-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
NHỮNG BÀI VIẾT LIÊN QUAN * Hàn Quốc và Phong Thuỷ Có lẽ trong chúng ta ít nghe nói về thuật Phong Thủy ở Hàn Quốc. Nhưng bản tin dưới đây cho thấy đất nước này đã tin vào thuật phong thủy từ lâu mà họ gọi là Phoonsoo. Vậy phương pháp ứng dụng Phong thủy của Hàn Quốc bắt nguồn từ đâu? Tôi tin rằng nó không phải do từ Trung Quốc sang và bởi vậy, đã có một thời người Hàn Quốc đã đăng ký với cơ quan văn hóa Liên Hiếp Quốc - thuật Phoongsoo này là di sản văn hóa của họ. Điều này cho thấy rằng: Thuật phong thủy không thể xuất phát từ Trung Quốc, mà nó thuộc về một nền văn hóa thống nhất đã tồn tại trước đó. Quí vị và anh chị em quan tâm tham khảo thông tin dười đây. Nguồn Vietnamnet.net Bầu cử TT Hàn Quốc làm dịch chuyển cả xác chết 14:21' 15/11/2007 (GMT+7) Phần lớn người Hàn Quốc đều tin rằng vị trí mồ mả của tổ tiên có thể quyết định vận may của họ và điều này được các chính trị gia khắc cốt ghi tâm. Trước thềm bầu cử Tổng thống, vài người bắt đầu chuyển mộ tới những nơi mà thầy bói cho rằng nó sẽ giúp họ nhận được phiếu ủng hộ. Cựu Chủ tịch đảng Đại Dân tộc Lee Hoi-chang đã chuyển 9 ngôi mộ của tổ tiên từ Yesan-ni tới Nongmun-ni ở Yesan-gun, tỉnh Chungcheong với hy vọng có nhiều may mắn trong lần tranh cử Tổng thống thứ 3. (Ảnh Yonhap) Chuyện mồ mả và cơ hội làm Tổng thống "Vận mệnh của mỗi cá nhân bị chi phối bởi nơi mà tổ tiên họ được chôn" Park Min-chan, một chuyên gia về Poongsoo (tương tự luật phong thủy ở Trung Quốc) cho biết. Theo tín ngưỡng vào Poongsoo, nếu đặt các vật thể theo một cách hài hòa với những nơi xung quanh nó sẽ thu được sức mạnh thiên nhiên thần bí. Vài tháng trước, một trong ba ứng viên hàng đầu của cuộc bầu cử tổng thống ngày 19/12 đã mời ông Park tới giúp dịch chuyển 9 ngôi mộ của ông bà để đảm bảo có được kết quả tốt trong cuộc bỏ phiếu. "Tôi đã chọn một nơi ở trên núi. Đó là ngọn núi có hình một người đang đọc sách", ông Park trả lời phỏng vấn của hãng tin Reuters. Thông tin trên đã tiếp sức cho những dự đoán rằng ông Lee Hoi-chang, cựu thẩm phán 72 tuổi, sẽ tuyên bố ra tranh cử tổng thống lần 3. Việc này có thể ảnh hưởng mạnh tới cuộc đua vốn do ông Lee Myung-bak của đảng đối lập Đại dân tộc (GNP) chiếm ưu thế. Các cuộc thăm dò cho thấy, nếu Lee Hoi-chang quyết định ra tranh cử, ông sẽ giành được hơn 20% phiếu ủng hộ và khiến ứng viên Lee Myung-bak sẽ chịu tổn thất. Hiện, mức độ ưa chuộng của cử tri với ông Lee Myung-bak luôn ở mức hơn 50%. Cựu thị trưởng Seoul, cựu CEO của Tập đoàn Hyudai Lee Myung-bak, cũng không phải là người xa lạ với Poongsoo. Người đứng đầu nhóm nghiên cứu Poongsoo ở Seoul cho biết, gia đình ông Lee đã tìm được một số điểm rất đẹp để thờ cúng tổ tiên. Ông Chung Dong-Young, 54 tuổi, một ứng viên khác trong cuộc chạy đua vào ghế Tổng thống cũng đã tiến hành cải tạo nghĩa trang gia đình, gồm vài chục ngôi mộ, ở quy mô lớn vào năm 2005, tờ Chosul Ilbo cho biết. Ông Chung hiện đang theo sát ông Lee Hoi-chang và Lee Myung-bak về tỷ lệ được nhiều người ủng hộ. Với những gì đang diễn ra trước thềm bầu cử Tổng thống, rõ ràng đó không chỉ là cuộc so tài giữa các ứng viên mà còn là cuộc đua giữa các thầy Poongsoo. Nhiều ngôi mộ khác chắc chắn sẽ được dịch chuyển trước cuộc bầu cử Quốc hội vào tháng 4 sang năm. Poongsoo làm tăng cơ hội thắng cử Poongsoo cũng tương tự thuật phong thủy ở Trung Quốc. "Những người đặt niềm tin vào Poongsoo còn tin tưởng vào sự sắp đặt các ngôi mộ hơn cả những người tin vào phong thủy", ông Park cho hay. Phương tiện truyền thông địa phương cho biết, cựu Tổng thống Kim Dae-jung, người hai lần thua cuộc trong cuộc bầu cử Tổng thống, đã mời một chuyên gia poongsoo tới và xê dịch mồ mả tổ tiên. Hai năm sau, ông Kim Dae-jung đã thắng cử Tổng thống. Phần lớn người Hàn Quốc đều mời các chuyên gia về Poongsoo tới xác định vị trí đặt mộ phần cho gia đình và sau đó, họ thường không di chuyển mộ thêm nữa. Tuy nhiên, kể từ khi Poongsoo thường được hoàng gia triệu đến để hỏi ý kiến nhằm đảm bảo quá trình chuyển giao quyền lực từ thế hệ này sang thế hệ khác một cách trôi chảy, nhiều người Hàn Quốc sẵn sàng chấp nhận việc các nhà lãnh đạo tương lai dịch chuyển mồ mả để được may mắn hơn trong bầu cử, ông Park nói. Việc thờ cúng tổ tiên được tiến hành một cách triệt để ở Hàn Quốc. Thậm chí, ngay cả những người theo Cơ đốc giáo cũng tiến hành nghi lễ này. Theo Bộ Văn hóa Hàn Quốc, năm 2005 có khoảng 53,1% dân nước này theo một tôn giáo nào đó. Tính tổng dân số, 22,8% theo đạo Phật, 18,3% theo đạo Tin Lành, 10% theo Thiên Chúa giáo La Mã và chưa đầy 1% theo một giáo phái nào đó. Chuyên gia Poongsoo Park đã chỉ bảo cho nhiều chính trị gia Hàn Quốc và thậm chí còn giúp các ứng viên Tổng thống Mỹ, khuyên họ nên đặt chôn người thân ở đâu nếu muốn có nhiều phiếu ủng hộ. Hoài Linh (Tổng hợp) Thiên Sứ giới thiệu
-
Ngày ấy tôi còn trẻ, mới mười tám, đôi mươi gì đó. Lúc ấy tôi không thể hiểu nổi vẻ đẹp và sự tuyệt kỹ của Thơ Dường. Một lần đến thăm mẹ tôi. Tôi nói với bà: "Sao mẹ không làm thơ lục bát đi!". Mẹ tôi bật cười, bảo tôi: "Con đi lấy giấy bút lại đây, mẹ đọc cho con chép một lúc vài chục bài thơ lục bát!". Sau này lớn lên, tôi thấy thơ Lục bát cũng hay chứ. Nhưng một bài thơ Đường đạt đến tuyệt kỹ thì thật là khó. Xem lại những bài thơ Đường của tôi thật là ngớ ngẩn. Đang hì hục sửa lại. Thiên Sứ
-
Nên sanh vào năm 2011. Vào topic "Sinh trai hay gái" để tham khảo. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
-
Bài thơ của Hoài Châu buồn quá. Nhưng bài họa chắc buồn hơn. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...0&start=100 Thiên Sứ
-
Cảm tác thơ Hoài Châu Hoài Châu Mưa rơi như giọt lệ sầu. Mưa xa khuất nèo, tình đầu cũng xa. Mưa hòa tiếng gió xa xa. Mưa gào như mảnh tình xa đổi màu. Mưa rơi trên đỉnh tình sầu. Mưa sa rụng vỡ thay màu cỏ cây. Mưa nghe cuồn cuộn đắng cay. Mưa như nức nở đổi thay một đời. Họa Thiên Sứ Lệ ai mặn biển u sầu. Trăng buông trên bến giang đầu xót xa. Duyên tình trong cõi phôi pha. Dáng xưa thôi đã nhạt nhòa trời Ngâu. Lạnh lùng nước chảy qua cầu. Ngàn thu lá úa phai màu cỏ cây. Người đi gửi lại đắng cay. Một trời dâng lệ, gió mây nghẹn lời.
-
Aoanh72 thân mến. Mọi dự báo đều cần có thời gian chứng nghiệm. Cũng có thể chú và một số cao thủ Lạc Việt độn toán đồng dự báo như chú bị sai. Nhưng từ quẻ cho đến sự suy nghiệm, chú thấy rằng hoàn cảnh hiện nay của Hoa Kỳ và các mối quan hệ quốc tế khiến nó chỉ có thể chấp nhận ứng cử viên của đảng Cộng Hòa. Hay nói cách khác: Hoa Kỳ phải tiếp tục những gì mà họ đang làm. Do đó dù với một chương trình phục hưng kinh tế hấp dẫn trước mắt thì những ứng cử viên Dân Chủ cũng không thể trúng cử Tổng Thống. Đã từ lâu chị Laviedt đã dự báo rằng: Bà Clinton không thể trở thành Tổng thống Hoa Kỳ. Thôngv tin dưới đây cho thấy dự báo của chị Laviedt rất khả thi: Nguồn Vietnamnet.net Thứ Sáu, 02/05/2008 - 2:58 PM Bị "quay lưng", bà Clinton điếng người (Dân trí) - Ứng viên tổng thống Mỹ Hillary Clinton hôm qua đã bị một phen điếng người sau khi cựu chủ tịch đảng Dân chủ Joe Andrew, một trong những siêu đại biểu ủng hộ bà từ nhiều năm nay, bất ngờ quay sang ủng hộ đối thủ Barack Obama. Joe Andrew cho rằng cuộc đua kéo dài vì tấm vé đề cử của đảng Dân chủ sẽ chỉ khiến ứng cử viên phe Cộng hoà John McCain có thêm lợi thế. Do đó, ông Andrew đã yêu cầu các thành viên đảng Dân chủ “loại bỏ chính trị tiêu cực kiểu cũ” và đoàn kết ủng hộ đối thủ của bà Clinton trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, ông Obama. Ông Andrew là người được Tổng thống Bill Clinton bổ nhiệm vào vị trí chủ tịch đảng Dân chủ khi gần kết thúc nhiệm kỳ tổng thống thứ hai. Trong thư gửi các siêu đại biểu khác, ông Andrew viết: “Ứng viên tổng thống John McCain giờ đây đã đủ khả năng cạnh tranh với 2 ứng viên còn lại của chúng ta. Bỏ phiếu cho Clinton là bỏ phiếu cho một chiến dịch kéo dài, tự hủy diệt của đảng Dân chủ. Bỏ phiếu cho tiến trình này cũng đồng nghĩa với việc bỏ phiếu cho John McCain”. Lá thư này của ông Andrew chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến chiến dịch vận động tranh cử của các ứng viên tổng thống Mỹ trên cả nước nói chung cũng như tại Indiana, nơi sẽ diễn ra cuộc bầu cử sơ bộ vào tuần tới. Phản ứng trước những bình luận của ông Andrew, bà Clinton phát biểu trên chương trình “Nightline” của đài ABC: “Tôi nghĩ cuộc đua này là tốt cho Đảng Dân chủ. (...) Mọi người có thể quyết định điều họ muốn. Đó là quyền của họ. Nhưng bất cứ ai tin rằng cuộc đua này không tốt cho đảng thì tôi nghĩ họ không chú ý. Tôi cho rằng mức độ nhiệt tình của cuộc đua đang giúp xây dựng một nền móng khỏe và vững chắc hơn cho đảng Dân chủ”. Việc ông Joe Andrew bất ngờ quay sang ủng hộ Obama đã phản ánh những lo ngại trong nội bộ đảng Dân chủ, rằng cuộc chạy đua giữa cựu đệ nhất phu nhân và Thượng nghị sĩ bang Illinois đang làm lợi cho ứng viên John McCain. Sự "quay lưng" của siêu đại biểu Andrew diễn ra vào đúng thời điểm thuận lợi cho Obama. Trong cuộc bầu cử sơ bộ, Thượng nghị sĩ bang Illinois đã giành chiến thắng tại nhiều bang hơn và cũng nắm giữ số đại biểu nhiều hơn so với bà Clinton, 1.736 so với 1.602 phiếu. Ông Andrew là một trong 5 siêu đại biểu tuyên bố ủng hộ Obama trong ngày 1/5, so với số 4 siêu đại biểu hậu thuẫn bà Clinton. Tuy nhiên, những ngày gần đây, ứng viên da màu Obama đã phải nỗ lực để hạn chế những tổn thất chính trị gây ra do những lời bình luận gây tranh cãi của cựu cố vấn tinh thần, mục sư Jeremiah Wright. Trong khi đó, hy vọng của bà Hillary là ngăn chặn đối thủ Obama tiến gần tới tấm vé đề cử của đảng Dân chủ bằng việc giành chiến thắng áp đảo ở những cuộc bầu cử sơ bộ còn lại. Đồng thời, cựu đệ nhất phu nhân Mỹ hy vọng có thể thuyết phục các siêu đại biểu rằng bà là ứng viên mạnh của đảng để đánh bại John McCain và những người thuộc phe Cộng hoà trong cuộc bầu cử tổng thống. Hiện tại, ông Obama và bà Clinton đang tích cực vận động tranh cử tại Indiana, bang có 72 đại biểu. Bang North Carolina, với 115 đại biểu, cũng tiến hành bầu cử sơ bộ cùng ngày với Indiana, 6/5. Theo các cuộc thăm dò dư luận, ông Obama đang dẫn trước bà Clinton tại North Carolina do số lượng cử tri da màu áp đảo tại đây. VTH Theo AP
-
Gia Nhân viết: Hoàn tòan chính xác! Ai mà chẳng biết gặp người chết không có quan tài chôn. Tặng quan tài làm phước. Phước đức vô lượng. Ai chẳng biết cứu tổ kiến trôi sông. Phúc đẳng hà sa. Nhưng nghiệp chướng nặng nề, cả đời chẳng gặp người chết không có hàng chôn. Suốt kiếp cũng không hề thấy tổ kiến trôi sông. Muốn làm phước cũng chẳng có cơ hội. Thiên Sứ
-
Kính thưa quí vị và các bạn. Tôi mở chủ đề này vì một thắc mắc của tôi. Do trí thức và sự hiểu biết có hạn, nên hy vọng được quí vị ghé ngang đây giải đáp. Từ trước đến nay thể thơ "Thất ngôn bát cú" chúng ta vẫn gọi là "Thơ Đường" và được lý giải là có xuất xứ từ những văn sĩ Trung Hoa thời Đường sáng tạo ra và trở thành phổ biến trong giới thi ca Đông phương gọi là - ảnh hưởng văn hóa Hán. Nhưng theo sự hiểu biết có hạn của Thiên Sứ tôi thì thấy ngay Lý Bạch, Đỗ Phủ cũng rất ít làm thể thơ này (Bản thân tôi chưa tìm thấy bài nào, nhưng vì trí thức có hạn nên không dám nói là không có, mà chỉ nhận xét là "rất ít"), mà thơ Đường lại tỏ ra phổ biến ở văn hóa Việt nhiều hơn ở Trung Hoa. Bởi vậy, tôi nghi ngở: * Thơ Đường không có xuất xứ từ đời Đường - Thế kỷ VI - IX. * Thể thơ này có nguồn gốc từ văn hiến Việt. Mong được quí vị và các bạn cho biết những bài thơ Đường cổ tiêu biểu có nguồn gốc từ các thi sĩ Trung Hoa. Xin cảm ơn. Thiên Sứ
-
BÀI VIẾT SƯU TẦM LIÊN QUAN. Nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thơ Đường luật Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ cách luật xuất hiện từ đời Đường (Tang), Trung Quốc. Thơ Đường luật gọi là thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể, không theo cách luật ấy. Vì giáo dục, thi cử... đều bằng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán, trong đó có thơ theo luật Đường. Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt. Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, người Việt rất ít làm thơ theo luật Đường. Bố cục một bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật gồm 4 phần: Đề, thực, Luận, Kết. -"Đề" gồm 2 câu đầu,câu đầu goị là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đí vào phần sau. -"Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích ró ý đầu bài. -"Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, phát triển rộng ý của đầu bài. -"Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài. Thơ Đường luật nghiêm khắc ở 3 chỗ: Luật, Niêm và Vần. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn, biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này. Luật Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng. LUẬT BẰNG TRẮC Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật". Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc. Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chứ thứ 2-4-6-7 có thể viết là: 1. Luật vần bằng Thất ngôn tứ tuyệt Câu số .....................Vần ..................................Ví dụ: Mời trầu của Hồ Xuân Hương 1 ..........................B......T....B.. B.....................................Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi 2..........................,T......B....T.. B.................................... Này của Xuân Hương mới quệt rồi 3.......................... T......B....T.. T.................................... Có phải duyên nhau thì thắm lại 4.......................... B......T....B.. B.................................... Đừng xanh như lá, bạc như vôi Chữ thứ ............1. 2 3 4 5 6 7 Thất ngôn bát cú Câu số................... Vần............... Ví dụ: Thương vợ của Trần Tế Xương 1.........................B......T...B..B..................Quanh năm buôn bán ở mom sông 2.........................T......B...T..B................. Nuôi đủ năm con với một chồng 3........................ T......B...T..T..................Lặn lội thân cò khi quãng vắng 4.........................B......T...B..B..................Eo sèo mặt nước buổi đò đông. 5.........................B......T...B..T................. Một duyên hai nợ âu đành phận 6.........................T......B...T..B..................Năm nắng mười mưa dám quản công. 7.........................T..... B.. T..T.................Cha mẹ thói đời ăn ở bạc! 8.........................B......T...B..B..................Có chồng hờ hững cũng như không! Chữ thứ ..........1 2 3 4 5 67 2. Luật vần trắc Thất ngôn tứ tuyệt Câu số ....................Vần....................... Ví dụ: Phong Kiều dạ bạc (楓橋夜泊)của Trương Kế (张继 Zhang Jì)Phiên âm Hán-Việt 1.......................T.....B.....T..B...........................月落烏啼霜滿天... Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên 2.......................B.....T.....B..B............................江楓魚火對愁眠...Giang phong ngư hỏa đối sầu miên 3.......................B.....T.....B..T............................姑蘇城外寒山寺...Cô Tô thành ngoại Hàn San tự 4.......................T.....B.....T..B............................夜半鐘聲到客船...Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền Chữ thứ.........1 2 3 4 5 6 7 Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà (chuyển thể thành lục bát): Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều Trăng tà chiếc quạ kêu sương Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San Thất ngôn bát cú Câu số .........................Vần ....................Ví dụ:....... Nhớ bạn phương trời của Trần Tế Xương1 ............................T... B.... T. B .............................Ta nhớ người xa cách núi sông 2 ............................B... T.... B. B ..............................Người xa, xa lắm nhớ ta không 3 ............................B... T.... B. T ..............................Sao đương vui vẻ ra buồn bã! 4 ............................T... B.... T. B ..............................Vừa mới quen nhau đã lạ lùng 5 ............................T... B.... T. T ..............................Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng 6 ............................B....T.... B..B ..............................Khi riêng, riêng cả đến tình chung 7 ............................B... T.... B..T ..............................Tương tư lọ phải là trai gái, 8 ............................T... B.... T..B ..............................Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng Chữ thứ .............1 2 3 4 5. 6 7 Luật đối Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi "thất đối". Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan: Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà, "Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về sinh động vật, còn một câu diễn tả về tĩnh vật, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "chợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động vật). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ. Niêm Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ xuất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm". Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau: câu 1 niêm với câu 8câu 2 niêm với câu 3 câu 4 niêm với câu 5 câu 6 niêm với câu 7. Chẳng hạn với luật vần bằng: - B - T - B B - T - B - T B - T - B - T T - B - T - B B - B - T - B T - T - B - T B - T - B - T T - B - T - B B Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3: Cỏ cây chen đá lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Vần Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vận". Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan: Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau. Biến thể Ngoài dạng thơ Đường chuẩn luật là "thất ngôn bát cú" còn có các biến thể sau: Thất ngôn tứ tuyệt Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều. Ví dụ: bài thơ sau của Quách Tấn Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm Trông chừng bến cũ biệt mù tăm Cảm thương chiếc lá bay theo gió Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm Ngũ ngôn tứ tuyệt Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần. Ví dụ: từ bài trên mà thành Thuyền đưa khách thuận dằm Bến cũ biệt mù tăm Chiếc lá bay theo gió Tình xưa ghé đến thăm Ngũ ngôn bát cú Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên. Yết hậu Yết Hậu (yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ. Ví dụ: bài Lươn Cứ nghĩ rằng mình ngắn, Ai ngờ cũng dài đườn. Thế mà còn chê trạch: Lươn! Vô Danh
-
C. MẤY ĐIỀU KỴ TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT Phép làm thơ, có mấy điều tối kỵ không nên phạm đến: 1- Thất luật : Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng 2- Thất niêm : Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dưới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo luật Trắc mà câu dưới làm sang luật Bằng 3- Lạc vận : Đang theo vần này mà gieo sang vần khác, như vần trên là trời mà vần dưới là mây thì gọi là lạc vận. 4- Xuất vận : Người ta đã hạn định cho những vần gì, mà mình dùng vần khác, thì gọi là xuất vận. 5- Trùng vận : Câu trên đã dùng một vần, câu dưới lại dùng như thế nữa thì gọi là trùng vận. 6- Cưỡng áp : Các vần gieo gượng ép, không được hiệp lắm. 7- Khổ độc : Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẳn, trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẳn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc. 8- Phong yêu hạc tất : từ thứ tư và tứ thứ bảy trong thơ thất ngôn, từ thứ hai và từ thứ năm trong thơ ngũ ngôn trùng một âm. 9- Đối không chỉnh : Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không được cân. 10- Trùng từ hay trùng ý : Từ hay ý đã dùng rồi mà lại còn dùng nữa. -------------------- Lê Việt
-
B. KỸ THUẬT THƠ Yếu tố quan trọng trong kỹ thuật thơ là phương pháp diễn đạt (poetic diction). Ngoài những phương pháp diễn đạt tinh tế, tân kỳ, đôi khi thơ hay còn do kỹ xảo. Kỹ xảo là phương cách vận dụng tài tình các yếu tố cấu tạo nên bài thơ như: từ (word), câu (sentence), hình ảnh (imagery), nhạc điệu (rythm). Nhạc điệu là yếu tố quan trọng trong thơ về mặt hình thức. Dù làm theo thể thơ cũ hay thể thơ mới, đều có nhạc điệu. Đến cả thơ tự do, không bị hạn chế bởi âm luật cũng được tạo nên một nhạc điệu riêng để dễ gây cảm xúc cho người đọc. Kỹ thuật tuy không phải là yếu tố chính để cấu trúc nên một bài thơ, nhưng một nhà thơ thiếu kinh nghiệm kỹ thuật làm thơ có thể làm thơ hay, nhưng cái hay có thể không trọn vẹn. Thơ họ có thể chứa đựng nhiều ý tưởng hay, đẹp, nhưng có hình thức vụng về về cách dùng chữ, đặt câu, hoặc lủng củng về âm vận, nhạc điệu ... Tất cả các chi tiết này thuộc về kỹ thuật cấu tạo thơ, hay kỹ xảo tu chỉnh, do kinh nghiệm học hỏi hay sáng tác mà có. Như vậy, ta thấy rằng có hồn thơ để làm công việc sáng tạo chưa đủ, mà còn cần biết về kỹ thuật làm thơ và có ít nhiều kiến thức về kỹ xảo càng hay. Thơ thất ngôn bát cú Đường Luật phải có vần, có niêm, có đối chặt chẽ. Thể thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Các câu 3-4, 5-6 phải đối nhau từng đôi một, thì người làm thơ phải tìm chữ đối cho chính xác, như danh từ, tính từ, trạng từ, động từ phải đối nhau từng đôi một và không những đối từ mà còn phải đối ý. Chẳng hạn: Gác mái ngư ông về viễn phố Gõ sừng mục tử lại cô thôn Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương sa khách bước dồn (Bà Huyện Thanh Quan) Nên lưu ý một chi tiết: Ngôn ngữ Việt Nam vốn là Hán - Việt, nên trong thơ có đối thì ngoài những điều kiện trên, các từ đối phải dùng từ Hán đối với Hán, Việt đối với Việt, chứ không thể Hán đối Việt hay Việt đối Hán. Ở những câu thơ trên ta thấy: ngư ông đối với mục tử (Hán), viễn phố đối với cô thôn (Hán), chim bay mỏi đối với khách bước dồn (Việt). Sau đây là bài thơ độc vận "Ai" của cụ Tú Hải Văn để minh họa cho bài viết nầy: NHỚ HUẾ Ai vẫn thương Ai vẫn nhớ Ai. Khuyên Ai chớ vội giận hờn Ai. Tưởng là dặm liễu bay hồn khách. Nào thấy mành hoa thoáng bóng Ai. Gió thuận buồm xuôi vui mặt bạn. Canh tàn rượu tỉnh giật mình Ai. Cầm tay dặn với ba câu chuyện. Biết cậy Ai về nhắn lại Ai.
-
BÀI VIẾT SƯU TẦM LIÊN QUAN. Nguồn - thienduongnhac.com A. NGUYÊN LÝ THI CA Tác giả: Trần Trọng San - Thi pháp thơ chữ Hán Sưu tầm: Lê Việt Tài liệu cổ nhất của Trung Quốc đề cập đến thơ là sách Thượng Thư. Thiên Thuấn điển sách này viết rằng: "Thơ để nói chí, ca để vịnh lời, thanh nương theo vịnh, luật hòa các thanh. Tám âm được hài hòa, không cướp bậc nhau." Người đời sau đều căn cứ vào ba chữ "thi ngôn chí" trong sách này khi bàn về nguyên lý của thi ca. Chữ "chí" ở đây được hiểu là toàn thể tư tưởng và tình cảm con người. Đời Hán, Ban Cố viết trong sách Hán thư rằng: "Thơ để nói chí, ca để vịnh lời. Vì thế lòng cảm nỗi vui buồn, rồi thanh ca vịnh mới thốt ra." Thiên Nhạc ký, sách Lễ ký cũng nói: "Thơ để nói chí, ca để vịnh thanh, múa để động vẻ mặt; ba thứ đó có gốc ở trong lòng, rồi sau nhạc khí mới kèm theo." Nhưng chỉ đến bài Mao thi đại tự của Vệ Hoành đời Hậu Hán thì cái quan niệm về thi ca mới được trình bày rõ ràng: "Thơ do ở chí mà ra. Ở trong lòng là chí, phát ra lời là thơ. Tình xúc động ở bên trong, rồi biểu hiện ra lời. Vì lời không đủ nên thở than, vì thở than không đủ nên vịnh ca, vì vịnh ca không đủ nên bất giác tay múa chân giậm. Tình phát ra thanh, thanh thành văn gọi là âm. Âm của đời thịnh thì yên vui, nghe đó biết chính trị thuận hòa; âm của thời loạn thì oán giận, nghe đó biết chính trị ngang trái; âm của nước mất thì đau buồn, nghe đó mà biết được dân khốn khổ. Bởi thế làm đúng lẽ đắc thất, cảm trời đất, động quỉ thần, không gì bằng thơ. Đấng tiên vương dùng thơ để làm hoà tình vợ chồng, thành đạo hiếu kính, dày nhân luân, đẹp giáo hóa, đổi phong tục." Chúng ta thấy rằng đã từ lâu người Trung Quốc quan niệm thi ca là hình thức đầu tiên của văn học, có trước âm nhạc và văn tự. Như Thẩm Ước đời Lục Triều nói rằng: "Ca vịnh nổi lên, phải từ khi bắt đầu có loài người." Khi nói rằng thi ca là sự biểu hiện tự nhiên của tình cảm, tư tưởng con người, họ đã nêu rõ được yếu tố chính của thơ là cảm xúc. Vì công dụng bộc lộ tình cảm của thi ca nên triều đình có thể biết được tình dân qua những vần thơ truyền tụng trong dân gian; do đó có việc "thái thi" và "hiến thi" trong thời đại của Kinh Thi. Cũng do đó mà thi ca được coi là phương thế sửa chính tình cảm: chính quyền có thể và nên dùng thơ trong việc giáo hóa nhân dân (thuyết "thi giáo"); nhân dân cũng có thể dùng thơ để gián tiếp can ngăn nhà cầm quyền. Đó là khởi nguyên của chủ trương "phúng gián" và quan niệm "văn dĩ tải đạo" trong văn chương cổ điển Trung Quốc. Đến đời Tống, trong bài Thi kinh truyện tự của Chu Hi, vấn đề nguyên lý thi ca được trình bày đầy đủ hơn, và quan niệm "thi giáo" cũng được giải thích cặn kẽ hơn: "Người ta sinh ra vốn tĩnh, đó là tính trời. Cảm sự vật rồi xúc động, đó là cái dục của tính. Đã có dục thì không thể không có tư tưởng. Đã có tư tưởng thì không thể không có ngôn ngữ. Đã có ngôn ngữ thì có điều không nói hết được, mà phát ra lời ngậm ngùi, thở than, tất có âm hưởng, tiết tấu tự nhiên mà không nguôi nổi, do đó thơ được làm ra. (...)" "Lòng người ta vì cảm xúc vì sự vật rồi phát biểu ra lời, cái còn dư lại chính là thơ. Sự cảm xúc của lòng người có tà có chính, cho nên sự phát biểu ra lời có thị có phi. Duy bậc thánh nhân ở trên là không có sự gì cảm xúc mà không ngay thẳng, bất cứ lời nói nào cũng đủ dạy đời. Hoặc có sự cảm xúc nào bác tạp, lời phát biểu nào không thể lựa chọn được, thì người trên hẳn nghĩ đến việc xét mình, rồi nhân đấy mà có lời khuyến trừng, đó cũng là giáo hóa vậy. Xưa trong lúc thịnh thời đời Chu, trên từ nơi giao miếu triều đình, dưới đến chốn hương đảng làng xóm, lời nào nói ra cũng đều là chính cả. Thánh nhân bèn hiệp lời ấy vào thanh luật rồi dùng cho người làng, dùng trong đất nước để giáo hóa thiên hạ. Đến như thơ của liệt quốc, thì mỗi khi Thiên tử đi tuần thú, cũng đều đem ra mà xem xét để thi hành cái phép tắc truất trắc. Từ đời Chiêu Mục về sau, ngày càng suy đồi, cho đến lúc dời sang Đông thì bỏ hẳn không giảng dạy nữa. Đức Khổng tử sinh ra trong thời gian đó. Vì ngài không có chức vị, không thể thi hành chính sách khuyến trừng truất trắc, nên ngài mang kinh sách ra thảo luận, bỏ chỗ nào trùng phức, sửa chỗ nào rối loạn; chỗ nào tốt mà không đủ để bắt chước, chỗ nào xấu mà không đủ để làm răn, ngài cũng san tước đi. Ngài làm việc ấy để theo điều giản ước, bảo cho người đời lâu dài về sau, khiến cho người học trò có chỗ căn cứ mà xét điều đắc thất, điều tốt thì theo, điều trái thì đổi. Vì vậy, tuy chính sách của ngài không thể thi hành trong một thời, nhưng giáo hóa của ngài thì lan khắp muôn đời. Như thế thì thơ có thể dùng để giáo hóa vậy." Chúng ta thấy rằng về nguyên lý thi ca, các luận giả từ đời Hán trở về trước, khi nói "thi ngôn chí" đã trình bày một yếu tố của thơ là cảm xúc, bây giờ với bài Thi kinh truyện tự của Chu Hi lại nêu thêm một yếu tố nữa là nhạc tính khi nói đến "âm hưởng, tiết tấu" của thơ. Đến đây vấn đề nguyên lý thi ca đã thành định luận. Sau này không có luận giả nào đưa ra một ý kiến nào khác nữa. Lê Việt sưu tầm
-
Cảm ơn ban Voxydenntt. Bạn hãy tiếp tục chủ đề: Bói bài Bát quái. Nhiều người chở bqạnn, trong đó có tôi. Cảm ơn bạn. Thiên Sứ
-
Bài viết dưới đây trên sggp.org.vn có nội dung trả lời phỏng vấn của giáo sư Phan Huy Lê – Chủ tịch hội khoa học Việt Nam – liên quan đến topic này. Tôi xin đưa toàn văn lên đây để bạn đọc tham khảo và sau đó sẽ là những bài phân tích của tôi liên quan đến nhận định của giáo sư Phan Huy Lê trong bài này. Thiên Sứ * Về việc “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động”- Kết luận quá vội vàng, chưa đủ chứng cứ khoa học và thiếu sức thuyết phục Thứ năm, 13/03/2008, 23:05 (GMT+7) Xung quanh những vấn đề báo Thanh Niên nêu ra trong thời gian vừa qua, cho rằng đó là những phát hiện lịch sử của Thiền sư Lê Mạnh Thát và cần viết lại lịch sử dân tộc, phóng viên Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Phan Huy Lê (ảnh) – Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam. Từ băn khoăn đến kinh ngạc * Phóng viên: Với tư cách là một nhà sử học, Giáo sư nhìn nhận như thế nào những vấn đề mà Báo Thanh niên đưa ra trong thời gian qua? Giáo sư PHAN HUY LÊ: Loạt bài 7 kỳ của Báo Thanh niên với đầu đề “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” rất gây sự chú ý của người đọc. Về một mặt nào đó, loạt bài đã gây chấn động trong dư luận xã hội. Tôi đã nhận được rất nhiều thư và điện thoại của bạn đọc, bạn đồng nghiệp và nhiều người yêu lịch sử dân tộc, hỏi về những vấn đề liên quan, ngay khi loạt bài khởi đăng. Đọc kỹ những bài báo đó, ấn tượng đầu tiên của tôi là rất băn khoăn. Không rõ nhà báo Hoàng Hải Vân có phản ánh đúng thực sự thái độ của Thiền sư Lê Mạnh Thát về những vấn đề đã đặt ra đó hay không? Thiền sư Lê Mạnh Thát thì tôi đã có dịp gặp gỡ, tiếp xúc trong cuộc hội thảo khoa học về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tổ chức tại Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh và sau đó cùng đi thăm các chùa tháp tại Yên Tử. Đó là cuộc tiếp xúc rất cởi mở và để lại trong tôi ấn tượng tốt đẹp về Thiền sư với tư cách là một thiền sư và là một học giả nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo Việt Nam. Chính vì vậy, tôi rất kinh ngạc về thái độ của Thiền sư thể hiện trên Báo Thanh niên. Ví dụ như khi nói về Lê Quý Đôn, nói là “ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá”. Mà điều đó chỉ dựa trên một đoạn ngắn trong “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn viết về Thiền sư Hương Hải, mà trong đó Lê Quý Đôn đã dẫn rất rõ là theo cuốn sách “Hương Hải thiền sư ngự lục” do các học trò của Thiền sư Hương Hải sưu tầm và biên soạn. Dĩ nhiên theo kết quả thẩm định công phu của Thiền sư Lê Mạnh Thát thì những người sưu tầm đã nhầm lẫn, đưa vào tác phẩm một số bài thơ không phải của Thiền sư Hương Hải. Nhưng không ai có thể phủ nhận Lê Quý Đôn là một nhà bác học lớn của dân tộc, có nhiều tác phẩm biên khảo có giá trị, để lại một di sản đồ sộ với nhiều cống hiến cực kỳ có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân tộc. Cũng như bất kỳ nhà khoa học nào, nhất là về khoa học xã hội, suốt cả cuộc đời làm việc, trong toàn bộ những tác phẩm để lại, tránh sao được một số sơ suất. Hay thái độ đối với Ngô Sỹ Liên, một nhà sử học lớn, người đã biên soạn bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” thời Lê sơ. Thực ra, bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng có một số sơ suất mà chúng tôi đã phát hiện và đính chính. Và chính Lê Quý Đôn cũng đã bổ chính một số nhầm lẫn cho bộ sách này. Tuy nhiên chỉ với lời bình luận về nhân vật Sỹ Nhiếp viết trên tinh thần Nho giáo mà Thiền sư lại đưa ra những lời bình luận là “nhắm mắt nói càn” và “thật khốn nạn hết chỗ nói”… Tôi hết sức kinh ngạc những điều lời lẽ đó. Tôi không tin rằng đây là lời và thái độ của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Nhưng dù sao, qua ngòi bút của tác giả Hoàng Hải Vân, thì tất cả người đọc đều cho rằng đó là phát biểu của Thiền sư. Ông là một nhà tu hành và là một học giả, nên tôi vẫn băn khoăn và trong lòng vẫn nghĩ rằng, dù bực bội đến đâu, cũng không thể thốt ra những lời “bất kính” như vậy đối với các bậc học giả tiền bối của dân tộc. * Từ băn khoăn đó, Giáo sư đã tìm hiểu vấn đề này như thế nào? * Cái tôi quan tâm là những nội dung vấn đề được đề cập đến. Tôi không muốn nghiên cứu qua những bài báo nói trên, mà muốn xem xét từ trong các công trình mà Thiền sư đã công bố. Tôi đã đọc những công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát và trong tay tôi trước đó có 2 công trình liên quan đến những vấn đề nói trên từ khi mới phát hành. Đó là “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” – tập 1 (từ khởi thủy đến thời Lý Nam Đế); “Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam” - tập 1. Riêng cuốn “Lục độ Tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta” (cuốn được xem là cơ sở trích dẫn nhiều nhất trên Báo Thanh niên), vì không có trong tay, mà theo tôi biết thì chỉ in với số lượng nhỏ, phát hành ở TPHCM, nên tôi đã cấp tốc nhờ bạn bè tìm hộ. Hiện tôi có đủ 2 bản: bản xuất bản năm 1972 ở Sài Gòn của Tu thư Đại học Vạn Hạnh và bản thứ hai mới tái bản năm 2005 của NXB Tổng hợp TPHCM. Nội dung 2 bản này hoàn toàn giống nhau. Không có An Dương Vương thì giải thích như thế nào về thành Cổ Loa? * Khi đã có những cuốn sách này trong tay và nghiên cứu những vấn đề liên quan, Giáo sư có ý kiến như thế nào về những cái gọi là “phát hiện lịch sự chấn động” ở trên Báo Thanh niên? * Tôi thấy loạt bài của nhà báo Hoàng Hải Vân chỉ mới đưa ra một phần nhỏ trong các công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Nói chung thì báo đã phản ánh đúng nội dung sách, nhưng các tư liệu và lập luận đưa ra chưa đầy đủ. Điều đó dễ hiểu, vì đây là một tờ báo ra hàng ngày, chứ không phải là một tạp chí chuyên ngành. Thiền sư Lê Mạnh Thát là người mà đã gần như dành toàn bộ thời gian và công sức để đi sâu vào việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam và theo tôi đó là một việc làm rất có ý nghĩa. Với những công trình nghiên cứu về các bộ kinh Phật, về lịch sử và văn học Phật giáo Việt Nam, Thiền sư là một người chuyên sâu nhất về lĩnh vực này và rất đáng trân trọng. Tuy nhiên từ nghiên cứu Phật giáo chuyển sang nghiên cứu lịch sử dân tộc, thì có nhiều vấn đề cần phải bàn thêm. Đây là hai đối tượng nghiên cứu quan hệ rất mật thiết với nhau, nhưng không phải là một. Phật giáo đã sớm gắn bó với dân tộc và đồng hành cùng dân tộc suốt chiều dài lịch sử gần hai ngàn năm, và Phật giáo đã có những cống hiến rất lớn cho lịch sử dân tộc. Tuy nhiên văn hóa Phật giáo là một dòng, một bộ phận của văn hóa dân tộc, chứ không thể coi là toàn bộ văn hóa dân tộc. Từ lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo chuyển sang lĩnh vực nghiên cứu lịch sử dân tộc, Thiền sư Lê Mạnh Thát đã đặt ra những vấn đề rất lớn về lịch sử cổ đại Việt Nam, mà điều quan trọng là về mặt khoa học đã giải quyết như thế nào? Tôi xin nói về mấy vấn đề lớn mà Báo Thanh niên đã nêu ra: khẳng định thời kỳ An Dương Vương là không có, không có cuộc xâm lược của Triệu Đà cũng như không có thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất kể từ cuộc xâm lược của Triệu Đà cho đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và vì thế cuộc khởi nghĩa này được coi là một cuộc kháng chiến… Như thế nước Văn Lang của các vua Hùng kéo dài cho đến năm 43 sau Công nguyên!? Theo nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát, thời An Dương Vương và nước Âu Lạc hoàn toàn là “một phiên bản”, “một hư cấu” dựa theo sử thi Mahabharata của Ấn Độ, và các sử gia Việt Nam đã sai lầm trong quá trình chép sử, từ “Đại Việt sử lược” cho đến các công trình sau này. Khẳng định không có Thục Phán, không có thời kỳ An Dương Vương, thì Thiền sư giải thích như thế nào về sự ghi chép tương đối thống nhất về sự tồn tại của An Dương Vương trong thư tịch Trung Quốc và Việt Nam? Tất nhiên, xung quanh vấn đề An Dương Vương và nước Âu Lạc có những vấn đề cần nghiên cứu và xác minh thêm như nguồn gốc của Thục Phán, niên đại của nước Âu Lạc... Thiền sư phủ nhận tất cả những tư liệu trên mà không chứng minh được những bộ sử đó chép sai như thế nào. Đặc biệt luận điểm đó khó đứng vững trước một nguồn tư liệu mà theo tôi giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong nghiên cứu cổ sử, đó là khảo cổ học. Tôi có cảm giác, Thiền sư đã bỏ qua, không khai thác và không cập nhật nguồn tư liệu khảo cổ học, nhất là những kết quả khai quật và nghiên cứu gần đây. * Xin Giáo sư nói rõ hơn về những vấn đề khảo cổ học liên quan đến triều đại An Dương Vương? * Trong mấy chục năm vừa qua, khảo cổ học Việt Nam đã có những kết quả rất quý giá, nhất là những di tích trong lòng đất, góp phần làm sáng rõ thêm tiến trình lịch sử dân tộc, nhất là thời tiền sử, sơ sử và cổ đại. Những di tích, những hiện vật khảo cổ học được xem là những bộ phận, là những mảnh của lịch sử còn lưu giữ được cho đến ngày hôm nay. Nó rất khách quan và rất trung thực. Bằng những phương pháp khoa học, từ kết quả khai quật, các nhà khảo cổ học có thể xác định được niên đại tương đối và tuyệt đối của các di tích với những sai số chấp nhận được, có thể góp phần phục dựng trên một số phương diện nào đó diện mạo của nền văn hóa, cuộc sống của cư dân và một số công trình xây dựng đã sụp đổ... Phủ nhận nước Âu Lạc và An Dương Vương thì tác giả giải thích như thế nào về thành Cổ Loa? Thiền sư cho rằng đó chỉ là tòa “Kiển thành” do Mã Viện xây mà trước đây đã từng có người đề xuất, nhưng những kết quả khảo cổ học gần đây đã cho phép xác định tòa thành này được xây dựng trước hết từ thời An Dương Vương rồi sau đó, được tiếp tục sử dụng và có thể có những bồi trúc nhất định. Hơn nữa chúng ta còn tìm ra được ở Cổ Loa hàng vạn mũi tên đồng ba ngạnh được coi là “mũi tên đồng Cổ Loa”, rồi tìm thấy trống đồng, gần 100 lưỡi cày đồng cùng hàng loạt di vật của nền văn hóa Đông Sơn. Các nhà khảo cổ học còn cắt một đoạn thành để nghiên cứu và khai quật một số hố trong khu Thành Nội gần đền thờ An Dương Vương. Tại đây đã phát hiện một hệ thống những lò nung và khuôn đúc mũi tên đồng gồm ba mang bằng đá rất khớp với “mũi tên đồng Cổ Loa”, khuôn đúc mũi giáo... Đáng lưu ý nhất là An Dương Vương đã dùng một phần Thành Nội để sản xuất vũ khí, chứng tỏ đây là loại vũ khí cực kỳ quan trọng cần được bảo vệ chặt chẽ. Phát hiện khảo cổ học này hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết dân gian coi là “nỏ thần” mà thư tịch cổ Trung Quốc cũng ghi chép là loại vũ khí lợi hại, một lần bắn diệt được hàng trăm, hàng vạn người mà chính Thiền sư cũng đã dẫn trong công trình nghiên cứu của mình. Thiền sư giải thích như thế nào về một thành lũy đang tồn tại trên mặt đất và cả những di tích, di vật như vậy trong lòng đất. Rồi giải thích như thế nào về những đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa, ở Nghệ An... gắn liền với những truyền thuyết, những lễ hội dân gian nhằm tôn vinh người có công với dân, với nước. Dĩ nhiên những kiến trúc đó xây dựng về sau nhưng không thể chỉ là sự bịa đặt, hư cấu mà phải xuất phát từ một cốt lõi lịch sử có thật của cuộc sống, của lịch sử dân tộc, có thể từ rất xa xưa! Quá vội vàng khi đòi viết lại lịch sử dân tộc * Một vấn đề được rất nhiều người quan tâm là có cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng không? Với quan điểm của mình thì Thiền sư Lê Mạnh Thát không cho rằng đó là một cuộc khởi nghĩa. Cần phải giải thích như thế nào về vấn đề này, thưa Giáo sư? * Về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, theo Thiền sư là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của một nước độc lập, chứ không phải là cuộc khởi nghĩa của một nước bị đô hộ. Trong khi đó, cả sử nước ta và sử Trung Quốc đều chép đó là cuộc “nổi dậy”, là cuộc “làm phản” chống chính quyền cai trị của nhà Hán. Chính Thiền sư Lê Mạnh Thát đã dẫn ra khá đủ những tư liệu này nhưng rồi phủ nhận tất cả và đi đến kết luận như trên. Đứng về phương diện khoa học, các nhà khoa học có quyền đưa ra những giả thuyết trong nghiên cứu khoa học. Những giả thuyết đó có những cấp độ khác nhau: có thể chỉ là mới các ý tưởng đặt ra để nghiên cứu và cũng có thể là những giả thuyết đã có một số cứ liệu nhất định, nhưng chưa đủ cơ sở để kết luận. Tuy nhiên, những vấn đề mà Thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra, không còn là giả thuyết nữa mà những kết luận đã khẳng định. Từ đó đưa ra những yêu cầu phải loại bỏ thời kỳ này ra khỏi lịch sử dân tộc, thậm chí là phải viết lại lịch sử dân tộc thì thật quá vội vàng. Trong khoa học, mọi phát hiện có cơ sở khoa học đều phải được chấp nhận nếu những phát hiện đó là đúng, được chứng minh một cách vững chắc và bảo vệ được quan điểm đó trước các chất vấn, phản biện khoa học. Trên tinh thần khoa học, dù phát hiện đó có đảo lộn quá trình lịch sử dân tộc như thế nào đi nữa, thì về mặt khách quan, chúng ta vẫn phải chấp nhận. Tuy nhiên, rất tiếc cái gọi là “những phát hiện lịch sử chấn động” mà Báo Thanh niên nêu ra, trên thực tế chỉ mới dừng lại ở mức giả thuyết và đề xuất mà thôi. Không có đủ cơ sở khoa học để chứng minh được những vấn đề đó. Từ vài dẫn chứng trên, tôi nghĩ rằng, một số kết luận của Thiền sư Lê Mạnh Thát là chưa đủ chứng cứ khoa học, chưa đủ sức thuyết phục. Ở đây, có vấn đề khai thác và sử dụng tư liệu, có vấn đề phương pháp luận sử học chưa được sử dụng một cách nghiêm túc. * Trong loạt bài trên Báo Thanh niên, Thiền sư Lê Mạnh Thát đã nói nhiều về nền văn minh Hùng Vương với tư cách là một thể chế nhà nước đầy đủ có chữ viết, một bộ luật… Đó là một sự đề cao tinh thần dân tộc rất lớn, thưa Giáo sư. * Đọc các công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát và qua những bài báo đó, chúng ta thấy Thiền sư có một tinh thần dân tộc rất cao. Thiền sư muốn đề cao tính dân tộc và văn hóa Việt Nam, nhất là thời kỳ Hùng Vương. Đó là thiện chí của Thiền sư mà chúng ta cần trân trọng. Nhưng đối với khoa học không thể dừng lại ở thiện chí, mà mọi kết luận cần phải chứng minh một cách khách quan trên cơ sở những nguồn sử liệu được khai thác toàn diện và so sánh, đối chiếu nghiêm túc. Thiền sư khẳng định là từ thời Hùng Vương ta đã có chữ viết phát triển đến trình độ cao, khá hoàn chỉnh, có thể biên soạn luật thành văn, có thể viết bộ “Lục độ Tập kinh”... Rất tiếc là những khẳng định đó lại dựa trên những căn cứ chưa đủ sức thuyết phục. Ví dụ lời tâu của Mã Viện nói luật Việt có 10 điều khác luật Hán, nhưng chưa có gì chắc chắn để coi đó là luật thành văn hay chỉ là luật tục. Bản chữ Hán “Lục độ tập kinh” do Khương Tăng Hội dịch trong thời gian ở Kiến Nghiệp còn đó và một số từ mang cấu trúc ngữ pháp Việt, không phải Hán là một phát hiện lý thú của Thiền sư nhưng từ đó khẳng định là phải dịch trên một văn bản chữ Việt thì còn quá vội. Vấn đề chữ viết của người Việt thời Hùng Vương là một đề tài đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và có người đã dành nhiều công sức tìm kiếm nhưng cho đến hôm nay vẫn còn là vấn đề chưa có đủ cơ sở để kết luận. Có người dựa theo một gợi ý của tác giả sách “Thanh Hóa quan phong” chép rằng chữ Việt cổ gần như chữ Thái ở miền núi xứ Thanh, đi tìm những hình khắc tương tự trên một số đồ đồng Đông Sơn. Có người sưu tầm những hình khắc trên đồ đồng Đông Sơn ở nước ta và cả vùng Nam Trung Quốc trên địa bàn Bách Việt xưa, đã phát hiện một số hình khắc có thể là ký hiệu chữ viết...Nhưng chỉ mới là những tìm tòi ban đầu, chưa tập hợp đủ những chứng cứ để đưa ra hệ thống ký tự của chữ viết, chưa nói đến việc giải mã hệ thống đó. Những phát hiện của Thiền sư có thể đóng góp phần nào vào quá trình nghiên cứu chữ viết của người Việt cổ, chưa thể coi là kết luận khoa học, tuy rằng trong thâm tâm ai cũng mong đợi điều đó sớm trở thành hiện thực. * Xin cảm ơn Giáo sư. TRẦN LƯU (thực hiện)
-
Tôi xem lại bài viết của anh Trần Phượng thấy có một câu sau đây: Thách ai dựng lại được lịch sử thời Hùng Vương đấy! Thật là điều đáng buồn! Tôi nghĩ với một người ít khi bước ra khỏi nhà như tôi, bây giờ ai đó chứng minh một cách hợp lý cho tôi hiểu được rằng: "Trên thế giới này đang tồn tại một quốc gia là Hoa Kỳ, chắc cũng khó như chứng minh thời Hùng Vương vậy!". Thiên Sứ
-
Gửi anh Trần Phương. Về hiện tượng Lê Mạnh Thát và những ý kiến của những người có học vị liên quan, tôi đã kết luận từ lâu rồi: "Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm". Bài viết mà anh đưa lên chỉ là ý kiến mang tính cảm nhận của cá nhân, không phải là một bài khảo cứu phản biện nghiêm túc. Bởi vậy tôi không có ý kiến gì. Thiên Sứ
-
KIỂM CHỨNG LỜI TIÊN TRI HOA KỲ 2008 * Mỹ cáo buộc Iran tài trợ khủng bố tích cực nhất 09:11' 01/05/2008 (GMT+7) Iran vẫn là quốc gia tài trợ cho khủng bố ’’tích cực nhất’’ trên thế giới khi nước này cố gây ảnh hưởng trong khu vực và đẩy Mỹ khỏi Trung Đông, báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết hôm 30/4. Khẩu hiệu chống Mỹ trên bức tường của Đại sứ quán Mỹ trước đây ở Tehran Báo cáo này cho biết thêm rằng al-Qaeda và các nhóm liên quan tới chúng ’’vẫn là mối đe dọa khủng bố lớn nhất’’ đối với Mỹ và các đồng minh của Mỹ, đặc biệt là giờ chúng có ’’một chỗ ẩn náu an toàn’’ tại các vùng bộ tộc tây bắc Pakistan. Các cuộc tấn công khủng bố trong năm ngoái đã tăng gấp đôi tại Pakistan - đồng minh chống khủng bố của Mỹ, chủ yếu là ở vùng biên giới tây bắc với Afghanistan. Các cuộc tấn công khủng bố cũng gia tăng tại Afghanistan. Theo báo cáo khủng bố quốc gia của Bộ Ngoại giao Mỹ, năm ngoái Iran vẫn là quốc gia tài trợ cho khủng bố ’’nhiều nhất’’ và ’’tích cực nhất mặc dù Mỹ cũng liệt Syria, Triều Tiên, Cuba và Sudan là các nước tài trợ khủng bố. Iran cung cấp viện trợ cho các nhóm ’’khủng bố’’ ở Palestine chẳng hạn như Hamas, phong trào Hezbollah ở Lebanon, các chiến binh ở Iraq và các chiến binh Taliban ở Afghanistan. Bộ Ngoại giao Mỹ tin rằng Iran sử dụng khủng bố ở nước ngoài như một chiến lược bảo vệ nhằm ’’ngăn chặn các cuộc tấn công của Mỹ hoặc Israel, làm Mỹ rối trí và suy yếu, tăng cường ảnh hưởng của Iran trong khu vực thông qua sự đe dọa và giúp đẩy Mỹ khỏi Trung Đông’’. Báo cáo cho rằng Iran là mối đe dọa đối với sự ổn định khu vực và các quyền lợi của Mỹ tại đó bởi Iran ủng hộ các nhóm mà bác bỏ tiến trình hòa bình Israel-Palestine và ’’ngầm phá hoại tiến trình dân chủ ở Lebanon’’. Các nước tài trợ cho khủng bố giúp các nhóm khủng bố có tiền, vũ khí song một số có khả năng sản xuất ’’các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt mà có thể lọt vào tay của bọn khủng bố’’, báo cáo cho biết. Minh Sơn (theo AFP) Nguồn Vietnamnet.vn
-
LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN VÀ THỜI TIẾT NGÀY 1 - 5 TRÊN TOÀN QUỐC Hoàn cảnh dự báo: Nguồn VnExpress Ngày 26 - 4 - 2008. Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn trung ương dự báo: Cả nước có mưa rào và dông trong ngày 1/ 5 - 2008. Lạc Việt độn toán: Thiên Sứ Laviedt: Thanhtrang Lạc Tướng. Chứng nghiêm: Bây giờ là 10giờ ngày 1 - 5 năm 2008. Sài Gòn vẫn đang nắng đẹp. Chờ kết quả cuối ngày hôm nay. Thiên Sứ
-
Người tìm chữ cổ 11:02' 04/03/2008 (GMT+7) - Không phải là nhà khoa học, không hưởng lương chuyên môn nhưng 50 năm qua, dù thế chấp mất sổ hưu để vay tiền, dù quỹ thời gian ngày một ngắn và dù mang trong mình nhiều thứ bệnh tuổi tác nhưng ông sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào vì chữ Việt cổ… "Học sinh" thời… vua Hùng Một người bạn đưa tôi đến con phố nhỏ ở phường Tân Dân, thành phố Việt Trì và gõ cửa một ngôi nhà giản dị. Gia chủ là người đàn ông khá cao lớn, mặt vuông, miệng rộng, vẻ quắc thước pha chút phong trần. Bên cạnh bàn nước là một tủ sách chia ngăn đơn giản, nhưng điều lạ là mỗi ngăn tủ đều được ghi dấu bên ngoài bằng những hình vẽ tôi chưa thấy bao giờ. Phía trong là những cuốn sổ, sách, tài liệu cũng viết ngoài bìa thứ hình uốn éo vươn dài như vậy. Ông Xuyền và những con chữ ông khảo cứu Chủ nhà được giới thiệu là nhà giáo Đỗ Văn Xuyền, trong văn chương thì bút danh là Khánh Hoài. Câu chuyện bắt đầu và xuyên suốt của ông cũng chính là những hình vẽ lạ mắt kia. Ông nói đó là chữ và ông có thể đọc được. Chỉ tay vào những ký hiệu ngoài ngăn tủ ông đọc: “Lịch sử, tài liệu từ hiện vật, tài liệu thư tịch, sắc phong, ngọc phả… Còn những cuốn sách này là hồ sơ về đền Mẫu, lịch sử Thiên cổ miếu… Tất cả những thứ gì của riêng tôi mà cần ghi bằng chữ thì tôi đều dùng chữ của tổ tiên”. Ông đưa ra những cuốn sổ tay, lịch ghi chép và cả những phong thư… của ông cũng đều ghi bằng “chữ Việt cổ có từ thời vua Hùng”, ông khẳng định. “Buổi lập nước, triều đại vua Hùng, chúng ta có một nền giáo dục rực rỡ. Chúng ta đã có chữ viết trước Hán”. Ông chứng minh bằng tấm bản đồ Việt Nam tự tay ông vẽ với những ký hiệu đánh dấu sơ đồ các ngôi đền thờ thầy giáo, học sinh và địa điểm trường lớp qua các thời vua Hùng, An Dương Vương - Triệu Đà và Hai Bà Trưng. Tấm bản đồ đánh dấu cả những ký hiệu về dấu tích chữ Việt cổ còn sót mà ông tìm thấy trên bãi đá cổ, trên hiện vật và tài liệu cũ. Tất cả hơn 60 địa điểm trải dài từ Hà Tĩnh trở ra miền Bắc. Bản đồ được vẽ tay rất tỉ mỉ… “Vì anh là người Việt Nam làm những công việc liên quan đến chữ nghĩa nên tôi tặng anh thứ này”, ông giáo già mở tủ, trao khách một quyển sổ nhỏ bằng bàn tay, bìa và ruột cùng một thứ giấy. Nhan đề cuốn sổ: “Giải mã chữ Việt cổ (tóm tắt sơ lược)”. Bên trong là hai hàng ký tự La-tinh và Việt cổ viết song song. Chữ “i” la tinh viết thế này thì tương ứng đọc là “i” chữ Việt cổ viết thế kia. Sách có tổng số 16 trang ghi các phần nguyên âm đơn, nguyên âm ghép, các phụ âm và một số thí dụ ứng dụng ghi các từ, ngữ Việt Nam bằng chữ Việt cổ. Có lẽ sợ có sự nhầm lẫn dạng chữ này với một số ký tự tương tự nên cuốn sách nhỏ còn dành phần phân biệt chữ Việt cổ với chữ Thái đen, Thái trắng, đông bắc Thái Lan, Khăn tì Ấn Độ, Khoen Myanma, Lào xổng và Lự mới Vân Nam. Toàn cuốn sổ đều được viết tay, đánh số trang, đóng gáy và photo làm nhiều bản. Bất cứ ai là con cháu Lạc Hồng có chút tâm linh với nguồn cội, ông đều tặng không cuốn sổ như một sự “phổ cập chữ Việt cổ” tự nguyện và kỳ vọng. Những người thầy ngày dựng nước Hơn 50 năm trước, về với đất tổ với cặp giáo án và hộp phấn, ông là một anh giáo tuổi 20. Biết rằng mình đang sống ở nơi cắt rốn, chôn rau của dân tộc ngàn năm linh khí. Thế nhưng lịch sử huyền bí, giặc dã, biến thiên cũng đã ngàn lần chôn lấp. Cho đến một hôm tham gia cùng đám học trò lao động ngoại khoá, ông giật mình thấy các em đào lên hàng rổ những rìu, dao, búa… đá. Thiên cổ Miếu, thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, TP Việt Trì, nơi thờ hai vợ chồng thày giáo Vũ Thê Lang, thời vua Hùng. Ông bắt đầu để ý và thấy những đám ma, những người đào giếng, xây nhà… đưa lên những cổ vật mà nhìn vào nó như thấy hình bóng tổ tiên từ huyền sử. Ông bắt đầu lục tìm những tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước về các di tích khảo cổ nơi này. Năm 1989, khi đến xóm Quế thôn Hương Lan xã Trưng Vương, Việt Trì, ông thấy một ngôi miếu đổ nát. Cửa miếu có hai cây táu lớn đã rất lâu đời. Một cây nở hoa vàng và một cây nở hoa màu bạc. Miếu có tên Thiên cổ miếu. Tìm hiểu ông biết dân làng còn đào được ở đây một thanh kiếm đồng, một cái bát đồng có ghi thứ chữ lạ. Đồi Giàm gần đó cũng được tìm thấy nhiều đồ đá, trong đó có cây rìu cũng chạm kiểu chữ này. Tìm ngọc phả soạn từ thế kỷ XVI nói: Miếu thời thầy giáo Vũ Thê Lang quê ở Mộ Trạch, Hải Dương và vợ là Nguyễn Thị Thục quê ở Đông Ngàn Kinh Bắc lên đây dạy học thời vua Hùng thứ XVIII. Hai người cùng mất ngày 2/2 năm 288 trước công nguyên, táng trong lòng miếu. Tìm sử sách Tây, Tàu, ta và ghép nối những câu chuyện cổ tích, dân gian; đến tận nơi nghi vấn tìm hiểu, ông đã “gặp” được nhiều thầy giáo khác của thời Vua Hùng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng. Đó là thầy Nguyễn Cầm Công và Nguyễn Công Ứng từ chùa Hương về Việt Trì dạy học. Làng Bồng Lai, huyện Từ Liêm có Hoàng Trụ, con công chúa Mỵ Châu Hoa theo học thầy Lỗ Công… Thời Hai Bà Trưng các tướng tá đều được học hành chu đáo như Lê Ả Lan, Lê Anh Tuấn ở Đường Lâm, Sơn Tây; tả tướng Phật Nguyệt, nữ tướng Lê Chân, nữ tướng Thiều Hoa… đều được sử chép là học chữ rất tài. Hai bà Trưng còn được mẹ là bà Man Thiện đón vợ chồng thầy Đỗ Năng Tế và Tạ Cẩn Nương về dạy chữ tại nhà… Có thầy, có trò thì phải có chữ. Chữ Hán chỉ vào VN từ năm 186 do Sĩ Nhiếp đưa sang. Vậy trước đó, người Việt học chữ gì? Ông cho rằng, thời đó chúng ta đã có chữ viết nhưng khi người Hán đô hộ, họ đã xoá đi. Hàng ngàn năm dài, chữ Việt cổ chỉ có thể còn những mảnh vỡ, rơi rớt trong lời ăn tiếng nói, trong những vật phẩm ngàn năm chôn vùi dưới đất và thấp thoáng trong những công trình, tư liệu của nước ngoài. Chữ của cha ông Ông tìm thấy bộ chữ 17 ký tự gọi là hoả tự (nhìn giống ngọn lửa cháy) của Vương Duy Trinh viết trong “Thanh Hoá quan phong” in năm 1903 đã cho rằng đây là chữ Việt cổ còn sót lại ở Tây Bắc. Vương Duy Trinh viết: “Vì thập châu (vùng Tây Bắc) là nơi biên viễn (biên giới xa) nên dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học Hán tự”. Ông tìm thấy bộ chữ Thái thổ tự của Phạm Thận Duật phát hiện năm 1855 cũng ở vùng Tây Bắc. Đây là loại chữ ông Xuyền cho là chữ Việt cổ Ông nhận ra những sự ghi chép, suy luận đầy vô lý khi học giả này gọi đó là chữ của người Thái. Ví dụ: Chữ người Thái nhưng lại không ghi được những từ về gia đình, nhân luân của họ… Như vậy đây không phải chữ Thái. Ông Xuyền cho rằng, dân tộc ta nhiều đời bị đô hộ, chữ viết luôn bị xoá bỏ, dân ta đã lưu giữ truyền đời bằng những tín hiệu bí mật, nguỵ trang. Và Phạm Thận Duật đã dùng cách nói khéo đó để gửi gắm, cất giấu tinh hoa tiên tổ. Ông tìm đến sách Thông giám cương mục của Chu Hi đời Tống nói: “Đời Đường Nghiêu thứ 5 (2352 trước công nguyên) người Nam Di Việt đến chầu, hiến con rùa lớn…”. Sách Thông chí thời này nói tiếp: Lưng rùa rộng ba thước có chép chữ khoa đẩu (con nòng nọc), ghi chép việc từ khai thiên lập địa đến nay… Sách Lĩnh Nam Chích Quái của ta cũng ghi rõ điều này. Nhà nghiên cứu Lê Trọng Khánh cũng nhắc đến chữ khoa đẩu thời tiền sử của dân ta. Ông lại dựa thêm vào kết quả khai quật của nhà nghiên cứu người Pháp Côlani năm 1923 khi tìm hiểu nền văn hoá Hoà Bình đã tìm thấy hai chiếc đĩa gốm nhỏ ở chân núi Lam Gan khắc hai chữ dáng như chữ Sĩ, chữ Thượng của Trung Quốc nhưng lại có tuổi 8000 năm trước công nguyên, khi chưa có chữ Hán. Ông tìm lời tựa cuốn tự điển Việt Bồ La xuất bản năm 1651 ở Rôma mà tác giả đã nói rằng: Người dạy tôi là một thiếu niên bản xứ trong 3 tuần đã đọc được các thanh và từ… để suy đoán rằng thứ chữ được dạy đó chính là chữ Việt cổ. Rồi bắt đầu ông đi đến rất nhiều miền quê ghi lại lời nói của dân bản xứ, liệt kê, đối chiếu so sánh và ghi chép suy luận, lý giải bằng chữ cổ… Những trang viết trong cuốn “song ngữ” La Tinh- Việt cổ do ông Xuyền biên soạn. Ông luôn bị ám ảnh một lời trong sử sách Trung Quốc và của nhà nghiên cứu Lê Trọng Khánh rằng xưa VN ta từng có chữ khoa đẩu (chữ có hình con nòng nọc). Đến một đêm, đang ngồi làm việc với những dòng chữ tiền sử thì bị mất điện, thắp ngọn nến đặt trước bàn, ông thảng thốt và giàn giụa nước mắt khi thấy trên trang giấy hình ảnh những con nòng nọc đang vươn mình bơi lội. Ông cho rằng tổ tiên đã phù trợ cho ông sức mạnh về với cội nguồn. Ông đã tìm đến nhà riêng giáo sư Hà Văn Tấn một trong những nhà sử học lớn nhất lúc đó. Giáo sư ốm đã không thể làm việc từ lâu, nhưng khi nghe ông trình bày, giáo sư đã rơi nước mắt và ôm chặt vai ông động viên hãy tiếp tục thực hiện công trình mà giáo sư chưa thể hoàn thành ở đời này. Chủ tịch nước khi đó là đồng chí Trần Đức Lương đã lên tận Phú Thọ và dành một buổi dài trao đổi với ông về chữ viết của cha ông. Chủ tịch động viên, gửi gắm nhiều hi vọng và dặn dò các lãnh đạo tỉnh hỗ trợ ông… Trong một lần đi tìm hiểu, ông đến ngôi miếu nhỏ ở huyện Lập Thạch thờ 4 người con của Lạc Long Quân, ông tìm thấy bản ngọc phả thời Trần Thái Tông, vào loại cổ nhất hiện còn. Ngọc phả viết: “… Nghiêu thế, Việt thường thị hiến thiên tuế thần quy, bối hữu khoa đẩu…” (thời vua Nghiêu, người Việt hiến rùa thần, trên lưng có chữ khoa đẩu). Ông cho rằng, đời này còn sống ngày nào ông còn đi tìm con chữ của tổ tiên ngày đó. Những hành trình tìm chữ Năm 2003, một buổi chiều trời mưa như trút nước, bão giật cấp 9, nhưng nghe tin ở Sa Pa, phát hiện một bãi đá cổ hàng ngàn năm tuổi, trên đá có những con chữ lạ, thế là ông già lập tức ba lô, cơm nắm, bánh mì khô, bi đông nước, máy ảnh… bắt xe đò lên đường. Mò vào rừng, nước lũ xoắn xiết réo gào, ông già dò dẫm lặn lội 2 ngày trời thì tới được bãi đá cổ. Bàn tay già nua run run bóc từng lớp rêu. Những con chữ vừa lạ vừa quen hiện ra trước mắt. Giữa sấm chớp mưa giông, ông già đã khóc một mình giữa rừng núi đại ngàn và những nét vạch nguệch ngoạc trên phiến đá rêu. Sau chuyến đó ông nằm liệt giường 4 tháng. Bản đồ do ông Xuyền vẽ ghi dấu những đền thờ thày giáo, học sinh thời vua Hùng đến Hai Bà Trưng Đó là chuyến đi kinh hoàng nhất, nhưng đau đớn nhất là câu chuyện trước đó 1 năm. Đang ở Hà Nội, 4 giờ chiều nghe điện thoại báo: Ở Việt Trì có người đào được phiến đá có chữ lạ. Ông lập tức lên đường. Tới nơi, đó là một khối chất cứng giống như tảng đá lớn có nhiều hoa văn lạ nhưng người ta có thể tách mỏng ra từng miếng một. Miếng thì có hình bản đồ, miếng thì có hai bàn chân con gái rất đẹp. Tiếc thay, hiện vật vừa đưa lên khỏi mặt đất lập tức mủn tan ra thành đất vụn. Ông lên đỉnh Trường Sơn, gặp đồng bào Cọi tìm những trang sách bằng lá cây. Vào Nghệ An tìm thấy chữ Lào và qua miền Trung thấy những viên gạch đỏ khắc ngang dọc của chữ Chăm… Đều không phải là chữ Việt. Đó là những chuyến đi thất vọng. Ông ghé Hà Tây, Ninh Bình. Ông về Thái Bình, Thanh Hoá. Ông ngược lên Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu… Ông đã dồn tất cả những đồng lương ít ỏi, những khoản tiền thơm thảo của con cháu và những đồng nhuận bút tượng trưng của mình cho những chuyến đi. Ông thế chấp sổ lương hưu để vay tiền ngân hàng tiếp sức cho cuộc hành trình bất tận về cội nguồn. Và, mức vay đã quá lớn để đến năm 2004 ông không thể còn đồng lương nào nữa. Trước khi rời đất tổ, ông giáo già mời tôi chén rượu. Bà vợ ông nói: Mấy năm nay chồng tôi mới có một cuộc vui thế này, tôi không nỡ ngăn, dù ông ấy đang mang trong mình tới 4 thứ bệnh. Ông ngẩng lên, ánh mắt dù cười nhưng cũng đã đục mờ. Với ông phía trước không còn dài. Câu chuyện con chữ thì đã đằng đẵng thiên thu rồi. Nhiều triều đại, nhiều nhà nghiên cứu, nhiều người con Lạc Hồng từng đi qua và vẫn đang dang dở. Ông hỏi tôi: “Còn anh, anh có thể làm gì với mấy ngày bên con chữ của tổ tiên?” Đạo Lý - Tự Trọng
-
ĐI TÌM CHỮ VIỆT CỔ - Phần 2 Chữ của thời Hùng Vương là loại chữ gì ? chắc chắn không phải chữ Hán và có trước chữ Hán. Trong thời phong kiến, mặc dù Nho học đã chiếm vị trí độc tôn, chữ Nho đã trở thành văn tự chính thức của Quốc gia, nhưng nhiều trí thức dân tộc vẫn không ngừng tìm kiếm một thứ chữ cổ của cha ông. Gần đây, trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, tác giả Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tôc Kinh- Việt lại không còn văn bản hay sao? Đúng là tài liệu của ta vừa bị giặc nước huỷ diệt, vừa bị ta không biết cách bảo tồn, thí dụ một tài liệu về chữ Việt cổ của gia đình cụ Lê Huy Nghiệm cũng mới bị mất sau cách mạng Tháng Tám. Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà Ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề "Mời trầu" có nội dung ca ngợi tình yêu. Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng. Do âm mưu đồng hóa của kẻ thù, chúng tìm cách triệt phá, không để lại dấu tích của thứ văn tự cũ, nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:" Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thư chữ này" Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần chắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần chắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là "tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu" (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán). Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, Đỗ Văn Xuyền sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là: - Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? - Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của kí tự đó không ? - Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm) Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ la tinh của phương tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí (Tứ bàng phụ hoạ). Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông Xuyền mới tìm ra qui luật - Qui luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được qui luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu đang đang tập trung nghiên cứu để một ngày gần đây chứng minh giả thiết cho rằng, Những nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Nhóm nghiên cứu rất cần sự ủng hộ của các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học của nhà nước để hoàn thiện công trình khoa học này. Buổi thuyết trình của ông Đỗ Văn Xuyền về " Báo cáo quá trình sưu tầm tư liệu và kết quả nghiên cứu các thầy giáo thời Hùng Vương và chữ Việt cổ" trước tết Nguyên đán, tại Trung tâm Văn hóa người cao tuổi đã nhận được sự chú ý và quan tâm của nhiều nhà khoa học. Quang Hòa This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 709x489. Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi cả nước khởi nghĩa giành độc lập, mùa xuân, năm 40, được ông Đỗ Văn Xuyền viết bằng chữ Việt cổ . Thầy, trò thời Hùng Vương dạy học bằng chữ gì Trước Tết Mậu Tý, thầy giáo đã nghỉ hưu Đỗ Văn Xuyền bước đầu công bố công trình “giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam, gây được sự chú ý của giới khoa học. Thầy giáo Đỗ Văn Xuyền nói về các ký tự cổ Từ câu chuyện về Thiên Cổ miếu... Gần ba mươi năm dạy học, thầy giáo Xuyền luôn gắn bó với vùng đất thiêng được bồi đắp bởi phù sa của cả ba con sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Nhưng ông không phải người gốc ở đây, chỉ là chàng rể của cố đô xưa nhất nước Việt. Đầu đường vào làng Hương Lan có ngôi miếu nhỏ. Trước cửa miếu sừng sững hai cây táu đại thụ hơn ngàn tuổi, gốc năm sáu vòng tay người ôm không xuể. Thầy giáo Xuyền nghe ông từ kể: “Miếu đây có tên Thiên Cổ, thờ hai vợ chồng thầy giáo thời Hùng Vương, dạy học ở làng này”. Ngọc phả của miếu ghi rõ: Thiên Cổ miếu thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, ông quê Hải Dương, bà quê Bắc Ninh, đến kinh đô Văn Lang mở trường dạy học thời Hùng Vương thứ 18. Thầy giáo Lang tài đức vẹn toàn, đông người làng và quanh vùng theo học, danh tiếng vang xa. Vua Hùng nghe tin, gửi hai con gái đến thụ giáo, đấy là công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa. Về sau cả ông và bà cùng mất một ngày, ngôi miếu nhỏ chính là nơi song táng hai vợ chồng thầy giáo của làng... Thiên Cổ miếu Câu chuyện về thầy giáo Vũ Thê Lang thời Hùng Vương, chứng tích còn đó những ngôi miếu và phong tục thờ cúng, đã có sức cuốn hút đặc biệt với thầy giáo Xuyền. Phải chăng trước khi chìm đắm vào đêm dài Bắc thuộc, nước Văn Lang đã có một nền văn hiến rực rỡ? Không chỉ để lại cho hôm nay những chiếc trống đồng Đông Sơn tuyệt hảo, cha ông ta còn để lại (đâu đó, trong những di tích như Thiên Cổ miếu) bằng chứng về một nền giáo dục, một thể chế kén chọn người tài phát triển ngay từ thời dựng nước? Nhiều năm ròng rã, thầy Xuyền dày công sưu tầm trong các thư viện Hán - Nôm, trong ngọc phả đình miếu, và các câu chuyện dân gian, về sự học sự thi thời kỳ trước khi chữ Hán thâm nhập vào nước ta - gọi tắt là thời trước Hán. Công sức bỏ ra dần cho kết quả hết sức đáng tự hào: Hầu khắp các tỉnh lưu vực sông Đà, sông Lô, sông Hồng, xa hơn nữa mạn Thanh Hóa, Nghệ An, đều có các bằng chứng về các thầy giáo danh tiếng và các học trò giỏi thời Hai Bà Trưng, An Dương Vương, Hùng Vương! Thầy Xuyền bước đầu sưu tầm được 18 thầy giáo, và một con số nhiều hơn các học trò giỏi, còn ghi danh qua truyền thuyết và ngọc phả các đền miếu ngàn đời nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng. Những sưu tầm còn cho thấy từ thời Hùng Vương, việc kén tìm người giúp nước trị dân thường được tuyển chọn trong những học trò giỏi, hoặc qua việc thi cử mà khẳng định, hoặc lập được chiến công chống ngoại xâm. Qua những kết quả trên, một câu hỏi logic lại thôi thúc thầy giáo Xuyền phải tìm câu trả lời: Thầy, trò thời Hùng Vương dạy và học bằng thứ chữ gì? Cha ông ta đã có chữ viết của riêng mình, từ thời trước Hán? Thế là thầy giáo Xuyền lại tiếp tục dấn thân vào một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã tốn bao công sức, song kết quả chưa được như mong muốn... Đến huyền thoại hay sự thật? Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu. Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”. Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. Chữ Khoa Đẩu được nói tới trong các tài liệu trên là thứ chữ như thế nào? Vì sao đến nay không còn dấu tích gì về nó nữa? Vương Duy Trinh - Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa - trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, đã giới thiệu một số chữ lạ mà ông sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”. Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”. Giải mã bộ “chữ Thái (thổ tự)” Hướng đi đầu tiên của thầy Xuyền là tìm kiếm dấu tích của chữ Việt cổ. Năm này qua năm khác, nghe đâu có ký tự lạ lưu giữ qua các cổ vật, hang động, vách đá, thầy Xuyền bất chấp đường xa, không ngại tốn kém, lập tức tìm đến. Nhưng tất cả chỉ là những ký hiệu chưa giải mã được Mươi năm gần đây, thầy Xuyền chuyển hướng đi mới - nghiên cứu những ký hiệu đã mang hình hài của ký tự, được phát hiện rải rác từ Hà Giang, qua Bắc Ninh, Hòa Bình, vào tới Thanh Nghệ Tĩnh... Tập trung lên hướng Tây Bắc - vùng ổn định nhất của người Lạc Việt suốt nhiều nghìn năm - thầy Xuyền đã phát hiện ra suốt một vùng dọc theo triền sông Đà, nhân dân ta còn lưu giữ được nhiều văn bản mang trên mình loại ký tự mà mọi người vẫn nhầm là chữ Thái. Trong những tài liệu ấy, thầy Xuyền đặc biệt chú ý đến tài liệu do Thượng thư Phạm Thận Duật, một nhà trí thức uyên bác (Tri châu Điện Biên những năm 1855-1856) công bố. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về phong tục, tập quán, Phạm Thận Duật đã có một số trang ghi lại một loại ký tự mà ông cho là “chữ Thái (thổ tự)” (CTTT - chữ Thái chỉ của một vùng người Thái). Những trang ghi chép này không được chú ý vì nội dung của nó mang nhiều điều vô lý. Sau một thời gian dài đi sâu vào sự “vô lý” ấy, thầy Xuyền đã phá bỏ lớp vỏ ngụy trang, dần dần giải mã được bộ ký tự này. Thầy Xuyền cũng khu biệt được bộ chữ mới được giải mã, từ đó rút ra kết luận: Bộ chữ này cũng không phải của hai dân tộc anh em Mường và Thái. Do nhiều lý do, các dân tộc anh em đã sử dụng chung bộ ký tự này (có chỉnh sửa đi chút ít), đúng như nhận định của Vương Duy Trinh “Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy”! Tiền thân của chữ Quốc Ngữ?! Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ năm 1651. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được. Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt Bồ La” của Alexandre de Rodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790 - 1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được. Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rodes". Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?! Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do thầy Xuyền giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi! Chính trong cuốn “Từ điển Việt Bồ La”, Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo thầy Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ! Đinh Anh Tuấn- Báo Tiền Phong
-
ĐI TÌM CHỮ VIỆT CỔ - Phần 1 Người Việt ta lập nước rất sớm, nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có thầy giáo và học trò, điều đó chứng tỏ dân tộc ta đã có chữ, nhưng đó là thứ chữ gì ? Trong hơn một chục năm gần đây, vấn đề chữ viết của người Việt cổ đã được đặt ra trên tinh thần nghiêm túc và khoa học trong các hội nghị nghiên cứu thời kì các vua Hùng.Theo cổ sử Trung quốc “vào thời Vua Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con thần qui, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông cũng ghi: “Nghiêu thế, Việt thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa là thời vua Nghiêu nước Việt thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu. Sang thế kỷ 20, nhờ khảo cổ học và các môn khoa học khác phát triển, cung cấp nhiều bằng chứng khoa học mới về sự tồn tại của chữ Việt cổ. Năm 1979 Giáo sư Hà Văn Tấn phát hiện trên một công cụ bằng đồng - mà các nhà khảo cổ học quen gọi là lưỡi cày hình cánh bướm, đặc trưng cho vùng sông Mã - có hai kí hiệu ở hai bên họng tra cán. Hai kí hiệu này do hai bên không đối xứng nhau, ít có khả năng là hoa văn trang trí, nhiều khả năng là chữ viết. Những chữ việt cổ còn được phát hiện trên nhiều hiện vật khảo cổ khác. Trên bốn chiếc qua đồng Đông Sơn có chạm khắc 28 chữ. Đó là những chữ viết Việt cổ mà cho đến nay chưa giải mã được. Ngược dòng thời gian, năm 1930 một hiện vật gốm quí hiếm được M- CoLan phát hiện dưới chân vách đá Lan Gan ở Hoà Bình. Ban đầu người ta chỉ coi chúng là vật trang sức, “không có công dụng thực tế, không rõ để làm gì ...” Đây là những chữ cổ có tuổi khảo cổ học một vạn năm, thuộc nền văn hoá đồ đá giữa Hòa Bình, trong đó có chữ thứ 2 giống chữ sĩ của Hán tự ngày nay, phát hiện này trong thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu, vì nó có trước Chữ Giáp cốt Ân - Thương (1392 - 1122 - Tr. CN) khoảng 6000 năm. Lúc đó cả tộc danh Hoa Hạ và chủng Trung Mông -gô lô-ít đều chưa có trên trái đất này. Có thể thấy Trình độ tạo chữ của Tổ tiên ta thời cổ đại đã khá cao đáng khâm phục tự hào: Chữ Sĩ có hình tượng đứng đắn ngay từ đầu. Hai chiếc đĩa cổ bằng đất nung có chữ ở Lan Gan (Hòa Bình) Sử cũ cho biết, sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị kẻ thù thi hành chính sách huỷ diệt và đồng hoá rất dã man. Bọn Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp sang ta bắt đốt hết sách của ta, nhà nào cất giữ thì bị giết hại. Cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, sau này cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15…, Với chính sách đó thì chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, tưởng rằng đã bị xoá sạch là điều dễ hiểu. Trong tập: "Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ", do Viện Văn hoá in năm 1986, Giáo sư Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tôc Kinh- Việt lại không còn văn bản hay sao? Riêng ở Việt Nam, chữ khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, bị Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng. Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Bách Việt sinh sống, từ phía nam sông Dương Tử đến bắc Việt Nam. Gần đây Nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và giáo dục thời Hùng Vương, do nhà văn Khánh Hoài- Đỗ Văn Xuyền lãnh đạo đã có những khám phá rất quan trọng. Một trong những kết quả nghiên cứu của Nhóm là phát hiện ra một bộ chữ Việt cổ được lưu giữ ở vùng tây bắc Việt Nam. Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của thứ chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt- Mường, đã thoát được chính sách huỷ diệt của kẻ thù. Do phải lẩn trốn không được sử dụng, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa tràn vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây la tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Phát hiện quan trọng này chúng tôi sẽ có dịp trình bầy trong một bài viết khác. Đỗ Quang CÓ MỘT NGƯỜI HỌ ĐỖ DÀNH CẢ ĐỜI ĐI TÌM VÀ GIẢI MÃ CHỮ VIỆT CỔ Cách đây 48 năm có một thanh niên 22 tuổi quê ở Thái Bình, từ trường đại học Sư phạm Hà Nội về nhận nhiệm vụ làm hiệu trưởng trường cấp II đầu tiên của khu công nghiệp Việt Trì. . Đó là nhà giáo trẻ Đỗ Văn Xuyền. Việt Trì ngày ấy vẫn còn giữ được dáng vẻ nguyên sơ của một vùng đất cổ, kinh đô Văn Lang với những: Lầu Thượng, Lầu Hạ, Kẻ Lư, Thậm Thình, Mã Quàng... Những học sinh của anh đi lao động còn gánh về những dao, mác, trống đồng, minh khí... nhặt được ở công trường. Một lần đi thăm học sinh qua đồi Giàm, anh thấy những người trồng sắn cuốc lên nhiều rìu, búa đá. Nhiều đến mức tưởng như nơi đây đã từng là một công trường chế tác đồ đá mới. ...Anh bắt đầu với việc tìm lại dấu tích người xưa. Đầu năm 1980 anh mới lại có dịp trở lại Việt Trì. Với cương vị Chủ tịch Hội văn nghệ. và trưởng ban Văn hoá xã hội của thành phố (lúc này anh đã là nhà văn với bút danh Khánh Hoài) đã có dịp đi sâu xuống thôn xóm để thực hiện ước mơ xưa. Một lần đi qua quả đồi nhỏ ở thôn Hương Lan - trung tâm cố đô - anh thấy một ngôi miếu nhỏ đổ nát nằm dưới tán hai cây Táu cổ thụ đã hơn ngàn năm tuổi. Đọc ngọc phả, anh kinh ngạc khi biết đây là đền Thiên cổ, thờ một thầy giáo thời Vua Hùng thứ 18. Trong lòng miếu còn có mộ của thầy giáo mà nhân dân đã bí mật bảo vệ suốt mấy nghìn năm qua. Từ ngôi miếu nhỏ ở cố đô, anh còn tìm ra rất nhiều nơi thờ các thầy giáo và học trò thời trước Hán (thời Hai Bà Trưng, thời An Dương Vương và đặc biệt là thời Hùng Vương...) ở rải rác khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh. Năm 186 công nguyên, Sĩ Nhiếp mới đưa chữ Hán vào Việt Nam. Như vậy các thầy giáo thời Hùng Vương dạy thứ chữ gì? Phải chăng dân tộc ta đã có chữ viết riêng từ rất sớm. Anh lại lao vào các thư viện, tìm đọc thư tịch trong và ngoài nước ở lĩnh vực này và anh đã gặp may, vì có rất nhiều nhà nghiên cứu tiền bối đã đi sâu vào vấn đề này: Từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Một lần trên đường đi tìm kiếm anh đã dừng chân bên ngôi miếu nhỏ của một xóm núi, đọc được một bản Ngọc Phả từ thời Trần Thái Tông với những dòng chữ vang vọng tự hào: "Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa dấu". Như vậy thời Hùng Vương, dân tộc ta đã có chữ, đó là điều khẳng định chắc chắn. Nhưng thứ chữ đó hình dạng ra sao? Cấu trúc thế nào? Anh lại lao vào cuộc tìm kiếm mới. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15, và cuộc đốt phá hết thư khố quốc gia và thư khố của các bộ (sau cuộc tấn công vào đồn Mang Cá) của Pháp năm 1875, liệu có còn sót lại những gì? Anh đã tìm đến những nơi đồn là có chữ Việt cổ. Nhưng đôi khi thất vọng: Chữ khắc trên viên gạch ở Hoàng thành Thăng Long chỉ là chữ Chăm và những trang sách trên lá buông ở đỉnh Trường Sơn và ở Thư viện Nghệ An chỉ là chữ Lào cổ. Nhưng anh vẫn tim vào sự cất giấu lưu giữ của tổ tiên về chữ Việt cổ (như khi đi tìm dấu vết của các thầy giáo thời trước Hán). Anh đến Sa Pa, trên tảng đá vùng Hầu Thảo, sau khi cạo hết lớp rêu phủ, anh đã tìm được những chữ giống như chữ cái của Vương Duy Trinh. Nhớ tới câu nói của Vương Duy Trinh: "Vì thập Châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy", anh hướng tìm tòi lên vùng Tây Bắc, Việt Bắc, vùng khu 4 cũ, rồi lăn lộn lên cả Đông và Tây dãy Trường Sơn. Để đi được dài ngày và đi xa, với số tiền lương hưu ít ỏi, anh đã phải tính đến việc ăn ngủ giản tiện nhất, đó là: một chiếc võng bạt, một bi đông đựng nước, một ít bánh mì sấy khô và dăm gói mì tôm. Thế là anh có thể "cầm cự" được hàng chục ngày để đi đến các vùng sâu vùng xa, quyết tìm cho ra chữ Việt cổ của anh. Trong các tài liệu sưu tầm được, anh đặc biệt chú ý đến một bộ chữ lạ. Rất tiếc là những trang sách này đã bị nguỵ trang và khoá mã, mặc dù vậy nó đã tồn tại hàng mấy trăm năm mà không ai chú ý tới. Linh cảm như mách bảo, anh đã thức nhiều đêm trắng để mày mò giải mã. Kiến thức tổng hợp và vốn ngoại ngữ đã giúp anh rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu chữ Việt cổ. Cho tới một ngày anh đã khu biệt được loại ký tự này với các loại văn tự xung quanh, đã tìm ra được hình dạng, chức năng của từng chữ cái và cách cấu trúc của một loại ký tự mà người ta đã nhầm là chữ Mường, chữ Thái... Qua công trình nghiên cứu về ngôn ngữ người Việt cổ HauĐricourt, anh khẳng định được bộ ký tự này có từ trước công nguyên (loại ký tự bắt nguồn từ chữ Khoa đầu tượng hình chuyển sang chữ cái có ghép vần). Căn cứ vào ý kiến của giáo sư Lê Trọng Khanh: "Các dân tộc Bách Việt dùng thứ chữ này". Khi đã đọc thông viết thạo chữ Việt cổ, anh lại tìm đến các vùng người Thái, người Mường. Loại văn tự này có thể ghi được tiếng Thái, tiếng Mường nhưng không đầy đủ. Anh lại tìm đến các vùng quê Thái Bình, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thanh Nghệ Tĩnh... để lắng nghe những người già phát âm. Thứ ký tự này đã giúp anh ghi lại đầy đủ giọng nói, âm vực của họ, đã giúp anh giải thích được tiếng nói khác nhau của từng vùng - gần như nó đã ghi lại nguyên tiếng nói người Việt cổ. Nó đã giúp anh giải thích được nhiều vấn đề còn thắc mắc. Ví dụ: Vì sao trong tờ Le Paria và tờ L'Humanité từ những năm 20 của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc. Chữ Nguyễn ái Quốc được viết là Nguyễn ái Quấc. Và trong cuốn sách sổ sáng của Filíp Bỉnh viết ở Bồ Đào Nha năm 1822, chữ huyên được viết là huên, chữ dòng được viết là dào. Cũng như vậy anh có thể chứng minh được một nền văn tự có trước Hán và khác Hán, của giáo sư Hà Văn Tấn qua việc giải thích sự tồn ghi trong cuộc khai quật của bà Cô La Ni ở Lam Giận Hoà Bình năm 1923. Tháng 9/2004, giáo sư Hà Văn Tấn đã mời anh về Hà Nội nghe anh kể lại quá trình đi tìm chữ Việt cổ và khi được anh tặng bản Hịch của Hai Bà Trưng mà anh đã chuyển sang chữ Việt cổ, giáo sư đã cảm động nghẹn ngào: "Vấn đề lớn lắm. Chúng ta phải sớm báo cáo lên nhà nước". Nhân dịp Quốc khánh 2005 trong chuyến về công tác ở Việt Trì - Phú Thọ, nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tìm gặp anh và gửi thêm tài liệu cho anh. Khi thấy anh còn băn khoăn, Chủ tịch đã động viên: "Anh Xuyền cứ tiếp tục công việc, sẽ có ngày sử dụng đến kết quả này". Ngày ấy, anh đoán chắc còn xa lắm... (1) Dịp hè năm nay, nghe tin tỉnh Sơn La tìm được hàng nghìn cuốn sách cổ có chữ lạ. Nhóm chúng tôi đã tìm đến và phôtô được một số trang đưa về cho anh. Anh cầm lên, đọc mà nước mắt ràn rụa. Như vậy điều dự đoán của các nhà khoa học trước đây đã được chứng minh: Thứ ký tự đặc biệt để ghi âm tiếng nói của người Việt cổ (thứ chữ dân tộc ta đã có từ thì đại Hùng Vương) đã được các dân tộc sử dụng chung và còn được lưu giữ bảo tồn ở vùng Tây Bắc cho đến ngày nay. Hoàng Đạo Lý - Thông tin việc họ Đỗ Việt Nam số 24 (1) Mới gần đây gần đây ông Đỗ Văn Xuyền lại có dịp báo cáo công trình của mình lên Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân. This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1502x1126. Buổi trao đổi khoa học về đề tài chữ viết cổ của người Việt tại Trung tâm Văn hoá người cao tuổi Từ trái sang phải: ông Đỗ Văn Xuyền ( nhà văn khánh Hoài), giáo sư Lê trọng Khánh, phó giáo sư Đỗ Tòng- nguyên trưởng Ban liên lạc HĐVN, ông Lê Văn Ánh- Chủ nhiệm Trung tâm Văn hóa người cao tuổi, trưởng BLL họ Lê VN.
-
TÌNH MẤT Laviedt Nhắc chi nhớ cùng thương Ngó lìa còn tơ vương Dù̃ chẳng xa đi nữa Bên nhau luống đoạn trường. Cảm tác TÌNH MẤT Thiên Sứ Một mùa thu yêu thương. Một trời đầy tơ vương. Hương xưa bên xứ trăng vàng cũ. Có thấy ngàn sau cảnh đoạn trường.
-
Nhanh thì tháng 9 năm nay sẽ có thay đổi. Chậm thì vào mùa Xuân năm tới mọi việc sẽ tốt đẹp.Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ