáng tạo từ trên lưng Long Mã); "Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư" (Được coi là do vua Văn Vương sáng tạo từ Lạc Thư trên con rùa thần), đều chỉ được công bố vào đời Tống do các Đạo gia thực hiện. Tức là khoảng cách thời gian, từ khi ghi nhận sự sáng tạo của Phục Hy và Văn Vương, đến khi những đồ hình này được chính thức công bố vào đời Tống, lần lượt là: - Đồ hình Tiên Thiên Bát quái phối Hà Đồ (Do vua Phục Hy sáng tạo), đến thời Tống là hơn 5000 năm (?!). - Đồ hình Hậu Thiên Bát quái phối Lạc Thư (Do vua Văn Vương sáng tạo), đến thời Tống là hơn 2500 năm (?!). II. 1. e Lịch sử kinh Dịch theo bản văn chữ Hán và những vấn đề được đặt ra. Như vậy, ở các phần trên, chúng tôi đã trình bày lịch sử kinh Dịch theo truyền thuyết và các văn bản cổ chữ Hán. Trên cơ sở này chúng tôi ứng dụng tiêu chí thứ nhất để phân tích các vấn đề liên quan Những vấn đề được đặt ra cho lịch sử kinh Dịch mà nền văn minh Hán tự nhận là của họ, có những điều hoàn toàn không thể thuyết phục dưới bất cứ một góc nhìn nào, là: i. Nguyên nhân sự phát hiện ra Bát quái - căn nguyên của kinh Dịch, lại bắt nguồn từ hai linh vật thần thoại là con Long Mã trên sông Hoàng Hà và con Thần Quy trên sông Lạc Thủy. ii. Khoảng cách thời gian lịch sử quá dài cho tính ứng dụng và lưu truyền, là: Từ thời vua Phục Hy đến thời Chu Văn Vương là hơn 3000 năm, đồ hình Tiên thiên Bát quái phối Hà đồ đã dùng để làm gì trong cuộc sống và xã hội, để có điều kiện tồn tại vượt thời gian như vậy? - - Từ thời kinh Dịch được coi là hoàn chỉnh vào thời Khổng Tử, đến khi hai đồ hình “Hà đồ phối Tiên Thiên Bát quái" và "Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư", lại chỉ chính thức xuất hiện vào thời Tống. Tức là cách thời Khổng Tử đúng 1500 năm. Vậy từ thời Khổng Tử cho đến Tống, người ta dùng kinh Dịch để làm gì, ngoài việc bói toán? - Cho đến tận ngày hôm nay, khi tôi đang ở đây trình bày với quý vị bản tham luận này thì ngay các học giả Trung Hoa và các nhà nghiên cứu trên thế giới vẫn chưa thể xác định được: "Mục đích ra đời của kinh Dịch". Và một vấn đề đau đầu cho các nhà nghiên cứu cổ kim, là: Thuyết Âm Dương Ngũ hành ra đời vào lúc nào trong lịch sử văn minh Hán? Khi mà thuyết Ngũ hành được cho rằng ra đời vào đời vua Đại Vũ - 4000 năm cách ngày nay - thì từ thời Hoàng Đế - hơn 5000 năm cách ngày nay, tức trước cả vua Đại Vũ hơn 1000 năm - thuyết Âm Dương Ngũ hành đã ứng dụng trong cuốn "Hoàng Đế nội kinh tố vấn"- vốn là một cuốn sách lý luận kinh điển của Đông Y?! Hay nói rõ hơn: Sự ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành với hệ Can Chi ra đời trước khi lý thuyết này được phát hiện hàng thiên niên kỷ. Kính thưa quý vị. Như vậy, chúng ta có thể xác định ngay rằng: Lịch sử hình thành kinh Dịch theo truyền thuyết và các bản văn chữ Hán, hoàn toàn mơ hồ và không đủ tin cậy. Bây giờ, chúng ta xét đến tiêu chí thứ II: II.2 Tính hệ thống, hoàn chỉnh, nhất quán và hợp lý nội tại của một học thuyết hình thành trong một nền văn minh. Đây là tiêu chí thứ 2, mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Chúng ta tiếp tục xét nội hàm của Kinh Dịch từ các bản văn chữ Hán theo tiêu chí này. chúng tôi xin phép được trình bày như sau: Mâu thuẫn tính chất Ngũ hành của các quái trong Bát quái Tiên Thiên và Hậu Thiên trong tương quan đồ hình tích hợp với nó là Hà Đồ và Lạc Thư. II.2.a Để mở đầu cho phần này, chúng tôi xin dẫn lời của học giả Nguyễn Hiến Lê trong cuốn: "Kinh Dịch - Đạo của người quân tử", trong phần nói về Hà đồ, Lạc thư, đã viết như sau: Nhất là so sánh hai hình đó (Hà Đồ và Lạc Thư) với bát quái, thì dù giàu tưởng tượng tới mấy, cũng không thể bảo rằng bát quái phỏng theo hai đồ hình đó được. Có thể học giả Nguyễn Hiến Lê hiểu theo cách của ông. Nhưng tôi xin trình bày với quý vị góc nhìn của tôi trình bày tiếp theo, như sau: II.2.b. Mâu thuẫn trong nội hàm cấu trúc kinh Dịch theo bản văn chữ Hán. Tất cả những ai đã đọc kinh Dịch, đều thấy rất rõ rằng Bát quái có thuộc tính được mô tả trong Thuyết Quái truyện do Khổng Tử san định như sau: Càn là Trời, Khảm là Thủy, Cấn là Núi, là Thổ, Chấn là Mộc, Khôn là Thổ, Ly là Hỏa, Tốn là Mộc, là gió, Đoài là Kim, là đầm trạch....Nhưng trong kinh Dịch thì không có một chữ nào nói tới Ngũ hành. II.2.c. Cũng theo sách Hán thì chúng được tích hợp trong hai mô hình là Tiên Thiên Bát quái phối Hà Đồ và Hậu Thiên Bát quái Văn Vương phối Lạc Thư. Xin quý vị xem hình dưới đây: TIÊN THIÊN BÁT QUÁI PHỐI HÀ ĐỒ. HẬU THIÊN BÁT QUÁI PHỐI LẠC THƯ - II.2.d. Chúng ta cũng biết rằng theo độ số Ngũ hành trong bài khẩu quyết lưu truyền từ thời Tống trong cổ thư chữ Hán, ghi rõ:Thiên cửu (9) sinh Kim, Địa tứ (4) thành chi Đây là một thí dụ nổi bật cho thấy sự bất cập ngay từ cấu trúc nguyên lý căn để liên quan đến Kinh Dịch và Ngũ Hành trong các bản văn chữ Hán. Xin nói rõ hơn: Các bản văn cổ đều xác nhận hành Kim có độ số 4 - 9. hành Hỏa có độ số 2 - 7.Nhưng so sánh nguyên lý căn để sử dụng trong các phương pháp ứng dụng từ cổ thư chữ Hán, là "Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc thư", thì không có tính nhất quán, tính hệ thống của đồ hình này. Đoài Kim theo bản văn kinh Dịch thì lại ở độ số của hành Hỏa 7; ngược lại quái Ly Hỏa lại ở độ số của hành Kim 9. Thiên Thất (7) sinh Hỏa, Địa nhi (2)thành chi.Trong Hồng Phạm cửu trù theo bản văn chữ Hán cũng ghi rõ: Trong trù thứ nhất là Ngũ hành, như sau:Thiên nhất (1) sinh thủy, Thiên nhị (2) sinh Hỏa, Thiên Tam(3) sinh Mộc, Thiên tứ (4) sinh Kim. Bây giờ chúng ta xét đến tiêu chi thứ 3: II.3. Nền tảng tri thức của một nền văn minh là cơ sở cho sự hình thành một học thuyết thì nó phải có khả năng phục hồi lại học thuyết đó. Kính thưa quý vịTừ hơn 2000 năm nay, tính từ khi nền văn minh Lạc Việt - theo chính sử Việt ghi nhận - sụp đổ ở miền Nam sông Dương tử, thì nền văn minh Hán vẫn không thể phục hồi được học thuyết Âm Dương Ngũ hành và hiểu được bản chất của kinh Dịch. Có lẽ tôi không cần chứng minh. Vì đó là điều hiển nhiên. Những bí ẩn của nền văn minh Đông phương vẫn sừng sững một cách huyền vĩ thách đố tri thức của toàn nhân loại, cho đến tận ngày hôm nay, khi chúng ta đang ngồi đây để tìm về cội nguồn kinh Dịch..Sự xác định nền văn minh Hán không phải chủ nhân đích thực của nền Lý học Đông phương, mà nền tảng của nó là Lý thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch. sẽ tiếp tục với nội dung "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Chúng tôi cũng căn cứ vào những tiêu chí khoa học đã trình bày, tôi xin được phép tiếp tục chứng minh cho vấn đề này: III. Cội nguồn và nội dung thực sự của kinh Dịch. Kính thưa quý vị.Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành không thể từ trên trời rơi xuống. Đương nhiên phải có một nền văn minh sở hữu hệ thống tri thức huyền vĩ này thuộc về nền văn minh Đông phương. Và chúng tôi cần xác định ngay rằng: Dân tộc Việt chính là chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch. Căn cứ vào những tiêu chí khoa học, mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Chúng tôi lần lượt so sánh từng tiêu chí khoa học để chứng minh cho luận điểm của chúng tôi. Chúng tôi xin bắt đầu từ tiêu chí thứ nhất. III.1. Lịch sử phát triển và hình thành học thuyết mô tả một cách hợp lý thuộc về lịch sử của nền văn minh đó. Lịch sử dân tộc Việt được ghi nhận trong chính sử Việt, kéo dài từ năm 2879 TCN, đến nay trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử. Và dân tộc này đã bị một đêm dài lịch sử thời Bắc thuộc hơn 1000 năm. Đây không phải là một con số vô cảm chỉ đọc trong một giây. Không một dân tộc nào đã mất nước, nhưng vẫn có chính sử ghi nhận cả. Không có một trường hợp ngoại lệ nào trong lịch sử văn minh nhân loại. Do đó, chúng ta không thể dẫn chứng bằng những bản văn lịch sử liên quan để chứng minh cho vấn đề này. Nhưng những dấu ấn còn lại của truyền thống văn hóa Việt lại xác định lịch sử hệ thống tri thưc của nền văn minh Đông phương là thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái thuộc về Việt tộc, như: "áo cài vạt bên trái"; “Nam tả, nữ hữu"; hoặc những danh từ mô tả Bát quái là những từ phổ biến trong sinh hoạt cuộc sống của người Việt, như: "Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Khôn, Ly, Tốn, Đoài"...Chúng tôi đã chứng minh trong các sách đã xuất bản, các bài viết liên quan trên các diễn đàn mạngthì những di sản này vô cùng đồ sộ. Điều này chứng tỏ rằng: những tri thức huyền vĩ của nền văn minh Đông phương, đã rất phổ biến trong xã hội Việt từ những ngày xa xưa nên độ dày của nó vẫn tiếp tục thể hiện đến ngày hôm nay, cho dù dân tộc Việt phải vượt qua những thăng trầm khốc liệt của lịch sử. Và chính những di sản văn hóa truyền thông Việt lại chứng tỏ một khả năng phục hồi lại thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái. Để chứng minh tiếp tục điều này, chúng tôi trình bày tiêu chí thứ hai, là:III.2. Tính hệ thống, hoàn chỉnh, nhất quán và hợp lý nội tại của một học thuyết hình thành trong một nền văn minh. Kính thưa quý vị, Từ những di sản còn lại trong nền văn hiến Việt, trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử, chúng tôi đã hiệu chỉnh những di sản của thuyết Âm dương Ngũ hành, kinh Dịch và xác định những vấn đề quan trọng trong cấu trúc nội hàm của hệ thống này như sau: III.2.a. Nguyên lý căn để cho mọi ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt.Trên cơ sở những di sản còn lại trong những giá trị văn hóa truyền thống Việt, chúng tôi đã hiệu chỉnh mô hình Hậu Thiên Văn Vương thành Hậu Thiên Lạc Việt ở hai vị trí quái Tốn và Khôn; đồng thời xác định rằng: Mô hình "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" mới chính là nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành.Xin quý vị so sánh hai hình dưới đây:HẬU THIÊN VĂN VƯƠNG PHỐI LẠC THƯ theo bản văn chữ Hán. HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ.Được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt. Một lý thuyết, hoặc một giả thuyết khoa học được coi là đúng, phải giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó, có tính hệ thống, tính hoàn chính, nhất quán, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Trên cơ sở sự hiệu chỉnh và thay thế nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ", chúng tôi giải thích, hiệu chính phục hồi hầu hết những hệ thống phương pháp luận ứng dụng, hệ quả của thuyết Âm Dương Ngũ hành, trong các ngành học thuộc hệ thống nhà, như: Kiến trúc xây dựng (Địa lý phong thủy), các phương pháp dự báo về mọi hiện tượng: thiên nhiên, vũ trụ, cuộc sống và con người; một số vấn đề tồn nghi trong Đông Y... Chuẩn mực để thẩm định tính chân lý trong việc phục hồi, hiệu chỉnh này của chúng tôi, căn cứ vào tiêu chí khoa học xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái - tức kinh Dịch - là một hệ thống lý thuyết vũ trụ quan khoa học hoàn chỉnh, nhất quán có tính hệ thống, chứ không phải là những hệ thống rời rạc, mơ hồ và đầy mâu thuẫn như những bản văn còn lại bị Hán hóa sau khi nền văn hiến Việt sụp đổ từ hơn hai ngàn năm trước ở bờ Nam sông Dương tử.Trên cơ sở nguyên lý căn để "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử- với sự ứng dụng những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học - mà đối tượng là thuyết Âm Dương Ngũ hành - đã xác định tính chất hoàn toàn phù hợp với nó, cho tất cả mọi vấn đề liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch.Chính từ nguyên lý căn để "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" và những di sản còn lại của nền văn hóa truyền thống Việt, chúng tôi đã xác định rằng: III.2.b. Tính hệ thống, hoàn chỉnh, nhất quán và hợp lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành và những giá trị được phục hồi, nhân danh nền văn hiến Việt. Chứ không phải là ba bộ phận rời rạc và xuất hiện từng phần trong lịch sử phát triển của nền văn minh Hán, như các bản văn chữ Hán mô tả. Mà cho đến ngày hôm nay, các nhà nghiên cứu lịch sử văn minh Đông phương, kể cả Trung Hoa, cũng không xác định được học thuyết này ra đời vào giai đoạn nào trong lịch sử văn hóa Hán. Mặc dù, những hệ luận của học thuyết này trong tất cả các phương pháp ứng dụng của nền văn minh Đông phương, như Đông Y, Kiến trúc xây dựng (Địa Lý phong thủy), dự báo.v.v...đều xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái là một hệ thống hoàn chỉnh cho những ứng dụng của nó và ra đời trước các hệ thống ừng dụng.Trong đó kinh Dịch - mà bộ phận cấu thành cốt lõi của nó là hệ thống ký hiệu Bát quái - chỉ là mô hình của một phương trình toán học mô tả nội hàm của học thuyết này.Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái - tức kinh Dịch - là một hệ thống lý thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh, nhất quán.Trên cơ sở những di sản văn hóa truyền thống thuộc về nền văn hiến Việt, chúng tôi đã xác định rằng: Chúng tôi đã chứng minh điều này trong các sách đã xuất bản, trong các bài viết trên các phương tiện quảng bá điện tử. Ở đây, chúng tôi xin trình bày tóm tắt như sau: Các nhà khoa học hiện đại đã xác định rằng:"Một lý thuyết khoa học thì phải có một mô hình toán học mô tả được nó".Đối với các nhà nghiên cứu lịch sử văn minh Đông phương và kinh Dịch, cho đến ngày hôm nay, vẫn căn cứ vào các bản văn chữ Hán, để xác định rằng: Bát quái là những phát hiện độc lập và không liên quan gì đến thuyết Âm Dương và Ngũ hành. Và chúng ta có thể xác định ngay rằng: Chính những bản văn cổ chữ Hán, khi mô tả bát quái Hậu Thiên hay Tiên Thiên - một cách hết sức quái dị thì đều phải thừa nhận cơ sở của nó là Lạc thư, hay Hà Đồ. Khi các bản văn đó cho rằng: Vua Phục Hy tạo ra "Tiên Thiên bát quái" từ Hà Đồ. Và vua Văn Vương tạo ra "Hậu thiên bát quái từ Lạc Thư". Mà Lạc Thư hay Hà Đồ, đều là mô hình biểu kiến mô tả một nội hàm của thuyết Âm Dương Ngũ hành, đây là điều không cần phải tranh luận. Như vậy, chúng tôi đã xác đinh tính hệ thống, hoàn chỉnh, nhất quán và sự liên hệ mang tính hữu cơ của mô hình bát quái với thuyết Âm dương, Ngũ hành. Đương nhiên nó thuộc về Việt tộc. Và chỉ có những di sản văn hóa truyền thống của Việt tộc, mới có khả năng phục hồi lại học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái, tức kinh Dịch.Chúng tôi xin tiếp tục trình bày tiêu chí thứ ba. Tiêu chí này phát biểu rằng: Trong khi đó, bát quái rõ ràng là những ký hiệu phi ngôn ngữ. Vậy thì ký hiệu Bát quái trong Dịch học - khi không phải là ký hiệu mô tả ngôn ngữ - tất yếu nó chỉ có thể là những ký hiệu toán học mô tả thuyết Âm Dương Ngũ hành và là một bộ phận hữu cơ của học thuyết này. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học mà chúng tôi đã trình bày ở trên. III.3. Nền tảng tri thức của một nền văn minh là cơ sở cho sự hình thành một học thuyết thì nó phải có khả năng phục hồi lại học thuyết đó. Kính thưa quý vị. Có thể nói đây là tiêu chí quan trọng nhất và là nền tảng chứng minh cho cội nguồn Kinh Dịch, thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn minh Việt. Chính từ những di sản văn hóa truyền thống Việt với bề dày gần 5000 năm lịch sử. đã hiệu chỉnh, làm rõ những khái niệm và hệ thống hóa toàn bộ thuyết Âm Dương ngũ hành và kinh Dịch.Những di sản văn hóa truyền thống Việt đã xác định rằng: Nguyên lý căn để trong Lý học Đông phương mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là "Hà đồ phối Hậu thiên Lạc Việt" (Đổi vị trí Tốn/ Khôn so với Hậu thiên Văn Vương). Chứ không phải là "Lạc Thư phôi Hậu thiên Văn Vương", như cổ thư chữ Hán mô tả. đã dẫn đến sự phục hồi toàn bộ cấu trúc và nội hàm của học thuyết này, nhân danh nền văn hiến Việt. Kính thưa quý vị.Từ sự hiệu chỉnh với nguyên lý căn để "Hà đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" và trên cơ sở này, chúng tôi đã chứng minh nguyên lý lập thành bảng Lạc thư hoa giáp, thay thế cho sự bí ẩn của bảng Lục Thập hoa giáp lưu truyền trong cổ thư chữ Hán; hệ thống hóa toàn bộ kiến thức Địa lý Phong thủy, vốn rời rạc, tản mạn và đầy mâu thuẫn trong các bản văn chữ Hán. Chúng tôi cũng phục hồi lại hầu hết những giá trị trong các hệ thống ứng dụng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành của nền văn minh Đông phương. Tóm lại, xuất phát từ sự phục hồi nguyên lý căn để "Hà đồ phối Hậu thiên Lạc Việt" Chính sự phục hồi, hiệu chỉnh trên cơ sở văn hóa truyền thống Việt với bề dày lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương tử, đã chứng minh nền văn hiến Việt là chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương và là cội nguồn kinh Dịch.Như vậy, chúng ta có thể kết luận hai vấn đề: a. Nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử, chính là cội nguồn của Thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch. b. Bát quái trong kinh Dịch là những siêu công thức toán học mô tả nội hàm của thuyết Âm Dương Ngũ hành về những chu kỳ của sự vận động vũ trụ. Sự phục hồi lý thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt - thỏa mãn tất cả những tiêu chí khoa học làm chuẩn mực thẩm định một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất mà các nhà khoa học tinh hoa đang tìm kiếm.Kính thưa quý vị.Chình từ sự phục hồi nhân danh khoa học và thuộc về nền văn hiến Việt, đã dẫn đến một kết luận của chúng tôi là: IV. Kết luận: Thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất vũ trụ. Thuyết Âm Dương Ngũ hành được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt, cũng hoàn toàn thỏa mãn những tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất, mà các nhà trí thức tinh hoa của nhân loại đang tìm kiếm. Thuyết Âm Dương Ngũ hành lýgiải từ sự hình thành khởi nguyên của vũ trụ cho đến mọi vấn đề của quy luật vận động và tương tác liên quan đến vũ trụ, thiên nhiên, xã hội và cuộc sống với khả năng tiên tri đến từng chi tiết cho hành vi của con người. Trên cơ sở những chuẩn mực của một lý thuyết thống nhất khoa học, mà con người đang tìm kiếm, thì thuyết Âm Dương ngũ hành hoàn toàn thỏa mãn những tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất.Do đó, tôi có thể kết luận ngay rằng: Thuyết Âm dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm.S.W Hawking đã viết: Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không?Kính thưa quí vị. Cả một nền văn minh hiện đại trong thời đại chúng ta đang sống - và chúng ta cũng đang rất tự hào về sự phát triển của nền văn minh này. Nhưng những trí thức tinh hoa của cả một nền văn minh hiện đại, còn chưa xác định được có hay không một lý thuyết thống nhất. Vậy thì sự kết luận về một lý thuyết thống nhất không lẽ lại ra đời vào thời kỳ lịch sử mà các nhà khoa học lịch sử hiện đại cho rằng: chỉ xấp xỉ thời Đồ Đá. Điều này có vẻ trái ngược với tiêu chí thứ ba mà tôi đã trình bày ở trên?!Cần phải khẳng định rằng: Nền tảng tri thức của thời đại đồ đá từ 5000 năm trước, không thể tạo ra một lý thuyết thống nhất. Vậy thì một cách giải thích hợp lý nhất và phù hợp với tiêu chí khoa học, chính là một kết luận xác định rằng: Đã có một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ tồn tại trên Trái Đất này. Nền văn minh này đã bị hủy diệt vì một nguyên nhân nào đó, thí dụ là một trận Đại Hồng Thủy chẳng hạn - Và dân tộc Việt chính là một bộ phận còn sống sót và gìn giữ được học thuyết này trong xã hội cổ xưa. Những di sản khảo cổ phát hiện được, ngày càng nhiều và củng cố cho sự xác định của chúng tôi về một nền văn minh toàn cầu đã tồn tại trước nền văn minh của chúng ta.Kính thưa quý vị.Như vậy - về lịch sử - , chúng tôi đã trình bày về cội nguồn lịch sử gần gũi của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành, thuộc về nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương tử. Chúng tôi cũng xác định rằng: Cội nguồn xa xưa của kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ đã tồn tại trên trái Đất này.Về nội dung học thuật, chúng tôi cũng xác định rằng: những mô hình Bát quái trong Kinh Dịch, chính là hệ công thức toán học mô tả nội hàm của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Kính thưa quý vị, Trong xu thế thới đại của một cuộc hội nhập quy mô toàn cầu đang diễn ra, việc tìm hiểu bản chất đích thực và làm sáng tỏ giá trị của một hệ thống tri thức của nền văn minh Đông phương vốn huyền bí và kỳ ảo hàng thiên niên kỷ, sẽ là một đóng góp quan trọng trọng của nền văn hiến Việt, cho sự phát triển trong tương lai của toàn bộ nền văn minh của chúng ta. Cho nên, để kết thúc, chúng tôi hy vọng được sự quan tâm, chia sẻ và đóng góp trí tuệ của các bậc trí giả, nhằm mục đích phục hồi một cách hoàn chỉnh những gía trị đích thực của nền văn minh Đông phương, khi mà khả năng cá nhân và nhóm người quả là rất khó khăn khi thực hiện và phục hồi một lý thuyết cổ xưa vô cùng đồ sộ và huyền vĩ. T/ p HCM 20/ 10 2017
  9. HỌC GIẢ TRUNG QUỐC CŨNG CHƯA DÁM NHẬN KINH DỊCH CỦA MÌNH Nguyễn Trung Thuần dịch Lời người dịch : Sau khi đọc bài "Kinh dịch là của người Việt" đăng trên Bee.net.vn, dịch giả Nguyễn Trung Thuần, nguyên là nghiên cứu viên ở Hội đồng biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (nay là Viện Từ điển học và Bách khoa thư thuộc Viện HLKHXH) đã gửi cho tòa soạn bản dịch mới nhất của bà liên quan đến vấn đề này. Đây là một bài đã được in trên "Thế giới những điều chưa biết" (phần lịch sử, khảo cổ), Nhà xuất bản Giang Tô, Trung Quốc, năm 2008. Đọc bài này ta sẽ thấy chính các học giả Trung Quốc hiện giờ cũng chưa dám khẳng định "Kinh dịch" là của đất nước họ. Xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo. Nguyễn Trung Thuần Trong cổ thư Trung Quốc có nói “Bào Hy họa quái, Thần Nông tác giá, Hoàng Đế dư phục”. Có nghĩa là: Họ Phục Hy (tức Bào Hy) đã sáng tạo ra Bát quái, họ Thần Nông dạy mọi người trồng trọt, Hoàng Đế phát minh ra dư phục (tức thuyền xe và quần áo – ND). Còn có thuyết nói họ Phục Hy dạy cho mọi người cách nấu nướng thức ăn. Trồng trọt, thuyền xe, quần áo..., tất cả những cái đó đều liên quan đến cuộc sống thường ngày của con người, cho nên xưa nay người ta luôn tỏ ra hết sức sùng kính những người như họ Phục Hy... trong truyền thuyết. Vậy thì, Bát quái là cái gì, nó có công dụng gì, vì sao cổ nhân lại xếp nó vào hàng đầu của các loại phát minh sáng tạo? Bát quái Bát quái vốn có 8 loại đồ hình, được cấu thành từ 2 phù hiệu cơ bản âm dương gọi là hào dương và hào âm. Hai phù hiệu này dùng các hình thức khác nhau chồng liền 3 tầng, để cấu thành 8 loại đồ hình ☰ (Càn), ☷ (Khôn), ☳ (Chấn), ☴ (Tốn), ☵ (Khảm), ☲ (Li), ☶ (Cấn), ☱ (Đoài), gọi là Bát quái. Chúng đại diện cho 8 loại hiện tượng của tự nhiên là trời, đất, sấm, gió, nước, lửa, núi, đầm. Bát quái lại chồng tiếp lên thành từng cặp một, có thể tạo thành 64 quẻ. Quái tượng của 64 quẻ có các thuyết từ khác nhau, gọi là lời quẻ. Lời quẻ cộng thêm những lời văn có liên quan khác chính là nội dung cơ bản nhất của “Chu dịch” (hoặc gọi là “Kinh dịch”) trong “Tứ thư ngũ kinh”. Bát quái được cấu thành từ các hào dương và hào âm cơ bản nhất, có thể đại diện cho trời và đất. Nếu suy diễn thêm nữa, thì lại có thể đại diện cho trong ngoài, nam nữ, cha mẹ, vua và hoàng hậu, cương nhu, lưng bụng, phủ tạng, cơ quan sinh dục của nam và nữ, cùng rất nhiều sự vật đối ứng với nhau khác không chỉ có liên quan đến các hiện tượng tự nhiên, mà còn liên quan đến cả các hiện tượng xã hội nữa. Kiến thức trong đó xem qua có vẻ đơn giản, nhưng kì thực lại hết sức sâu sắc. Trước một bộ “Kinh dịch” lấy lời quẻ làm nội dung cơ bản, có những người giải thích từ phương diện này, có những người phân tích thêm từ phương diện kia, có những người lại phát triển thêm từ một phương diện khác, để viết nên nhiều tác phẩm các dạng, viết thành mười mấy vạn lời, mấy chục vạn lời, thậm chí tới hàng triệu lời muôn màu nghìn sắc, thậm chí còn quái dị, khiến cho độc giả không hiểu nổi, có những chỗ còn đọc không ra, chẳng khác nào một cuốn sách trời. Qua đây, người ta liền nảy sinh nghi vấn rằng chẳng lẽ một thứ phức tạp như vậy mà lại do một nhân vật trong truyền thuyết là Phục Hy sáng tạo ra? Có người cho rằng, hình thức ban đầu là 8 loại đồ hình của Bát quái, rất có thể là các đồ hình văn tự thời thượng cổ, nó được diễn biến từ cách ghi chép kết thừng của người xưa. Vì thế Bát quái còn được gọi là Bát sách, “sách” nghĩa là “thừng sách” (dây thừng), tạo thành văn tự thì có thể ghi lại những sự vật đã gặp phải. Như ☰ (Càn) biểu thị trời, trời là che phủ khắp bên trên liền một dải, cho nên là 3 hào dương hoàn chỉnh; ☷ (Khôn) biểu thị đất, đất bị các con sông chia cắt thành từng mảnh, cho nên là 3 hào âm đứt đoạn; ☵ (Khảm) biểu thị nước, tượng trưng cho sông chảy dưới lòng đất từ những khoảng đứt đoạn, chữ “thủy (水)” trong văn tự tượng hình cổ đại đã được diễn tiến từ đó. Văn tự đồ họa là hình thức ở thời kì xa xưa nhất của văn tự Trung Quốc, vì thế mà sáng tạo ra Bát quái chính là đã sáng tạo ra văn tự sớm nhất của Trung Quốc, mới đầu nó chỉ có 8 loại đồ hình, nhưng lại rất quan trọng, cho nên đã được xếp vào hàng đầu của các loại sáng chế phát minh thời thượng cổ. Trong lòng bàn tay có bát quái thập nhị cung, còn gọi là chưởng bát quái Còn “Kinh dịch” thì rất có thể là tác phẩm của thời nhà Chu, rất khó hiểu, cho nên Khổng Tử thời Xuân Thu đọc “Dịch”, vi biên tam tuyệt, tức ban đầu đến cả Khổng Tử đọc cũng không hiểu, đọc đi đọc lại, khiến cho dây da trâu buộc thẻ tre bị đứt tới 3 lần. Cuối cùng khi đã đọc hiểu rồi, Khổng Tử đã chỉnh sửa thêm, và như thế, “Kinh dịch” liền trở thành kinh điển của Nho gia. Vì thế mà nói Khổng Tử đã có công sáng tạo lại “Kinh dịch”. Có những người không đồng ý với giải thuyết trên, họ cho rằng Bát quái có khả năng là do người triều Thương dùng giáp cốt để chiêm bốc, đã suy diễn từ các đường vân nứt do bị cháy trên mai rùa mà thành, đó là sáng tạo vào đời nhà Thương, chứ không phải là do Phục Hy sáng tạo ra vào thời thượng cổ theo truyền thuyết. Cũng có những người cho rằng, Bát quái và “Kinh dịch” đại diện cho quá trình diễn tiến nhận thức của người Trung Quốc cổ đại đối với các hiện tượng tự nhiên, hiện tượng xã hội. Đầu tiên có các hào dương và hào âm với phù hiệu đơn giản nhất, có thể nhờ vào đó để thuyết minh cho cái căn bản của mọi vấn đề trong trời đất. Sau đó phát triển thành 8 quẻ (Bát quái) có thể đại diện được cho 8 loại hiện tượng của thế giới tự nhiên. Rồi lại phát triển tiếp tám tám sáu mươi tư quẻ, có thể thuyết minh cho nhiều hiện tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội hơn. Cuối cùng mới có “Kinh dịch” với các lời quẻ là chính, cấu thành một tác phẩm triết học có thể đại diện cho vũ trụ quan, nhân sinh quan... của người Trung Quốc cổ đại. Mỗi một giai đoạn phát triển đều không thể chỉ là sự sáng tạo phát minh của một người nào đó, mà là một quá trình diễn tiến có sự kế thừa và phát triển trước sau, liên tục không ngừng. Nói họ Phục Hy sáng tạo ra Bát quái kì thực là đã quá đơn giản hóa vấn đề này rồi. Giải thuyết cuối cùng trong số 3 giải thuyết trên tuy khá hợp lí, nhưng nó đã phủ định giải thuyết “Bào Hy họa quái” đã được lưu truyền từ mấy ngàn năm nay ở Trung Quốc, nên lại rất khó lòng được mọi người tiếp nhận. Rút cục Bát quái là do ai sáng tạo? Khi còn chưa tìm ra được lời giải đáp tốt hơn, thì vẫn đành phải dựa theo lời trong sách xưa mà qui công về cho họ Phục Hy theo truyền thuyết thôi.
  10. LỜI MỜI THAM DỰ HỘI THẢO KHOA HỌC CỘI NGUỒN KINH DỊCH Kinh Dịch là một danh tác kỳ thư của văn minh phương Đông. Sự bí ẩn kỳ vĩ của kinh Dịch đã thách thức trí tuệ trong toàn bộ lịch sử nhân loại cho đến tận ngày hôm nay. Chính quyền nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, nơi tự nhận là nền văn minh chủ nhân cội nguồn kinh Dịch, đã 4 lần tài trợ phối hợp với cơ quan Văn Hóa Liên Hiệp Quốc UNESCO, tổ chức Hội thảo về kinh Dịch tại Bắc Kinh. Nhưng bức màn bí ẩn của kinh Dịch vẫn chưa được khám phá. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Cái sai đầu tiên là: Từ hơn 2000 năm nay, cả thế giới cho rằng, đó là sản phẩm của người Trung Quốc. Tuy nhiên, theo bài viết trên "Thế giới những điều chưa biết" (phần lịch sử, khảo cổ), Nhà xuất bản Giang Tô, Trung Quốc, năm 2008 thì chính các học giả Trung Quốc hiện giờ cũng chưa dám khẳng định "Kinh Dịch" là của đất nước họ. Tác giả bài viết dẫn ra truyền thuyết “Bào Hy họa quái” có từ xa xưa nói rằng Phục Hy làm ra kinh Dịch. Do không thỏa mãn với những chi tiết hoang đường của truyền thuyết, tác giả đi tìm cách giải thích khác. Tuy nhiên, sau một vòng dẫn ra những ý kiến cho rằng Dịch được làm từ thời nhà Hạ, rồi nhà Chu, nhưng thấy không thuyết phục, tác giả bài viết lại trở về đề xuất ban đầu là Bào Hy làm Dịch! Nhưng khoảng nửa thế kỷ trước, một số học giả Việt Nam, như: giáo sư Kim Định trong “Việt lý tố nguyên”, giáo sư Lê Văn Sửu với “Nguyên lý thời sinh học cổ Ðông phương” và “Học thuyết Âm Dương Ngũ hành”, giáo sư Bùi Văn Nguyên với “Kinh Dịch Phục Hy” rồi giáo sư Nguyễn Tiến Lãng với cuốn “Kinh Dịch - sản phẩm sáng tạo của người Việt”... đề xuất ý kiến đòi bản quyền sáng tạo Kinh Dịch cho người Việt. Những năm gần đây xu hướng này thu hút thêm nhiều nhà nghiên cứu, như: Nguyễn Vũ Tuấn Anh với “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” [5] , Nguyễn Thiếu Dũng với những bài báo “Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?” và “Chiếc gậy thần - dạng thức nguyên thuỷ của hào âm hào dương”, [6] và Tiến Sĩ Trần Quang Bình với cuốn sách dầy dặn về Kinh Dịch, sản phẩm sáng tạo bí ấn huyền vĩ của kinh Dịch đã thách thức trí tuệ con người. Đã đưa một tiếng nói chứng minh kinh Dịch là của người Việt. “Thiên nhất sanh Thủy, địa lục thành chi: Địa nhị sanh Hỏa, thiên thất thành chi; Thiên tam sanh Mộc, địa bát thành chi; Địa tứ sanh kim, thiên cửu thành chi; Thiên ngũ sanh Thổ, địa thập thành chi.” và Trong cuốn sách chứng minh kinh Dịch là của người Việt, Tiến sỹ Hà Hưng Quốc, đi từ tổng cộng có tất cả 67 lời trong hai vế “Vô Cực nhi Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái sinh Càn Khôn vạn vật” Các nhà nghiên cứu tiền bối bằng sự cảm nhận sâu sắc văn hoá phương Đông, đã thấy những chỗ bất cập của bản Kinh Dịch trong bản văn chữ Hán, nhận ra linh hồn văn hoá Việt trong tên gọi các quẻ, trong cách giải nghĩa Dịch, mà cho rằng Dịch có cội nguồn tư nền văn hiến Việt. Giáo sư Kim Định nhờ phát hiện triết lý an vi trong Dịch, đồng thời căn cứ ở tư liệu lịch sử cho rằng trước khi người Hán vào Trung Nguyên thì người Bách Việt đã tràn khắp 18 tỉnh của Trung Hoa; Phục Hy, Thần Nông là vị vua người Việt vì vậy, cố nhiên, Dịch phải là sản phẩm của người Việt. Nhìn chung, các vị đưa ra nhiều lý lẽ nghe có vẻ xuôi tai, nhưng về chứng cứ chưa đủ mạnh nên chưa thuyết phục được ngay cả giới học giả trong nước. Những tác giả như Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình, Hà Hưng Quốc, mỗi người theo khả năng của mình đưa ra nhiều bằng chứng để chứng minh cho ý tưởng Kinh Dịch là của người Việt. Nguyễn Thiếu Dũng phát hiện ra “Chiếc gậy thần – dạng nguyên thuỷ của hào âm hào dương” trên trống đồng Lạc Việt, quẻ Lôi Thuỷ Giải trên chiếc nồi đất thời Phùng Nguyên cách nay 3500 năm và dựa vào truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ tìm ra Trung thiên đồ nên cho rằng Kinh Dịch là di sản sáng tạo của Việt Nam. Trung thiên đồ theo Nguyễn Thiếu Dũng có dạng: Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ. Trần Quang Bình dựa vào công cụ điện toán, phát hiện ra trong 40.320 đồ hình Bát quái lý thuyết, Bát quái Văn Vương chỉ là 1 trong 24 đồ hình đạt tới 6 chíều đối xứng. Chỉ duy nhất một đồ hình đáp ứng cả 8 chiều đối xứng, được gọi là Bát quái chuẩn. Ông cũng giải mã hoa văn khắc trên trống đồng và phát hiện Bát quái chuẩn trên trống Lạc Việt. Cũng nhờ giải mã hoa văn trống đồng, tác giả cho rằng Nòng và Nọc là hai ký hiệu nguyên thuỷ của hào Âm hào Dương của Dịch Lạc Việt. Ông cũng cho rằng mình tìm ra Bát quái Âu Lạc trong tranh Đàn Lợn của làng Đông Hồ. Từ đó ông kết luận, là người thủ giữ Bát quái chuẩn, lại có hiện vật là quẻ Lôi Thuỷ Giải trên gốm 3500 năm tuổi nên người Âu Lạc là chủ nhân của Kinh Dịch, còn người Trung Hoa, nhận được vật cống Hà Đồ của người Việt, nhưng chưa được người Việt dạy cho Bát quái chuẩn, vì vậy đã dùng Bát quái sai lạc của Văn Vương. Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhận ra sự không hoàn chỉnh của “Hậu thiên Bát quái Văn Vương phối Lạc Thư” đã hiệu chỉnh và lập ra “Hậu thiên Bát quái Lạc Việt phối Hà Đồ”; và xác định rằng: “Hậu thiên Bát quái Lạc Việt phối Hà Đồ” mới là đồ hình mô tả nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Từ nguyên lý căn để này, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn anh đã ứng dụng để hiệu chính hầu hết các ngành lý thuyết ứng dụng liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ hành; trong đó gồm: Xác định bảng Lạc Thư hoa giáp; Tử Vi Lạc việt, Địa lý lạc Việt…vv…..Từ đó, xác định rằng: Người Lạc Việt mới đích thực là chủ nhân của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tháng Năm 1987, các học giả Trung Quốc khám phá trong ngôi mộ cổ 6500 tuổi ở Dốc Tây Thủy, thành phố Bộc Dương tỉnh Hà Nam một ngôi mộ chôn với hình Thanh Long, Bạch Hổ, Nhị thập bát tú, 24 tiết khí trong năm… chứng tỏ lúc này trình độ về thiên văn học, phong thủy của người Việt đã trưởng thành. Điều này cũng cho thấy, lúc này những tư tưởng về Dịch học đạ hoàn chỉnh. Ta biết rằng, chủ nhân ngôi mộ Bộc Dương là người Lạc Việt. Mặt khác, lịch sử cho thấy, dân tộc Hán ra đời cùng với nhà nước Hoàng Đế - khoảng hơn 5000 năm cách ngày nay. Như vậy, Dịch lý ra đời trước khi người Hoa Hạ xuất hiện gần 2000 năm, nên không thể là sản phẩm của người Hoa Hạ… Từ đó có thể nhận định rằng, sự nỗ lực của các nhà nghiên cứu Dịch lý, cũng như văn hóa lịch sử người Việt đã đưa lại những bằng chứng ngày càng vững chắc, không chỉ khẳng định bản quyền sáng tạo Dịch lý là của người Việt, mà còn phân định ngày càng rõ ràng, cụ thể những cái sai lầm bất cập của Chu dịch và xác định cội nguồn đich thực của nền văn minh sáng tạo nên kinh Dịch. Tuy nhiên, tất cả những thành tựu trên là nỗ lực cá nhân của những người đi tìm chân lý về nguồn cội của một nền văn minh còn bí ẩn. Nhưng do chưa được tổ chức chặt chẽ, nên những công trình nghiên cứu đã xuất hiện một cách phân tán, tản mạn. Điều này dẫn tới mối nguy là sáng kiến của từng cá nhân thiếu sự cọ sát, trao đổi nên hạn chế sự phát triển để đạt tới chân lý. Mối nguy khác, nghiêm trọng hơn, là các nhà nghiên cứu ngày một cao tuổi, sức yếu và năng lực ngày thêm suy giảm thậm chí qua đời mang theo những ý tưởng quý giá! Do nhận thức như vậy, chúng tôi, Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh triết với Trung tâm nghiên cứu Lý học phương Đông, kết hợp tổ chức Hội thảo khoa học TÌM NGUỒN GỐC KINH DỊCH với những nội dung sau: 1. Xác định một cách khoa học, thuyết phục nguồn gốc của kinh Dịch. 2. Phân tích những sai lầm, bất cập của Chu Dịch. 3. Xác định tính chân lý trong nội hàm của Việt Dịch. 4. Trên cơ sở đó đưa ra phương án phục dựng cuốn Dịch của tổ tiên Việt. Chúng tôi kính mời các nhà nghiên cứu và thực hành Dịch tham dự Hội thảo bằng cách viết tham luận về những vấn đề nên trên. Bài viết xin được gửi về: - Ông Nguyễn Khắc Mai Giám Đốc Trung Tâm nghiên cứu Minh Triết Việt. Đc: Nhà số…………..Đường……Phường….Quận……T/p Hà nội. SDT: Email: Trân trong cảm ơn sự quan tâm của các học giả và nhà nghiên cứu về đề tài Cội Nguồn Kinh Dịch trong cuộc hội thảo này. Thay mặt Ban Tổ Chức Hà Văn Thùy. THAM LUẬN TỌA ĐÀM KHOA HỌC Nguyễn Vũ Tuấn Anh VỀ ĐỀ TÀI NHẬN THỨC LẠI LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT Của tác giả Hà Văn Thùy Kính thưa Ban tổ chức. Kính thưa các quý vị đại biểu và các vị học giả có mặt ngày hôm nay. Tôi rất hân hạnh được nhận lời mời của Ban tổ chức và của tác giả của cuốn “Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt” đến dự buổi tọa đàm này. Một vinh dự hơn nữa là tôi được phép tham gia bài nhận xét về nội dung cuốn sách của tác giả, là chủ đề chính trong cuộc tọa đàm hôm nay. Kính thưa quý vị Dân tộc Việt từ trong truyền thống xa thẳm của lịch sử, đã có một niềm tự hào về cội nguồn của mình. Đó là sự tự hào về nguồn gốc "Con Rồng, Cháu Tiên" với quốc gia đầu tiên của Việt tộc là nhà nước Văn Lang, được thành lập từ gần 5000 năm trước bên bờ Nam sông Dương tử: Nước Văn Lang, Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Đông giáp Đông hải, Tây giáp Ba Thục. Nhà nước Văn Lang được trị vì bởi XVIII thời Hùng Vương , kéo dài 2622 năm. Cho đến khi sụp dổ ở bờ Nam sông Dương Tử vào năm 258 TCN. Niềm tự hào ấy, đã ăn sâu vào tinh thần yêu nước của Việt tộc qua bao thăng trầm của lịch sử vẫn được gìn giữ đến tận ngày hôm nay, trong tâm thức mỗi con người Việt Nam. Nhưng cho đến những thập niên gần đây, nhiều học giả trong và cả ngoài nước đã đặt vấn đề xét lại cội nguồn lịch sử truyền thống của Việt tộc, nhân danh khoa học. Họ cho rằng: "Việt sử chỉ bắt đầu khoảng 700 năm trước CN và thời Hùng Vương "thực chất chỉ là 'một liên minh 15 bộ lạc, cùng lắm là một nhà nước sơ khai", với "địa bàn hoạt động vỏn vẹn ở đồng bằng sông Hồng". Những người này cho rằng: "Quan điểm của họ được "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học quốc tế" công nhận. Nhưng chân lý không phụ thuộc vào số đông để lấy phiếu bầu cho sự đúng sai. Mà nó phụ thuộc vào bản chất của chân lý được mô tả như thế nào. Và số đông chỉ có thể gây áp lực lên chân lý để quyết định sự sáng tỏ vào thời điểm nào mà thôi. Bởi vậy, đã có không ít học giả trong nước và trên thế giới phản ứng với quan điểm phủ nhận truyền thống Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Những luận điểm của các học giả này tuy chưa đủ sức làm sáng tỏ chân lý, nhưng vẫn đầy đủ những luận cứ, luận điểm không dễ gì bác bỏ. Đồng thời tự thân những luận cứ, luận điểm chặt chẽ đó đã đặt ra những mâu thuẫn không thể giải quyết cho quan điểm phủ nhận cội nguồn truyền thống Việt sử. Một trong những học giả khả kính đó, là nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy - tác giả của cuốn "“Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt”, là đề tài của buối tọa đàm khoa học ngày hôm nay. Kính thưa quý vị Trên thực tế, tôi và tác giả là người quen biết nhau đã lâu. Tôi rất có cảm tình với tác giả Hà Văn Thùy. Vì tác giả đồng cảm và chia sẽ với tôi về mục đích học thuật chứng minh cho lịch sử 5000 năm văn hiến một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương Tử. Mặc dù giữa tôi và tác giả đi theo những phương pháp khác nhau để minh chứng cho chân lý. Từ nhiều năm nay, tác giả Hà Văn Thùy có rất nhiều bài viết với những dữ liệu lịch sử thuyết phục, đăng trong các báo trong và ngoài nước với những luận cứ sắc xảo góp phần làm sáng tỏ truyền thống văn hiến sử Việt. Cho đến nay, một trong những thành tựu có tính quyết định chính là cuốn sách mà chúng ta sẽ phân tích dưới đây là cuốn sách “Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt”, do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn phát hành tháng 06/2016. Kính thưa quý vị Để có được bản tham luận này đáp lại thịnh tính của ban tổ chức và tác giả, tôi đã giành thời gian để đọc cuốn sách này của tác giả Hà Văn Thùy rất kỹ. Và tôi tin rằng các quý vị học giả có mặt nơi đây, cũng đã nghiên cứu kỹ tác phẩm này. Tôi tin rằng sự chia sẻ những nhận xét của tôi dưới đây về nội dung cuốn sách, sẽ được sự quan tâm của quý vị. Kính thưa quý vị. Trong nội dung cuốn sách, để chứng minh cội nguồn Việt tộc có nguồn gốc từ lâu đời và hoàn toàn không phụ thuộc về nguồn gốc văn hóa và nhân chủng, từ các dân tộc gần gũi liên quan - tác giả Hà Văn Thùy xác định rằng nguồn gốc của các dân tộc, trong đó có cả dân tộc Hán, Nhật Bản, Cao Ly và xa hơn nữa là Mông Cổ, đều có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Hệ thống phương pháp luận của tác giả - nhằm chứng minh điều này - căn cứ vào học thuyết “nguồn gốc loài người từ Châu Phi”. Không chỉ mình tác giả Hà Văn Thùy, mà khi nghiên cứu về nguồn gốc Việt tộc còn nhiều tác giả khác cũng đồng quan điểm, nhưng xuất phát từ một góc nhìn và phương pháp chứng minh khác, như: học giả Trần Đại Sĩ Việt kiều Pháp. Ông Trần Đại Sĩ - bằng phương pháp di truyền - thì nhận thấy rằng: những cư dân đang sống ở vùng Nam Dương Tử thuộc lãnh thổ Trung Quốc ngày nay, có bộ gen hoàn toàn giống với bộ gen của người Việt đang cư trú trên đất Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở này nhận thức khác quan này, ông cũng có kết luận tương tự như học giả Hà Văn Thùy, cho rằng: Người Việt ở Bắc Việt Nam hiện nay, đã di cư lên Nam Dương Tử . Nhưng ông Trần Đại Sỹ không căn cứ vào thuyết "Nguồn gốc loài người từ châu Phi". Theo sự tìm hiểu của cá nhân tôi thì những học giả nhân chủng học của Nhật Bản cũng xác định rằng: bộ gen của người Việt gần gũi với dân tộc Nhật đến 95%. Tỷ lệ giống của bộ gen người Nhật với người Việt hiện nay, hơn nhiều các chủng tộc khác ở cả Đông Nam Á và ở cả Đông Bắc Á. Thông tin này, tôi được biết lần đầu tiên, do Gs Ts Trần Quang Vũ - chủ nhiệm khoa Vật Lý Thiên Văn đại học quốc gia Áo - thông báo từ trong một hội nghị khoa học quốc tế mà ông tham dự, từ năm 2006. Sau đó thông tin này mới được các nhà khoa học Nhật, phổ biến trong các tạp chí nghiên cứu khoa học quốc tế. Nhưng - thưa quý vị - từ những thực tại khách quan không thể phủ nhận, trong mọi lĩnh vực nghiên cứu, không riêng gì lịch sử - những nhà nghiên cứu vẫn có thể đưa ra những sự giải thích hiện tượng bằng nhiều hệ thống giả thuyết, hoặc lý thuyết khoa học, hoàn toàn đối lập nhau. Và đó cũng chính là nguyên nhân để tạo nên những tranh luận khoa học, phản biện vì tính mâu thuẫn giữa các giả thuyết nhân danh khoa học, cho việc giải thích cho cùng một hiện tượng. Đây là một thực tế hiển nhiên và không cần phải chứng minh. Nếu có vị nào khó tính và yêu cầu chứng minh, thì tôi có thể nói ngay một ví dụ về sự mâu thuẫn trong các tranh luận về bản chất cội nguồn Việt sử. Để chứng minh rõ hơn về vấn đề mà tôi đã đặt ra với quý vị học giả có mặt ở đây, tôi xin dẫn chứng về giả thuyết khoa học của Gs Bs Trần Đại Sĩ, khi ông phát hiện ra rằng: bộ gen của cư dân sống ở Nam Dương Tử, trên đất TQ hiện nay có nhiều cấu trúc gen giống gen của người Việt ở Bắc Việt Nam hơn, so với những người sống ở Bắc TQ hiện nay. Đây là một trong hệ thống luận cứ căn bản và là hiện tượng khách quan được phát hiện và tôi cũng thừa nhận điều này. Tuy nhiên, để từ đó kết luận rằng: dân tộc Việt có nguồn gốc sống từ Bắc Việt Nam hiện nay, di cư lên Nam Dương tử và trở thành những người Hán đang sinh sống ở đây, vẫn có thể giải thích bằng nguyên nhân khác. Tôi đã có sự xác định, ngược lại với Gs Bs Trần Đại Sĩ, rằng: Người Việt có nguồn gốc từ Nam Dương Tử và trong diễn biến lịch sử hơn 2000 năm trước, khi nền văn minh Văn Lang đã sụp đổ trước sự bành trướng của dân tộc Hán. Và một bộ phận dân tộc Việt, cùng với một số dân tộc chung sống trên đất nước Văn Lang xưa ở Nam Dương Tử, đã di cư xuống Bắc Việt Nam hiện nay. Luận điểm này của tôi đã được chứng minh trong các sách đã xuất bản và các tiểu luận liên quan trên trang web của TTNC LHDP. Nhưng điều đó không phải đề tài tranh luận trong lúc này. Tất nhiên, sự xác định về nguồn gốc người Việt của tôi rõ ràng mâu thuẫn với Gs Bs Trần Đại Sỹ. Mặc dù cùng xuất phát từ một hiện tượng khách quan, được thẩm định bằng những phương tiện khoa học, kỹ thuật. Và đây là một ví dụ cho luận điểm của tôi đã trình bày ở trên với quý vị là: Những giả thuyết khoa học, tuy cùng xuất phát từ những thực tại khách quan được thừa nhận, vẫn có thể đưa đến những hệ thống giả thuyết khoa học khác nhau, để giải thích hiện thực khách quan đó. Ở đây, nó đã chứng tỏ rằng: Sự phát hiện tính giống nhau về gen của người Việt ở Việt Nam và cư dân nam Dương tử ở Trung Quốc hiện nay của Gs Bs Trần Đại Sĩ, vẫn có thể giải thích bằng một lý thuyết khác. Tương tự như vậy với hệ thống phương pháp luận của chính tác giả Hà Văn Thùy, về việc người Việt từ Đông Nam Á đã di cư lên Nam Dương Tử và toàn bộ miền Bắc TQ hiện nay, để trở thành cội nguồn của các dân tộc ở đây. Hệ thống phương pháp luận của tác giả Hà Văn Thùy và sự xác định của tác giả, là từ hệ thống giả thuyết khoa học “Loài người bắt nguồn từ Châu Phi”. Bây giờ chúng ta xem xét về nội dung của học thuyết này. Kính thưa quý vị. Thực chất học thuyết “Loài người bắt nguồn từ Châu Phi” đã xuất hiện từ giữa thế kỷ 19, do Charles Darwin đã đặt ra vấn đề “Nguồn gốc loài người từ Châu Phi”. Nhưng vào thời Darwin, nó chưa được các tri thức khoa học liên quan phát triển, như học thuyết Di truyền ủng hộ. Và đương thời, nó cũng bị các nhà khoa học đặt vấn đề hoài nghi. Học thuyết “Loài người bắt nguồn từ Châu Phi” hiện nay, là sự tiếp tục giả thuyết khoa học này của Darwin và cũng đã qua nhiều thằng trầm xuyên thế kỷ. Mới đầu, học thuyết này dựa trên các cơ sở di truyền với những bằng chứng về hóa thạch, đã cho rằng: "Khoảng 120.000 đến 160.000 năm trước CN, những người cổ đại đã rời Châu Phi và đi đến Đông Nam Á". Tuy nhiên, học thuyết này đã bị bác bỏ bởi vì các phát hiện khảo cổ trước đây, với các công cụ đá ở bán đảo Ả Rập, cho thấy: 120.000 năm trước đã có loài người sinh sống ở đây và cách 80.000 trước công nguyên thì người ta cũng đã tìm ra được rằng của người cổ ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, đến gần đây học thuyết này lại được giới khoa học quan tâm, bởi sự tiến bộ của ngành Di truyền học kết hợp với khảo cổ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một giả thuyết khác cho rằng: chỉ có con người hiện đại có nguồn gốc từ Châu Phi. Và - những chủng tộc xuất phát từ Châu Phi này -không phải là chủng người duy nhất tạo nên người hiện đại. Giả thuyết này xác định rằng: Ở các nơi trên trái Đất, đã có những chủng người khác sinh sống. Và chủng người hiện đại từ Châu Phi đã hòa huyết với người bản địa ở các vùng khác nhau trên thế giới; từ đó tạo ra các chủng người hiện đại. Những xét nghiệm di truyền trong thời gian qua đã kết luận rằng: có một số chủng người cổ đã bị tuyệt chủng và họ đã có thể lai giống người hiện đại có nguồn gốc từ Châu Phi. Các nhà khoa học cũng cho thấy: các chủng người này đã để lại dấu ấn di truyền ở các vùng khác nhau trên thế giới. Ví dụ: di truyền của người Neanderthal có tất cả trong mọi loại người ngoài vùng xa Châu Phi hoặc người cổ Hominin có trong gen của thổ dân cổ. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác thì cho rằng các gen của các chủng người cổ xưa khác nhau, đều có thể do đặc điểm chung tổ tiên từ 500.000 đến 800.000 năm trước. * nguồn Wikimedia (nguồn gốc Châu Phi của người hiện đại). Kính thưa quý vị. Qua sự giới thiệu tóm tắt trên thì quý vị cũng nhận thấy rằng: giả thuyết "Nguồn gốc loài người từ Châu Phi", mới chỉ dừng lại ở một giả thuyết khoa học đáng tin cậy và đươc nhiều nhà khoa học ủng hộ hiện nay. Tuy nhiên, nó chưa phải là được sự ủng hộ hoàn toàn của các nhà khoa học. Giả thuyết này, vẫn còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết từ những luận đề căn bản của nó. Theo tôi, đó là những luận đề:: Đó chính là sự hình thành các chủng tộc trên thế giới, như: các chủng tộc da trắng, da đỏ, da đen, da vàng,da nâu...vv....sẽ được giả thuyết này giải thích như thế nào? Chưa hết, giả thuyết "Loài người có nguồn gốc từ Châu Phi" còn có trách nhiệm phải giải thích sự hình thành các dân tộc trong cùng một chủng tộc, mà cụ thể là dân tộc Việt - là vấn đề liên quan đến nội dung cuốn sách của học giả Hà Văn Thùy. Để từ đó, đặt cơ sở cho những luận điểm thẩm định luận cứ của tác giả Hà Văn Thủy trong cuốn sách này – khi tác giả cho rằng dân tộc Việt là nguồn gốc cả tất cả các dân tộc Đông Nam châu Á và Đông Bắc Á. Kính thưa quý vị. Giả thuyết "Nguồn gốc loài người từ Châu Phi" cũng chỉ có thể được coi là một cách giải thích những thực tại khách quan mà con người hiện đại đã nhận thức được. Và mục đích của nó là mô tả sự tiến hóa và phát triển của loài người trên thế giới, với tư cách là một trong những giả thuyết khoa học. Nhưng nó chưa phải là một hệ thống lý thuyết đã hoàn chỉnh và còn nhiều vấn đề phải bổ sung, như: sự hình thành các chủng tộc. Và chi tiết hơn, là các dân tộc bên trong các chủng tộc đó, mà tôi đã trình bày ở trên. Giả thuyết "Loài người xuất phát từ châu Phi", đơn giản chỉ mới mô tả theo quan điểm của nó, về sự phát triển của nhân loại nói chung trong quá trình tiến hóa. Hay nói rõ hơn là: Thuyết "Nguồn gốc loài người từ Châu Phi" chưa phải là một học thuyết hoàn chỉnh, nhất quán, có tính hệ thống để được xác định trở thành một hệ thống lý thuyết cơ bản, mà từ đó, được coi là một tiền đề của một hệ thống tri thức làm cơ sở để giải thích mọi vấn đề liên quan đến các vấn đề nhân chủng học, dân tộc học và xã hội học...vv... Từ sự nhận xét về bản chất của thuyết "Loài người có nguồn gốc từ châu Phi", dẫn đến vấn đề được đặt ra với hệ thống luận cứ của tác giả Hà Văn Thùy, là: tác giả đã căn cứ vào tiêu chí nào, để xác định dân tộc Việt đã hình thành và được xác định với tư cách là một dân tộc, khi loài người từ châu Phi xuất hiện ở Đông Nam Á? Tất nhiên, vấn đề tiếp theo sau đó là các dân tộc khác ở Đông Nam Á, Đông Bắc Á đã hình thành thế nào với cội nguồn là dân tộc Việt di cư từ Đông Nam Á lên - theo luận điểm của tác giả? Cá nhân tôi có thể đồng ý với tác giả về một chủng tộc người cổ xuất phát từ Châu Phi di cư đến Đông Nam Á, bao gồm cả nước Việt Nam hiện nay; sau đó di chuyển lên Đông Bắc Á theo thuyết “Loài người bắt nguồn từ Châu Phi”. Nhưng điều đó chưa thuyết phục được tôi, công nhận rằng: Khi đến Đông Nam Á thì chủng người từ Châu Phi, lập tức trở thành dân tộc Việt?! Vấn đề này liên quan đến tiêu chí để xác định sự hình thành một dân tộc. Cụ thể là dân tộc Việt. Không thể vì người từ châu Phi di cư đến đâu từ hàng chục ngàn năm trước và xét theo thực tế vùng đất các dân tộc đang cư trú hiện đại, để xác định trở thành dân tộc hiện đại đang cư trú tại đó. Thí dụ cụ thể mà tác giả cho rằng: Người cổ từ Phi châu, đến Đông Nam Á liền trở thành dân tộc Việt?! Hơn nữa, cứ theo logic của tác giả thì chủng người di cư đến vùng Đông Nam Á thành người Việt cổ - hoặc dân tộc Việt cổ - thì không lẽ cứ di cư đến Trung Đông thì thành người Ả Rập, đến Ấn Độ thành người Ấn Độ, đến Đông Nam Á thì hình thành người Việt..? Vậy thì rút cục người Việt có nguồn gốc từ châu Phi, hay từ những dân tộc được hình thành trên các chặng đường mà người cổ châu Phi đặt chân đến?! Tóm lại, tôi cần phải nói rõ rằng: Không gian sinh sống của các dân tộc trong lịch sử hiện đại, không phải là tiêu chí để xác định sự hình thành các dân tộc cổ đại, trong quá trình phát triển, tiến hóa của cả loài người. Và tác giả đã thiếu một tiêu chí để xác định sự hình thành các dân tộc trên thế giới. Đây cũng là chỗ chưa hoàn chỉnh của thuyết "Loài người có nguồn gốc từ châu Phi". Trên cơ sở những luận cứ mà tôi đã trình bày với quý vị ở trên, tôi xác định rằng: Tác giả cần phải làm rõ hơn về luận điểm người cổ châu Phi đến cư trú ở Đông Nam Á, từ hàng chục ngàn năm trước, được xác định chính là người Việt cổ. Khi mà ở Đông nam Á ngày nay là nơi cư trú của nhiều dân tộc. Nếu tác giả muốn bảo vệ luận điểm của mình từ luận cứ trên - thì - tôi nghĩ rằng: Tác giả cần đưa ra tiêu chí về sự hình thành một dân tộc. Riêng cá nhân tôi, và tôi nghĩ cũng được sự đồng tình của quý vị, rằng: tiêu chí để xác định sự hình thành một dân tộc, là: "Một dân tộc chỉ được coi như hình thành trong lịch sử, khi dân tộc đó lập quốc". Đương nhiên đây là một tiêu chí có tính quy ước từ cuối thế kỷ XIX, và có thể một quốc gia gồm có nhiều dân tộc đa số và thiểu số. Nhưng họ chỉ được xác định là một dân tộc, nếu như những dân tộc đó nằm trong hệ thống của một quốc gia mà họ sinh sống. Có thể các nhà khoa học trên thế giới và kể cả chúng ta ngồi đây, cũng như cá nhân tác giả, vẫn có thể đưa ra một tiêu chí khác về nội hàm khái niệm hình thành một dân tộc. Nhưng dù sao thì chí ít tiêu chí mà tôi đã trình bày ở trên là tiêu chí duy nhất cho đến hiện nay, mà tôi được biết, để xác định lịch sử hình thành và tiến hóa của một dân tộc. Kính thưa quý vị. Bây giờ, trong khi chờ đợi các nhà khoa học, hoặc tác giả bác bỏ tiêu chí này và đưa ra một tiêu chí khác, có những luận cứ chặt chẽ, hợp lý và toàn diện hơn cho sự hình thành một dân tộc - chúng ta có thể tạm thời sử dụng tiêu chí này, để xác định sự hình thành dân tộc Việt. Vậy thì căn cứ vào tiêu chí này, dân tộc Việt chỉ được hình thành khi nó được xác định lập quốc. Thế thì dân tộc Việt, tổ tiên của chúng ta, phải được coi là bắt đầu từ việc lập quốc Văn Lang, mà chính sử đã ghi nhận: thành lập vào năm 2879 trước CN. Nước Văn Lang, phía Bắc giáp động Đình Hồ, phía nam giáp Hồ Tôn và phía đông giáp Đông Hải. Nền văn minh và quốc gia Văn Lang sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử vào thế kỷ thứ III trước CN. Từ vấn đề được đặt ra về tiêu chí hình thành một dân tộc, chúng ta lại quay trở lại với chủ đề chính của bản tham luận này. Trong cuốn sách này tác giả cũng xác nhận khoảng 2700 trước công nguyên người Mông Cổ vượt Hồng Hà tấn công vào Trác Lộc và người Lạc Việt thua trận xuôi theo Hoàng Hà đổ bộ vào Nghệ An. Điều này được tác giả nhắc đến 2 lần. Lần thứ nhất, ở trang 39 và 40; lần thứ 2 vào trang 215. Trong đó, tác giả xác định rằng: ["Khoảng 2700 trước công nguyên, diễn ra cuộc xâm lăng của người MC tại trân Trác Lộc. Quân Việt bại trân. Lạc Long Quân dẫn đoàn quân Việt vùng núi Thái, Sông Nguồn xuôi Hoàng Hà vượt biển đổ bộ vào vùng Nghệ An. Đoàn di dân của Lạc Long Quân mở đầu cho cuộc nam tiến về mái nhà xưa"]. Như vậy, với những luận điểm này tác giả đã phủ nhận sự thành lập nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt, ở Nam Dương Tử là nhà nước Văn Lang mà tôi đã trình bày ở trên, được chính sử nói tới. Tác giả cho rằng Lạc Long Quân di cư xuống Nghệ An và quốc gia Văn Lang đã bắt đầu từ vùng đất này. Như vậy, tuy tác giả vẫn thừa nhận rằng lịch sử 5000 năm văn hiến của Việt tộc. Nhưng nó lại đặt ra một vấn đề sau: 1/ Theo tác giả, nước Văn Lang được thành lập ở vùng Bắc Bộ nước VN hiện nay, xuất phát từ Ngàn Hống, Nghệ An ngày nay, chứ không phải từ Nam Dương Tử. Vậy thì vấn đề dân tộc Việt được hình thành bắt đầu từ khi nào? Nếu tác giả đã thừa nhận dân tộc Việt đã thành lập từ trước khi có trận Trác Lộc (2700 trước công Nguyên) do Lạc Long Quân lãnh đạo và bị thua. tất nhiên trong điều kiện này thì tác giả phải có một tiêu chí thuyết phục về sự xác định lịch sử của một dân tộc. 2/ Giữa hai truyền thuyết về sự tích Lạc Long Quân lập đô ở Ngàn Hống Nghệ An ngày nay - mà tác giả nói tới - và truyền thuyết về lịch sử lập quốc của nước Văn Lang được ghi trong chính sử, thì truyền thuyết nào đúng? Hay cả hai đều sai? Như vậy, tuy luận điểm của tác giả đạt ra một giả thuyết mới, bác bỏ quan điểm phủ nhận truyền thống cội nguồn Việt sử của hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện nay, khi họ cho rằng: dân tộc Việt chỉ "hình thành vào khoảng 700 năm trước công nguyên", với "một liên minh gồm 15 bộ lạc; hoặc cùng lắm là một hình thức nhà nước sơ khai". Nhưng rõ ràng, đây vẫn là một sự phản bác chưa hoàn hảo của tác giả, để chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Bởi vì, hệ thống luận cứ của tác giả vẫn còn nhiều mâu thuẫn trong nội hàm của nó. Và điều này, tôi chứng minh ngay sau đây: Vấn đề cội nguồn truyền thống của Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến - được ghi nhận trong chính sử - bị coi như là một truyền thuyết không đáng tin cậy, và cần phải có những bằng chứng khoa học chứng minh. Vậy thì việc Lạc Long Quân bắt đầu xuất hiện ở Nghê An cũng chỉ là một truyền thuyết, mang tính địa phương, được ghép với truyền thuyết Hoàng Đế chiến Xuy Vưu ở Trác Lộc rất chủ quan của tác giả. Và rõ ràng truyền thuyết này trong cổ thư chữ Hán, lại không dính dáng gì đến truyền thuyết Lạc Long Quân cả. Hơn nữa, cả hai đều là truyền thuyết. Nếu như, mặc định rằng: giả thuyết của tác giả là đúng, mà trong đó cho rằng nhà nước Văn Lang của dân tộc Việt do Lạc Long Quân thua trận rút về Nghệ An lập nên, thì nó sẽ không giải thích được những điều mà chính tác giả dẫn chứng trong tác phẩm. Đó là những di sản văn hóa vật thể của Việt tộc được tìm thấy ở khắp nơi thuộc vùng ĐNA và cả Nam Dương Tử. Hoặc nó cũng không giải thích được sự giống nhau giữa gen của người Trung Quốc hiện nay ở Nam Dương tử với người Việt hiện nay, mà Gs Bs Trần Đại Sĩ phát hiện; hoặc gen người Nhật Bản hiện nay với người Việt hiện nay, mà các nhà khoa học Nhật xác định. Hay nói rõ hơn: Khi tác giả cho rằng Việt tộc thua trận Trác Lộc ở bắc hạ lưu sông Dương Tử và chạy thẳng xuống Nghệ An thì nó đã bỏ qua miền đất Nam Dương Tử Trong tác phẩm này tác giả còn tỏ ra lúng túng và tự mâu thuẫn, khi cho rằng: nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn vốn là một thành viên của nhà Chu, là một trong những nhà nước quan trọng của Việt tộc. Trong khi sự hình thành nhà nước Việt của Câu Tiễn lại ra đời từ hơn 2000 năm trước công nguyên từ thời nhà Hạ, theo như tác giả viết. Tức là sau ngót 700 năm sau trận Trác Lộc. Vậy thì Việt tộc hình thành từ không gian nào? Ở hạ lưu phía bắc sông Dương tử do tổ tiên của Việt Vương Câu Tiễn thành lập, hay do ở Lạc Long Quân thành lập ở Bắc VN sau khi rút lui về đây vào năm 2700 trước công nguyên? Kính thưa quý vị. Trong cuốn sách của tác giả còn nhiều chi tiết có tính mâu thuẫn khác, mà tác giả chưa giải thích được một cách hợp lý. Nhưng tôi nghĩ chỉ cần nêu hai luận cứ chủ yếu của tác giả, trong đó có hệ thống giả thiết khoa học căn bản, là "Loài người có nguồn gốc từ châu Phi", vốn tự thân đã hàm chưa nội dung của một học thuyết chưa hoàn chỉnh, đủ để có những đề nghị với tác giả cần bổ sung thêm nhằm hoàn thiện tác phẩm. Như vậy, bằng sự phản biện của tôi trong bài viết này, tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa để xin được sự quan tâm của quý vị rằng: Tất cả mọi hiện tượng, vấn đề và sự kiện tồn tại khách quan, đều là đối tượng nghiên cứu khoa học. Vấn đề tiếp theo là: từ những thực tại khách quan đó, là nền tảng của những giả thuyết khoa học, những lại rất khác nhau và không tránh khỏi mâu thuẫn nhau. Vậy thì trước những cách giải thích nhân danh khoa học, thông qua những giả thuyết khoa học khác nhau và mâu thuẫn, thì phải có một chuẩn mực để thẩm định tính đúng sai - dù là tương đối của các giả thuyết khoa học. Cho dù giả thuyết đó ở lĩnh vực khoa học nào - khoa học xã hội nhân văn, khoa học lịch sử, cho đến khoa học tự nhiên. Tiêu chí đó là: ["Một giả thuyết hoặc một lý thuyết khoa học được coi là đúng, nó phải giải thích một cách hợp lý hầu hết những sự việc, vấn đề và những hiện tượng liên quan đến nó, có tính hệ thống, hoàn chỉnh, nhất quán, có tính quy luật, có tính khách quan và có khả năng tiên tri"]. Đồng thời, một tiêu chí khoa học khác cũng xác định rằng: ["Một lý thuyết nhân danh khoa học bị coi là sai, nếu như chỉ một mắt xích trong hệ thống luận cứ của nó được chứng minh là sai, mà tự thân hệ thống lý thuyết đó không biện minh được".] Trong bài nói này, tôi đã chỉ ra những luận điểm chưa chặt chẽ của tác giả, là: 1/ Đề nghị tác giả Hà Văn Thủy xác định tiêu chí hình thành một dân tộc, để từ đó xác định cội nguồn dân tộc Việt. Chứ không thể võ đoán cho chủng người có nguồn gốc châu Phi đã đến Đông Nam Á và trở thành người Việt cổ trước khi đi lên phía Bắc. 2/ Chứng minh không gian lập quốc của người Việt từ Nghệ An, không thể căn cứ duy nhất vào sự liên hệ giữa những truyền thuyết.Mà nó phải có sự liên hệ giải thích tất cả những hiện tương khách quan khác, đã được công nhận, như: di sản văn hóa Việt ở khắp Đông Nam Á và Đông Bắc Á, sự giống nhau về gen di truyền của dân tộc Nhật và các dân tộc ở Nam Dương Tử hiện nay. Trong điều kiện này, tác giả cũng phải chứng minh một truyền thuyết khác về không gian lập quốc ghi nhận trong chính sử là sai. Kính thưa quý vị. Cội nguồn Việt tộc đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử. Hơn 1000 năm Bắc thuộc không phải con số vô cảm đọc trong một giây. Không thể có một dân tộc còn tiếp tục lịch sử của mình, khi đã mất nước. Đây là sự thật khách quan và không có ngoại lệ của lịch sử. Bởi vậy, việc làm sáng tỏ chân lý cội nguồn Việt sử là một điều cấp bách và không thuộc trách nhiệm của một vài cá nhân có cảm hứng. Mà nó là trách nhiệm của cả một dân tộc. Bởi vậy, thay cho lời kết luận của bài viết này, tôi bày tỏ sự trân trọng và cảm ơn với tác giả Hà Văn Thùy, vì những cố gắng và sự tận tụy của ông trong việc tìm về cội nguồn Việt tộc. Cho dù, trong cuốn sách đầu tay của ông có thể chưa hoàn chỉnh. Nhưng tôi tin rằng: với một nhiệt huyết vì cội nguồn dân tộc, và sự đóng góp chân tình của mọi người, nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy sẽ có những tác phẩm tiếp theo ngày càng hoàn chỉnh cho quan điểm của mình, minh chứng cho chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị. Chân thành chúc quý vị và tác giả đã quan tâm đến những góp ý của tôi. T/p HCM 20/ 11 2016. Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
  11. Tham quan như cố mô tả, mà chỉ thế thôi thì phước đức kiếp trước nữa của cô còn lớn.
  12. PHẢN BIỆN KHOA HỌC. I - Hiện tượng và vấn đề. Nếu chúng ta vào trang thông tin điện tử Tuần Vietnamnet thì sẽ thấy hàng loạt bài phàn nàn về sự trì trệ của nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Những nhân vật có máu mặt trong giới khoa học trong nước, gồm những nhà nghiên cứu lâu năm đẳng cấp giáo sư trở lên, lên tiếng góp ý này nọ. Họ cũng diễn đạt hiện tượng, cũng nếu vấn đề và đưa ra góp ý giải quyết....chung chung. Tất nhiên nó chẳng giải quyết được cái gì. Và quả thật tôi để ý thấy những phát kiến khoa học độc đáo trong nước lại chỉ rơi vào những người "ngoại đạo", như: Máy bay Hai Lúa, thần đèn Nguyễn Cẩm Lũy.... Còn trong giới nghiên cứu chính thống thì chỉ lặp lại những gì mà trên thế giới đã làm ...từ lâu rồi. Tôi cũng sẽ chẳng quan tâm gì đến vấn đề này nếu nó không đụng đến cội nguồn truyền thống văn hóa sử Việt Nam. Mà tôi là cái quái gì để đủ tư cách quan tâm chứ. Nhưng cũng chính vì tôi quan tâm và rất nhậy cảm đối với điều tâm huyết của mình là minh chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Chứng minh cho điều này - về mặt trí thức khoa học thuần túy - đủ để dụng chạm đến mọi tầng lớp người, từ bình dân học vụ cho đến viện sĩ hàn lâm. Tất nhiên tôi bị gọi là "Phản biện" với đủ các kiểu. Giới "ve chai lông vịt" thì không nói làm gì. Họ chỉ ngạc nhiên hỏi: "Thầy có nhầm không? Em mạng Hỏa chứ! Sao thầy lại nói em mạng Thủy?". Còn giới khoa học chuyên nghiệp thì chưa ai lên tiếng cả. Những giới có kiến thức trung bình thì thôi khỏi nói. Có lần tôi viết lên một trang mạng chuyên đề, đại ý như sau: Đối với một phát minh vượt trôi thì chỉ những trí thức ưu tú, ủng hộ. Nhưng những người này cực kỳ ít ỏi. Những tri thức cao cấp thì hoài nghi. Trí thức trung bình thì phản biện. Những tri thức phổ thông thì phản đối. Ranh giới từ tri thức trung bình đến ưu tú đôi khi vẫn không rõ ràng. Và cuối cùng để quyết định tính chân lý cho một công trình nghiên cứu khoa học thì cốt lõi của nó là phản biện khoa học. Tôi không có khái niệm đao to, búa lớn gì với khái niệm này. Tạm thời tôi bỏ từ khoa học - sẽ bàn sau - mà tôi chỉ đề cập đến khái niệm phản biện. Có thể nói tinh thần phản biện có trong hầu hết mọi người. Từ đứa trẻ con bắt đầu tiếp thu những nhận thức đơn giản cho đến những nhà khoa học hàng đầu thế giới, đều có sẵn trong tiếm thức một sự phản biện trước những vấn đề mới lạ. Một đứa bé bập bẹ biết nói hét lên: Trả đây! Nó đòi món đồ chơi mà người lớn nhận thức được rằng không phải của nó. Tức là thằng bé đã phản biện hiện tượng theo ý thức và những thông tin thu nhập được của nó. Tất nhiên nó coi là nó đúng. Con người ngày càng lớn lên, thông tin thu nhập ngày càng nhiều và họ đã cân đối những thông tin đó một cách hợp lý những thông tin thu nhận được trong khả năng tư duy . Chính bởi tính cân đối hợp lý những thông tin được nhận thức trong tư duy, cho nên bất cứ một hiện tượng khác lạ với nhận thức đó - hay nói cách khác là phá vỡ tính cân đối trong tư duy với những thông tin nhận thức được - sẽ tạo ra phản ứng của tư duy. Nếu có điều kiện đối thoại thì hiện tượng gọi là phản biện sẽ xảy ra. Bởi vậy, với luận điểm của tôi trong hệ thống minh chứng lịch sử truyền thống văn hiến Việt trải gần 5000 năm thì cả thế giới sẵn sàng phản biện. (Hì! Chuối đại trà). Tất nhiên, với những vấn đề là phát kiến có tính chuyên ngành thì sẽ xuất hiện những hiện tượng mà người ta quen gọi là "Phản biện khoa học" và nhân danh những trí thức khoa học đang phổ biến. Nhưng như thế nào là một phản biện có tính khách quan khoa học thực sử là vấn đề được bàn trong chủ đề này. Còn tiếp
  13. Hàng loạt nhân sĩ kiến nghị tạm ngừng khai thác bô-xít Tác giả: Anh Phương tuanvietnam.net Bài đã được xuất bản.: 2 giờ trước Sau sự cố bùn đỏ ở Hungary, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và nhiều nhân sĩ - trí thức đã gửi thư lên lãnh đạo Đảng, Nhà nước kiến nghị về dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên. Mời các bạn xem toàn văn thư kiến nghị của các nhân sĩ - trí thức TẠI ĐÂY. >> Rà soát thiết kế các hồ chứa bùn đỏ ở Tây Nguyên >> Đại dự án bô-xít Tây Nguyên và ý kiến nhiều chiều Nghiên cứu lại tổng thể vấn đề bô-xít Tây Nguyên Với tư cách "những người Việt Nam gắn bó với vận mệnh tồn vong của đất nước", bà Nguyễn Thị Bình và các nhân sĩ trí thức đã gửi thư tới Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Cùng kí tên trong thư với bà Bình còn có Thiếu tướng Lê Văn Cương, GS Hồ Ngọc Đại, nhà nghiên cứu Phan Hồng Giang, GS Chu Hảo, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, nhà văn Nguyễn Khắc Mai, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nhà văn hóa Nguyên Ngọc, nhà nghiên cứu Trần Đức Nguyên, nhà thơ Trần Việt Phương, Vũ Quần Phương, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung, TS Tô Văn Trường, GS Hoàng Tụy, và GS Đặng Hùng Võ. Trong thư, bà Bình và các nhân sĩ trí thức "khẩn thiết yêu cầu" Bộ Chính trị, BCH TƯ Đảng, Quốc hội và Chính phủ xem xét lại việc khai thác bô-xít Tây Nguyên. Trên cơ sở "lường trước nguy cơ không thể kiểm soát nổi vấn đề bùn đỏ độc hại trong sản xuất alumina ở Tây Nguyên", các nhân sĩ kiến nghị Đảng và Nhà nước "quyết định cho ngừng ngay việc xây dựng nhà máy chế biến alumina ở Tân Rai, Lâm Đồng để nghiên cứu tiếp cách xử lý; tạm hủy dự án đang đàm phán tiếp với đối tác nước ngoài về nhà máy Nhân Cơ ở Đắc Nông; tạm thời đình chỉ việc triển khai toàn bộ tổng dự án hiện thời về việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên để tổ chức nghiên cứu lại một cách nghiêm túc và khoa học". Thảm họa bùn đỏ Hungary. Đồng thời đề xuất "nghiên cứu lại một cách tổng thể vấn đề bô-xít Tây Nguyên" trên cơ sở "lập một nhóm nghiên cứu độc lập (nhóm đặc nhiệm)". Nhóm này gồm những cá nhân có uy tín và có tâm huyết với đất nước trong giới các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế và những người hoạt động xã hội độc lập, để tiến hành nghiên cứu toàn bộ vấn đề bô-xít Tây Nguyên. "Những kết quả nghiên cứu lại một cách tổng thể vấn đề bô-xít Tây Nguyên của nhóm đặc nhiệm này sẽ được trình bày trước Quốc hội, đồng thời được đem trưng cầu ý kiến nhân dân cả nước về đề tài kinh tế - xã hội vô cùng nhạy cảm này để quyết định", các nhân sĩ - trí thức viết. Lời cảnh báo nghiêm khắc từ thảm hoạ bùn đỏ Hungary Trong thư, các nhân sĩ nhắc lại tính "phi kinh tế, hủy hoại môi trường, để lại nhiều hệ quả khó lường về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, uy hiếp nghiêm trọng an ninh quốc phòng của quốc gia" của dự án bô-xít Tây Nguyên đã được giới khoa học chỉ ra trong các cuộc hội thảo tiến hành trong hai năm 2008, 2009. Khả năng sinh lời trong khai thác bô-xít Tây Nguyên "không hiện thực, thậm chí hầu như chắc chắn là lỗ". Vấn đề vận tải và cảng cho việc sản xuất, xuất khẩu alumina hiện tại và trong vài năm tới "hoàn toàn bế tắc chưa thể giải quyết". Nhà máy sản xuất alumina Tân Rai nếu làm xong, cũng có thể có nguy cơ phải nằm đắp chiếu một thời gian. Hơn nữa, "việc sản xuất ra alumina với khối lượng vài triệu tấn/năm là quá nhỏ so với thị trường bô-xít/nhôm trên thế giới và trong thực tế chỉ có thể bán được cho một thị trường duy nhất là Trung Quốc,... tạo thêm nguy cơ phụ thuộc kinh tế và chính trị rất bất lợi cho đất nước". Vả lại, "cứ sản xuất một tấn nhôm sẽ tạo ra 3 tấn bùn thải có chứa hóa chất độc hại, càng sản xuất nhiều đòi hỏi phải có hồ chứa bùn đỏ càng lớn, nguy cơ thảm họa môi trường càng hơn". "Thảm họa vỡ hồ bùn đỏ Ajka ở Hungary là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với vấn đề hồ bùn đỏ chứa chất thải trong sản xuất alumina ở Tây Nguyên", các nhân sĩ viết trong thư. "Không thể hình dung nổi nguy cơ thảm họa môi trường của một hồ chứa bùn đỏ hàng triệu hay hàng chục triệu m3 treo lơ lửng trên đầu đồng bằng sông Đồng Nai và Bắc Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ...". "Các hồ chứa bùn đỏ sẽ là những quả bom độc treo trên đầu hàng chục triệu người với tai họa khôn lường", lá thư lưu ý. Đó là chưa kể, "khả năng quản lý, thực thi pháp luật, lực lượng vật chất kĩ thuật phòng chống thiên tai của ta chưa thể so sánh với Hungary". Trách nhiệm tuyệt đối với vận mệnh quốc gia Từ những phân tích khoa học, các nhân sĩ cho rằng, việc tạm ngưng khai thác bô-xít và nghiên cứu tổng thể lại toàn bộ vấn đề bô-xít Tây nguyên "là phương án an toàn nhất, có thể giúp đất nước có đủ thời gian tìm ra những phương án tối ưu trong việc xem xét vấn đề bô-xít Tây Nguyên nói riêng và cho vấn đề phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên nói chung". Nhìn lâu dài về tổng thể, đây còn là phương án tốt nhất, kinh tế nhất và toàn diện nhất, với nghĩa các tổn thất được tạm hủy ngay hoặc thậm chí có khi phải đi tới kết luận sẽ phải hủy hoàn toàn việc khai thác bô-xít Tây Nguyên. Theo các nhân sĩ - trí thức, thực hiện thỉnh cầu này đồng nghĩa với việc phải thực hiện "một quyết định rất đau đớn chưa hề có trong lịch sử kinh tế Việt Nam và sẽ là một tổn thất lớn mà nền kinh tế phải chịu đựng, nhất là Nhà máy chế biến alumina Tân Rai đã hoàn thành một phần lớn và đã làm được nhiều việc quan trọng trong triển khai dự án Nhà máy Nhân Cơ". Nhưng "dù sao, sẽ vẫn còn rẻ hơn cái giá phải trả không thể lường hết được và thậm chí không thể cứu vãn được cho những hệ quả và thảm họa có thể xảy ra", các nhân sĩ viết trong thư. "Chỉ có lòng dũng cảm và ý thức trách nhiệm tuyệt đối với vận mệnh quốc gia" của các vị lãnh đạo Đảng, nhà nước, cùng "sự thông cảm" của nhân dân cả nước "mới đủ sức đi tới thực hiện quyết định khó khăn này", các nhân sĩ nhấn mạnh. Hiện nay, đã có hơn 1500 người cùng kí tên vào thư kiến nghị này.
  14. Giải mã bí ẩn ngôi đền - cứ bước vào hậu cung là trả giá bằng cái chết Giaoduc.net.vn Thứ tư 08/02/2012 07:05 "Phần hậu cung của đền có thể hiểu như nơi nghỉ ngơi của "thánh" không phận sự tuyệt đối không được bước chân vào nếu không muốn gặp những tai họa khủng khiếp. Cánh cửa ấy tưởng chừng cũng đơn giản như bao cánh cửa khác trong vô vàn những ngôi đình đền trên khắp Việt Nam, cũng mang đặc trưng sơn màu cánh gián và đường nét sơn son thiếp vàng, ngả màu cũ kỹ và bốn góc cánh cửa tróc lở theo thời gian. Vậy nhưng từ bao đời nay, hàng chục vạn người từng đến thăm ngôi đền Cao (thôn Đại, xã An Lạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) đều tò mò vì không ai biết phía sau cánh cửa hậu cung này là bí mật gì mà người nào phạm “lời nguyền” cứ bước chân qua là mất mạng, nhận những reo rắc đen đủi cho người thân. Cổng đền Cao (Hải Dương) “Tàn đời” vì trái “luật đền”? Cụ ông Dương Văn Luyện (74 tuổi, cùng ngụ địa chỉ nêu trên) cho biết theo phong tục địa phương quy định từ ngàn năm nay, mỗi năm đến ngày lễ hội thì làng phải bầu ra một "quan trùm" và bốn "quan đám". Bốn "quan đám" phụ trách việc lễ tế ở bốn ngôi đền trong quần thể đền Cao, còn "quan trùm" thì phụ trách chung mọi việc. Từng hàng chục năm liên tục được làng bầu làm những “chức sắc” này và năm nay được “phong” làm “quan trùm” nên không ngõ ngách nào trong ngôi đền này ông không biết, nhưng riêng những “bí mật” sau cánh cửa hậu cung thì “có chết cũng không nói”. Phong tục quy định điều cấm kỵ đầu tiên mà các "quan trùm, quan đám" phải tuân thủ là họ có trách nhiệm mỗi tháng phải hai lần vào hậu cung để dọn dẹp và biết được một phần cảnh trí trong đó. Thế nhưng trong suốt thời gian còn giữ “chức”, họ phải tuân theo “luật” "có biết cũng không nói, tò mò không biết thì cũng không hỏi" và sau này dù có còn giữ “chức” hay không thì những gì đã được nhìn thấy trong hậu cung thì cũng “sống để bụng, chết mang đi”. Vì thế mà cho đến giờ, trong hậu cung của đền Cao có những bí mật gì vẫn là một điều bí ẩn. Đền Cao được bao bọc bởi rừng cây xanh mướt, càng thêm uy nghiêm bởi sự hiện diện của 54 cây lim cổ thụ hàng trăm năm tuổi, trong đó "cụ" lim thọ nhất thì đã hơn 800 tuổi, cao tới 20m. Mới đây, những cây lim này đã được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam" công nhận là "Cây di sản Việt Nam". Nếu biết rằng trước đó, cả nước mới chỉ có 10 cây cổ thụ nhận được danh hiệu này thì việc tới 54 cây hội tụ cả ở đền Cao đã là một sự lạ kỳ. Việc thờ cúng ở đền Cao cũng là một sự lạ vì đền không thờ tượng như một số nơi khác mà thờ bài vị của "thánh". Vào lễ hội, bài vị được mặc áo trông như người ngồi trên ngai, qua bao năm mà bài vị vẫn mới tinh, dọc theo bài vị là hai hàng chữ Hán vàng óng chưa hề trầy xước. Phong tục oái oăm này còn ràng buộc những vị chức sắc những quy định cực kỳ ngặt nghèo khác. Trong những ngày lễ hội, dù có giỗ chạp thì các "chức sắc" cũng không được thắp hương lên ban thờ gia tiên, thậm chí không được… ăn các món trên ban thờ nhà mình. Cũng thời gian này họ đều phải ăn chay, tắm rửa sạch sẽ; khi làm lễ phải mặc đội khăn, che miệng; đặc biệt “thuộc nằm lòng” quy tắc khi vào hậu cung thì bước chân phải trước, ra khỏi cung bước chân trái trước. Lệ làng thì cứ thế mà tuân theo, trong tâm tưởng của những người dân trong vùng dù vẫn có lúc tò mò nhưng sự tò mò ấy rồi cũng bị quên đi khi các cụ cao niên cho biết “Phần hậu cung có thể hiểu như nơi nghỉ ngơi của "thánh". Mọi người quan tâm làm gì”. Những người dân đến vãn cảnh, cúng bái có lỡ lạc chân qua khu vực có cánh cửa luôn được khóa cẩn thận này cũng chẳng ai dám ghé mắt vào vì “sợ” “lời nguyền” người xưa truyền lại là ““không phận sự tuyệt đối không được bước chân vào” nếu không muốn gặp những tai họa khủng khiếp”. Chuyện về cánh cửa bí ẩn chỉ rộ lên khi khoảng 20 năm trước, một du khách đã “trả giá” bằng chính mạng sống của mình khi nằng nặc đòi vào tận nơi để chụp hình. Cụ Luyện kể lại năm ấy ông cũng là "quan đám" của đền và sự việc xảy ra ngay dịp kỷ niệm đền được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Hôm ấy sau buổi lễ, một nam du khách trung tuổi vốn là một người quen biết đến từ tỉnh Hải Dương cứ nằng nặc đòi “quan đám” phải mở cửa hậu cung cho mình vào chụp ảnh. Dù ông Luyện can ngăn thế nào, vị khách này cũng không nghe rồi khẳng định: "Tội vạ đâu tôi chịu. Chết tôi cũng chịu". Ông Luyện đành phải mở cửa hậu cung cho khách vào, còn mình quỳ khấn ở ngoài. Trong hậu cung, ánh đèn flash lóe liên tiếp vài cái, sau một hồi “vãn cảnh” và chụp ảnh xong, vị khách đi ra mang nét mặt rất hoan hỉ. Trong trí nhớ của ông lão đã bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi” này, đây là lần đầu tiên có người lạ dám bước vào hậu cung của đền như thế. Những chuyện lạ với vị khách này xảy ra từ ấy. Bảy bức ảnh trong hậu cung người này chụp, khi mang về rửa thì phim đều đều đen sì “tối như đêm 30”. Rồi 3 ngày sau, tin từ tỉnh báo về vị ấy đã bị đột quỵ sau một buổi họp. Được đưa đi chữa ở khắp các bệnh viện nổi tiếng ngoài Hà Nội nhưng chưa đầy một tháng sau, du khách “bạo gan” này không qua khỏi. Tai họa chưa dừng ở đó. Khoảng 3 tháng sau, con trai duy nhất của người này thắt cổ tự vẫn, nghe nói là phẫn uất vì chuyện bị vợ ngoại tình. Tiếp một tháng nữa, một người trong gia đình ấy khi đang đi công tác xa bỗng bị có người chỉ mặt mà bảo: "Nhà mày có người xúc phạm đến thần thánh. Nếu không về làm lễ cầu xin thì còn có thêm người chết nữa". Người này về kể chuyện thì gia đình mới móc xích các sự việc lại với nhau và “tá hỏa tam tinh” ngờ rằng đó là hậu quả của việc “phạm thánh”. Ông Luyện kể rằng phải sau khi sắm lễ tìm lên đền “tạ tội” thì gia đình ấy “mới được yên”. Mang họa vì phạm “húy kỵ nhà thánh"? Dư luận trong khu vực lại thêm một lần “dậy sóng” với sự việc một thanh niên “ngỗ ngược” đã “trả giá” vì muốn “thử độ thiêng” của đền những ngày cuối năm 2011. Một thanh niên ở xã Đồng Lạc (cạnh xã An Lạc) nhiều năm nay “ấm ức” trước “luật” đại kỵ trước khi vào lễ đền Cao không được ăn thịt chó nên đã rủ vài người bạn đi làm một bữa thịt chó xả xui cuối năm rồi mặt đỏ bừng bừng lên lễ đền. Chỉ vừa bước lên đến sân nghỉ, còn cách sàn đền chừng chục bậc tam cấp nữa thì chàng trai bỗng ngã dập đầu, chúi mặt xuống đất. Người đi lễ hốt hoảng chạy lại xem thấy nạn nhân miệng cứ há hốc ra, không kêu được mà cũng không cựa quậy gì được. Những người bạn của anh chàng vội vàng chạy vào cầu cứu "quan trùm" và khi nghe rõ sự tình, người coi đền lập tức thắp 9 nén hương kêu cầu trước bài vị "thánh" rồi mang ra cho một chén nước đã được đặt làm lễ cho đám bạn cạy miệng đổ vào mồm thanh niên “ngông cuồng”. Lạ thay từ lúc đó anh chàng kêu được ra tiếng và cà nhắc đi về nhà. Sau sự việc, bố mẹ của chàng thanh niên nghịch ngợm này đã phải sắm lễ lên đền, khẩn cầu "thánh" tha thứ cho cái việc "trẻ đầu xanh lỡ nghịch dại". Một người khác tự nhận mình gặp phải “những tai ương ghê gớm hơn vì dám phạm kỵ húy” ở đền Cao là bà Lương Thị Cải (người huyện Nam Sách, lấy chồng thôn Đại). Cuối năm 2010 bà dâng một mâm lễ lên đền gồm toàn những món chay do người con dâu cả của bà bày biện. Bà Cải thuật lại bà không nhớ ngày hôm trước người con dâu này vừa phải về quê để làm lễ "sang cát" cho bố đẻ, trong khi một “đại kỵ” khác khi dâng lễ lên đền Cao theo tục lệ là người biện lễ tuyệt đối trước đó ít ngày không được dính vào chuyện tang trở. “Xăng xái đội lễ lên đền, vừa bước vào cửa "thánh" và có cảm giác tôi chỉ sượt qua rất nhẹ mà đôi lục bình nặng trịch trên ban thờ bỗng rơi vỡ tan tành. Lúc ấy tôi sợ đến tái mét cả mặt mày nhưng nghĩ mình vô tình làm vỡ lọ nên chỉ kêu cầu xin lỗi "thánh" về việc đó thôi, đâu ngờ "thánh" quở về việc khác", bà Cải thuật lại. Ngày đó cứ nghĩ rằng mình “phạm lỗi” làm vỡ lục bình của đền nên người phụ nữ này đã cung tiến trả đền những lọ lục bình khác nhưng chỉ được dăm ngày là những đồ “đền bù” này lại rơi vỡ hoặc sứt mẻ như kiểu “lời xin lỗi không được chấp nhận”. Trong suốt nửa năm sau đó gia đình bà liên tục gặp tai ương: Người con trai cả hành nghề lái xe đường dài đã hàng chục năm, bỗng gây tai nạn liên tiếp, không đến nỗi chết người nhưng cũng phải bán cả xe để trang trải; người con trai thứ thì làm ăn gặp thất bát, bị bạn hàng lừa mất cả tỉ đồng rồi bỏ trốn; đen đủi nhất là người con trai út, anh này đang đi chơi với bạn bè thì gặp hai băng nhóm đuổi đánh nhau, chẳng hiểu “nhìn gà hóa cuốc” thế nào mà trong đám đánh nhau có đối tượng tưởng nhầm anh là đối thủ nên bị đánh nhầm, bị “tặng” trận đòn “thừa sống thiếu chết” phải đi viện khâu hàng chục mũi trên đầu, lại gặp nhiều rắc rối khi bị cơ quan công an gọi lên làm việc mấy lần vì nghi có liên quan đến hai băng nhóm côn đồ đó. Thấy gia đình gặp nhiều tai họa bất thường, bà mẹ điên đầu tìm gặp người làng để hỏi ý kiến và soát xét lại mọi việc từ đầu, cuối cùng đã phát hiện ra sơ xuất vì đã dùng lễ do người con dâu có tang sửa soạn. Một lần nữa, bà lại biện lễ lên đền thống thiết kêu cầu và cho rằng "từ ngày đó gia đình tôi không gặp thêm tai ương gì nữa. Bây giờ tôi gần như đã thành “người nhà đền”, gặp việc gì cũng lăn xả vào làm, không bao giờ dám quản ngại, chỉ mong "thánh" “chứng” cho lòng thành của tôi". Người trong khu vực còn rỉ tai nhau việc cấm kỵ ngồi lên lưng đôi voi và ngựa bằng đá chầu trước cửa đền. Điều cấm kỵ này xuất phát từ sự việc một nhóm thanh niên từ trên huyện về đền dám “cưỡi voi tranh với thánh”. Chuyện xảy ra vài năm trước khi nhóm thanh niên dạo quanh thăm thú cảnh đền, chụp ảnh rồi một thanh niên hứng khởi muốn có bức hình mình đang cưỡi voi đá ngựa đá. Dù người nhà đền đã hết sức ngăn cản nhưng rình lúc không ai trông coi, cậu thanh niên vẫn cố tình ngồi lên lưng một chú voi để chụp vội kiểu ảnh. Mọi chuyện vẫn bình thường đến khi nhóm thanh niên ròi đền ra về. Vừa bước khỏi cổng đền, cậu thanh niên bị trúng gió bỗng ngã vật ra đất, miệng sùi bọt mép, được đưa tới bệnh viện nhưng cả đời chịu cảnh bị liệt nửa người bên phải. Voi đá trước cửa đền Cao trên núi Thiên Bồng “Chuyện lạ” chỉ là những tai nạn tình cờ Với những câu chuyện như truyền thuyết, người trong khu vực cho rằng ngôi đền này như một “mảnh đất thiêng” của họ. Có những người từ xa tới nghe chuyện đã phản bác “Nếu là đền thiêng thì tại sao gần đây mới xảy ra chuyện?”, những người cao niên bèn dẫn ra một loạt những “dẫn chứng xa xưa” khác: Từ những năm khi thực dân Pháp xâm lược, vùng đất này luôn là nơi bị giặc càn quét và có những đêm từ bên kia sông giặc bắn sang đến hàng trăm quả đại bác nhưng chưa từng một quả đạn nào rơi vào khu vực đền Cao. Đó là lý do khiến ngôi đền có tuổi thọ hàng ngàn năm mà vẫn giữ nguyên được bài vị thờ "thánh", ngọc phả và 12 đạo sắc phong từ thời tiền Lê để lại. Một người già khác cho biết, còn có một “khu vực cấm” khác trong ngôi đền là lạch nước ngăn cách ban thờ "thánh" bày các loại vũ khí và cửa hậu cung được coi như “biên giới” của người đi lễ. Dù lạch nước chỉ rộng chưa đầy 10cm nhưng dân trong thôn chưa bao giờ từng dám bước qua ranh giới đó. Khách thập phương khi đến đây cũng được nhắc nhở cẩn thận để không phạm vào cấm kỵ này. Lý giải về những câu chuyện người ta cho rằng bị "thánh vật", một vị cán bộ UBND xã cho biết cũng có nghe nhiều lời đồn đại nhưng rất có thể đó chỉ là những tai nạn ngẫu nhiên. "Ví như trường hợp cậu thanh niên ăn thịt chó, uống rượu, say mèm như thế mà leo mấy chục bậc cầu thang lên đền, ngã dập mặt cũng không có gì lạ cả", ông nói. Vị cán bộ xã cũng đặt vấn đề: “Những câu chuyện mang đầy chất tâm linh ấy có thể do chính người dân địa phương đồn thổi, mục đích là để tăng thêm sự huyền bí cho ngôi đền của thôn mình. Tuy nhiên dù chưa rõ thực hư những câu chuyện như thế nào nhưng đền Cao từ nhiều năm nay vẫn là địa điểm thu hút khách thập phương về vãn cảnh, tế lễ". Và cái lợi lớn nhất từ những câu chuyện “đền thiêng” mà khách đến thăm nhận thấy là từ rất nhiều năm nay ngôi đền chưa từng một lần mất trộm. Ông Nguyễn Văn Đức, Trưởng ban quản lý di tích đền Cao khẳng định: "Đồ thờ tự của đền không ai dám tơ hào, nhiều năm qua không xảy ra việc mất mát dù trong đền có nhiều đồ cổ, quý giá dù có những thứ rất dễ lấy, dễ giấu như những chiếc chén đựng nước cúng làm bằng ngọc". Về việc dân làng có “khó chịu” khi phải sống chung với những điều cấm kỵ khắt khe khi bước vào đền Cao hay không, ông Đức cười: “Những quy định này đã trở thành luật tục của làng nên nhất nhất ai cũng tuân theo, đã không khó chịu mà thậm chí còn có phần tự hào vì đã giữ được bản sắc của làng mình mà bao đời cha ông lưu truyền”. Theo ngọc phả đền Cao ghi lại, vào thời Đinh ở Nga Sơn (phủ Hà Trung, Thanh Hóa) có vợ chồng ông Vương Đức Tĩnh và bà Đào Thị Thanh sống với nhau đã lâu nhưng chưa có con nên quyết đi tìm cuộc sống mới. Khi đến vùng đất này, thấy đây là nơi bình yên, thuần hậu nên ông bà đã ở lại sinh cơ lập nghiệp. Làm ăn ngày càng khá giả nhưng ông bà vẫn không quên ngày ngày cầu trời khấn phật cho sinh quý tử rồi lời khẩn cầu thấu tới thần linh. Một đêm bà đang tắm bên bến sông bỗng gặp gió lớn sóng to, ầm ầm như "rồng hút nước", sau đó bà thụ thai, đủ 9 tháng 10 ngày thì sinh một lúc được 5 người con gồm hai gái 3 trai, đặt tên là Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu, Vương Đức Minh, Vương Đức Xuân, Vương Đức Hồng. Năm người con lớn lên học hành binh thư chữ nghĩa rất tinh thông. Một hôm hai ông bà về quê hương bản quán, đến bến đò Thần Phù (Thanh Hóa) không may gặp bão đắm thuyền và mất tại đó vào ngày mồng 6/3. Năm 981 quân Tống xâm lấn bờ cõi nước ta. Vua Lê Đại Hành truyền hịch đi khắp nơi tìm người hiền tài ra phò vua giúp nước. Lúc này 5 người con họ Vương đang có tang cha mẹ nên không dám về triều ứng thí. Đến khi nhà vua hành quân đi đánh giặc qua nhận thấy ở đây địa thế hiểm yếu liền cho lập đồn trại đóng quân. Hàng ngày thấy những người con họ Vương đi ngang qua cửa doanh đồn, Vua nhận thấy họ đều là người tài năng liền cho thử tài và chiêu dụng, phong chức cho ba anh em trai là Quyền chưởng Trung hoa tể đại tướng và phong cho hai chị em gái là Mẫu nghi chí tôn thiên hạ. Sau khi nhận tước phong, các ngài cùng xin phép nhà vua cho được cầm quân ra đánh giặc. Khi ấy 5 vị tướng cầm quân tiến đánh theo đường bộ, giáp chiến một trận cực kì ác liệt khiến giặc thua to bỏ cả đồn tháo chạy. Sau này bờ cõi Đại Việt được giữ vững, vua cho mở tiệc khao thưởng quân sĩ và nhân dân. Nhà vua dẫn quân trở về kinh đô, còn 5 ngài xin ở lại mãn tang cha mẹ sẽ về triều bái yết. (Tục thắp hương đen ở đền Cao xuất phát từ tích này. Hương màu đen tượng trưng cho 5 vị mặc quần áo đen để tang cha mẹ, thể hiện lòng chí hiếu của con cái). Không ngờ ý trời linh hóa, đêm hôm đó trời đất tối tăm mờ mịt, mưa gió ầm ầm, 5 ngài đều thăng hóa về trời (đêm 24 tháng Giêng). Sáng hôm sau trời đất lại trong sáng trở lại, dân kéo đến xem thì đã thấy mối đất đùn thành những ngôi mộ lớn. Người dân liền lập biểu dâng lên triều đình. Nhà vua nghe tin vô cùng thương xót bậc quân thần có công lao với đất nước, liền sai quan triều đình về tận nơi làm lễ phúng viếng và phong mĩ tự cho 5 ngài: Vương Thị Đào là “Đào hoa trinh thuận công chúa”. Vương Thị Liễu là “Liễu hoa linh ứng công chúa”. Vương Đức Minh là “Thiên Bồng Đại tướng quân đại Vương”. Vương Đức Xuân là “Dực thánh linh ứng đại vương”. Vương Đức Hồng là “Anh vũ dũng lược đại vương”. Năm vị được nhân dân tôn làm “Thượng đẳng phúc thần” và đã xây dựng đền thờ phụng. Thanh Huyền Ngọc/PL&TĐ
  15. LỜI GIỚI THIỆU BÀI VIẾT CỦA HOÀNG TRIỆU HẢI. THƯA CÁC NHÀ KHOA HỌC, CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU. THƯA CÁC BẠN VÀ ANH CHỊ EM. Từ hai mươi năm nay, bằng sự phục hồi một hệ thống lý thuyết cổ xưa, nhân danh nền văn hiến Việt, tôi đã tha thiết trình bày về những giá trị của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương với tất cả những ai quan tâm đến những gía trị văn hóa của nhân loại. Nhân danh nền văn hiến Việt, tôi đã xác định một nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" và phủ nhận nguyên lý "Hậu thiên Văn Vương phối Lạc thư", vốn được coi là thuộc nền văn hóa Hán. Nhưng, sự phức tạp của một hệ thống lý thuyết huyền vĩ - Lý thuyết thống nhất vũ trụ - mà toàn thể nền văn minh nhân loại hiện nay, đang mới chỉ dừng lại ở sự mơ ước. Tất nhiên, tôi rất hiểu rằng: sự tiếp nhận một quan niệm mới - trong khi suốt lịch sử của văn minh nhân loại, con người đã chấp vào một định kiến: nền văn minh Đông phương có xuất xứ từ Hán tộc - là một việc cực kỳ khó khăn. Huống chi, đó lại là một hệ thống lý thuyết - sản phẩm của cả một nền văn minh - tức sản phẩm của một hệ thống tư duy phức hợp, lại càng khó khăn hơn. Khi chính khái niệm "tư duy phức hợp", cũng mới chỉ manh nha xuất hiện trong nền văn minh hiện đại. Cho nên, cá nhân tôi chia sẻ và thông cảm với sự chưa tiếp thu được của không ít những học giả, đã lên tiếng phản bác. Nhưng với những con người cầu tiến và thông minh - những người không bị tính cố chấp với một tâm hồn và tư duy khoáng đạt, đã tiếp thu được những giá trị của nền văn hiến Lạc Việt. Bài nghiên cứu về "Địa Lý phong thủy kinh thành Huế" dưới đây của Hoàng Triều Hải, một nhà nghiên cứu về Lý Học Việt xuất sắc của Trung Tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương, và là Giám đốc của Trung Tâm này. Qua công trình nghiên cứu của anh, chúng ta một lần nữa xác đinh chắc chắn bằng thực chứng, về sự hợp lý toàn diện của hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch - nhân danh nền văn hiến Việt - với nguyên lý căn để "Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ", trong việc xây dựng Kinh Đô Huế. Đây là một dẫn chứng tuyệt vời và rất trực quan, rất dễ hiểu, cho những ai còn hoài nghi những gía trị văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nên văn minh Đông phương. Xin cảm ơn vì sự quan tâm và chia sẻ của các bạn. Ta về giữa cõi vô thường. Đào trong kỷ niệm, tìm hương cuối mùa. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
  16. LÝ HỌC VÀ TRIẾT HỌC HIỆN ĐẠI. Thưa quý vị và các bạn thân mến. Với hệ thống của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt - thì tính "Nhất nguyên" không phải chỉ là một phạm trù triết học, không phải chỉ là một quan điểm xuất phát từ nhận thức của tư duy; mà là một thực tại ở trạng thái khởi nguyên của vũ trụ: Là giây/O/ của vũ trụ, là "Thái cực", là "Đạo", là "Như lai tạng tính" và là Thượng Đế toàn năng theo cách mô tả của các tôn giáo.
  17. LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TRIẾT HỌC HIỆN ĐẠI. Kính thưa quý vị và các bạn. Trên dd Lý Học Đông phương thuộc TTNC LHDP, đã có một chuyên đề: "Lý học và khoa học hiện đại". Chuyên đề cũng được sự chú ý của nhiều quý vị và bạn đọc quan tâm. Nhưng có vẻ như khái niệm "khoa học" bao trùm lên quá nhiều lĩnh vực - ngoại trừ tôn giáo, tín ngưỡng - Do đó, nó có một nội dung quá mênh mông và chủ đề bị loãng, khó theo dõi. Bởi vậy, tôi mạn phép mở thêm một chủ đề này, để phù hợp với một chuyên ngành của tri thức khoa hoc nói chung. Đó là "Lý học Đông phương và triết học hiện đại" với một hy vọng sẽ được sự quan tâm của những nhà khoa học chuyên ngành. Cơ duyên dẫn đến việc mở chuyên mục này trên dd lyhocdongphong, bắt đầu từ nội dung thư mời trên email của tôi về một cuộc tọa đàm có chủ đề: "Triết học phát triển: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn".Tham dự tọa đàm được giới thiệu với nhiều tên tuổi hữu danh trong ngành. Một trong những tham luận chính của buổi tọa đàm được dự kiến, là bài viết tôi sẽ trình bày với quý vị dưới đây. Thưa quý vị và các bạn. Với một quan điểm nhất quán có tính hệ thống và hoàn chỉnh, tôi luôn xác định rằng: Thuyết ADNH và Bát quái - nhân danh nền văn hiến Việt - chính là một hệ thống lý thuyết khoa học hoàn chỉnh và chính là LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT, mà các nhà khoa học tinh hoa của nền văn minh hiện nay đang tìm kiếm. Đương nhiên, nhân danh một lý thuyết thống nhất, thì nội hàm của nó phải bao trùm lên tất cả mọi hệ thống tri thức của thế gian này. Trong đó có triết học. Do đó, chủ đề này được thành lập để so sánh đối chiếu tất cả những quan điểm của các hệ thống triết học, trong toàn thể lịch sử nền văn minh nhân loại với hệ thống tri thức của Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - Nhằm mục đích chứng minh một chân lý tuyệt đối, bao trùm lên tất cả mọi hệ thống tri thức của toàn bộ nền văn minh, đó là thuyết ADNH, nhân danh nền văn hiến Việt, để làm sáng tỏ chân lý: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử và là cội nguồn của văn minh Đông phương, với thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là hệ thống lý thuyết thống nhất khoa học, mà những tri thức tinh hoa đang mơ ước. Tôi hy vọng rằng: Việc sáng tỏ chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương Tử và là cội nguồn của văn minh phương Đông, sẽ đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của nền văn minh chúng ta. Chân thành cảm ơn sự quan tâm và tham gia của quý vị và các bạn cho chủ đề này. Sài Gòn 16. 3. 2018. Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. ======================= KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC PHÁT TRIỂN TS. Nguyễn Huỳnh Thanh Viện triết học phát triển (IDP) Vũ trụ quan toàn thể là quan niệm hoàn bị về một vũ trụ toàn thể tuần hoàn phát triển. Về cấu tạo, vũ trụ phi vật lý trước “bức tường Planck” (đặt theo tên nhà vật lý Max Planck, chỉ vị trí thời gian của lịch sử vũ trụ, tại đó vũ trụ có độ tuổi là thời gian Planck, bằng 10[-43].giây kể từ vụ nổ lớn), chính là trạng thái “nhất nguyên”; và, hai trạng thái đồng thời của vũ trụ - gồm vũ trụ phi vật lý và vũ trụ vật lý - sau bức tường Planck còn lại, chính là trạng thái “nhị nguyên”; là cặp phạm trù toàn thể quan đã được mô tả trong triết học đông phương cổ đại và tiền cổ đại. Về cấu trúc, vũ trụ toàn thể chứa các mối quan hệ lớn và cơ bản: cặp trạng thái “nhất nguyên” và trạng thái “nhị nguyên” trước và sau “giới hạn” Planck, cặp vũ trụ phi vật lý và vũ trụ phi vật lý trước và sau “giới hạn” Planck, cặp vũ trụ phi vật lý và vũ trụ vật lý trước và sau “giới hạn” Planck, cặp vũ trụ phi vật lý và vũ trụ vật lý trong nội tại giai đoạn sau “giới hạn” Planck,… Về vận hành, trong một vũ trụ tuần hoàn, trạng thái cuối cùng của các lỗ đen chính là trạng thái nguyên khởi của vụ nổ lớn, sự vận động tự thân không ngừng, đi từ nhất nguyên đến nhị nguyên và ngược lại, biến hóa đa chiều, tuần hoàn xoáy ốc, có thì phát động và chiều thuận nghịch, xuyên qua các chu kỳ tiến hóa và thoái hóa, trong vũ trụ toàn thể và cùng vũ trụ toàn thể, của một/mỗi và mọi sự vật hiện tượng, v.v… Đó là điển hình những vấn đề gợi mở đang đặt ra như là những hướng nghiên cứu lớn trong vũ trụ quan toàn thể. Vũ trụ luận toàn thể là phương pháp luận trong tư cách công cụ tư duy để đạt đến quan niệm hoàn bị về vũ trụ nói trên - vũ trụ quan toàn thể. Trong lịch sử nhân loại đến nay, có ít nhất các nền triết học sau - trong tư cách phương pháp luận - là các hình thái vũ trụ luận toàn thể. Về triết học đông phương cổ đại và tiền cổ đại, có Kinh Dịch với luận điểm: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng”; Lão Tử với luận thuyết về: “Đạo”; v.v… Về triết học tây phương cổ điển, có Hêghen với luận thuyết về: “Biện chứng pháp”; sau đó trong phân kỳ cận - hiện đại được Các Mác điều chỉnh bổ sung theo hướng duy vật trở thành: “Biện chứng pháp duy vật”; v.v… Trong thời hiện đại và hậu hiện đại cũng như đương đại, theo sự nghiên cứu bước đầu của chúng tôi, có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học và triết học, quốc tế và trong nước, có giá trị nghiên cứu và định hướng to lớn, mang tính phương pháp luận sâu sắc về các hình thái vũ trụ luận toàn thể. Tất cả đã, đang và sẽ tiếp tục tổng - tích hợp, kiến tạo, khai phóng thành những nền tảng phương pháp luận cơ sở, quan trọng và chín muồi để đạt đến vũ trụ quan toàn thể. Tuy nhiên, có một thực tế là, cho đến đầu thế kỷ XXI, nhân loại vẫn chưa có một lý thuyết vũ trụ quan toàn thể, với ý nghĩa là quan niệm hoàn bị thống nhất xuyên suốt về một vũ trụ toàn thể tuần hoàn phát triển. Trong toàn bộ lịch sử cho đến ngày nay, bức tranh về một vũ trụ quan toàn thể như vậy chỉ đang là những “mảnh ghép” thuộc về các triết lý tôn giáo, tri thức khoa học và các kho tàng văn hóa dân gian, theo tiến trình thời gian và bình diện không gian. Chúng ta quan tâm đến vũ trụ quan và vũ trụ quan toàn thể, bởi điều này tạo ra một hệ quả mang tính phương pháp luận cơ bản. Khi phương pháp luận cơ bản này được vượt qua, sẽ đem lại những hiệu ứng thực tiễn quan trọng mà chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và cảm nhận từng bước trong các phần sau. Có một hệ quả đồng thời là nguyên nhân, mang tính đầu mối có thể tác động vào được nhằm làm thay đổi tình hình. Trước hết chúng ta thấy, nội hàm và ngoại diên của khái niệm chuyển-hóa trong phạm vi lý luận, và quan trọng hơn, điều đó dẫn đến khái niệm phát-triển trong phạm vi thực tiễn, của tất cả các thời đại này, đã chưa thể đáp ứng yêu cầu thăng-hoa. Nhìn tổng thể, thời gian qua, hai khái niệm chuyển-hóa trong phạm vi lý luận, và phát-triển trong phạm vi thực tiễn, chỉ mới được sử dụng ở chừng mực nội hàm quá độ để miêu tả “sự tích lũy về lượng của khuynh hướng phát triển”, tức sự phát triển theo nghĩa hẹp, được biểu diễn theo trục ngang, chứ chưa phải “thực diễn sự chuyển hóa về chất” để có được sự phát triển theo nghĩa rộng, được biểu diễn theo trục dọc, tức sự thăng-hoa, trong mối liên hệ phổ quát - trong vũ trụ toàn thể và cùng vũ tru toàn thể. Trong các phần trên, về mặt phương pháp luận tổng quát, để đảm bảo tính hệ thống, logic và hình thức luận, chúng ta đã xem xét vũ trụ quan và vũ trụ quan toàn thể trên cơ sở tổng - tích hợp các sản phẩm nhận thức trên bình diện rộng nhất của nhân loại, bao gồm: các triết lý tôn giáo, tri thức khoa học và các kho tàng văn hóa dân gian, theo tiến trình thời gian và bình diện không gian. Đến đây, trong chừng mực cho phép, để việc tiếp tục nghiên cứu được thuận lợi, trong mức độ không làm thay đổi bản chất vấn đề, chúng ta sẽ tiếp tục mạch câu chuyện bằng phương pháp giản lược hóa. Khuôn khổ lại, xét trong từng hình thái triết học cụ thể, trong tiến trình thời gian, vị trí và vai trò của các vũ trụ quan của các giai đoạn này, đã chưa được thể hiện đầy đủ và phát huy đúng yêu cầu về nhiệm vụ phản ánh - trong tính toàn cục và hoàn bị của nó - đối với đối tượng của nhận thức và hành động, là vũ trụ toàn thể. Vũ trụ quan, trước hết, là lý luận. Đồng thời, và quan trọng hơn, đó còn là phương pháp luận. Tùy vào việc ứng xử với vũ trụ quan trong tư cách nào, sẽ dẫn đến các hệ quả lý luận và thực tiễn khác nhau. Việc ứng xử với vũ trụ quan trong tư cách lý luận, chắc chắn trong một thời gian nhất định, sẽ dẫn đến tính ỳ, kéo theo bối cảnh đầy ứ, là trạng thái sẽ dẫn đến tràn nhưng không vượt qua được một cao độ. Còn việc ứng xử với vũ trụ quan trong tư cách phương pháp luận, sẽ dẫn đến một năng lực nội sinh. Đây là năng lực chứa tiềm năng tự vượt qua tính ỳ và trạng thái đầy ứ. Về mặt phương pháp luận, điều này có nghĩa là, khi tình trạng có thể dẫn đến tính ỳ và sự tràn, thì nội tại hệ thống sẽ tự dị biệt hóa theo các cấp độ - điều chỉnh, thay đổi, cách mạng - để bản thân có thể tự vượt qua chính mình và đạt được một cao độ mới, để qua đó tiếp tục kiến tạo và khai phóng các hoành độ và cao độ mới hơn nữa, trong trục thời gian. Thật ra, việc tách bạch rạch ròi như trên giữa lý luận và phương pháp luận, là sự phân biệt ở cấp độ đơn giản, tuy cần thiết ở chừng mực ban đầu. Có thể hiểu rộng ra rằng, việc ứng xử với vũ trụ quan trong tư cách phương pháp luận là sự vận dụng nhuần nhuyễn việc ứng xử với vũ trụ quan trong tư cách lý luận, vào từng bối cảnh cụ thể thông qua tư duy phát triển, trong vũ trụ toàn thể và cùng vũ trụ toàn thể. Về nhận thức luận, vũ trụ toàn thể, trước hết, đó là bình diện rộng và cao nhất của thực tại. Nhưng, đó chỉ mới là vũ trụ tĩnh. Sự tĩnh của vũ trụ chỉ là hình thái biểu kiến khi đối tượng nhận thức được trừu tượng hóa khỏi tính động tự thân nhằm phục vụ yêu cầu nhận thức những trạng thái phức hợp của các đối tượng khi độ phức hợp của nó vượt quá ngưỡng giới hạn “nhân trắc” của năng lực tư duy bộ não người. Ở đây, yêu cầu và quy trình nhận thức luận đúng đắn là: sau khi trừu tượng hóa các trạng thái phức hợp toàn cục chân thực thành trạng thái giản đơn bộ phận biểu kiến của đối tượng nhận thức, để phục vụ đặc thù năng lực nhận thức “nhân trắc” của não người, cần phải nhanh chóng phức hợp hóa đối tượng trở lại như chân thể, để tiếp tục nhận thức các chiều kích bội phương khác của đối tượng. Tuy nhiên, chúng ta, nhân loại, thường quên vế sau này. Đó là hiện tượng lý-luận-hóa-kéo-dài, với biểu hiện là xơ cứng hóa nhận thức. Sự kiềm chế nhận thức trong lý luận vượt quá thời gian tính hữu hạn sẽ làm suy yếu năng lực nhận thức. Kỹ năng ở đây là cần phương pháp luận hóa lý luận. Điều này thể hiện rõ nhất tại các đối tượng nhận thức có các chiều kích rộng và cao nhất của thực tại, như vũ trụ toàn thể. Phương thức phản ánh phức hợp toàn cục chân thực trong tính nguyên lý của đối tượng nhận thức chính là phương thức phản ánh sự vật trong tính toàn thể của nó. Chúng ta sẽ thấy, chính sự kéo dài hoặc kiềm chế yêu cầu phản ánh phức hợp toàn cục chân thực trong tính nguyên lý của đối tượng nhận thức đối với những đối tượng nhận thức có các chiều kích rộng và cao nhất của thực tại như vũ trụ toàn thể, đã làm suy yếu, thậm chí suy kiệt, năng lực thăng hoa của nhân loại. Như vậy, trong mối quan hệ biện chứng giữa lý luận, phương pháp luận và nhận thức luận, thì đầu mối có thể tác động vào để có thể làm thay đổi tình hình nằm ở nhận thức luận. Nguyên liệu để thực hiện sự tác động nhằm có thể làm thay đổi tình hình trong nhận thức luận nói trên, là hệ thống thông-tin phức hợp toàn cục chân thực mang tính nguyên lý của đối tượng nhận thức, trong các chiều kích rộng và cao nhất của thực tại, như vũ trụ toàn thể. Kỹ thuật để thực hiện sự tác động nhằm có thể làm thay đổi tình hình trong nhận thức luận nói trên, thông qua việc đón nhận hệ thống thông-tin phức hợp toàn cục chân thực mang tính nguyên lý của đối tượng nhận thức, trong các chiều kích rộng và cao nhất của thực tại, như vũ trụ toàn thể, có những đòi hỏi đặc thù. Sự đặc thù này có tính khách quan, do cách đón nhận hệ thống thông-tin từ các chiều kích hữu hạn, có sự khác biệt rất lớn, thậm chí trái ngược, với cách đón nhận hệ thống thông-tin từ các chiều kích vô hạn. Kỹ năng đón nhận hệ thống thông-tin phức hợp toàn cục chân thực mang tính nguyên lý của đối tượng nhận thức, trong các chiều kích rộng và cao nhất của thực tại, như vũ trụ toàn thể, sẽ không phải là mở rộng hoăc thay đổi đối tượng nhận thức, mà là mở rộng hoặc thay đổi “hệ-quy-chiếu-nhận-thức”. Vật lý học và vũ trụ học hiện đại và đương đại đã cho thấy năng lượng và thông tin có các bản thể tương ứng là sóng và hạt. Sóng và hạt luôn có mặt ở bất kỳ chiều kích dù rộng và cao nhất nào của vũ trụ. Bởi, đó là “chân thể” của vũ trụ. Trên con đường đi tìm kiếm thông-tin mang hình thái nguyên lý của đối tượng nhận thức, trong tính nguyên liệu, nhằm phục vụ thăng hoa nhóm-hành-trang-tư-tưởng của con người và loài người, bao gồm nhận thức luận, phương pháp luận và lý luận, trong đó nhận thức luận có vai trò đầu mối, chúng ta sẽ cùng nhau tìm đến các nguyên lý sóng - hạt và giải mã hóa các thông tin mang tính bản thể luận của vũ trụ toàn thể. Các công cuộc nỗ lực bứt phá ra đi hết mình của nhân loại cho đến ngày nay nhằm tìm kiếm mẫu số chung nhất quán giữa các cặp thái cực đối lập trong thực tại, lý luận và khoa học như đã nói trên, dường như nhất loạt đều đang vấp phải những bài toán chưa thể vượt qua được với tất cả các phương pháp luận đặc thù. Sự tìm kiếm thực sự đã và đang buộc phải bắt đầu vươn đến các phương pháp luận phổ quát - mà một trong những đặc điểm nội sinh và tất yếu của các phương pháp luận phổ quát là tính phổ dụng. Bên cạnh phương pháp luận của triết học tây phương với bạt ngàn thành lũy lý luận, khoa học và thực tiễn đã nuôi dưỡng và nâng đỡ nhân loại phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay, trong đó đỉnh cao là phép biện chứng; phương pháp luận của triết học đông phương dường như lại ẩn tàng trong nó các mã khóa và bí quyết giải đáp cho những bài toán đang thử thách nhân loại. Sự tìm hiểu, so sánh, đối chiếu, tổng - tích hợp hạt nhân hợp lý của triết học tây phương và triết học đông phương, đang gợi mở cho chúng ta phương thức tìm kiếm mẫu số chung nhất quán giữa các cặp thái cực đối lập như vừa nói trên, thông qua cặp phạm trù có tính chất trừu tượng và khái quát nhất trong toàn bộ hệ thống triết học đông phương, trong đó chủ yếu là triết học đông phương cổ dại và tiền cổ đại, đó là cặp phạm trù: “nhất-nguyên” và “nhị-nguyên”. Chúng ta sẽ thấy trong các phần sau, sự tìm kiếm mã khóa và giải mã thông qua phương pháp luận đông phương cổ đại và tiền cổ đại với phân nhánh triết học “nhị-nguyên” trong sự vận dụng so sánh, đối chiếu, tổng - tích hợp vào hiện thực đời sống nhân loại qua các thời đại, cho thấy “phương thức tiến hóa nhị-nguyên” thật sự đã góp phần quyết dịnh đưa lịch sử nhân loại phát triển đến trang huy hoàng của ngày hôm nay. Thật vậy, việc tìm hiểu phương thức “nhị-nguyên-hóa” từ câu chuyện thời sự nóng hổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được trình bày trong đoạn dưới đây sẽ giúp chúng ta thấy được tầm quan trọng của phương thức vận động “nhị-nguyên-hóa” này trong thực tại và khoa học. Nhưng, trước hết, cần thấy rằng, từ trên bình diện khoa học - để có thể giải quyết rốt ráo một cách có hệ thống toàn bộ những tồn tại tư biện đang đặt ra, và kể cả trong thực tiễn - để có được sự “phát-triển-thăng-hoa” hạn chế hệ lụy nhị nguyên đối đãi tiêu cực, thì tương lai nhân loại dường như đang cần đến triết học “nhất-nguyên” với tư cách một trong những sự bổ khuyết trong tiến trình từng bước hoàn thiện tư duy triết học, cả về lý luận, và quan trọng hơn, như chúng ta đang rất quan tâm, là về phương pháp luận. Sự kiện khoa học và thực tiễn bao trùm đang thu hút tất cả các quốc gia, nền kinh tế và nhà khoa học trên toàn thế giới hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra một phương thức sản xuất kỳ lạ và dị thường theo nghĩa chưa từng có từ trước đến nay trong lịch sử loài người. Phương thức sản xuất đó dựa trên một nguyên lý nhận thức mới mẻ. Khi “lượng kiến thức” đã đạt đến một “giới hạn” về “chất”, muốn mở rộng nhận thức hoặc thay đổi hiện thực, vấn đề bắt đầu không phải nằm ở chỗ cố gắng, nỗ lực mở rộng hoặc thay đổi đối tượng nhận thức, mà là nhẹ nhàng, từng bước mở rộng hoặc thay đổi “hệ-quy-chiếu-nhận-thức”. Việc mở rộng hoặc thay đổi hệ quy chiếu nhận thức mới sẽ đem lại những hiệu ứng trong nhận thức và hiện thực không thể nào hình dung trước được bằng nền tảng tư duy và lượng kiến thức trong hệ quy chiếu nhận thức cũ. Nó sẽ tạo ra những chiều kích không-thời gian - và chiều kích ngoài không-thời gian - mới lạ, mà bằng nhận thức và tư duy trong hệ quy chiếu nhận thức cũ, chúng ta sẽ cho là “ảo tưởng”. “Ảo cảnh” như việc đi trong sa mạc thấy hồ nước thật ra chính là một hình thái “cảnh giới” phức hợp, là hệ quả của việc hệ quy chiếu nhận thức lành mạnh - của tình trạng tâm-sinh lý khỏe mạnh - đã bị buộc phải nhường chỗ cho hệ quy chiếu nhận thức không lành mạnh. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xuất hiện một hệ quy chiếu nhận thức không lành mạnh ở đây, thuộc về bộ máy sinh học của sự nhận thức, đó là tình trạng tâm sinh lý, trạng thái khát nước cùng cực của cơ thể và bộ não - trong sự khác biệt về chức năng giữa hai bán cầu đại não phải và trái với nhiều điều chưa giải mã được nhưng thể hiện rất rõ quan hệ đối đãi, thậm chí đối lập trên con đường nhận thức thống nhất thực tại. Trong những chiều không-thời gian đời thường của những người không đang bị sắp chết khát trong sa mạc, là những người ở nhà hay đang xem phim trên truyền hình, tức những người đang ở trong hệ quy chiếu nhận thức “lành mạnh”, rõ ràng khả năng xuất hiện của các hồ nước này là không “thực”. Bởi, đơn giản, trong những tình huống nếu có như vậy, chúng ta đang chỉ là những người-quan-sát-bàng-quan. Sự phân tích trên dẫn đến một nhận thức là: những “người-quan-sát-không-bàng-quan” là những người có thể tự đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh cụ thể, một cách “trừu tượng”. Trong câu chuyện ở đây, đó là những người ở nhà hay đang xem phim trên truyền hình nhưng có thể “trừu tượng hóa” mình vào hoàn cảnh, tâm-sinh lý nhân vật để có thể khóc hoặc “chết” cùng với họ. Trong câu chuyện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở đoạn dưới đây, chúng ta sẽ thấy những “người-quan-sát-không-bàng-quan” - trên bình diện khoa học - đầu tiên chính là những nhà điện toán. Trong thời kỳ đầu ra đời của điện toán, họ khác những người bên ngoài ngành điện toán ở năng lực toán học để có thể cảm nhận được tính “thực” của những “cảnh giới” toán học, phần mềm điện toán. Mà đối với phần còn lại của nhân loại, việc “điện-toán-hóa” thành những dãy số hoặc sau này là những đám mây số để nhận thức thực tại, dẫu thuyết minh cách nào, thì vẫn có cảm giác là “không-gian-ảo”. Phương thức sản xuất đặc biệt của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt nền tảng trên một nguyên lý nhận thức là: có thể tạo ra sự biến đổi ‘thực tại” vật lý với thao tác buớc qua bước lại một “cảnh giới” toán học khác biệt và tương đối độc lập - do từ những đặc tính cấu tạo nội tại riêng có - được tạo ra bên ngoài “thực tại” vật lý đó. Phương thức sản xuất đó có hạ tầng kỹ thuật đặc thù để tạo ra biện pháp tương tác phi vật lý, tức tạo ra sự biến đổi toán học, để làm thay đổi cấu trúc toán học nội tại của thực thể vật lý đó ở bên ngoài trước, rồi sau đó mới di chuyển cấu trúc toán học đã được thay đổi đó vào thực thể vật lý, nhằm đem lại hệ quả thay đổi tính vật lý cho thực thể vật lý. Chúng ta sẽ cùng nhau mô tả ngắn gọn quá trình vận hành “logistics” của phương thức sản xuất 4.0. Đầu tiên, phương thức sản xuất 4.0 mô phỏng và phản chiếu cấu trúc của tồn tại từ “vương-quốc-thực-tại” sang “vương-quốc-số”. Tiếp theo, phương thức sản xuất 4.0 thực hiện việc sáng tạo toàn bộ và trọn vẹn hiện thực tại tầng cao vương quốc “số”. Cuối cùng, phương thức sản xuất 4.0 phản hồi cấu trúc của hiện thực từ tầng cao vương quốc “số” về vương quốc “thực tại” để qua đó bằng các công cụ máy móc tạo ra sản phẩm vật thể phục vụ thực tiễn cuộc sống. Có thể hiểu điều này cũng giống như cách chúng ta đã biến âm thanh thành tín hiệu viễn thông và sau đó từ tín hiệu viễn thông chuyển trở lại thành âm thanh để nghe thông qua việc sử dụng điện thoại di động. Và, sóng viễn thông, đối với một số người bên ngoài ngành viễn thông, thì vẫn có cái gì đó như là “ảo”, bởi, đơn giản là họ không phải hàng ngày “lao động” cật lực với “hình thái tồn tại” này để duy trì tình trang phủ sóng ổn định cho người tiêu dùng. Điều lớn hơn nhiều - và ở đây có sự liên quan trong phần trình bày của chúng tôi - mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm được là cung cấp cho chúng ta nhận thức mới về một “phương-thức-biến-đổi-thực-tại” cho nhân loại. Ý nghĩa triết lý của cách mạng công nghiệp 4.0 là ở chỗ: 1. Nó nhận ra sự tồn tại của một “cảnh giới” khác biệt và tương đối độc lập về mặt cấu trúc vật thể so với bản chất của thực tại vật lý hiện hữu; 2. Nó nhận ra “năng lực biến đổi thực tại” của “cảnh giới” này; 3. Nó nhận ra “khả năng biến đổi thực tại” với thao tác đi về qua lại một “cảnh giới” khác biệt từ bên ngoài; 4. Nó tìm ra được cách biến đổi “cảnh giới” này. Nguyên lý điện toán đã tạo ra khả năng soi chiếu mọi sự tồn tại về một bình diện cao hơn với cấu trúc toán học thông qua hai con số 0 và 1. Những nhà phát minh ra nguyên lý điện toán chính là những nhà “nhị nguyên học” hiện đại của nhân loại. Bởi, nhận thức và hành động bằng cách đưa toàn bộ vũ trụ trong ta và quanh ta về một cấu trúc chỉ có hai thành tố cơ bản (số 0 và số 1), chính là biểu hiện cụ thể dưới dạng số hóa của vũ trụ quan và nhân sinh quan nhị nguyên theo nghĩa mà chúng ta đang sử dụng đối với từ nhị nguyên, với tư cách một trong hai khái niệm phản ánh khái quát nhất của triết học đông phương cổ đại và tiền cổ đại đối với vũ trụ toàn thể. Rõ ràng, phương thức vận động “nhị-nguyên-hóa” hay “phương thức tiến hóa nhị-nguyên” thật sự đã góp phần quyết dịnh đưa lịch sử nhân loại phát triển đến đỉnh cao, với thành quả vĩ đại là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với phương thức sản xuất 4.0 ngày nay. Tuy nhiên, trong vũ-trụ-nhị-nguyên, thì mọi sự tồn tại đều không thể vượt ra ngoài các quy định đối đãi cứng nhắc của nhị nguyên. Sự xuất hiện - ngày càng nhiều, cao, khó - các cặp thái cực đối lập đã, đang và sẽ từng bước hiển lộ ra như chúng ta đều đang cùng thấy ở chiều hướng tăng lên cả về số lượng và chất lượng trong khoa học và đời sống, lý luận và thực tiễn, chính là hệ quả tất yếu của khuôn khổ nhị nguyên. Xét đến cùng, mạch tìm kiếm để có được sự phát triển thăng hoa - tức tiết chế các hệ lụy nhi nguyên đối đãi tiêu cực giữa các cặp thái cực đối lập - sẽ dẫn đến việc nhân loại tất yếu cần đến một nền triết học bổ sung, với tư cách một trong những sự bổ khuyết trong tiến trình từng bước hoàn thiện tư duy triết học. Đó là triết học “nhất nguyên”, với nội hàm cơ bản là sự đối đãi với vũ trụ quan và nhân sinh quan “nhị nguyên” và ngoại diên là sự tiếp giáp lồng ghép với các nền triết học khác. Khái niệm “nhất nguyên” là nội hàm trừu tượng nhất của một “trạng thái tồn tại” theo triết học nói chung và triết học đông phương cổ đại và tiền cổ đại nói riêng, mà chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu đưới đây trên bình diện vật lý. Trước vị trí tương ứng thời điểm 10[-43].giây kể từ vụ nổ lớn, tức thời điểm Planck, là khoảng thời gian được gọi là kỷ nguyên Planck. Chỉ riêng yếu tố nhiệt độ, trên 1,417×1032 độ Kelvin, thì không một hình thái tồn tại vật lý nào có thể ra đời được. Trước hết, tại đây, chúng ta cần nói ngay đến một sự kiện rất quan trọng, mang tính bước ngoặt cả từ vật lý đến triết học. Đó là: chỉ đến tại thời điểm Planck, vũ trụ mới phân lập kết tụ đến liều lượng mức độ nhất định và hình thành môi trường tương thích để có thể làm xuất hiện những hạt cơ bản đầu tiên. Từ đây, dưới giác độ triết học luận và lịch sử luận, chúng ta thấy, vũ trụ mới có thể bắt đầu cố kết tạo ra và “sở hữu” một hình thái tồn tại và phát triển là: “đời-sống-vật-lý”. Phương thức tồn tại theo cấu trúc nhị nguyên, tự nó đã hàm chứa “cơ sở thực tiễn” cho sự ra đời của hai mặt đối đãi và đối lập là “tôi” và “của tôi”, là cơ sở triết học của khái niệm “sở hữu”. Điều này cũng giống như khi sinh con, người phụ nữ đã vượt qua vai trò phụ nữ để dảm nhận vai trò mẹ trong quan hệ đối đãi với vai trò con trong người con của mình. Người phụ nữ “nhất nguyên” trước khi sinh con vẫn còn đó trong vai trò mẹ “nhị nguyên” trong quan hệ đối đãi với vai trò con “nhị nguyên” trong người con của mình sau khi sinh ra người con. Cái của-tôi tồn tại và phát triển do bởi hình thái tồn tại và cấu trúc nhị nguyên đã tạo “cơ sở thực tiễn” để cái-tôi-không-tự-thân-mà-là-cái-tôi-đối-đãi, tồn tại và phát triển. Tương tự, về mặt triết lý, sau khi vượt qua vũ môn Planck, tuy đã làm xuất hiện dạng “đời sống” mà trước đó, trong kỷ nguyên Planck, là chưa hề có, và rất “mới lạ”, mang tính “lịch sử”, là đời sống vật lý, nhưng, vấn đề là ở chỗ, vũ trụ vẫn giữ cho mình và tự hàm chứa “cơ sở thực tiễn” cho sự xuất hiện đủ hai mặt đối đãi và đối lập của trạng thái cấu trúc nhị nguyên. Chúng ta thấy, phương thức mà “đời-sống-phi-vật-lý” trong vũ trụ nhất nguyên trước bức tường Planck đã chuyển hóa thành “đời-sống-phi-vật-lý” trong vũ trụ nhị nguyên sau bức tường Planck, có thể được nhận thức theo hình thức luận triết học như vậy. Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu thêm về cơ sở hiện thực làm nền tảng cho sự phản ảnh vào hình thức luận triết học như vừa nói trên của sự tồn tại của vũ trụ phi vật lý trong vũ trụ nhị nguyên, bên cạnh vũ trụ vật lý. Để tìm hiểu về cơ sở hiện thực đó, cần thấy rằng có một sự kiện “vật lý” rất quan trọng, tương tự việc vũ trụ đã làm xuất hiện những hạt cơ bản đầu tiên, bắt đầu tại thời điểm Planck. Và chúng ta cần thiết phải nói ngay lập tức và song song - ở đây - về sự kiện này ngay sau khi trong đoạn trên chúng ta vừa nói về thời điểm xuất hiện của những hạt cơ bản đầu tiên. Sự kiện “vật lý” đó như sau: những phản-hạt-cơ-bản đầu tiên của vũ trụ cũng đã được đồng thời xuất hiện, cùng-bắt-đầu-tại-thời-điểm-Planck. Sự trừu tượng hóa và khái quát hóa - đến cùng - sẽ giúp chúng ta thấy được rằng, bản chất “phi vật lý” của vũ trụ - suốt trong giai đoạn sau bức tường Planck -là một bản chất có thể nhận thức được. Bởi, một trong những biểu hiện “biểu kiến” và “khúc xạ” của bản chất “phi vật lý” của vũ trụ - suốt trong giai đoạn sau bức tường Planck - chính là tính chất “phi tuyến tính” và bản chất “bất định” của sự vận động luợng tử. Thật vậy, cũng như “chất” và “lực” là các thành tố của sự tác động vật lý đã tạo nên các vận động tuyến tính, thì - theo nguyên lý tương ứng của vũ trụ - các vận động phi tuyến tính cũng phải được tạo ra từ các thành tố của sự tác động phi vật lý. Rõ ràng, suốt trong giai đoạn sau bức tường Planck, các vận động phi tuyến tính cũng phải được tạo ra từ các thành tố của sự tác động phi vật lý. Về mặt triết học, các hạt cơ bản là cơ sở hiện thực của bản chất “vật lý” của vũ trụ. Các-hình-thái-đối-đãi-và-đối-lập trong thể thống nhất về nguyên lý với các hạt cơ bản, tất yếu cũng phải là cơ sở hiện thực của bản chất “phi vật lý” của vũ trụ. Trong các-hình-thái-đối-đãi-và-đối-lập trong thể thống nhất về nguyên lý với các hạt cơ bản, thì hình thái đầu tiên, đã được chúng ta xem xét đến trong các phần trên, là hình thái: “phản hạt cơ bản”. Ngoài ra, trong các kiến thức cơ bản đến nay của khoa học vật lý thang hạ nguyên tử, còn có các hình-thái-đối-đãi-và-đối-lập-trong-thể-thống-nhất-về-mặt-triết-học-với-hạt-cơ-bản khác, bao gồm: “hạt ảo” và “phản hạt ảo”. Từ góc nhìn triết học duy vật biện chứng, rõ ràng, bản chất phi vật lý của vũ trụ trước bức tường Planck có được là do tại đây chưa hề có mặt các hạt vật lý cơ bản và bản chất phi vật lý của vũ trụ sau bức tường Planck có thể được nhận thức bằng phương thức nhận thức phi tuyến tính. Từ đây, về mặt triết lý, có thể rút ra ba nhận xét ứng chiếu. Một là, có một lát cắt xuyên xuốt về một bản chất phi vật lý của vũ trụ đi theo suốt từ trước đến sau bức tường Planck. Hai là, từ sau bức tường Planck, tức từ khi có không gian và thời gian, thì xuyên qua hệ thống không gian và thời gian này, có một sợi dây liên hệ về một bản chất phi vật lý được duy trì và truyền trao không đứt đoạn. Ba là, kết nối với giai đoạn trước bức tường Planck, sợi dây liên hệ về một bản chất phi vật lý của vũ trụ đã được truyền trao liên tục từ đầu vụ nổ lớn đến nay. “Sợi-dây” vũ trụ mang liên hệ phi vật lý được truyền trao liên tục từ đầu vụ nổ lớn đến nay này chính là một “trạng thái tồn tại” của vũ trụ. Nó không bị biến chất theo thời gian và không gian. Nó không “tồn tại” nhưng không phải không “tồn tại”. Nó “tồn tại” trong trạng thái không “tồn tại”. Nó “tồn tại” trong trạng thái không bị “vật lý hóa”. Nó “tồn tại” không có tính-vật-thể. Nó không thể bị tác động bởi sự chia chẻ vật lý. Nó không thể bị tác động bởi tất cả mọi sự chia chẻ. Nó không thể bị chia đôi hoặc cắt lìa. Dường như trong câu chuyện đến đây, tất cả chúng ta đều đang chia sẻ sự cảm nhận và thức nhận rằng: nhân loại không thể sử dụng tất cả và nguyên nghĩa những khái niệm triết lý của kỷ nguyên vật lý để mô tả về tính “phi vật lý” này. Về nguyên lý, ngôn ngữ là sản phẩm lịch sử của kỷ nguyên vật lý, tức là sau kỷ nguyên Planck; chỉ sau khi có sự ra đời của bộ não người, với cấu trúc gồm hai bán cầu phải và trái. Khái niệm và theo đó là ngôn ngữ không thể có sự tương đồng tuyệt đối trong quá trình phản ảnh vào hệ quy chiếu của vũ trụ phi vật lý, kể cả trước và sau sự kiện quan trọng mang ý nghĩa phân vạch Planck, cả về mặt khoa học, triết học và lý luận. Do vậy, tất cả những “khái-niệm-triết-học-trong-kỷ-nguyên-vật-lý” đã thực sự tỏ ra không đủ năng lực tuyệt đối trong yêu cầu mô tả trạng thái vũ trụ phi vật lý này. Đây là một trong những nguyên nhân cản trở cơ sở đầu tiên, mà cho đến đầu thế kỷ XXI, nhân loại vẫn chưa có được một lý thuyết vũ trụ quan toàn thể như đã nói trong phần trên. Vũ trụ quan tinh khiết là hệ thống quan điểm di qua một lăng kính trong sáng về một-vũ-trụ-toàn-thể. Vũ trụ quan tinh khiết thấy rằng vũ trụ là một vũ trụ vật lý, có tính đến sợi-dây vũ trụ mang tính phi vật lý được truyền trao liên tục từ đầu vụ nổ lớn đến nay và giữa hai trạng thái vũ trụ này có sự liên hệ, tương tác với nhau. Vũ trụ phi vật lý có trước bức tường Planck, rõ ràng, đã là “nguyên liệu” của trang thái vũ trụ vật lý sau bức tường Planck. Đồng thời, trạng thái vũ trụ phi vật lý sau bức tường Planck cũng có vai trò quan trọng đối với trang thái vũ trụ vật lý (sau bức tường Planck), do từ sự phản ảnh về vai trò quan trọng của nguyên lý bất định của vật lý lượng tử trong toàn bộ nền tảng vật lý nói chung. Và một chi tiết nữa là, vũ trụ phi vật lý trước bức tường Planck rõ ràng cũng đã là “nguyên liệu” của trang thái vũ trụ phi vật lý sau bức tường Planck. Sự khái quát dã đưa chúng ta đến một nhận xét: vũ trụ phi vật lý có trước bức tường Planck đã là nền tảng của tất cả mọi trạng thái khác của vũ trụ. Vũ trụ phi vật lý trước bức tường Planck đã quy định hai trạng thái đồng thời của vũ trụ sau bức tường Planck còn lại. Vũ trụ phi vật lý trước bức tường Planck chính là trạng thái “nhất nguyên” và hai trạng thái đồng thời của vũ trụ sau bức tường Planck còn lại chính là trạng thái “nhị nguyên” đã được mô tả trong triết học đông phương cổ đại và tiền cổ đại. Và đây cũng chính là nền tảng sau này của “cây phả hệ” vũ trụ. Cách nhìn này không thể bị che mờ bởi bất kỳ quan niệm chủ quan nào của người-quan-sát. Bởi, chính người quan sát này xét đến cùng cũng chỉ là một thành tố hữu cơ bên trong của vũ-trụ-toàn-thể. Phải giải thoát khỏi vị trí người quan sát bên ngoài để hoàn toàn hóa thân thành người trải nghiệm bên trong thì mới có thể cảm nhận và thức nhận được toàn thể về cái vũ trụ trong đó có và không thể thiếu chính mình - với tư cách là một tiểu vũ trụ biệt phái của vũ trụ đại cuộc thống nhất trong đa dạng và mâu thuẫn. Điều này, cũng tương tự như việc những người-quan-sát-không-bàng-quan đã “hội-nhập” một cách trừu tượng vào hoàn cảnh cụ thể của nhân vật để có thể khóc hoặc “chết” cùng họ trong sa mạc với câu chuyện mà chúng ta vừa ví dụ trong đoạn trên. Vũ trụ quan tinh khiết dưới góc nhìn của triết học nhất nguyên đông phương cổ đại và tiền cổ đại, không chỉ là vấn đề học thuật, dù trước hết, nó phải là một-vấn-đề-học-thuật như chúng ta đang cố gắng sơ nét một cách khó hoàn thiện để miêu tả. Vũ trụ quan tinh khiết còn có những nội hàm chức năng khác quan trọng hơn, theo nghĩa nó có thể tác động vào hiện thực để giúp chúng ta điều chỉnh và thay đổi đời sống. Trong khuôn khổ ở đây, chúng ta trước hết quan tâm đến hai nội hàm chức năng quan trọng, đó là: năng-lực-thực-tiễn và sức-mạnh-thực-tế. Chúng ta sẽ đi sâu vào các nền tảng, cơ sở của năng lực thực tiễn và sức mạnh thực tế của vũ trụ quan tinh khiết. Biển có hai mặt đối lập bộ phận của một chức năng triết lý toàn thể. Hai mặt chức năng triết lý đối lập bộ phận của biển là: 1. chia cắt các châu lục; 2. nối liền các vùng mà nó chia cắt. Chức năng triết lý toàn thể của biển chính là sự thống nhất hữu cơ trong mâu thuẫn của hai mặt chức năng triết lý đối lập bộ phận nói trên. Nhân loại đã thường xuyên và không ngừng chuyển qua rồi chuyển lại từ hai đầu thái cực tâm thức đối lập và bộ phận như đã nói về biển trong hành xử với vũ trụ toàn thể, trên hành trình tồn tại, phát triển và sáng tạo, trong và cùng vũ trụ toàn thể của mình. Họ, có lúc thì làm người quan sát đứng bên ngoài vũ trụ. Có lúc thì làm người trải nghiệm nằm bên trong vũ trụ. Có lúc như thuyết tương đối chỉ nhận thức vũ trụ vật lý. Có lúc như thuyết lượng tử chỉ cảm nhận vũ trụ phi vật lý. Lẽ ra, do vũ trụ thực tại là một-vũ-trụ-toàn-thể bao gồm tất cả các hình thái bộ phận đối lập và mâu thuẫn cụ thể, nên cần phải hành xử theo cách, dù có thể mới nhìn biểu kiến từ bên ngoài thì thấy cơ hồ như đầy mâu thuẩn và hỗn độn, nhưng, thực sự về bản chất bên trong, thì lại chứa chan sự thống nhất và hài hòa, một sự thống nhất mâu thuẫn biện chứng. Vũ trụ quan không chỉ là khát vọng. Đó còn là hình thái hành trang tiền đề. Đây là một loại hành trang đặc thù. Sự khác biệt của nó với tất cả các loại hành trang khác ở chỗ chính tiềm năng kiến tạo và khai phóng dưới hình thái hành trang mà nó hun đúc cho hành trình là loại giá trị có năng lực “tỏa sáng”. Như chúng ta đều biết, bất kể vũ trụ tàng chứa trong nó vô tận những điều mất cân bằng như là chiều nghiêng toàn thân đặc trưng của vận động viên điền kinh trên đường đua, nhưng cuối cùng thì sự lộng lẫy của giải vô dịch đã minh tả rằng chiều nghiêng về phía trước thoạt nhìu có vẻ không cân đối đó chính là sự hài hòa. Cũng vậy, sự xúc cảm quyện chặt hiểu biết về vũ trụ được gọi là vũ trụ quan trong một con người chính là chiều nghiêng về phía trước đặc trưng đó của vận động viên điền kinh. Đó là vẻ đẹp của sự hài hòa trong xu thế phát triển. Bởi, điều đó cũng đơn giản như là, không ai có thể không hiểu chính mình mà có thể sống và phát triển hài hòa được. Rõ ràng, vũ trụ quan và vũ trụ quan toàn thể là những hành trang không thể thiếu của mỗi con người cá thể và nhân loại toàn thể cho một cuộc hành trình hài hòa. Triết học nhất nguyên luận giải trước hết về “vũ trụ quan tinh khiết” và sau đó - là hệ quả tự nhiên, trực tiếp và mạnh mẽ từ điều thứ nhất - về “nguyên lực thôi thúc tiến hóa từ sự giác ngộ về vũ trụ quan tinh khiết” đó. Vũ-trụ-quan-tinh-khiết là cơ sở của cách mạng tâm thức. Nguyên-lực-thôi-thúc-tiến-hóa-từ-sự-giác-ngộ-về-vũ-trụ-quan-tinh-khiết là cơ sở của cách mạng động lực tiến hóa. Cách mạng tâm thức là đêm trước của cách mạng động lực. Như mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù lý thuyết và thực tiễn, cách mạng tâm thức là cuộc cách mạng lý thuyết và cách mạng động lực là cuộc cách mạng thực tiễn. Cách mạng tâm thức - cách mạng lý thuyết không có mục dích tự thân. Cách mạng động lực - cách mạng thực tiễn có mục đích nội tại. Cách mạng tâm thức tạo điều kiện và thúc đẩy cách mạng động lực. Cách mạng động lực quyết định giá trị và ý nghĩa của cách mạng tâm thức. Như vậy, từ góc nhìn hành động, và xét đến cùng là điều chúng ta quan tâm nhất, vũ-trụ-quan-tinh-khiết chứa “năng-lực-thực-tiễn” về một vườn ươm mầm cho cuộc cách mạng động lực tiến hóa và ẩn tàng “sức-mạnh-thực-tế” để chỉ ra các kỹ năng sinh sống, hoạt động, rèn luyện thuận nguyên lý vũ trụ cho con người thông qua nguyên-lực-thôi-thúc-tiến-hóa-từ-sự-giác-ngộ-về-vũ-trụ-quan-tinh-khiết. Từ câu chuyện ý nghĩa triết lý của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 về nguyên-lý-sáng-tạo-thông-qua-“trung-giới”, chúng ta như chợt cảm nhận được rằng: cách thức nhân loại sáng tạo thực tiễn từ trước đến nay là “sáng-tạo-thực-tiễn-không-thông-qua-trung-giới”. Điều đó có nghĩa là, cho đến nay, về cơ bản, nhân loại chỉ mới biết đến sáng tạo thực tiễn trong nội-tại-hiện-thực-nhị-nguyên. Kết quả tốt nhất của sáng tạo thực tiễn trong khuôn khổ hiện-thực-nhị-nguyên là các sản phẩm nhị nguyên tốt nhất, bao hàm trong đó các cặp thái cực đối đãi đối lập. Chúng ta sẽ tiếp tục mạch suy luận về “năng-lực-sáng-tạo-thực-tiễn” của triết học nhất nguyên. Như trong phần trên đã nói, trong thực tiễn, để có được sự “phát-triển-thăng-hoa”, tức phát triển nhưng cố gắng tiết chế các hệ lụy nhị nguyên đối đãi tiêu cực, tương lai nhân loại cần đến triết học nhất nguyên, trong ý nghĩa mà chúng ta đang sử dụng của từ nhất nguyên, với tư cách một trong những sự bổ khuyết trong tiến trình từng bước hoàn thiện tư duy triết học. “Phương-thức-sáng-tạo-thực-tiễn” của triết học nhất nguyên này là câu chuyện gần giống cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trước hết, cần nhận thức rằng có một “cảnh giới” nhất nguyên bên ngoài thực tại nhị nguyên hiện hữu mà chúng ta đang tồn tại với nhu cầu sáng tạo hiện thực. Tiếp theo, bằng các “thao tác tư tưởng”, chúng ta “tương tác” hai chiều với “cảnh giới” nhất nguyên. Tại “cảnh giới” nhất nguyên, chúng ta tạo ra một sự biến đổi về “khuôn mẫu”. Và sau đó, chúng ta di chuyển sự biến đổi về khuôn mẫu đó về thực tại nhị nguyên hiện hữu để sáng tạo hiện thực thông qua việc làm đầy các khuôn mẫu đó bằng chất liệu nhị nguyên. Đó là những nguyên lý tiền đề cơ bản của việc ứng dụng triết học nhất nguyên để sáng tạo hiện thực. Các “thao tác tư tưởng” vừa được trình bày trên có các nguyên lý vật lý - kỹ thuật liên quan. Các “gói thông tin lượng tử” là các hình thái tồn tại của tư tưởng. Xét các gói thông tin lượng tử trong trạng thái hạt. Một đặc điểm cơ bản của hạt là tiềm năng bức xạ. Không phải trong mọi trạng thái, hạt đều có khả năng thực hiện năng lực bức xạ. Hạt chỉ có khả năng thực hiện năng lực bức xạ, khi và chỉ khi, có năng lượng - và qua đó là thông tin - đủ lớn, từ hai loại nguồn: nội lực và tha lực. Cũng như bản chất lưỡng tính “sóng - hạt” của các vi thể cơ bản, các gói thông tin lượng tử có bản thể là các vi thể cơ bản, được xét ở đây trong tư cách hạt, cũng có bản chất lưỡng tính “sóng - hạt”. Trong mỗi trạng thái “sóng” hoặc “hạt”, chúng đều luôn phải tuân thủ các nguyên lý bản thể đối ứng của mình. Tương tự, bức xạ cũng có hai dạng: bức xạ dạng “sóng” và bức xạ dạng “hạt”. Bức xạ “sóng”, trong tư cách là một hình thái - hình thái thứ nhất - của bức xạ, đã trở thành nền tảng vật lý - kỹ thuật của rất nhiều thế hệ công nghệ thực tiễn từ nửa đầu thế kỷ XX, đầu tiên là trong y học, với các máy chụp X-quang. Bức xạ “hạt”, trong tư cách là một hình thái - hình thái thứ hai - của bức xạ, chính là nền tảng vật lý của các “thao tác tư tưởng” đã được mô tả trong phương thức sáng tạo thực tiễn của triết học nhất nguyên mà chúng ta đang đề cập. Khi được kích thích - với nguyên liệu là năng lượng và qua đó là thông tin - đúng phương thức và liều lượng, thông qua các loại nguồn nội lực và tha lực, dưới dạng đơn nguồn hoặc tổ hợp nguồn, “hạt” trong các gói thông tin lượng tử sẽ có thể phóng xạ dưới hình thái bức xạ hạt. Đây là cơ sở vật lý - kỹ thuật của các thao tác tư tưởng trong phương thức sáng tạo thực tiễn của triết học nhất nguyên đã nói trong phần trên. Sự trừu tượng hóa và khái quát hóa tiếp theo với mạch phân tích câu chuyện như trên có thể dẫn đến nhận xét ứng chiếu mang tính phương pháp luận quan trọng về mặt hình thái của hệ-quy-chiếu-nhận-thức. Các “hình thái thực tại vật lý cần biến đổi trong phương thức sáng tạo thực tiễn của công nghiệp 4.0” và “thực tại nhị nguyên hiện hữu mà chúng ta đang tồn tại với nhu cầu sáng tạo hiện thực trong phương thức sáng tạo thực tiễn của triết học nhất nguyên” vừa được trình bày trong các phần trên, chính là các hình thái bên trong “vương quốc của thế giới vĩ mô”, tức là các hình thái của thế giới vật lý. Chúng ta sẽ tiếp tục bằng phương pháp suy luận đối ứng, lồng ghép với các quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa trong tư duy đã dẫn đến nhận xét ứng chiếu mang tính phương pháp luận về mặt hình thái của hệ-quy-chiếu-nhận-thức trong phần trên. “Cấu trúc toán học nội tại của các thực thể vật lý trong phương thức sáng tạo thực tiễn của công nghiệp 4.0” và “các gói thông tin lượng tử là các hình thái tồn tại của tư tưởng bên trong cảnh giới nhất nguyên trong phương thức sáng tạo thực tiễn của triết học nhất nguyên” vừa được trình bày trong các phần trên, chính là các hình thái bên trong “vương quốc của thế giới vi mô”, tức là các hình thái của thế giới phi vật lý. Kết hợp với sự nhận xét về mối quan hệ giữa vũ trụ phi vật lý và vũ trụ vật lý mà trong các đoạn trên đã mô tả, rõ ràng, có thể rút ra một trong những nguyên lý tiền đề quan trọng mà chúng ta đang rất quan tâm trong tính thực tiễn của vũ trụ quan tinh khiết. Đó là: trên bình diện triết lý, không phải thế giới vĩ mô tức tính vật lý đã tạo ra và quyết định thế giới vi mô tức tính phi vật lý; mà, ngược lại, chính thế giới vi mô tức tính phi vật lý đã đã tạo ra và quyết định thế giới vĩ mô tức tính vật lý. Và, trong tinh thần biện chứng của sự vận động tuần hoàn có tính chu kỳ như vậy, đến lượt mình, thế giới vĩ mô tức tính vật lý sẽ tác động và thúc đẩy thế giới vi mô tức tính phi vật lý phát triển. Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về tính khoa học của điều này. Thật vậy, khoa học đương đại và nhất là vũ trụ quan vi mô đương đại, đã mô tả tường minh cơ sở vật lý của sự chuyển hóa. Điều rất quan trọng đầu tiên cần nhấn mạnh về mặt phương pháp luận thực tiễn cần trình bày ở đây là: mọi sự chuyển hóa cơ bản đều chỉ có thể và bị bắt buộc phải diễn ra ở cấp độ vi mô. Nói cách khác, mọi sự chuyển hóa cơ bản đều không phải và không thể xảy ra ở cấp độ vĩ mô, Điều này có nghĩa là: nếu trong thực tiễn chúng ta muốn có sự chuyển hóa cơ bản thì không thể không chuyển đối tượng cần chuyển hóa từ trạng thái vĩ mô về trạng thái vi mô. Nếu không thông qua trung giới của trạng thái vi mô thì mọi yêu cầu chuyển hóa đều không thể diễn ra hợp quy luật. Các liều lượng được gọi là “chuyển hóa” ngoại lai trong nội bộ thế giới vĩ mô tức khuôn khổ nhị nguyên mà chúng ta đang thực hiện, chỉ là sự “tích lũy” về lượng chứ chưa phải sự thay đổi căn bản về chất, nên chưa phải là sự chuyển hóa cơ bản. Sự chuyển hóa được thực hiện trong thế giới vi mô và cấp độ nhất nguyên là chuyển hóa nội tại. Khái niệm tường minh và phổ biến của vật lý đương đại và vũ trụ quan vi mô đương đại dùng để mô tả môi trường để thực hiện sự chuyển hóa căn bản về chất trong thế giới vi mô, được gọi là “trường-lượng-tử-tương-đối-tính”. Xét trong tính vật lý là “trường-lượng-tử-tương-đối-tính” và xét trong tính triết học là “thế giới vi mô”, tại đây, có rất nhiều hiện tượng tự nhiên khác thường mà trong thế giới vĩ mô hoàn toàn không thể nào có được, do từ đặc thù cấu tạo bản thể của mình. Đối với các hiện tượng tự nhiên khác thường này, bằng lăng kính đơn thuần của vũ trụ quan vĩ mô đương đại, chúng ta sẽ thấy rất khó hiểu, thậm chí sẽ không thể hiểu được. Nhưng, sứ mệnh và thông điệp của các hiện tượng tự nhiên khác thường này - trong trường lượng tử tương đối tính và trong thế giới vi mô - lại vô cùng to lớn và mang tính cách mạng sâu sắc. Hiện tượng hai “hạt” photon có năng lượng đủ lớn gặp nhau biến thành một cặp “hạt - phản hạt” và hiện tượng một cặp “hạt - phản hạt” gặp nhau sẽ biến thành hai “hạt” photon có năng lượng đủ lớn, chính là một cặp đối ứng trong những hiện tượng tự nhiên vô cùng đặc biệt và quan trọng như vậy, chỉ có thể và bị bắt buộc phải diễn ra trong nội tại thế giới vi mô. Cần nói rõ: photon là “hạt” không có khối lượng và cặp hạt - phản hạt (electron - positron) là “hạt” có khối lượng. Ý nghĩa triết học quan trọng thứ nhất của hiện tượng “vật lý” này là ở chỗ: nó chỉ ra cơ sở và phương thức triết lý của sự chuyển hóa. Thông qua cơ sở và bằng phương thức này, vi mô (xét trong hình thái không có khối lượng) đã chuyển hóa thành vĩ mô (xét trong hình thái có khối lượng). Và từ đó, tất cả các cặp thái cực khác liên quan ở đây: tính phi vật lý/tính vật lý, chiều thuận của vũ trụ/chiều nghịch của vũ trụ, tiến hóa/thoái hóa đã chuyển hóa cho nhau. Ý nghĩa triết học quan trọng thứ hai cần dề cập ở đây của hiện tượng “vật lý” này là ở chỗ: nó chỉ ra đối tượng, cơ sở và phương thức triết lý của sự bức xạ dạng “hạt” của vũ trụ. Trong vũ trụ mà chúng ta đang sinh sống, có bốn loại lực cơ bản; lực điện từ, lực hấp dẫn, lực tương tác yếu và lực tương tác mạnh. Hai loại lực đầu hoạt động dựa trên cơ sở cơ bản là sự bảo tồn bản thể nguyên tử. Hai loại lực sau hoạt động không dựa trên cơ sở cơ bản là sự bảo tồn bản thể nguyên tử, do chúng chỉ hoạt động và tác động thông qua kênh tương tác hạ nguyên tử. Như khoa học vật lý đương đại đã mô tả, chúng ta thấy chỉ có trong thang hạ nguyên tử mới tồn tại “các-hình-thái-đối-đãi-và-đối-lập-trong-thể-thống-nhất-về-mặt-triết-học” với các hạt cơ bản. Mà cho đến nay, nhân loại đã bước đầu phát hiện và mô tả được ba hình thái lớn thuộc nhóm “các-hình-thái-đối-đãi-và-đối-lập-trong-thể-thống-nhất-về-mặt-triết-học” với các hạt cơ bản, đó là: “phản hạt”, “hạt ảo” và “phản hạt ảo”. Về nguyên lý, đây chính là các thành tố mang các cơ chế tương tác mang tính “hộp đen” trong nhận thức luận về thực tại “phi vật lý” của vũ trụ toàn thể. Trong ngôn ngữ đương đại của nhân loại, ở chừng mực đại chúng phổ thông, với tính thiếu chuẩn xác và chưa đầy đủ, nhằm mục đích hữu dụng và phổ dụng, chúng ta có thể tạm gọi các lực điện từ và hấp dẫn thuộc nhóm lực của vũ trụ vật lý; và, các lực tương tác yếu và tương tác mạnh thuộc nhóm lực của vũ trụ phi vật lý, với các luận bàn dưới đây. Chỉ có trong thang hạ nguyên tử, mới tồn tại những hạt không có khối lượng. Điều quan trọng cần lưu ý, hai loại lực theo thứ tự đứng sau trong bốn loại lực kể trên của vũ trụ, gồm lực tương tác yếu và lực tương tác mạnh, là nhóm lực tương tác không liên quan đến khối lượng. Chỉ có nhóm lực tương tác không liên quan đến khối lượng mới có hình thái bức xạ hạt. Nói cách khác, bức xạ hạt là dạng bức xạ có thể biến hóa đối tượng tương tác từ “trạng thế” có khôi lượng thành không có khối lượng và ngược lại. Chính vì lý do đó, bức xạ hạt - hình thái bức xạ duy nhất, khác với bức xạ sóng - là cơ sở vật lý và triết học của sự tương tác “liên-xuyên” trong nội tại vũ trụ toàn thể, giữa vũ trụ phi vật lý và vũ trụ vật lý, giữa vũ trụ vi mô và vũ trụ vĩ mô. Thật vậy, nhóm lực điện từ và hấp dẫn là nhóm lực thuộc về vũ trụ vĩ mô và nhóm lực tương tác yếu và tương tác mạnh là nhóm lực thuộc về vũ trụ vi mô. Nhóm lực điện từ và hấp dẫn không thể điều chỉnh vũ trụ vi mô, nhưng nhóm lực tương tác yếu và tương tác mạnh có thể điều chỉnh vũ trụ vĩ mô. Trong phần trên, chúng ta đã nói về bản thể lưỡng tính sóng - hạt của các vi thể cơ bản. Thật ra, đây chỉ mới là cách phát biểu định tính. Để tìm hiểu định luợng về điều này, chúng ta sẽ đí sâu hơn vào các cơ sở của bản thể lưỡng tính này trên bình diện vật lý. Chính yếu tố tần số, hoặc trong một ý nghĩa khác là bước sóng với giá trị tỷ lệ nghịch đảo với tần số, đã tạo ra sự lưỡng tính này. Tuy nhiên, để tìm hiểu định luợng về các trang thế lưỡng tính này, chúng ta cần bắt đầu từ khái niệm “lượng-tần-số”. Thật vậy, các trạng thế lưỡng tính sóng hạt - tức tình trạng các vi thể cơ bản ở trong các “trạng thái tiền tương tác” mang tính vừa là hạt vừa là sóng - thể hiện rõ nhất tại một khoảng không-thời gian, mà ở đó, lượng tần số là không quá nhặt hoặc không quá khoan. Như vật lý lượng tử đã mô tả, khoảng không-thời gian này được xác định là khoảng không-thời gian nằm giữa hai cực tần số (cực quá nhặt hoặc cực quá khoan). Chúng ta sẽ xem xét tình hình ở hai cực tần số quá nhặt hoặc quá khoan. Tại một đầu khi tần số quá nhặt, tính sóng sẽ thể hiện rất rõ, rất mạnh, một cách rất đặc trưng, và chứa đựng lượng năng lượng rất lớn. Và tại đầu còn lại, khi tần số quá khoan, tính hạt sẽ thể hiện rất rõ, rất mạnh, một cách đặc trưng, và trong nguyên lý tương ứng và đối xứng của vũ trụ, sẽ chứa đựng lượng thông tin rất lớn. Điều quan trọng là, ở cả hai khu vực thái cực này, tính lưỡng tính sóng - hạt thể hiện rất yếu. Và, điêu quan trọng cần nói ở đây là, ngay tại các đỉnh đầu của thái cực, các vi thể cơ bản không còn tính lưỡng tính sóng - hạt. Nói cách khác, xét về “kiểu-tương-tác”, trong sự tương tác giữa hai đối tượng tương tác thông qua“lượng-tần-số”, sự cực đại của tần số tương tác sẽ tạo thành hình thái tương tác dạng sóng điển hình, và sự cực tiểu của tần số tương tác sẽ tạo thành hình thái tương tác dạng hạt điển hình. Và, từ trong sự tương tác và cùng với sự tương tác như là phương thức tồn tại, vận động và phát triển của mình, đối tượng tương tác sẽ tự biến hóa mình về mặt bản thể, để trở thành như là sóng hoặc hạt, tùy theo cách mà chúng tương tác với các đối tượng tuơng tác khác. Theo ý nghĩa này, bản thể không phải là một nguyên lý hoặc tính chất tiên nghiệm và cố định của “chất” hoặc “trường” trong tư cách là hai khái niệm cơ sở của cơ học cổ điển. Trong tinh thần biện chứng, rõ ràng, bản thể hình thành và vận động cùng phương thức tương tác, thông qua sự biến thiên của kiểu-tương-tác và xét đến cùng từ lượng-tần-số tương tác. Đến đây, sự khái quát sẽ dẫn đến điều cần rút ra, hình thái tương tác dạng hạt là hình thái tương tác cơ bản và chủ yếu trong vũ trụ phi vật lý, ở cả hai trường nhị nguyên và nhất nguyên. Do đó, chính hình thái bức xạ dạng hạt, mới tiềm chứa năng lực tươmg tác liên-xuyên giữa vũ trụ nhất nguyên và vũ trụ nhị nguyên. Nói cách khác, hình thái bức xạ sóng là hình thái bức xạ quen thuộc với nhân loại, nhưng đây cũng là hình thái bức xạ có giới hạn đỉnh trần. Đỉnh trần giới hạn - về mặt triết lý của triết học nhất nguyên - của hình thái bức xạ sóng là, chúng có và chỉ có năng lực tương tác trong nội tại vũ trụ nhị nguyên và nói cụ thể hơn là trong nội tại bộ phận vũ trụ vật lý của vũ trụ nhị nguyên. Nhóm lực thang nguyên tử, gồm lực điện từ và hấp dẫn, tức các loại lực tồn tại phổ biến và dễ thấy trong vũ trụ vĩ mô, có nguyên liệu cơ sở của lực là năng lượng. Ngược lại, nhóm lực thang hạ nguyên tử, gồm lực tương tác mạnh và lực tương tác yếu, hoạt dộng trong trường lượng tử tương đối tính và thế giới vi mô, không thể cảm nhận được bằng các giác quan thông thường trong vũ trụ vĩ mô, có nguyên liệu cơ sở của lực là thông tin. Bức xạ “hạt” chính là bức xạ “thông tin”. Hạt và các hình thái lực (bức xạ) của nó, chính là hình thái tiềm năng của thông tin. Thật vậy, trong tác phẩm “Lỗ đen: các bài thuyết gỉang trên đài”, Nhà xuất bản Trẻ, 2017, Nguyễn Tuấn Việt dịch, In lần thứ hai, (nguyên bản: “Black holes: The BBC reith lectures”) của Stephen Hawking, trang 31 – 33, đã chỉ rõ: “… thông tin, theo nghĩa vũ trụ học của thông tin: ý tưởng mọi hạt và mọi lực trong vũ trụ đều hàm chứa một câu trả lời cho câu hỏi có-hay-không… Ghi chú: Thông tin, trong bối cảnh này, mang ý nghĩa là tất cả những chi tiết của mọi hạt và mọi lực gắn với một vật…” Nguyên liệu thông tin từ hình thái tiềm năng chỉ có thể biến hóa thành hình thái bản thể khi được diễn dịch thông qua vai trò của nhân tố con người. Bộ não người chính là một trong những hình thái “thiết bị” giải mã thông tin. Thậm chí, để thực hiện chức-năng-tự-thân này, trước, trong và sau đó, bộ não người còn phải thực hiện thêm một chức-năng-mang-tính-phương-tiện khác, đó là “thiết bị” tiếp nhận bức xạ hạt và thực hiện tái bức xạ hạt phái sinh - nhiều bậc tuần hoàn trong tính chu kỳ - từ và đến vũ trụ toàn thể. Cần nói rõ, bộ não này - và từ đó trong ý nghĩa phái sinh nhưng không phải vì thế mà kém phần nghiêm ngặt là chủ nhân ông của nó tức con người cá thể - phải thực hiện chức năng tự thân và chức năng mang tính phương tiện này trong hai yêu cầu tự nhiên - khách quan, có ý nghĩa như là điều kiện “bảo hành” của nhà sản xuất. Điều kiện thứ nhất, phải thực hiện chức năng tự thân và chức năng mang tính phương tiện này trong tư cách thành tố biệt phái hữu cơ nôi tại trong vũ trụ toàn thể và cùng vũ trụ toàn thể. Điều kiện thứ hai, phải thực hiện chức năng tự thân và chức năng mang tính phương tiện này trong tư cách của một thể vận động. Nói nôm na, không được quên nguồn và không được quên thể. Nếu quên nguồn, sẽ rơi vào vũ trụ luận phi toàn thể. Bài học ở đây là biết ta mà không biêt người. Nếu quên thể, sẽ lý luận hóa theo nghĩa đóng băng hóa tuyệt đối mọi “thế năng” và “động năng” phương pháp luận mềm mại uyển chuyển lưu dẫn là hình thái chân thể luôn đang tiềm chứa dâng trào và mãnh liệt trong mọi tri thức nói chung và kiến thức nói riêng. Bài học ở đây là câu nói của Gớt, mọi lý thuyết đều màu xám chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi. Chúng ta thấy, trong thực tiễn, cả hai tình huống nêu trên đều liên quan trực tiếp, và xét đến cùng, gần như là duy nhất, đến và từ bộ não (người). Thật vậy, đến ngày nay, hơn mọi lúc nào hết trong lịch sử vũ trụ và lịch sử loài người, từ việc con người là chủ nhân không thể hoán đổi của bộ não người, nên nhân tố con người ngày càng có một vai trò hữu cơ đặc biệt quan trọng và còn hơn thế nữa trong sự vận động phát triển đi lên không ngừng của họ trong và cùng vũ trụ toàn thể. Đi sâu vào trong cấu trúc nội tại của bộ não người, chúng ta thấy bán cầu não phải đang chứa đựng những mã khóa cơ sở và cơ bản về vị trí và vai trò của nhân tố con người bên cạnh các chức năng nhiệm vụ vô cùng quan trọng khác của bán cầu não trái mà chúng ta đã biết trên hành trình tiến hóa của con người trong và cùng vũ trụ toàn thể. Đây là một trong những nguyên lý quan trọng của vũ trụ quan toàn thể làm tiền đề nhân bản luận để giải quyết các hệ lụy hiển hiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cặp phạm trù tư tưởng và thông tin, là hai trạng thái hình như đối lập, trong khuôn khổ nhận thức luận truyền thống, với đặc điểm và phương thức nhị phân gần như tuyệt đối giữa chủ thể và khách thể nhận thức. Trong nhận thức toàn thể luận, với đặc điểm và phương thức thông-qua-nhiều-cấp-độ-khác-nhau trong sự hội-nhập giữa chủ thể và khách thể nhận thức, các “thao tác tư tưởng” chính là sự sáng tạo với các “gói thông tin lượng tử”, trong hoạt động bức xạ hạt hai chiều tuần hoàn phát triển, với đối tượng nhận thức. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là, trong nhận thức toàn thể luận, người quan sát và đối tượng quan sát thực hiện các hoạt động tư tưởng và thông tin trong tư cách hai hình thái của một chỉnh thể mang tính hệ thống, như hai mặt đối lập nhưng thống nhất của một đồng tiền. Thật vậy, sự gia phóng bổ sung bằng thao tác sáng tạo của não người, nhất là thông qua sự phát huy vị trí và vai trò của bán cầu não phải trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ với bán cầu não trái, chính là hoạt động tạo ra bối cảnh “thăng hoa” và trạng thái “năng lượng đủ lớn” phái sinh, trong hiện tượng hai hạt photon có năng lượng “đủ lớn” gặp nhau biến thành một cặp hạt - phản hạt và hiện tượng một cặp hạt - phản hạt gặp nhau sẽ biến thành hai hạt photon có năng lượng “đủ lớn”, chỉ có thể và bị bắt buộc phải diễn ra trong nội tại thế giới vi mô, mà chúng ta đã nới đến trong phần trên. Với tiềm năng bức xạ tự thân chứa trong các hạt cơ bản, khi được gia phóng bổ sung bằng thao tác sáng tạo của não người, thông qua hoạt động tương tác qua lại giữa hai bán cầu đại não trong đó có vai trò phát động chuyển hóa của não phải, các gói thông tin lượng tử đã “thăng-hoa-đủ-lớn” sau các thao tác tư tưởng của con người, trong tư cách vũ trụ vi mô hoặc/và vũ trụ nhất nguyên, sẽ tương tác thông qua phương thức bức xạ dạng hạt với vũ trụ vĩ mô hoặc/và vũ trụ nhị nguyên. Quá trình nở loãng của vũ trụ sau vụ nổ lớn là quá trình tiến hóa và quá trình cô đặc từ khi vũ trụ biến thành lỗ đen là quá trình thoái hóa. Chiều vận động thuận của vũ trụ là đi từ tiến hóa đến thoái hóa. Chiều vận động nguyên khởi và căn bản của vũ-trụ-mà-chúng-ta-đang-sinh-sống-và-hoạt-động-thực-tiễn-sau-vụ-nổ-lớn đã được nghiên cứu và xác nhận là chiều nở loãng. Điều đó chứng tỏ rằng: chúng ta - trong tư cách nhân tố con người - đang sống trong một vũ trụ hoặc/và vũ trụ bộ phận đang có chiều vận động tiến hóa. Trong một vũ trụ hoặc/và vũ trụ bộ phận có chiều tiến hóa như vây, chắc chắn sẽ có những quy luật đặc thù khác hơn trong một vũ trụ hoặc/và vũ trụ bộ phận có chiều vận động thoái hóa. Mà những quy luật đặc thù này, chính là những nguyên lý tiền đề mà chúng ta - trong tư cách nhân tố con người - bắt buộc phải tuân thủ. Khái quát lại, triết học nhất nguyên, với nội hàm chúng ta đang đề cập, là lý luận và khoa học phổ quát, nghiên cứu và ứng dụng về chân thể vũ trụ với hệ thống nguyên lý trong hình thái tiềm năng phát triển, là nguyên liệu, môi trường và phương thức của thế giới nhất nguyên, nhằm tạo ra và quyết định tất cả mọi bản thể và chiều kích vận hành đa chiều, mang tính toàn thể và hài hòa trong mâu thuẫn và thống nhất, của vũ trụ, nhân loại, con người, trong thế giới nhị nguyên. Khái niệm “phát triển” được dùng trong định nghĩa triết học nhất nguyên trên đây là theo nghĩa tổng quát nhất của sự phát triển. Khái niệm phát triển đó hàm chứa quá trình “thực diễn sự chuyển hóa về chất” để có được sự phát triển theo nghĩa rộng, được biểu diễn theo trục dọc, tức sự thăng hoa, trong mối liên hệ phổ quát - trong vũ trụ toàn thể và cùng vũ tru toàn thể, đã được trình bày trong phần đầu của tiểu luận này. Việc chuyển đổi từ cách quan sát theo trục ngang - của “sự tích lũy về lượng của khuynh hướng phát triển”, tức sự phát triển theo nghĩa hẹp, sang cách quan sát theo trục dọc - của “thực diễn sự chuyển hóa về chất” để có được sự phát triển theo nghĩa rộng, là một sự kiện nhận thức luận quan trọng. Đó chính là một hình thái và phương thức của việc mở rộng hoặc thay đổi hệ quy chiếu nhận thức, khi muốn mở rộng nhận thức hoặc thay đổi hiện thực, trong bối cảnh, điều kiện “tổng lượng kiến thức” đã đạt đến một “giới hạn” về “chất”. Trong phương thức quan sát theo trục dọc của hệ quy chiếu về sự phát triển, chúng ta sẽ được mục kích những chiều kích khác biệt và hoàn toàn mới lạ của sự phát triển. Con sâu kén bò theo trục ngang trên chiếc lá - lúc đầu là bé nhỏ, về sau trở thành chật hẹp - nay đã thoáng chốc vươn mình, thoát thai thành bướm để bắt đầu chấp chới bay lên trên không gian bao la theo trục dọc của hệ quy chiếu - một hệ quan sát thanh thoát mới. Con sâu chưa trở thành bướm chỉ là một giai đoạn ngắn, trạng thái quá độ, mà sự vận động khuôn khổ riêng có của giai đoạn này được phản ảnh ở chừng mực giới hạn của khái niệm phát triển theo nghĩa hẹp, được biểu diễn theo trục ngang, miêu tả “sự tích lũy về lượng của khuynh hướng phát triển”, đã được trình bày trong phần đầu của tiểu luận này. Với ý nghĩa đó, hệ quan sát theo trục dọc, đó là hướng nhìn theo mối liên hệ phổ quát - trong vũ trụ toàn thể và cùng vũ tru toàn thể. Phát triển - theo nghĩa rộng - là sự vận động tự thân không ngừng, đi từ nhất nguyên đến nhị nguyên và ngược lại, biến hóa đa chiều, tuần hoàn xoáy ốc, có thì phát động và chiều thuận nghịch, xuyên qua các chu kỳ tiến hóa và thoái hóa, trong vũ trụ toàn thể và cùng vũ trụ toàn thể, của một/mỗi và mọi sự vật hiện tượng. Nguyên năng của sự phát triển có bốn cấp độ: quán năng (biểu hiện thành quán tính) duy trì sự vận động, biến năng tăng giảm về xung lực, hóa năng chuyển hóa về chiều hướng và thăng năng phát tiết sự sáng tạo, tàng chứa rời rạc và chỉ có thể tựu thành hợp nhất thành nguyên năng toàn thể tại bình diện vi mô, trong những điều kiện chỉnh thể nhất định. Xét theo mối liên hệ phổ quát - trong và cùng vũ tru toàn thể, và trong mối quan hệ tương ứng với nhân tố con người - của hoạt động thực tiễn (là vấn đề mà chúng ta đang quan tâm), sự phát triển có hai hình thái biểu hiện mang tính nguyên lý và quy luật cơ bản. Thăng hoa, là hình thái thứ nhất của sự phát triển, xét theo tâm thức của người quan sát - chiều kích trục dọc. Với ý nghĩa đó, trong thực tiễn đời sống, có sự cần thiết về điều chỉnh hệ quy chiếu nhận thức từ chiều kích trục ngang sang chiều kích trục dọc. Sáng tạo, là hình thái thứ hai của sự phát triển, xét theo kiểu thức của sự vận động - khi sự phát triển được gia phóng bổ sung bằng nhân tố con người, có công đoạn chủ yếu diễn ra tại bình diện vi mô hoặc/và bình diện nhất nguyên, nhằm hoàn thiện những điều kiện chỉnh thể, để hợp nhất bốn cấp độ của nguyên năng thành nguyên năng toàn thể, phục vụ cho sự phát triển. Với ý nghĩa đó, trong thực tiễn đời sống, mọi sự sáng tạo thông qua con người (phân biệt với trí tuệ nhân tạo), dựa trên cơ sở chiều đi từ tính phi vật lý đến tính vật lý, đều là sự vận động thuận nguyên lý vũ trụ và ngược lại. Triết học về sự phát triển là một ngành lý luận - bao gồm phương pháp luận, nhận thức luận - và khoa học phổ quát, phổ dụng, với nội hàm rộng của khái niệm phát triển. Triết học phát triển bao hàm trong đó các kết quả nghiên cứu và ứng dụng của triết học nhất nguyên - với nội hàm chúng ta đang đề cập của khái niệm nhất nguyên - và tất cả các nền tảng triết học khác, theo tiến trình thời gian và trên bình diện không gian của nhân loại. Sự ra đời và tồn tại của nó là thiết yếu cho chặng đường phát-triển-thăng-hoa đầy kịch tính và thách thức trong giai đoạn hiện nay và sắp tới của mỗi quốc gia dân tộc và toàn nhân loại với tư cách một trong những sự bổ khuyết trong tiến trình từng bước hoàn thiện của nền triết học tổng hòa của nhân loại. Sâu xa hơn, không chỉ được trực tiếp bổ khuyết từ triết học về sự phát triển, nền triết học tổng hòa trong chừng mực trình độ giai đoạn đương đại của nhân loại còn được hợp thành dựa trên cơ sở tổng - tích hợp của các thành tựu khoa học mới nhất của nhân loại - mà chúng ta những người trong thế hệ hôm nay may mắn được là người quan sát tổng hợp. Hệ thống tri thức khoa học mới nhất - đã và đang ảnh hưởng, tác động đến nhóm-hành-trang-tư-tưởng của con người và loài người (bao gồm nhận thức luận, phương pháp luận và lý luận) và qua đó đến bản chất và bản thể của nền triết học tổng hòa trong chừng mực trình độ giai đoạn đương đại của nhân loại - đã và đang được trải rộng trên các lĩnh vực. Theo cảm nhận bước đầu hạn chế của chúng tôi, cần có những nghiên cứu liên - xuyên ngành có mục tiêu, để tiếp tục phát hiện và tổng hợp có hệ thống để vượt qua giai đoạn cảm nhận tiến đến thức nhận các lượng tri thức này, trong các thành tựu khoa học mới nhất của nhân loại, đã ảnh hưởng và tác động đến bản chất và bản thể, nhằm phục vụ chấn hưng nền triêt học tổng hòa trong chừng mực trình độ giai đoạn đương đại của nhân loại. Sự giải mã khoa học tức thao tác hoán chuyển và quy đổi hệ chiếu nhận thức. Phương thức giải mã khoa học sẽ giúp chúng ta phát hiện được các lượng tri thức khoa học đương đại đã, đang và sẽ ảnh hưởng, tác động đến nhóm-hành-trang-tư-tưởng của con người và loài người, và qua đó đến bản chất và bản thể của nền triết học. Thật vậy, các vi thể cơ bản của vũ trụ có bản thể lưỡng tính tự nó và tiềm năng hoán đổi bản thể qua lại trong tính lưỡng thể tự nó. Các hình thái đơn vị của trạng thái cơ sở của năng-lượng phổ quát, mang giá trị hoán đổi, với các hình thái đơn vị của trạng thái cơ sở của thông-tin phổ quát. Năng lượng và thông tin hoán đổi cho nhau, theo các giá trị hoán đổi, sẽ kết thông giữa khoa học và triết học và ngược lại. Sự giải mã thông điệp trong tính khoa học trước hết là sự phối kết các hệ chiếu nhận thức. Thật vậy, quá trình giải mã chính là quá trình tìm kiếm và phát hiện ra các giá trị hoán đổi này giữa năng lượng và thông tin từ phương thức “cùng-đứng-đồng-thời-trên-nhiều-hệ-chiếu-nhận-thức” trong một vũ trụ đa chiều toàn thể. Bởi, chỉ với phương thức cùng-đứng-đồng-thời-trên-nhiều-hệ-chiếu-nhận-thức trong một vũ trụ đa chiều toàn thể, chúng ta mới có thể cảm nhận được mối liên hệ phổ quát tự nhiên tự nó vốn có của vũ trụ đa chiều toàn thể. Sau khi tìm được các “mật mã giá trị hoán đổi” mà trước đó được “ẩn nghĩa”, chúng ta sẽ giải mã được sự ngẫu nhiên. Bởi, theo các truyền thống triết học đương đại, khái niệm ngẫu nhiên được hiểu theo nghĩa là sự vô nghĩa trong các mối liên hệ, thì trên lý thuyết, sẽ không còn vô nghĩa trong các mối liên hệ sau khi được giải mã. Điều này không đồng nghĩa với việc là ngay lập tức chúng ta sẽ tìm ra được tất cả mọi mật mã giá trị hoán đổi giữa các hệ chiếu của mọi mã khóa. Tuy nhiên, về nguyên tắc, điều này khẳng định rằng, trên bình diện triết học, không có khái niệm ngẫu nhiên tuyệt đối. Theo các truyền thống triết học đương đại, khái niệm ngẫu nhiên (theo nghĩa ngẫu nhiên tuyệt đối) đang được sử dụng theo nghĩa là trạng thái vô thứ tự hoặc không gắn kết giữa một vật với các sự vật hiện tượng còn lại trong vũ trụ đa chiều toàn thể. Thật ra, xét theo nghĩa “lượng-ngẫu-nhiên-tương-đối”, đây chỉ là kết quả của một trong những trạng thái, trong không - thời gian tương đối, khi chúng ta chưa tìm ra và qua đó là còn thiếu một hoặc nhiều hệ quy chiếu nhận thức tương ứng nhằm phục vụ cho việc phát hiện ra các giá trị hoán đổi giữa các hệ chiếu nhận thức này trong một vũ trụ đa chiều toàn thể, đối với sự vật hiện tượng đang cần được nhận thức. Nói cách khác, đây là hiện tượng mà các mã khóa bên trong sự vật hiện tượng đang cần được nhận thức chưa được giải mã khoa học. Do vậy, mỗi bước vượt qua được các hình thái “ngẫu nhiên tương đối” nào đó của nhân thức luận, chúng ta sẽ đồng thời thực hiện được hai việc: một là giải thích và hai là dự báo - trong ý nghĩa triết học - từ sự ra đời, tồn tai, vận động và phát triển, của sự vật biện tượng đó. Sự giải mã khoa học sẽ tạo ra hiệu ứng tỏa sáng. Giải mã khoa học sẽ tìm ra cái còn thiếu trong câu chuyện về những “mảnh ghép” trong bức tranh về một vũ trụ quan toàn thể, rằng có những mảnh ghép rất đẹp, thậm chí có thể thấy là hoàn hảo, một mình, trong chừng mực trình độ ngày nay, tuy nhiên hình như vẫn còn thiếu thiếu một cái gì đó từ mối liên hệ giữa những mảnh ghép rất đẹp này vói bức tranh toàn thể. Sự tỏa sáng có đặc điểm là không hề tạo ra cái gì mới, nhưng năng lực tỏa sáng của một mảnh ghép sẽ ánh lên sự toàn thể của bức tranh từ vị trí mảnh ghép đó. Do không hề tạo ra các “sự vật” mới, nên giải mã khoa học không thiết yếu cần đến các “nguyên liệu” trong quy trình “sản xuất” của sự nhận thức, là các sản phẩm trung gian có được thông qua quá trình nhận thức thông thường đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, trong cách nhị phân truyền thống các thành tố nhận thức. Thực chứng và tư biện tạo nên tư duy khoa học, trải nghiệm và chứng nghiệm giúp cho giải mã khoa học. Tư duy khoa học là công cụ không thể thay thế trong vũ trụ vật lý. Giải mã khoa học là sự tìm kiếm trong vũ trụ phi vật lý. Mà vũ trụ toàn thể không chỉ là sự tổng-tích hợp, mà còn là sự tổ hợp hữu cơ, giữa vũ trụ vật lý và vũ trụ phi vật lý. Khoa học và triết học là những hệ thống mở. Trong số những lượng tri thức khoa học đương đại đã và đang ảnh hưởng, tác động đến nhóm-hành-trang-tư-tưởng của con người và loài người, và qua đó đến bản chất và bản thể của nền triết học, trong khuôn khổ cho phép của tiểu luận này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến các liều lượng nội dung mang tính tiền đề có ảnh hưởng trực tiếp, như: cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò của vũ trụ quan vi mô đương đại,… Đó chính là các “lượng tử” lý luận và khoa học trong tính cơ sở bước đầu, đã và đang ảnh hưởng, tác động trực tiếp như “sự bức xạ dạng hạt” vào nền tảng tri thức của nền triết học tổng hòa trong chừng mực trình độ giai đoạn đương đại của nhân loại Nguyên lý cơ bản của nền triết học tổng hòa ấy dựa trên sự vận động tự thân không ngừng, đi từ nhất nguyên đến nhị nguyên và ngược lại, biến hóa đa chiều, tuần hoàn xoáy ốc, có thì phát động và chiều thuận nghịch, xuyên qua các chu kỳ tiến hóa và thoái hóa, trong vũ trụ toàn thể và cùng vũ trụ toàn thể của một/mỗi và mọi sự vật hiện tượng. Phương pháp luận chủ đạo của nền triết học tổng hòa ấy tổng - tích hợp và tổ hợp hữu cơ bao trùm lên tất cả các nền tảng lý luận, phương pháp luận, nhận thức luận của nhân loại, trong đó, quan tâm đến phương pháp biện chứng, phương thức trải nghiệm, cách thức thăng hoa và sáng tạo của nhân tố con người, trong và cùng vũ trụ toàn thể. Từ trên góc nhìn truyền thống của các nền tảng lý luận, phương pháp luận, nhận thức luận đương đại của nhân loại, chúng ta có thể thấy nền triết học tổng hòa ấy sẽ không quy giản về các hình thái triết học nhất nguyên, hoặc/và triết học nhị nguyên, hoặc/và triết học trung luận (chiết trung hay trung đạo), mà như tựa trên một khối tổ hợp hữu cơ tam giác triết học nhất nguyên luận, nhị nguyên luận và trung luận. Trong phần trên, từ những suy nghĩ chủ quan, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất về việc cần có những nghiên cứu liên - xuyên ngành có mục tiêu, để tiếp tục phát hiện và tổng hợp có hệ thống để vượt qua giai đoạn cảm nhận tiến đến thức nhận về bản chất của các lượng tri thức cập nhật mới nhất của nhân loại đang còn trong tình trạng mảnh ghép mang tính bộ phận hóa và rời rạc hóa rất cao, nên chưa thể nào thực hiện được các chức năng tỏa sáng, kiến tạo và khai phóng trong tổng lượng kiến thức đến nay của nhân loại. Thật vậy, chỉ có bằng những cách như vậy, chúng ta mới có thể thực hiện được sự tổ hợp hữu cơ giữa những thái cực nhị nguyên đối lập đang tồn tại trong thực tiễn vận động phát triển của nền văn minh nhân loại cho đến ngày nay như đã nói trong các phần trên. Một trong những nhóm lượng tri thức mới nhất của nhân loại đang còn trong tình trạng bộ phận hóa và rời rạc hóa cao, nên chưa thể nào thực hiện được các chức năng tỏa sáng, kiến tạo và khai phóng trong tổng lượng kiến thức đến nay của nhân loại, nhưng lại đang chứa đựng những mã khóa mang tính thông điệp rất cao và đậm đặc, đó là ngành vật lý thiên thể, với các khái niệm như: “vũ trụ song song”. Chúng ta biết, khối lượng riêng tại một vị trí trong “vật” được tính bằng khối lượng của một thể tích vô cùng nhỏ nằm tại vị trí đó, chia cho thể tích vô cùng nhỏ này. Nếu “chất” đó có thêm đặc tính là đồng chất, thì khối lượng riêng tại mọi vị trí là như nhau và bằng khối lượng riêng trung bình. Chúng ta sẽ tưởng tượng rằng khái niệm cơ bản nêu trên về khôi lượng riêng trong vật lý học truyền thống là một trường hợp riêng của thực tại. Và điều gì sẽ xảy ra khi có các trường hợp khác mang tính tổng hợp và khái quát hơn về trạng thái nguyên lý được phát biểu đơn giản dưới hình thái là khối lượng riêng này? Thật vây, nếu mở rộng ra khỏi hình thái đơn giản là khối lượng, khi chúng ta đã biết rằng thực tại vũ trụ này không chỉ đuợc cấu trúc bằng khối lượng mà còn bằng sự tồn tại phi khối lượng như đã nói trong các phần trên, thì, trong ý nghĩa rộng hơn và trong trường hợp rộng nhất của khái niệm “khối lượng riêng” này, chúng ta sẽ thấy nguyên lý xác suất của vận động lượng tử đang chứa đựng những mã khóa rất quan trọng. Điều này có nghĩa là: trong cơ học lượng tử, khái niệm “khối lượng riêng trung bình” đã bị vượt qua. Bởi, hai lý do đơn giản là: 1. vận động trong thang hạ nguyên tử bao gồm tổng hợp các trường hợp vận động có khối lượng và không có khối lượng; 2. nguyên lý bất định của cơ học lượng tử ngay từ đầu đã từ chối nguyên tắc đồng chất mang tính tiền đề của khái niệm khối lượng riêng trung bình này. Rõ ràng, nguyên lý xác suất về sự xuất hiện trong không gian và thời gian thông qua lăng kính của cơ học lượng tử đối với các vi thể cơ bản vá các hình thái đối lập và đối đãi của nó, sẽ tạo ra các hệ thống mở trong không-thời gian của các trạng thái “tồn-tại-xác-suất”, như một hệ thống “ma trận” về sự tồn tại - trong vũ trụ vi mô. Thật vậy, xét trong vũ trụ vi mô, từ khái niệm về sự “tồn tại xác suất”, chúng ta thấy, các hệ thống không-thời gian này không độc lập nhưng độc lập, không thống nhất nhưng thống nhất, trong một quan hệ đối đãi với nhau. Chính các hệ thống không-thời gian đối đãi này chứa trong nó nguyên lý về các vũ trụ song song, vừa đan xen vừa lồng ghép với nhau. Và điều quan trọng nhất ở đậy là: trong mối quan hệ toàn thể, chúng không thể tồn tại thiếu nhau. Chúng tồn tại vừa “trong nhau” và vừa “ngoài nhau”. Như đã nói, ngôn ngữ của vũ trụ vật lý - trong tính lịch sử của mình - không thể nào diễn tả triệt để và tận cùng được về trạng thái tồn tại vừa “trong nhau” và vừa “ngoài nhau” này của hệ thống các vũ trụ song song trong vũ trụ vi mô. Khái niệm về một cách thức “tổ hợp hữu cơ” là một trong những đề xuất bước đầu đề làm phương tiện trình bày nội dung về cách thức cấu trúc của mối quan hệ này. Và chính kiểu tồn tại này đã gợi ý cho chúng ta về một khái niệm dùng để chỉ phương thức cấu tạo, ở đây tạm gọi là: “tồn tại lượng tử” Như vậy, chính phương thức tồn tại lượng tử và cách thức tổ hợp hữu cơ là nguyên lý cấu tạo và cấu trúc của hệ thống các vũ trụ song song trong vũ trụ vi mô. Chúng ta thấy, chính sự khác biệt về “khối lượng riêng” đuợc tạo ra bởi “tính xác xuất” - trong sự tồn tại lượng tử của các “vũ trụ song song” - đã tạo ra sự “khúc xạ” về bản thể luận khi chúng ta cảm nhận và thức nhận về các vũ trụ song song này trong vũ trụ vi mô. Thật vậy, khi chúng ta đứng trong một hệ quy chiếu để nhìn về một hình ảnh tổng thể của một vật đi xuyên qua hai hoặc nhiều hệ quy chiếu, chúng ta sẽ thấy sự vật bị gãy khúc như khi nhìn chiếc đũa đang được cắm trong một cái ly có chứa một phần nước. Đây là một trong những sự miêu tả hình ảnh giản lược về sự tồn tại của các vũ trụ song song vi mô. Trong thực tế, cần nói rằng, “vũ trụ song song” là một khái niệm cho đến nay được các nhà khoa học vật lý lý thuyết sử dụng để luận giải về các luận đề, trong một số ngành vật lý lý thuyết chuyên sâu, mà một trong những ngành vật lý lý thuyết chuyên sâu mang chức năng cơ sở cho các ngành vật lý lý thuyết chuyên sâu khác, đặc biệt chú trọng khái niệm “vũ trụ song song” này, là ngành vật lý thiên thể. Tuy nhiên, dù vậy, qua các câu chuyện đến đây, rõ ràng, nhân loại chúng ta vẫn đang tồn tại và vận động trong một hệ thống mở các vũ trụ song song lồng ghép tuần hoàn phát triển, không chỉ ở thang vĩ mô mà còn ở cả thang vi mô, không chỉ trong “thể khách quan” mà cả trong “thể chủ quan” của mình theo cách diễn đạt nhận thức luận truyền thống. Chúng ta chỉ có thể thực hiện và thực hành một cách đúng đắn và thành tựu về sự phát triển, khi và chỉ khi - không chỉ từ thang vĩ mô mà cả ở thang vi mô - giải mã được các hình ảnh khúc xạ biểu kiến về các vũ trụ song song hữu cơ lồng ghép trong tính toàn thể, mà mỗi con người chúng ta vừa đang là cái bộ phận trong cái toàn thể, vừa đang chính là cái toàn thể đó trong vai trò tỏa sáng, kiến tạo, khai phóng đối với vũ trụ toàn thể. Chúng ta vừa khảo sát một trường hợp vận dụng các nguyên lý của triết học phát triển để thực hiện những nghiên cứu liên - xuyên ngành có mục tiêu, để tiếp tục phát hiện và tổng hợp có hệ thống để vượt qua giai đoạn cảm nhận tiến đến thức nhận về bản chất của các lượng tri thức cập nhật mới nhất của nhân loại đang còn trong tình trạng bộ phận hóa và rời rạc hóa cao, nên chưa thể nào thực hiện được các chức năng tỏa sáng, kiến tạo và khai phóng trong tổng lượng kiến thức đến nay của nhân loại, vừa được thực hiện trong ngành vật lý thiên thể, với khái niệm vũ trụ song song.. Một trong những hệ quả trực tiếp của trường hợp khảo sát về các vũ trụ song song này ở đây, là nhằm chỉ ra “cơ-sở-thực-tiễn” của những vấn đề lớn đã được trình bày trong tính hình thức luận khái quát và trừu tượng trong các phần trên của tiểu luận này, nhằm mục đích giúp cho các vấn đề trừu tượng có thể được miêu tả đơn giản hơn. Nói cách khác, việc nghiên cứu về sự tồn tại và ý nghĩa của các vũ trụ song song này sẽ giúp chúng ta có cơ sở để cảm nhận được đầy đủ hơn về các vấn đề, như: lý do của tình trạng tổng lượng kiến thức trong một vũ trụ song song bộ phận nào đó hoàn toàn có thể có các giới hạn hữu hạn; sự tồn tại thực tiễn của các hệ chiếu nhận thức đối đãi với nhau trong các vũ trụ song song và sự chuyển đổi cũng như giá trị chuyển đổi giữa chúng; lý do của việc cần thiết thực hiện đồng thời trong tính tổ hợp hữu cơ lồng ghép các kỹ thuật nhận thức như: thực chứng, tư biện, trải nghiệm, chứng nghiệm để nhận thức về vũ trụ toàn thể; yêu cầu “khách quan” của sự cần thiết thực hiện phương thức giải mã khoa học về mọi vấn đề quanh ta trong cuộc sống là do các vấn đề quanh ta cùng với chính ta thực ra chỉ đang tồn tại trong một bong bóng vũ trụ cụ thể trong quan hệ hữu cơ giữa toàn thể những bong bóng vũ trụ khác trong nguyên lý về hệ thống các vũ trụ song song của vũ trụ vi mô, v.v… Việc nghiên cứu về sự tồn tại và ý nghĩa của các vũ trụ song song này cũng sẽ giúp chúng ta có cơ sở để cảm nhận được đầy đủ hơn về các hiện tượng “vật lý”, như: sự chuyển đổi trạng thái của hiện tượng hai “hạt” photon có năng lượng đủ lớn gặp nhau biến thành một cặp “hạt - phản hạt” và hiện tượng một cặp “hạt - phản hạt” gặp nhau sẽ biến thành hai “hạt” photon có năng lượng đủ lớn, đây chính là một trường hợp và cách thức đặc thù của sự chuyển hóa giữa hai vũ trụ vi mô song song; hoặc tính lưỡng tính sóng hạt, các trạng thái của năng lượng và thông tin cũng chính là sự phản ánh đối với sự vật từ nhiều vũ trụ vi mô song song khác nhau; v.v,… Ngoài ra, việc nghiên cứu về sự tồn tại và ý nghĩa của các vũ trụ song song này sẽ còn giúp chúng ta có cơ sở để cảm nhận được đầy đủ hơn về các lý thuyết và các hệ thống lý luận đã được trích dẫn trong các phần trên, như: theo nghĩa vũ trụ học, thì thông tin là ý tưởng mọi hạt và mọi lực trong vũ trụ đều hàm chứa một câu trả lời cho câu hỏi có-hay-không, và thông tin là tất cả những chi tiết của mọi hạt và mọi lực gắn với một vật, thật vậy, bởi, đây chính là sự “phiên dịch” về các đồng bản thể từ các vũ trụ song song vi mô khác nhau nhưng tương ứng nhau về độ rung hay tần số dao động, v.v… Và, trong ý nghĩa khái quát nhất. sư tiến hóa và sự phát triển cũng chính là sự chuyển đổi giữa các vũ trụ song song vi mô với tần số dao động thanh thoát hơn và bước sóng ngày càng dài hơn giữa các không-thời gian hữu hạn của quá khứ với các không-thời gian hữu hạn của hiện tại và tương lai, của tự mỗi bản thể nào đó với chính mình, từ vũ trụ toàn thể, vũ trụ bộ phận, nhân loại toàn thể, đến mỗi con người cá thể. Với ý nghĩa như vậy, cách mạng tâm thức chính là cách mạng tri thức được diễn ra tại một vũ trụ song song vi mô có tần số dao động thanh thoát hơn cách-mạng-tri-thức-hiện-hữu-đang-làm-nền-tảng-cho-cách-mạng-tâm-thức tại một vũ trụ song song khác. Tạo điều kiện và thúc đẩy cách mạng tâm thức phát triển chính là khơi mở và khai phóng không gian khoa học để cách mạng tri thức có một gia tốc mới trên lộ trình phát triển thăng hoa tất yếu - trong vũ trụ song song của mình. Xét trong một ý nghĩa nào đó thì cách mạng tâm thức là cuộc cách mạng hạt nhân bên trong cách mạng tri thức, là cuộc cách mạng của cách mạng. Với mạch ý nghĩa như vậy, khi tác động vào cách mạng tâm thức, chúng ta sẽ có một “năng lượng hạt nhân” khổng lồ bùng nổ để tiếp tục phát triển thăng hoa công cuộc cách mạng tri thức đang diễn ra của mình, trước tầm vóc của những vấn đề thử thách to lớn đang đặt ra buộc chúng ta phải nhận thức và vượt qua. Trong một ý nghĩa khác, từ những ví dụ về mặt phương pháp luận vừa nêu ra, với sự vận dụng khái niệm vũ trụ song song vĩ mô trong vật lý thiên thể vào vũ trụ vi mô để giúp diễn dịch đơn giản hơn các khái niệm và vấn đề trừu tượng trong thực tiễn cuộc sống, chúng ta hoàn toàn có thể tiếp tục triển khai các nội dung tiếp theo và mở rộng để thực hiện những nghiên cứu liên - xuyên ngành có mục tiêu, để tiếp tục phát hiện và tổng hợp có hệ thống về bản chất của các lượng tri thức cập nhật mới nhất của nhân loại đang còn trong tình trạng mảnh ghép mang tính bộ phận hóa và rời rạc hóa cao, nên chưa thể nào thực hiện được các chức năng tỏa sáng, kiến tạo và khai phóng trong tổng lượng kiến thức đến nay của nhân loại. Triết học phát triển, về mặt học thuật, dù được cấu thành như các nền tảng lý luận, phương pháp luận, nhận thức luận truyền thống, tức mang tư cách cơ sở là nhận thức luận và lý luận, tuy nhiên, từ trong nguyên lý hình thành của mình, nó luôn cố gắng uyển chuyển đảm đương vai trò cơ bản là phương pháp luận về sự toàn thể. Với vai trò cơ bản là phương pháp luận về tính toàn thể này, nó sẽ luôn thường xuyên và không ngừng tự quy nạp các hệ thống tri thức có được xung quanh thành những mảnh ghép của bức tranh về sự toàn thể, theo phương thức “mảnh ghép hóa”. Trong tính chu kỳ, tuần hoàn và phát triển theo hình xoáy ốc, và rồi đến lượt mình, nó cũng sẽ tự biến hóa mình thành một mảnh ghép của sự toàn thể mới, trên lộ trình tiến hóa của từng cái bộ phận trong lộ trình tiến hóa của từng cái toàn thể trong các chu kỳ tiến hóa và thoái hóa tuần hoàn phát triển. Mảnh-ghép-bộ-phận-hóa và vũ-trụ-toàn-thể-hóa là các chu kỳ vừa song song vừa nối tiếp, không ngừng biến hóa và hoán đổi chức năng cho nhau, nhằm thực hiện các đại chu trình nhận thức phi toàn thể luận và toàn thể luận tuần hoàn phát triển của vũ trụ toàn thể đối với chính mình. Đó là một trong những nguyên lý cơ sở của phương thức vũ trụ toàn thể tự nhận thức./.
  18. LÝ HỌC VÀ TRIẾT HỌC HIỆN ĐẠI. Thưa quý vị và các bạn thân mến. Lần đầu tiên, tôi được biết đến một buổi tọa đàm liên quan đến nội dung triết học, thông qua hình thức thư mời vô danh (không mời đích danh) qua email của tôi. Kèm thư mời này là bài viết của Tiến sĩ Huỳnh Thanh có tựa là "Khái luận về triết học phát triển". Tôi không hiểu mấy đoạn sau nhà nghiên cứu này nói cái gì, nhưng chí ít đoạn mở đầu mà tôi trích dẫn lại dưới đây, quý vị và các bạn cũng thấy tác giả nói về một khái niệm gọi là "Vũ trụ quan toàn thế". Trong đó, tác giả xác định: "Vũ trụ quan toàn thể là quan niệm hoàn bị về một vũ trụ toàn thể tuần hoàn phát triển". Tác giả cũng nhắc đến các khái niệm về tính "nhất nguyên"; "nhị nguyên", đến trần thời gian - tức “bức tường Planck” vào thời gian trước 10[-43] sau giây O. Quý vị và các bạn có thể xem nguyên văn đoạn trích dẫn dưới đây: Thưa quý vị và các bạn. Như vậy, tất cả đoạn mở đầu của tác giả - Tiến sĩ Nguyễn Huỳnh Thanh - chỉ là sự nhắc lại những vấn đề khởi nguyên của vũ trụ được mô tả nhân danh nền văn hiến Việt, từ hàng chục năm trước trên diễn đàn Lý học Đông phương. Trong đó, chúng tôi đã xác định tính "nhất nguyên" của "Thái cực" trong kinh Dịch, của "Đạo" trong Đạo Đức Kinh. của "Tính thấy" - Như Lai tạng tính - trong minh triết Phật giáo. Chúng tôi cũng rất nhiều lần, nhắc đi nhắc lại rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Lý thuyết thống nhất, chính là sự nhận thức "một lý thuyết vũ trụ quan toàn thể, với ý nghĩa là quan niệm hoàn bị thống nhất xuyên suốt về một vũ trụ toàn thể tuần hoàn phát triển" mà tác giả nói tới. Chúng tôi cũng rất nhiều lấn nói tới bản chất của tính "nhị nguyên" trong nhận thức của con người, có nguyên nhân thực tế khách quan là "Lưỡng nghi" trong sự mô tả khởi nguyên của vũ trụ. Và tính triết lý "nhị nguyên" trong toàn bộ nhân thức vũ trụ được hính thành bởi một cặp phạm trù là "Âm Dương" - tất nhiên: Nhân danh nền văn hiến Việt. Chúng tôi cũng rất, rất, rất nhiều lần nói đến tính quy luật tương tác trong sự vận động của vũ trụ. được mô tả bằng những mô hình biểu kiến của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt - đã tạo nên khả năng tiên tri của nó. Bởi vậy, thật là thất vọng, khi đọc những hàng chữ sau đây: Vậy! Cuộc tọa đàm này đang bàn về cái gì? Tôi có một cảm giác về tính "kiêu ngạo học thuật" đang thống trị không gian học thuật. Có vẻ như người ta thích mô tả những gì mình biết và không quan tâm đến cái mình cần biết. SW Hawking khi sinh thời, ông đã để lại một tư tưởng bất hủ, khi phát biểu: Vài lời chia sẻ. Xin cám ơn vì đã quan tâm.
  19. LỜI TIÊN TRI ĐINH DẬU 2017: Đại ý: Năm nay, tuy tai nạn máy bay không nhiều như năm nào (rớt 5 chiếc , chiếc ít người nhất trên 150 người ở Đài Loan). Nhưng không phải không có đủ gây đau lòng.... http://cand.com.vn/the-gioi-24h/giat-minh-nhin-khoanh-khac-may-bay-nga-cung-71-nguoi-no-tung-o-moscow-478626/
  20. Thưa quý vị và anh chị em. Như thường lệ, hàng năm chúng tôi đều có một bài về một số lĩnh vực quan trọng trong cuộc sống và xã hội của thế giới. Năm nay Đinh Dậu Việt lịch 2017 cũng không ngoại lệ. Nhưng từ này đến Tết Đinh Dậu còn xa , nên để mở đầu để mục này, chúng tôi xin giới thiệu những lời tiên tri của một nhà tiên tri nổi danh của nền văn minh của chúng ta. Đó là Nostradamus. Chúng tôi sẽ có lời tiên tri của riêng mình vào những ngày cận Tết Đinh Dậu Việt lịch 2017. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em. ==================================== Trái Đất sắp phải hứng chịu thảm họa gì vào năm 2017 theo lời tiên tri của Nostradamus? Trang Ly 20/09/2016 06:33 Hình minh họa. Liệu rằng, cuộc xâm chiếm Trái Đất của người ngoài hành tinh có xảy ra theo lời phán truyền đáng sợ của Nostradamus? Lời phán truyền khủng khiếp của nhà tiên tri Nostradamus về vận mệnh thế giới năm 2017 "TIÊN TRI" đanh thép về "căn bệnh" hơn 1 tỷ người mắc phải của Einstein... đã đúng! Bức họa hơn 500 năm tuổi của Da Vinci ẩn chứa lời tiên tri về "Ngày tận thế" Năm 2017 sắp đến, liệu những biến cố nào sẽ xảy ra trong tổng thể bức tranh xoay quanh tình hình chính trị, xã hội của thế giới khi năm 2016 đang dần kết thúc? Thời điểm cuối năm là lúc người ta ngồi lại đánh giá những gì đã qua trong 1 năm qua và có những dự báo gần nhất cho năm tiếp theo. Đối với nhà tiên tri đại tài người Pháp Michael Nostradamus (1503 - 1566), ông đã có thể "nhìn thấu" nhiều sự kiện đúng đến không thể ngờ trong tương lai cách đó hàng 5.000 năm! Nhà tiên tri đại tài người Pháp Michael Nostradamus (1503 - 1566). Trong bài viết "Rợn tóc gáy với lời tiên tri của Nostradamus về thế giới năm 2017", hàng loạt các sự kiện chính trị, xã hội, kinh tế được nhà tiên tri mà người cùng thời gọi là "Đầy tớ của ma quỷ" (vì những dự đoán đúng một cách không-thể-giải-thích-được của ông) phán truyền. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả câu chuyện về vận mệnh của thế giới năm 2017. Còn một bí mật nữa mà người ta chưa gọi tên, đó là lời tiên tri về cuộc chiến tranh thế giới thứ 3 và cuộc xâm lược của người ngoài hành tinh đến Trái Đất năm 2017. Cuộc xâm chiếm của người ngoài hành tinh đến Trái Đất năm 2017? Sau hơn một nửa dự đoán đúng trong tổng 1.000 lời tiên tri của Nostradamus mà ông viết trong cuốn sách "Những lời tiên tri - Les Propheties" (1555), các học giả đi từ ngạc nhiên, bối rối đến quyết tâm nghiên cứu cuốn sách được nhà tiên tri người Pháp viết bằng thể thơ tứ tuyệt. Theo một học giả, người cho rằng có thể giải mã những vần thơ tứ tuyệt trong cuốn sách của Nostradamus thì, năm 2017 nhân loại sẽ phải hứng chịu cuộc xâm chiếm khổng lồ của người ngoài hành tinh. Cuốn sách "Những lời tiên tri - Les Propheties" (1555) của Nostradamus. Đoạn thơ cho thấy, người ngoài hành tinh đang chuẩn bị tổng lực để tấn công con người và Trái Đất. Phải chăng, nhân loại và Trái Đất sắp phải đón nhận một sự hủy diệt khủng khiếp? Trên thực tế, người ngoài hành tinh cùng những UFO bí ẩn luôn là những nghiên cứu còn bỏ ngỏ của con người trong nhiều thập niên qua. Câu hỏi, có người ngoài hành tinh hay không đang còn khiến các nhà khoa học điên đầu giải mã. Trong tương lai, liệu "họ" có xâm lược và chiếm lấy Trái Đất hay không? Thực sự là câu hỏi rất khó trả lời trong nay mai. Giải mã các câu thơ, vị học giả này cho biết thêm, Nostradamus dự đoán, trước khi xảy ra cuộc xâm chiếm xuyên hành tinh như vậy của người ngoài hành tinh, thế giới đang hỗn loạn trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. Trước đó, trong loạt những tiên đoán về vận mệnh thế giới năm 2017, Nostradamus có đề cập đến những cuộc chiến tranh "nóng" xảy ra vì vấn đề nóng lên toàn cầu và thiếu hụt tài nguyên. Như sự đổ vỡ của quân cờ Domino, chiến tranh sẽ kéo theo khủng bố tràn lan cũng các cuộc chiến tranh sinh học hủy diệt. Bức tranh thế giới trong đôi mắt có khả năng "nhìn thấu" của Nostradamus quá ảm đạm. Người ngoài hành tinh sẽ xâm chiếm Trái Đất? Hình minh họa. Có một thực tế chúng ta phải chấp nhận rằng, vấn đề biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu đang thực sự trở thành bài toán vô cùng khó cho không chỉ một quốc gia mà hàng loạt nước trên thế giới. Sự gia tăng nồng độ khí nhà kính do chính con người chúng ta gây nên (từ các hoạt động như phá rừng, đốt nhiên liệu hóa thạch...) đã làm cho nhiệt độ Trái Đất ngày càng tăng cao (từ 1 đế 6 độ trong thế kỷ 21). Hệ quả là băng tan làm mực nước biển dâng lên xâm lấm đất liền, sa mạc hóa, và hàng loạt các cơn bão khổng lồ từ đại dương cuốn bay sự sống do hiện tượng El Nino và La Nina gây nên. Cuối cùng, chính con người chúng ta đang phải lãnh hậu quả từ chính những việc làm hàng ngày của chúng ta. Chưa bàn đến cái gọi là cuộc xâm chiếm của người ngoài hành tinh xa lắc, chưa bàn đến những hậu quả khủng khiếp từ cuộc đại chiến thế giới thứ 3 có thể xảy ra theo tiên tri của các "tiền bối", cái mà chúng ta đang phải đối mặt và chịu đựng hàng ngày (ô nhiễm, siêu bão tàn phá...) nó gần hơn bao giờ hết. Con người chúng ta đang trở thành "gánh nặng" của Trái Đất. Hình minh họa. Còn nhớ, bà tiên tri mù người Bulgaria Baba Vanga đã từng tiên tri rằng, chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ xảy ra vào năm 2010 và kết thúc năm 2014. Khởi nguồn cuộc chiến sẽ bắt đầu bằng những xung đột vũ trang giữa Nam Ossetia và thế giới Hồi giáo. Hàng loạt các vụ mưu sát chính trị gia cũng góp phần "châm ngòi nổ" cho cuộc đại chiến thứ 3 này xảy ra. Hệ quả là, chiến tranh hạt nhân và sinh học diễn ra khắp thế giới, khiến cả thế giới khốn đốn. Nhân loại đang sống trong những tháng cuối của năm 2016 và có cơ hội "tận mắt" kiểm nghiệm lời tiên tri của bà Vanga. Và may mắn là sự kiện này không đúng. Rất có thể, vì những lời tiên tri ghi trong sổ sách của bà Vanga bị thất lạc nên người ta không có căn cứ hoặc có những cá nhân mạo danh bà Vanga "tung" nhưng tin đồn nhảm để gây hoảng loạn trong xã hội. Bà tiên tri mù Baba Vanga. Câu hỏi đặt ra là, liệu chiến tranh trong năm 2017 có nổ ra? Những tiên đoán của Nostradamus có trở thành sự thật hay không? Chúng ta cũng không cần ngồi chờ thời gian qua đi để kiểm chứng, cái cần làm ngay có lẽ là việc chấm dứt những việc làm đang gây hại đến môi trường, Trái Đất, ảnh hưởng đến thế hệ tương lai. Thiết nghĩ, đó mới là những việc cần phải chiến đấu thực sự! Đọc tiếp: Màn "xóa sổ sự sống" khủng khiếp của hổ mang mafia dành cho cóc rừng theo Trí Thức Trẻ
  21. BÁT SÁT TRONG ĐỊA LÝ LẠC VIỆT. Trên cơ sở giả thuyết ban đầu xuất sắc của Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn. Chúng tôi đã thực hiện lại mối liên hệ giữa hướng và phương sát trong Bát sát với vòng Tràng sinh. Nhưng để quý vị và ACE thấy rõ được tính nhất quán và tính hệ thống của một lý thuyết nhân danh khoa học, chúng tôi cần nói rõ hơn về vấn đề Vòng Tràng sinh. I. VÒNG TRÀNG SINH TRONG LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG. Khái niệm "Vòng Tràng Sinh" trong ứng dụng của Lý học Đông phương, mô tả một chu kỳ gồm 12 thành tố. Các thành tố này lần lượt theo quy luật là: 1/Trường sinh. 2/ Mộc Dục. 3/ Quan đới, 4/ Lâm Quan, 5/ Đế Vượng, 6/ Suy. 7/ Bệnh. 8/ Tử. 9/ Mộ. 10/ Tuyệt. 11/ Thai. 12/ Dưỡng.... Vòng Trường sinh mô tả chu kỳ sinh trưởng và suy bại của mọi sự vật, sự việc trong cuộc sống, thiên nhiên, vũ trụ và con người. Cho nên, vòng Trường sinh ở trong nhiều hệ thống của các ngành ứng dụng thuộc Lý học Đông phương. Vòng Trường sinh trong ngành dự báo số phận con người là Tử Vi có chu kỳ trong 12 cung và là thành tố dự đoán của chu kỳ Đại Hạn 10 năm trong Tử Vi - Tức là vòng Tràng sinh chi phối 120 năm (Một trăm hai mươi năm) trong chu kỳ vận hạn của một đời người trong lá số Tử Vi. Trong ứng dụng của khoa Tử Vi, vòng Tràng Sinh Dương tính theo chiều thuận. Vòng Tràng sinh Âm tính theo chiều nghịch. Chu kỳ Âm Dương của vòng Trường Sinh là 24 năm. Đây chính nguyên lý chu kỳ 24 năm Sinh - Vượng - Mộ của một hành trong LẠC THƯ HOA GIÁP được thực hiện trên Hà Đồ - đã được Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh chứng minh nguyên lý lập thành bảng này trên Hà Đồ - với sự thay đổi vị trí hai hành Thủy Hỏa. Vòng Tràng sinh thể hiện sự tiêu trưởng của ngũ hành. Ngũ hành phân Âm Dương cho nên vòng Tràng sinh cũng theo Âm Dương và ứng dụng theo tam hợp cục của Địa chi. Vì Địa chi phân Âm Dương nên sự ứng dụng của Trường sinh cũng theo quy luật Dương thuận, Âm nghịch. Thí dụ: Tam hợp cục Hỏa là Dần - Ngọ - Tuất; Tam hợp cục Mộc là Hợi - Mão - Mùi.... ACE và quý vị lưu ý nguyên lý tam hợp cục của ngũ hành để đối chiếu với tính hợp lý trong việc ứng dụng vòng Tràng sinh trong Địa lý Phong thủy Lạc Việt. Quý vị và ACE xem hình minh họa dưới đây cho hai vòng Tràng sinh Âm Dương thuận nghịch. Vòng Tràng sinh Duong thuận Vòng Tràng sinh Âm nghịch Như vậy tôi đã trình bầy khái quát về những nguyên lý ứng dụng của vòng Tràng sinh trong mọi ngành ứng dụng của Lý học Đông Phương nói chung. Trên cơ sở những tri thức căn bản về vòng Tràng sinh này chúng ta ứng dụng tiêu chi khoa học cho một lý thuyết khoa học phát biểu như sau: Trên cơ sở tiêu chí khoa học này, chúng tôi ứng dụng giả thuyết hướng sát của Bát sát lệ thuộc vào vòng Tràng sinh xem có phù hợp với tiêu chí khoa học trên hay không. Vì vòng Tràng sinh có thể phân loại Âm Dương, cho nên chúng tôi cũng phân loại tám phương Bát quái theo Âm Dương, như sau: A/ Bốn quái tứ chính thuộc Dương, gồm: Khảm / - Chấn / - Ly / - Đoài / B/ Bốn quái tứ di thuộc Âm, gồm: Càn / - Khôn / - Cấn / - Tốn / Trên cơ sở này chúng ta một lần nữa áp dụng vòng Tràng sinh theo đúng như cổ thư chứ Hán mô tả về hướng sát của Bát sát để đối chiếu, so sánh. A/ Bốn quái tứ chính: 1/ Hướng Khảm Bát sát ở Thìn (Khảm Long)......................2/ Hướng Chấn Bát sát ở Thân (Chấn sơn Hầu) 3/ Hướng Ly Bát sát ở Hợi (Ly Trư).....................................4/ Hướng Đoài Bát sát ở Tỵ (Đoài Xà đẩu) B/ Bốn quái tứ di: 5/ Hướng Càn Bát sát ở Ngọ (Kiền Mã)..............................6/ Hướng Khôn ( Tốn theo sách Việt), Bát sát ở Mão (Khôn Thỏ 'mão') 7/ Hướng Cấn Bát sát ở Dần (Cấn Hổ)................................8/ Hướng Tốn (Khôn theo sách Việt). Bát sát ở Dậu (Tốn Kê). Thưa quý vị và ACE thân mến Như vậy qua hình mô tả ở trên, khi chúng ta áp vòng Tràng sinh theo giải thiết ban đầu để quán xét thì chúng ta nhận thấy rằng, ở bốn quái tứ chính (vòng Tràng sinh thuận), chỉ có hai quái Ly và Chấn có phương Bát sát nằm ở Tuyệt. Và ở bốn quái tứ Di (vòng Tràng sinh nghịch) thì chỉ có hai quái Càn và Khôn (Tốn theo sách Việt) có phương Bát sát nằm ở Tuyệt. Như vậy nếu theo giải thuyết ban đầu là đúng thì thể hiện phương sát theo cổ thư chữ Hán chỉ đúng được một nửa?! Chúng tôi cho rằng: Vì mối liên hệ chính xác "một nửa" đó - phương sát phải nằm ở vị trí Tuyệt của vòng Tràng sinh - thì tính hợp lý lý thuyết cho toàn bộ vấn đề, tất cả các phương sát đều phải nằm phương Tuyệt của vòng Tràng sinh - Tùy theo tứ chính hay tứ di mà ứng dụng vòng Tràng sinh thuận nghịch. trên cơ sở này chúng ta áp vòng tràng sinh trên cơ sở "Hậu thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn - Khôn) phối Hà Đồ" . Chúng ta sẽ được một sự hoàn hảo phù hợp với tiêu chí khoa học của phương sát trong Bát sát, như mô hình dưới đây: A/ Bốn quái tứ chính: 1/ Hướng Khảm Bát sát ở Tị (Khảm Xà/ Sách Hán: Long)......................2/ Hướng Chấn Bát sát ở Thân (Chấn sơn Hầu) 3/ Hướng Ly Bát sát ở Hợi (Ly Trư).....................................4/ Hướng Đoài Bát sát ở Dần (Đoài Hổ đẩu. Sách Hán: Xà) B/ Bốn quái tứ di: 5/ Hướng Càn Bát sát ở Ngọ (Kiền Mã)..............................6/ Hướng Khôn Bát sát ở Tý (Khôn 'Tý'. Sách Hán: Tốn Kê) 7/ Hướng Cấn Bát sát ở Dậu (Cấn Kê. Sách Hán: Dần)..........8/ Hướng Tốn Bát sát ở Mão (Tốn Mẹo. Sách Hán: Khôn tuyệt ở Mão). Thưa quý vị và ACE, trên cơ sở giả thuyết ban đầu chúng tôi xác định rằng: Tất cả các phương sát trong Bát sát đều phải nằm ở vị trí Tuyệt của vòng Tràng sinh. Trong đó, tứ chính là Dương, thuộc vòng Tràng sinh thuận; tứ Di là Âm thuộc vòng Tràng sinh nghịch. Và chúng tôi đã minh họa ở hình trên. Trên cơ sở này chúng ta thấy rằng: Hai quái tứ chính là Ly - Chấn hoàn toàn trùng khớp phương sát với Lạc Việt, tức giả thuyết của chúng tôi và hai quái tứ Di là Càn - Khôn (Tốn theo Lạc Việt) là hoàn toàn trùng khớp, còn lại như phần trên đã trình bầy thì phương pháp đặt phương sát của chúng tôi nhân danh nền Văn hiến Việt một thời huy hoàng ở bờ Nam sông Dương tử, hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học về tính quy luật, tính khách quan, tính hệ thống, tính nhất quán và tính hoàn chỉnh. Bây giờ chúng ta đối chiếu tiêu chi khoa học mà chúng tôi đã trình bầy ở trên về tính hợp lý lý thuyết toàn diện nhân danh nền Văn hiến Việt: Tất cả những ai nghiên cứu về Lý học thì đều biết rất rõ thì trong 12 Địa chi thì Tý tuyệt Tị, Mão tuyệt Thân, Ngọ tuyệt Hợi, Dậu tuyệt Dần và ngược lại: Hợi tuyệt Ngọ, Tị tuyệt Tý, Dần tuyệt Hợi, Thân tuyệt Mão. Trên cơ sở này chúng ta quán xét lại toàn bộ những hướng và phương sát - nhân danh nền Văn hiến Việt - hoàn toàn phù hợp với cách Tứ Tuyệt trong Địa chi được mô tả trong Lý học Đông Phương, đồng thời phù hợp với phương Tuyệt của vòng Tràng sinh. Đây chính là tính hợp lý lý thuyết của mọi vấn đề liên quan đến nó phù hợp với tiêu chí khoa học. Đó là phù hợp với phương Tuyệt của vòng Tràng sinh; phù hợp với nguyên lý Tứ tuyệt của địa chi. Đó chính là một phương pháp nghiên cứu của chúng tôi căn cứ theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Đây là điều mà trong các cổ thư chữ Hán không mô tả được. Vấn đề không phải chỉ riêng một vấn đề phương sát trong Bát sát trong Địa lý Phong thủy. Mà là tất cả hầu hết các di sản từ cổ thư chữ Hán liên quan đến Thuyết Âm Dương ngũ Hành, thì chúng đều rất mơ hồ, mâu thuẫn và bất hợp lý ngay trong nội hàm cấu trúc của hệ thống này. Tính hợp lý lý thuyết phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng, chỉ thể hiện nhân danh nền Văn Hiến Việt một thời Huyền Vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử, với nguyên lý căn để Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt. Mới đủ tư cách để xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Bát Quái chính là "Lý thuyết thống nhất vũ trụ" mà nền khoa học hiện đại đang mơ ước! Trên cơ sở này. Rất hy vọng bài viết mà tôi trình bầy trên đây sẽ được quý vị quan tâm. Riêng đối với ACE Địa lý Lạc Việt thì nhân danh một người thầy đang truyền đạt kiến thức và nhân danh nền Văn Hiến Việt, với tinh thần khoa học thực sự, ACE hãy áp dụng phương sát trong Bát sát đã được phục hồi từ nền Văn hiến Việt. Phương pháp ứng dụng nhân danh nền Văn hiến Việt, không chỉ ứng dụng trong Dương trạch để trổ cửa tùy theo hướng nhà, mà còn là ứng dụng trong Loan Đầu để chọn hướng nhà và vấn đề Âm trạch mà ACE sẽ tiếp tục được học tới đây. Xin cảm ơn quý vị và ACE đã đọc và quan tâm đến bài viết này.
  22. BÁT SÁT TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN Thưa quý vị và anh chị em Địa Lý Lạc Việt thân mến. Đáng nhẽ bài này tôi giảng riêng cho anh chị em DLLV. Nhưng xét thấy một lần nữa, nó chứng minh cho luận điểm của tôi xác định rằng: 1/ Địa Lý Phong thủy là một ngành khoa học ứng dụng trong kiến trúc xây dựng, thuộc về nền văn minh Lạc Việt, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương Tử. Những di sản của Lý học Đông phương ghi nhận trong cổ thư chữ Hán, chỉ là những mảnh vụn còn sót lại của nền văn minh Việt, bị Hán hóa một cách rời rạc, đầy mâu thuẫn, sai lạc và không hoàn chỉnh. 2/ Tính khoa học hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành với nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" nhân danh nền văn hiến Việt, thể hiện tính hợp lý hoàn chỉnh và phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Bài viết về Hoàng Tuyền Bát Sát, mà chúng tôi trình bày trên với quý vị và anh chị em - có xuất xứ từ cổ thư chữ Hán - là một ví dụ. Nội dung của nó mà quý vị và anh chị em đã đọc, hoàn toàn mang tính mặc định và không hề có - ít nhất là một cơ sở lý thuyết nào liên hệ với nó. Để chứng minh điều này, tôi mô tả lại qua mô hình được trình bày dưới đây: Để tiện theo dõi, tôi trích lại toàn văn như sau: Trên cơ sở này, chúng tôi sắp xếp theo 4 quái Tứ chính là:Khảm, Chấn, Ly, Đoài và 4 quái Tứ duy là Càn, Khôn, Cấn, Tốn - theo mô hình của "Hậu Thiên Văn Vương" từ cổ thư chữ Hán - như sau: A/ Bốn hướng Tứ chính, là: 1/ Hướng Khảm Bát sát ở Thìn (Khảm Long)......................2/ Hướng Chấn Bát sát ở Thân (Chấn sơn Hầu) 3/ Hướng Ly Bát sát ở Hợi (Ly Trư)......................................4/ Hướng Đoài Bát sát ở Tỵ (Đoài Xà đẩu) B/ Bốn hướng Tứ duy, là: 5/ Hướng Càn Bát sát ở Ngọ (Kiền Mã)..........................................................56/ Hướng Khôn Bát sát ở Mão (Khôn Thỏ 'mão') 7/ Hướng Cấn Bát sát ở Dần (Cấn Hổ)...........................................................57/ Hướng Tốn Bát sát ở Dậu (Tốn Kê). Như vậy, qua các mô hình mô tả cụ thể ở trên, quý vị và anh chị em cũng nhận thấy rất rõ các vấn đề sau đây: 1/ Tính phi quy luật trong bản văn chữ Hán về vị trí Bát sát trong ứng dụng Địa Lý phong thủy. 2/ Tính mặc định áp đặt của các phương pháp ứng dụng trong cổ thư chữ Hán về vị trí Bát sát trong ứng dụng Địa Lý phong thủy. Chúng không hề có một mối liên hệ nào, có tính hệ thống với các hệ luận liên quan trong hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhân danh nền văn hiến Việt và những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan đến Lý học Đông phương, trong đó có ngành Địa Lý phong thủy và cụ thể là nguyên lý ứng dụng về Bát sát trong ứng dụng Địa Lý phong thủy. Riêng về hiện tượng Bát sát, tôi trân trọng giới thiệu với quý vị và ACE công lao đầu tiên thuộc về Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn - là một trong những học trò theo tôi đã lâu. Trong thời gian phụ việc và theo học Địa Lý phong thủy Lạc Việt, chính Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn đã đặt giả thuyết ban đầu một cách xuất sắc, về: "Hướng "sát" của Bát sát trong ứng dụng Địa Lý phong thủy liên quan đến vòng Trường sinh". Nhưng do phương pháp diễn đạt ban đầu của Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn chưa rõ ràng, nên tôi đã yêu cầu mô tả lại. Sự việc xảy ra cách đây cũng đã nhiều năm. Rồi Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn xuống núi hành nghề và những việc mưu sinh với những lo toan của cuộc sống, khiến công việc nghiên cứu về Bát Sát Hoàng Tuyền dừng lại ở đấy. Tuy nhiên, do hiện nay tôi tiếp tục giảng dạy trong lớp Địa Lý Lạc Việt ứng dụng. Nên một trong những yếu tố tương tác quan trọng, sắp sửa được giảng dạy liên quan đến yếu tố Loan Đầu (Sách Hán gọi là "trường phái"), nên tôi phải phục hồi lại các mô hình liên quan để mô tả yếu tố sát (yếu tố xấu) trong nguyên lý tính Bát sát trong phong thủy. Trước khi bắt đầu vào các bài viết tiếp theo, liên quan đến Bát sát, tôi trân trọng ghi nhận giả thuyết ban đầu xuất sắc của Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn, trong việc phục hồi lại bản chất của yếu tố Bát sát trong Địa Lý Lạc Việt. Còn tiếp. Chú thích: 1/ Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn hiện là thành viên nghiên cứu trong Hội Đồng khoa học của Trung Tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương.
  23. Thưa quý vị và anh chị em thân mến. Phần dưới đây là nguyên văn tư liệu có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán và phương pháp hóa giải, để quý vị và anh chị em tham khảo. III. HOÀNG TUYỀN Lập hướng, kỵ thủy lộ, phạm Hoàng Tuyền THƠ CỔ: 1/ Canh Đinh Khôn, thường thị Hoàng Tuyền 2/ Ất Bính tu phòng, Tốn thủy tiêu 3/ Giáp, Quý hướng trung ưu kiến Cấn 4/ Tân Nhâm thủy lộ phụ dương Kiền Theo nghĩa đen của mỗi chữ trong mỗi câu: 1/ Phương Nam là Đinh, thì trên phương Khôn là Hoàng Tuyền. 2/ Phương Ất là Bính, thì nên phòng nước phương Tốn trước hết. 3/ Trong hướng Giáp và hướng Quý thì lo thấp ở phương Cấn 4/ Phương Tân và Nhâm , thì sợ đường nước ở ngay phương Càn 1. NGHĨA LÀ: Giáp, Canh, Nhâm, Bính là tứ Dương can (4 thiên can thuộc Dương), Ất, Tân, Đinh, Quý là tứ can Âm (4 thiên can thuộc Âm), ở về 4 phương chính, mỗi phương có 2 can: một âm, một dương. Càn, Khôn, Cấn, Tốn gọi là tứ Duy, cũng là hàng thiên can ở bốn phương ngung (bốn hướng góc), cộng là tám phương (bát quái) + Giáp, Canh, Nhâm, Bính là 4 dương can hợp với 4 địa chi: Tý, Ngọ, Mão, Dậu, 4 phương chính, theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Vượng, vừa là bốn phương Tử của 4 đại cục. + Ất, Tân, Đinh, Quý là 4 âm can hợp với 4 địa chi: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, 4 phương bàng, theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Dưỡng, vừa là bốn phương Mộ của 4 đại cục. + Càn, Khôn, Cấn, Tốn là 4 Thiên can hợp với 4 địa chi: Dần, Thân, Tị, Hợi ở 4 phương ngung (tứ duy), theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Sinh, vừa là bốn phương Tuyệt của 4 đại cục khác nhau. Ví dụ: Câu: Canh, Đinh, Khôn, thường thị Hoàng Tuyền Như là lập hướng Canh, là hướng Vượng của Kim cục thì Khôn là Lâm Quan, thì thủy ở Khôn phải chảy lại trước huyệt. Nếu chảy đi là thủy phá Lâm Quan, thì bị Hoàng Tuyền. Như lập hướng Đinh, là Dưỡng hướng thủy cục, thì Khôn là Trường sinh, Thủy ở phương Khôn cũng phải chảy lại trước huyệt, nếu chảy đi là thủy phá Trường sinh phương, thì bị Hoàng Tuyền. Nhưng trái lại cũng lập hướng Đinh, nhưng ở Mộc cục, thì Đinh lại đổi là Mộ, Khôn đổi lại Tuyệt, thủy lưu nhập thì bị Hoàng Tuyền. Nếu không biết phép tiêu nạp thủy ở trong 4 phương: Càn, Khôn, Cấn, Tốn này thì phạm Hoàng Tuyền. Vì vậy bảo là Tứ lộ Hoàng Tuyền, Hoàng Tuyền là suối vàng, là nơi vô khí ( tử khí): Nói một cách khác: Dương thế có đường đi của người dương thế. Dưới âm cũng có đường đi của người âm: (Hoàng là Vang, Tuyền là suối) Hoàng Tuyền xuất hiện ở Thiên Can và tứ Duy, không xuất hiện ở Địa chi. Nói tóm lại: - Mặt tiền nhà là Cấn thì Giáp, Quý là Hoàng Tuyền - Mặt tiền rơi vào Giáp, Quý thì Cấn là Hoàng Tuyền - Mặt tiền nhà là Tốn thì Ất, Bính là Hoàng Tuyền - Mặt tiền rơi vào Ất, Bính thì Tốn là Hoàng Tuyền - Mặt tiền nhà là Khôn thì Đinh, Canh là Hoàng Tuyền - Mặt tiền rơi vào Đinh, Canh thì Khôn là Hoàng Tuyền - Mặt tiền nhà là Càn thì Tân, Nhâm là Hoàng Tuyền - Mặt tiền rơi vào Tân, Nhâm thì Càn là Hoàng Tuyền 2. TÁC HẠI CỦA HOÀNG TUYỀN - Nhà phạm Hoàng Tuyền gây cho người mắc các bệnh ác tính như: ung thư, u cục ác tính, rối loại các tuyến nội tiết, rối loạn chức năng các tạng phủ, gây cho người có bệnh cảm giác như giả vờ, lúc có thuốc bệnh cũng không đỡ, không có thuốc bệnh lại khỏi. - Gây cho người thích kiện tụng, thích đấu đá, tù đầy, chết chóc, nóng nảy, điên rồ, hoặc bị những họa không tự mình gây ra (họa vô đơn chí, không biết nguyên nhân) Hoặc mắc bệnh, Đông Tây y không phát hiện ra. 3. NGUYÊN LÝ LẬP BÁT QUÁI TRẤN HOÀNG TUYỀN. HOÀNG TUYỀN LÀ ĐƯỜNG ĐI CỦA NGƯỜI ÂM: Là điểm giữa mặt tiền nha, cửa chính, cửa phụ, cửa sổ và cổng đối diện phải, là đường đi của ma quỷ, Phong thủy dùng bát quái SINH KHÍ TRẤN. - Nếu điểm giữa mặt tiền nhà là Càn: thì Tân, Nhâm rơi vào cổng, cửa chính, phụ, cửa sổ là Hoàng Tuyền thì: 1/ Với Tân: Lấy mã số địa của Đoài đặt trung cung Lạc Thư, phi theo hệ Đoài làm ruột ma phương. 2/ Các sao của 8 cung hệ Đoài phi ra kết hợp với các sao vòng ngoài từng cặp, từng cặp thành sinh khí ra tổng ma phương sinh khí là ma phương phát sinh khí trấn Hoàng tuyền Ngũ quỷ 3/ Ma phương làm xong nạp thần (thông tin) và treo ma phương có số thay số 5 vào trung cung lên trên. Ma phương treo tại vị trí phạm Hoàng Tuyền, đầu ma phương phải có dịch tự quẻ để tăng sức mạnh trấn. Ta lần lượt đi hết 12 vị trí có thể xảy ra Hoàng Tuyền: CUNG CÀN : Mặt tiền nhà là Càn: 1/ Vị trí Tân là Hoàng Tuyền, Tân thuộc Đoài, lấy mã số địa của Đoài là 7 đặt và trung cung Lạc Thư phi theo chiều quỹ đạo của Đoài: Vị trí Tân bị Ngũ Quỷ, ma phương này treo ở vị trí bị Ngũ Quỷ - Hoàng Tuyền Ma phương phát sinh khí trấn Ngũ Quỷ. 2/ Vị trí Nhâm là Hoàng Tuyền, Nhâm thuộc Khảm, lấy mã số địa của Khảm đặt trung cung Lạc Thư phi theo quỹ đạo của Khảm làm ruột ma phương phát Sinh Khí Ma phương treo tại Nhâm. Ma phương phát sinh khí trấn Hoàng Tuyền. 3/ Nếu Tân – Nhâm là mặt tiền, vị trí Càn là Hoàng Tuyền, mã số địa của Càn là (6) Đặt 6 vào trung cung phi theo quỹ đạo Càn Ma phương này treo ở Càn Ma phương phát Sinh Khí CUNG CẤN: Mặt tiền nhà là cấn 1/ Vị trí Quý là Hoàng Tuyền. Quý thuộc Khảm, lấy mã số địa của Khảm đặt vào trung cung Lạc Thư phi theo hệ Khảm (1) Ma phương treo ở Quý Ma phương phát Sinh Khí 2/ Mặt tiền nhà là Cấn: Vị trí Giáp là Hoàng Tuyền. Giáp thuộc Chấn, lấy mã số Địa của Chấn là 3, đặt vào trung cung Lạc Thư, phi theo quỹ đạo Chấn: Ma phương này treo ở Giáp 3/ Quí – Giáp là mặt tiền nhà thì Cấn là Hoàng Tuyền. Mã số địa của Cấn là 8, đặt 8 vào trung cung Lạc Thư phi theo chiều quỹ đọa của Cấn, các số của 8 cung phi ra làm ruột ma phương Sinh Khí, kết hợp với cá số vòng ngoài từng cặp, từng cặp thành ma phương Sinh Khí. Ma phương phát Sinh Khí này treo ở Cấn CUNG TỐN: Mặt tiền nhà là Tốn: Vị trí Ất – Bính là Hoàng Tuyền. 1/ Ất thuộc Chấn; Chấn gồm Giáp - Ất, ma phương hoàn toàn giống ở Giáp, nhưng mặt tiền nhà Tốn thì treo ma phương ở Ất. 2/ Vị trí Bính thuộc Ly, mã số địa của Ly là (9), đặt vào trung cung phi theo quỹ đạo hệ Ly: Ma phương Sinh Khí này treo ở Bính 3/ Ất – Bính là mặt tiền nhà thì Tốn là Hoàng Tuyền Mã số địa của Tốn là 4, đặt 4 vào trung cung Lạc Thư phi theo hệ Tốn Ma phương này treo ở Tốn Ma phương phát Sinh Khí trấn Hoàng Tuyền ở Tốn CUNG KHÔN: Mặt tiền nhà là Khôn: Vị trí Đinh – Canh là Hoàng Tuyền. 1/ Đinh thuộc Ly, Bính thuộc Ly. Ma phương của Đinh giống hoàn toàn như ma phương của Bính. Nhưng mặt tiền nhà là Khôn, thì ma phương này phải treo ở Đinh nơi bị Hoàng Tuyền 2/ Canh thuộc Đoài, Tân cũng thuộc Đoài. Ma phương của Canh giống hoàn toàn ma phương của Tân. Nhưng mặt tiền nhà là Khôn , thì ma phương này phải treo ở Canh nơi bị Hoàng Tuyền. 3/ Đinh – Canh là mặt tiền thì Khôn là Hoàng Tuyền. Mã số địa của Khôn là 2, đặt 2 vào trung cung phi theo quỹ đạo của Khôn Ma phương phát Sinh Khí trấn Hoàng Tuyền ở Khôn (HẾT)
  24. Thưa quý vị và anh chị em thân mến. Phần dưới đây là nguyên văn tư liệu có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán và phương pháp hóa giải, để quý vị và anh chị em tham khảo. BÁT SÁT – HOÀNG TUYỀN I. BÁT SÁT – HUNG KỴ: Lập hướng phải kỵ 8 phương sát khí: CA QUYẾT: 1/ Khảm Long, Khôn Thỏ (mão), Chấn sơn Hầu 2/ Tốn Kê, Kiền Mã, Đoài Xà đẩu 3/ Cấn Hổ, Ly Trư, Vi sát liệu 4/ Phạm chi mộ, trạch nhất tề hư NGHĨA LÀ: 1/ Phương Khảm thì kỵ khắc với Phương Thìn (Thìn thì ứng tinh với con Rồng, nên gọi bí danh là Long). Phương Khôn kỵ khắc với phương Mão (Mão thì ứng linh là con Thỏ). Phương Chấn kỵ khắc với phương Thân (Thân thì ứng tinh với con Khỉ nên gọi bí danh là Hầu) 2/ Phương Tốn kỵ khắc với phương Dậu (Dậu thì ứng tinh là con Gà nên gọi bí danh là Kê). Phương Càn thì kỵ khắc với phương Ngọ (Ngọ thì ứng tin với con Ngựa nên gọi bí danh là Mã). Phương Đoài thì kỵ khắc với phương Tị (Tị là ứng với tinh con Rắn, nên bí danh gọi là xà đẩu) 3/ Phương Cấn kỵ khắc với phương Dần (Dần thì ứng tinh là con Cọp nên gọi bí danh là Hổ). Phương Ly thì kỵ khắc với phương Hợi (Hợi thì ứng tin với con Lợn nên gọi bí danh là Trư). Tám phương nọ khắc với tám phương kia nên là sát diệu (sao sát). 4/ Phạm vào đấy thì mộ phần hay nhà ở đều cũng hỏng. VÍ DỤ: 1/ Khảm Long: Mạch từ phương Tý nhập huyệt thì không nên lập hướng Thìn; Hoặc mạch ở phương Thìn nhập huyệt thì không nên lập hướng Tý. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị diệt vong; bởi vì Tý thuộc Thủy, Thìn thuộc Thổ, Thổ khắc Thủy nên bị sát. 2/ Khôn Long: Mạch từ phương Khôn nhập huyệt thì không nên lập hướng Mão; Hoặc mạch ở phương Mão nhập huyệt thì không nên lập hướng Khôn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị họa vong; bởi vì phương Khôn thuộc Thổ, phương Mão thuộc Mộc, Mộc khắc Thổ nên bị sát. 3/ Chấn Long: Mạch từ phương Chấn nhập huyệt thì không nên lập hướng Thân; Hoặc mạch ở phương Thân nhập huyệt thì không nên lập hướng Chấn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị họa vong; bởi vì phương Chấn thuộc Mộc, phương Thân thuộc Kim, Kim khắc Mộc nên bị sát 4/ Tốn Long: Mạch từ phương Tốn nhập huyệt thì không nên lập hướng Dậu; Hoặc mạch ở phương Dậu nhập huyệt thì không nên lập hướng Tốn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị họa vong; bởi vì phương Tốn thuộc Mộc, phương Dậu thuộc Kim, Kim khắc Mộc nên bị sát. 5/ Càn Long: Mạch từ phương Càn nhập huyệt thì không nên lập hướng Ngọ; Hoặc mạch ở phương Ngọ nhập huyệt thì không nên lập hướng Càn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị họa vong; bởi vì phương Càn thuộc Kim, phương Ngọ thuộc Hỏa, Hỏa khắc Kim nên bị sát. 6/ Đoài Long: Mạch từ phương Đoài nhập huyệt thì không nên lập hướng Tị; Hoặc mạch ở phương Tị nhập huyệt thì không nên lập hướng Đoài. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị họa vong; bởi vì phương Đoài thuộc Kim, phương Tị thuộc Hỏa, Hỏa khắc Kim nên bị sát. 7/ Cấn Long: Mạch từ phương Cấn nhập huyệt thì không nên lập hướng Dần; Hoặc mạch ở phương Dần nhập huyệt thì không nên lập hướng Cấn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị họa vong; bởi vì phương Cấn thuộc Thổ, phương Dần thuộc Mộc, Mộc khắc Thổ nên bị sát. 8/ Ly Long: Mạch từ phương Ly nhập huyệt thì không nên lập hướng Hợi; Hoặc mạch ở phương Hợi nhập huyệt thì không nên lập hướng Ly. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị họa vong; bởi vì phương Ly thuộc Hỏa, phương Hợi thuộc Thủy, Thủy khắc Hỏa nên bị sát. CHÚ Ý: Long mạch nhập huyệt chính là Long nhập thủ. Ở đồng bằng, nhìn long nhập thủ có chỗ khác với miền núi. Nếu thấy long sơn khởi cao hơn hai bên một chút, thắt lại nhỏ hẹp, thì cũng lấy 24 phương định mạch khí, như miền núi ở đồi cao. Nếu long mạch bình thản (thấp và phẳng rông), không nhận đích được long tính, thì lấy phương nào ở gần nước hơn mà định cục, lập hướng, như là phương Nam gần nước thì lấy Khảm cục Long lập hướng Nam…vv Cục cũng kỵ khắc như phương, tức là Khảm cục không nên lập Thìn hướng, Khôn cục không nên lập Mão hướng… vv II. Mặt khác về BÁT SÁT 1. Bát là 8, là 8 cung trong la kinh, trong mỗi cung ấy đều có một sơn vị trong 24 sơn của la kinh,nằm về trái hoặc nằm về phải của mặt hậu ngôi nhà tác hại lại ngôi nhà ấy gọi là Sát (sát kề hậu) VÍ DỤ: Cung càn: , coi mắt tiền là Càn, mặt hậu là Tốn, thì Ngọ là kế trái hậu của Tốn. Có một dòng Thủy hoặc một hình dạng Thủy đi từ Càn đến Ngọ rồi tại Tị (dừng) ở đấy, rồi lại có một nhánh (Thủy hoặc hình Thủy) chảy hoặc đi ngược lại hướng Càn (có thể vào Tuất hoặc Hợi). Nếu lập hướng ở Ngọ, cổng, cửa chính, cửa phụ và kể cả cửa sổ thì Ngọ là sát của hướng Càn. Các hướng khác cũng tương tự như thế. 2. Tác hại của BÁT SÁT 1/ Hướng Bắc: Sơn Thìn là sát: Gây ra nhiều bệnh tật, vợ chồng bất hòa. 2/ Hướng Nam: Sơn Hợi là sát: Gây cho anh em bất hòa, dễ gây sự với hàng xóm, bị người nhỏ nhen nói xấu, khó nuôi gia súc. 3/ Hướng Đông: Sơn Thân là sát: Hay mắc nghiện hút, dễ gặp tai họa, bị kìm kẹp ức chế. 4/ Hướng Tây: Sơn Tị là sát: Không được quý nhân phụ trợ, trên không kính dưới không nhường, con cái dễ mắc nghiện hút. 5/ Phương Tây Nam: Mão sơn là Sát: Dễ bị kẻ xấu quấy phá, trộm cướp mất tiền, tai nạn trọng thương. 6/ Phương Đông Bắc: Sơn Dần là sát: Gia đình bất hòa, Tài lộc eo hẹp 7/ Phương Đông Nam: Sơn Dậu là sát: Quan chức bị kìm kẹp khó ngóc đầu dậy, tổ tiên không phù trì, Thờ tổ tiên mà quỷ hưởng. 8/ Phương Tây Bắc: Sơn Ngọ là sát: Mất tình cảm, Bị đâm chém thương tích, mổ xẻ tang thương. 3. PHÉP TRẤN Cơ sở của phép trấn là: Trước mặt tiền nhà, cổng, cửa chính, cửa phụ có dòng nước chảy tới, có hình tượng nhấp nhô như sóng nước, hoặc có bể chứa nước sạch, bể cá cảnh đều là tượng của Thủy. Ai gây nên bát sát? Những cái vừa nói đến ở trên: Bát sát có tính chất như Họa Hại, do đó phải dùng bản cung của nó chế hóa ra ma phương mà chế nó; ta chế ma phương Diên Niên để hóa giải bát sát theo nguyên tắc sau: 1/ Dùng mã số Địa của bản cung gây ra họa hại đặt vào trung cung của Lạc Thư phi theo quỹ đạo hệ của chính nó ra 8 sao ở 8 cung, được số 5 vào trung cung thay cho số tương ứng của nó. 2/ 8 số này làm ruột của ma phương phát Diên Niên 3/ Phối đơn quẻ ruột từng quẻ với đơn quẻ ngoại thành khí Diên Niên lần lượt cho hết 8 cặp. Ta được bảng số ma phương phát Diên Niên 4/ Vẽ ma phương phát Diên Niên theo bảng số ma phương vừa lập, ma phương phát vẽ thái cực phát nhìn từ trong nhìn ra ngoài theo quẻ dịch 5/ Vị trí số 5 vào trung cung là vị trí treo ma phương lên phía trên 6/ Vẽ dịch tự và đầu từng quẻ kép hoặc vẽ mặt trái ma phương tùy người vẽ ma phương quyết định 7/ Nhớ nạp thần tăng thêm sức mạnh cho ma phương. Ma phương trấn bát sát không ấn định ngày giờ treo 8/ Vị trí treo ma phương trấn bát sát: Sơn vị nào bị thì treo ma phương ở chỗ đó, treo mặt có thái cực ra ngoài: 4. CỤ THỂ: HƯỚNG KHẢM: Mã số địa của Khảm là (1) Chú ý: Mặt tiền thù thường chiếm tới 2 đến 3 cung: Càn – Tý – Cấn, thì sát Dần: Treo ma phương này ở tay phải mặt tiền. HƯỚNG CẤN: Mã số địa của Cấn là (8) Ma phương này treo ở Dần Ma phương Diên Niên trấn sát ở Cấn. HƯỚNG CHẤN: Mã số địa của Chấn là (3) Đặt 3 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo của quẻ Chấn. Tám sao hệ Chấn mã số 3 phi ra làm ruột ma phương từng cặp sao phối ra Diên Niên Ma phương này treo ở Ất Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Chấn. HƯỚNG TỐN: Mã số địa của Tốn là (4) Đặt 4 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo của quẻ Tốn được tám sao làm ruột ma phương. Tám sao hệ Tốn mã số 4 phi ra làm ruột ma phương pháp từng cặp sao phối ra Diên Niên Ma phương này treo ở Tỵ Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Tốn HƯỚNG NGỌ: Mã số địa của Ly là (9) Đặt 9 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo hệ Ly.Số phi ra tam cung làm lõi ma phương. Kết hợp với số vòng ngoài từng cặp, từng cạp ra số Diên Niên là tốt Ma phương này đặt ở chính Ngọ Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Ly. HƯỚNG KHÔN: Mã số địa của Khôn là (2) Đặt 2 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo số 2 của Khôn. Phi ra tám hướng định các sao làm lõi của ma phương. Lõi ma phương phối với vòng ngoài từng cặp ra ma phương Diên Ma phương này treo ở Mùi Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Khôn. HƯỚNG ĐOÀI: Mã số địa của Đoài là (7) Đặt 7 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo của hệ Đoài. Các sao phi được trong tám cung làm ruột ma phương, kết hợp với các sao vòng ngoài từng cặp, từng cặp ra Diên Niên Ma phương này treo ở Canh Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Đoài. HƯỚNG CÀN: Mã số địa của Càn là (6) Đặt Càn là 6 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo của hệ Càn. Các sao phi được trong tám cung làm ruột ma phương, ruột này kết hợp với các sao vòng ngoài từng cặp, từng cặp ra Diên Niên Ma phương này treo ở Hợi Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Càn. (Còn tiếp)
  25. LỜI TIÊN TRI 2017. Các đại gia sụp đổ....Ra tòa nhiều wá!. https://baomoi.com/de-nghi-cam-xuat-canh-doi-voi-cha-con-giam-doc-tan-hiep-phat/c/21298435.epi