Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. ÔNG ĐINH XUÂN LÂM TRÊN BBC Có thể nói rằng: Kể từ khi luận điểm của thiền sư Lê Mạnh Thát được quảng bá trên báo Thanh Niên thì hầu hết nhưng nhà nghiên cứu hàng đầu của Hôi nghiên cứu khoa học lịch sử Việt Nam đều đã lên tiếng phản bác. Bài trả lời phỏng vấn của ông Đinh Xuân Lâm với chức danh giáo sư phó chú tịch Hội nghiên cứu lịch sử đã chứng tỏ điều này (Xin xem bài viết của BBC ngay phía trên đây). Nhưng những luận điểm của ông Đinh Xuân Lâm cũng không chặt chẽ. Và điều này được chứng minh trong bài viết này. Trong bài này, xin được lưu ý bạn đọc là: phần trích dẫn được hiển thị bằng màu xanh, chính văn của tôi hiển thị bằng màu đen. Đoạn mở đầu BBC viết: “Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, trong cuộc phỏng vấn dành riêng cho BBC Việt ngữ ngày 21 tháng Ba vừa qua đánh giá Thiền sư Lê Mạnh Thát là một người có sự nghiên cứu sâu sắc, dày công đặc biệt trong lịch sử Phật giáo. Tuy nhiên, các luận điểm được cho là gây 'chấn động' đòi đi đến viết lại lịch sử cổ đại và hình thành dân tộc Việt Nam của Thiền sư Lê Mạnh Thát, theo ông, còn phiến diện đặc biệt do sự hạn chế về phương pháp nghiên cứu, tư liệu, nhất là tư liệu khảo cổ học”. Qua đoạn văn mở đầu trên, chúng ta thấy rằng: Ông Đinh Xuân Lâm đã đặt vấn đề cho rằng giáo sư Lê Mạnh Thát “đòi đi đến viết lại lịch sử cổ đại và hình thành dân tộc Việt Nam” Như vậy chúng ta phải đặt vấn đề như thế nào là viết lại lịch sử cổ đại và viết lại như thế nào? Vì sao phải viết lại? Từ hàng ngàn năm trước truyền thống văn hóa sử của dân tộc Việt vẫn quan niệm rằng: Dân tộc Việt trải một lịch sử văn hiến gần 5000 năm. Trước đây quan niệm này là truyền thống lưu truyền trong dân gian qua hàng ngàn năm Bắc thuộc và sau này được chính sử ghi nhận khi dân tộc Việt hưng quốc. Với quan điểm lịch sử cho rằng: Lịch sử dân tộc Việt chỉ bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ VII trước CN và “Thời Hùng Vương chỉ là liên minh gốm 15 bộ lạc” với những người dân “ở trần đóng khố” có phải là viết lại lịch sử hay không? Nếu cho rằng đây là vấn đề khoa học và đã chính thức coi là khoa học thì tất nhiên không thể đặt vấn đề viết lại lịch sử vốn là một khái niệm gần gũi với tính chủ quan, mà cần đặt vấn đề những phát hiện nhằm tìm về cội nguồn dân tộc. Tất nhiên những phát hiện đó có thể đúng và có thể sai – nhân danh khoa học. Giáo sư Lê Mạnh Thát chỉ đặt vấn đề tìm về cội nguồn và chứng minh cho lịch sử truyền thống của nền văn hiến Việt mà thôi. Với những quan điểm khác nhau cùng một vấn đề và hiện tượng và cùng nhân danh khoa học thì lấy cái gì để thẩm định những luận điểm đó? Hiển nhiên không phải vì số đông, cũng không phải vì học vị và chức danh với những phương tiện khoa học. Lịch sử khoa học đã chứng minh điều này. Như vậy, muốn thẩm định một luận điểm, giả thiết hay phương pháp khoa học thì cần phải có tiêu chí khoa học. Nếu so sánh với tiêu chí khoa học thì quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử trải gần 5000 năm văn hiến Việt hoàn toàn không hề có cơ sở khoa học. nó chỉ dựa trên sự hoài nghi vì tính chưa rõ ràng của lịch sử bị vùi lấp. Bởi vậy nếu nói chính xác thì câu trên của ông Đinh Xuân Lâm cần phải hiểu là: “Tuy nhiên, các luận điểm được cho là gây 'chấn động' đòi đi đến phục hồi lịch sử văn hiến truyền thống và hình thành dân tộc Việt Nam trải gần 5000 năm của Thiền sư Lê Mạnh Thát” . Nhìn chung trontg các bài viết của những nhà sử học có chức vị ở Hội lịch sử đều cho rằng giáo sư Lê Mạnh Thát quá vội vàng: Ông Đinh Xuân Lâm nói: “còn phiến diện đặc biệt do sự hạn chế về phương pháp nghiên cứu, tư liệu, nhất là tư liệu khảo cổ học”. và - Trong khi đó Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, trên tờ Sài Gòn Giải phóng số ra gần đây, cho rằng Thiền sư Mạnh Thát có những kết luận quá vội vàng. Theo BBC thì ông Dương Trung Quốc cũng cho rằng: Còn nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội này, kiêm Tổng biên tập Tạp chí 'Xưa và Nay', cho rằng Thiền sư là một chuyên gia thiên nhiều về phật học, lịch sử phật giáo hơn là lịch sử dân tộc. Quan niệm cho rằng giáo sư Lê Mạnh Thát “Thiên về lịch sử Phật giáo hơn lịch sử dân tộc” cũng như quan niệm của ông Đinh Xuân Lâm cho rằng: “còn phiến diện đặc biệt do sự hạn chế về phương pháp nghiên cứu, tư liệu, nhất là tư liệu khảo cổ học”. không phải cơ sở phản biện. Bởi vì không phải chỉ có bằng chuyên môn và có đầy đủ phương tiện mới có khả năng tiếp cận chân lý. Phương tiện là yếu tố cần chứ không phải yếu tố quyết định cho việc tiếp cận chân lý. Chúng ta đặt giả thiết rằng: Nếu giáo sư Lê Mạnh Thát bảo rằng: Đức Thích Ca mâu ni sang truyền giáo đầu tiên dưới thời Hùng Vương thứ 16 thì các ông do không chuyên về lịch sử Phật giáo sẽ không dám phản biện vì không chuyên ngành về lịch sử Phật giáo chăng? Giáo sư Trinh Xuân Thuận – một trong những nhà vật lý thiên văn có tên tuổi quốc tế - tất nhiên là đủ tư cách để nhân danh khoa học phát biểu: "Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ cũng phải viện dẫn đến toàn bộ lịch sử hình thành vũ trụ”. Như vậy thì về lý thuyết – tôi nhắc lại là “về lý thuyết” - theo nguyên lý của giáo sư Trịnh Xuân Thuận - chỉ cấn một mái đình trong làng – đủ để phục hồi lại toàn bộ lịch sử Việt – vốn là một bộ phận của lịch sử vũ trụ. Huống chi là cả một kho tàng lịch sử Phật giáo liên quan đến sử Việt. Và cũng chưa hẳn giáo sư Lê Mạnh Thát đã không tham khảo các sách sử hoặc văn hoá liên quan. Chúng ta xem tiếp luận điểm của ông Đinh Xuân Lâm qua BBC: Hạn chế phương pháp Giáo sư Đinh Xuân Lâm, người từng tham gia viết nhiều sách giáo khoa và biên khảo sử học Việt Nam nhiều giai đoạn, cho biết, nhìn chung ông hoan nghênh các nghiên cứu mới về lịch sử nói chung và lịch sử dân tộc nói riêng. (Qua phát biểu này Thiên Sứ tôi hy vọng những nghiên cứu của tôi cũng được hoan nghênh) Nhưng ông đánh giá phương pháp của Thiền sư: "Chúng tôi cho rằng có một sự hạn chế, về mặt tư liệu, chỉ khai thác chủ yếu một mặt tư liệu thôi." "Về mặt phương pháp khoa học nghiên cứu sử học, thì phải mở rộng cái diện nghiên cứu các nguồn tư liệu và phải tiến hành đối chiếu, so sánh các nguồn tư liệu trước khi đi tới một sự khẳng định," Một câu phát biểu có hình thức rất hàn lâm! Nhưng quan xét kỹ lại thấy thiếu hẳn một vấn đề quan trọng là: Một tiêu chí khoa học cho phương pháp khảo cứu. Chúng ta giả thiết cho rằng một nhà nghiên cứu nào đó đã “mở rộng cái diện nghiên cứu các nguồn tư liệu và phải tiến hành đối chiếu, so sánh các nguồn tư liệu”. Nhưng trước sự mơ hồ của hàng đống tư liệu, di vật, di sản văn hoá liên quan….đôi khi mâu thuẫn nhau. Nếu không có tiêu chí khoa học và một định hướng đúng thì kết quả khảo cứu vẫn mắc sai lầm. Lịch sử khoa học đã minh chứng điều này – khi mà “Hầu hết những nhà khoa học trong nước “ và được “công đồng khoa học thế giới” thừa nhận một quan điểm lịch sử phủ nhận những gía trị văn hiến Việt thì quan điểm này lại chứng minh rằng “Trong Thủy chết sau ba năm mới sinh con” . Bởi vậy, việc giáo sư Lê Mạnh Thát chỉ khai thác “một mặt tư liệu” thì đó là phương pháp tiếp cận của giáo sư với lịch sử. Vấn đề là một sự giải trình hợp lý trên cơ sở nghiên cứu đó và khả năng giải thích hợp lý tiếp theo được những vấn đề liên quan, chứ không phải là phương pháp tiếp cận tư liệu. . Chứ đâu có thể chi căn cứ vào cách tiếp cận lịch sử rồi cho nó sai được.Việc “phải mở rộng cái diện nghiên cứu các nguồn tư liệu và phải tiến hành đối chiếu, so sánh các nguồn tư liệu trước khi đi tới một sự khẳng định," là một yếu tố cần, chứ không phải yếu tố quyết định. Cách tiếp cận của thiền sư Lê Mạnh Thát có thể là một cách tiếp cận đơn chiều. Nhưng kết quả là luận điểm rút ra từ cách tiếp cận đó phải được thẩm định bằng tiêu chí khoa học chứ không phải được thẩm định bằng cách tiếp cân tư liệu. Tô nhận thấy rằng: Có rất nhiều bằng chứng chứng minh cho nền văn hiến Việt khá phổ biến trong giới nghiên cứu. Nhưng không hề thấy những người có quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt nhắc đến. Vậy họ đối chiếu và so sánh cài gì? Giáo sư Đinh Xuân Lâm nói: Về luận điểm của Thiền sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát liên quan đến việc cho rằng không hề có các Triều đại An Dương Vương, Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam, Giáo sư Đinh Xuân Lâm đánh giá rằng ông Lê Mạnh Thát không sử dụng, không đề cập, không khai thác đúng mức các tài liệu về khảo cổ học. Về vấn đề này, tôi cho rằng: Giáo sư Lê Mạnh Thát đã sai trong luận điểm rằng: “không hề có các Triều đại An Dương Vương, Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam” .Nhưng cái sai này sẽ được chứng minh một cách khoa học nhân danh lịch sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Nếu trong cuộc hội thảo do Hội khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức, người ta chỉ ra được cái sai của giáo sư Lê Mạnh Thát thì không có nghĩa rằng “Lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm” không phải chân lý. Hay nói cách khác: Không thể vì giáo sư Lê Mạnh Thát sai mà quan điểm phủ nhận lịch sử truyền thống lịch sử văn hiến trải gần 5000 năm của dân tộc Việt được coi là đúng. Điều này được phân tích ngay sau đây. Còn vấn đề ông Đinh Xuân Lâm viết sau đây cũng chẳng nói lên được điều gì để phản biện giáo sư Lê Mạnh Thát; * “Giáo sư Đinh Xuân Lâm đánh giá rằng ông Lê Mạnh Thát không sử dụng, không đề cập, không khai thác đúng mức các tài liệu về khảo cổ học”. * “Ông phản biện: "Tôi thấy hoàn toàn trong các bài của Lê Mạnh Thát không khai thác các mặt tư liệu đó. Cổ Loa đã đào được rất nhiều các di vật, các di tích khẳng định đấy là một địa điểm quan trọng trong nền văn hoá lúc thời bấy giờ." . Những di sản đào được ở thành Cổ Loa là một thực tại khách quan. Nhưng tự nó không chứng minh được rằng đây chính là kinh đô của An Dương Vương và tại đây đã xảy ra một trận huyết chiến tại giữa hai quôc gia Âu Lạc và Nam Việt. ..vv…Luận điểm cho rằng “ đây chính là kinh đô của An Dương Vương” hoàn toàn là sự gán ép khiên cưỡng, không hê có sự giải thích hợp lý nào cho việc này. Chưa nói đến khả năng phân tích hợp lý những diễn biến tiếp theo cho sự tồn tại của những di sản đó. Đây không phải luận điểm phản biện thuyết phục với quan điểm của giáo sư Lê Mạnh Thát, mặc dù giáo sư Lê Mạnh Thát có thể sai. Sự mâu thuận trong luận điểm của giáo sư Đinh Xuân Lâm còn thể hiện như sau: Tuy nhiên, Giáo sư Đinh Xuân Lâm cũng cho biết giới sử học trước đây chưa biết nhiều đến các công trình của Thiền sư Lê Mạnh Thát có liên quan đến lịch sử dân tộc. So sánh câu này với câu trước: "Về mặt phương pháp khoa học nghiên cứu sử học, thì phải mở rộng cái diện nghiên cứu các nguồn tư liệu và phải tiến hành đối chiếu, so sánh các nguồn tư liệu trước khi đi tới một sự khẳng định," Như vậy, chính hiện tượng thiền sư Lê Mạnh Thát dẫn các tư liệu Phật pháp cho thấy các ông cũng chưa “mở rộng diện nghiên cứu các nguồn tư liệu” sang lịch sử Phật pháp, nên giáo sư Lê Mạnh Thát mới có cơ sở để đặt lại vấn đề. Nhưng đáng lưu ý hơn là đoạn sau đây: Xin lưu ý phần in đậm. Một dịp trao đổi Giáo sư Lâm cho hay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có ý kiến đề nghị mời Thiền sư Mạnh Thát và các học giả, đồng nghiệp cùng quan điểm, luận điểm của ông tham dự một cuộc trao đổi khoa học công khai do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức. Khi được hỏi trong sự so sánh với quan điểm được cho là có phần nào dân tộc trung tâm luận theo cách nhìn kiểu của GS. Trần Ngọc Thêm trước đây, ở tiếp cận của Thiền sư, GS. Đinh Xuân Lâm cho rằng Thiền sư Lê Mạnh Thát có phần thiên về "dân tộc", và đây được cho là một hạn chế khác của sử gia phật giáo này. Chúng ta thấy quan niệm của ông Đinh Xuân Lâm cho rằng “Thiên về dân tộc” là “hạn chế của sử gia Phật giáo này” là một luận điểm hoàn tòan chủ quan. Có lẽ tôi không muốn phân tích sâu câu nói của ông Đinh Xuân Lâm. Nhưng về tính hợp lý – vốn là một tiêu chí khoa học – thì khi người ta tìm về cội nguồn lịch sử dân tộc nói chung, cho dù với quan điểm nào thì nó phải liên quan đến dân tộc đó. Nếu không thiên về dân tộc đó thì thiên về cái gì? Vậy cứ minh chứng tốt cho dân tộc - là đối tượng nghiên cứu – thì không khách quan chăng? Cứ phải tìm chỗ để chê, mới là không thiên về dân tộc chăng? Yêu nước, yêu dân tộc và việc minh chứng khách quan khoa học cho lịch sử dân tộc là hai phạm trù khác nhau, cho dù nó có thể ở trong một con người. Tôi nghĩ điều này là hiển nhiên và không cần phải chứng mình. Một lập luận cực kỳ chủ quan như vậy từ một người có chức danh đứng đầu Hội Nghiên cứu khoa học lịch sử Việt Nam đủ để đặt vấn đề hoài nghi tính khách quan khoa học cho luận điểm phủ nhận những gía trị văn hoá sử truyền thống của dân tộc Việt. Trong toàn bộ bài viết của BBc, tôi thấy chỉ có ý kiến của ông Đinh Xuân Lâm sau đây là mang tính tương đối khách quan: Vị Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhấn mạnh việc các bài báo của Thiền sư xuất hiện vừa qua và các bình luận, tranh biện, phản biện tiếp theo hiện nay đã làm cho nhiều người chú ý hơn đến các công trình của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Ông nói "Trước đây ít người biết, không phải là vì vấn đề không quan trọng, cho nên ít người trao đổi ý kiến. Đây là một dịp tốt để trao đổi ý kiến". Đúng vậy! Có lẽ chúng tôi cũng rất muốn trao đổi ý kiến về cổ sử Việt một cách thẳng thắn và khách quan và chúng tôi cũng cho rằng đây là dịp tốt rất hiếm hỏi để trao đổi ý kiến. Tuy nhiên tôi còn hoài nghi ý kiến dưới đây: Giáo sư Lâm cho biết ông chưa thấy ý kiến phản hồi của Thiền sư Thát. Song trên thực tế, như trong cuộc trả lời phỏng vấn trước đó ngày 19 tháng Ba, với BBC Việt ngữ, về việc chuẩn bị cho Đại lễ Phật đản Quốc tế ở Việt Nam sắp tới, Thiền sư Lê Mạnh Thát đã cho biết ông sẵn sàng nhận lời đối thoại học thuật của Hội Sử học Việt Nam. Bởi vì, những chức danh cao cấp nhất của Hội nghiên cứu khoa học Lịch sử Việt Nam đều thống nhất cho rằng thiên sư Lê Mạnh Thát sai, nay lại đứng ra tổ chức hội thảo e rằng chưa thật sự khách quan. Đáng nhẽ ra bài viết được kết thúc ở đây vì mục tiêu của nó là bày tỏ quan điểm của tôi với lời phát biểu của ông Đinh Xuân Lâm trên BBC đã hoàn tất. Nhưng tôi phải viết cho thêm chính lời kết luận của BBC vì thông tin cá nhân được đăng tải không ăn nhập gì với nội dung bài viết này: Được biết, Thiền sư Lê Mạnh Thát trước đây đã từng có thời gian đi tù do các hoạt động Phật giáo sau năm 1975 dưới chính quyền CHXHCN Việt Nam. Hiện nay, ông được Hà Nội chỉ định làm Trưởng Ban tổ chức Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc 2008 sắp được tổ chức ở Việt Nam vào trung tuần tháng 5 tới đây. Thiền Sư Lê Mạnh Thát đi tù hay làm trưởng ban tổ chức Đại lễ Phật Đản, chăng liên quan gì đến luận điểm của ông ta về cội nguồn lịch sử dân tộc. Nó vẫn có thể đúng hoặc sai. Thông tin này tôi nghĩ là thừa hoặc có dụng ý. Thiên Sứ
  2. Hiện tượng về giáo sư Lê Mạnh Thát được báo Thanh niên nếu ra không chỉ giới hạn ở báo chí trong nước mà còn cả ở các hãng thông tin ngoại quốc. Dưới đây là thông tin trên BBC - một hãng thông tin có tầm ảnh hưởng rộng - phỏng vấn ông Đinh Xuân Lâm về quan điểm của ông với vấn đề cổ sử Việt. Tất nhiên, những luận điển của ông Đinh Xuân lâm lại tiếp tục là một sai lầm trong cái nhìn của tôi. Nhưng trước khi tôi phân tích tính chưa hợp lý của ông Đinh Xuân Lâm, xin bạn đọc hãy xem lại toàn văn trả lời phỏng vấn bài phỏng vấn của ông Đinh Xuân Lâm. Tranh cãi về lịch sử cổ đại Việt Nam "Chúng tôi cho rằng có một sự hạn chế, về mặt tư liệu, chỉ khai thác chủ yếu một mặt tư liệu thôi". GS. Đinh Xuân Lâm, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Các phát hiện của nhà tu hành và đồng thời là tiến sĩ, chuyên gia lịch sử Phật giáo và Phật học nổi tiếng của Việt Nam, Thiền sư Lê Mạnh Thát, được đăng trong loạt 7 bài liên tiếp trên báo Thanh Niên trong nước thời gian qua. Ngay sau khi xuất hiện loạt bài nói trên, một loạt các nhà sử học và giới Việt Nam học trong nước đã lên tiếng với những phản ứng khác nhau. Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, trong cuộc phỏng vấn dành riêng cho BBC Việt ngữ ngày 21 tháng Ba vừa qua đánh giá Thiền sư Lê Mạnh Thát là một người có sự nghiên cứu sâu sắc, dày công đặc biệt trong lịch sử Phật giáo. Tuy nhiên, các luận điểm được cho là gây 'chấn động' đòi đi đến viết lại lịch sử cổ đại và hình thành dân tộc Việt Nam của Thiền sư Lê Mạnh Thát, theo ông, còn phiến diện đặc biệt do sự hạn chế về phương pháp nghiên cứu, tư liệu, nhất là tư liệu khảo cổ học. Trong khi đó Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, trên tờ Sài Gòn Giải phóng số ra gần đây, cho rằng Thiền sư Mạnh Thát có những kết luận quá vội vàng. Còn nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội này, kiêm Tổng biên tập Tạp chí 'Xưa và Nay', cho rằng Thiền sư là một chuyên gia thiên nhiều về phật học, lịch sử phật giáo hơn là lịch sử dân tộc. Hạn chế phương pháp Giáo sư Đinh Xuân Lâm, người từng tham gia viết nhiều sách giáo khoa và biên khảo sử học Việt Nam nhiều giai đoạn, cho biết, nhìn chung ông hoan nghênh các nghiên cứu mới về lịch sử nói chung và lịch sử dân tộc nói riêng. Nhưng ông đánh giá phương pháp của Thiền sư: "Chúng tôi cho rằng có một sự hạn chế, về mặt tư liệu, chỉ khai thác chủ yếu một mặt tư liệu thôi." "Về mặt phương pháp khoa học nghiên cứu sử học, thì phải mở rộng cái diện nghiên cứu các nguồn tư liệu và phải tiến hành đối chiếu, so sánh các nguồn tư liệu trước khi đi tới một sự khẳng định," Giáo sư Đinh Xuân Lâm nói. Về luận điểm của Thiền sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát liên quan đến việc cho rằng không hề có các Triều đại An Dương Vương, Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam, Giáo sư Đinh Xuân Lâm đánh giá rằng ông Lê Mạnh Thát không sử dụng, không đề cập, không khai thác đúng mức các tài liệu về khảo cổ học. Ông phản biện: "Tôi thấy hoàn toàn trong các bài của Lê Mạnh Thát không khai thác các mặt tư liệu đó. Cổ Loa đã đào được rất nhiều các di vật, các di tích khẳng định đấy là một địa điểm quan trọng trong nền văn hoá lúc thời bấy giờ." Tuy nhiên, Giáo sư Đinh Xuân Lâm cũng cho biết giới sử học trước đây chưa biết nhiều đến các công trình của Thiền sư Lê Mạnh Thát có liên quan đến lịch sử dân tộc. Một dịp trao đổi Giáo sư Lâm cho hay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có ý kiến đề nghị mời Thiền sư Mạnh Thát và các học giả, đồng nghiệp cùng quan điểm, luận điểm của ông tham dự một cuộc trao đổi khoa học công khai do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức. Khi được hỏi trong sự so sánh với quan điểm được cho là có phần nào dân tộc trung tâm luận theo cách nhìn kiểu của GS. Trần Ngọc Thêm trước đây, ở tiếp cận của Thiền sư, GS. Đinh Xuân Lâm cho rằng Thiền sư Lê Mạnh Thát có phần thiên về "dân tộc", và đây được cho là một hạn chế khác của sử gia phật giáo này. Giáo sư Lâm cho biết ông chưa thấy ý kiến phản hồi của Thiền sư Thát. Song trên thực tế, như trong cuộc trả lời phỏng vấn trước đó ngày 19 tháng Ba, với BBC Việt ngữ, về việc chuẩn bị cho Đại lễ Phật đản Quốc tế ở Việt Nam sắp tới, Thiền sư Lê Mạnh Thát đã cho biết ông sẵn sàng nhận lời đối thoại học thuật của Hội Sử học Việt Nam. Trước đây ít người biết, không phải là vì vấn đề không quan trọng, cho nên ít người trao đổi ý kiến. Đây là một dịp tốt để trao đổi ý kiến. GS. Đinh Xuân Lâm Vị Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhấn mạnh việc các bài báo của Thiền sư xuất hiện vừa qua và các bình luận, tranh biện, phản biện tiếp theo hiện nay đã làm cho nhiều người chú ý hơn đến các công trình của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Ông nói "Trước đây ít người biết, không phải là vì vấn đề không quan trọng, cho nên ít người trao đổi ý kiến. Đây là một dịp tốt để trao đổi ý kiến". Trên thực tế, nhiều luận điểm của Thiền sư, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát được tờ báo mang tính chất đại chúng Thanh Niên đăng tải liên tục trong hơn một tháng qua, đã được Thiền sư trình bày kỹ lưỡng, đầy đủ hơn từ trước trong ít nhất hai công trình của ông xuất bản mới đây một thời gian ở Việt Nam. Đó là các cuốn "Tổng tập Văn học Phật Giáo Việt Nam" và "Lịch sử Phật Giáo Việt Nam" do Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Một số trong các luận điểm chính của Thiền sư Lê Mạnh Thát, còn được biết tới với tên gọi Hoà thượng Thích Trí Siêu, được trình bày trong các loạt bài báo bắt đầu từ cuối tháng 2. Các luận điểm được trình bày dưới dạng phỏng vấn dài kỳ và được thuật lại một cách gián tiếp. Đặt lại lịch sử Trong các bài này, ông không thừa nhận có Triều Đại Thục phán An Dương Vương trong lịch sử Việt Nam. Đây chỉ là một triều đại được huyền thoại hoá theo một mô-típ vay mượn từ sử thi Ấn Độ. Do đó, theo ông, không có chuyện Triệu Đà xâm lược mảnh đất mà ngày nay được gọi là Việt Nam. Cũng theo lôgíc đó, không thể xếp Triệu Đà là một triều đại Việt như các sách sử cũ của Việt Nam từng chép. Thiền sư Lê Mạnh Thát cho rằng không có thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc Ngoài ra, vẫn theo Thiền sư, nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc không thực sự đô hộ Việt Nam trên thực tế mà chỉ thống trị "khống" trên giấy tờ. Không có một nghìn năm Bắc thuộc của Việt Nam dưới sự thống trị của Phong kiến phương Bắc như sử sách Việt Nam xưa nay chép, kể cả sử học trong nước hiện nay. Các diễn biến lịch sử đấu tranh giữ nước trên mảnh đất mà ngày này được gọi là Việt Nam, là các cuộc kháng chiến của một quốc gia văn minh. có đầy đủ tư cách độc lập chống lại sự xâm lược và âm mưu xâm lược của một quốc gia khác. Theo các bài báo, thuật lại lời thiền sư, Việt Nam đã có một nền văn minh chữ viết, luật pháp thành văn và văn hoá rực rỡ từ rất sớm và không hề kém Trung Hoa hoặc nhiều quốc gia khác. Nhiều sử liệu, thư tịch cổ, cũ, mà giới sử học Việt Nam từ trước tới nay vẫn sử dụng lại căn cứ trên những công trình sử học đã bị viết theo cách nhìn của người Hán và phong kiến Trung Hoa, nên thiếu tính khách quan đối với chính lịch sử dân tộc và đất nước v.v... Được biết, Thiền sư Lê Mạnh Thát trước đây đã từng có thời gian đi tù do các hoạt động Phật giáo sau năm 1975 dưới chính quyền CHXHCN Việt Nam. Hiện nay, ông được Hà Nội chỉ định làm Trưởng Ban tổ chức Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc 2008 sắp được tổ chức ở Việt Nam vào trung tuần tháng 5 tới đây. Nguồn BBC Thiên Sứ giới thiệu
  3. Cô hãy nói với gia đình cả hai bên là: Căn cứ sách nào để bảo là hai người này không hợp tuổi? Hỏi cho kỹ, tôi sẽ chứng minh sách đó là không hoàn hảo so với quan niệm tôi đã chứng minh: Yêu nhau cứ lấy! Vài ngày nữa, sau khi hoàn tất Lạc Việt độn toán, tôi sẽ hoàn chính phương pháp Luận tuổi Lạc Việt. Trong đó chứng minh rằng: "Yêu nhau cứ lấy". Nhưng đôi lứa yêu nhau muốn tiến tới hôn nhân - trường hợp bị gia đình cản trở vì lý do tuổi tác hãy dùng sách này làm cơ sở lý luận để chứng minh sự lo ngại của bậc bề trên là không chính xác. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  4. Tôi tạm thời khóa sổ ở đây. Nhưng ai hỏi trên bài viết này mà tôi chưa trả lời xin cho biết sẽ trả lời hoàn tất. Sau đó sẽ tiếp tục trả lời những ai hỏi sau bài này. Thiên Sứ
  5. Kính thưa chú Thiên Sứ, Cháu rất hâm mộ chú khi theo dõi các bài viết trong blog của chú (do 1 người bạn cháu cho link). Xin cảm ơn. Đây là blog của Thiên Sứ http://360.yahoo.com/thiensulacviet Cháu xin nhờ chú xem giúp cháu 3 câu hỏi ạ. 1. Công việc : * Có đổi việc hay không, nếu có xin định hướng giúp cháu là tháng nào ạ, công việc mới có tốt hơn không ? * Nếu không đổi, thì công việc hiện tại có thăng tiến không ạ ?. Nếu có thì khoảng bao giờ. Giờ Dần ngày 13 tháng Ba - Mậu Tý - quẻ cả: Đỗ Tiểu Cát - Quẻ độn 2: Cảnh Vô Vong. Quẻ độn 3: Tử Đại An. Công việc hiện tại cũng chưa đến nỗi nào. Nhưng bế tắc và muốn đổi. Tuy nhiên việc đổi này khó khăn bởi nhiều nguyên nhân, kể cả nguyên nhân nội tại. Nhưng cuối cùng sự thay đổi sẽ đến vào mùa thu năm nay. 2. Tiền bạc trong năm nay Kinh Lưu Niên. Không đến nỗi thiếu thốn, có may mắn bất ngờ về tiền bạc do tổ tiên để lại. 3. Khi nào cháu có con (cháu đã có vợ) ? Con cái cháu như thế nào ạ? Khai Tốc Hỷ: Sang năm. Con cái thông minh. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  6. Moon: Moon không ngủ để xí chỗ !!!! :) hên xui cho 3 câu hỏi: 1) Công việc năm nay không may mắn lắm, vậy thì có hy vọng gì ở công việc mới có tiến triển tốt đẹp hơn tí nào , có thuận lợi hơn kô? Giờ Dần - 13 - 3 Mậu Tý - Quẻ cả Đỗ Tiểu Cát/ Quẻ độn 2: Cảnh Vô Vong. Công việc mới chỉ nhàn hơn chứ không hoàn toàn tốt hơn, thuận lợi đến , nhưng chậm chạp. Chấp nhận đi xa mới tốt. 2) Gia đạo (vợ chồng con cái, cha mẹ, anh em) có bình an, hòa thuận? Tử Đại An: Nhìn chung không có vấn đề gì nghiêm trọng. Nhưng việc làm ăn có hao tốn hoặc bệnh nhưng qua khỏi. 3) 1 baby ( nữ), sinh ngày 23 tháng 6 năm Tân Dậu , 6 h 25 '. Nhờ bác coi giúp 1 quẻ cho tương lai, hậu vận nhé. Tuổi Tân Dậu sính năm 1981? Em bé? Câu này không rõ nghĩa. Thiên Sứ
  7. Tomtom: Hôm nay bên cháu mới là ngày 10.03 A/L bác Thiên Sứ ạ. (Cách Vietnam tận 14h cơ ạ). Vì thế cháu hỏi được không bác Thiên Sứ. Cháu xin cảm ơn bác trước ạ. Cháu đang ở Mỹ (học).Ngày sinh: 3/12 Tân Dậu (Đây là ngày tháng A/L ạ). Đây là ba câu hỏi của cháu ạ: (1). Có quay về Việt Nam làm ngay sau khi tốt nghiệp không ạ? Giờ Dần Ngày 13 tháng Ba - Mậu Tý: Đỗ Tiểu Cát. Sẽ ở lại học tiếp hoặc đi làm. Chưa về Việt Nam. (2). Tháng 5 năm sau có việc làm không ạ? Cảnh Vô vong. Có việc làm nhưng không phải công việc chắc chắn. (3). Sang năm có người yêu không ạ? Tử Đại An. Có người yêu nhưng khó thành vợ chống. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  8. Phúc Anh chọn giúp cho họ một cái tên thích hợp được không? Vụ này thì chú ...chịu. Cảm ơn Phúc Anh nhiều. Thiên Sứ
  9. Sherry: Chồng: 11/4/1971 Vợ: 25/10/1982 Hiện hai vợ chồng cô đã có đứa con nào chưa? Nếu chưa thì sanh năm 2009 thích hợp, nên là con gái. Duc Tuan: Chồng : 1972 Vợ : 1976 Con trai đầu : 2004 Đứa con trai đầu này rất thích hợp với tuổi hai vợ chồng. Sanh đứa thứ hai thì hơi khó lựa một tuổi thích hợp. Ngoại trừ Tân Sửu - tương đối thích hợp. Nhưng sơ cô ấy lớn tuổi quá rồi (46 tuổi Ta). Nếu sinh 2009 (Năm tới) cũng được, nhưng là con gái thì mới tốt. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  10. Aoanh72 thân mến. Người có xương phục tê được coi là rất tốt, sách xưa coi là thông minh dĩnh ngộ, công danh hiển đạt, học hành đỗ đạt có học vị cao. Sách xưa cũng nói: Người có nốt ruồi dưới gan bàn chân (Chỉ cần một bàn - nếu được cả hai thì càng tốt) cũng hiển đạt về công danh. Nhưng kinh nghiệm của tôi nhận thấy rằng: Những yếu tố gọi là tốt đó, thường phải đi kèm với các yếu tố khác tương ứng, nếu không nó cũng chỉ thể hiện sự thuận lợi về một số mặt nào đó trong cuộc sống mà thôi. Thiên Sứ
  11. Chida viết: Em nghe nói hình như có 590 bậc. Đếm chi tiết lẻ lẻ - 95 bậc đầu đến Giếng, nằm ở phía sau núi chiếc giếng Ngọc là ngôi đền nho nhỏ thờ hai con gái của vua Hùng, mị nương Tiên Dung và mị nương Ngọc Hoa. - tiếp 225 bậc đến đền Hạ. - thêm 168 bậc đến đền Trung - thêm 102 bậc cuối tới đền Thượng. Chị Phonenix đang tìm hiểu về số bậc thềm? hay là đang cần kiểm chứng lại ạ? Theo chú nhớ mang máng thì - Nếu đi từ cổng chính sẽ không đi qua đền Giếng. Vì hôm nọ chú lên từ cổng chính thì khi đi xuống mới ghé đến Giêng. Nếu chú nhớ đúng thì câu hỏi của phoenix là tính từ cổng chính thì 590 - 95 sẽ là 495 bậc. May ra thì chú đúng . Thiên Sứ
  12. KHẢO CỔ HỌC VÀ LỊCH SỬ. Kính tặng anh linh giáo sư Phạm Huy Thông. Có thể nói rằng từ khi khoa khảo cổ học ra đời và chính thức trở thành một ngành khoa học vào đầu thế kỷ 20 thì việc nghiên cứu lịch sử đã có một bước ngoặt rất lớn. Nó đưa việc nghiên cứu lịch sử thoát khỏi sự ”tầm chương, trích cú”, dẫn sách cổ điển, mà những tài liệu này thường phụ thuộc vào tri thức và cái nhìn chủ quan của người viết ra nó. Những di vật khảo cổ tìm được là một sự tồn tại khách quan, nó mang dấu ấn của thời đại sản sinh ra nó. Khoa khảo cổ học ngày càng phát triển tính chính xác cùng với trình độ tri thức của nhân loại, khi mà những phương tiện và phương pháp tinh xảo ngày càng hoàn hảo để có thể xác định niện đại cho những di vật khảo cổ với sai số thời gian ngày càng ngắn lại. Bên cạnh những quan điểm, luận cứ liên quan đến lịch sử thì những di vật khảo cổ tìm thấy là những bằng chứng thuyết phục. Một khuynh hướng nghiên cứu lịch sử ra đời được ủng hộ mạnh mẽ: Đó chính là việc đi tìm những dấu chứng lịch sử qua những di sản khảo cổ. Luận điểm: Di vật khảo cổ là bằng chứng khách quan cho lịch sử! Luận điểm này hoàn toàn chính xác. Nhưng bản thân khoa khảo cổ học và hệ quả cuối cùng của nó là di vật khảo cổ không phải là phương pháp luận sử học. Mặc dù nó là bằng chứng khách quan cho những luận điểm sử học. Tuy nhiên, xu hướng quá khích của những tư duy hãnh tiến, nhưng hạn hẹp đã bước qua giới hạn khách quan của khoa khảo cổ học để vào một phương pháp luận xuất phát từ khảo cổ học và nhân danh khảo cổ học vốn không có phản đề. Đó là luận điểm cho rằng: Lịch sử phải được chứng minh bằng di vật khảo cổ. Luận điểm này đã vượt quá giới hạn khách quan của khoa khảo cổ học và trở thành một phương pháp luận sử học siêu hình. Tính siêu hình phi khoa học của luận điểm này thể hiện ở chỗ: Khảo cổ học chỉ thật sự khách quan khi nó hiện hữu trước mắt con người hiện đại để làm bằng chứng cho những luận cứ lịch sử. Nhưng khi không tìm thấy di vật khảo cổ thì hoặc là nó là một chân lý tiềm ẩn và sẽ chứng minh cho lịch sử trong tương lai, hoặc là nó không bao giờ hiện hữu vì nó chưa bao giờ tồn tại. Để thẩm định một vật thể có hay không có trong trường hợp người ta chưa biết đến nó chính là tính siêu hình của luận điểm này. Do đó, hệ quả của luận điểm siêu hình này sẽ là: Nếu không tìm thấy bằng chứng khảo cổ thì mọi giá trị lịch sử sẽ chỉ là sự tồn nghi hoặc tệ hơn là phủ nhận lịch sử. Và điều này thì không phải tinh thần khách quan khoa học vì nó sẽ phụ thuộc vào khả năng tư duy chủ quan của con người trực tiếp tham gia tìm hiểu những giai đoạn lịch sử của quá khứ. 1 - Tính giới hạn của di vật khảo cổ trong việc xác minh luận điểm lịch sử. Bởi vậy mặc dù người viết bài này cũng thống nhất rằng: ’’Di vật khảo cổ là bằng chứng khách quan cho việc minh chứng lịch sử”. Vấn đề này nếu dừng ở đây thì không có gì phải bàn cãi và đấy cũng là giới hạn khách quan của những di vật khảo cổ tìm thấy được và được xác định chính xác - kể cả tuyệt đối - niên đại của nó. Nhưng từ sự phân tích trên thì một luận đề hợp lý tiếp theo là: ’’Di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử’’. Điều này được minh chứng như sau: Chính bởi tính hiện hữu khách quan của những di vật khảo cổ, nên nó không phụ thuộc vào phương pháp luận lịch sử, hoặc quan điểm lịch sử và nó có thể minh chứng một cách sắc sảo hoặc phủ nhận những luận điểm hoặc quan điểm lịch sử. Như vậy, chính những luận điểm, hoặc quan điểm lịch sử sẽ phân tích mối liên hệ của di vật khảo cổ với hoàn cảnh lịch sử mà di vật khảo cổ đã từng xuất hiện. Sự phân tích đó có thể đúng và có thể sai. Lúc ấy nó sẽ phụ thuộc rất cụ thể vào khả năng tư duy và tri thức của người, hoặc nhóm người, hoặc tập thể người tham gia nghiên cứu. Đến đây thì vấn đề đã vượt qua giới hạn tính khách quan của sự hiện hữu di vật khảo cổ, khi tự thân nó không phải là phương pháp luân, không phải luận điểm lịch sử. Như vậy, việc xác minh luận điểm, hoặc quan điểm lịch sử đúng hay sai - nếu nhân danh khoa học – sẽ không còn phụ thuộc vào sự hiện hữu hay không hiện hữu của di vật khảo cổ tìm thấy mà chính là tiêu chí khoa học cho một lý thuyết hoặc giả thuyết khoa học – mà trong đó di vật khảo cổ chỉ là một mắt xích trong sự thẩm định của tiêu chí khoa học. Đó là sự minh chứng rằng: Di vật khảo cổ không phải bằng chứng duy nhất minh chứng cho lịch sử.2 - Hiện tượng khách quan và di vật khảo cổ. Chính vì tính khách quan của di vật khảo cổ, nên nó không thể là duy nhất và chỉ là một trong nhiều hiện tượng khách quan khác hiện hữu trong lịch sử. Một trong những minh chứng rõ nét nhất và sự phản biện vô ích, chính là việc cơ quan văn hoá Liên hiếp quốc thừa nhận di sản văn hoá phi vật thể là một trong những bằng chứng khoa học minh chứng cho lịch sử. Người ta có thể thừa nhận hoặc không thừa nhận những chứng tích khảo cổ vì khả năng tạo chứng cứ giả của nó. Nhưng – về nguyên tắc - sẽ không một dân tộc nào có thể làm giả một truyền thống văn hoá với những di sản văn hoá phi vật thể. Đây là bằng chứng và sự minh chứng nữa chứng tỏ rằng: Di vật khảo cổ không phải bằng chứng duy nhất minh chứng cho lịch sử.3 – Di vật khảo cổ và những vấn đề lịch sử liên quan. Với những phân tích ở trên về sự liên quan giữa di vật khảo cổ và luận điểm lịch sử nhân danh khoa học thì nó phải được thẩm định bằng chính tiêu chí khoa học, mà trong đó sự hiện hữu của di vật khảo cổ chỉ là một mắt xích tồn tại một cách hợp lý hay không hợp lý của luận điểm lịch sử đó. Hay nói một cách khác: Bất kể luận điểm hay quan điểm lịch sử nào đã nhân danh khoa học ( Còn nếu nhân danh những giá trị khác thì không phải đối tượng của luận đề này) thì nó phải được thẩm định bằng tiêu chí khoa học, chứ không phải bằng di vật khảo cổ, vốn chỉ là một mắt xích trong luận điểm đó. Để thấy rõ hơn điều này, người viết dẫn chứng ngay một hiện tượng khảo cổ đang liên quan đến một đề tài sôi nổi hiện nay; đó chính là thành Cổ Loa. Theo bà Phạm Thị Huyền và ông Phan Huy Lê thì người ta đã tìm thấy ở đây những di vật khảo cổ quan trọng. Khi được phỏng vấn, ông Phan Huy Lê đã nói: Tôi có cảm giác, Thiền sư đã bỏ qua, không khai thác và không cập nhật nguồn tư liệu khảo cổ học, nhất là những kết quả khai quật và nghiên cứu gần đây. Và khi trả lời câu hỏi tiếp theo của phóng viên Trần Lưu: Xin Giáo sư nói rõ hơn về những vấn đề khảo cổ học liên quan đến triều đại An Dương Vương? Ông Phan Huy Lê đã trả lời: Trong mấy chục năm vừa qua, khảo cổ học Việt Nam đã có những kết quả rất quý giá, nhất là những di tích trong lòng đất, góp phần làm sáng rõ thêm tiến trình lịch sử dân tộc, nhất là thời tiền sử, sơ sử và cổ đại. Những di tích, những hiện vật khảo cổ học được xem là những bộ phận, là những mảnh của lịch sử còn lưu giữ được cho đến ngày hôm nay. Nó rất khách quan và rất trung thực. Bằng những phương pháp khoa học, từ kết quả khai quật, các nhà khảo cổ học có thể xác định được niên đại tương đối và tuyệt đối của các di tích với những sai số chấp nhận được, có thể góp phần phục dựng trên một số phương diện nào đó diện mạo của nền văn hóa, cuộc sống của cư dân và một số công trình xây dựng đã sụp đổ... Phủ nhận nước Âu Lạc và An Dương Vương thì tác giả giải thích như thế nào về thành Cổ Loa? Thiền sư cho rằng đó chỉ là tòa “Kiển thành” do Mã Viện xây mà trước đây đã từng có người đề xuất, nhưng những kết quả khảo cổ học gần đây đã cho phép xác định tòa thành này được xây dựng trước hết từ thời An Dương Vương rồi sau đó, được tiếp tục sử dụng và có thể có những bồi trúc nhất định. Hơn nữa chúng ta còn tìm ra được ở Cổ Loa hàng vạn mũi tên đồng ba ngạnh được coi là “mũi tên đồng Cổ Loa”, rồi tìm thấy trống đồng, gần 100 lưỡi cày đồng cùng hàng loạt di vật của nền văn hóa Đông Sơn. Các nhà khảo cổ học còn cắt một đoạn thành để nghiên cứu và khai quật một số hố trong khu Thành Nội gần đền thờ An Dương Vương. Tại đây đã phát hiện một hệ thống những lò nung và khuôn đúc mũi tên đồng gồm ba mang bằng đá rất khớp với “mũi tên đồng Cổ Loa”, khuôn đúc mũi giáo... Đáng lưu ý nhất là An Dương Vương đã dùng một phần Thành Nội để sản xuất vũ khí, chứng tỏ đây là loại vũ khí cực kỳ quan trọng cần được bảo vệ chặt chẽ. Phát hiện khảo cổ học này hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết dân gian coi là “nỏ thần” mà thư tịch cổ Trung Quốc cũng ghi chép là loại vũ khí lợi hại, một lần bắn diệt được hàng trăm, hàng vạn người mà chính Thiền sư cũng đã dẫn trong công trình nghiên cứu của mình. Trên đây là toàn văn nội dung trả lời một câu hỏi phỏng vấn của ông Phan Huy Lê. Trong câu trả lời này điều dễ dàng nhận thấy hai vế hoàn toàn khác nhau của lịch sử thời An Dương Vương được hoà nhập một cách rất chủ quan. Một vế là : Hiện tương tồn tại của những di vật khảo cổ tại một địa điểm mà ngày nay vẫn gọi là làng Cổ Loa với những dấu tích khảo cổ hoàn toàn khách quan, Vế kia là: Luận điểm về thờin kỳ lịch sử liên quan đến nhưng di vật khảo cổ. Cụ thể là luận điểm này coi những di sản khảo cổ trên nằm ở Kinh đô Âu Lạc và thuộc về An Dương Vương. những kết quả khảo cổ học gần đây đã cho phép xác định tòa thành này được xây dựng trước hết từ thời An Dương Vương rồi sau đó, được tiếp tục sử dụng và có thể có những bồi trúc nhất định. Hơn nữa chúng ta còn tìm ra được ở Cổ Loa hàng vạn mũi tên đồng ba ngạnh được coi là “mũi tên đồng Cổ Loa”, rồi tìm thấy trống đồng, gần 100 lưỡi cày đồng cùng hàng loạt di vật của nền văn hóa Đông Sơn. Các nhà khảo cổ học còn cắt một đoạn thành để nghiên cứu và khai quật một số hố trong khu Thành Nội gần đền thờ An Dương Vương. Tại đây đã phát hiện một hệ thống những lò nung và khuôn đúc mũi tên đồng gồm ba mang bằng đá rất khớp với “mũi tên đồng Cổ Loa”, khuôn đúc mũi giáo... Tính khách quan của di sản khảo cổ ở địa danh Cổ Loa chỉ giới hạn đến đây. Nhưng khi gán nó vào thời An Dương Vương thì tính chủ quan đã xuất hiện, khi mà tự thân những di vật này không khẳng định chủ sở hữu của nó là An Dương Vương, mà chỉ có sự liên hệ gần gũi. Bởi vì tự thân thời gian sự tồn tại của thời kỳ An Dương Vương đã có những luận điểm khác nhau. Do đó, không thể lấy niện đại đo được một cách khách quan bằng cacrbon phóng xa là thời gian từ 197 Trc Cn (Cộng trừ 30 năm) để gán vào một luận điểm lịch sử về thời gian tồn tại của An Dương Vương – khi mà nó đã dược minh chứng là sai – Xin xem “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại” – Phần “Chuyện tình Mỹ Châu – Trọng Thuỷ”. Nếu theo luận điểm lịch sử mới vê thời gian tồn tại của thời kỳ An Dương Vương thì Trong Thuỷ chết sau ba năm mới sinh Triệu Văn Đế vốn được coi là con của Trong thuỷ!? Như vậy, cho ta thấy rằng – khi thừa nhận tính khách quan của thời gian hiện hữu của di vật khảo cổ thì không có nghĩa rằng toà thành và những di vật kèm theo đó chỉ duy nhất của An Dương Vương mà không thể thuộc sở hữu khác , hoặc nó thể hiện những vấn đề lịch sử liên quan khác với một cách giải thích khác. Bởi vì, nhưng di vật khảo cổ này chỉ là một mắt xích quan trong trong một luận điểm lịch sử. Do đó nó cần có tính hợp lý trong sự tương quan với các vấn đề liên quan trong luận điểm đó. Cụ thể ở đây là: Người ta đã quan niệm những di vật khảo cổ có niên đại được xác nhận là khoảng 197 Trc CN (Cộng trừ 30 năm) chính là di sản của An Dương Vương và đây là kinh đô của Âu Lạc. Nhưng chính vì di vật khảo cổ chỉ là một mắt xích trong một luận điểm lịch sử - như đã trình bày ở trên - nên nó cần phải là một thành tố cấu thành hợp lý trong luận điểm đó. Nếu luận điểm này xác định đây là Kinh đô Âu Lạc và thuộc về An Dương Vương thì nó phải chứng minh được tiếp theo những vấn đề liên quan đến nó. Như là; Phải có dấu ấn của một trận huyết chiến tại đây! Phải giải thích được sự tồn tại của những thứ vũ khí đồng với khối lượng lớn sau cuộc chiến. Phải chứng minh được mối liên hệ giữa – trận chiến Đồ Thư – Thục Phán – Hùng Vương – Nam Việt - Âu Lạc trong một chuỗi diễn biến lịch sử liên quan, mà di sản khảo cổ tại Cổ Loa là một mắt xích liên quan. Nhưng luận điểm cho rằng Cổ Loa là kinh Thành An Dương Vương và di vât khảo cổ ở đấy chỉ giới hạn trong chính nó và không giải thích được điều gì. Như vậy, mặc dù liên hệ với một di sản khảo cổ ở thành bây giờ gọi là Cổ Loa, nhưng bản thân di sản đó không chứng minh được cho luận điểm lịch sử vì không có mối liên hệ hợp lý với các vấn đề liên quan đến nó. Bởi vậy, nó chỉ có thể coi là một giả thiết rời rạc cho một hiện tượng khảo cổ khách quan tìm thấy ở Cổ Loa. Ông Phan Huy Lê nói; Thiền sư giải thích như thế nào về một thành lũy đang tồn tại trên mặt đất và cả những di tích, di vật như vậy trong lòng đất. Rồi giải thích như thế nào về những đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa, ở Nghệ An... gắn liền với những truyền thuyết, những lễ hội dân gian nhằm tôn vinh người có công với dân, với nước. Tôi đã trả lời thay giáo sư Lê Mạnh Thát về vế trên của câu hỏi này: Đây chỉ là một khu vực sản xuất vũ khí lớn của thời cổ đại thuộc về nền văn minh Việt. Nó đã bị điêu tàn sau khi nền văn minh này bị sụp đổ. Đó là một cách giải thích của tôi.Còn vế dưới của câu hỏi này là: Rồi giải thích như thế nào về những đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa, ở Nghệ An... gắn liền với những truyền thuyết, những lễ hội dân gian nhằm tôn vinh người có công với dân, với nước. Chính tôi cũng không tán thành luận điểm của giáo sư Lê Mạnh Thát về việc phủ định thời kỳ An Dương Vương và ủng hộ quan điểm tôn trong những bậc có công với dân với nước tồn tại trong lòng dân tộc của giáo sư Lê Mạnh Thát. “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước” Trong câu nói này của Hồ Chủ Tịch không thấy nói đến các vua Hùng là tù trưởng của liên minh 15 bộ lạc. Những phần phân tích trên chon thấy rằng: Di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử Di vật khảo cổ chỉ là một hiện tượng khách quan biện minh hoặc phản bác những luận điểm lịch sử. Để xác định tính khoa học của một luận điểm lịch sử cần có sự thẩm định của tiêu chí khoa học – Nếu nó nhân danh khoa học. Tôi chưa tán thành quan điểm phủ định thời kỳ An Dương Vương của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng tôi không muốn xẩy ra một sự ngộ nhận khi nó bị phản bác bằng một quan điểm sai. Thiên Sứ
  13. Tôi tin rằng người Pháp về cổ sử Việt sẽ không có một văn bản cổ nào để xác định Việt Nam bao nhiêu ngàn năm cả. Nhưng cái tài liệu mà nói là họ có tôi chắc chắn rằng chỉ là những công trình nghiên cứu sau này. Nếu tôi là người viết tài liệu để hướng dẫn du lịch thì tôi sẽ dạy các hướng dẫn viên du lịch là: Gần 5000 năm văn hiến là do chính sử Việt ghi lại. Thiên Sứ
  14. Hi! Cảm ơn Vespa. Trí tưởng tượng thật phong phú. Chuyện vui quá! Thiên Sứ
  15. BÀN VỀ BÀI PHỎNG VẤN PHÓ GIÁO SƯ PHẠM MINH HUYỀN Như vậy, toàn văn bài phỏng vấn Phó giáo sư Phạm Minh Huyền đã được trình bày ở trên để bạn đọc có thể tham khảo. Trong bài này tôi xin được phân tích từ cái nhìn của tôi với những luận điểm của bà Phạm Minh Huyền khi phản bác giáo sư Lê Mạnh Thát. Tôi cũng không tán thành việc phủ nhận nhà nước Âu Lạc, nhưng với một lập luận khác. Có thể giáo sư Lê Mạnh Thát sai. Nhưng điều đó không có nghĩa là mọi sự phản biện cái sai sẽ là đúng. Bài viết này nhằm chứng tỏ lập luận phản biện giáo sư Lê Mạnh Thát cũng không chặt chẽ. Biết đâu, những sự phân tích của tôi giúp làm sáng tỏ điều gì chăng? Tôi bắt đầu từ câu đầu tiên trả lời phỏng vấn của bà Phạm Minh Huyền. Trong bài phân tích này, phần chữ hiển thị màu xanh là trích dẫn. Phần chữ đen là chính văn của tôi. @ Phóng viên: Là một chuyên gia khảo cổ về thời kỳ văn hóa Đông Sơn nói chung và triều đại An Dương Vương nói riêng, Phó Giáo sư đánh giá như thế nào về sự ra đời của triều đại An Dương Vương? * PGS.TS PHẠM MINH HUYỀN: Về phân kỳ khảo cổ học, cả thời Hùng Vương và An Dương Vương đều nằm trong thời kỳ của văn hóa Đông Sơn và đó là một sự chuyển tiếp thống nhất trên một phạm vi rất lớn. Toàn bộ vùng sông Hồng, sông Mã, sông Cả cho đến vùng Quảng Bình. Đây là sự chuyển tiếp để ra đời của một nhà nước sớm, một nhà nước sơ khai mà ta có thể gọi là nước Âu Lạc của triều đại An Dương Vương. Đứng về mặt khảo cổ học, với những bằng chứng vật chất, sự chuyển tiếp giữa thời Hùng Vương và thời kỳ An Dương Vương là một sự xuyên suốt, không có đứt quãng. Không phải là An Dương Vương lên thì văn hóa Hùng Vương mất đi, hay Triệu Đà đánh xong An Dương Vương thì văn hóa Đông Sơn mất đi. Trong văn hóa Đông Sơn, chúng tôi phân thành 3 kỳ: văn hóa Đông Sơn hình thành; văn hóa Đông Sơn phát triển và văn hóa Đông Sơn muộn. Thời kỳ An Dương Vương thuộc về thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn phát triển sang đầu thời kỳ muộn. Sau An Dương Vương, văn hóa Đông Sơn của người Việt tiếp tục phát triển... Trước hết chúng ta thấy rằng: Bà này đứng trên một quan điểm lịch sử cho rằng: Nhà nước Văn Lang và cà Âu Lạc đều chỉ bắt đầu từ thời Đông Sơn – Vốn được coi là có niên đại khoảng thế kỷ thứ VII trước CN và chỉ tồn tại ở đồng bằng Bắc Bộ. Đoạn văn trích lại dưới đây cho thấy điều này: Về phân kỳ khảo cổ học, cả thời Hùng Vương và An Dương Vương đều nằm trong thời kỳ của văn hóa Đông Sơn và đó là một sự chuyển tiếp thống nhất trên một phạm vi rất lớn. Toàn bộ vùng sông Hồng, sông Mã, sông Cả cho đến vùng Quảng Bình. Đây là sự chuyển tiếp để ra đời của một nhà nước sớm, một nhà nước sơ khai mà ta có thể gọi là nước Âu Lạc của triều đại An Dương Vương. Như vậy chúng ta thấy rằng: Nếu lập luận của bà này đúng thì sẽ giải thích thế nào về việc nhà nước Nam Việt của Triệu Đà ở hữu ngạn hạ lưu sông Dương tử - cách xa Cao Bằng và đồng bằng Bắc Bộ lại có thể có một cuộc chiến tranh thôn tính khốc liệt như vậy? Hơn nữa, với quan điểm cho rằng: Âu Lạc và Văn Lang không khác mấy về văn hoá và trình độ văn minh mà theo bà Huyền nói “ Đây là sự chuyển tiếp để ra đời của một nhà nước sớm, một nhà nước sơ khai mà ta có thể gọi là nước Âu Lạc của triều đại An Dương Vương”. Vậy bà giải thích thế nào về một nhà nước sơ khai chống lại một cách kiên cường một nhà nước hùng mạnh như Nam Việt, khiến Nam Viêt phải dè chừng mà không thể nuốt chửng ngay một nhà nước sơ khai như vậy? Hơn thế nữa, trước khi cái “nhà nước sơ khai” Âu Lạc ra đời theo cách nói của bà và với vị trí địa lý mà bà nói tới thì quân Tần phải đánh tới tận Cao Bằng thì Thục Phán mới có điều kiện thể hiện lòng dũng cảm. Vậy bà giải thích thế nào khi quân Tần vượt qua cả một vùng đất rộng lớn là Nam sông Dương Tử, để tấn công Văn Lang – vốn chỉ tới Cao Bằng – theo cách nhìn của bà? Vì lòng tham của quân xâm lược, nên quân Tần phải vượt qua hàng ngàn cây số viễn chinh chiếm một vùng đất sơ khai với một liên minh bộ lạc chăng? Bà giải thích thế nào về một đội quân hùng mạnh tiêu diệt cả 6 nước ở Trung Nguyên lại thua một bộ lạc Thục Phán? Bà giải thích đó là do truyền thống bất khuất, lòng dũng cảm và tinh thần yêu …bộ lạc chăng? Nước Nam Việt sát ngay nhà Hán, hoặc cũng gần sát nhà Hán, chẳng hơi đâu mà đem quân viễn chinh đến Cao Bằng đánh "bộ lạc" Âu Lạc làm gì. Nếu nói rằng Nam Việt mở rộng lạnh thổ tới tận Cao Bằng thì tôi nghĩ ít nhất Nam Việt phải chứng tỏ đã có những vùng đất rất sát vùng Bắc Việt Nam bây giờ. Nhưng không may, chẳng tìm thấy chứng cứ lịch sử nào chứng tỏ điều đó. Ngược lại, những bằng chứng lịch sử và tư liệu lại cho thấy Nam Việt chỉ ở miến đất hữu ngạn sông Dương Tử, dưới Ngô Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bởi vậy, khi xuất phát từ một quan niệm sai “Thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc” với những người dân “ở trần đóng khố” thì tự nó sẽ không giải thích được cái gì. Chính xuất xứ quan điểm của bà cũng vốn chưa có cơ sở khoa học, mà chỉ là một giả thiết được đặt ra trên sư mơ hồ của lịch sử cổ Việt và vấn đề chưa tìm thấy những di vật khảo cổ, chứ không phải là một bằng chứng sắc sảo chứng minh, nên nó cũng không đủ cơ sở phản biên giáo sư Lê Mạnh Thát. Bà nói: Đứng về mặt khảo cổ học, với những bằng chứng vật chất, sự chuyển tiếp giữa thời Hùng Vương và thời kỳ An Dương Vương là một sự xuyên suốt, không có đứt quãng. Không phải là An Dương Vương lên thì văn hóa Hùng Vương mất đi, hay Triệu Đà đánh xong An Dương Vương thì văn hóa Đông Sơn mất đi. Rất tiếc, bằng chứng vật chất của khảo cổ học tự nó không nói lên điều gì. Hơn thế nữa tôi xin được hỏi tất cả các nhà khoa học có tên tuổi trên thế giới và Việt Nam là: “Các vị có thể chứng minh rằng: Di vật khảo cổ là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử không?”. Không lẽ chỉ vì người ta không thấy một bằng chứng khảo cổ thì lịch sử sẽ không tồn tại? Tính liên tục và xuyên suốt về văn hóa thể hiện qua những di vật khảo cổ tìm được mà bà Huyền nói tới - tương đương với thời gian từ cuối thời Hùng Vương đến Triệu Đà không phải là luận điểm phản biện giáo sư Lê Mạnh Thác. Khi giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng từ thời Hùng Vương kéo dài đến Hai Bà Trưng là một thời kỳ lịch sử liên tục thì tính liên tục và xuyên suốt của di vật khảo cổ tìm thấy có niên đại tương đương lại là tất nhiên. Bà nói: Trong văn hóa Đông Sơn, chúng tôi phân thành 3 kỳ: văn hóa Đông Sơn hình thành; văn hóa Đông Sơn phát triển và văn hóa Đông Sơn muộn. Thời kỳ An Dương Vương thuộc về thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn phát triển sang đầu thời kỳ muộn. Sau An Dương Vương, văn hóa Đông Sơn của người Việt tiếp tục phát triển... Việc chia văn hoá Đông Sơn ra nhiều thời kỳ tuỳ thuộc vào phương pháp nghiên cứu, thuộc về chuyên môn sâu, chẳng liên quan gì đến vấn đề Âu Lạc và Nam Việt cả. Nhưng chính vì cái quan điểm giới hạn trong di vật khảo cổ của nhà nước Văn Lang và cả Âu Lạc về không gian và thời gian, nó sẽ khiến không một lập luận nào có thể hợp lý trong việc giải thích cội nguôn dân tộc Việt. Tính hợp lý là một trong nhiều tiêu chí cho một lý thuyết được coi là khoa học. Tôi nghĩ đã gọi là khoa học thì phải tuân thủ tiêu chí khoa học. - Theo Phó giáo sư, triều đại An Dương Vương là sự tiếp nối của thời kỳ Hùng Vương và đưa văn hóa Đông Sơn của người Việt lên một tầm cao hơn so với thời kỳ Hùng Vương? * Đúng thế! Chúng ta không thể nói là ông Hùng Vương như thế nào, ông An Dương Vương như thế nào một cách cụ thể. Nhưng giới sử học, mà cụ thể là những người làm khảo cổ như chúng tôi cho rằng, đó là những người tù trưởng, tộc trưởng và họ là những người đứng đầu của những bộ lạc. Trong rất nhiều bộ lạc, ở những khu vực khác nhau thì người nào khỏe nhất, bộ lạc nào hùng mạnh nhất sẽ có quyền lực lớn nhất! Ai có cơ sở vật chất giàu nhất thì sẽ có quyền lực lớn nhất! Hiện nay có một số nhà nghiên cứu với một số hướng khác nhau, đang đi tìm nguồn gốc của Thục Phán, nơi xuất phát của triều đại An Dương Vương. Có lẽ đây là câu thể hiện rõ nhất tính chất phủ nhận giá trị văn hiến trải gần 5000 năm lịch sử Việt của bà Huyền. Nhưng đồng thời cũng thấy rất rõ tính chủ quan của quan điểm này . Chúng ta xem kỹ đoạn sau đây: Nhưng giới sử học, mà cụ thể là những người làm khảo cổ như chúng tôi cho rằng, đó là những người tù trưởng, tộc trưởng và họ là những người đứng đầu của những bộ lạc. Như vậy cái họ "cho rằng" chỉ là cái chủ quan của họ, chứ không phải họ đã chứng minh rằng. Chẳng ai có thể chứng minh một cái mà chính họ cho là không thật. Chân lý này nó đơn giản như sau: Nếu anh đã không tin là có ma thì anh cũng không thể chứng minh là không có ma. Trong trường hợp này không có phản đề. Tức là cái anh tin là có thì cũng chưa chắc có. Như vậy, có thể nói rằng – qua lời của bà Huyền – cái quan niệm lịch sử thời Hùng Vương chỉ giới hạn ở không thời gian Đông Sơn và là "liên minh bộ lạc" hoàn toàn chủ quan, chỉ là “cho rằng” một cách rất cảm tính. Chính họ cũng xác nhận rằng: "Chúng ta không thể nói là ông Hùng Vương như thế nào, ông An Dương Vương như thế nào một cách cụ thể".Nhưng rất tiếc! Nó lại được xác định theo chiều hướng phủ nhận những giá trị truyền thống rất cụ thể khi họ kết luận rằng: "Đó là những người tù trưởng, tộc trưởng và họ là những người đứng đầu của những bộ lạc". Hết sức mâu thuẫn ngay trong một luận điểm. Nhưng vậy mà nó cũng được cho rằng là khoa học. Chúng ta xem tiếp lập luận sau đây của bà Huyền: Vấn đề nguồn gốc ở nước Tây Thục nhà Hán đã bị loại bỏ, hiện nay có 2 hướng chính về nguồn gốc của Thục Phán: một số nhà nghiên cứu cho là ở vùng Cao Bằng; hướng thứ 2 là cho là ở vùng Lào Cai, Yên Bái. Nhưng một điều ai cũng khẳng định, vào thời điểm đó, Thục Phán là một thủ lĩnh rất mạnh và giàu có về vật chất. Qua đoạn này, chúng ta thấy rõ tính không thống nhất của các luận điểm trong giới sử học. Họ có những luận điểm khác nhau. Điều này thấy rõ ràng là những luận điểm của họ mới chỉ là những giả thuyết không chắc chắn. Ngay cả cái mà bà Huyền nói: "Nhưng một điều ai cũng khẳng định, vào thời điểm đó, Thục Phán là một thủ lĩnh rất mạnh và giàu có về vật chất” Tất nhiên, khi đã là người chiến thắng cuối cùng và đứng đầu một quốc gia thì tất nhiên An Dương Vương phải là người có quyền lực mạnh nhất và giàu nhất. Nhưng vấn đề là khi Thục Phán nổi lên chống Tần thì Ngài là người thế nào? Ngài với Hùng Vương ai giàu hơn theo luận cứ của bà? Vậy tại sao Thục Phán lại chống được quân Tần? Những danh tướng chống ngoại xâm trong lịch sử đâu phải ai cũng là người giầu nhất đâu. Đây là những phương pháp luận không có cơ sở. Đến đoạn này thì chúng ta thấy rõ sự lúng túng trong lập luận của bà Huyền. Bà nói: Những kết quả khảo cổ học cho thấy, ở vùng Cổ Loa từ thời kỳ đó đã tập trung khá nhiều di tích biểu hiện sự giàu có. Năm 1982, đã phát hiện giữa vòng thành Nội và vòng thành Trung, một trống đồng lớn, hiện nay đó là một trong những chiếc trống đồng đẹp nhất của văn hóa Đông Sơn. Trong cái trống đó, phát hiện hơn 100 cái lưỡi cày và rất nhiều đồ đồng khác. Người sở hữu cái trống đồng đó theo quan điểm chúng tôi là một người rất giàu có và có quyền lực lúc bây giờ. Vào thời điểm đó, những người nắm kỹ thuật đúc đồng luôn có một vị trí rất cao trong xã hội. Ngoài ra, trong khu vực Cổ Loa, chúng tôi cũng tìm được những chiếc trống đồng khác và những mảnh trống đồng vỡ khá lớn. Điều đó chứng tỏ ở vùng Cổ Loa thời điểm đó tồn tại những nhân vật rất giàu có và có nhiều quyền lực. Theo tôi, lúc bấy giờ vai trò của nhân vật An Dương Vương là có thật và đó là một người tù trưởng rất giàu có và đã thâu tóm được một quyền lực rất lớn! Trong đoạn này thì bà Huyền lại thêm một định tính nữa về địa vị xã hội bên cạnh sự giàu có và sức mạnh. Đó là người nắm kỹ thuật đúc đồng. “Vào thời điểm đó, những người nắm kỹ thuật đúc đồng luôn có một vị trí rất cao trong xã hội”. Thế mấy ông bà đi buôn đồng và chủ khai thác mỏ đồng thì sao nhỉ? Hay là họ khai thác tại chỗ từ quặng ra, nấu thành đồng tinh chế, rồi luyện kim và đúc đồng luôn? Ở đây tôi muốn gợi ý đến một sự phân công lao động xã hội rất sâu sắc trong thời đại các vua Hùng, khi mà trống đồng rải rác khắp miền nam sông Dương Tử và vùng Đông Nam Á. Nhưng chủ để và giới hạn của bài viết này khiến tôi không thể phân tích sâu hơn. Chưa hết, tôi không thể hiểu nổi vì sao chỉ căn cứ vào một cái trống đồng rất đẹp và to với mấy trăm cái lưỡi cầy thì đã vội kết luận Thục Phán là người giầu có? Tại sao nó không phải của chung của cả một cộng đồng làng xã và khi tản cư họ không thể mang theo được nên chôn xuống để giấu của? Hay là cái trống đồng đó có khắc chữ xác định chủ quyền của An Dương Vương? Chữ gì nhỉ? Khoa đẩu văn? Chữ Hán?....mà các nhà khoa hoc lịch sử đã đọc được nên xác định chắc chắn như vậy? Bà nói: Trong mấy năm vừa rồi, chúng tôi đã tiến hành khai quật ở Cổ Loa, ngay tại khu vực đền Thượng, nơi thờ An Dương Vương. Đền này nằm ở góc Tây Nam của thành Nội. Tại đó năm 2005, chúng tôi đã phát hiện hệ thống lò đúc mũi tên đồng, với hàng trăm khuôn đúc, đúng với những “mũi tên đồng Cổ Loa” 3 cạnh mà chúng ta đã phát hiện ra trước đó. Vào năm 1959 chúng ta lần đầu tiên phát hiện ra một kho mũi tên đồng 3 cạnh ở khu vực thành Cổ Loa. Trước đây, chúng ta chưa biết những mũi tên đồng đó được đúc ở đâu. Với việc phát hiện hệ thống lò đúc ở khu vực đền Thượng, chúng ta đã có câu trả lời cho điều đó. Lúc mới phát hiện được mũi tên đồng, chúng ta đã phần nào tin tưởng được vào truyền thuyết nỏ thần của An Dương Vương, khi phát hiện ra hệ thống lò đúc, giả thuyết đó càng được củng cố với những hạt nhân hợp lý! Điều không thể chối cãi được là ngay ở thành Cổ Loa đã sản xuất được mũi tên đồng vào thời điểm đó. Với số lượng hàng vạn mũi tên đồng, hàng trăm khuôn đúc được phát hiện, chứng minh rằng, có một đội quân lớn thường trực ở đây. Rõ ràng, Cổ Loa lúc bấy giờ là một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế lớn và vai trò của An Dương Vương rất lớn, chứ không như thời kỳ Hùng Vương. Nói chính xác là An Dương Vương đã thành công trong việc xây dựng một mô hình nhà nước sơ khai trên cơ sở nền văn hóa Đông Sơn có từ thời kỳ Hùng Vương. Hiện tượng tìm được rất nhiều mũi tên đồng và trống đồng ở thành Cổ Loa là một thực tế. Nhưng đó không phải cơ sở để khẳng định là: “Rõ ràng, Cổ Loa lúc bấy giờ là một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế lớn và vai trò của An Dương Vương rất lớn, chứ không như thời kỳ Hùng Vương". Trong khi đoạn trên, chính bà nói: “Đứng về mặt khảo cổ học, với những bằng chứng vật chất, sự chuyển tiếp giữa thời Hùng Vương và thời kỳ An Dương Vương là một sự xuyên suốt, không có đứt quãng. Không phải là An Dương Vương lên thì văn hóa Hùng Vương mất đi, hay Triệu Đà đánh xong An Dương Vương thì văn hóa Đông Sơn mất đi”. Vậy thời Hùng Vương dùng mũi tên bằng tre chăng? Hay cũng dùng tên bằng đồng? Tại sao đây không phải là kho vũ khí của chính các vua Hùng mà An Dương Vương kế thừa, khi mà hai triều đại này là một mạch nối tiếp như chính ba nói? Tại sao xác định được những mũi tên này là của An Dương Vương chứ không phải Hùng vương, khi mà sự chuyển tiếp giữa hai triều đại này và sự tồn tại của An Dương Vương là rất ngắn? Ngay cả việc họ dùng carbon phóng xạ để xác định chính xác niên đại của những mũi tên đồng này đến đơn vị năm thì cũng chưa chắc xác định được kho tên đồng này của ai. Tất nhiên chuyện này là không tưởng với trình độ khoa học hiện nay của quốc tế. Tại sao đây không phải là khu vục chế tạo vũ khi với quy mô lớn của một quốc gia hùng mạnh, mà nó lại được áp đặt là kinh đô của một nhà nước sơ khai, khi chỉ vì thấy ở đây hàng vạn mũi tên đồng với những lò đúc? Vậy với một số lượng sản xuất lớn như thế tập trung tại một vùng bây giờ gọi là Cổ Loa thì đây phải là một xã hội có sự phân công lao động rất quy mô mới có thể bảo đảm sức sản xuất ở đây và phục vụ chiến tranh. Vấn đề tồn nghi đặt ra là: Tại sao sau khi tiêu diệt kinh thành cổ Loa – theo như luận điểm của bà Huyền cho Cổ Loa là kinh thành của An Dương Vương – thì quân của Nam Việt lại không sử dụng những mũi tên đồng này? Hay là nền văn minh đồ sắt với y phục rực rỡ chê nền văn minh đồng ở trần đóng khố nên đã….. bỏ đi và để mặc cho mưa gió dập vùi và bây giờ mới có cái để đào lên? Giả thiết của tôi là: Vị trí gọi là Cổ Loa bây giờ khả năng chỉ là một khu vực chế tạo vũ khí với qui mô lớn của một quốc gia hùng mạnh. Nó được chu cấp để chuyên sản xuất vũ khí phục vụ quân đội và không phải kinh đô của Âu Lạc. Khi nhà nước Âu Lạc sụp đổ, nơi đây trở nên hoang phế. Khả năng những mũi tên và vũ khí đồng được người ta tự vùi lấp để không bị chiếm đoạt. Tất nhiên đây cũng chỉ là giả thiết. Nhưng chưa hẳn giả thiết của bà Huyền đã hợp lý hơn. Tiêu chí khoa học định nghiã cho một giả thuyết khoa học rằng: “Một giả thuyết khoa học được coi là đúng nếu nó giải thích được hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách nhấtv quán, hoàn chỉnh, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri”. Bà nói: Thành Cổ Loa chắc chắn được xây dựng vào thế kỷ 2 trước Công nguyên. Có thể như thế. Nhưng điều đó không nói lên điều gì khi phản biện giáo sư Lê Mạnh Thát. Nó vẫn có thể là thành luỹ bị hoang phế bởi những hoàn cảnh lịch sử khác. Thiên Sứ
  16. VẤN ĐỀ NƯỚC ÂU LẠC TRONG SỬ VIỆT. Giáo sư Lê Mạnh Thát viết những bộ sách về lịch sử Phật giáo cách đây đã hơn 30 năm. Những luận điểm của ông về cổ sử Việt được dư luận và giới nghiên cứu sử học đặc biệt chú ý khi báo Thanh Niên đăng loạt bài về vấn đề này. Tôi cũng không tán thành luận điểm của ông về giai đoạn lịch sử từ thời kỳ An Dương Vương cho đến kết thúc cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Nhưng đối với tôi thì những bài nhận xét liên quan của những nhà nghiên cứu có học vị được đăng tải trên báo chí tiếp theo đó cũng rất cần quan tâm. Đây cũng chính là nguyên nhân để tôi viết loạt bài này như là một ý kiến khiêm tốn đóng góp vào mối quan tâm của dư luận. Trước khi viết loạt bài này tôi có độn được quẻ Hưu Lưu niên thì cũng thấy buồn. Chắc ý kiến của tôi cũng chẳng đi đến đâu. Nhưng thôi, đành theo cách người xưa nói: "Quân tử vấn Dịch để biết lẽ tiến thoái, chứ không phải để thay đổi ý chí của mình". Nên cũng ráng viết và gửi lên mục "Mạn đàm" để hy vọng trao đổi giới hạn vậy. Bây giờ chúng ta hãy xem toàn văn bài trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Giải Phóng của Phó giáo sư Tiến sĩ Phạm Minh Huyền. * Nguồn: sggp.org.vn Về việc “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động”: Không thể phủ nhận sự tồn tại của triều đại An Dương Vương Chủ nhật, 16/03/2008, 23:44 (GMT+7) Trong loạt bài trên báo Thanh Niên, trong khi phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của triều đại An Dương Vương, Thiền sư Lê Mạnh Thát không đề cập chút nào đến những kết quả khảo cổ học từ trước đến nay về triều đại này. Để làm rõ hơn vấn đề này, phóng viên báo SGGP đã có cuộc trao đổi với PGS. TS Phạm Minh Huyền (ảnh), một chuyên gia khảo cổ về thời kỳ văn hóa Đông Sơn, trực tiếp là thành Cổ Loa. An Dương Vương là sự tiếp nối liên tục và đạt trình độ cao hơn thời kỳ Hùng Vương * Phóng viên: Là một chuyên gia khảo cổ về thời kỳ văn hóa Đông Sơn nói chung và triều đại An Dương Vương nói riêng, Phó Giáo sư đánh giá như thế nào về sự ra đời của triều đại An Dương Vương? PGS.TS PHẠM MINH HUYỀN: Về phân kỳ khảo cổ học, cả thời Hùng Vương và An Dương Vương đều nằm trong thời kỳ của văn hóa Đông Sơn và đó là một sự chuyển tiếp thống nhất trên một phạm vi rất lớn. Toàn bộ vùng sông Hồng, sông Mã, sông Cả cho đến vùng Quảng Bình. Đây là sự chuyển tiếp để ra đời của một nhà nước sớm, một nhà nước sơ khai mà ta có thể gọi là nước Âu Lạc của triều đại An Dương Vương. Đứng về mặt khảo cổ học, với những bằng chứng vật chất, sự chuyển tiếp giữa thời Hùng Vương và thời kỳ An Dương Vương là một sự xuyên suốt, không có đứt quãng. Không phải là An Dương Vương lên thì văn hóa Hùng Vương mất đi, hay Triệu Đà đánh xong An Dương Vương thì văn hóa Đông Sơn mất đi. Trong văn hóa Đông Sơn, chúng tôi phân thành 3 kỳ: văn hóa Đông Sơn hình thành; văn hóa Đông Sơn phát triển và văn hóa Đông Sơn muộn. Thời kỳ An Dương Vương thuộc về thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn phát triển sang đầu thời kỳ muộn. Sau An Dương Vương, văn hóa Đông Sơn của người Việt tiếp tục phát triển... * Theo Phó giáo sư, triều đại An Dương Vương là sự tiếp nối của thời kỳ Hùng Vương và đưa văn hóa Đông Sơn của người Việt lên một tầm cao hơn so với thời kỳ Hùng Vương? - Đúng thế! Chúng ta không thể nói là ông Hùng Vương như thế nào, ông An Dương Vương như thế nào một cách cụ thể. Nhưng giới sử học, mà cụ thể là những người làm khảo cổ như chúng tôi cho rằng, đó là những người tù trưởng, tộc trưởng và họ là những người đứng đầu của những bộ lạc. Trong rất nhiều bộ lạc, ở những khu vực khác nhau thì người nào khỏe nhất, bộ lạc nào hùng mạnh nhất sẽ có quyền lực lớn nhất! Ai có cơ sở vật chất giàu nhất thì sẽ có quyền lực lớn nhất! Hiện nay có một số nhà nghiên cứu với một số hướng khác nhau, đang đi tìm nguồn gốc của Thục Phán, nơi xuất phát của triều đại An Dương Vương. Vấn đề nguồn gốc ở nước Tây Thục nhà Hán đã bị loại bỏ, hiện nay có 2 hướng chính về nguồn gốc của Thục Phán: một số nhà nghiên cứu cho là ở vùng Cao Bằng; hướng thứ 2 là cho là ở vùng Lào Cai, Yên Bái. Nhưng một điều ai cũng khẳng định, vào thời điểm đó, Thục Phán là một thủ lĩnh rất mạnh và giàu có về vật chất. Những kết quả khảo cổ học cho thấy, ở vùng Cổ Loa từ thời kỳ đó đã tập trung khá nhiều di tích biểu hiện sự giàu có. Năm 1982, đã phát hiện giữa vòng thành Nội và vòng thành Trung, một trống đồng lớn, hiện nay đó là một trong những chiếc trống đồng đẹp nhất của văn hóa Đông Sơn. Trong cái trống đó, phát hiện hơn 100 cái lưỡi cày và rất nhiều đồ đồng khác. Người sở hữu cái trống đồng đó theo quan điểm chúng tôi là một người rất giàu có và có quyền lực lúc bây giờ. Vào thời điểm đó, những người nắm kỹ thuật đúc đồng luôn có một vị trí rất cao trong xã hội. Ngoài ra, trong khu vực Cổ Loa, chúng tôi cũng tìm được những chiếc trống đồng khác và những mảnh trống đồng vỡ khá lớn. Điều đó chứng tỏ ở vùng Cổ Loa thời điểm đó tồn tại những nhân vật rất giàu có và có nhiều quyền lực. Theo tôi, lúc bấy giờ vai trò của nhân vật An Dương Vương là có thật và đó là một người tù trưởng rất giàu có và đã thâu tóm được một quyền lực rất lớn! Trong mấy năm vừa rồi, chúng tôi đã tiến hành khai quật ở Cổ Loa, ngay tại khu vực đền Thượng, nơi thờ An Dương Vương. Đền này nằm ở góc Tây Nam của thành Nội. Tại đó năm 2005, chúng tôi đã phát hiện hệ thống lò đúc mũi tên đồng, với hàng trăm khuôn đúc, đúng với những “mũi tên đồng Cổ Loa” 3 cạnh mà chúng ta đã phát hiện ra trước đó. Vào năm 1959 chúng ta lần đầu tiên phát hiện ra một kho mũi tên đồng 3 cạnh ở khu vực thành Cổ Loa. Trước đây, chúng ta chưa biết những mũi tên đồng đó được đúc ở đâu. Với việc phát hiện hệ thống lò đúc ở khu vực đền Thượng, chúng ta đã có câu trả lời cho điều đó. Lúc mới phát hiện được mũi tên đồng, chúng ta đã phần nào tin tưởng được vào truyền thuyết nỏ thần của An Dương Vương, khi phát hiện ra hệ thống lò đúc, giả thuyết đó càng được củng cố với những hạt nhân hợp lý! Điều không thể chối cãi được là ngay ở thành Cổ Loa đã sản xuất được mũi tên đồng vào thời điểm đó. Với số lượng hàng vạn mũi tên đồng, hàng trăm khuôn đúc được phát hiện, chứng minh rằng, có một đội quân lớn thường trực ở đây. Rõ ràng, Cổ Loa lúc bấy giờ là một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế lớn và vai trò của An Dương Vương rất lớn, chứ không như thời kỳ Hùng Vương. Nói chính xác là An Dương Vương đã thành công trong việc xây dựng một mô hình nhà nước sơ khai trên cơ sở nền văn hóa Đông Sơn có từ thời kỳ Hùng Vương. Thành Cổ Loa chắc chắn được xây dựng vào thế kỷ 2 trước Công nguyên * Những mũi tên đồng, những khuôn đúc được phát hiện ở Cổ Loa, đến thời điểm này đã xác định được niên đại chưa, thưa Phó giáo sư? - Năm 2005, khi khai quật đền Thượng, tại một đoạn thành Nội hỏng, chúng tôi đã tiến hành cắt đoạn thành đó để nghiên cứu. Tại đây, chúng tôi thấy có 3 lớp đất, tất cả đều được đắp vào một thời, nhưng chúng tôi không tìm thấy những vật như ngói, gạch, đá... nào cả. Tuy nhiên, cách chân thành Nội phía bên trong mấy chục mét, chúng tôi đào một hố và kết quả là thấy có tính chất của thành. Tức là có rất nhiều đá, nhiều ngói và gạch được chèn vào. Cùng với những mũi tên đồng, thì những gạch ngói đó là hiện vật rất quan trọng để khẳng định niên đại. Trước đây, nhiều nhà sử học Việt Nam cho rằng đó là ngói và gạch thời Đông Hán, tức là sau Công nguyên và do Mã Viện đắp lên vòng thành Nội. Tuy nhiên, với nghiên cứu của chúng tôi, đặc biệt là sự so sánh với gạch ngói thời kỳ nước Nam Việt của Triệu Đà ở Quảng Đông (tức là thời Tây Hán), thì những gạch ngói có nhiều điểm tương đồng, giống nhau về hoa văn và hình dáng. Chúng tôi cho rằng, những gạch ngói đó không phải của văn hóa Đông Sơn, nhưng những sản phẩm đó cũng không phải là sản xuất ở nước Nam Việt đưa sang, mà ở đây chính là sự du nhập kỹ thuật từ Trung Quốc vào. Nghĩa là số gạch ngói đó được sản xuất ngay tại đây, có thể là tại khu vực Cổ Loa và nó mang một số yếu tố bản địa như dấu vết của các trang trí hoa văn của văn hóa Đông Sơn, mà gạch ngói vùng Nam Việt không có. Bản thân văn hóa Đông Sơn không có kỹ thuật làm gạch ngói, mà kỹ thuật đó được du nhập vào từ Trung Quốc. Điều này chứng minh vào thời điểm đó, ở Cổ Loa có một nhân vật rất giàu có, nhiều quyền lực mới đủ điều kiện để cho du nhập kỹ thuật làm ngói và xây dựng thành quách. Mặt khác, nó cũng chứng minh là vào thời điểm đó, có một mối quan hệ thông thương khá lớn giữa nước ta và Trung Quốc, mà cụ thể ở đây là triều đại An Dương Vương và nước Nam Việt. Tôi khẳng định rằng, những hiện vật gạch ngói đó có niên đại muộn nhất là đời Tây Hán và có thể sớm hơn là vào thời nhà Tần! Về những mũi tên đồng Cổ Loa, trước đây chúng ta mới chỉ tìm thấy những khuôn đúc 2 mang. Nhưng việc phát hiện ra những khuôn đúc 3 mang đã tạo ra một bước ngoặt lớn. Theo nghiên cứu của chúng tôi, kỹ thuật làm khuôn 3 mang hoàn toàn là của văn hóa Đông Sơn. Trống đồng cũng được đúc bằng khuôn 3 mang: 1 mang khuôn cho mặt trống và 2 mang còn lại cho thân trống. Để xác định niên đại của chúng, tôi đã gửi đi phân tích niên đại 2 mẫu: 1 mẫu của lò đúc phát hiện được 2005 và kết quả cho niên đại là 159±35BC, tức là vào khoảng 159 trước Công nguyên với sai số 35 năm; mẫu thứ 2 là của những hố rác thải của lò đúc (bao gồm những tro lửa, lò đúc hỏng, sản phẩm hỏng...) ở gần những lò đúc, niên đại của mẫu vật này là 190±35BC, tức là cũng vào đầu thế kỷ 2 trước Công nguyên. Trước đây, “Đại việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên chép là triều đại An Dương Vương tồn tại từ 257 đến 208 trước Công nguyên. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ trước, các nhà sử học của chúng ta đã chứng minh được điều đó không đúng. Điều này trùng với ý kiến của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Triều đại An Dương Vương tồn tại từ cuối thế kỷ 3 đến giữa thế kỷ 2 trước Công nguyên. Niên đại nói trên của khuôn đúc mũi tên đồng và rác thải lò đúc ở Cổ Loa hoàn toàn đúng với thời kỳ An Dương Vương đã xây dựng nước Âu Lạc và đánh nhau với quân Triệu Đà. Cũng như gạch ngói, những thứ để đúc ra hàng loạt mũi tên đồng Cổ Loa đều thuộc vào thời kỳ trước Công nguyên, thời kỳ Tây Hán. Ở Cổ Loa cũng có rất nhiều hiện vật thời Đông Hán, nhưng với những kết quả nghiên cứu nói trên, chứng tỏ thành Cổ Loa, đặc biệt là khu thành Nội được xây dựng và phát triển ở trình độ khá cao từ sớm; chứ không phải như ý kiến của một số người, cũng như Thiền sư Lê Mạnh Thát cho rằng được xây dựng thời Đông Hán và do Mã Viện xây nên! Triều đại An Dương Vương và mối liên hệ với Trung Quốc thời bấy giờ là không thể phủ nhận. * Nhưng Thiền sư Lê Mạnh Thát cho rằng không có cuộc xâm lược của Triệu Đà, và gần như không có sự quan hệ giữa nước ta và Trung Quốc lúc bấy giờ...? - Tôi không đồng ý với quan điểm của Thiền sư Lê Mạnh Thát cho rằng không có cuộc xâm lược của Triệu Đà và nước Nam Việt chưa bao giờ có mối quan hệ với chúng ta. Tôi đã sang tham quan mộ của Triệu Văn Vương, tức là cháu của Triệu Đà và thấy ở đó có rất nhiều đồ đồng của văn hóa Đông Sơn chúng ta. Đặc biệt có 2 cái thạp đồng rất đẹp mà các nhà khảo cổ Trung Quốc cũng thừa nhận là của văn hóa Đông Sơn chúng ta, chứ không phải là sản phẩm của người Trung Quốc thời kỳ đó. Điều đó, chứng tỏ mối quan hệ giữa Nam Việt và Âu Lạc lúc đó là rất rõ ràng, có thể mối quan hệ giao thương 2 chiều, có thể là triều cống, hoặc có thể là Nam Việt cướp bóc của Âu Lạc! Dù hình thức nào đi nữa, thì không thể phủ nhận mối quan hệ này! Ở Cổ Loa, chúng tôi phát hiện được những đồng tiền của thời Tây Hán và thời Tần. Ngay trên trống đồng Cổ Loa, mặt trong cũng có khắc chữ Hán, tức là được khắc vào sau khi đúc hoặc đã sử dụng một thời gian. Đặc biệt trên một trong những khuôn đúc mũi tên đồng, đã phát hiện được 2 chữ theo lối chữ Hán. Một chữ đã đọc được là chữ “Thần” với nghĩa là “thần dân”, còn một chữ không đọc được. Tôi đã mang bản dập 2 chữ này sang Bắc Kinh hỏi thì được các chuyên gia Trung Quốc cho biết là 2 chữ này có niên đại sớm nhất là thời Chiến Quốc và muộn nhất là thời Tây Hán, tức là đều trước Công nguyên cả! Tôi cho rằng, sau khi đánh xong An Dương Vương, Triệu Đà rút quân về Phiên Ngung (kinh đô nước Nam Việt lúc bấy giờ) và chỉ thực hiện cai quản từ xa, vẫn cho nước Âu Lạc tồn tại nhưng dưới hình thức là chư hầu và phải triều cống hàng năm. Tức là ở Cổ Loa vẫn tiếp tục là của người Việt với văn hóa Đông Sơn tiếp tục phát triển do những người tù trưởng, tộc trưởng Việt lãnh đạo. Họ vẫn tiếp tục xây thành, thực hiện kỹ thuật đúc đồng mà An Dương Vương để lại... Tuy nhiên về sau, khi nhà Hán thôn tính nước Nam Việt thì sự cai trị của nhà Hán đối với chúng ta càng rõ nét hơn và tác động của văn hóa Hán tới văn hóa Đông Sơn mạnh hơn. Cho đến năm 43 sau Công nguyên, thì Hai Bà Trưng nổi dậy chống sự đô hộ của nhà Hán với tư cách là những tù trưởng, tộc trưởng... * Theo dõi loạt bài trên báo Thanh Niên, Phó Giáo sư suy nghĩ như thế nào khi mà Thiền sư Lê Mạnh Thát không hề đề cập đến những kết quả khảo cổ học nói về thời kỳ An Dương Vương như trên, mà cho rằng toàn bộ câu chuyện An Dương Vương là do người Việt mình tự bịa ra trên cơ sở chuyện từ sử thi Mahabharata? - Chưa có dịp tiếp xúc, nhưng tôi rất kính phục sự hiểu biết sâu rộng của Thiền sư cũng như khả năng xử lý các tài liệu, đặc biệt là văn bản cổ từ các ngôn ngữ khác nhau. Những luận điểm của Thiền sư đưa ra chúng ta cũng cần phải suy nghĩ. Như trường hợp Thiền sư đặt lại vấn đề Triệu Đà đánh nước Âu Lạc! Mặc đù đây là vấn đề không phải mới, trước đây nhiều nhà khảo cổ học đã tranh luận về vấn đề này! Tuy nhiên những luận điểm của của Thiền sư mới chỉ là dựa vào văn bản. Còn với những kết quả khảo cổ học của chúng tôi, mặc dù có nhiều điều cần phải làm rõ hơn nữa; nhưng sự tồn tại và phát triển của triều đại An Dương Vương là có thực, không thể phủ nhận. Đó là sự tiếp nối của thời kỳ Hùng Vương, đưa văn hóa Đông Sơn của người Việt lên một tầm cao mới với sự hình thành của một nhà nước sơ khai. * Từ trước đến nay, trong giới khảo cổ học nói riêng và giới sử học nói chung đã có ý kiến nào phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của triều đại An Dương Vương như Thiền sư Lê Mạnh Thát không? - Sự tranh cãi về việc xây thành Cổ Loa đã có từ lâu, nhưng chủ yếu chỉ tập trung vào một vấn đề là: vòng thành Nội do An Dương Vương xây dựng hay do Mã Viện sau này xây dựng nên. Với những kết quả nói trên, tôi khẳng định là do An Dương Vương xây dựng, sau này Mã Viện hay các thời kỳ khác chỉ sử dụng và tu bổ thêm. Còn vòng thành Trung và vòng thành Ngoại thì tất cả các nhà khảo cổ đều thống nhất là được xây dựng từ thời An Dương Vương. Từ trước đến nay, nghiên cứu tranh luận về triều đại An Dương Vương có nhiều, nhưng không một ai trong giới sử học Việt Nam nói chung và giới khảo cổ học nói riêng phủ nhận triều đại An Dương Vương như Thiền sư Lê Mạnh Thát cả! Với những kết quả khảo cổ mà chúng ta đã có trong mấy chục năm qua, việc tồn tại của triều đại An Dương Vương là điều không thể phủ nhận được. * Xin cảm ơn Phó Giáo sư! TRẦN LƯU (thực hiện)
  17. Trangphan yên tâm đi. Chú hứa sẽ xem Tử Vi cho Trangphan mừ! Nhưng chú chỉ xem trong vòng 5 năm thôi nha. Tại chú bận quá. Thiên Sứ
  18. Gấu Bông hỏi: I - Vào năm 2010 cháu tốt nghiệp ĐH thì nên ở lại học tiếp cao học 2 năm hay nên về VN sống và làm việc ạ? Tháng Ba Âm lịch: Giờ Tý bắt đầu từ 11g 30 đến hết 1g 30. Bây giờ là 1g 2 phút tại Việt Nam. Quẻ lập giờ Tý ngày 11 tháng Ba Mậu Tý: Khai Tốc Hỷ. Khai chú sự đi xa, Tốc Hỷ liên quan đến học hành. Nên ở lại học tiếp Cao học. II - Bạn trai cháu sinh năm 1985,chú ơi chúng cháu có tiến tới hôn nhân ko ạ và nên sinh con năm nào ạ? Hôn nhân sẽ thành trong trường hợp hai người sống cách xa nhau. (Hưu Xích Khẩu = Hai người không nói chuyện được với nhau) III - Sức khỏe và cuộc sống sự nghiệp của cháu sau này thế nào ạ? Sinh Tiểu Cát: Sau này dễ mắc bệnh gan và phổi. Nhưng bệnh không nặng. Cuộc sống an lành, phú túc. Sự nghiệp phát triển chậm nhưng chắc chắn. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  19. Hay Thật! Đúng là Lạc Tướng! Tôi đang cố gắng cùng chị Laviedt hoàn tất cuốn Lạc Việt độn toán và đưa vào web chính thức. Vài ngày nữa xong, anh chị em sẽ vào trang chủ chép về tham khảo. Có thể tôi lấy những quẻ đoán của Lạc Tướng trong topic này đưa vào tham khảo trong sách. Thiên Sứ
  20. Trước hết, chúng ta yêu nguồn cội của dân tộc ta, tự hào về nguồn gốc tổ tông ta, dù có thể chúng ta chưa hiểu hết những "khoảng tối của lịch sử", nhất là khi lịch sử ấy đầy giông bão, chịu bao phen thất tán, thay đổi, biển dâu. Ta yêu, ta tự hào, không phải vì tổ tông ta hơn các tổ tông khác, không phải vì "yêu nên tốt" để "vun vào" bất cứ cái gì tốt đẹp cho tổ tiên mình, và nghi ngờ, dè bỉu tổ tiên người khác, nước khác. Ngược lại, chúng ta không cho phép bất cứ ai xúc phạm, xuyên tạc hay đổi trắng thay đen về nguồn cội tổ tông mình! Chúng ta đã có một thời đại Hùng Vương từ 4.000 năm trước, nhiều hơn hoặc ít hơn một chút, điều đó các nhà sử học đã và sẽ chứng minh. Nhưng điều quan trọng hơn, là bâygiờ, cứ mỗi năm vào ngày Quốc giỗ 10 tháng 3 âm lịch, khi hướng tâm trí mình về Đền Hùng, chúng ta lại cảm thấy sâu sắc cái ý nghĩa mình được sinh ra là người Việt, được sống trên quê hương Việt Nam mình. Thực ra, cảm thức ấy tuy giản dị nhưng không hề dễ dàng. Chính tôi hồi trẻ cũng đã có lúc hoang mang: phải chăng vì mục đích tuyên truyền để nêu cao chính nghĩa chống xâm lược mà chúng ta đã có bộ lịch sử "Thời đại Hùng Vương" ? Bây giờ nghĩ lại mới thấy mình ngây thơ. Trong tất cả các cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập, chống xâm lược của đất nước ta, thời đại Hùng Vương luôn là một "Trường Sơn tinh thần" cho nhiều thế hệ người Việt dựa vào để thêm nhuệ khí, thêm tự hào, thêm năng lượng tinh thần mà chiến đấu và chiến thắng. Khẳng định nguồn cội và khẳng định chủ quyền luôn gắn liền với nhau. Và kẻ thù cũng luôn muốn xuyên tạc nguồn cội của chúng ta để lấn chiếm đất đai sông biển vốn là chủ quyền của chúng ta. Với những ai không có tư tưởng bành trướng, biên giới của lòng ngưỡng mộ cội nguồn, của niềm tự hào dân tộc luôn tương thích với biên giới chủ quyền quốc gia. Không ai có thể "bịa" ra tổ tiên mình, "bịa" ra ông bà cha mẹ mình. Nhưng con cháu có thể kính yêu mà chưa hiểu hết, có thể quyết tìm mà chưa có được trọn vẹn, sáng rõ một "biên niên sử" về tổ tiên mình. Điều đó không có gì lạ. Chỉ lạ khi mình đang là người Việt mà lại không muốn biết thêm nhiều hơn nữa về tổ tiên mình, và tỏ ra nghi ngại khi có người tìm sử liệu để chứng minh tổ tiên mình từng xây dựng nền độc lập từ rất sớm, và từng có văn tự, có văn hiến rất sớm. Có thể do chiến tranh, có thể do kẻ thù quá thâm độc đã quyết hủy diệt cả chữ viết, cả dấu tích văn tự, cả những biên niên sử sinh động về tổ tiên người Việt để những thế hệ cháu con người Việt phải có lúc hoang mang tự hỏi: ta là ai, ta từ đâu tới, ta sẽ đi về đâu ? Vào mỗi lúc như thế, ta hãy để lòng mình lắng lại, hướng về Đền Hùng, hướng về ngày Quốc giỗ: chúng ta đã có tổ tiên, có quốc gia, có đất nước, có nền độc lập, có văn hiến và văn tự, có văn hóa. Dù chúng ta "đi đâu về đâu" thì ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm vẫn cố kết chúng ta về một nguồn cội, về điểm khởi đầu, về nơi cả dân tộc dấn thân lập nghiệp. Trong mỗi gia đình người Việt, ngày giỗ chạp chính là ngày để cháu con quần tụ, gặp gỡ, bàn bạc, tháo gỡ, và cùng nhau nhìn tới phía trước. Đó là ngày của tương thân tương ái, của hòa giải và hòa hợp, là ngày mà những mâu thuẫn thắc mắc cần được nói ra. Nói ra để cùng nhau giải quyết, trên tinh thần một gia tộc, một gia đình thống nhất. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương cũng có ý nghĩa như thế với cả dân tộc Việt. Thanh Thảo Nguồn Thanh Niên Online
  21. Anh chị em thân mến. Về việc xem Tử Vi tôi cũng không tự cho mình là hay. Anh chị em nào muốn tư vấn về Tử Vi đề nghị đưa vào mục Tử Vi, hy vọng sẽ có các cao thủ ghé ngang giúp đỡ anh chị em. Tôi thực sự bận rộn, nên thời gian mà để nghiền ngẫm một lá Tử Vi rất hạn chế. Anh chị em cũng thông cảm. Thiên Sứ
  22. Thực ra quan điểm Dương lịch hóa Âm lịch không có gì mới. Vấn đề này ngay hồi tôi còn trẻ ở Hanoi cũng nghe nói có người đã đặt ra. Cho đến ngày nay, tính phổ biến của Dương lịch trên toàn thế giới khiến cho người ta cảm giác rằng chỉ có Dương lịch là hợp lý với đời sống và mọi sinh hoạt của con người cũng như sự phát triển của nó. Bởi vậy, khi bên cạnh cái Dương Lịch quá ư hoàng tráng đó lại tồn tại một cái Âm lịch rườm rà, rắc rối khiến cho cuộc sống của các dân tộc Á Đông này thêm phần phức tạp. Đổi quách nó sang Dương lịch cho rồi. Có vẻ như vụ việc thật đơn giản và nói theo cách nói khôi hài hiện nay: "Cũng chẳng chết thằng Tấy nào". Bằng chứng họ đưa ra là người Nhật đã đổi rồi, nước Nhật vẫn phát triển và là một trong những siêu cường của thế giới. Mới nghe thì có vẻ như hợp lý nhưng nếu chúng ta suy xét thật kỹ thì phải giật mình vì tính hồn nhiên đến mức thơ ngây của quan niệm này. Trước khi đi vào phân tích vấn đề được đặt ra, tôi xin lấy một thực tế khá phổ biến hiện nay làm luận đề để phân tích vấn đề này. Hầu hết những người có kiến thức trung bình hiện nay đều sử dụng mày vi tính. Nếu bạn có ý định sắm một cái máy vi tính để làm công việc văn phòng như đánh máy văn bản, dàn trang sách, gửi email ... và trình độ sử dụng vi tính của bạn cũng chỉ đến đó thì có bao giờ bạn dòi hỏi mua một cái máy có công xuất lớn với các chức năng phần mềm hiện đại với giá trị hàng ngàn dola không? Chắc chắn là không. Bởi vì nhưng cái máy đó nằm ngoài khả năng sử dụng của bạn và các chức năng hiện đại đó là thừa với bạn. Tưy nhiên bạn sẽ thấy sự tồn tại của cái máy ấy là không thừa với đời sống xã hội, vì bạn nhận thấy được rằng có những nhu cầu xã hội cần đến nó và có những người tài ba và hiểu biết tất cả những chức năng của cái máy ấy sử dụng được nó. Sở dĩ bạn nhận thấy điều này vì bạn cùng sống chung một không gian và thời gian văn hóa của chiếc máy tính cực kỳ hiện đại và cái máy tính đơn giản phù hợp với công việc của bạn. Tôi đưa hiện tượng này lên vì muốn chứng tỏ với các bạn một luận đề rằng: Khả năng và nhu cầu đến đâu thì chúng ta sử dụng công cụ đến đó. Bây giờ chúng ta quay lại vấn đề lịch pháp. Khi nền văn minh của nhân loại bắt đầu phát triển và chưa có sự giao lưu thì hầu như mỗi nền văn minh đều có một qui ước về lịch pháp cho mình. Có nơi dùng lịch bằng cách tính chu kỳ mặt trăng (Tôi tránh dùng danh từ Âm lịch, Dương lịch để khỏi sa đà vào tranh cãi về danh từ), có nơi dùng lịch mặt trời. Khi nền văn minh phương Tấy phát triển và lan tỏa thì qui ước thời gian theo lịch mặt trời của phương Tây cũng trở thành một qui ước chuẩn mực của toàn thế giới và nó pủ hợp với sinh hoạt xã hội hiện đại. Chúng ta thấy lịch Tây phương hiện nay thuận lợi chính vì wsự phù hợp của nó với cuộc sống hiện tại cảu chúng ta. Nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta thấy rằng: Lịch Tây phuơng đang dùng phổ biến hiện nay chỉ là sự qui ước thời gian chuyền động cơ học thuần túy trong tương quan Trái Đất và mặt trời. Nhưng ngược lại, lịch Đông phương cổ có nguồn gốc từ xa xưa - nếu xét theo nội dung văn bản cổ nhất là cuốn "Hoàng Đế nội kinh tố vấn" thì cách đây hơn 6000 năm lịch Đông phương cổ đã được ứng dụng. Đây là loại lịch xét sự tương tác rất phức tạp của tương quan giữa mặt trời, mặt trăng và các tinh tú chung quanh bầu trời Thái Dương hệ. Về chi tiết thì từng giờ trong loại lịch này cũng được xem xét tính tương tác của nó với môi trường qua Thiên Can, Địa chi và vận khí trong ngày và cả trong giờ. Xét về quy mô vũ trụ thì tính tới chu kỳ 25. 920 năm. Thời Thương cổ với quan niệm của các sử gia hiện đại chỉ là "Thời đại đồ đá với bầy người nguyên thủy, chuyên săn bắt và sống bầy đàn" thì tại sao người ta lại cần đến một loại lịch phức hợp và rắc rối như vậy? Tại sao người ta không quan sát đơn giàn như nền văn minh hiện đại lấy chu kỳ 365 ngày của Trái Đất quay quanh mặt trời như nền văn minh hiện đại? Tất cả mọi sinh hoạt xã hội của người phương Đông đều tuân theo qui ước thời gian của loại lịch này và lưu truyền tới bây giờ. Khi nền văn minh Tấy phương được phổ biến và mọi sinh hoạt đời sống xã hội đều Tấy phương hóa thì sự phức tạp của lịch phương Đông có vẻ như thừa và không cần thiết. Quay trở lại với người mua chiếc máy vi tính thì một cái máy vi tính hiện đại cũng là thừa nếu người đó không sử dụng hết chức năng của máy và cũng không biết sử dụng. Bạn có thể quăng và không cần sử dụng những thiết bị thừa hoặc vì bạn không biết sử dụng mà nó trở thành vật phế thải. Nhưng vì bạn đang sống trong cùng một không thời gian văn hóa, nên bạn biết được sự hiện đại của cái mà bạn không sử dụng nhưng bạn vẫn thừa nhận tính hiện đại của nó. Nhưng giữa lịch phương Đông và lịch phương Tấy hiện nay thì chúng lại xuất hiện ở không thời gian văn hóa khác nhau. Bạn không sống trong không thời gian văn hóa của nền văn minh đã tạo ra loại lịch phương Đông. Nên vì vậy người ta có thể thấy lịch Phương Đông là thừa vì sự phức tạp của nó khi nó phải tính tới sự vẫn động có qui luật của không chỉ mặt trời mà còn là mặt trăng và hầu hết các vì tính tú trong và ngoài Thái Dương hệ. Đây chính lại là một bằng chứng nữa xác định rằng: Đã có một nền văn minh rất cao cấp tồn tại trên Địa cầu này và nó có nhu cầu sử dụng một loại lịch với những tương quan phức hợp như vậy trong vũ trụ tương tác với Địa cầu. Bạn thích đổi tất cả những ngày lễ Tết Âm lịch ra Dương lịch cho nó đơn giản thì tùy. Nhưng đừng làm Âm lịch biến mất khỏi kho tàng tri thức nhân loại. Nếu không, khi nền văn minh nhân loại phát trển đến mức cần một sự quan sát không thời gian phức hợp lại không có mà dùng. Hay phải làm lại từ đầu với dăm cái giải nobel về phát minh sáng chế ra một loại lịch tương tự hoắc kém phẩm chất hơn thì cũng mất công. Thiên Sứ
  23. Bài viết này quá dài. Nên tôi không thể chép nguyên văn và phản biện toàn bộ như thường đã làm với các luận điểm của tác giả khác. Nhưng xem sơ qua thì tác giả này có tầm nhìn không sâu sắc và cách lập luận thiếu chặt chẽ, có xu hướng hiện thực hóa truyền thuyết và cái nhìn tương tự như các nhà nghiên cứu có luận điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử của một số nhà nghiên cứu trong nước. Sự bắt đầu đặt vấn đề của tác giả này đã sai lầm từ xu hướng này , nên kết luận cũng sai - dù nhân danh lòng yêu nước (Tất nhiên). Ngày kia tôi sẽ xin được chứng minh sai lầm của tác giả này. Thiên Sứ
  24. Anh chị em thân mến. Tôi sẽ lần lượt giải đáp tất cả những ai hỏi trước bài này. Nhưng vì thời gian hạn chế, tôi chỉ có thể giải đáp ba người đầu tiên sau giờ Tý. Tôi phải làm một số việc khác cho bản thân và cho diễn đàn nhân ngày khai trương. Bởi vậy xin hẹn sẽ tiếp tục trong những ngày tới. Thiên Sứ
  25. III - Phoenix Chú Thiên Sứ sẽ trả lời 3 người, mỗi người 3 câu và mỗi câu dài không quá 15 chữ. Xem ra nhiều bạn phạm quy rùi. Vậy nên Phoenix cứ đăng câu hỏi. Nếu không phạm quy và đủ điều kiện thì chú Thiên Sứ phải giữ lời giải đáp. Câu 1: Ngày 10/3 AL đã được công nhận chính thức là ngày giỗ Tổ. 1 - 1: Vậy sau này ngày 5/5 AL có được thừa nhận chính thức như ngày 10/3 không? Nếu "có" thì xin hỏi thêm: Đỗ Tiếu Cát: Sau này sẽ được công nhận như là ngày Quốc lễ. Nhưng tốn nhiều giấy mực (Tiểu Cát) mới thành công. Sau vận 8 (Tức hết 2023) sang vận 9 (Từ 2024 đến 2043) việc này sẽ được thừa nhận. 1 - 2: Ai sẽ là người khiến nhà nước thừa nhận ngày này? Nếu "không" thì bỏ qua câu hỏi thêm. Cảnh Vô Vong. Có hai thành phần quyết định chuyện này. Tri thức và chính trị. Không thành phần nào nổi trội để quyết đinh cuối cùng. Khó đoán được cụ thể người quyết định. Câu 2: Trong tương lai, di tích đền Hùng có được công nhận là di sản văn hóa thế giới không? Tử Đại An. Hơi bị khó. Kể cả việc nền văn hóa Đông phương huyền vĩ được thừa nhận về tính khoa học của nó và ứng dụng trong mọi lĩnh vực trong cuộc sống, xã hội và con người. Thời gian tính phải là hàng trăm năm. Câu 3: Đã có nhiều người đi thăm khu di tích đền Hùng (kể cả chú Thiên Sứ). Xin hỏi: Lối đi từ cổng chính lên đến điện Kính Thiên (chỉ tính lối đi chính) có bao nhiêu bậc? Híc! Tôi đến thăm đến Hùng nhiều lần. Nhưng lần nào cúng cắm cổ leo lên đến Thượng, khấn vái rồi về. Nên không để ý Điện Kính Thiên ở đâu. Nhưng với quẻ Kinh Lưu Niên thì thật là ứng với điện Kính Thiên. Cứ theo độ số của quẻ này thì số bậc sẽ nằm một trong hai độ số sau: 1- Xấp xỉ 160 bậc. 2 - Xấp xỉ 490 bậc. Thiên Sứ