-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
TÂM SỰ Bích Hoàng Ai nâng chén rượu dịu cơn sầu Bão táp phong trần cuốn đến đâu Sáo có sang sông không lối thoát Âm thầm đau tiếng hót thương đau. Họa TÂM SỰ Thiên Sứ Một trời lồng lộng đổ cơn sầu. Giữa mênh mang ấy biết về đâu? Chim Việt cành Nam buồn viễn xứ. Ngàn thu lá rụng một niềm đau. Họa thơ Trường Canh Thi Hoàng Ai tưởng đời thơ phải khác thường Tài hoa kiếp lụy lắm tai ương Phụ nhau vì quá thương nhau đó Ta vẫn bên ta suốt dặm trường. Họa Trường Canh Thiên Sứ Phiêu du lỡ bước chốn vô thường. Ngậm ngùi cạn chén với tai ương. Đường trần gió bụi pha màu nhớ. Chiếc lá thu phai nhắc đoạn trường.
-
Gửi Lạc Tướng: Thiên Sứ
-
Công Minh thân mến. Bài viết này có nguồn từ đâu đấy? Rất cảm ơn. Xin cho biết nguồn trích dẫn. Thiên Sứ
-
KIỂM CHỨNG LỜI TIÊN TRI HOA KỲ 2008 Osama bin Laden sẽ "quậy" bầu cử Mỹ? Chủ nhật, 6/4/2008, 16:39 GMT+7 Nhà báo Steve Coll, tác giả một cuốn sách mới xuất bản nói về gia đình Bin Laden, cho biết Osama bin Laden đang âm mưu một chuyện gì đó trong ngày bầu cử Mỹ. Nguy cơ tấn công khủng bố ngay trên đất Mỹ mà Al-Qaeda từng đe dọa là có thật. Nguyên là một cây bút điều tra gạo cội trong làng báo Mỹ, từng đoạt giải Pulitzer danh giá năm 2004 trước khi trở thành chủ bút nhật báo The Washington Post, Steve Coll hiện nay là ủy viên ban biên tập tuần báo New Yorker. Vừa qua, ông đã cho ra mắt quyển Những người mang họ bin Laden: Một gia đình Ả Rập trong thế kỷ Mỹ, tiết lộ nhiều chi tiết mới và lý thú về đại gia đình bin Laden, mối quan hệ giữa Osama bin Laden và những người trong dòng họ. Nhân dịp này, Steve Coll đã đưa ra một số nhận định riêng về ông trùm tổ chức khủng bố quốc tế Al-Qaeda trong một bài phỏng vấn của tuần báo Đức Der Spiegel. Osama chưa chết Có một điều gần như chắc chắn là Osama bin Laden vẫn còn sống. Việc y đưa ra những lời bình luận về những sự kiện quốc tế quan trọng gần đây chứng minh cho điều đó. Sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng, gần đây Osama liên tục xuất hiện trong các cuộn băng video phát tán trên các website Ả Rập giở giọng đe dọa Mỹ và các nước châu Âu. Thậm chí, y còn kêu gọi giải phóng Gaza. Liệu những lời đe dọa đó có được coi trọng hay không? Theo nhận định của ông Coll, những lời bình luận của Osama bin Laden về châu Âu chủ yếu nhằm gây sự chú ý của báo giới sau khi tranh biếm họa giáo chủ đạo Hồi tái xuất hiện, nhưng cũng có thể là y đã nghe phong thanh một âm mưu gì đó sắp diễn ra tại châu Âu. Riêng chuyện y đề cập tới Gaza chứng tỏ y muốn đóng một vai trò trong những sự kiện đang diễn ra. Đơn giản là y muốn thiên hạ biết rằng mình vẫn còn sống và đang song hành với sự phát triển của thế giới Hồi giáo. Trùm khủng bố Osama bin Laden. (Ảnh: AP) Barack Obama, ứng viên tổng thống Mỹ của Đảng Dân chủ, gần đây chỉ trích chính quyền ông Bush không nỗ lực hết mình truy nã bin Laden. Điều này rất nguy hiểm. Steve Coll xác nhận lời chỉ trích của thượng nghị sĩ Obama là có cơ sở. Vào tháng 12-2001, bin Laden đã ở trong thế tuyệt vọng khi không quân Mỹ rải bom tấn xuống khu vực tình nghi là nơi trú ẩn của Osama bin Laden và bộ sậu ở dãy núi Tora Bora gần biên giới Pakistan. Có tin y thoát chết trong gang tấc nhờ sự giúp đỡ của chính quân lính Afghanistan theo chân lính Mỹ truy kích bin Laden và đồng bọn trong núi. Tuy nhiên, theo Coll, rất khó nói nguồn tin này là thật hay giả. Chỉ biết rằng quân đội Mỹ đã không đưa sư đoàn sơn cước số 10 rất thiện chiến ở vùng núi, lúc đó đang đóng quân ở Uzbekistan, đến Tora Bora để kết liễu cuộc đời Osama bin Laden. Theo Coll, đó là một quyết định tồi. Steve Coll có nhắc tới sự kiện cách đây bốn năm trước ngày bầu cử tổng thống Mỹ, Osama từng gửi thông điệp đến các ứng viên tổng thống. Sau đó, ứng viên Đảng Dân chủ là John Kerry đổ thừa đó là một trong những lý do trọng yếu khiến ông thất cử. Coll tin rằng lần này Osama bin Laden muốn tạo một dấu ấn cá nhân mới trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2008 và y đang âm mưu một chuyện gì đó. Đang trốn ở đâu? Steve Coll quả quyết rằng Osama bin Laden đang sống trên lãnh thổ Pakistan. Ông còn nói rõ đó là khu vực rừng núi phía Bắc tỉnh Waziristan, gần thành phố Miram Shah. Osama thông thuộc địa hình tại đây như trong lòng bàn tay. Khu vực này nằm dưới sự kiểm soát của bộ tộc Haqqani. Osama sống ở đây như cá trong nước, có quan hệ rất chặt chẽ với các thủ lĩnh bộ tộc này. Vấn đề là quân đội Pakistan không dám vào khu vực này để truy bắt Osama. Steve Coll cho rằng Osama thường xuyên di chuyển khắp vùng. Y được bạn bè bảo bọc và cho tới nay chưa có ai dám phản bội chỉ nơi trú ẩn của y cho quân đội Mỹ hay Chính phủ Pakistan. Osama nắm bắt được kỹ thuật thông tin liên lạc hiện đại như truyền hình qua vệ tinh, nhưng tuyệt đối không dùng điện thoại vệ tinh vì sợ CIA mò ra dấu vết và ám sát bằng tên lửa gắn đầu đạn thông minh. Khu vực Miram Shah không giống như các khu vực nông thôn khác của Pakistan. Nó phát triển hơn những người phương Tây tưởng rất nhiều. Cách đây vài hôm, Ayman al-Zawahiri, cánh tay mặt của Osama trong tổ chức Al-Qaeda, lại xuất hiện trong một cuộn băng ghi âm dài 90 phút phát tán trên Internet gọi Liên Hiệp Quốc là “kẻ thù của Hồi giáo” vì đã hợp thức hóa Nhà nước Israel và những vùng đất mà Israel đã ăn cướp của tín đồ Hồi giáo. Ayman còn tiên đoán ảnh hưởng của Thánh chiến “sẽ lan tới Jerusalem”. Theo Steve Coll, Osama và Ayman không ở chung với nhau vì hai lẽ: đề phòng bất trắc, chết một còn một và hợp lý về mặt chiến thuật. Tuy nhiên, cách đây 2 - 3 năm, cả hai vẫn tự tin họp chung trong các cuộc họp của Shura, tức hội đồng cố vấn của ban lãnh đạo Al-Qaeda. Coll thú nhận ông không rõ Osama có trực tiếp chỉ huy những cuộc tấn công của Al-Qaeda hay không, nhưng ông tin chắc rằng y biết hết mọi hoạt động khủng bố của Al-Qaeda. Con chiên ghẻ Osama bin Laden là con trai thứ 17 trong số 54 người con của ông Mohamed bin Laden. Ông này khởi nghiệp với nghề thợ hồ làm công cho một công ty dầu lửa Mỹ hồi thập niên 1930 và mau chóng trở thành tỉ phú trong ngành xây dựng ở Ả Rập Saudi. Mẹ của Osama, người Syria, là một trong 22 bà vợ của Mohamed. Lấy ông Mohamed lúc mới có 15 tuổi, bà bị ly dị sau đó vài năm. Năm lên 10, Osama mồ côi cha sau khi ông Mohamed chết trong một tai nạn máy bay. Cũng giống như 26 người anh và em trai khác, Osama được chia 2,3% cổ phiếu của công ty gia đình. 29 chị, em của y mỗi người chỉ được chia 1%. Với số tiền đó cộng với lãi hằng năm, Osama chẳng mấy chốc trở thành triệu phú. Tuy nhiên, theo ông Steve Coll, tài sản của Osama không đến 300 triệu USD như những lời đồn thổi. Trái với người anh lớn hơn ít nhất 10 tuổi là Salem bin Laden - người thừa kế chức chủ tịch tập đoàn bin Laden, tiếp thu văn hóa phương Tây, mê nhạc Mỹ và phụ nữ phương Tây – Osama là người ngoan đạo nhất trong gia đình. Thỉnh thoảng y cũng xem phim bộ truyền hình Mỹ như Bonanza và Fury, mặc áo dài đá banh. Y chịu ảnh hưởng rất nặng của một thầy giáo rao giảng tư tưởng cực đoan của tổ chức Anh em Hồi giáo. Với những sự kiện trọng đại của năm 1979 như Đại thánh đường Hồi giáo ở Mecca bị những người Hồi giáo cực đoan tấn công, cuộc cách mạng Hồi giáo ở Iran, sự hiện diện của Liên Xô ở Afghanistan, Osama càng trở nên quá khích. Y đến thành phố Peshawar của Pakistan, tài trợ cho quân Mujaheddin chống lại Hồng quân Liên Xô ở Afghanistan. Thậm chí y còn lập đội quân riêng ở Afghanistan, tiền thân của tổ chức Al-Qaeda mà y thành lập hồi năm 1986. Osama rời bỏ gia đình và Ả Rập Saudi, mang 4 vợ và các con sang Sudan ở khi chiến tranh vùng Vịnh bùng nổ. Osama chống lại việc chính quyền Ả Rập Saudi cho quân đội Mỹ lập căn cứ trên đất mình do công ty gia đình của y xây dựng. Các anh em của Osama, sau khi nhiều lần đến Sudan thuyết phục người em cứng đầu từ bỏ Thánh chiến chống lại hoàng gia Ả Rập Saudi nhưng không được, bèn quyết định khai trừ Osama ra khỏi tập đoàn. Và sau sự kiện Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York bị đánh sập tháng 9-2001, Osama và Al-Qaeda bị nghi ngờ là thủ phạm, thì gia đình bin Laden công khai từ bỏ Osama. Con chiên ghẻ cuối cùng đã bị tách ra khỏi đàn. Theo Trọng Nghĩa
-
Chuyện đời bất ngờ của Vua Karl XIV Johan Thứ ba, 29/4/2008, 13:23 GMT+7 Có một chi tiết không nhiều người biết rằng, ngay khi còn là một sĩ quan trẻ chưa mấy ai để ý tới, Vua Karl XIV Johan đã được một bà thầy bói ở Paris tiên đoán về ngai vàng tương lai của ông... Vua Karl XIV Johan (26/1/1763-8/3/1844), tên thật là Jean - Baptiste Bernadotte, vốn là một nguyên soái trong quân đội Pháp dưới thời vua Napoleon I nhưng nhờ những run rủi bất ngờ của số phận đã trở thành biểu tượng lâu bền của Thụy Điển... Vương triều mà ông lập ra cho tới hôm nay vẫn tiếp tục trị vì ở quốc gia Scadinavia này. Một ngày tháng 3 năm 1794. Bầu trời Paris bỗng nhiên hửng nắng sau những cơn mưa kéo dài lê thê. Khi bóng chiều buông xuống, "kinh đô ánh sáng" như cố trở nên thơ mộng hơn để quên đi những biến cố đẫm máu đã khiến vua Louis XVI phải lên giá treo cổ cách đó mới chỉ một năm. Có ba chàng sĩ quan Pháp cưỡi ngựa nhong nhong đi tìm kiếm thú vui sau một ngày phải giam mình trong doanh trại. Hai người trong số này rất trẻ, người thứ ba, da ngăm ngăm, tóc đen, mắt đen, có vẻ lớn tuổi hơn một chút. Chính anh đã quyết định cho hai "cậu em" tối hôm đó biết thế nào là hương vị Paris về đêm. Ba người đã dạo cả chục tửu quán, tới đâu cũng chén chú chén anh túy lúy đến mụ cả người. Và họ cũng không hiểu vì sao lại có mặt trên phố Rue de Turnon. Nhìn thấy tấm bảng hiệu "Cô Lenormand, buôn sách", cả ba kỵ sĩ cười vang. Họ đã nghe được không ít chuyện về cô Marie-Anne Adelaide Lenormand và biết rõ rằng cô này không có buôn bán sách vở gì cả. Đằng sau tấm biển trên là nơi mà cả Paris thường đến để hỏi về tương lai của mình. Thiên hạ xì xầm rằng, Lenormand xuất hiện ở đây từ bốn năm trước. Khi đó, cô nàng mới 18 tuổi nhưng trông đã cứng cỏi lắm rồi. Điều này cũng không có gì lạ vì cô nàng bẩm sinh mắc dị tật và nhan sắc khiêm tốn đến mức người nhà đặt cho biệt danh là "thùng phi di động". Tuy nhiên, Lenormand có trí thông minh tuyệt vời và rất khéo lo toan đời sống. Khi người cha qua đời, Lenormand đã đưa cả gia đình từ tỉnh lẻ lên Paris kiếm kế sinh nhai bằng nghề xem bói và có mức thu nhập rất không tồi. Một sĩ quan trẻ lên tiếng: - Chúng ta vào thử nhé? Chàng sĩ quan trẻ thứ hai gật đầu, còn người kỵ sĩ lớn tuổi hơn, Jean-Baptiste Bernadotte, thì làu bàu: - Thôi, các cậu ơi, tin làm gì trò nhảm nhí! Khác hai đàn em đã "tây tây" lắm rồi, Bernadotte vẫn còn tương đối tỉnh táo. Anh không thích vào xem bói chút nào. Hơn nữa, anh trước đó từng chế nhạo Lenormand khi nghe cô ta nói với cậu bạn sĩ quan quen thuộc của anh là Napoléon Bonaparte rằng anh ấy sẽ làm hoàng đế! Mặc dầu anh bạn quê đảo Corse rất hoạt bát trên hoạn lộ, mới 5 năm trước chỉ là trung úy pháo binh hoàng gia nhưng giờ đã là một ông tướng nhưng tiên đoán anh ấy lên làm hoàng đế thì quả là quá giàu trí tưởng bở! Vì thế nên Bernadotte định giục hai anh bạn trẻ đi chỗ khác chứ không nên vào xem bói. Thế nhưng, đúng lúc ấy, cửa ngôi nhà có biển đề "Cô Lenormand, buôn sách" mở tung ra và đích thân cô Lenormand xuất hiện: - Xin mời các ngài sĩ quan vào chơi! Rồi Bernadotte quên đi câu chuyện liên quan tới cô Lenormand. Đời lính chiến triền miên trong các cuộc chiến tranh đã buộc ông phải nghĩ về nhiều chuyện khác. Bernadotte đánh đâu thắng đó và nhanh chóng được mang gù vai tướng như mơ ước. Tướng Bernadotte đặc biệt xuất sắc trong các trận đối địch với quân Áo ở Italia. Chính tại Italia, Bernadotte đã thêm cho mình một cái tên nữa là Jules, để tưởng nhớ tới danh tướng La Mã cổ đại Jules César… Tháng 8/1798, Bernadotte lập gia đình và một năm sau, sinh đứa con trai đầu. Thời ấy, cả châu Âu mê thích những huyền thoại về người Viking và đua nhau du nhập những cái tên truyền thống của người Scadinavia. Bernadotte trong không khí đó cũng đặt cho con trai cái tên rất phổ biến của các cậu bé Scadinavia là Oscar mà không hề nghĩ rằng, việc này về sau đã có vai trò quan trọng trong cơ nghiệp vương bá của ông. Ngày 19/5/1804, Bernadotte được phong nguyên soái. Và chỉ khi ấy, ông mới chợt nhớ tới lời tiên đoán của cô Lenormand; "Hóa ra cô ấy lừa ta, ta không được làm vua mà chỉ là nguyên soái thôi!". Trong khi đó, hai người bạn trẻ của ông đã được hưởng điều mà cô Lenormand từng tiên đoán: một người trở thành tướng, người kia trở thành nguyên soái! Trên cương vị nguyên soái, Bernadotte lại ra chiến trường. Và lại lập chiến tích lừng lẫy. Năm 1806, Nguyên soái Bernadotte đã đánh tan lực lượng của tướng Phổ Blucher, bắt vô số tù binh địch, trong đó có cả tốp lính Thụy Điển do Đại tá Merner chỉ huy. Riêng đối với các tù binh người Thụy Điển, Nguyên soái Bernadotte biệt đãi, cho ăn uống đầy đủ rồi thả về quê hương. Trở về nước, những tù binh Thụy Điển không tiếc lời ca ngợi "hiệp sĩ Bernadotte" vừa dũng cảm, vừa nhân hậu. Và Nguyên soái Bernadotte trở thành nhân vật được sùng tín nhất ở quốc gia Scadinavia này. Năm 1810, ông vua trị vì Thụy Điển lúc đó là Karl XIII, không con cái, đã gần đất xa trời. Một Hội đồng vương quốc được triệu tập và để duy trì chế độ quân chủ, đã đề nghị vua Karl III làm một việc tưởng như không thể là sự thật: nhận vị nguyên soái Pháp rất được dân chúng Thụy Điển yêu quý làm con nuôi rồi truyền ngôi lại cho. Suy nghĩ một lát, vua Karl đồng ý: Nguyên soái Bernadotte còn trẻ, dũng cảm, chính trực, lại rất tôn trọng đời sống gia đình. Và thật lạ, con trai của vị nguyên soái Pháp cũng mang cái tên Oscar thân thuộc và thiêng liêng đối với người Scadinavia, đó há chẳng phải là một điềm lành ư! Thêm vào đó, nếu Bernadotte trở thành vua Thụy Điển, đất nước này sẽ được bảo vệ tốt hơn trong điều kiện liên miên chiến sự ở châu Âu khi đó. Khi nhận được lời đề nghị bất ngờ từ vua Karl III, Nguyên soái Bernadotte cực kỳ kinh ngạc. Sao số phận lại xoay vòng oái oăm một cách kỳ diệu đến thế! Hóa ra là lời tiên đoán của cô Lenormand rốt cục cũng trở thành sự thật... Ngày 5/8/1810, Bernadotte được vua Thụy Điển Karl III chính thức nhận làm con nuôi và trở thành thái tử phụ chính. Ngay từ khi vua Karl III chưa băng hà và chưa chính thức lên ngôi, Bernadotte đã rất tích cực tham gia vào chính sách đối ngoại của Thụy Điển và tích cực bảo vệ quyền lợi của tổ quốc mới. Thậm chí ông còn tham gia liên minh chống Napoléon I trong chiến dịch 1813-1814. Khi hay tin này, Napoléon chỉ nói: Không phải ông ấy phản bội mà đơn giản ông ấy đã trở thành một người Thụy Điển. Sau chiến dịch ấy, Thụy Điển không tham gia thêm vào một cuộc chiến tranh nào khác nữa và tài năng quân sự của Bernadotte đã không còn đất dụng võ nữa. Thế nhưng, những kiến thức ngoại giao và đời sống châu Âu đã giúp ích cho ông khi ở trên ngai vàng không kém gì tài năng quân sự. Trở thành vua Karl XIV Johan, Bernadotte không quên lời hứa năm xưa với cô Lenormand. Ông bảo vợ gửi cho cô Lenormand một số tiền khá lớn so với thời ấy: 10 nghìn quan. Vua Karl XIV Johan đã trị vì Thụy Điển 26 năm liền. Ông băng hà ngày 8/3/1844, thọ 81 tuổi. Khi làm những thủ tục cuối cùng với thi hài của nhà vua, người ta mới thấy rõ dòng chữ "Vua chúa phải chết!" xăm trên tay ông, đã mờ đi gần nửa (có lẽ khi còn sống, ông đã không chỉ một lần muốn xóa dòng chữ này đi nhưng không được). Cho đến hôm nay, vương triều mà ông lập ra vẫn tiếp tục trị vì ở Thụy Điển. Theo Hoàng Phương
-
Ngày mai là mùng 1 - 5 rùi. Hôm kia VTV cho biết luồng khí lạnh đã tan ngay ở cực Bắc Việt Nam. Như vậy thì việc mưa khắp nước Việt là không có. Một lần nữa Lạc Việt độn toán lại chứng tỏ tính ưu việt . Anh chị em đều dự báo chính xác. Xin chuc mừng. Thiên Sứ
-
KIỂM CHỨNG LỜI TIÊN TRI HOA KỲ 2008 AFGHANISTAN Cuộc chiến với Iran nếu xảy ra sẽ là một điều rất bất đắc dĩ và khó xảy ra trong năm 2008. Tuy nhiên, những khả năng chiến tranh vẫn rất căng thẳng. Cả hai bên đều có những lời lẽ hùng hồn và mạnh mẽ cho mối quan hệ hai nước làm ảnh hưởng đến những người yếu tim. Tuy nhiên trong năm 2008 mọi việc vẫn chưa quá giới hạn. * Tình hình ở Iraq ngăn cản Mỹ tấn công Iran20:09' 27/04/2008 (GMT+7) Iran hôm nay tuyên bố, những bất hạnh mà Mỹ phải đương đầu tại Iraq và Afghanistan cộng thêm các vấn đề trong nước cho thấy khả năng Washington tấn công nước này là khó xảy ra. Ông Hosseini (Reuters) Bộ Ngoại giao Iran bình luận như vậy hai ngày sau khi hải quân Mỹ cho biết, một chiếc tàu chở hàng do quân đội Mỹ thuê đã bắn cảnh cáo vào một số tàu thuyền dự định áp sát nó tại vùng Vịnh. Sự kiện này nhấn mạnh tình trạng căng thẳng tại khu vực quan trọng với vận chuyển dầu của thế giới, đẩy giá dầu thô lên cao. "Chúng tôi cho rằng khó có khả năng người Mỹ sẽ đưa ra một quyết định mà đẩy họ vào một thất bại mới, hậu quả mà họ nhận biết được rằng nó sẽ rất đau đớn đối với khu vực và thế giới" phát ngôn viên Mohammad Ali Hosseini cho biết. Ông Hosseini cũng bác bỏ khả năng về bất cứ cuộc tấn công nào Mỹ nhằm vào Iran do người Mỹ hiện đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề, từ tình hình tồi tệ ở Iraq và Afghanistan tới chính các vấn đề trong nước. Quan chức này không chỉ rõ những vấn đề rắc rối trong nước của Mỹ mà cho biết chính quyền Bush đang đối mặt với tỷ lệ tín nhiệm sụt giảm, kinh tế suy sụp trong năm cuối nắm quyền của ông Bush. Quan hệ giữa Washington và Tehran đã trở nên căng thẳng quanh chương trình hạt nhân của Iran và về đối tượng gây ra bạo lực tại Iraq. Mỹ và Iran không có quan hệ ngoại giao từ gần ba thập niên qua. Những lời lẽ thù địch giữa hai nước cũng như những cuộc chạm trán tại vùng Vịnh đã làm dấy lên phán đoán rằng Mỹ có thể đang lên kế hoạch tấn công quân sự Iran. Tuy nhiên, một báo cáo tình báo của Mỹ công bố hồi tháng 10/2007 cho biết, Iran đã ngừng chương trình sản xuất vũ khí hạt nhân vào 2003. Do đó, khả năng Mỹ tấn công Iran là khó có thể xảy ra, các nhà phân tích nhận định. Trong khi đó, Tehran khẳng định rằng nước này chưa từng có tham vọng chế tạo vũ khí hạt nhân. Tuần trước, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates nói, một cuộc chiến khác tại Trung Đông sẽ là rất thảm khốc. Tuy nhiên, quan chức này cho biết thêm, lựa chọn quân sự vẫn được đặt trên bàn do chính sách gây bất ổn của chính quyền Iran và những hiểm hoạ trong tương lai xuất phát từ mối đe doạ hạt nhân của nước này - cho dù là trực tiếp hay thông qua phổ biến cho nước khác. Hoài Linh (Theo Reuters) Nhận xét của Thiên Sứ Hoa Kỳ sẽ chưa đánh Iran không phải vì tình hình ở Afghanixtan va Iraq như ngài Hosseini đã tuyên bố. Hic! Thiên Sứ
-
Đức Phật nói: Chỉ một con cá quẫy đuôi đủ động tới tam thiên Đại thiên thế giới. Khoa học hiện đại cũng xác nhận rằng: Vạn vật đều có tương tác và đây cũng là nguyên lý căn để của Phong Thủy Lạc Việt. Bài viết dưới đây trên Tuổi Trẻ Online cho ta thấy một lý thuyếtvv khoa học mới có những nét gần giống quan niệm của Lý học Đông phương cổ. Thứ Sáu, 18/04/2008, 19:28 (GMT+7) Cha đẻ thuyết hỗn mang hiện đại qua đời Học viện công nghệ Massachusetts (MIT - Mỹ) ngày 17-4 thông báo nhà khí tượng học, cha đẻ học thuyết hỗn mang hiện đại, Edward Lorenz, đã qua đời ngày 16-4 vì bệnh ung thư, hưởng thọ 90 tuổi. Trên cương vị giáo sư tại MIT, Giáo sư Lorenz là người đầu tiên phát hiện ra hoạt động hỗn loạn trong mô hình toán học của các hệ thống thời tiết, trong đó những chênh lệch nhỏ trong một hệ động năng, như thời tiết, "có thể dẫn tới những hậu quả to lớn và thường không thể lường trước được". Nghiên cứu này đã giúp ông phát triển thành học thuyết "hiệu ứng cánh bướm", ý tưởng cho rằng nếu một biến số đầu vào cực nhỏ thay đổi, chỉ như cú đập cánh của một loài côn trùng, có thế dẫn tới những hậu quả to lớn. Thuật ngữ trên được lấy từ tiêu đề bài thuyết trình năm 1972 của ông: "Khả năng dự báo: Liệu cú đập cánh của một con bướm ở Brazil có gây nên một cơn bão ở Texas?". Trong thông báo, MIT ca ngợi những nghiên cứu ban đầu của Lorenz "đã đánh dấu bước khởi đầu của một lĩnh vực nghiên cứu mới có tác động không chỉ ở riêng lĩnh vực toán học mà còn tới mọi lĩnh vực khác của khoa học, như sinh học, vật lý học và xã hội học". Tuyên bố cũng cho rằng ngày nay nhiều nhà khoa học đã khẳng định thế kỷ 20 sẽ được nhớ tới bởi 3 cuộc cách mạng khoa học: thuyết tương đối, thuyết cơ học lượng tử, và thuyết hỗn mang. Năm 1991, một ủy ban đã trao tặng Lorenz giải thưởng Kyoto về các môn khoa học cơ bản với khẳng định học thuyết gây chấn động của ông là kết quả của "một trong những thay đổi sâu sắc nhất trong quan điểm về tự nhiên của loài người kể từ định luật vạn vật hấp dẫn của Issac Newton". TTXVN Thiên Sứ giới thiệu
-
Từ lò hạt nhân tự nhiên đến vũ trụ song hành! 03:12' 22/04/2008 (GMT+7) - Năm 1974, người ta phát hiện hiện tượng lạ: Thành phần đồng vị U235 trong Uranium thiên nhiên tại mỏ Oklo, Gabon nhỏ hơn rất nhiều so với bình thường. Có thể giải thích hiện tượng lạ này khi cho rằng, hằng số có thể thay đổi theo thời gian... Các vũ trụ có các hằng số vật lý không giống vũ trụ của chúng ta thì cho đến nay chúng ta chẳng có cách nào để nhận biết chúng bởi tính không liên thông và, biết đâu chẳng có những vũ trụ đang trộn lẫn (mixing) song hành với chúng ta mà ta không nhận biết được do tính không liên thông vì các hằng số vật lý như ta vừa nhắc. GS-TS Nguyễn Mộng Giao (áo sọc) và TS Tạ Anh Tuấn, Viện Vật lý TP.HCM tại trung tâm khảo cứu quốc gia về gia tốc Fermilab, Mỹ (Ảnh: M.G) Hiện tượng Oklo: Lò phản ứng hạt nhân do tự nhiên tạo ra... Năm 1974, các nhà khoa học Pháp phát hiện ra rằng thành phần đồng vị Uranium 235 trong Urani thiên nhiên tại mỏ Oklo xứ Gabon (Tây châu Phi) nhỏ hơn rất nhiều so với bình thường. Điều này vi phạm qui luật đồng vị, một qui luật đã được kiểm nghiệm và luôn đúng cho bất kỳ nguyên tố nào trong tự nhiên. Ông Nguyễn Mộng Giao tốt nghiệp xuất sắc ĐH Leningrad (Nga) ngành Vật lý, bảo vệ luận án tiến sỹ tại Viện Nghiên cứu hạt nhân nguyên tử Dubna (Liên Xô). Sau đó, ông đã được mời đến làm việc tại nhiều trung tâm khoa học nổi tiếng thế giới như Trung tâm nguyên tử châu Âu (CERN đặt ở Geneve, Thuỵ Sỹ), Viện Khảo cứu quốc gia về gia tốc của Nhật (KEK, đặt ở Tshukuba), Phòng thí nghiệm quốc gia về gia tốc của Mỹ (FERMILAB, đặt ở gần Chicago), Trung tâm Khảo cứu quốc gia về gia tốc của Đức (DESY, đặt ở Hamburg), Trung tâm Vật lý lý thuyết quốc tế (ICTP, đặt ở Trieste, Ý). Hiện nay ông là Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Vật lý TP.HCM, thành viên liên kết cấp cao của Trung tâm vật lý lý thuyết quốc tế (ICTP đặt ở Trieste, Ý). Việc vi phạm qui luật đồng vị ở mỏ Urani xứ Gabon về sau được gọi là hiện tượng Oklo. Sau đó ít lâu, để giải thích hiện tượng Oklo, người ta đã đưa ra một giả thuyết cho rằng thiên nhiên đã “tự tạo ra” một lò phản ứng hạt nhân từ cách đây nhiều tỷ năm và lò phản ứng có sẵn trong tự nhiên này đã hoạt động không ngừng trong vài triệu năm. Rất nhiều các đo đạc về sau đã cho thấy giả thuyết về việc thiên nhiên đã tự vận động tạo ra lò phản ứng hạt nhân là đúng. Đây là điều vừa kỳ lạ vừa rất lý thú về mặt khoa học. Kỳ lạ vì mãi đến năm 1941, con người mới lần đầu tiên xây dựng thành công lò phản ứng hạt nhân và đến tận ngày nay không phải quốc gia nào cũng có thể làm ra được thiết bị hạt nhân tinh vi này. Ấy thế mà thiên nhiên, chính thiên nhiên đã làm ra nó cách đây nhiều tỷ năm về trước! Hiện tượng Oklo vì thế đã trở thành đề tài hấp dẫn cho hàng loạt các nghiên cứu, nhất là khi giả thuyết về thiên nhiên tạo ra lò phản ứng hạt nhân Oklo mà ta vừa nói ở trên lại không thể giải thích được sự thiếu vắng các mảnh vỡ rác thải phóng xạ đã sinh ra khi lò hoạt động. Một số người còn đưa ra giả thuyết cho rằng không phải sự vận hành của thiên nhiên đã tạo ra lò phản ứng hạt nhân Oklo kể trên mà có lẽ những người từ các nền văn minh khác đã tạo ra nó để có năng lượng dùng khi du hành đến Trái đất của chúng ta. Vì công nghệ của họ rất cao nên chẳng cần bao che, chẳng cần xây cất. Họ lấy ngay đất sét làm vỏ bọc, cát và nước làm chất làm chậm, nước mưa trong tự nhiên vừa làm chất tải nhiệt vừa làm chất làm chậm neutron, vừa làm vật liệu điều khiển lò… Và hơn thế nữa, do công nghệ quá cao, tính toán quá chính xác và hợp lý, lò phản ứng Oklo chẳng để lại dấu vết của các rác thải phóng xạ mà một lò thông thường phải có. Khi hằng số... thay đổi theo thời gian?! Trong thiên nhiên có những đại lượng không đổi như vận tốc ánh sáng ©, hằng số hấp dẫn G, khối lượng electron (m¬¬e), hằng số đẹp Alpha... Cho đến nay các nhà khoa học cho rằng các đại lượng này là không đổi trong phạm vi toàn vũ trụ, ví dụ hằng số đẹp Alpha (Fine constant) có giá trị là 1/137 trên Trái đất thì cũng có giá trị như vậy ở khắp các miền khác trong vũ trụ. Các lý thuyết vật lý được xây dựng trên những hằng số vừa nói và tính chất của vũ trụ cũng được giải thích trên cơ sở những hằng số vừa nhắc ở trên. Hằng số đẹp hay còn gọi là hằng số Sommerfeld do ông Arnold Johannes Wilhelm Sommerfeld tìm ra và ứng dụng trong cơ học lượng tử, thường được biểu thị bằng ký hiệu alpha trong các công thức vật lý. Đây là một hằng số cơ bản dùng để mô tả cường độ tương tác của các điện từ với nhau. Hay nói rõ hơn là, cường độ điện từ để giữ các hạt nguyên tử lại với nhau. Hằng số đẹp là một đại lượng vô hướng, vì vậy giá trị số của nó phụ thuộc vào môi trường và hệ thống khi ứng dụng. Giá trị của nó khoảng chừng 1/137. Năm 1976, Alxander Shlyakher, nhà Vật lý Nga đang làm việc tại Viện Khoa học hạt nhân ST Peterburg đã giải thích hiện tượng Oklo bằng cách khác. Ông cho rằng nhiều tỷ năm về trước hằng số đẹp Alpha khác bây giờ chút ít (không bằng 1/137 như bây giờ), vì thế, tỷ lệ đồng vị cũng khác. Mỏ Oklo đã được tạo ra ở thời kỳ mà hằng số đẹp Alpha nhỏ hơn hiện nay. Do đó, tỷ lệ Urani 235 nhỏ hơn bây giờ. Với giả thuyết này, hiện tượng Oklo được giải thích một cách đơn giản và chính xác. Nhưng lại làm nảy sinh một câu hỏi lớn là : Các hằng số vật lý của chính vũ trụ chúng ta có thay đổi theo thời gian không? Khi mới hình thành vũ trụ giá trị của các hằng số có bằng bây giờ hay không? Và điều mà các nhà vật lý vẫn xem là mặc nhiên đúng xưa nay: Các hằng số vật lý đều giống nhau trong phạm vi toàn vũ trụ, không đổi trong suốt thời gian tồn tại của vũ trụ có là đúng nữa không? Nếu thật sự các hằng số vật lý đã thay đổi theo thời gian thì chúng ta có thể giải thích được nhiều hiện tượng vẫn làm đau đầu các nhà vật lý xưa nay ví dụ như là sự dịch chuyển về phía đỏ, sự hình thành các lỗ đen và đặc biệt là có thể dễ dàng trả lời câu hỏi khó nhất của khoa học hiện đại về vật chất đen như: Vật chất đen là gì? Vì sao chúng ta chỉ cảm nhận được sự tồn tại của vật chất đen và năng lượng đen mà chưa đo được chúng một cách chính xác? Quasar còn gọi là chuẩn tinh thể được phát hiện năm 1960. Ngày 5/8/1962, M.Schmith đã xác định được sự tồn tại của quasar khi nghiên cứu thiên thể 3C 273. Quasar là các thiên thể có đường kính dưới 1 năm ánh sáng nhưng lại là nguồn phát bức xạ mạnh nhất vũ trụ. Độ dịch chuyển về đỏ của phổ các quasar cho thấy chúng ở rất xa chúng ta và đang dịch chuyển ra xa với vận tốc rất lớn. Hiện nay đã phát hiện được hơn 3.000 quasar, tất cả chúng đều có độ bức xạ rất cao và đang dịch chuyển ra xa chúng ta với vận tốc rất lớn (kỉ lục là quasar PC 1247 + 3460 đang dịch chuyển ra xa với vận tốc khoảng 94% tốc độ ánh sáng). (Theo website Thiên văn Việt Nam) Dịch chuyển về phía đỏ là hiện tượng các vạch phổ thu được từ các Quasar lớn hơn các vạch phổ tương ứng trên Trái đất. Hiện tượng này được coi là bằng chứng của sự dãn nở của vũ trụ. Vũ trụ đang dãn nở là một vấn đề đã gây tranh cãi và phiền toái cho cả các nhà vật lý và triết học trong suốt mấy chục năm qua. Nhưng dịch chuyển về phía đỏ - bằng cớ của sự dãn nở vũ trụ hoàn toàn có thể giải thích một cách đơn giản nếu cho rằng hằng số Alpha vài tỷ năm về trước nhỏ hơn bây giờ. Khi ấy phổ của nguyên tử phát ra sẽ có bước sóng dài hơn phổ tương ứng hiện tại. Chúng ta đo các phổ này phát ra từ các Quasars trên Trái đất nghĩa là đo các phổ nguyên tử đã phát ra cách đây nhiều tỷ năm. Do đó chúng ta ghi nhận được các phổ có bước sóng dài hơn. Như vậy dịch chuyển về phía đỏ có thể không phải là bằng chứng về sự dãn nở của vũ trụ mà là bằng chứng về sự thay đổi của hằng số Alpha. Điều rất lý thú là chính Einstein đã xây dựng lý thuyết hấp dẫn trên cơ sở một vũ trụ tĩnh, khi phát hiện sự dịch chuyển về phía đỏ ông mới phải thêm vào phương trình của mình một số hạng để khử sự dãn nở vũ trụ. Về sau, chính Einstein lại cho rằng đó là sai lầm lớn nhất của ông… Thiết bị tạo nguồn cho máy gia tốc Tevatron ở Trung tâm Khảo cứu quốc gia về gia tốc Fermilab, Mỹ (Ảnh: M.G) Các vũ trụ có các hằng số vật lý không giống vũ trụ của chúng ta thì cho đến nay chúng ta chẳng có cách nào để nhận biết chúng bởi tính không liên thông. Tương tự như vậy, có lẽ trong vật chất đen và năng lượng đen, các hằng số vật lý có thể khác với vật chất thông thường nên ta chỉ cảm nhận mà chưa đo đạc được. Và, biết đâu chẳng có những vũ trụ đang trộn lẫn (mixing) song hành với chúng ta mà ta không nhận biết được do tính không liên thông vì các hằng số vật lý như ta vừa nhắc. Cũng như vậy, có thể tồn tại những dạng sống không có các hằng số tương thích với chúng ta nên chúng ta chưa nhận biết được. Nhiều điều nói trong bài này còn đang là đề tài tranh cãi trong khoa học. Nhưng có thành tựu khoa học nào mà không sinh ra từ các cuộc tranh luận khoa học? GS-TS Nguyễn Mộng Giao
-
Tôi đặt tựa cho thông tin dưới đây là "Đam mê". Bởi vì người thực hiện điều này không vì cái gì cả ngoài thỏa mãn sự đam mê, Thứ Tư, 30/04/2008, 01:01 (GMT+7) Truyện Kiều trên đá cuội TTCT - Tổng chi phí “đầu tư” Truyện Kiều trên đá ngốn hết của chàng sinh viên ngành sơn mài Nguyễn Văn Tân, Trường đại học Nghệ thuật Huế,... 50 triệu đồng. Tân bộc bạch: “Truyện Kiều đang giữ năm kỷ lục thế giới và bảy kỷ lục Việt Nam. Liên kết ý tưởng người tiền sử vẽ tranh trên vách đá trong hang động, tôi muốn “họa” lại Truyện Kiều bằng chữ quốc ngữ trên đá”. Anh thực hiện tác phẩm nghệ thuật trên đá này trong suốt 23 ngày “nhốt” mình trong căn nhà sáng tác nằm ở vườn cây phía sau nhà. Anh tỉ mỉ khắc 3.254 câu thơ Kiều trên 1.627 viên đá cuội trắng phau. Các “trang” truyện được cố định vào những khung sắt (315x172cm). Truyện Kiều trên đá cuội có chín trang lớn. Trang bìa truyện làm bằng thạch cao, mô phỏng gương mặt nhân vật Vương Thúy Kiều. Tác phẩm nghệ thuật này được “trình làng” trong hai giờ ở phố đi bộ Nguyễn Đình Chiểu (Huế) vào một ngày mưa bão cuối năm 2007. Khách tham quan chỉ vỏn vẹn 20 người là thầy cô và bạn bè, song Tân không hề buồn. Tân cho biết: “Cái gì cũng có giá của nó. Tôi không muốn thay đổi ý định vì bất cứ trở ngại nào, kể cả thời tiết. Sau hôm đó, toàn bộ đá cuội rã ra vì nước lụt, tôi mất trọn ba tháng phục hồi tác phẩm. Thầy cô và bạn bè đến triển lãm đã động viên và chia sẻ nên tôi rất tự tin”. Hiện một nhà sưu tập người Pháp trả giá 12.000 USD mong sở hữu tác phẩm này. Nhưng Tân đang chần chừ vì anh dự tính sẽ đấu giá và trích một phần lợi nhuận giúp trẻ em khuyết tật. Nếu không có gì trục trặc, Truyện Kiều trên đá sẽ xuất hiện trong Festival Huế 2008 sắp tới. ANH HUY
-
VÌ THƠ Bích Hoàng Đời ta chỉ sống vì thơ Chắt chiu từng phút, từng giờ, từng giây..... Mơ đi cho giấc mộng đầy Cho con chiền chiện tháng ngày du ca..... Cho tình anh thắm bao la Cho thơ em chảy la đà tỉnh say Cho lòng đốt ngọn heo may Hóa vần thơ ấm bay bay giữa đời. Cảm tác VÌ THƠ Tám nẻo sông Ngân sao lấp lánh Một vùng trăng nước sóng chơi vơi.... ......................................Ngân Giang nữ sĩ Tâm tình ta trải với thơ. Hoà men trăng nước, hững hờ mây bay... Sầu miên trong cõi vơi đầy Bể dâu than thở tháng ngày phôi pha. Gót hài dù khuất nẻo xa Trong thơ em vẫn bên ta nhớ đầy. Mặc đời khi tỉnh, khi say. Tình thơ vẫn cánh hạc bay ngang trời.... * Muôn nẻo Ngân Hà sao lấp lánh Một vùng trăng nước, ánh thơ rơi CHỈ CÓ THƠ Bích Hoàng Chỉ có thơ thôi! Chỉ có thơ! Đôi phút tuơng phùng sẽ là mơ Hình ai thắm nét trong lòng nhớ Chẳng hẹn chi nhau vẫn đợi chờ. * Đợi chờ giây phút đuợc gần nhau Chung đọc trang thơ vợi bớt sầu ! Ruợu trắng vài ly cùng nhớ mãi Ngàn xưa thơ lệ chảy ngàn sau... Hoạ CHỈ CÓ THƠ Sông nước buông buồn dáng liễu thơ. Hình ai ẩn hiện dưới trăng mờ. Hương đưa theo gió vương niềm nhớ. Hiu hắt người đi gửi đợi chờ. * Trăng xưa còn nhắc bước bên nhau. Nay cõi thu xưa gợi nỗi sầu. Sóng nước lô xô màu nguyệt vỡ. Gió buồn hiu hăt hẹn ngày sau. * Người đi khuất nẻo trăng mờ Tôi gom kỷ niệm vào thơ gửi người. THƠ SẦU Bích Hoàng Thơ tuôn khỏi bút thơ sầu Canh suơng gối lạnh nát nhầu lòng ai ! Vui chưa trọn một đêm dài Kê vàng tỉnh giấc phí hoài cành xuân ! Cảm tác THƠ SẦU Hiu hiu lá gió về đâu? Cho tôi nhắn gửi nét sầu liêu trai. Dáng gầy lãng đãng trăng cài. Ảo huyền trong cõi u hoài phù vân . * Trăng phai đã nhạt ái ân. Thơ rơi cho áng phù vân đọng buồn. ĐÀNH THÔI Bích Hoàng Có phải vì nhau mà cạn chén Cho lòng tơi tả giữa cơn say? Giá như rót đuợc tràn ly ruợu Hẳn buớc du hồ bớt vị cay? Ván cờ thử sức chơi dang dở Hay đã quên rồi chuyện trả vay? Biết ai, ai biết ai tri kỷ? Duyên nợ đành thôi lỡ kiếp này! HoạĐÀNH THÔI Hãy dốc phù vân nâng cạn chén Nghiêng đời dâu bề uống cho say. Hải hồ sương gió tràn ly rượu. Nghiên chén cho vơi vị đắng cay. Cuộc cờ đâu thể buông dang dở. Non nước không bàn chuyện trả vay. Bên minh chiếc bóng thành tri kỷ. Duyên nợ đành thôi một kiếp này. Họa ĐÀNH THÔI/ 2 Mộng cũ đâu còn men ngất ngây!. Trăng gầy thổn thức trách mê say. Dáng xưa khuất bóng không gian vắng.. Ly rượu ngập tràn vị đắng cay. Có còn chi nữa mầu trăng vỡ Để thế nhân buồn chuyện nợ vay. Cất sầu giã biệt vầng trăng cũ. Nhìn lá thu rơi trọn kiếp này. HẠT NGÂU Bích Hoàng Thu buồn thu lại rơi rơi... Gieo gieo từng giọt tơi bời lòng ta ! Lặng chìm mỗi hạt châu sa Hạt lan song cửa , hạt nhòa chân mây... Hạt Ngâu đậu cánh môi này Phải đâu là ruợu mà say hỡi lòng ? Mưa thu sao má chợt hồng ? Sao môi chợt đắng ? Sao lòng chợt cay ? Hạt thu hay hạt men say ? Đong bao nhiêu hạt cho đầy ái ân? Cảm tác HẠT NGÂU Thu buồn rắc hạt sầu rơi. Hiu hiu thu lạnh một trời mưa sa . Mang mang như tiếng thu ca Dáng thu xưa đã nhạt nhoà trong mây Thu rơi lấp cõi nhớ đầy Trong trời thu cũ gió mây lạnh lùng. Thu rơi xoá nhạt môi hồng Xóa tình thu cũ mặn nồng mê say. Đâu chiều thu ấy ngất ngây. Sao nay thu để trời mây nhỏ buồn...
-
Cảm ơn Jimsy. Chú đang soạn Tử Vi Lạc Việt trên cơ sở này. Thiên Sứ
-
Thiên Can. Người này được toàn bộ gia đình dưỡng về Thiên Can. Giáp Ất Mộc sinh Đinh. Người này được cha me nuông chiều và đã từng là niềm hy vọng của gia đình. Thí dụ như con trai trưởng chẳng hạn. Mạng: Người nay mạng Thổ sinh xuất cho toàn bộ gia đình kim. Đã vậy Đinh Tỵ lại là Sa Trung Thổ - tức Thổ Mộ - thì tính sinh Kim càng mãnh liệt. Người này suy kiệt về sức khỏe trầm trọng và gần như suy nhược cả về tinh thần. Địa chi: Tỵ Ngọ Mùi tam liên, Tỵ đứng đầu Ngọ Mùi là cha mẹ. Nên cha mẹ gần như bất lực trước các hành vi của người này. Tỵ hợp Sửu lại là Nam Nữ nên Âm Dương hợp, anh sinh xuất càng mạnh cho em gái. Trong nhà cô em thương anh nhất. Năm Mậu Tý: Năm nay lại đang giữa tam tai của hai anh em. Năm tuyệt của Đinh Tỵ (Tý Tỵ tuyệt). Giáp Ất xung Mậu. Mậu Tý thuộc Thủy (Theo Lạc Thư hoa giáp) toàn gia Kim mạng bị sinh xuất. Thổ mạng của Định Tỵ quá yếu không khắc chế nổi. Qua phân tích trên, chưa xét về Phong Thủy ngôi nhà, tôi nhận thấy rằng: Nều muốn cứu vãn tình thế thì người này phải sống gần một người tuổi Nhâm Thìn và xa gia đình. Qua tháng 10 hoặc tháng 11 thì hy vong mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
-
Thần y Hoa Đà là người nước nào? Nguồn Xaluan.com Thần y Hoa Đà, theo trí tưởng tượng của người Trung Quốc Hoa Đà qua đời cách nay gần 1.800 năm, mọi người đều ngưỡng mộ danh tiếng ông, cũng như không ai nghi ngờ ông không phải là người Trung Quốc. Nhưng các nhà khoa học trong và ngoài Trung Quốc hiện nay vẫn chưa thống nhất quan điểm: Thần y Hoa Đà có phải là người Trung Quốc? Danh tiếng thần y Hoa Đà (?-208) có thể nói là không ai không biết, đặc biệt giới y học cổ truyền phương Đông tôn xưng ông là Y tổ. Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung đã tái hiện một Hoa Đà y thuật siêu quần, tinh thông dưỡng sinh, cứu nhân độ thế không phân biệt ranh giới, đẳng cấp, như cứu thương cho Chu Thái (Đông Ngô), rạch xương lấy tên cho Quan Công (Tây Thục), chữa bệnh đau đầu cho Tào Tháo (Bắc Ngụy) nhưng sau đó bị Tháo nghi ngờ đem giam trong ngục mà chết, y thư Thanh nang cũng bị vợ đốt mất. Ngoài ra, trong những bộ chính sử như Hậu Hán thư, Tam Quốc chí cũng đều có ghi chép những câu chuyện về vị thần y này. Hoa Đà và thần thoại Ấn Độ Thuyết của Trần Diễn Cách, giáo sư sử học ở Đại học Thanh Hoa, Trung Quốc, cho rằng Hoa Đà là người Ấn Độ. Trong bài nghiên cứu “Truyện Hoa Đà, Tào Xung trong Tam Quốc chí với truyện cổ Phật giáo”, giáo sư Trần cho rằng những câu chuyện như Tào Xung cân voi, Hoa Đà trị bệnh, thậm chí cả “Trúc Lâm thất hiền” cũng đều mang bóng dáng của thần thoại Ấn Độ. Tam Quốc chí là do sử gia Trần Thọ vâng mệnh Tấn Vương viết, bút pháp nghiêm cẩn, cứ liệu chính xác, nhưng chắc chắn ông đã tiếp thu, chịu ảnh hưởng lớn của những câu chuyện Phật giáo Ấn Độ lưu truyền rộng rãi trong dân gian lúc bấy giờ. Sự tiếp thu này được ẩn rất kín đáo, không dễ phát hiện làm cho việc giám định thật giả trong cổ sử càng khó khăn. Giáo sư Trần Diễn Cách cho rằng chữ “Hoa Đà” trong tiếng Thiên Trúc (tức tiếng Phạn, Pali của Ấn Độ cổ) bắt nguồn từ chữ “Agada” có nghĩa là “dược”, Hán văn cổ thường dịch là “A Ca Đà” hoặc “A Kiệt Đà”. “A Ca Đà” lược bớt chữ “A”, đọc thành như “Hoa Đà”, cũng như “A La Hán” lược đi chữ “A” đọc thành “La Hán” vậy. Theo Tam Quốc chí của Trần Thọ thì Hoa Đà tự là Nguyên Hóa, vốn tên thật là “Phu” chứ không phải “Đà”. Giáo sư Trần cho rằng do dân gian đương thời đem Hoa Phu so sánh với danh y trong thần thoại Phật giáo, do đó mới gọi là “Hoa Đà” tức xem như “dược thần”. Ý của giáo sư Trần rất rõ ràng: “Hoa Đà” là do đọc trại từ “Agada”, lấy từ thần thoại Ấn Độ - vốn được lưu truyền rất mạnh vào thời Ngụy Tấn và đã được Trần Thọ đưa vào trong lịch sử Trung Quốc. Vả chăng, “Đà” làm tên riêng ở Trung Quốc rất ít thấy. Thuyết của giáo sư Trần được nhiều người ủng hộ. Giáo sư Lâm Mai Thôn trong bài viết “Ma phất tán” và nhân tố ngoại lai trong “phương thuật đời Hán” đã mở rộng thuyết của giáo sư Trần. Ông nói: “Agada” trong tiếng Phạn hàm nghĩa chỉ thuốc giải độc, thường chỉ thuốc viên. Theo sử liệu, Hoa Đà là người chế được “Ma phất tán” có công dụng như morphin, làm cho bệnh nhân mê đi để thực hiện phẫu thuật. “Ma phất tán” thực ra được các cao tăng Thiên Trúc bào chế, thành phần gồm hoa mạn đà la, xuyên khung, bạch chỉ, ô đầu... Giáo sư Lâm nói: “Cái tên “Hoa Đà” là lấy từ tiếng Phạn, y thuật mang đậm nhân tố Ấn Độ, tình lý rất rõ ràng. Chỉ cần cẩn thận suy xét về hoàn cảnh xã hội mà Hoa Đà hành y thì có thể thấy thuyết của giáo sư Trần không phải là phỏng đoán suông”. Trần Thọ trong Tam Quốc chí đã chép rất nhiều chuyện lạ về thần y Hoa Đà. Giáo sư Trần Diễn Cách cho rằng chuyện Hoa Đà trị bệnh cho Tào Tháo hoàn toàn là sao chép lại, chuyện mổ bụng cắt khối u trong bụng hay làm cho người bệnh mửa ra những con trùng màu đỏ... đều là chuyện sao chép vì đó thực ra là chuyện chữa bệnh của thần y Kỳ Vực bên Ấn Độ. Truyện Tam Quốc chí ghi rằng khi Hoa Đà trị bệnh mà phải dùng đến mổ xẻ thì dùng “Ma phất tán” cho uống để mê đi, sau đó mới mổ ra chữa, xong rồi may lại như cũ, 4-5 ngày thì bệnh khỏi, khoảng một tháng sau thì vết thương lành hẳn. Giáo sư Trần cho rằng câu chuyện trên hoàn toàn giống chuyện thần y Kỳ Vực chữa bệnh cho con trai trưởng lão Trị Cao Thiểm Di trong thần thoại Phật giáo. Trong chuyện Hoa Đà chữa bệnh cho thái thú Quảng Lăng là Trần Đăng, Hoa Đà cho Trần uống 2 thang thuốc, Trần nôn ra 3 thang trùng màu đỏ lúc nhúc... Chuyện này cũng lấy nguyên trong truyện cổ Phật giáo. Chuyện Hoa Đà chữa bệnh cho Tào Tháo cũng mô phỏng hệt như thần y Kỳ Bá chữa bệnh cho bạo quân. Hoa Đà Trung Quốc không phải thần y? Theo giáo sư Trần, không chỉ trong Hoa Đà truyện của Tam Quốc chí là chuyện cổ Phật giáo mà những chuyện khác như Tào Xung cân voi cũng vậy. Ông cho rằng: “Voi lúc bây giờ không phải là loài thú phổ biến ở Trung Nguyên, tiếng gọi “Hoa Đà” cũng là từ âm Thiên Trúc, do vết biến đổi của nó chưa hết, nên giữ làm nguyên bản sử liệu để nghiên cứu”. Theo khảo cứu của nhiều nhà nghiên cứu, Hoa Đà sinh vào năm Vĩnh Gia nguyên niên đời Đông Hán (145), chết năm Kiến An thứ 13 (208), thọ 64 tuổi. Thuyết này không đáng tin vì trong Hậu Hán thư-Hoa Đà truyện ghi rằng: “Đã gần trăm tuổi mà dung mạo như tráng niên, người đương thời gọi là tiên”, có thể thấy Hoa Đà không chỉ sống 64 tuổi. Theo Tam Quốc chí, Hoa Đà “du học bốn phương, thông hiểu kinh sách, lại giỏi thuật dưỡng sinh, tuy đã trăm tuổi mà như tráng niên. Lại giỏi về phương dược, thuốc hợp thành thang chỉ vài vị, châm cứu chỉ vài lần là bệnh khỏi”. Giáo sư Trần khẳng định, người gọi là Hoa Đà có thể là người từng tồn tại vào đời Đông Hán, cũng có thể là người huyện Tiều, nước Bái, đồng hương với Tào Tháo (nay là thành phố Hào Châu, tỉnh An Huy). Thậm chí người này cũng có am hiểu y thuật và dưỡng sinh ít nhiều nhưng không phải là thần y. Về sau người này biến thành “Hoa Đà” là do dân gian đã đem chữ “Đà” (Dược vương thần) của Ấn Độ gán lên. Người Trung Quốc này đã gặp may mắn cực lớn, trở thành nhân vật thần bí được mọi người kính ngưỡng. Hoa đà là người Ba Tư? Năm 1980, bác sĩ Tùng Mộc Minh Tri, chuyên khoa nghiên cứu thuốc mê, Đại học Y quốc gia Nhật Bản, đã đăng nghiên cứu của ông trên tạp chí chuyên ngành Thuốc mê với nhan đề “Hiểu biết mới nhất về lịch sử khoa học thuốc mê: Danh y Hoa Đà đời Hán thực ra là người Ba Tư (nay gọi là Iran)”.Theo vị bác sĩ người Nhật này, từ “Hoa Đà” là phiên âm của từ “x. Wadag” trong tiếng Ba Tư cổ xưa (còn gọi là An Tức, nay là Iran). “Wadag” có nghĩa là chúa hoặc thần, vì vậy nó không thể là tên người mà có ý nghĩa nhân xưng, tôn xưng như chúa công, các hạ hay ngài, tiên sinh. Nếu người được gọi mà làm nghề thuốc thì “x.Wadag” có nghĩa là “tiên sinh tinh thông y thuật”. Đồng thời người Ba Tư vào thời Hán đã theo “con đường tơ lụa” mà qua phía Đông, vào Trung Quốc. Hoa Đà hẳn là người Ba Tư theo con đường này mà vào du học ở Từ Châu như nhiều sách đã nói. Người Ba Tư theo “con đường tơ lụa” vào trung nguyên là thuyết đáng tin cậy. Thơ Lý Bạch có câu: “Hồ cơ mặt như hoa, bên lò cười gió đông”, “Hồ cơ” là “người con gái Hồ xinh đẹp”, chính là cô gái người Ba Tư. Căn cứ vào đó, bác sĩ Tùng Mộc khẳng định: “Hoa Đà mà xưa nay cứ cho là người Trung Quốc, thực ra là người Ba Tư”.
-
Hiện tượng lạ trên bãi biển Australia Trong ảnh dưới đây, đuổi theo em nhỏ không phải là những cuộn sóng nước tràn bờ thường thấy ở mọi bãi biển trên khắp thế giới, mà là tầng tầng lớp lớp bọt kem. Hiện tượng thiên nhiên độc đáo này xảy ra dọc 50km bờ biển phía bắc Sydney. ảnh minh họa Bọt nhấn chìm toàn bộ bờ biển và một nửa những tòa nhà gần đó. Hiện tượng này đã từng xảy ra ở Yamba bang New Saouth Wales, Australia cách đây hơn ba thập kỷ. Như quên hẳn những lâu đài cát, những đứa trẻ này vùi mình trong những đám bọt trắng. Có lẽ chúng sẽ xây lâu đài bằng bọt sáp. Theo các nhà khoa học, bọt sáp tạo ra từ các chất cặn bẩn ở trong đại dương như các hạt muối, hóa chất, cây chết, cá bị thối rữa và các chất bài tiết từ rong biển. Dù có bẩn hay không, nhưng đứa trẻ này cũng không quan tâm. Cũng theo các nhà khoa học, các chất cặn bẩn bị các dòng biển rất mạnh khấy tung lên và đánh thành thứ như kem như thế này. Một chuyên gia về biển giải thích trên tờDaily Mail của Anh rằng hiện tượng này giống như hiện tượng xảy ra khi bạn đánh bọt một tách cafe Cappuccino vậy. Bạn càng đánh mạnh thì càng nhiều bọt nổi lên trên và bọt cũng càng nhẹ hơn.
-
Bí ẩn rừng mộ đá Không biết bao nhiêu huyền thoại kỳ bí đã được thêu dệt ở khu mộ cổ Đống Thếch nằm trên địa bàn xã Vĩnh Đồng huyện Kim Bôi, Hoà Bình. Nơi đây ngày xưa từng là khu thánh địa bất khả xâm phạm của người Mường. Tương truyền, khu mộ đá như một mê trận kỳ bí, người lạ lạc vào đây sẽ không có đường ra và sự mất tích của nhiều người vô tình đi lạc vào đây đến nay vẫn là điều bí hiểm. Và tới những năm 80 nó trở thành địa chỉ tìm đến của những kẻ săn lùng đồ cổ… Lạc vào huyền thoại Mường Bi Trước đây, cả khu vực rộng lớn này là cả một khu rừng âm u, rậm rạp và linh thiêng…, đó là những lời miêu tả về cánh rừng mộ cổ Đồng Thếch xưa kia. Hàng nghìn cột đá cao thấp khác nhau đứng đan nhau bên cạnh những ụ đất.Trước kia, chỉ cần nghe nói đến rừng đá này người ta đã nổi da gà, rụng rời chân tay, không ai dám bước chân vào đấy. Mộ đá ở Đồng Thếch Đến nay, trong cộng đồng người dân tộc Mường ở khu vực Mường Động (địa danh ngày xưa, nay thuộc huyện Kim Bôi) vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện mang tính huyền bí về chốn linh thiêng này. Chuyện rằng, có một đoàn lái buôn đi qua, thấy cánh rừng mát lại có nhiều cột đá nên dừng chân nghĩ đêm bên những cột đá. Sáng hôm sau người ta chỉ còn thấy ngựa và hàng hoá, đoàn người đã biến mất. Sau này mọi người mới biết đó không phải là đoàn lái buôn mà là nhóm chuyên đào trộm đồ cải táng. Khi dân làng vào khu mộ kiểm tra thấy một vài ụ đất bị đào nhưng bọn trộm chưa lấy được cái gì. Xung quanh những hố đất này vẫn còn cuốc, thuổng dùng đào đất nhưng không thấy người. Có lẽ chỉ những người được giao trông coi rừng mộ mới biết số phận những tay đào trộm này. Câu chuyện được thêu dệt theo nhiều chiều hướng mang tính huyền bí khác nhau và truyền tụng qua nhiều đời nay. Từ đó về sau không ai dám bước chân vào rừng mộ, và nơi này trở thành thánh địa bất khả xâm phạm của người Mường Bi. Đó là một trong những câu chuyện được truyền tụng trong dân gian nó mang nhiều màu sắc huyền bí. Hiện nay trong vùng có tất cả 5 bà Mỡi (giống thầy Mo), mỗi bà thờ một thần chuyên cúng tế cho người dân. Đặc biệt, tất cả những bà Mởi đều thờ vua Hùng. Người trong vùng giải thích điều này bằng truyền thuyết về người vợ thứ 3 của vua Hùng. Giận chồng, bà đã đem theo hai người con cả và út chạy về vùng đất này sinh sống, gây dựng nên một vùng đất trù phú với hàng ngàn dân sinh sống. Sau 3 mẹ con mất hóa thành 3 ngọn núi đứng bên nhau nhìn về nơi họ đã ra đi. Hàng năm, sau những ngày tết người dân trong vùng lại đem bò lên núi Khụ Động mổ thịt cúng vua Hùng, cái lệ này mới bị bỏ từ những năm 1970. Những bà Mỡi hàng năm đều tìm ra rừng mộ Đống Thếch làm lễ mà theo lời họ là để cho thần họ thờ linh thiêng hơn. Rừng mộ Đống Thếch còn gắn với những câu chuyện về thần giữ của, mỗi ngôi mộ đều phải chôn sống theo một cô gái còn trinh. Trước khi chôn cô gái được cho tắm rửa sạch sẽ, ăn những loại thức ăn dành riêng cho mình và được ngậm sâm khi chôn. Khi khai quật mộ phát hiện ra rất nhiều hình nộm người mà theo truyền thuyết, các hình nộm này đều được yểm bùa, ngâm trong chất độc, ai chạm vào chất độc sẽ ngấm vào người chết ngay. Những chuyện này, đến nay vẫn còn rất nhiều người truyền tụng và kể lại cho đám người hiếu kỳ nếu ai có ý định bước chân vào rừng mộ. Bên cạnh đó là về những cái chết bất đắc kỳ tử đầy bí ẩn của những người đào trộm mộ, những tai nạn hết sức bất ngờ và số phận bi thương của gia đình khiến câu chuyện trở lên ly kỳ và chưa rõ thực hư ra sao được những người già ở đây kể lại... Nước mắt của một người ngoại quốc… Ông Bùi Minh Lợi, trưởng ban văn hoá xã Vĩnh Đồng ngồi lật lại đống tài liệu đã úa màu chỉ cho chúng tôi những đoạn viết về khu rừng mộ Đống Thếch. Theo nguồn tài liệu ông Lợi cung cấp, trước năm 1975 khu mộ Đống Thếch còn rộng hàng chục ha với hàng nghìn cột đá được chôn xen kẽ nhau, mỗi cột cao khoảng 2,3m, nặng hàng tấn. Một điều lạ là vùng núi Hoà Bình không có loại đá xanh Hoa Cương này, sau này những nhà nghiên cứu mới phát hiện ra loại đá này được chuyển từ Thanh Hoá lên (loại đá dùng làm bia Vĩnh Lăng ở Lam Kinh, Thanh Hoá). Trên các phiến đá có khắc chữ, ghi tên tuổi, chức sắc của người dưới mộ cùng ngày tháng dựng mộ. Theo những tài liệu chúng tôi thu thập được, khu mộ cổ này của người dân tộc Mường với hàng nghìn ngôi. Vùng đất này thuộc khu vực trung tâm của nền văn hoá Mường Bi, nơi còn lưu giữ nhiều nét văn hoá của người Mường. Ông Bùi Minh Lợi: "Một người ngoại quốc đã khóc!" Nơi đây vốn là tổng huyện Mường Động ngày xưa, đến nay còn lưu giữu câu "Nhất Bi nhì Vang, tam Thàng tứ Động", chỉ những địa phương sầm uất, giàu có của xứ Mường thời xa xưa. Khu Đống Thếch được quây thành thánh địa, nơi an nghỉ riêng của nhà Lang (nhà quan lại) thuộc dòng họ Đinh Công. Dòng họ Đinh nơi đây có nguồn gốc từ vùng Ngọc Lặc, Thanh Hoá. Người đặt nền cho xứ Mường nơi đây là ông Đinh Văn Cương vốn là người Ngọc Lặc, Thanh Hoá. Ông có công giúp Lê Lợi đánh giặc và được phong công thần nên đổi tên đệm thành "Đinh Công" và trấn giữ vùng Kim Bôi Ho à Bình ngày nay. Khi ông chết người ta phải dùng hàng chục con voi về Thanh Hoá chuyển đá ra làm mộ. Con trai ông là Đinh Công Kỷ là một tướng giỏi dưới thời vua Lê Trung Hưng, được phong Quận công. Từ đó dòng họ Đinh Công ngày càng phát triển mạnh ở vùng đất Mường Động này. Những người làm quan trong dòng họ Đinh mới được chôn trong khu mộ Đống Thếch và quanh năm có người trông coi cẩn thận. Một điều đặc biệt là mỗi khi có người chết lại phải về Thanh Hoá chuyển đá ra làm mộ. Người ta bảo làm thế để con cháu họ Đinh luôn nhớ về nguồn gốc của mình. Ông Bùi Minh Lợi kể với giọng đầy tiếc nuối, trước năm 1975 khu Đống Thếch còn hàng nghìn ngôi mộ với bạt ngàn là cột đá, trông đẹp lắm. Thời đó đám thanh niên hay kéo nhau vào đây chơi, thả trâu… Sau khi hoà bình, người dân tràn vào khu mộ làm ruộng cấy và họ hạ hết cột đá xuống vứt đi nơi khác. Ngày đó chính quyền còn khuyến khích thanh niên ra hạ cột đá… chỉ trong một thời gian ngắn rừng đá đã biến mất. Đến năm 1984 người dân địa phương tràn vào tàn phá khu mộ. Họ đào xới ngày đêm tìm các vật quý chôn theo người chết, rồi dân săn đồ cổ dựng lều lán ngủ ngay tại khu rừng… Các ngôi mộ đều tuân theo một nguyên tắc là kê đá hình mái nhà hoặc hình chữ nhật. Trong các ngôi mộ người ta phát hiện nhiều than củi dày hàng mét, theo nghiên cứu than dùng để hút ẩm cho xác người. Người ta còn thu được hàng nghìn đồ dùng cá nhân như nghiên mực, xoong, nồi, ly, tiền… Nhiều đồ dùng có xuất xứ từ Trung Quốc. Trong hai năm 1988 và 1989, do đói kém, mất mua dân đổ xô đi đào tiếp. Thời gian này chính quyền thu được 4 trong số 9 chiếc trống đồng tìm thấy ở đây và hàng trăm đồ vật khác. Khi Nhà nước ra tay cứu vớt rừng mộ thì chỉ còn trơ lại 9 ngôi mộ vùng trung tâm, phục vụ công tác nghiên cứu khảo cổ của các nhà khoa học. Ngôi mộ của ông Đinh Công Kỷ được khai quật năm 1990, đây là một trong những ngôi mộ còn nguyên vẹn nhất với cỗ quan tài bằng gỗ trám đen, bên ngoài sơn son thếp vàng và nhiều vàng bạc châu báu. Đặc biệt còn phát hiện một chiếc trống đồng Ngọc Lũ và nhiều hình nhân nữ. Sâu nhất là mộ ông Đinh Công Cương, trong mộ tìm được rất nhiều đồ vật dùng trong sinh hoạt hàng ngày, răng và xương ngựa… Xen kẽ trong câu chuyện của ông Lợi là những tiếng thở dài, cách đây 10 năm, một Tiến sĩ người Nhật đến thăm rừng mộ đã phải bật khóc lên trước sự tàn phá của con người. Nguyên vị Tiến sĩ này đã từng tiến hành nghiên cứu văn hoá Mường Bi ở Hoà Bình nhiều năm và ông đ ã nhiều lần đến với rừng mộ Đồng Thếch. Vị Tiến sĩ cũng đ ã từng thốt lên rằng ông đã đi nhiều nơi trên thế giới nhưng chưa gặp nơi nào có rừng mộ rộng lớn và chứa đựng nhiều câu trả lời về văn hoá và lịch sử như vậy. Hiện nay khu lưu giữ dấu tích của rừng mộ cổ Đống Thếch chỉ còn rộng khoảng 3ha, nằm trên cánh đồng xóm Chiềng. Ông Lợi cười méo mó: "Con cháu người Mường sau này sẽ không còn được thấy rừng mộ Đồng Thếch, quả là một thiệt thòi lớn…!". Bùi Lương Việt
-
Bí ẩn khu mộ đá cổ ở Kim Bôi - Hòa Bình Các ngôi mộ đá ở Kim Bôi - Hoà Bình đều tuân thủ một nguyên tắc chung: phía đầu mộ chôn ba khối đá cao, to nhất thành một hàng thẳng, còn chân mộ chôn ba khối nhỏ hơn, thấp hơn đối xứng với đầu mộ: Có khối cao đến 5m, nặng cả chục tấn... Ông Bùi Minh Lợi trước ngôi mộ còn sót lại. Có một nữ tiến sĩ người Nhật, đã nhiều năm nghiên cứu văn hóa dân tộc Mường ở Việt Nam. Bà biết đến khu rừng mộ đá độc đáo ở Kim Bôi, Hòa Bình qua tài liệu nghiên cứu của các nhà khoa học. Bà đã cùng các nhà khảo cổ sang Việt Nam khai quật khu mộ này. Khi chứng kiến cảnh hoang tàn của rừng mộ đá 400 năm tuổi, bà đã bật khóc vì tiếc nuối. Ông Bùi Minh Lợi, Trưởng ban Văn hóa xã Vĩnh Đồng (Kim Bôi, Hòa Bình) cứ kể đi kể lại câu chuyện đó khi tôi hỏi về khu mộ đá Đống Thếch. Ông đã bỏ công việc đồng áng cả tháng trời để xem những người Nhật Bản yêu khảo cổ làm việc miệt mài trên đống mồ hoang còn lại do bị bọn “mộ tặc” đào bới. Nước mắt của vị nữ tiến sĩ người Nhật làm ông xúc động. Ông Lợi là Trưởng ban Văn hóa xã, quyền hành chẳng có là bao, nhưng ông rất có trách nhiệm với khu rừng mộ đá huyền bí nằm giữa thung lũng có hình miệng rồng này. Những giọt nước mắt tiếc nuối một di chỉ khảo cổ cực quý của nữ tiến sĩ người Nhật làm cho ông hiểu thêm giá trị của nó. Vậy nên, dù khu mộ đá chẳng còn lại là bao, ông vẫn ngày hai lần, tối hai lượt đạp xe lọc cọc vào khu mộ đá để xua đuổi những tên “mộ tặc” chuyên săn lùng đồ cổ. Tất nhiên, chẳng ai trả lương cho ông vì việc đó. Ông cần mẫn làm vậy để mong con cháu đời sau còn được biết đến văn hóa dân tộc Mường Động của mình xưa kia. Tôi thật sự khâm phục sự cẩn thận của ông Lợi khi ông lôi trong chiếc tủ đã mối mọt ra một chồng tài liệu ố vàng, cũ kỹ, toàn là nói về văn hóa Mường và những nghiên cứu khảo cổ khu rừng mộ đá Đống Thếch. Ngày ông Lợi còn nhỏ, ông cùng đám trẻ trong bản thường xua trâu bò lên núi, quanh khu rừng mộ đá. Dù tò mò lắm song bọn trẻ cũng không dám vào khu rừng mộ đá, bởi nó quá lạnh lẽo, u ám. Khi đó, rừng phủ khắp nghĩa địa mộ đá. Hàng vạn cột đá đen trũi nằm im lìm trong sương mờ, trải khắp thung lũng. Nơi đây được mệnh danh là vùng đất của người chết, cọp beo và các vị thần linh. Theo tài liệu cổ của người Mường, ngày xưa, các vị quan lang ở xứ Mường Động rộng lớn đã chọn khu vực núi non hình miệng rồng này làm nơi yên nghỉ vĩnh hằng nhằm giữ long mạch cho con cháu đời sau mãi được cơ đồ. Theo truyền thuyết, người vợ thứ ba của Vua Hùng giận chồng đã bỏ kinh đô, dắt theo hai người con lên rừng khai hoang lập ấp, tạo nên vùng đất vô cùng trù phú. Khi ba mẹ con mất hóa thành 3 ngọn núi dáng rồng chầu và cùng hướng về kinh đô. Hàng năm, vào những ngày tết, các bản Mường dắt trâu, bò lên núi, nơi có rừng mộ đá mổ thịt cúng Vua Hùng. Mỗi bản Mường thường có một bà mỡi (tương tự như thầy mo, thầy cúng) và các bà mỡi có quyền lực rất lớn trong bản. Điều đặc biệt là các bà mỡi đều thờ Vua Hùng. Để quyền năng của mình cao hơn, các bà mỡi thường sắm lễ mang vào rừng mộ đá cúng bái. Khi một vị quan lang hoặc gia tộc có người chết thì cả vùng Mường Động làm đại tang. Quan tài là một khúc gỗ quý được khoét rỗng ruột. Sau nhiều ngày cúng bái, quan tài mới được khiêng đi chôn ở nghĩa địa mộ đá. Người ta rải một lớp than củi đốt bằng gỗ trai, và đổ vào quan tài một lớp gạo rang khá dày rồi mới lấp đất. Chỉ với những vị quan lang mới được táng cẩn thận như vậy để giữ xác lâu phân hủy. Những đồ vật cũng được chôn theo khá nhiều. Người nào làm quan to, giàu có thì được chôn theo rất nhiều vật quý. Thậm chí, theo truyền thuyết, người ta còn chôn sống gia nhân là các cô gái xinh đẹp để phục vụ người chết ở cõi âm. Sau khi lấp mộ, lính tráng, cùng hàng trăm thanh niên khỏe mạnh khắp xứ Mường Động phải cưỡi voi vào tận Thanh Hóa khai thác đá xanh vĩnh cửu rồi vận chuyển ra. Điều này được kể trong những mo Mường và cũng khớp với nhận định của các nhà khoa học, bởi loại đá xanh vĩnh cửu như ở khu mộ này chỉ có ở Thanh Hóa. Những khối đá lớn này được đẽo gọt, chạm trổ rồi đem chôn xung quanh mộ. Các ngôi mộ đều tuân thủ một nguyên tắc chung: phía đầu mộ chôn ba khối đá cao, to nhất thành một hàng thẳng, còn chân mộ chôn ba khối đối xứng với đầu mộ và những khối này nhỏ hơn, thấp hơn. Nhiều nhà khảo cổ đã sững sờ trước cảnh tượng hàng ngàn khối đá lớn, có khối cao đến 5m, nặng cả chục tấn, được dựng thẳng đứng quanh những ngôi mộ sau vài trăm năm dãi dầu mưa nắng mà vẫn vững chãi. Với các nhà khoa học, việc đưa ra những giả thuyết về cách khai thác, vận chuyển những khối đá lớn này trên đoạn đường rất dài của người xưa là hết sức thú vị. Trên mỗi khối đá đều khắc chữ Hán nói về thân thế, công danh, gia tộc của người nằm dưới mộ. Với những khối đá xanh vĩnh cửu, các quan lang, gia tộc người Mường tin rằng con cháu đời sau sẽ mãi khắc ghi công trạng của tổ tiên mình. Ông Lợi cho tôi xem bản dịch của một chuyên gia khảo cổ học nội dung của những dòng chữ trên một hòn đá mồ: Ông Đinh Công Kỷ, tước Uy lộc hầu, thổ tù kiêm cai quản vùng Mường Động. Sinh năm 1582, mất giờ sửu, ngày 13 tháng 10 năm Đinh Hợi 1647. Khi chết được ban tước Chưởng vệ đề đốc uy quận công. Đến ngày 22 tháng 2 năm Canh Dần (1650) được đưa về huyệt trên núi bằng 15 xe tang, 7 con voi, 5 con ngựa... Con cháu, thê thiếp của các vị quan lại thổ tù cũng đều có mồ riêng với những cột đá sừng sững uy nghi. Có một điều gây ấn tượng đặc biệt đối với các nhà khảo cổ học trong nước và quốc tế, ấy là những tấm bia đều ghi ngày mất và ngày hạ huyệt cách nhau rất lâu, đến vài năm. Tuy nhiên, các cụ già người Mường lại rất hiểu điều này. Những bài mo Mường kể rằng, khi người chết, xác được cho vào trong khúc gỗ quý có lót than gỗ trai, gạo rang rồi treo trong nhà hoặc bếp vài năm sau mới đem chôn. Trong suốt thời gian đó, gia đình phải cúng tế đều đặn với những nghi lễ rất phức tạp để linh hồn người chết được siêu thoát. Cũng chính việc mai táng người chết phức tạp, kéo dài như vậy nên nền văn hóa Mường một thời được thể hiện rất đầy đủ qua các nghi lễ mai táng. Nữ tiến sĩ người Nhật nói với ông Lợi rằng, bà đã đi rất nhiều nơi trên thế giới, nhưng chưa gặp nơi nào có rừng mộ rộng lớn và chứa đựng nhiều câu trả lời về văn hóa, lịch sử như khu mộ Đống Thếch của người Mường. Chỉ tiếc rằng nó đã bị phá gần hết. Vẫn với chiếc xe đạp lọc cọc, ông Bùi Minh Lợi dẫn tôi qua những con đường quanh co tìm vào hõm núi hình miệng rồng. Khu mộ đá hiện ra trước mắt thật thảm hại. Cả một thung lũng rộng lớn, từng là rừng mộ mênh mông xưa kia, nay là cánh đồng mía bạt ngàn, những thửa ruộng trồng đủ các loại rau cỏ. Trâu bò nhẫn nại kéo cày, người kiên trì cuốc đất. Để bảo vệ rừng mộ đá cổ kính, bí ẩn một thời, các cơ quan chức năng tỉnh Hòa Bình đã trình thủ tục lên trung ương và lập tức khu mộ cổ Đống Thếch trở thành di tích lịch sử quốc gia. Ngay sau đó, khu mộ đá cổ còn sót lại được đầu tư làm đường, xây tường rào, nhà bảo vệ và có cả ban bảo vệ di tích, cùng với hướng dẫn viên phục vụ khách tham quan. Tuy nhiên, khi chúng tôi đến thì thấy cảnh tượng bảo vệ di tích cấp quốc gia này thật... buồn. Tường xây thấp lè tè, không có hàng rào thép gai bảo vệ, cổng mở suốt ngày đêm, nhà bảo vệ không một bóng người. Trong khu vực còn sót lại của rừng mộ rộng 3 ha được “bảo vệ nghiêm ngặt” này, người dân vẫn dắt trâu bò vào cày bừa, gieo trồng quanh những ngôi mộ cho đỡ... phí đất. Các hố khai quật đã được san bằng để trồng ngô, đậu tương, rau cỏ. Những tảng đá được người dân khiêng về lót cầu ao, đập vỡ nung vôi, hoặc đẩy vào một xó để lấy đất trồng cấy. Tệ hại hơn, người ta còn xây cả hố chứa phân chuồng, ủ phân xanh bón cho cây trồng trong khu vực bảo vệ. Không hiểu sao, trong khi du khách lên Hòa Bình có rất ít chỗ để tham quan, tìm hiểu văn hóa Mường, vậy mà ngay tại “thủ phủ Mường Động” này người ta lại bỏ phí một khu di tích quý như vậy?
-
Phong Thủy Lạc Việt xác định : Trung cung là phần giữa nhà khi nhà chia làm cửu cung. Bất luận bề ngang, bề dài căn nhà là bao nhiêu, cứ chia ba. Kẻ thành 9 ô. Ô giữa là Trung cung. Trong phần trung cung lại tiếp tục chia ba, phần giữa của Trung cung gọi là Biệt cung. Biệt cung tuyệt đối không được xâm phạm. * Khoan giếng đào hầm hại người nữ. * Trồng cột, đà dè, hại người nam. Thiên Sứ
-
Gợi ý cho nghiên cứu của Lạc Tướng và anh chị em tham khảo: Thiên Sứ sinh giờ Thìn ngày mùng 5 tháng 8 năm Kỷ Sửu. Quẻ bản mệnh: Thương Tiểu Cát. Thiên Sứ
-
Người đàn ông mặc áo nâu Phạm Thị Ngọc Điệp http://www.vannghesongcuulong.org.vn Cái ý định ra về của tôi bị hoãn lại không phải vì đêm tang lễ đã quá khuya, không hẳn ý nghĩ phù du của kiếp người, của cái sống và chết làm tôi muốn ngồi một mình - mà đơn giản vì sự có mặt của một nhà sư rất trẻ. Dù không có tóc nhưng không làm giảm đi nét đẹp trai một cách thanh tú của khuôn mặt. Dưới lớp áo cà sa bùng nhùng vẫn hiện lên rõ nét tầm thước và dong dỏng cao. Nhà sư có giọng đọc kinh trầm bổng, du dương một cách điêu luyện trong những lời cầu hồn, cầu siêu thăng, tịnh độ cho người chết. Giọng cầu kinh như tiếng của một nghệ sĩ tài hoa hát một bản dân ca buồn. Nó cũng hay như bàn tay thuần thục xòe những lá bài xập xám sát phạt không tiếc rẻ những kẻ ngồi chung bàn. Điều ấy làm tôi thú vị như khi đứng lặng nhìn những ni cô ở bãi tắm. Có những sự bóc trần đáng nguyền rủa hoặc đồng nghĩa với sự trơ trẽn, dung tục nhưng sao sự bóc trần của những lớp áo cà sa phô bày cơ thể bấy lâu được ấp ủ trong lớp áo nâu sồng vẫn làm tôi thấy vui mắt và thích. - Chào cô, rất vui được gặp lại. Tiếng người đàn ông vừa ngồi vào bàn cất lên làm tôi rời khỏi suy nghĩ về nhà tu hành cầm binh xập xám. - Chào ông. Tôi gật đầu đáp lại và cố lục soát trí nhớ xem là ai? Cũng chẳng cần lâu. Tôi nhớ rất rõ. Chính là gã, người tôi đã vài lần gặp trong suốt mười lăm năm. Lần nào gã cũng làm tôi có những suy nghĩ không thoải mái và một ấn tượng riêng rẽ không nhòa lẫn với ai. Gã mặc áo màu nâu sẫm. Những đường ráp nối hằn lên dấu mòn và bạc màu. Rất nhiều đường may nổi cộm và rất ư là nhiều nút. Đôi giày bết đầy bùn đất như là gã vừa bước ra từ một nơi đầy gió cát bùn lầy. Gã vẫn hay lắc lư cái cổ dài với mớ tóc dài bò quanh cổ. Lạy Chúa, từ những ngày người ta ghét tóc dài đến mức đón đường mà cắt xén nó đi gã vẫn để tóc dài và vẫn màu áo nâu sẫm ấy. Trải qua bao biến thiên của mốt tóc đàn ông nào tóc đinh, tóc đuôi gà, tóc dài, rồi cạo trọc. Theo tôi có lẽ tóc dài đến cổ là dễ trông nhất. Nói như vậy không có nghĩa là tôi có cảm tình với gã. * - Chào cô, xin được làm quen. Tôi là chiến sĩ thi đua của nhà máy cơ khí X. Tên tôi là Viễn. Xin cô cho biết quý danh và là chiến sĩ thi đua của ngành nào? Người đàn ông trung niên mặc áo màu nâu mang kính cận ngồi cạnh tôi nói vậy. Tôi giật mình: Quỷ thật, mình đã định ra về từ lúc bế mạc cuộc họp. Tôi rất sợ cái không khí của tiệc tùng, ăn uống, đám đông. Nếu tránh được đó là dịp may nhưng vì cái mụ đàn bà ba hoa đang phát biểu về thành tích cá nhân. Trong từng hành động, từng lời nói nó bốc lên cái rổn rảng, phô phang của kẻ hãnh tiến, của thành quả đạt được một cách dễ dãi. Nhân danh một phụ nữ thành đạt, mụ tha hồ múa gậy vườn hoang. Tôi ngắm nhìn người đàn bà ấy dưới góc độ một nhân vật truyện mà tôi khó tưởng tượng khơi khơi được. Và tôi đã đi theo mụ ta cho đến phòng ăn của hội nghị. - Tôi tên là Phương, và thú thật, trong đời tôi chưa bao giờ là chiến sĩ thi đua. Đó là chưa tính vài lần bị lãnh đạo quở trách. Qua làn kính cận vẫn thấy rõ đôi mắt to có phần mơ mộng của gã ánh lên sự ngạc nhiên và thích thú. Cái miệng hơi rộng ấy khi nghiêm trông rất đẹp trai và khi cười nó mang nét gì hơi đểu đểu mà tôi mơ hồ thấy rằng phải chắt lọc sự thật trong những điều gã nói. Nhưng gã vẫn từ tốn trong từng lời nói, cái nghiêng đầu lễ độ đầy chất nịnh đầm. - Vậy xin phép hỏi cô có mặt ở đây để làm gì? Tự nhiên tôi muốn trêu chọc gã: - Để nghe những chiến sĩ thi đua như ông tự nói về mình hay nói khác hơn là để gặp những con người tinh túy, thành đạt của tỉnh nhà và phổ biến những điều ấy cho người người, nhà nhà cùng nghe để học tập. Trái với dự đoán của tôi, điều tôi nói làm gã cười rất tươi. Cái cười có thể thấy hai mươi bốn cái răng đều tăm tắp và trắng bóng, đồng thời nó cũng tiềm tàng bản lĩnh và nét ngạo mạn. Sự ngạo mạn như một kiểu phớt lờ câu nói của tôi. - Ra cô là phóng viên ư? Vậy thì tôi cũng xin nói rõ rằng cô đừng có bao giờ định viết bài gương chiến sĩ thi đua về tôi và nhất là đừng chụp hình tôi mà đăng báo dù tôi rất đẹp trai. Cô đừng phật lòng nhé. Không phải tôi quá tự cao, chỉ vì tôi muốn nói thật rằng tôi sẽ bỏ công việc tôi đang làm bất cứ lúc nào tôi muốn vậy thôi. Tôi là thằng bất trị. Gã nói chuyện rất giảo hoạt với mọi người và hình như người trong bàn rất thích nghe gã nói. Đầu óc tôi lơ mơ nghĩ đến những nơi tôi đã đến, những người tôi đã gặp, hình như không ai nói như thế cả. Cũng có người thích làm chiến sĩ vô danh, làm con trai suốt đời ôm nỗi đau tạo ngọc. Và tôi đã gặp vô số những con người thích nổi tiếng, thích nổi trội trong đám đông, bằng thành quả của mình cũng có và cũng có kẻ cướp công, cướp chiến tích của người khác để củng cố, xây đắp cho sự vinh thăng của mình. Nghề nghiệp giúp cho tôi có dịp thấy được sự mãn nguyện của người rỗng tuếch thích xuất hiện trước màn ảnh vô tuyến, thích có ảnh đăng báo, thích được phỏng vấn, được phát biểu... Và tôi cũng biết rõ hậu quả của những bài khen chê như chế rượu quì vào ba-zơ hay a-xít. Tôi không biết bữa ăn ấy gồm những gì, có ngon không. Chỉ nhớ láng máng ánh lửa xanh lét liếm quanh cái hủ nhỏ đựng đầy thịt. Tôi lững thững ra về trên lối dành cho người đi bộ. Và lòng tôi thầm cảm ơn những bông hoa hoàng hậu nở vàng một khoảng sân nhà ai làm cho tôi thấy buổi chiều ấy có một chút dễ thương. Lại cũng gã ấy. Viễn bước bên cạnh tôi và nói: - Thế ra nhà cô trên đường này sao? Tôi định đến thăm người bạn ở cuối đường. Rất hân hạnh được đưa cô một quãng. * - Ai cũng thích được nổi tiếng, được ca ngợi. Tại sao ông thì không? - Ngày xưa đôi lúc tôi cũng thích, nhưng giờ tôi cảm thấy tất cả là phù du và chẳng để làm gì. Hơn nữa lúc nào tôi cũng có ấn tượng với nhà văn, nhà báo vì tôi không thích ai nói láo hay nói thêm. Tôi nổi sùng thật sự: - Thú thật tôi chưa hề có ý định viết về ông nhưng ông có muốn tôi viết về thằng bất trị không? Mặt gã bỗng sa sầm xuống đượm buồn như ai lùa bàn tay vào vết thương của gã. - Biết nói sao đây, rằng tôi không hoàn toàn có ý nghĩ như vậy. Chỗ cô ở đấy phải không. Khi nào có dịp tôi sẽ đến thăm, cô cho phép tôi nhé. - Để làm gì? Để ông sẽ nhạo báng tôi chăng hay để tôi biết thêm về một kẻ bất trị. Vẻ buồn làm cho sự linh hoạt tinh quái của nét điển trai nhuộm vẻ đểu đểu trong nụ cười biến mất. - Cô khó chịu về tôi ư? Cái thằng người tôi nó là vậy. Phá phách đùa cợt và cả quỷ quyệt nữa nhưng đôi khi tôi thấy buồn rũ ra, buồn muốn chết đi được nhất là nói về mình, về bề nổi của mình để được nổi tiếng. Tôi đã lang thang khắp chiều dài đất nước, lăn lóc, vật lộn với đủ trò đời. Vào tù ra khám... Tôi yêu tiền ngang với đàn bà đẹp. Tôi nói thật thà đó. Tôi cười mỉa mai: - Tại sao ông đi nói thật với người hay nói thêm và nói láo như tôi. - Vì tôi thấy ở cô nổi trội lên sự cô độc, sự lạc lõng giữa đám đông, điều đó khiến tôi tin cậy. * Tôi gặp Viễn trên chuyến phà trưa sau vài năm không thấy gã. Tôi không viết một dòng nào về gã nhưng ở gã có nét gì rất riêng chỉ cần gặp lại là nhận ra ngay. Viễn cho tôi biết là đã bỏ nghề cơ khí và chuyển sang nghề nặn tượng mấy năm nay. Gã và vài người bạn thân mở một tổ nhỏ chuyên nặn tượng Thần Tài, Thổ Địa, Quan Âm bằng thạch cao để bán cho các gian hàng bán lẻ. Và hôm ấy Viễn đang trên đường giao hàng trở về. Tôi lơ đãng nhìn khoảng trời đầy mây qua ô cửa nhỏ. Viễn vẫn đều đều kể: - Bỏ nghề cơ khí lại hóa hay. Cô biết không, cái việc nặn tượng này đơn giản vô cùng, nó không đòi hỏi lao động nghệ thuật nhiều như mẹ tôi - bà đã từng là nhà thơ tiền chiến, ở một chừng mực nào đó bà cũng đạt được những vinh quang và lận đận vì những bài thơ của bà. Không có ai quở trách sản phẩm mình làm ra sai trái thế này thế nọ, mà tôi chỉ thấy thiên hạ mua về để lên một vị trí trang trọng nhất và quỳ lạy. Tôi từng biết một người đàn bà rất giàu và rất kênh kiệu. Cả đời bà ta luôn vênh mặt với mọi người, bà ta chỉ cười với đồng tiền và quỳ lạy cung kính trước bàn thờ Thần Tài và tượng Phật Quan Âm. Và cũng xin khiêm tốn mà báo tin mừng với cô rằng đời sống bây giờ của tôi đã khá hơn trước rất nhiều. Đã mua được nhà và sắm được xe nhờ bàn tay lao động của mình - bàn tay biến thạch cao thành thần thánh! Gã lại cười. Cái cười vẫn đẹp và đểu đểu như xưa nhưng hai bên đuôi mắt có vết chân chim. Tôi chia tay với gã khi phà cặp bến. Nhìn bóng áo màu nâu, mái tóc dài kín cổ nhòa lẫn trong dòng người và xe cộ tôi hơi tiếc phải chi có dịp tôi sẽ hỏi gã về một kẻ bất trị. Vậy là đêm tang lễ này tôi gặp lại Viễn. Viễn cũng quen và hàm ơn rất lớn với người chết. Tôi hỏi Viễn những câu xã giao thông thường của những người quen lâu ngày gặp lại. - Bà và các cháu vẫn khỏe, thưa ông? - Cám ơn cô. Hai cháu đang chuẩn bị thi hết cấp ba. Còn vợ tôi, bà ấy như là mẹ Mốc. Đó là người đàn bà trời sinh ra để khổ vì tôi. Tôi làm thinh. Tôi không thích đàn ông nói về vợ như vậy trước mặt một phụ nữ khác. Viễn hỏi tôi: - Bây giờ cô đang làm gì? Còn tiếp tục công việc cũ nữa không? Tôi cười buồn: - Tôi nghe người ta nói ông là thầy bói có tiếng sao không bói xem tôi đang làm gì. Làm cho tôi tin được không dễ đâu. Ừ, sao gặp tôi ông không hỏi tôi về chuyện khác, về chồng con chẳng hạn, như tôi đã hỏi ông vậy? Viễn nghiêm chỉnh: - Tôi không muốn biết chuyện ấy và tôi cũng không thích hỏi những lời xã giao chiếu lệ. Bao giờ tôi cũng thấy cô một mình, cô đơn. Dù cô có đến mười đứa con và một ông chồng mẫu mực đứng sau lưng; dù ba mươi năm sau gặp lại, tôi vẫn thích gọi cô là cô mà không là bà. Cái điều kỳ lạ là đứng trước mặt cô tôi thích nói thật dù tôi rất ghét nói thật với người khác - ghét ngang với tham vọng được nổi tiếng. Một lần cúng nữa bắt đầu. Người quấn khăn tang làm công việc của người thọ tang quỳ trước linh cửu người thân. Nhà sư lại rời binh xập xám tiếp tục kinh kệ và chuông mõ với lòng thành kính và quyết tâm đưa vong linh người đã khuất về cõi Niết Bàn. Cái đầu óc lông bông và phàm tục của tôi lại lan man nghĩ về những lần đi viếng chùa, những lần dùng cơm chay với các vị tu hành trụ trì ở chùa. Tôi từng thấy nhà sư cho vào mồm những miếng thịt heo quay, cá chiên, tôm hùm hấp, mắm với rau sống. Dĩ nhiên những món ăn ấy được chế biến từ tàu hủ và rau quả. Các vị tu hành cứ thoải mái ăn uống chẳng ai cấm sự phong phú của óc tưởng tượng giữa thật và giả. Tôi không dám nói với ai ý nghĩ rằng nên chăng chế biến những con người bằng chất dẻo rồi thổi căng phồng lên, rồi trang phục như người thật và đặt trong giường ngủ các vị tu hành trai giới cho bớt lạnh lẽo những đêm dài cô quạnh. Gã thầy bói vẫn ngồi im lìm vẻ trầm ngâm như một triết gia. Tôi giục một lần nữa: - Ông bói dùm tôi một quẻ đi chứ. Đúng cũng được mà sai vạn dặm cũng được. Ngày xưa tôi cũng thỉnh thoảng đi xem bói, có điều bây giờ trong tôi không còn ngây thơ và cả tin nữa. - Thầy bói gì tôi cô dư biết rồi, tại người ta gọi vậy thôi. Chẳng qua là thời gian tôi ở tù chung với một người biết ít nhiều về chỉ tay, tướng số, tử vi. Tôi học lóm rồi nghiên cứu thêm ở sách vở nhưng chủ yếu vẫn là tôi học ở trường đời. Qua giao tiếp, va chạm với đủ hạng người đã định hình những tính cách cho mỗi loại người. Họ có những cái chung nhất định nào đó và có những cái rất riêng mà khi tiếp xúc mới phân định chi li cho từng người... Nó đòi hỏi sự nhạy bén như ông cha nếm rượu của Alphonse Daudet vậy, không thể truyền hết cho ai được đâu. Lúc đầu tôi chỉ tào lao với mấy bà bạn hàng quen ở các quầy bán lẻ. Coi tay, coi tướng cho vui. Chẳng ngờ tiếng đồn lan xa rồi người ta tìm đến tôi nhờ xem giúp chỉ tay đoán tương lai hậu vận. Tôi nhìn bàn tay kết hợp với cách nói năng và nhiều thứ khác. Có khi người ta tự khai về mình mà không hay. Và tôi đã nắm bắt những mấu chốt, những kẽ hở của lời nói mà đoán định. Thường người ta đến xem bói khi người ta đã mất mát hoặc đang chiếm lĩnh cái điều mà họ canh cánh bên lòng là sợ mất hay điều ngoài sự mong chờ. Buồn cười nhất là những cô gái sợ người tình ruồng bỏ hoặc đã bị bỏ rơi. Họ đến tự khai hết mọi quan hệ hai người rồi yêu cầu mình cho hướng giải quyết. Nhưng đáng buồn cười nhất là một cơ quan nọ đang có sự cố nội bộ, năm phe, bảy phái gầm ghè nhau. Ai cũng sợ bị hất khỏi chỗ đứng. Không hiểu có thằng quỷ tha ma bắt nào nó chỉ đến tôi. Vậy là tôi hỏi khéo, nó khai hết nội tình xung đột rồi hỏi tôi phải làm sao. Rồi ngày khác cũng những người của cơ quan ấy lần lượt đến hỏi tôi, nhưng không ai biết ai đến tôi cả. Tôi đã nghe từ mọi phía và quá rõ đường đi của mỗi người. Tôi ung dung có lời đoán định và lời khuyên như một bàn cờ tôi sắp và điều quân khiển tướng không chút vấp váp, rồi đâu lại vào đấy. Mọi người coi tôi là thánh sống. Tôi được ra vào cơ quan ấy một cách thoải mái và được xem như một thượng khách đặc biệt. Ngẫm lại mà buồn cái thuở hàn vi, nơi ấy chưa chắc mình đã được đặt chân đến. Cái thuở mà tôi đọc được cách đối xử thậm tệ của con người và đầy đủ những bộ mặt người tráo trở. - Vậy ra ông cũng là người quan trọng và là thầy bói nổi tiếng. - Biết làm sao được điều mà tôi không thích. Mọi điều tôi thích tôi đã làm. Tôi chòng ghẹo những người nghiêm chỉnh và tôi đùa với những việc không thể đùa. Tôi làm cho nhiều đàn bà, con gái hư hỏng vì tôi. Tất cả những cái đó tôi đều phải trả bằng cái giá không rẻ đâu. Gã thở dài. Nhưng bây giờ tôi đâm ra yêu cái công việc bói toán này mới chết chứ. Chẳng gì nó giúp tôi hiểu sự muôn mặt của con người, sự oan khiên, nỗi bất hạnh mà ai đó muốn dán cho nó bằng nhãn hiệu bình lặng yên lành. Tôi biết nhiều điều để tát vào mặt cái thằng ngây thơ trong tôi. Tôi sẽ bơi lội trong dòng đời đục trong, nông sâu để đùa cợt. Một ngày nào đó không đùa cợt được nữa tôi sẽ ngồi ngắm nhìn, nghiên cứu dáng người quì trước mặt Thần Tài, nghiên cứu ngôn ngữ van xin cầu nguyện của con người trước đấng thiêng liêng. Chừng ấy những cái túi biết trong tôi đã lưng lửng, cô muốn tìm đến để nghe tôi xin thật thà kể lại mà không dối trá. Tôi thề. Gã lại cười. Sao bao giờ trong cái cười điển trai của gã cũng ánh lên nét đểu đểu đến buốt lòng. Không vì thương, không vì ghét, vì lẽ gì tôi đã từng làm cái việc cau bảy bổ ba, cau chín bổ ra làm mười. Chưa bao giờ tôi cho mình là kẻ đểu. Tôi không nỡ nhìn tôi bằng con mắt nghiêm khắc nhất của lương tâm, hay sự chà đạp của cuộc đời để lại những vết hằn trong tâm hồn làm cho tôi xót xa thương mình? * Mưa lại rơi. Người ta sửa soạn khiêng quan tài đi chôn. Vị thầy tu ngồi im không tụng kinh gõ mõ nữa và cũng thôi cái công việc binh xập xám đầy ngoạn mục kia. Tôi không tài nào đoán định được nhà sư đang nghĩ ngợi điều gì? Về một cõi Niết Bàn có thật để ngày đêm tiến tới? Về sứ mệnh của người nối liền cõi trên và nhân gian để sám hối mọi tội lỗi cho chúng sinh? Hay là sư đang nghĩ về một trò chơi hấp dẫn nào đó mà không phạm giới cấm? Và Viễn - gã vẫn ngồi trầm ngâm nhìn ra màn mưa giăng bủa trên mặt sông khuya khoắt. Gã nghĩ gì? Nhớ đến một trong những người đàn bà đẹp mà gã đã ghé qua đời họ? Hoặc vô số những người đến tự nguyện kể lể đời tư uẩn khúc, đường hoạn lộ thăng trầm đầy đột biến và nhờ gã gióng lên những lời tiên tri vàng ngọc để người ta lo lắng, vui buồn, hí hửng hoặc có biện pháp củng cố những gì đang nắm giữ. Còn tôi giá như bây giờ đấng thiêng liêng hiện ra trước mặt và cho phép tôi toại nguyện điều mong ước tôi cũng thú thật là tôi không biết mình muốn gì và sẽ từ chối điều xin xỏ. Nhưng có điều quái dị là khi đứng trước người đã nhắm mắt buông xuôi hai tay tôi vừa thấy sự phù du lẫn trò hề. Bất giác tôi cảm thấy thương con người còn đi bằng hai chân trên mặt đất hơn. Thương cõi Niết Bàn không biết còn gần hay xa tầm với của những bậc tu hành thích tắm biển và chơi xập xám. Thương nét đểu cáng của người đàn ông từng biến thạch cao thành thần thánh. Và tôi cũng thương sự ngông cuồng khờ khạo một thời mà tôi phải trả bằng giá quá đắt. Rồi mai... Qui luật muôn thuở của kiếp người. Phạm Thị Ngọc Điệp Nguồn: http://www.vannghesongcuulong.org.vn
-
Nhà thơ Thi Hoàng cách đây 70 năm ở tuổi thiếu niên, ông đã giật giải bài thơ hay nhất mô tả "trăng thu" mà không đuợc dùng từ thu trong bài thơ, vuợt qua tất cả các nhà thơ gạo cội thời đó. Duới đây là toàn bộ bài thơ, mờì mọi nguời thuởng thức. Laviedt TRĂNG THU Thi Hoàng Suơng mỏng lanh tanh vắng lặng tờ Buồn xưa náo động mấy vần thơ Rưng rưng mắt lệ chàng mong nhớ Phơi phới mây sa thiếp hững hờ Bến quạnh lau già nguời chểnh mảng Ruợu tàn canh vắng khách bơ vơ Lầu cao ai đó nâng rèm trúc Hồn lẻ đêm nay có thẫn thờ. Cảm tác TRĂNG THU /I Thiên Sứ Em mộng về đâu? Em mất về đâu? Đêm đông lạnh, ngọn đèn sầu.... Ấy mầu hương khói là mầu mắt xưa... .....................................Thơ Đinh Hùng Hồn lẻ đêm nay có thẫn thờ? Còn đâu người cũ đến trong mơ... Khói sương vương vấn tình hư ảo. Phảng phất hương bay khắc khoải chờ. Hờ hững trăng suông soi rèm cửa. Bên hè gió thoảng đợi hồn thơ. Rơi nghiêng chiếc lá lay người mộng... Hồn lẻ đêm nay có thẫn thờ. Họa TRĂNG THU /II Thiên Sứ Khắc khoải năm canh giấy một tờ. Trăng xưa đã khuất nẻo hồn thơ Lá rơi xào xạc đâu niềm nhớ? Gió hú miên man cảnh hững hờ. Bến vắng cành đa ru bóng ngả. Sông xưa sóng dạt trách bơ vơ. Người đi chốn cũ còn nhung nhớ. Hồn lẻ đêm nay mải thẫn thờ.
-
VÔ ĐỀ Thi Hoàng Rưng rưng mắt lệ chàng mong nhớ Phơi phới mây sa thiếp hững hờ Bến quạnh lau già người chểnh mảng Rượu tàn canh vắng khách bơ vơ Lầu cao ai đó nâng rèm trúc Hồn lẻ đêm nay có thẫn thờ * Thiên Sứ Hồn lẻ đêm nay có thẫn thờ ? Tình xưa rơi rụng nửa vần thơ... Mắt lệ nhạt nhoà miền cát trắng. U lạnh hồn ai vẫn đợi chờ. AI VỀ SÔNG TƯƠNG Laviedt Ai về trên bến sông Tương Trăng hòa bóng nước vấn vương mây sầu Hỡi chàng thi sĩ ,vì đâu Tiếng tơ réo rắt canh thâu lệ tràn Đắm say với ánh trăng vàng Thuyền cầm ôm bến hận ngàn ngàn thu Họa Thiên Sứ Quân tại Tương giang đầu Thiếp tại Tương giang vĩ. Tương tư bất tương kiến. Đồng ẩm Tương Giang thuỳ. ...........................................................Cổ thi Gửi người cuối bến sông Tương. Trăng vàng năm cũ buồn vương tóc sầu. Cuộc đời bãi bể nương dâu. Cung đàn lạc điệu, duyên đâu bẽ bàng... Thuyền trôi theo ánh trăng tan. Ôm đàn nhỏ lệ vào ngàn thiên thu...
-
Chuyện không hợp ý cười thêm gượng. Đời thiếu tri âm, sống cũng thừa ....................................Ngân Giang Nữ sĩ * CÔ LIÊU Laviedt Cô liêu cho hồn ai Yêu thuơng chiều nắng phai Vô tình tình ai , biết Nến tuôn lệ đêm dài Họa Thiên Sứ Lang thang giữa trần ai Tình người như nắng phai. Hương xưa trong gió thoảng. Ảo huyền như Thiên Thai. KHAO KHÁT Laviedt Tình yêu dù vạn đời Vạn kiếp chẳng hề vơi Con tim mãi khao khát Ánh trăng vàng lả lơi Họa Thiên Sứ Tặng Laviedt Tiếng xưa vọng bên trời Trong tình đời chơi vơi... Tri âm từ muôn kiếp Ngập ngừng trong lá rơi... * Trăng ngàn một phút lả lơi. Để hồn tôi mãi tả tơi nỗi sầu.
-
TƯƠNG PHÙNG LÀ ĐỂ BIỆT LY BIỆT LY I Thiên Sứ Chiều về chầm chậm trong tôi. Gửi vàng theo nhớ cuối trời xa xôi. Người ơi! Còn nhớ tới tôi. Nơi xa xôi ấy còn lời yêu thương. Núi rừng còn dậy muôn hương. Măng tươi, rượu ngọt đã nhưòng cho ai... BIỆT LY II Thiên Sứ Phố xưa khuất vạt nắng chiều. Về đây, chốn cũ tiêu điều khói sương. Tình xưa khuất nẻo vô thường. Ai đào kỷ niệm tìm hương cuối mùa. BIỆT LY III Thiên Sứ Người đi để một trời cô quạnh. Nắng ấm như thêm lạnh giữa hè. BIỆT LY IV Thiên Sứ. Một đời gió có vì ai Xô nghiêng chiều tím ra ngoài hoàng hôn. ..............................................Đặng Nguyệt Anh C ó một thuở núi rừng vương mây trắng. Gió du hồn, trăng nhạt lắng tai nghe. Hương rừng núi sắt se lòng lữ khách Thả giọt buồn len lỏi lách trong tim.* Từ đâu gió thổi đầy mây tím Xô chiều vàng tê tái biệt hoàng hôn. Đêm sơn cước vỡ màu trăng hoang dại. Áng phù vân đọng lại nét trăng buồn BIỆT LY V Thiên Sứ. Hồn ai trong cõi cô liêu Yêu thương đã gửi theo chiều nắng phai. Vô thường ai biết tình ai. Theo dòng lệ nến ngắn dài đêm thâu. THIÊN THU LY BIỆT Thiên Sứ Nhạn Môn quan - Nhạn Môn quan. Thiên thu ly hận bao giờ tan? Cánh nhạn lạc bầy nơi viễn xứ. Mỹ nhân sầu cảm ánh trăng tàn Gió lạnh ru hồn người lữ thứ. Chiều rơi ôm tận sầu nhân gian Gót hài năm cũ rêu phong phủ Vàng rơi! Vàng rơi… thu miên man. Thơ cho VƯƠNG CHIÊU QUÂN. Chiêu Quân Oán tê tái, đôi lòng, đôi dạ Hận sầu sầu, một kiếp long đong, Nợ duyên vay trả nghiệt ngùng Mơ trong bóng dạ gương trăng mịt mờ Thâm tình gán tự ngàn xưa Nặng đôi cánh nhạn trời chưa tỏ lòng Mịt mùng Chúa biết cho không? Chiêu Quân nàng hỡi còn trông ngóng gì! Đường xa cao thấp bước đi. Họa VƯƠNG CHIÊU QUÂN. Nợ tình chưa trả cho ai Khối tình đem xuống tuyền đài chưa tan ..................................................Trương Chi Thiên Sứ Đường quan ải, trùng trùng điệp điệp.. Hận Quân Vương , cho thiếp xa chàng. Kiếp này, duyên nợ bẽ bàng Trướng hoa ôm hận, đèn trong tỏ mờ. Nợ tình duyên tự ngàn xưa... Trời ơi! Sao nỡ nắng mưa ngập lòng. Tràng An - Điện cũ nhớ mong . Chiêu Quân đành nỡ dứt lòng ra đi. Nhạn Môn Quan ...............Lệ tràn mi Họa VƯƠNG CHIÊU QUÂN. Laviedt Tràn mi huyết lệ Nhạn Môn Quan Nguời đi niềm hận bao giờ tan? Tài hoa một kiếp vương bi lụy Bạc mệnh hồng nhan phận úa tàn Quân vương người hỡi tình chưa trả Chín suối ngậm đau nỗi thế gian Mênh mông sông nước mờ sương phủ Một khối tình vào thu miên man.
-
Căn cứ trên lá số này: Tháng 4 Âm trở đi sẽ tốt. Nhưng tháng 8/ 9 lại vào vận xui liên quan đến công việc và tình cảm. Sang năm, mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ