Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. GIỄU ÔNG ĐỒ NƯỚC LỖ Cảm tác thơ Lý Bạch. Thiên Sứ Khệnh khạng ông đồ nước Lỗ. Làu thông kinh sử, trong đầu chữ chứa tính hàng bồ. Tứ thư ngũ kinh Thảy đều thông tỏ. Tam giáo, cửu lưu. Sách thánh hiền xưa học thuộc làu làu. Nói chuyện thao thao. Nghiêm cẩn dẫn lời vàng ý ngọc. Quần là áo lượt. Đầu đội khăn “phương sơn”. Chân mang dép “viễn du lý”. Ngạo nghễ nhìn đời. Những tưởng đạp bụi hồng trần, vượt trên vai thiên hạ. Bày đặt chê bai. Khinh người dốt nát. Cầm quạt đuổi ruồi, dăm câu thơ ngâm ngợi. Mượn rượu say sưa, cũng ra điều khí phách. Khi hỏi chuyện kinh bang tế thế. Mắt trợn ngược như người cao khiết, chẳng thiết lợi danh. Lúc bàn việc giúp đời. Lại ra vẻ thanh cao, không nói chuyện thế nhân vớ vẩn. Này ông! Phủ tể tướng nhà Tần không có người áo quần lụng thụng. Nơi sân triều ông cũng chẳng sánh Thúc Tôn Thông. Kinh sách thuộc làu mà chẳng biết gì cũng như không. Thôi đi về với ruộng đồng. Con trâu đang đợi, thấy ông cũng mừng. * TRÀO LỖ NHO Thơ Lý Bạch Lỗ tẩu đàm ngũ kinh Bạch phát tử chương cú Vấn dĩ kinh tế sách Mang nhiên trụy yên vụ Túc trước viễn du lý Thủ đới phương sơn cân Hoãn bộ tòng trực đạo Vị hành tiên khởi trần Tần gia Thừ Tướng phủ Bất trọng bao y nhân Quân phi Thúc Tôn Thông Dữ ngã bản thù luân Thời sự thả vị đạt Quy canh Vấn thủy tân * Dịch thơ Giễu ông đồ nước Lỗ Người dịch: Hoàng Tạo Ông đồ nước Lỗ học ngũ kinh Bạc đầu nhai chết từng chương cú Hỏi ông giúp đời thế nào đây? Mờ mịt như người mây khói phủ! Chân đi đôi giày "viễn du lý" Đầu đội chiếc khăn "phương sơn cân" Khệnh khạng ông bước theo đường thẳng Chưa đi bụi đã như mây vần Này, phủ thừa tướng đời nhà Tần Không trọng những người áo lụng thụng Ông không phải hạng Thúc Tôn Thông Ông so với tôi cũng không giống! Việc đời đã chẳng hiểu chi chi Bến Vấn liệu về cày cho chóng!
  2. Có một bài thơ ở blog của Kiến Như mà các bạn có thể xem ở đây: http://blog.360.yahoo.com/blog-cZa9ZvsibrQbf10ZlW6E_IuQ Kiến Như mời mọi người hoạ. Bài thơ này thật khó hoạ vì xét theo chiều dọc thì mỗi chữ đầu của mỗi câu ghép lại thành hai câu thành ngữ cổ là “Phong hoa tuyết nguyệt” và “Cầm kỳ thi hoạ”. Chữ thứ ba của mỗi câu xem theo chiều dọc là “Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát”, ngoài ra khi hoạ thơ Đường phải tuân theo đúng luật thơ. Thiên Sứ tôi chẳng quản tài hèn, cũng cố nối điêu theo các bậc tài danh mà hoạ bài này. Hay dở xin miễn chấp. BÀI XƯỚNG Phong sương nhất mực tiết xuân kỳ Hoa thắm nhị nồng quyện bước đi Tuyết rải tam tầng nơi Bắc ải Nguyệt soi tứ phía chốn Nam thùy Cầm ca ngũ khúc luôn bay bổng Kỳ thú lục tuần chằng quỵ quỳ Thi tứ thất ngôn say mộng tưởng Họa tranh bát vị cảm hoài chi? BÀI HOẠ Thiên Sứ Xuân xưa một bóng biệt kinh kỳ. Hạ trắng hai đường rẽ bước đi Thu khóc ba đào đời viễn xứ. Đông buông bốn phía lạnh biên thuỳ. Mai này năm hướng muôn hoa nở. Lan toả sáu phương vạn sắc Quỳ Cúc nhắc bảy mầu say mộng tưởng Trúc tiên tám vị cảm hoài chi?
  3. Tôi xin giới thiệu một tư liệu lịch sử gián tiếp ca ngợi nền văn hiến huyền vĩ Việt ở Nam Dương tử. Đó chính là bài thơ “Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt” của Thi Tiên Lý Bạch. Ông là một danh sĩ tài hoa nổi tiếng thời Đường, có niên đại sau khi nền văn hiến Việt sụp đổ ở bờ nam Dương Tử ngót 800 năm. Nhưng chỉ với những di sản văn hoá Việt còn lại ở đây đã khiến thi Tiên Lý Bạch phải muốn hoá thân vào những giá trị Việt. Tôi nghĩ rằng còn rất nhiều di sản lịch sử trực tiếp và gián tiếp khác tồn tại trong văn hoá Việt ghi dấu ấn cho nền văn hiến Việt, đủ minh chứng hùng hồn cho lịch sử dân tộc Việt trái gần 5000 năm văn hiến một thời huyền vĩ ở Nam sông Dương Tử. MỘNG DU THIÊN MỤ NGÂM LƯU BIỆTThơ Lý Bạch Hải khách đàm Doanh Châu, Yên đào vi mang tín nan cầu Việt nhân ngữ Thiên Mụ, Vân hà minh diệt hoặc khả đổ. Thiên Mụ liên thiên hướng thiên hoành, Thế bạt Ngũ Nhạc, yểm Xích Thành. Thiên Thai tứ vạn bát thiên trượng, Đối thử dục đảo đông nam khuynh. Ngã dục nhân chi mộng Ngô Việt, Nhất dạ phi đô kính hồ nguyệt. Hồ nguyệt chiếu ngã ảnh, Tống ngã chí Diễm Khê. Tạ công túc xứ kim thượng tại, Lục thuỷ đãng dạng thanh viên đề. Cước trước Tạ công lý Thân đăng thanh vân thê. Bán bích kiến hải nhật Không trung văn thiên kê Thiên nham vạn hác lộ bất định, Mê hoa ỷ thạch hốt dĩ mính, Hùng bào long ngâm âm nham tuyền. Lật thâm lâm hề kinh tằng điên. Vân thanh thanh hề dục vũ, Thuỷ đạm đạm hề sinh yên. Liệt khuyết tích lịch, Khâu loan băng tồi. Động thiên thạch phi, Hoanh nhiên trung khai. Thanh minh hạo đãng bất kiến để, Nhật nguyệt chiếu diệu kim ngân đài. Nghê vi y hề phong vi mã, Vân chi quân hề, phân phân nhi lai hạ. Hổ cổ sắt hề loan hồi xa, Tiên chi nhân hề liệt như ma. Hốt hồn quý dĩ phách động, Hoảng kinh khởi nhi trường ta. Duy giác thì chi chẩm tịch, Thất hướng lai chi yên hà. Thế gian hành lạc diệc như thử. Cổ lai vạn sự đông lưu thuỷ, Biệt quân khứ hề hà thì hoàn ? Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian. Tu hành tức kỵ phỏng danh sơn. An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quý, Sử ngã bất đắc khai tâm nhan! Dịch nghĩa Mơ đi chơi núi Thiên Mụ, làm thơ để lại lúc từ biệt Khách đi biển kháo nhau về Doanh Châu, Khói sóng mù mịt, tin rằng khó tìm được. Nay người Việt nói về núi Thiên Mụ, Mây ráng khi tỏ khi mờ cũng có thể nhìn thấy. Thiên Mụ liền trời mà vươn chắn ngang trời, Có cái thế vượt Ngũ Nhạc, ép cả Xích Thành. Núi Thiên Thai cao bốn vạn tám nghìn trượng, Trước nó cũng bị áp đảo mà nghiêng về đông nam. Ta muốn nhân đó mơ về Ngô Việt, Một đêm bay qua vầng trăng hồ Kính. Trăng hồ soi bóng ta, Đưa ta đến Diễm Khê. Ở đấy nay vẫn còn nhà của Tạ Linh Vận, Nước biếc rập rờn, vượn kêu lanh lảnh. Chân mang giày Tạ công, Mình đi lên thang mây xanh. Đến lưng chừng vách núi thấy mặt trời ngoài biển, Nghe gà trời gáy vang không trung. Nghìn núi muôn khe, khó xác định đường đi, Say mê ngắm hoa đứng tựa núi đá, bỗng trời sập tối. Gấu thét rồng gào vang dội núi đá, suối khe, Rừng sâu chấn động, núi thẳm kinh hoàng. Mây xanh xanh chừng sắp mưa, Nước mờ mờ như bốc khói. Chớp giật sấm vang, Núi tan gò lở. Động trời cửa đá Rầm rầm mở ra ở giữa. Xanh mờ thăm thẳm không thấy đáy, Mặt trời mặt trăng lấp lánh soi lầu vàng gác bạc. Cầu vồng làm áo, gió làm ngựa, Thần mây bời bời bay xuống. Cọp gảy đàn, loan kéo xe, Người tiên đông như cỏ gai. Bỗng hồn kinh phách động, Tỉnh dậy sợ hãi mà than dài... Chỉ thấy chăn gối lúc đó, Khói ráng vừa qua biến mất. Những cuộc vui trên đời cũng như vậy thôi ! Mọi việc xưa nay trôi qua như nước chảy về đông. Giã từ anh ra đi, biết bao giờ trở lại ? Hãy thả con hươu trắng nơi ghềnh núi xanh. Hễ cần thì cỡi ngay ngựa, thăm núi nổi tiếng, Chứ sao lại cúi mày khom lưng thờ bọn quyền quý, Khiến ta không sao mở lòng mở mặt ! Dịch thơ Khương Hữu Dụng Khách biển đồn Doanh Châu, Khói sóng mịt mù tìm được đâu! Người Việt nói Thiên Mụ, Mây ráng tỏ mờ nay thấy đó. Thiên Mụ liền trời chân trời xanh, Thế lay Ngũ Nhạc, đổ Xích Thành. Thiên Thai một vạn tám nghìn trượng, Đứng trước Thiên Mụ cũng nghiêng mình. Ta muốn nhân đây mộng Ngô Việt, Một đêm nương trăng Kinh Hồ vượt. Trăng hồ rọi bóng ta, Đưa ta đến Diễm Khê. Tạ công chốn cũ nay còn đó, Trong veo tiếng vượn, nước xanh lè. Xỏ chân dép họ Tạ, Cất mình thay mây đi. Vừng đông, nửa vách thấy, Gà trời, giữa lừng nghe. Núi ngàn ngoắt ngoéo đường lắm hướng, Mê hoa tựa đá bỗng tối om. Beo gầm rồng kêu núi khe dồn, Run rừng sâu hề rợn từng non. Mây xanh xanh hề mừa chớm, Nước mờ mờ hề khói un. Sét đánh chớp lòa, Gò nhào cồn tan. Động trời cửa đá, Ầm ầm mở toang. Xanh mờ thăm thẳm chẳng thấy đáy, Ánh trời ánh trăng ngấn bạc vàng. Mặc áo ráng hề cưỡi ngựa gió, Thần trong mây hề bời bời bay xuống đó. Hổ đánh đàn hề loan đẩy xe, Người tiên đông hề đông gớm ghê. Bỗng hồn kinh mà phách động, Hoảng vùng dậy mà than dài. Tan khói mây lúc nãy, Trơ chăn gối mình đây. Cuộc vui trên đời nào khác vậy, Xưa nay muôn việc xuôi nước chảy! Giã người đi hề bao giờ lui? Toan thả hươu trắng núi xanh khơi, Cần đi hẳn cưỡi dạo non chơi. Dễ đâu cúi đầu gãy lưng phụng quyền quý, Khiến ta chẳng được mặt mày tươi. Bản dịch: Khương Hữu Dụng MỘNG DU THIÊN MỤ NGÂM LƯU BIỆT Cảm tác thơ Lý Bạch Nguyễn Vũ Tuấn Anh Khách hải hồ kể mãi xứ Doanh Châu. Cõi huyền thoại nơi chân trời giáp biển. Chuyện thần tiên văn hiến Việt ngàn xưa. Nơi ấy. Lồng lộng trên cao Thiên Mụ chắn ngang trời. Giữa huyền không bời bời. Ngũ nhạc còn bé, Xích thành nhỏ nhoi. Núi Thiên Thai hùng vĩ xuyên mây. Trước Thiên Mụ cũng ngả nghiêng chao đảo. Ta ôm mộng sống trong huyền thoại Việt. Mơ vượt sóng trào hồ Động Đình đất Kính. Xuyên Ngô Việt trong trăng thanh lung linh. Về Diễm Khê thanh bình. Theo bóng trăng đến lều tranh Tạ Linh Vân. Nơi nước biếc soi áng mây thơ thẩn. Hạc kêu, vượn hót Gió giục mây vần. Mượn hài thần Tạ công, ta nhẹ bước thanh vân. Lưng chừng núi chợt thấy mặt trời lồng lộng. Mão Nhật kê tinh gáy gọi hừng Đông Đường đi mênh mông. Mây buông ráng hồng. Chợt trời sập tối. Sầm sập mây trôi. Nghe Kỳ lân gào thét. Tiếng Rồng gầm vang khe. Gió giật chớp loè. Núi tan, non lở. Chợt vỡ toang cửa trời rộng mở. Thăm thẳm huyền vi. Chói loà trời trăng soi lầu vàng, gác bạc. Thiên thần lừng lững bay. Giáp trụ hiên ngang, lấp lánh bẩy sắc cầu vồng. Cưỡi thần mã phi nhanh như gió. Cõi trời huyền thoại Việt. Toàn người đẹp nghiêng thành. Ảo huyền như trăng thanh. Dáng tiên thanh tú . Đông như cỏ manh. Nghe hổ chơi đàn. Hồn Bá Nha chứa chan. Chợt nhìn phượng múa. Vũ khúc Nghê Thường mê man… Giật mình tỉnh giấc mơ vàng. Mang mang như khói hương tàn trôi đi. Ngàn thu qua có nhắc gì? Mơ xưa xứ Việt ngang mi dâng sầu. Đất trời nhắc cuộc bể dâu. Nào mơ danh tướng công hầu mà chi. Thiên Sứ
  4. CON THUYỀN KHÔNG BẾN. Cảm tác nhạc phẩm Con thuyền không bến Đặng Thế Phong "Đêm nay thu sang cùng heo may..." Đìu hiu sương khói chân mây phủ mờ. Thuyền ai trăng nước bơ vơ? Bâng khuâng nỗi nhớ duyên thơ bẽ bàng. Hương thu còn có mơ màng. Mang mang theo gió thông ngàn mê say. Nguyện thề xưa chẳng về đây. Cung thương ai oán muôn dây tơ chùng. Trăng vàng buông nỗi nhớ nhung? Thuyền trôi trong cõi mit mùng khói sương. A đầu sông Tương? Ai cuối sông Tương? Về đâu cho gửi vấn vương u hoài? Ngàn thu xưa lạc gót hài. Bên sông nghe gió thở dài bâng khuâng. Thiên Sứ