Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Những điều cấm kỵ về Dương Trạch Vũ Tài Lục Nguồn thegioivohinh.com Dương trạch là nhà cửa. Thông thường mà nói thì con người ở đâu chịu ảnh hưởng của nơi ở khá nhiều .Nếu như ta đ̣ược ở căn nhà thoáng gío , ánh sáng đầy đủ tất nhiên sức khỏe tốt tâm ý thoải mái . Lên một tầng lầu cao hơn khoa kham dư dương trạch (cái lý về đất đai nhà ở ) có thể giúp ta hiểu biết thêm những ảnh hưởng huyền vi khác. Thủ tướng Churchill nói:"Ngừơi Xây nhà cửa ,nhà cửa tái tạo người". Mạnh Tử nói:" chổ ở làm biến khí chất, thức ăn thay đổ cơ thể , vấn đề cư trú thật là lớn lắm vậy ". Để gỉải quyết phần nào vấn đề lớn kể trên ,trước hết hãy tìm biết những điều cấm kị về dươg trạch căn bản có những điều sau đây : 1- Nếu như nhà hai tầng hoặc đang một tầng muốn làm cao thêm cho rộng chổ thì nguyên tắc phải là đằng trước thấp đằng sau cao ,nếu đằng trước cao đằng sau thấp thì con cháu tàn hoại , học hành làm ăn chẳng ra gì , hoặc bỏ đi, nặng hơn nữa có thể đưa đến tình trạng cô nhi qủa phụ . 2- chung quanh nhà , giữa có khỏang đất trống làm sân vườn , danh từ kham dư gọi bằng" quan mộc sát" dể gây chết chóc ,tù tội hoăc bệnh tật triền miên không khỏi . Ngay cả thuê một căn chung cư xây cất theo kiểu này cũng không nên . 3- Mái nhà chổ nước mưa tụ lại để chảy xuống , không được cho nước lũ tuôn mãi vào bậc thềm đi ,lâu dần người trong nhà sẽ bị huyết bệnh (bệh vềmáu )như : băng huyết , mất máu v.v... 4- Đằng trước đằng sau , bên hong nhà hể thấy có vật nhọn đâm tới , ta vẫn thường bảo là đòn dông, không chỉ đòn dông thôi , ngay cả những vật trên cột sắt dùng để làm gì đó cũng kể . Sách gọi bằng "trực sạ sát ", theo nhiều lối "xuyên tâm" ,"sạ yêu","xung dầu", "âm tiễn",tất chẳng tránh khỏi một việc bất ngờ xẩy đến làm điên đảo cuộc sống. 5- Nhà xây vuông, xây tròn , hay xây dài theo hình thể đất, nhưng nếu sau này xây thêm một căn nhà ngang ra không hiệp điệu với xây cất chủ yếu , người ở dể bị ung thư hoặc bị bướu trong cổ .Gian nhà mới xây này sách gọi là "đình thi gian" (căn nhà đặt xác chết ). 6- Chung quanh mọi nhà điều thấp, chỉ một mình nhà mình ̣đột xúât cao hết, như con phượng đứng giữa đàn gà tức là phạm "cô độc sát" hay " xung thiên sát" thì vợ chồng anh em con cái chia lìa . 7-Nhà chung quanh đìêu cao, riêng nhà mình lại thấp sách gọi bằng " áp lực sát".làm ăn khó mọc, mùi sũi tâm. 8-Nhà hai bên thấp nhà mình cao như chữ phẩm( gồm ba chữ khẩu chồng lên nhau) người ở gian cao nhất không lợi , gọi bằng " bất an sát" 9- Nhà ở chỉ nên có hai cửa ,cửa trước lớn , cửa sau nhỏ,nếu có ba hoặc bốn cửa thường đưa đên cải vã tranh giành eo sèo quanh năm suốt tháng . Nhà nào vợ chồng con cái lục đục hãy đóng bớt lại thì hết. 10- cửa lớn phía trước có thêm bên cạnh một cứa nhỏ thường dùng cửa nhỏ ra vào, lâu ngày nhà này sẽ xảy ra chuyện chồng có vợ nhỏ hoặc vợ có chồng nhỏ( ngoại tình) đó là phạm"đ̀ao hoa sát" 11- cửa bên ngoài chạy thốc vào phòng khách rồi từ phòng khách xuyên ra cửa sau làm thành đường thẳnggọi bằng "lậu tài sát" khó tụ tài , làm ra của nhưng không gĩư được của. 12-Đằng sau nhà có đường nướcđi như thác đổ ,hoặc con đường dốc chạy xuống (phần lớn nhà ở các đồi núi)sẽ đưa đến phá sản khi đang làm ăn thịnh vượng, hoặc đàn bà có mang bị lưu sản . danh từ kham dư chỉ đó là "lâm đầu sát" 13- ở nhà chung quanh qúa nhiều cây cối um tùm ,ở như vậy phạm vào "Ám khí sát", cuộc sống thường gặpviệc quái dị như ngộ sát ,điên dại... 14-xây hồ bơi phải xây vuông vắn không để góc hồ bơi xuyên vào căn nhà thành cái thế" đột hãm sát" trai gaí thành trụy lạc hút sách , cờ bạc... __________________
  2. Trong phong thủy lưu truyền thì: 1) Nhà phía trước phải rộng rãi sáng sủa, phía sau cao. Nếu phía trước tụ thủy là tốt nhất. Nhưng tụ thủy hầu hết kỵ hướng Đông Tây vì có thể phạm vào cách "Huyết Ma đại sat". Anh có thể tham khảo thêm đường link dưới đây: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...php?showtopic=8. 2) Nóc nhà: Trước thấp sau cao. Trước cao sau thấp, không có hậu. 3) Theo quan niệm của chúng tôi thì không nên xây nhà lệch tầng. Bởi những hiệu ứng do bức xạ của những tấm bê tông sàn đâm xuyên vào phòng đối diện. Phong Thủy Lạc Việt giải thích rất kỹ điều này về lý thuyết hoặc chứng nghiệm trên thực tế cảm xạ. Nhưng vì giải thích phức tạp nên xin giới thiệu tính ứng dụng. Vài lời chia sẻ. Thiên Sứ
  3. Anh chị em Phong Thủy Lạc Việt lưu ý: Bàn thờ ở tầng thượng, đôi khi bị vô khí. Bởi những lý do sau đây: - Ít người lên tầng thượng. - Cầu thang có cấu trúc thoái khí. - Trống trải, Âm khí suy. Thiên Sứ
  4. Cảm ơn Phoenix! Có thể cho tôi địa chỉ được không? Tôi sẽ cố gắng ghé thăm. Nếu không được cũng gửi lời hỏi thăm nàng.Thiên Sứ
  5. ĐIỀM BÁO TRƯỚC Trích từ nguồn: Thanh Niên Online Trung Quốc đang nỗ lực từng giờ để cứu thoát người bị nạn trong trận động đất tại Tứ Xuyên, đã giết chết ít nhất 12.000 người và 26.000 người mất tích. Hình ảnh cóc nhái nhảy ra đường trước trận động đất - Ảnh: chụp lại từ China Daily Điềm báo tự nhiên Trước khi Tứ Xuyên rung chuyển vì động đất, báo giới địa phương hôm 11.5 đưa tin nhiều con cóc đã tràn ra đường tại một khu vực gần huyện Vấn Xuyên. Một cư dân tên Lưu cho hay rất nhiều cóc đã bị xe cộ cán chết trên đường lúc đó và đây là lần đầu tiên trong đời ông chứng kiến cảnh tượng kỳ lạ trên. Báo chí tỉnh Giang Tô cũng tường thuật hiện tượng tương tự. Theo các chuyên gia, thú vật có thể cảm nhận được động đất trước, nhưng tiếc là không ai giải mã được lời cảnh báo từ thiên nhiên. Lúc đó, giới chức địa phương chỉ trả lời rằng đó là hiện tượng tự nhiên và việc cóc di chuyển lũ lượt như thế là do thời tiết thay đổi. Thụy Miên (từ Trung Quốc) Thiên Sứ giới thiệu
  6. Phần I Thuyết âm dương ngũ hành và tranh dân gian Việt Nam Nguyễn Vũ Tuấn Anh Trungtâm nghiên cứu lý học Đông phương Lưỡng nghi sinh tứ trượng Bức tranh này tự nó đã khẳng định nội dung triết học về sự khởi nguyên của vũ trụ qua ngay hàng chữ được ghi trên bức tranh. Nhưng có vẻ như nó chỉ nhằm nói lại một câu trong Hệ từ của kinh Dịch: “Thị cố Dịch hữu Thái Cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”. Lưỡng nghi sinh tứ tượng (Tranh dân gian Hàng Trống) Thực ra bức tranh này mang một nội dung minh triết sâu sắc.Đây chính là bức tranh minh họa và lý giải ý nghĩa đích thực nội dung của câu trên trong Hệ từ, khác hẳn sự lý giải của các nhà lý học Đông phương từ thời Hán đến nay. Trải hàng ngàn năm qua – kể từ đời Hán – các nhà lý học phương Đông đã có rất nhiều cố gắng lý giải ý nghĩa của câu “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”. Có người cho rằng: Thái cực là Thái nhất, là thái Hư. Có người cho rằng: Thái cực có nguồn gốc từ Vô cực, Thái cực động sinh Dương, Dương tịnh sinh Âm, Âm Dương sinh ra Ngũ hành (Chu Hy – Dịch học khởi mông). Có người cho rằng: Tứ tượng tức là Thái Âm, Thái Dương, thiếu Âm, thiếu Dương… Nhưng tất cả các cách giải thích của họ đều mơ hồ và mâu thuẫn. Khiến cho đến nay nền văn hóa cổ Đông phương vẫn là một sự huyền bí, khó hiểu ngay từ nguyên lý khởi nguyên của nó (*). Trên cơ sở sự nhận định sai lầm về bản chất của sự khởi nguyên của vũ trụ được ghi nhận trong Hệ từ, những nhà nghiên cứu Hán Nho đã đưa ra những biểu tượng cho sự vận động khởi nguyên của vũ trụ: Thái cực – Âm Dương – Tứ tượng và Bát quái như sau: Hình Thái Cực xưa nhất của Lai Trí Đức Qua đồ hình của Lai Trí Đức và Chu Đôn Di chúng ta thấy rõ nét sự phân biệt giữa Thái cực (biểu tượng bằng vòng tròn ở giữa) và Âm Dương (các phần đen trắng xung quanh). Đây là một sai lầm, vì Âm Dương lúc này là một vế của chính nó. Hay diễn tả một cách cụ thể hơn, nếu chúng ta lấy vòng tròn thể hiện Thái cực của hai đồ hình này và so với một trong hai phần Âm hoặc Dương thì tự chúng sẽ là Âm Dương, phần còn lại sẽ không biết gọi là gì. Hình thái cực của Chu Đôn Di Hình thái cực hiện đại Trong biểu tượng Âm Dương hiện nay tuy có thay đổi và mang tính minh triết hơn: Không diễn tả Thái cực như một thực tế tồn tại ngoài Âm Dương, thay vào đấy là một vòng tròn bao quanh Âm Dương. Nhưng ở đồ hình này thuần túy chỉ là một biểu tượng; không hề có một cơ sở lý luận hợp lý chứng tỏ ý nghĩa của nó – cho đến tận ngày hôm nay, khi bạn đang đọc cuốn sách này. Sai lầm của biểu tượng này – là sự thể hiện tiếp tục nhận thức sai lầm trải hàng ngàn năm trước đó trong cổ thư chữ Hán – là có thêm hai vòng tròn nhỏ biểu tượng của thiếu Âm, thiếu Dương. Như vậy, giữa Thái Âm với thiếu Dương (hoặc Thái Dương với thiếu Âm) tự nó đã có sự phân biệt; tức là đã trở thành Âm Dương. Hay nói một cách khác: Sự nhận thức về tứ tượng trong cổ thư chữ Hán được coi là một trạng trái tồn tại trong sự chuyển hóa từ Âm Dương đến Bát quái. Đây là sự vô lý. Ngược lại với những nhận thức của tất cả các nhà lý học Hán nho từ trước đến tận ngày hôm nay; bức tranh dân gian Việt Nam “Lưỡng nghi sinh tứ tượng” mang một nội dung khác hẳn về sự nhận thức sự hình thành vũ trụ trong câu trong Hệ từ của kinh Dịch: ‘Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”. Chúng ta bắt đầu từ ba hình tượng chính của bức tranh này là: 1) Đồ hình Thái cực, Âm Dương và Bát quái (do một chú bé cầm trên tay). 2) Hai chú bé với bốn thân hình gắn kết với nhau: biểu tượng của “tứ tượng”. 3) Hình con rùa (một chú bé đứng trên lưng). 1) Những hình tượng trong bức tranh dân dã Lạc Việt này, lại là một sự lý giải rất hợp lý về ý nghĩa của vũ trụ quan cổ Đông phương thể hiện trong Hệ từ của kinh Dịch với mọi hiện tượng liên quan đến nó. Trước hết là đồ hình hình “Thái cực sinh lưỡng nghi” của bức tranh này. Xin bạn đọc xem hình dưới đây: Hình Thái Cực trong tranh dân gian Việt Nam Hình Thái Cực phục chế từ tranh dân gian Việt Nam Đây là biểu tượng của Thái cực sinh Lưỡng nghi. Điều này hoàn toàn phù hợp với sự giải mã câu “Mẹ tròn, con vuông” trong tục ngữ Việt Nam (Trước đây vốn được sử dụng như là một thành ngữ). Mẹ tròn – cái có trước – biểu tượng của Thái cực, của sự chí tịnh, sinh con vuông – cái có sau – thuộc Âm động. Khi Âm sinh thì mới có sự phân biệt Âm Dương; còn bản thể khởi nguyên của vũ trụ chỉ là Thái cực. Đồ hình này về hình thức giống đồ hình Thái cực hiện đại, nhưng khác hẳn ở chỗ không có biểu tượng tứ tượng trong đồ hình này. Và một điều căn bản nữa là biểu tượng trong tranh dân gian Việt Nam có một cơ sở lý luận hợp lý chứng minh cho nội dung của nó. Đó chính là câu tục ngữ Việt Nam: “Mẹ tròn con vuông”. 2) Biểu tượng của “Tứ tượng” trong tranh dân gian Việt Nam, khác hẳn ý niệm này trong các cổ thư chữ Hán là nó được thể hiện tách rời đồ hình Thái cực – Âm Dương và Bát quái. Điều này chứng tỏ trong nhận thức vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành của người Lạc Việt đã coi “Tứ tượng” là một chủ thể tương tác trong quá trình vận động của Âm Dương & bát quái và không phải Âm Dương & Bát quái. Hai chú bé này có 4 thân hình biểu tượng của “Tứ tượng”.Bốn thân hình của đứa bé kết thành hình vuông là biểu tượng của Âm. Có nghĩa “Tứ tượng” là thuộc tính của Âm, tức là thuộc tính của sự vận động. Trong “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” (Nxb VHTT 2002) người viết đã chứng tỏ với bạn đọc là: Dương tịnh, Âm động và tứ tượng chính là 4 trạng thái tương tác có ngay từ sự khởi nguyên của vũ trụ theo quan niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành, gồm tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ. Vì sự vận động và trạng thái tương tác không ngừng nghỉ, nên không thể có trạng thái phân biệt rõ rệt. Như không thể phân biệt giữa “chiều tím” và “hoàng hôn”. Điều này được thể hiện bằng 4 thân hình gắn kết với nhau trong bức tranh trên. Nhưng Âm Dương về nguyên tắc vẫn là trạng thái phân biệt, như ban ngày với ban đêm. Do đó, hình ảnh hai đứa bé (sự phân biệt) cho thấy Âm Dương chi phối “Tứ tượng”. 3) Bức tranh trên còn một hình tượng quan trọng, đó là con rùa. Con rùa là biểu tượng một nền văn minh có chữ viết của người Lạc Việt. Bản văn cổ chữ Hán ghi nhận “Vào đời Đào Nghiêu, có sứ Việt Thường dâng con rùa lớn, trên mai có văn Khoa Đẩu, ghi việc trời đất mở mang” (sách Thông Chí của Trịnh Tiều). Như vậy, con rùa chính là phương tiện ghi nhận nền văn minh có chữ viết của người Lạc Việt từ thời cổ xưa khi chưa làm ra giấy. Thái Cực, Lưỡng nghi, tứ tượng chính là giai đoạn vận động đầu tiên của vũ trụ; hay nói một các khác: Chính là việc “trời đất mở mang”. Chú bé “Tứ Tượng” dẫm trên mai con rùa là hình tượng sắc sảo chứng tỏ nó thuộc về văn minh Lạc Việt và đã được ghi nhận từ thời tối cổ; khi mà tổ tiên người Lạc Việt dùng mai rùa để ghi lại những tri thức của mình. Đây cũng là một biểu tượng có nội dung sâu sắc của bức tranh này. Như vậy, với những hình tượng trong bức tranh trên thể hiện một nội dung về sự khởi nguyên của vũ trụ qua câu trong Hệ từ: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng”, khác hẳn tất cả những quan niệm trải hàng ngàn năm nay về câu này trong các bản văn chữ Hán. Bức tranh tư liệu trình bày trong sách này có thể chỉ được thực hiện khoảng vài chục năm trở lại đây. Nhưng qua nội dung của nó thì hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng: nó đã có từ thời rất xa xưa, trước cả những bản văn chữ Hán cổ nhất nói về kinh Dịch. Bởi vì ngay từ những bản văn chữ Hán cổ nhất cho đến ngày nay, cũng không hề diễn đạt một ý niệm về tứ tượng như hình tượng đã diễn đạt trong bức tranh dẫn gian Việt Nam. Về sự hiện diện của những chữ Hán trên bức tranh, có thể dẫn tới một ý niệm cho rằng nó là sản phẩm của văn minh Hán. Nhưng chính nội dung bức tranh – qua biểu tượng rất cụ thể của nó được diễn giải – lại cho thấy nó không thuộc về nền văn minh Hoa Hạ, nhưng đã bị Hán hóa về chữ viết. Điều này cũng chẳng có gì là lạ, vì dù cho người Việt đã có chữ viết trước khi bị đô hộ, thì nó vẫn bị thay đổi do nhu cầu tất yếu và cần thiết là sự thống nhất chữ viết trong một đế chế. Sự đô hộ của đế chế Hán đã trải hơn 1000 năm. Đây không phải là thời gian để nói trong một giây. Điều này cũng giải thích rằng: mặc dù bức tranh có nội dung rất cổ như đã trình bày ở trên; nhưng những chữ Hán lại là loại chữ thảo thuộc về thời cận đại hoặc trung cổ. Bức tranh dân gian Hàng Trống “Lưỡng nghi sinh tứ tượng” thể hiện một cách cô đọng và hợp lý ý nghĩa của “Thái cực sinh Lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng”. Tính minh triết trong bức tranh dân gian này đã góp phần chứng tỏ một cách sắc sảo về cội nguồn của nền văn hóa Đông phương thuộc về văn minh Lạc Việt, khởi nguồn của đất nước Việt Nam trải gần 5000 năm văn hiến. Phụ bản Tứ hỷ hợp cục (Tranh cát tường Trung Hoa) Chú thích trên tranh: Bốn chữ Hỷ hợp lại với nhau. Bốn điều mừng vui cùng kéo đến, thường là chúc mừng sinh nhật con trẻ; mong có cuộc sống nhiều may mắn, mừng vui... Bức tranh trên được trích dẫn từ cuốn “Tranh vẽ cát tường Trung Hoa”, Kiều Liên biên soạn và giới thiệu, Nxb VHTT III 2002. Bạn đọc cũng nhận thấy bố cục hai đứa bé trong tranh này giống hệt tranh “Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng” của Việt Nam. Nếu có khác thì chỉ là vài chi tiết. Tính đặc thù của hình tượng hai đứa bé trong hai tranh, cho thấy đây không thể coi là sự trùng hợp ngẫu nhiên về ý tưởng diễn đạt. Với nội dung của bức tranh Trung Quốc, không thể và không cần phải diễn đạt bằng hình tượng rất kiêng cử trong văn minh Đông phương này (hai chú bé thân hình dính nhau). Điều này chỉ có thể giải thích rằng chúng có chung một cội nguồn văn hóa và xuất xứ duy nhất. Không thể cho rằng bức tranh dân gian Việt Nam là ảnh hưởng văn hóa Hán, vì nội dung của nó diễn đạt khác hẳn tất cả bản văn chữ Hán nói về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Như vậy, chỉ có thể giải thích rằng: Bức tranh “Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng” đã lưu truyền từ rất lâu trong cộng đồng Bách Việt và qua hơn 1000 năm Bắc thuộc ở Nam sông Dương Tử. Khi nước Việt hưng quốc (thế kỷ thứ X sau CN), những di sản của người Việt ở Nam sông Dương Tử tiếp tục bị Hán hóa. Với cách hiểu sai lệch về thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhưng được coi là ý tưởng chính thống của các nhà lý học Hán nho - đặc biệt phát triển từ thời Tống (thế kỷ X, XI) - đã khiến bức tranh mất đi nội dung ban đầu của nó và chỉ còn là một hình tượng minh họa cho điềm lành: “Tứ hỷ hợp cục”. Nguyễn Vũ Tuấn Anh Nguồn: Trung tâm nghiên cứu lý học Đông phương. ------------------ * Chú thích: Xin xem “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại -------------------------------- Bạn đọc có thể tiếp tục tìm hiểu quan niệm của người viết về nội dung một số trang dân gian Việt Nam qua đường Link sau: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/News/03/...n-I---1/70/424/ http://www.lyhocdongphuong.org.vn/News/03/...n-I---2/70/425/
  7. Nhà nước ban hành pháp quy (Hay Pháp lệnh) về lịch, quy đinh múi giời thứ 7 quốc tế là giờ chính thức ở Việt Nam và là múi giờ qua Thủ Đô Hanoi. Pháp lệnh này chính thức được áp dụng. Bởi vậy giờ 0 Dương lịch tính tại Hanoi là giờ quốc tế. Giờ Âm lịch áp dụng tại Việt Nam thì giờ Tý từ 23 giờ hộm trước đến 1 giờ sáng hôm sau hoàn toàn phù hợp với pháp quy (Hay pháp lệnh) về lịch của nhà nước quy định theo múi giờ của Việt Nam và không hề trái với pháp lệnh này. Nếu một phương pháp tính lịch nào đó lấy giờ Tý Âm lịch từ 0 giờ đến 2 giờ thì về bản chất họ đã vi phạm pháp lệnh (Hoặc pháp quy) của nhà nước và bị sai. Bởi vì: Nếu tính theo giờ Bắc kinh thì giờ Tý mới tương đương với O giờ đến 2 giờ của Việt Nam. Thiên Sứ
  8. Tôi chưa kiểm tra, nên không xác định là trình của Thái Hòa có bị sai hay không. Tuy nhiên Thái Hòa lưu ý lấy Âm lịch chính thức là "Lịch Vạn Niên Dịch học Phổ thông" do NXB Văn hóa dân tộc xuất bản là chuẩn. Daohoa thân mến: Đề nghị Đào Hoa cho biết trình trên của Thái Hòa sai ở chỗ nào? Thiên Sứ
  9. LỆ CHI VIÊN Bích Hoàng Trăng cài, liễu điểm nặng lòng son Phấn nữ Tây Hồ bán chiếu gon Nợ Lệ Chi Viên khôn trả xiết Sạch sành sanh mất lại như còn. Họa Thi Hoàng Lòng ai vẫn cứ đỏ như son Hàng Chiếu Tây Hồ, chiếc chiếu gon Món nợ Chi Viên dù trả hết Bình Ngô Đại Cáo mất hay còn. Họa Thiên Sứ. U sầu Việt sử tấm lòng son. Khắc khoải Tây hồ mảnh chiếu gon. Nợ nước ngàn thu chưa trả hết. Ngậm ngùi muôn kiếp lệ như còn. CÙNG TRĂNG Bích Hoàng Mười sáu trăng tròn thức với trăng Trùng dương phương ấy có buồn chăng? Nhớ tri âm đó nâng ly rượu Đối ẩm riêng ta với chị Hằng! Họa Thi Hoàng Cũng chẳng mua trăng chẳng bán trăng Trăng ngày năm cũ có còn chăng? Còn chăng cái thuở bên bờ liễu Mái tóc em thơm tóc chị Hằng... Họa Thiên Sứ Khắc khoải bên trời một mảnh trăng. Cô liêu một cõi có buồn chăng? Chán đời sõng soải bên cành liễu Hay mối tình thu..một chị Hằng? CÔNG CHÚA AI CẬP Bích Hoàng Cleopatre với Cezar Ngọn lửa thiên thần trước mắt ta Bên những nàng tiên vờn cánh én Một trời chao đảo dáng kiêu sa. Họa Thi Hoàng Ôi! Còn nhắc mãi đến Cezar Ta có gì đâu nữa hở ta Chỉ có lửa thiêng ngàn dặm đốt Thêm người nhan sắc thật kiêu sa. Họa Thiên Sứ Một thời lộng lẫy sánh Cezar. Huy hoàng Ai Cập nhạt Hy La. Muôn thuở giai nhân ghi tình sử. Anh hùng cũng lụy dáng kiêu sa. KHÓ CHỪA Bích Hoàng Đàn ai nhức nhối cung thương Cung thanh dìu dặt...vấn vương cung trầm... Thôi rồi ! Lại nhớ tri âm! Sợi tóc treo nặng nghìn cân khó chừa. Họa Thi Hoàng Lụy vì một nỗi nhớ thương Tiếng đàn ai oán còn vương cung trầm Người ơi ! Nếu phải tri âm Tình yêu dẫu nặng ngàn cân không chừa. Họa Thiên Sứ Một trời buông mãi nhớ thương. Người đi lạnh một cung Thương nguyệt cầm. Ngàn thu bặt tiếng tri âm. Bâng khuâng trăng nước cung trầm thu xưa.
  10. Đêy là một hướng nghiên cứu rất hay. Cảm ơn Gia Nhân . Thiên Sứ
  11. Theo thống kê của Viethuy thì trung bình trước 1939 cứ 3/ 4 năm một trân (Càng về trước càng thưa). Từ 1939 đến 1960 tuy không có trận động đất nào nhưng bù lại là một trận thế chiến chết hàng chục triệu người. Từ 1960 đến nay, mật độ gần hơn: Trung bình hai năm một trận. Nghe chừng lời hứa của Chúa: "Ta sẽ xây dựng một thiên đường ngay trên thế gian này" sẽ khó thành hiện thực. Thiên Sứ
  12. Thứ Ba, 13/05/2008, 16:13 (GMT+7) Dư chấn mạnh lại xảy ra ở Tứ Xuyên, Trung Quốc TTO - Theo tin từ Tân Hoa xã, lúc 15g10 phút chiều nay giờ địa phương (tức 14g10 giờ Việt Nam), một cơn dư chấn mạnh 6,1 độ richter đã xảy ra tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc khiến nhiều người hoảng loạn chạy xuống đường. Trong khi đó, các báo cáo cho biết tổng số nạn nhân trận động đất ngày 12-5 đã lên đến 10.000 người. Dẫn lời Yin Zhaomin, một cán bộ Cục Địa chấn Trung Quốc, Tân hoa xã cho biết tâm của đợt dư chấn này cũng ở huyện Vấn Xuyên, nơi xảy ra trận động đất 7,8 độ Richter ngày 12-5. Nhân viên các văn phòng làm việc ở Thành Đô nằm cách đó hơn 100 km lại chạy nhào ra đường sau cơn dư chấn. Nhiều người cho biết họ cảm thấy được tòa nhà bị rung lắc và chai lọ bị rơi đổ. Theo các chuyên gia của Trung tâm Dự báo Động đất Trung Quốc, các dư chấn mạnh vẫn còn có thể xảy ra ở Vấn Xuyên. Họ cũng cho biết trong vòng 25 giờ qua, khu vực này đã chịu đựng hơn 1.950 đợt dư chấn, trong đó có ba đợt hơn 6 độ richter và 14 đợt đo được từ 5 đến 6 độ richter. ANH CHI (Theo Xinhua)
  13. Anh chị em tham gia dự báo trên topic "Thiên Tai và Lạc Việt độn toán" thân mến. Công báo của chính phủ viết: Yêu cầu anh chị em khi trích dẫn tin tức về Thiên Tai trên thế giới và Việt Nam tại topic này và trên trang web Ly học Đông phương đều cần trich dẫn nguồn và chỉ trích dẫn từ các nguồn tin trên các phương tiện thông tin được nhà nước cho phép hoạt đông, đồng thời không mang tính thông báo. Xim tham khảo toàn văn qui định của chính phủ: Nguồn: tuôitre.com.vn: Chủ Nhật, 11/05/2008, 14:19 (GMT+7) Đưa tin dự báo thời tiết không dẫn nguồn bị phạt 1-2 triệu đồng Ngày 9/5/2008, Chính phủ ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khí tượng thủy văn. Nghị định quy định các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả. Hành vi gây cản trở việc khai thác, sử dụng các công trình khí tượng thủy văn bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 - 5 triệu đồng Trong đó, vi phạm các quy định về giấy phép hoạt động khí tượng thủy văn, khai thác và bảo vệ công trình, phương tiện đo chuyên ngành khí tượng thủy văn và về cung cấp, sử dụng tư liệu lưu trữ khí tượng thủy văn sẽ bị phạt cảnh cáo hoặt phạt tiền với mức tối đa 30 triệu đồng. Khi đưa tin dự báo áp thấp nhiệt đới, bão, lũ trên các phương tiện thông tin đại chúng mà không nêu nguồn gốc cấp tin thì bị phạt từ 1 - 2 triệu đồng, không phải là nguồn thông tin chính thức bị phạt 2 - 5 triệu đồng. Làm mất tư liệu lưu trữ khí tượng thủy văn bị phạt từ 3 - 5 triệu đồng. Mức phạt 5 - 10 triệu đồng được áp dụng với hành vi làm sai lệch nội dung bản tin dự báo áp thấp nhiệt đới, bão lũ do cơ quan có thẩm quyền cung cấp. Việc tiến hành các hoạt động khí tượng thủy văn mà không có giấy phép theo quy định bị phạt từ 5 - 7 triệu đồng. Hành vi dịch chuyển trái phép các mốc độ cao công trình khí tượng thủy văn bị phạt từ 2 - 5 triệu đồng, gây cản trở việc khai thác, sử dụng các công trình khí tượng thủy văn bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 - 5 triệu đồng. Cá nhân, tổ chức có hành vi giả mạo dấu kiểm định, tem kiểm định hoặc phiếu kiểm định của cơ quan có thẩm quyền bị phạt 2 - 5 triệu đồng. Nghị định nêu rõ: Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khí tượng thủy văn mà sách nhiễu, dung túng, bao che cho người vi phạm, không xử phạt hoặc xử phạt không đúng mức, không kịp thời, xử phạt vượt thẩm quyền, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại cho Nhà nước, cá nhân, tổ chức thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Nghị định có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Theo Đức Tuân - website Chính ph
  14. Xin cảm ơn Jimsy. Như vậy trên thực tế lý thuyết của Einstein không đúng trong trường hợp Jimsy đã dẫn chứng. Tuy nhiên, nhận thức của khoa học hiện đại qua phương tiện thực nghiệm mới chỉ đến đấy. Nhưng sự hợp lý sau khi thuyết Âm Dương Ngũ hành được phục hồi nhân danh nền văn hiến huyền vĩ của người Việt thì tốc độ giới hạn của vũ trụ phải bằng /0/ với ý nghĩa tuyệt đối. Và điều này sẽ bắt đầu giải thích những bí ẩn của vũ trụ và những gì liên quan đến một lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm. Thiên Sứ
  15. Gia Nhân thân mến. Trong bản đồ gen của Doremon đưa lên thì không thấy sự trùng khớp của người Nhật và Việt. Có thể họ so sánh gen với tiêu chí và mục đích khác để tìm con được di chuyển của nhân loại hàng trăm ngàn năm trước chẳng hạn. Nhưng về văn hóa thì những dấu hiệu cho thấy sự trùng khớp giữa Nhật Việt như sau: * Trên con bài tổ tôm - chỉ người Việt chơi - thì hình minh họa trên đó lại là y phục cổ Nhật Bản. * Đến thế kỷ thứ X, giới quý tộc Nhật vẫn ăn trầu và nhuộm răng đen. * Tục xăm mình phổ biến của người Nhật. * Lịch sử Nhật Bản chỉ bắt đầu từ thế kỷ thứ III sau CN...vv... Căn cứ vào những dấu tích này tôi đặt giả thuyết rằng: Người Nhật Bản chính là một bộ phận tộc người - (Tôi không dùng từ bộ tộc) - thuộc Văn Lang xưa - đã di tản sang Nhật sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại. Những điều này tôi đã trình bày trong cuốn: "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Giáo sư tiến sĩ Trần Quang Vũ (Ông này ở nước ngoài) đã xem cuốn này và trong một hội thảo quốc tế, khi tiếp xúc với các vị giáo sư Nhật, ông đã hỏi và được xác nhận như trên. Ông đã gửi email cho tôi thời điểm từ cuối 2005 đến cuối 2006. Thiên Sứ
  16. Không phải "Trời tròn đất vuông" , mà là một bằng chứng về một nền văn minh vượt trội đã tồn tại trên địa cầu mà tôi đã nhiều lần nói đến. Bây giờ con người hiện đại đang lặp lại những kiến thức của họ. Bài viết dưới đây chứng tỏ điều này. Thiên Sứ Mạng lưới toàn cầu hay chấn song của BS Hartmann (14) 11/03/2007 Đo nút Hartmann Mạng lưới địa từ trường toàn cầu là một lưới mắt cáo các rung động địa cực tương đối chính xác. Có thể phải gọi chúng là kiểu phân vách địa vũ trụ vì chiều cao vô tận. Mạng lưới này gồm các ô chữ nhật mà chiều dài theo hướng Đông Tây từ trường và chiều rộng theo hướng Bắc Nam từ trường nếu không bị biến dạng bởi một bất thường của lòng đất. Kích thước của các hình chữ nhật này thay đổi nhưngmột ô không bị xáo trộn đo được 2,5 m dài x 2 m ngang. Các đường này có chiều dày 21 cmtạo thànhnhững bức tường vô hình cao theo chiềuthẳng đứng với bề mặt của địa cầu bằng cách vượt qua tất cả các chướng ngại vật chất, thế đất, công thự vì đây là một dạng năng lượng, không phải vật chất. Sự cấu tạo của thế đất, sự hiện diện của dòng nước, các phay địa chất, các dây cáp, các khối từ trường quan trọng, các bức xạ hay mọi dị thường có thể tạo một “déshomogénéi-sation” sự biến chất của khu vực. Do vậy, các đường bị lệch và các ô chữ nhật có thể thay đổi theo chiều dài từ 2 đến 3,5 m và chiều rộng thay đổi từ 1,8 m đến 2,5 m. Do đó, theo nguyên tắc, tại một vùng trung tính, mạng lưới toàn cầu là một mạng lưới chặt chẽ giữa các mắt, trừ trường hợp nếu có những sóng nguy hại khác hiện ra theo chiều thẳng đứng. Nhưng các đường địa từ trường của mạng Hartmann giao nhau, xác định các nút địa sinh bệnh, tính chung, cứ 4 điểm cho mỗi hình chữ nhật. Theo chiều thẳng đứng của các nút địa sinh bệnh này xuất hiện một sóng độc hại vừa gây rối loạn vừa mang tính chất lâu dài. Người Trung Hoa cổ gọi chúng là ”các lối đi của ma quỷ”. MẠNG LƯỚI CHÉO HAY MẠNG LƯỚI CỦA BS CURRY Nằm nghiêng so với mạng lưới Hartmann, các hướng theo chiều tổng quát Tây Bắc/Đông Nam và Đông Bắc/Tây Nam từ trường. Khoảng cách của các tia Curry biến đổi rất lạ lùng: đôi khi chỉ 4m hay ít hơn; nhưng đôi khi lên đến 16m, hoặc hơn nữa. Do đó các hình chữ nhật được hình thành có thể gần giống hình vuông hoặc ngược lại kéo dài đáng kể. Biểu thị mạng lưới Curry bằng một sơ đồ rất khó, vì ngoài các hướng hay thay đổingười ta gán cho nó một chức danh khá mơ hồ: mạng lưới chéo. Mạng lưới Hartmann có một tần số rung động cao hơn mạng lưới Curry. Ngược lại mạng Curry có tầm quan trọng hơn vì ở các giao điểm của mạng lưới Curry tác nhân gây bệnh mạnh hơn và phạm vi hoạt động dễ giới hạn hơnđối với tác động tinh thần. Điều này thật rõ ràng đối với các nhà Cảm xạ học là người trực tiếp nhận các tác động trong việc khảo cứu cảm xúc. Nhưng tác động của các rung động Curry rất biến đổi và có thể thay đổi bởi các nhân tố bên ngoài. Theo bác sĩ Curry, nếu ở trên một vùng nước ngầm hay trên một phay địa chất, các tác động gây bệnh của mạng lưới Curry sẽ tai hại hơn là của mạng lưới Hartmann trong những điều kiện tương tự. Nếu tại các nơi gặp nhau của các lưới có cùng tính đối cực cộng thêm một hiện tượng khác cũng có cùng tính này thì sự gặp nhau có thể tạo thành một khu vực bệnh thoái hoá như khớp, ung thư, rối loạn thần kinh tuỳ theo thế đất nơi người bệnh sinh sống. - Trường hợp 1: Một người “dương” lưu lại lâu, ban đêm chẳng hạn, trên một giao điểm “dương”, các rối loạn như viêm khớp, trầm uất, muốn tự tử sẽ xảy ra. - Trường hợp 2: Một người “âm” ngụ trên một giao điểm “âm” sẽ xảy ra: mất ngủ, mệt mỏi, gia tăng tiến trình thoái hoá và ung thư. Nếu ta thêm vào đó một thời gian “âm”, một căn bệnh “âm”, thức ăn nhiều “âm”, sự tích tụ này sẽ mau chóng dẫn đến tai họa. Trong môi trường xây dựng, ngoài các mạng lưới ban đầu Hartmann và Curry còn xuất hiện thêm một mạng lưới nữa là mạng lưới tường do sự phản chiếu của các mạng lưới này trên tường và trên các vách. Mạng lưới này có cường độ yếu vì chỉ là sản phẩm dẫn suất chớ không phải là một nguồn trực tiếp. Trong lúc đó các bức xạ Hartmann và Curry với cường độ được củng cố bởi các sàn bê tông. Nó không chỉ thẳng đứng mà cả nằm ngang, tạo thành các khối lập phương và hình hộp chữ nhật xếp chồng lên nhau. Có những mạng lưới khác có liên hệ đến yếu tố tôn giáo. Các kiến trúc sư thời xưa không lạ gì về điều này và biết cách làm cho chúng hội nhập trong đội hợp xướng tại các thánh đường, nhà thờ... Một nơi có mạng lưới địa từ trường chạy qua dù trong nhà hay ngoài trời đều xảy ra các hiện tượng nghiêm trọng và khác thường. Ở những nơi đó ta sẽ gặp những người, thú vật và cây cỏ mắc phải các cơn đau lạ lùng, những bệnh quái lạ, kinh niên hay mãn tính. Viện Sinh Học Lausanne, nơi đặc biệt quan tâm đến các đề tài về Cảm xạ học đã đúc kết được một bộ hồ sơ đáng được mọi người suy ngẫm: Đó là 24.000 con chuột đựng trong các lồng sắt đặt trên đường cái trên một vùng trung tính rồi trên một giao điểm các sóng. Mỗi lần thả ra, đoàn chuột trốn chạy ngay không chần chừ khỏi khu vực xáo trộn để chạy về phía vùng trung tính. Một số chuột cùng loại, cùng độ tuổi, cùng trọng lượng được đặt trên 1 giao điểm. Tất cả đều mất đi 20% trọng lượng chỉ trong vòng vài tuần. Một số khác đặt vào vùng sinh bệnh thì có hiện tượng gia tăng 30% potassium so với chuột để trong vùng trung tính. Nếu loài gặm nhấm trốn chạy đột ngột khỏi các cánh đồng bị rối loạn thì một số loài vật khác lại tìm đến. Đó là trường hợp của kiến và mèo. Ta có thể phát hiện các dòng điện từ trường dưới lòng đất bằng cách quan sát tìm các nơi mèo thường lui tới hoặc có sự hiện diện đông đảo của đàn kiến. Trên đường địa từ trường, o­ng cho mật tăng gấp 3 lần nhưng sẽ gục ngã nhanh chóng sau đó. Còn thỏ thì rụng lông và cử động chậm chạp. Bò bị sẩy thai và chết dần. Ngựa lồng lên khi đi qua vùng địa sinh bệnh giống như bị châm điện vậy. Rau cải cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của dòng địa từ trường. Nhờ sự khôn ngoan, người nông dân biết rõ rằng dưa chuột, củ hành, bắp không phát triển nổi trên một số vùng rối loạn. Thú vật, cây cỏ, con người…đều bị biến đổi bởi các động lực trong lòng đất. Nhà Cảm xạ học biết rõ rằng khó mà ngủ yên giấc trong một chiếc giường đặt trên một vùng địa từ trường xấu. Nếu ngủ đầu hướng về phía Nam, giấc ngủ đầy ác mộng. Lúc trời mưa và ẩm ướt, các kẽ nứt ở vỏ trái đất hoạt động hết công suất và ảnh hưởng rung động xấu gia tăng cường độ. Con người hay bị thấp khớp và hen suyễn. Thử máu phát hiện một số thay đổi về độ lắng trùng hợp với các xáo trộn sinh học, với sự hiện diện của một dòng nước hay một bức xạ địa từ trường… Phản ứng của da nơi một đối tượng được đo bằng điện trở kế. Các thay đổi của sự chịu đựng này liên hệ đến nơi ở: điểm địa sinh bệnh hay vùng trung hoà và trực tiếp liên hệ đến hệ thần kinh thực vật. Người ta cũng nhận ra rằng sự thay đổi về cảm xúc và quân bình của hệ đối giao cảm cũng tuỳ thuộc vào môi trường bao quanh. Điều này không những được các bác sĩ Hartmann, Curry, Lotz mà cả một số nhà khoa học khác cũng đều xác nhận. Ở Thuỵ Sĩ, nhà Cảm xạ Rambaudde Marbourg đã phát hiện trong 3 ngôi làng, nhiều người bị tử vong giống như bị ngộ độc bởi một lượng potassium quá cao. Tất cả đều sống trên một vùng địa sinh bệnh. Từ các thử nghiệm này có thể giúp ta nhận ra mối liên hệ rất rõ ràng giữa sự hiện diện của những khu vực nguy hại với một bệnh trạng. Trong một thí nghiệm thực tập của Giáo sư Bachler, người ta cho một học sinh ngồi trên một điểm địa sinh bệnh trong giờ học thì sự tập trung tinh thần diễn ra rất khó khăn, căng thẳng, sự phát triển bị khựng lại. Thay đổi chỗ ngồi, điểm số sinh hoạt của em gia tăng rõ rệt. Ở Đức trong nhiều thí nghiệm khác nhau, người ta nhận ra rằng: -Trong trại chăn nuôi nếu các chuồng đặt ở vùng đất có sóng độc hại, nhu cầu về thực phẩm tăng 66% mà bò lại cho sữa ít hơn, thường mắc bệnh và sẩy thai nhiều hơn. -Nếu tổ o­ng nằm trên một vùng có hại, vào mùa thu, các đàn o­ng kiệt sức, cả đàn trốn chạy và đi lang thang, dường như mất phương hướng. -Ở thôn quê nơi nào thường bị sét đánh, chắc chắn sẽ bắt gặp giao điểm của hai dòng nước ngầm. -Cây cối nằm trên giao điểm của hai dòng địa cực sẽ còi cọc và thường bị sét đánh. Tóm lại tất cả động-thực vật đều thường xuyên chịu ảnh hưởng của môi trường bao quanh, nhất là năng lượng bức xạ của trái đất và vũ trụ chưa kể đến các trường điện từ. Chúng đã thích nghi với sự phân cực, nhịp điệu, sự biến động từ khi xuất hiện trên địa cầu và đã tồn tại đến ngày nay, dù sự thích nghi này diễn ra rất chậm. Nhưng vào đầu thế kỷ 21 này, con người nghĩ rằng mình có thể làm mọi điều mình thích. Họ đã biến nơi ở mà không đếm xỉa đến các qui luật tự nhiên và hậu quả là họ đã tạo ra các bệnh của thời đại văn minh: ung thư, suyễn, dị ứng, mất ngủ, stress. Sức khoẻ, sự an nguy của chúng ta tuỳ thuộc vào chỗ ở nơi ta sinh sống, ngủ và lao động. Nhiều triệu chứng do sóng có hại của nơi ở và đặc biệt về các bệnh tim mạch, ung thư, đặc biệt ở phương Tây, các loại bệnh này dẫn 3/5 người bệnh đến cái chết và tiến độ này đi theo một đường cong luỹ tiến. Dư Quang Châu (Theo Bộ môn Năng lượng Cảm xạ)
  17. Thứ Hai, 12/05/2008, 14:37 (GMT+7) Trung Quốc: Hơn 7.600 người có thể chết do động đất TTO - Theo ước tính của báo chí Trung Quốc, chỉ riêng tại tỉnh Tứ Xuyên đã có 7.651 người chết trong trận động đất mạnh 7,8 độ richter chiều 12-5. Ở thành phố Đô Giang Yển, gần 900 học sinh bị mắc kẹt sau khi một ngôi trường bị sập. Khoảng 10.000 người khác bị thương. Người dân tại Đô Giang Yển, Tứ Xuyên tìm kiếm tài sản của mình trong đống đổ nát - Ảnh: Xinhua Trận động đất xảy ra lúc 13g28 chiều nay (giờ Việt Nam, tức 6g28 giờ quốc tế) đã làm rung chuyển khu vực tây nam Trung Quốc. Chấn động cũng được cảm nhận ở Pakistan, Hà Nội và thủ đô Bangkok của Thái Lan. Hãng tin Xinhua cho biết 80% các tòa nhà cao tầng tại Bắc Xuyên tỉnh Tứ Xuyên bị sập sau trận động đất, trong khi các nhà chức trách Trung Quốc xác nhận đã có 107 người chết tại tỉnh Tứ Xuyên, và tổng con số tử vong có thể còn tăng cao. Xinhua đưa tin Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã ra lệnh khẩn cấp thực hiện mọi biện pháp, nỗ lực tối đa cứu trợ nạn nhân và khắc phục hậu quả, trong khi Thủ tướng Ôn Gia Bảo đang trên đường đến nơi xảy ra động đất. Quân đội cũng được cử đến giúp khắc phục hậu quả. Theo USGS, tâm chấn động đất nằm cách thủ phủ Thành Đô của tỉnh Tứ Xuyên khoảng 92 km về phía tây bắc. Tại những nơi khá xa nơi xảy ra động đất như Bắc Kinh và Thượng Hải, nhiều tòa nhà bị rung lắc. Hệ thống điện thoại tại nhiều thành phố như Thành Đô, Trùng Khánh và Zhengzhou tê liệt. Nhiều người cho biết họ cũng không thể liên lạc với bạn bè và người thân bằng điện thoại bàn và điện thoại di động. Vào tháng 3 vừa qua, một trận động đất mạnh 7,2 độ richter cũng xảy ra tại tỉnh Tân Cương, miền tây Trung Quốc, phá hỏng và san bằng hơn 2.000 căn nhà, ảnh hưởng đến 44.000 người. Các nhân viên cứu hộ đang tìm cách cứu những học sinh bị thương trong vụ sập trường trung học Tụ Nguyên ở thành phố Đô Giang Yển, Tứ Xuyên Một bé gái được sơ tán sau động đất ở Thành Đô, Tứ Xuyên - Ảnh: Reuters Hiện trường vụ sập trường học ở Tứ Xuyên Một con đường tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, bị ngập nước sau khi một đường ống dẫn nước bị vỡ trong trận động đất - Ảnh: Xinhua Người Trung Quốc đổ ra đường sau động đất - Ảnh: Xinhua Người dân tại Bắc Kinh chạy ra ngoài sau khi cảm nhận dư chấn động đất - Ảnh: Reuters, AP Các nhân viên sơ tán khỏi một tòa nhà tại Bangkok, Thái Lan. Nhiều tòa nhà cao tầng tại Bangkok bị rung chuyển sau trận động đất ở Tứ Xuyên - Ảnh: Reuters Người dân tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc chạy xuống đường sau động đất - Ảnh: Reuters Bạn đọc Nguyễn Thành Sơn, du học sinh Việt Nam học ở TP Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) cho biết đang ngồi xem tivi trong phòng khách (trên lầu 5), thì có cảm giác tòa nhà lắc lư, người chao đảo. "Một bạn SV Việt Nam khác đang ở cùng với tôi cũng nói cảm thấy nhức đầu vì trời đất quay cuồng... Vừa hỏi nhau "Chuyện gì đang xảy ra?" thì nghe tiếng ồn ào ở ngoài. Mọi người chạy rầm rầm. Chúng tôi cũng chạy. Ra tới ngoài thì thấy cả con đường nhốn nháo, đầy người. Lúc đó tôi mới biết là động đất". Sơn cũng cho biết suốt cả buổi chiều, mọi người đứng ở ngoài đường, không dám vào nhà và đã cố liên lạc với các bạn Việt Nam khác đang học tại Trung Quốc nhưng không được vì không có sóng. * Cũng thời gian này (13g30) các cao ốc ở Hà Nội đều rung chuyển mạnh. Những người đang làm việc tầng 5 trở lên trên các cao ốc như Vincom hay các cao ốc ở quận Cầu Giấy cho biết sự rung chuyển mạnh hơn rất nhiều so với những lần trước. Nhiều người đã chạy ra khỏi các tòa nhà, gây nên cảnh hỗn loạn trên đường phố. Theo phóng viên Tuổi Trẻ Online tại Hà Nội, các nhân viên làm việc tại các tòa nhà cao tầng cho biết có hiện tượng chóng mặt, các vật dụng treo tường bị lung lay, một số đồ đạc trên bàn bị lắc lư. Mọi người nhận ra hiện tượng giống đợt dư chấn năm ngoái nên tất cả cùng chạy theo hướng thang bộ để thoát xuống đất do không dám sử dụng thang máy. Do phải chạy từ tầng 11, có người chạy từ tầng 19, một số người bị kiệt sức, có người ngất xỉu. Bạn đọc Phan An Khoa (Hà Nội) cho biết tại tòa nhà 7 tầng đâu phố Khâm Thiên, bức tranh trên tường dao động mạnh đến hơn 10cm và so với đợt chấn động cách đây 1 năm thì đợt chấn động này có vẻ mạnh hơn. Tại các nhà cao tầng, nhiều người cảm thấy chóng mặt như bị tụt huyết áp. Anh Phan Trung Hiếu, nhân viên ngân hàng làm việc tại tầng 11 tòa nhà A Vincom cho biết dư chấn xảy ra từ 1 đến 3 phút, ban đầu rất nhẹ, càng về sau càng cảm nhận rõ, đặc biệt ở tầng cao. Chị Nguyễn Thị Nga (cán bộ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam) làm việc tại tầng 19 của tòa nhà Vincom kể: Ban đầu tất cả các chị em cùng phòng cảm thấy chóng mặt, mọi thứ chao đảo. Sau đó có người kêu lên: “Động đất”, không ai bảo ai, mọi người chạy ra hướng cầu thang bộ. Anh Bùi Văn Hảo (nhân viên lắp ráp nội thất) cho biết do công việc nên trong khoảng thời gian xảy ra dư chấn, anh phải di chuyển qua một số tòa nhà cao tầng. Tại số 7 Đào Duy Anh, anh thấy vài trăm người túa ra các ngả đường. Còn tại số 1 Giảng Võ, khá đông người tụ tập xung quanh một tòa nhà cao tầng. Có mặt tại tòa nhà Vincom (cao 21 tầng), phóng viên Tuổi Trẻ Online cho biết đến 14g20, nhân viên tại đây đã bắt đầu quay lại làm việc, tuy nhiên tâm lý không yên tâm do vẫn còn lo ngại động đất. Theo ông Lê Huy Minh, giám đốc Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần (Viện Vật lý địa cầu), trận động đất có cường độ 7,8 độ richter, tâm chấn nằm sâu 10 km, cách Bắc Kinh 1.545 km và cách Hà Nội trên 1.000 km, gây chấn động cấp 3 ở Hà Nội. Động đất đã gây ra những rung động trong lòng đất kéo dài một giờ đồng hồ, sau đó gây ra hai dư chấn với cường độ 6 độ richter và 5,4 độ richter. Ông Minh cũng cho biết tất cả các khu vực ở miền Bắc đều cảm nhận được dư chấn động đất, rõ nhất là ở các tòa nhà cao tầng, đặc biệt là tại Hà Nội do đây là vùng trũng, đất yếu. Thông tin từ Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần cũng cho biết lúc 1g51 sáng nay, tại khu vực vùng biển Quảng Ninh cũng xảy ra một trận động đất có cường độ 3,1 độ richter, cách bờ biển khoảng 40-50 km, sâu 18,8 km. Theo Ban quản lý tòa nhà Vincom, sau khi nhận được thông tin từ Viện Vật lý địa cầu cho biết có thể sẽ có một dư chấn mới, lúc khoảng 15g50, Ban quản lý đã thông báo đến tất cả khách hàng thuê diện tích của Vincom biết. Một số đơn vị đã cho nhân viên nghỉ làm trong chiều nay. Nhóm PV TTO
  18. Mùng 7 / 4 là đúng rùi. Hôm nay mùng 8. S/p viết hôm qua, Thiên Sứ
  19. MỘT THOÁNG TRI ÂM Bích Hoàng Chốn đời chợt tỉnh chợt say Hãy vì nhau chuốc vơi đầy chén xuân Ví dù một thoáng tri âm Phải chăng mặc khách tao nhân kiếp nào ? Tàn Đông gió chuyển lao xao Bên tuờng buớm trắng ra vào nhởn nhơ Mấy hồn thơ vọng trời thơ Lòng ai ai có ngẩn ngơ với lòng Dù cho đôi phút tuơng phùng Không gian ấm lại vạn trùng cách xa. Cảm tác MỘT THOÁNG TRI ÂM Em từng ngấn lệ mi cay . Ngất ngây trong cõi dâng đầy ái ân . Bên nhau nghe gió thì thầm Tiếng yêu vọng tiếng tri âm thuở nào. Bây giờ trả lại trăng sao . Duyên thiên thu cũ ngày nào mộng mơ . Người đi khuất cuối trời thơ. Cho trăng sơn cước ngẩn ngơ não nùng . * Yêu xưa trong thoáng tương phùng . Đường xưa lá rụng ....ngàn trùng cách xa .... TA TÌM TA ? Bích Hoàng Ta đi duới trời, trời mênh mông Muôn vàn cái có cũng là không! Ta tìm ta mãi, ta tìm mãi? Chỉ một phuơng trời nắng hửng đông . Hoạ TA TÌM TA Ta về giữa cõi vô thường Đào trong kỷ niệm tìm hương cuối mùa. Mang mang huyền vũ cõi mênh mông . Vạn vật tương thành thoắt giai không! Ta vẫn là ta từ vô thủy . Hạ tàn, Thu chết lại sang Đông ... DANG DỞ Bích Hoàng Ngàn xưa dang dở tiếp ngàn sau Nếp áo thanh xuân chóng bạc màu Có phải oanh vàng thôi ngọt giọng Để dòng lệ cũ ứa canh thâu? Hoạ DANG DỞ Còn chi để nhắc chuyện mai sau?. Trăng cũ buồn phai nhạt sắc màu? Gom hết thu xưa bao kỷ niệm. Gửi vào lệ nến khóc canh thâu ... * Trăng thề nếu thật nhiệm mầu .. Có đâu nhân thế nhỏ sầu tương tư . KHÔNG ĐỀ Bích Hoàng Gieo mãi buồn chi hỡi gió mây ? Nắng bừng đôi má hửng men say ... Gặp gỡ cho thêm sầu ly biệt Nén nhớ dồn thuơng gửi tháng ngày . Hoạ KHÔNG ĐỀ Ai nỡ đem buồn phủ gió mây . Lang thang gió mãi khóc mê say . Trăng xưa trau mặt sầu ly biệt Trong lạnh lùng trôi với tháng ngày . CHẲNG THỂ NÀO Bích Hoàng Thuyền ai đó vẫn xuôi theo nuớc Chẳng thể nào đi ngược thời gian Mến thuơng, dù có muôn vàn Nguời đi đi mãi...tình càng càng xa ... Cảm tác CHẲNG THẾ NÀO Mênh mông trăng tỏa vùng mây nước Tình lỡ ru buồn bước gian nan. Yêu thương thôi chẳng muôn vàn . Ngậm ngùi buông nhịp cung đàn xót xa. * Gió đưa cành liễu la đà . Nhắc người năm cũ trong xa xôi lòng .... HẸN MỘT CÂU HÒ Bích Hoàng Bến đời xuôi nguợc long đong Thuyền trôi dạt , vẫn chờ mong điệu hò! Đuờng trần cát bụi , hư vô ... Gió suơng thoáng rợn, câu thơ ngợp tràn! Cảm tác HẸN MỘT CÂU HÒ .........................Thuyền về Đại Ngạc ....................Duyên ngược Kim Long ..................Đến đây chỗ rẽ của lòng Gặp nhau còn biết trên sông bến nào ...................................Ca dao Việt Đò ai lờ lững trên sôngĐìu hiu bến vắng ai trông câu hò? Đêm thâu vắng tiếng gọi đò. Mênh mông trăng nước tiếng hò thở than . DẠI KHỜ Bích Hoàng Thâu đêm chẳng ngủ lại nghiêng hồ Ném cái đa tình xuống chiếu thơ Nhắp mãi chưa tê nơi đầu luỡi Dốc hoài chửa vợi đuợc lưng vò Trớ trêu mộng ảo tình lang bạt Lấp lửng duyên hờ chuyện hữu vô Khờ dại chao ôi ! Khờ dại nhỉ ! Bến kia cứ đợi mãi con đò . Hoạ DẠI KHỜ Lầu son đâu có mộng giang hồ! Gió bụi đâu ngờ ngập áng thơ. Bến vắng mêng mang hồn quê cũ . Bên sông hiu hắt khách đợi chờ. Tiếng xưa réo rắt ru tình lỡ.. Cánh nhạn lưng trời nhắc hư vô Muôn nẻo đường đời tìm khôn dại . Trần ai một kiếp lỡ con đò. VỊ ĐỜI Bích Hoàng Vị đời đắng ngoét trang thơ Ngổn ngang tâm sự bơ phờ ngàn lau Còn gì gửi gấm cho nhau... Có chăng còn lại mấy câu tâm tình . Cảm tác VỊ ĐỜI Mi sầu ai gửi trong thơ? Để trời mây cũng mong chờ ngàn sau . Hương xưa theo gió về đâu Cho thu vàng nhớ mãi mầu nguyên trinh * Người đi trong cõi vô tình Kiêu sa dáng ngọc dẫm tình đơn côi HẠT MƯA SA Bích Hoàng Hạt nào là hạt mưa sa Dòng trong, dòng đục, đâu là dòng Tuơng? Xiêm y đẫm khúc Nghê thường Trăng xưa vẫn cứ vấn vuơng lấy sầu! Cảm tác HẠT MƯA SA Long lanh ngấn lệ kiêu sa Dâng buồn nhân thế trăng ngà vấn vương . Lệ thiên thu nhỏ vô thường Mang mang trăng nước sông Tương ngập sầu . MÙA THUƠNG NHỚ Bích Hoàng Ôi mùa thuơng nhớ lại tràn sang Theo gió bay bay chiếc lá vàng Cúc khẽ vuơn mình , hồng nhoẻn nụ Xin đừng lay động giấc hòang lan . * Thu đến rồi sao? Đã vào thu Mà nghe lành lạnh gió vi vu Trông vời mấy độ tình xa vắng Giá buốt như hồn đá Vọng phu! Hoạ MÙA THƯƠNG NHỚ Thu về len lén gió bay sang Muôn nẻo thu rơi một ánh vàng . Sông vắng đìu hiu thuyền đậu bến Nhấp nhô sóng nước ánh trăng tan. * Tôi lại về đây khúc cuối thu . Tìm nghe trong gió sáo vi vu. Bóng đa hiu hắt bên sông vắng. Giếng nước ơ thờ kiếp vọng phu. * Cánh diều buông sáo vi vu Mang mang sông nước trời thu se buồn
  20. TIỄN THU Bích Hoàng Dang tay, dang tay vòng tay ôm Bên ta rạo rực một linh hồn..... Nguời đi, nguời đi say bốn cõi Ta về...cát bụi ném cô đơn..... Cung trầm, cung thuơng, cung trầm buồn Thu đi, đi rồi, dòng Ngâu tuôn Mỗi năm một lần qua Ô Thuớc! Cho Ngân Hà ngập lệ nhớ thuơng. Cảm tác TIỄN THU Dáng xưa gầy bên mảnh trăng ôm . Hương bay ngây ngất, lặng trong hồn. Thu đi ta mãi tìm trăng vỡ... Đem về lòng vắng chất cô đơn. * Nhìn trăng. Trăng vỡ màu hoang dại. Trông mây. Mây cũng đọng nét buồn. Vàng rơi.....tan nát thu muôn nẻo. Ngập trời ly biệt giọt Ngâu tuôn. GIỌT LÒNG Bích Hoàng Thử hỏi ai nguời chẳng trả vay ? Cuộc đời dâu bể lắm chua cay ! Vui duyên tao ngộ câu thơ lửng..... Nặng nghĩa tao đàn loạt tứ bay..... Hạt ngọc vô tình nhuờng ảo giác Giọt buồn hữu ý luống mê say Suối lòng tuôn chảy theo năm tháng Lắng dịu tâm tư vợi lại đầy..... Hoạ GIỌT LÒNG Ai nỡ đưa sầu sương gió vay Chiều buông hoang vắng lệ mi cay Buồn xưa duyên kiếp dâng sầu muộn. Nay trọn thu vàng khóc lá bay. Thôi lỡ duyên rồi chờ kiếp khác... Tình buồn đành mãi trách mê say. Ôm trăng tiếc nuối dần năm tháng. Gửi bóng chiều xưa nỗi nhớ đầy.. NGỌT BÙI Bích Hoàng Ta vẫn một mình, em ở đâu? Thơ ta sao chẳng dứt cơn sầu? Không chung cốt nhục, chung tâm huyết Những nỗi đau nối tiếp nỗi đau! * Ta một nơi mà em một nơi Dòng thư huyết lệ vẫn sinh sôi Gửi trong nhau mối sầu nhân thế Cay đắng ngọt bùi vẫn xẻ đôi..... Hoạ NGỌT BÙI Muôn nẻo thu vàng em ở đâu? Làm sao theo dấu gửi thu sầu. Mang mang sương khói mờ nhân ảnh. Trăng nước hững hờ gợi nỗi đau. * Lãng đãng thu vàng rắc khắp nơi Tìm người biền biệt cõi xa xôi? Người đi ôm cả tình nhân thế... Bùi ngọt thôi đành chẳng xẻ đôi.... * Chiều buông màu tím trong tôi. Sao không như kiếp mây trời theo nhau.... LỬA LÒNG Bích Hoàng Phải đây giọt nắng tàn đông Phải đây ngọn lửa thức trong thiên hà ? Phải đây một nửa hồn ta Ngọt ngào thấm đẫm suơng sa đất trời ? Tuyết băng , băng giá ngàn khơi Chừng như ấm lại , mảnh đời bừng lên..... Uớc chi nuơng náu cõi Thiền Xua tan mọi nỗi ưu phiền thế nhân ! Tìm đâu thấy bóng tri âm ? "Lan sinh u cốc " biết chăng hỡi nguời? Cảm tác LỬA LÒNG Buồn đêm lạnh lúc tàn đông. Đâu hình bóng cũ sưởi lòng trong ta? Đâu rồi nửa mảnh trăng ngà. Nghiêng nghiêng buông ánh kiêu sa giữa trời Trăng xưa ru sóng chơi vơi Ru tình thu cũ mây trời vô biên Thu đi…lạnh chất sầu miên. Đưa người về cõi ưu phiền thế nhân Để ta giữa cõi hồng trần Nguyệt cầm bặt tiếng tri âm...nhớ người... MỘT THOÁNG Bích Hoàng Nghiêng bên gối lẻ mảnh trăng cài Ai biết rồi đây ai nhớ ai? Vạn vật đổi dời xoay một điểm Ngàn năm chung thủy nặng hai vai! * Trang Chu hóa buớm say cơn mộng Lý Bạch vờn trăng lịm giấc đời Ta có ta , còn thơ với ruợu Phiền chi lữ thứ với chuơng đài ? Hoạ MỘT THOÁNG Trăng vương thoáng ánh mảnh trâm cài. Ngây ngất men tình đọng mắt ai. Vời vợi sông Ngân vầng nguyệt điểm. Mang mang suối tóc chảy bờ vai. * Bên người một thoáng ru cơn mộng. Sầu để trong ai suốt một đời? Cay đắng người đem hoà chén rượu. Ngậm ngùi ly biệt Liễu Chương đài. SÔNG TRĂNG Bích Hoàng Dòng sông trăng, dòng sông trăng Về đâu, sao cứ băng băng chảy hoài? Chừng như con nuớc ngừng trôi Thuyền ai lơ lửng buông xuôi mái chèo? Đỉnh đầu nửa mảnh trăng treo Lung linh đáy nuớc trăng gieo ngấn vàng Thuyền ai đó, đợi ai sang Lênh đênh tảng sáng, lang thang cuối chiều Chừng như muốn giạt bờ yêu Đợi cơn gió nổi dâng triều lên cao Phong trần mấy độ tiêu hao Buớc chân du lãng đan bao dặm sầu Trăng về đâu? Nuớc về đâu? Chia đôi hai nửa địa cầu tặng ai! Cảm tác SÔNG TRĂNG Tôi về đây, một mùa trăng . Để tìm trăng giữa giá băng mây trời Trăng tà khuất nèo xa xôi Gió buồn nhắc cảnh núi đồi trăng treo Sông xưa hờ hững mái chèo Còn đâu ngấn nước trăng gieo ánh vàng .... Người xưa lỡ bước sang ngang Lạnh lùng bỏ cõi trăng vàng phiêu diêu Bến sông mây nước tiêu điều Hương xưa bay, khắp muôn chiều khát khao . Tiếng xưa trong sóng xôn sao Trên sông trăng vỡ tan bao nguyện cầu . Mênh mông sông nước về đâu ? Cho tôi gửi ánh trăng sầu nhớ ai . VẪN CÒN Bích Hoàng Xa vời nguời có nhớ ta Mà sao ta lại thiết tha nhớ nguời ! Chim kia gọi bạn phuơng trời Con tằm rút ruột chẳng rời vuơng tơ ! Viết hoài dang dở bài thơ Ấm trà pha đậm biết chờ ai đây? Một mình uống một mình say Trà đây hay ruợu , ơ hay ! Ai mời ? Thế thì thôi ! Thế thì thôi ! Một cơn mộng trắng thực rồi lại hư ! Cung đàn quặn khúc tuơng tư Hạt sầu đếm lại còn dư hạt nào ? Canh tàn lá rụng lao xao Then hờ cửa lỏng , trăng vào tìm ai ? Bên tuờng nở muộn bông mai Đố ai phụ nổi tình ai bây giờ Vẫn còn viết dở bài thơ Còn ly ruợu đắng đợi chờ tri âm... Cảm tác NHỚ NGƯỜI ...........Đừng rơi! Đừng rơi! Lá ơi ... ..........Có ai góc biển chân trời, nhớ nhau? .............................Ngân Giang nữ sĩ Tôi về gửi gió bay xa . Gửi người xưa vẫn kiêu sa nét cười Dáng xưa buồn khuất cuối trời Khoảng trời năm cũ thơ rơi hững hờ . Nửa vần thơ...vẫn đợi chờ Trên miền cát bỏng lệ khô chất đầy. . Người đi để lại mê say ... Để tình chất ngất trời mây bồi hồi . Suối xưa lặng giữa lưng đồi ... Nghe trăng thề khóc giữa trời không hư. Lòng nào quẳng gánh tương tư . Nên đành ôm mối sầu tư nghẹn ngào . Duyên xưa chết dưới cội đào . Sầu vương đầy lấp lối vào Thiên Thai . Trang thơ vẫn đọng dấu hài . Hương xưa vẫn thoảng trong ai thẫn thờ . Tiếng xưa réo rắt mộng mơ ... Cõi ngàn thu cũ còn chờ ái ân .... * Một trời cát bụi lầm thương nhớ . Khóc một hải đường héo giữa xuân ....
  21. Nguồn: VnExpress Vn-Index rơi khỏi mốc 500 điểm Đúng dự báo hồi cuối tuần qua của các nhà đầu tư, hàn thử biểu chứng khoán hôm nay chứng kiến các mã đồng loạt đi xuống. Bứt tung mốc 500 điểm, Vn-Index chốt lại ở 492,04 điểm, thấp nhất kể từ đầu năm đến nay. > Chứng khoán về 500 điểm, sàn vắng hoe Bước vào những phút đầu giao dịch, lệnh bán được tung ra mạnh mẽ và đồng loạt ở các mã, trong khi lệnh mua hết sức khiêm tốn. Cộng lại cả giá ATO và sàn, STB đứng đầu khối lượng dư bán với khoảng 4 triệu cổ phiếu. SSI có số lượng dư bán gần 3 triệu đơn vị, còn FPT cũng cạnh tranh ở mức hơn 1 triệu cổ phiếu chờ được mua vào. Hàng loạt mã ở giá ATO, giá sàn với khối lượng vài trăm nghìn đến cả triệu đơn vị nằm gọn ghẽ trong ô dư bán. Cổ phiếu ITA có công lớn trong việc giữ thị trường ở mức 500 điểm vào cuối tuần trước thì đến phiên này đã yếu hẳn. Kể từ khi ITA đo sàn, trên hàn thử biểu đã không còn một mã màu xanh. Vn-Index hôm nay đóng cửa thị trường ở mức 492,04 điểm. Ảnh: Hồng Phúc. Cuối đợt 1 Vn-Index đã giảm sâu 7,38 điểm, tạm dừng lại với con số 492,95 điểm, thấp hơn cả thời điểm Ủy ban chứng khoán Nhà nước ra quyết định thu hẹp biên độ. Khối lượng giao dịch cũng sa sút đáng kể khi chỉ còn 820,320 đơn vị. Trước sự sụt giảm mạnh của chỉ số Vn-Index, phần lớn nhà đầu tư có xu hướng buông xuôi, với quan điểm bán ra hết để cắt lỗ khi giá cổ phiếu đang rớt từng ngày khiến dư mua trống trơn, dư bán đầy ắp. Tính thanh khoản cổ phiếu đang ở mức rất thấp. Cho đến hết phiên giao dịch ngày đầu tuần, chỉ còn 3 cổ phiếu có lượng dư mua giá sàn trên bảng điện tử, trong đó VPL chỉ có 1 lô (10 cổ phiếu) chờ mua giá sàn. Chung cuộc, Vn-Index chỉ còn 492,04 điểm với khối lượng giao dịch khớp lệnh đạt 2,2 triệu đơn vị. Trong khi đó vẫn chưa có thông tin và dấu hiệu tích cực nào cho sự hồi phục của thị trường vào những ngày tới. Trên các diễn đàn, tại các sàn chứng khoán, nhà đầu tư rôm rả bàn luận những khả năng có thể áp dụng cho thị trường lúc này như biên độ giảm nhỏ (1-2%) nhưng tăng lớn (5-10%) nhằm kéo dài "sức khỏe" của thị trường cho đến khi có giải pháp thích hợp. Ngoài ra còn có những ý kiến: tăng room cho khối nhà đầu tư nước ngoài, SCIC tiếp tục tham gia thị trường, tạm ngừng giao dịch trong một khoảng thời gian, yêu cầu ngân hàng tạm ngưng giải chấp cổ phiếu cầm cố... Một nhà đầu tư sàn Bảo Việt cho rằng, Vn-Index sẽ còn giảm nữa. Và nếu vẫn chưa có lực đỡ cho thị trường, kênh huy động vốn từ chứng khoán sẽ sụp đổ, vì lúc đó nhà đầu tư đã mất niềm tin, tháo chạy hết khỏi thị trường. Hồi tháng 4, ông Đặng Thành Tâm, Chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Sài Gòn Invest Group đã nói với nhà đầu tư tại đại hội cổ đông rằng, đừng quan tâm Vn-Index là bao nhiêu nữa, mà hãy nhìn vào chỉ số lạm phát. Nếu những tháng tới, chỉ số này giảm, chứng tỏ những biện pháp của Chính phủ đã có độ ngấm. Một khi nền kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường chứng khoán mới sáng sủa hơn. Giám đốc phân tích tài chính công ty Vifinfo Đào Trung Kiên cho biết, khi Vn-Index rớt xuống 500 điểm, các mức điểm sẽ dao động quanh 490 điểm, có khả năng lùi về 463,1, thậm chí chỉ còn 409,2 điểm. Nếu có sự hồi phục lại, Vn-Index cũng không thể vượt quá 670 điểm. "Phân tích kỹ thuật đó dựa vào tâm lý của nhà đầu tư, biểu đồ giá, khối lượng giao dịch mỗi phiên...", ông Kiên cho biết. Dù vẫn duy trì khối lượng mua vào lớn hơn bán ra, nhưng giao dịch của khối ngoại phiên này cũng đã có sự giảm sút. Hôm nay, họ chỉ mua vào 670.810 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, giảm gần một nửa so với phiên cuối tuần trước. Số lượng bán ra phiên này là 11.890 cổ phiếu. Tại sàn Hà Nội, chỉ số Hastc còn ở 151,27 giảm 2,96 điểm (1,92%). Tổng khối lượng giao dịch đạt 558.400 đơn vị, giá trị tương ứng hơn 25 tỷ đồng. Bạch Hường
  22. Tôi mới tìm được bài này, tuy chưa phải là bài cần tìm. Nhưng có giới thiệu đến "lưới cực của trái đất" của hai nhà khoa học người Đức. Đó là tiến sĩ Hartmann và Curry. Có một bài khá dài giới thiệu kỹ về công trình này của hai nhà khoa học trên. Xin đưa lên để thamk khảo. Thiên Sứ * Những năng lượng vô hình Trước khi có quyết định cuối cùng về một địa điểm cư trú, điều khôn ngoan là bạn nên kiểm tra xem bên dưới khu vực này có mạch nước ngầm, có khiếm khuyết về địa chất hay những nhiễu loạn địa cầu nào khác không, vì chúng tạo nên những năng lượng vô hình có thể tác động lên cuộc sống an lành của bạn. Hội chứng stress địa bệnh Từ “geopathic” là một từ ghép của tiếng Hy Lạp, trong đó “geo” có nghĩa là “trái đất” và “pathos” là “bệnh tật”. Từ này dùng để chỉ các hiện tượng thiên nhiên gây nên các trục trặc xảy ra cho chúng ta và nhà cửa của chúng ta. Trái đất và các sinh vật của nó dao động ở các tần số bổ sung cho nhau, nhưng không may là các tần số này lại bị các khiếm khuyết địa chất làm cho xấu đi. Những người dò mạch nước có thể tìm ra những vấn đề đó trong khi những người khảo sát nhà cửa lại không thể phát hiện được. Các dòng nước ngầm Nước xói mòn các tảng đá bên bờ biển như thế nào thì dòng nước ngầm cũng xói mòn như thế đối với lớp đất nằm bên dưới mặt đất. Tiến trình đó làm thay đổi tần số điện từ của trái đất khiến cho tần số ấy nằm ngoài vùng tần số của chúng ta. Mạch nước ngầm chảy xiết hoặc bị ô nhiễm cũng gây hiệu ứng tương tự. Các dòng nước ngầm sản sinh ra các năng lượng hình xoắn ốc nên những người sống trong các tòa nhà xây ở ngay phía trên các dòng nước ngầm này sẽ cảm nhận được hiệu ứng của chúng. Những người đang sống ở phía trên nơi giao nhau của hai nguồn năng lượng xoắn ốc ngược chiều nhau có thể sức khỏe của họ sẽ bị suy nhược. Nếu đó là nơi các năng lượng hình xoắn ốc gặp các loại năng lượng khác, như ley (đường thẳng nối liền các di chỉ của người xưa và các nơi thờ phụng, được tin là tuân theo lộ trình của một tuyến đường trước đó và thường kèm theo một hiện tượng huyền bí nổi tiếng nào đó), thì vấn đề càng trở nên nghiêm trọng. Ley Đường Ley theo truyền thuyết ở Anh là một mạng lưới các tuyến năng lượng chạy trên bề mặt trái đất, dọc ngang khắp các vùng nông thôn. Tổ tiên xa xưa của con người có thể đã xây các đền thờ hay các đài đá trên các tuyến này, tạo nên một hiệu ứng “châm huyệt quả đất” khi họ chạm vào năng lượng của nó. Người ta tin rằng Ley cũng đã cung cấp những lộ trình cho các khách du hành. Phóng xạ Radon Chúng ta tiếp xúc với các tia bức xạ trong suốt cuộc đời, chủ yếu là bức xạ mặt trời. Phơi người dưới ánh nắng mặt trời trong nhiều giờ hay nhiều hơn mức bình thường có thể làm chúng ta bị ốm. Bệnh bạch cầu và dị tật bẩm sinh được cho là liên quan đến việc bị nhiễm phóng xạ radon, do chất uranium tự nhiên có trong lòng đất sinh ra. Khi uranium bị phân rã, nó tạo ra các ion phóng xạ bám vào phân tử không khí rồi bị mắc kẹt bên trong các ngôi nhà. Ở một vài vùng trên thế giới các nhà khoa học đã đo được mức phóng xạ còn cao hơn mức phóng xạ ghi nhận được sau thảm họa hạt nhân từ nhà máy Chernobyl. Nhiều khu vực phóng xạ tự nhiên đã được tìm thấy ở Thụy Điển, Hoa Kỳ, cũng như ở vùng Derbyshire và Cornwall bên Anh. Các nhà chức trách ở những nơi này đã nhận thức được mối nguy hiểm nên luôn luôn sẵn sàng có mặt để tẩy khử phóng xạ xuất hiện trong các công trình xây dựng. Lưới lực của trái đất Hai tiến sĩ người Đức, Hartmann và Curry, đã phát triển một lý thuyết cho rằng trái đất bị bao phủ bởi một loại những tuyến lực sinh ra bởi sự tương tác giữa từ trường trái đất và lực hấp dẫn của mặt trời và mặt trăng. Sự dịch chuyển của các tuyến lực này được cho là phát xuất từ việc chúng tương tác với sự chuyển động của các hạt tích điện bị kẹt lại trong bầu khí quyển khí bức xạ mặt trời thổi đến trái đất. Tại vị trí mà các tuyến lực này giao nhau nơi ấy cơ thể chúng ta có thể bị tác động xấu. Các hoạt động của con người Con người cũng có thể gây nhiễu năng lượng của trái đất. Các hoạt động như khai thác đá, xây dựng đường hầm, khai thác mỏ, nguồn nước bị ô nhiễm và đường ray xe lửa đều được xác nhận là đã góp phần tạo ra những tác động tiêu cực. Trước khi cất nhà hay mua nhà, bạn hãy kiểm tra xem trong khu vực đó người ta có đang đào đường hầm hay khai thác mỏ không. Tẩy trừ năng lượng Nếu không có nguyên nhân rõ ràng về cảm giác mệt mỏi trong suốt một thời gian dài thì lúc đó có thể cho rằng stress địa bệnh là tác nhân gây ra chứng mệt mỏi này. Các người đó tìm mạch nước (dowser) giàu kinh nghiệm có khả năng phát hiện các loại năng lượng trái đất, trong một vài trường hợp, chuyển hướng dòng năng lượng tiêu cực, dù thường chỉ được một thời gian ngắn. Nhiều người có thể dò tìm mạch nước bằng các que dò hay con lắc, nhưng với năng lượng trái đất cần phải có kinh nghiệm và phải có các biện pháp bảo hộ để giảm các tác hại tới mức thấp nhất. Tốt nhất, nếu có thể được, là di chuyển khỏi các nguồn năng lượng như thế, hoặc đơn giản là dời giướng ngủ ra xa một khoảng 0,6 – 1m. Hiệu quả của việc tẩy trừ năng lượng rất bất ngờ và thậm chí có thể gây sốc. Cho nên đối với người có bệnh về tim mạch việc này cần phải được tiến hành từ từ. Các dấu hiệu địa bệnh Cây nghiêng Thân cây có chỗ thối mục Cây già cỗi Ngã bệnh chẳng bao lâu sau khi chuyển nhà Bầu không khí ngột ngạt Việc đào đường hầm Những căn phòng ẩm ướt, lạnh lẽo ¨Que dò mạch nước là một trong những dụng cụ của các thầy phong thủy. Các móc treo quần áo bằng kim loại cũng có thể làm được việc dò tìm này. ¨Hai que dò bắt chéo nhau là dấu hiệu cho thấy đã phát hiện ra mạch nước ngầm. Chúng cũng được dùng để dò mìn và các loại ống dẫn. (Theo The First News) Nguồn wedo.com.vn
  23. Mỵ Châu Trọng Thủy Tác phẩm văn học của một thời đại nối tiếp văn minh Văn Lang ..................................................................Thiên Sứ Mỵ Châu - Trọng Thủy là một tác phẩm văn học hay truyền thuyét lịch sử? Cuối thời đại Hùng Vương là những cuộc chiến tranh tàn khốc, liên miên ở nước láng giềng. Đó là thời Xuân thu Chiến quốc ở Trung Hoa. Những cuộc chiến đẫm máu vì tham vọng của con người đã dẫn đến sự thu hẹp lãnh thổ Văn Lang lần thứ hai, bởi sự chinh phục mở rộng lãnh thổ của nhà Tần, Sở. Đây là lúc Âu Lạc thay thế thời Hùng Vương thứ XVIII – chi tộc cuối cùng lãnh đạo một nước Văn Lang tôn trọng những giá trị nhân bản. Sự thay thế trong hòa bình này, đã tạo ra một sự tiếp nối văn hóa và để lại một tác phẩm văn học bất hủ còn truyền lại đến tận bây giờ. Đó là chuyện tình “Mỵ Châu - Trọng Thủy”. Đây là một tác phẩm văn học được hư cấu dựa trên bối cảnh lịch sử về cuộc chiến Nam Việt - Âu Lạc. Từ trước đến nay, chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy vẫn được coi là truyền thuyết lịch sử đã thần thoại hóa. Vì vậy, câu chuyện này vẫn được các sử gia quan tâm khai thác về những đề tài lịch sử liên quan đến thời kỳ An Dương Vương – Nam Việt. Đó là nguyên nhân dẫn đến một số sai lầm lịch sử thời kỳ này. Xin thí dụ như sau: trong “Đại Việt sử lược” (tức Việt sử lược, dịch giả Nguyễn Gia Tường, hiệu đính Nguyễn Khắc Thuần - sách đã dẫn) trong phần chú thích 37 được ghi như sau: Triệu Văn Vương: con của Trọng Thủy lên ngôi năm Ất Tỵ (136 trước Công nguyên), ở ngôi 12 năm, hưởng thọ 52 tuổi. Nhưng cũng trong cuốn sách này phần chú thích 26 lại ghi: “Đại Việt sử ký toàn thư” cùng nhiều tư liệu khác chép rằng Thục An Dương Vương lên ngôi năm Giáp Thìn và đến năm Quý Tỵ thì dứt (257 - 208 trước Công nguyên) ở ngôi 50 năm. Nhưng có nhiều chuyên gia sử học hiện đại cho rằng Thục An Dương Vương chỉ trị vì từ năm 208 đến năm 179 trước Công nguyên. Như vậy chỉ ở ngôi được 30 năm. So sánh tuổi thọ của Triệu Văn Vương lên ngôi từ năm 136 trước Công nguyên, ở ngôi 12 năm, thọ 52 tuổi tức là ngài sinh vào năm 176 trước Công nguyên. Trong khi đó nếu cho rằng các chuyên gia sử học hiện đại đã đúng về niên đại Âu Lạc mất nước, tức là vào năm 179, thì Mỵ Châu và Trọng Thủy không thể sống để sinh Triệu Văn Vương (theo truyền thuyết thì đã chết khi kết thúc trận chiến, tức là chết trước khi sanh Triệu Văn Vương 3 năm?). Chưa nói đến thời điểm của sử cũ thì Mỵ Châu – Trọng Thủy chết trước khi sinh Triệu Văn Vương là 32 năm (?). Sai lầm này không phải chỉ ở phần chú thích trong sách nói trên, mà còn được lặp lại ở một số sách khác. Đương nhiên không thể coi đây là sự nhầm lẫn vì lỗi chính tả. Hoặc cũng trong cuốn "Việt sử lược” này, tác giả khuyết danh đã viết: Lúc bấy giờ An Dương Vương có thần nhân là Cao Lỗ chế tạo được cái nỏ liễu bắn một phát ra mười mũi tên, dạy quân lính muôn người. Võ Hoàng biết vậy bèn sai con là Thủy xin sang làm con tin để thông hiếu. Sau nhà vua đãi Cao Lỗ hơi bạc bẽo. Cao Lỗ bỏ đi, con gái là Mỵ Châu lại cùng với Thủy tư thông. Thủy phỉnh Mỵ Châu mong được xem cái nỏ thần, nhân phá hư cái lẫy nỏ rồi sai người trình báo với Võ Hoàng. Võ Hoàng lại cất binh sang đánh. Quân kéo đến, vua An Dương Vương lại như xưa là dùng nỏ thần thì nó đã hư gãy, quân lính đều tan rã. Võ Hoàng nhân đó mà đánh phá, nhà vua ngậm cái sừng tê đi xuống nước. Mặt nước cũng vì ngài mà rẽ ra. Đất nước vì thế mà thuộc nhà Triệu. Điều này đã chứng tỏ rằng tác giả “Đại Việt sử lược” (Việt sử lược) cũng đã coi chuyện tình “Mỵ Châu – Trọng Thủy” như là một truyền thuyết lịch sử, thể hiện ở yếu tố nỏ thần. Nhưng rất tiếc câu chuyện này đã bị tác giả “Việt sử lược” cắt xén thô bạo, có tính hạ thấp giá trị của Mỵ Châu, nên cố tình bỏ đi đoạn đầu và đoạn cuối của truyền thuyết: đó là việc cầu hôn của Triệu Đà cho Trọng Thủy lấy Mỵ Châu và hình ảnh Trọng Thủy ôm xác Mỵ Châu tự tử. May mắn thay, tri kiến của tác giả Việt sử lược không qua được sự hiểu biết bậc thầy của tác gia Lạc Việt khi kiến tạo câu chuyện. Cho nên sự cắt xén thô bạo và xuyên tạc sự thật đã tạo nên một sự gán ghép khiên cưỡng, trong việc đưa hình ảnh nỏ thần bên cạnh sự ngây thơ của công chúa Mỵ Châu (bởi vì làm gì có nỏ thần trên thực tế). Nếu bạn đọc chú ý một chút thì ở trên: "Thần nhân Cao Lỗ chế tạo được cái nỏ liễu bắn một phát ra mười mũi tên”; ở dưới thì đã biến thành cái “nỏ thần”. Nhưng từ một cách nhìn với thời gian hình thành tính bằng thiên niên kỷ, cho rằng: Chuyện tình “Mỵ Châu – Trọng Thủy” là một truyền thuyết lịch sử, đã tạo ra những mâu thuẫn không thể lý giải. Đây cũng là nguyên nhân gây ra sự tam sao thất bản cho một tác phẩm văn học nổi tiếng, do những mâu thuẫn giữa tính hư cấu trong văn học và thực tế lịch sử. Do đó, trước khi phân tích chuyện tình “Mỵ Châu – Trọng Thủy” với tư cách là tác phẩm văn học, việc đầu tiên là phải minh chứng truyền thuyết “Mỵ Châu – Trọng Thủy” không phải là truyền thuyết lịch sử. Tính hư cấu đầu tiên tất cả mọi người đều nhận thấy là chiếc nỏ thần không thể có thật. Hay nói một cách khác, hình tượng trọng tâm trong cấu trúc của câu chuyện là “nỏ thần” vốn không có thật. Do đó, cũng không thể có móng rùa thần để Trọng Thủy lấy cắp. Nhưng vì coi là một truyền thuyết lịch sử, cho nên đã có sử gia cho rằng: việc Trọng Thủy ăn cắp nỏ thần là một hình tượng của việc ăn cắp bí mật quốc phòng của Âu Lạc; qua cấu tạo của cái nỏ bắn được một lúc nhiều phát tên, nên Nam Việt đã biết cách hạn chế tác dụng của nó. Đây chỉ là một cách suy diễn khiên cưỡng cho một tình tiết trong nội dung, so với kết cấu toàn bộ câu chuyện. Vì để làm được việc này không cần phải có thái tử đi làm con tin, mà chỉ cần một toán quân phục kích cảm tử cũng đủ thực hiện. Do đó, cũng không thể có việc Mỵ Nương rắc lông ngỗng rải đường cho Trọng Thủy trên thực tế. Công chúa Mỵ Châu – người phụ nữ có địa vị tôn quý nhất của Âu Lạc – đâu có thể ngớ ngẩn đến mức độ: quân Nam Việt do chính Trọng Thủy cầm đầu đang tấn công tàn phá Âu lạc (theo cách hiểu từ trước đến nay), thì lại rắc lông ngỗng chỉ đường cho quân giặc đuổi theo tàn quân của cha mình. Hoặc Trọng Thủy – vị thái tử si tình đi tìm người yêu – được gán cho là người cầm đầu đạo quân Nam Việt tấn công Âu Lạc, lại tin vào sự chỉ đường của công chúa một quốc gia đối địch để hành quân truy kích (xin lưu ý độc giả là thời điểm lịch sử của cuộc chiến Nam Việt – Âu Lạc xảy ra sau khi binh pháp Tôn Tử ra đời hơn 400 năm, và kinh nghiệm chiến trường đẫm máu kéo dài hơn 600 năm của thời Xuân Thu Chiến quốc trước đó). Sự mâu thuẫn nói trên, chỉ mới so sánh về khả năng thực tế với nội dung câu chuyện. Nhưng cũng chính vì sự sai lầm từ căn bản cho rằng “Mỵ Châu – Trọng Thủy” là một truyền thuyết lịch sử, làm cho những nội dung văn học tạo nên diễn biến câu chuyện bị thất thoát. Điều này đã khiến cho tính cách Trọng Thủy trong câu chuyện, đoạn đầu và đoạn cuối không thống nhất. Ở đoạn đầu, Trọng Thủy như một kẻ lừa tình bỉ ổi. Nhưng ở đoạn cuối thì vị thái tử đầy quyền uy, võ công hiển hách, người kế vị ngai vàng thống trị hai vương quốc, lại nhảy xuống giếng tự tử chết theo người yêu – một hành động của người giàu tình cảm và chung thủy. Do đó, dựa vào một tác phẩm văn học đầy tính hư cấu – ngay từ hình tượng trọng tâm của tác phẩm – để tìm hiểu về tính cách lịch sử của những nhân vật không thật, quả là gặp nhiều khó khăn. Điều này cũng tương tự như việc phân tích tâm lý của vợ chồng thần Dớt trong thần thoại Hy Lạp, gây ảnh hưởng đến cuộc chiến của thành Troa. Tính hư cấu - một đặc trưng của tác phẩm văn học - rất rõ nét và cũng là tình tiết phủ nhận việc coi “Mỵ Châu – Trọng Thủy” là một truyền thuyết lịch sử, được chứng tỏ ở đoạn cuối của câu chuyện. Đó là: với lời nguyền của Mỵ Châu, nên sau khi chết nàng đã hóa thân vào ngọc trai ở biển Nam Hải. Vì vậy, sau này khi lấy nước giếng thành Cổ Loa, rửa ngọc trai Nam Hải thì viên ngọc lại sáng lên rực rỡ. Linh hồn nàng công chúa Âu Lạc – quốc gia kế tiếp triều đại Hùng Vương – đã minh chứng cho chính câu chuyện tình bi tráng là một tác phẩm văn học của nền văn học truyền thống, kế tục nền văn hiến nhân bản của Văn Lang. Giả thuyết về sự thật lịch sử của cuộc chiến Nam Việt - Âu Lạc Việc Triệu Đà cho Trọng Thủy làm con tin rất có khả năng thực tế. Đây là hiện tượng thường xuyên xảy ra ở những quốc gia đối kháng ở phần lục địa của Trung Quốc và Việt Nam vào thời kỳ này. Theo truyền thuyết Trung Hoa, chính Tần Thủy Hoàng cũng là một kết quả của mối tình con tin nổi tiếng. Hoặc sau đó, chính Triệu Văn Vương – người kế vị Triệu Vũ Vương (Triệu Đà) – cũng phải cho con mình đi làm con tin ở nhà Hán. Như vậy, sự thực lịch sử của cuộc chiến này có thể giải thích theo một giả thuyết như sau: Nam Việt bị sức ép từ hai phía là nhà Hán ở phương Bắc và Âu Lạc ở phương Nam. Khi mới lập quốc thế nước còn yếu, buộc Triệu Vũ Vương (Triệu Đà) phải hòa hoãn với Âu Lạc để củng cố quốc gia. Ngài chứng tỏ thiện chí của mình bằng cách đưa thái tử làm con tin. An Dương Vương – người kế tục Hùng Vương – về nguyên tắc không thể công nhận vương quốc của Triệu Đà xây dựng trên vùng đất cũ của Văn Lang. Nhưng ngài cũng chưa đủ sức để phục hồi lãnh thổ, nên đã chấp nhận hòa hoãn. Đây cũng là lý do khiến một số triều thần của ngài phản đối cuộc hòa hoãn này và bỏ đi; như trường hợp của tướng quân Cao Lỗ. Khi Triệu Vũ Vương (Triệu Đà) củng cố quốc gia vững mạnh, đã cất quân đánh úp Âu lạc. An Dương Vương vì thiếu cảnh giác nên bị mất nước. Trọng Thủy đã bị chết trong cuộc chiến, do đang làm con tin ở Âu Lạc. Việc ngọc trai sáng lên khi được rửa trong nước giếng Cổ Loa, chỉ là một yếu tố thực đã được phát hiện từ lâu trong một xứ sở giàu ngọc trai như Văn Lang. Đây là một thực tế được đưa vào để tăng yếu tố lãng mạn của câu chuyện, ca ngợi tình yêu, phủ nhận chiến tranh. Chuyện tình “Mỵ Châu – Trọng Thuỷ“ - Tác phẩm văn học bi tráng, phủ nhận chiến tranh, ca ngợi tình yêu con người. “Lịch sử là gì? Đó chỉ là những cái đinh để tôi treo bức họa của tôi thôi!” Alexandre Dumas. Chuyện tình Mỵ Châu – Trọng Thủy là một bức tranh hoành tráng ca ngợi tình yêu con người, phủ nhận chiến tranh. Nếu bạn đọc tìm thấy ý tưởng nhân bản này ở Romeo – Juliette, thì bạn cũng nhận thấy ngay giá trị nhân bản sâu sắc này ở chuyện tình “Mỵ Châu – Trọng Thủy”. Câu chuyện miêu tả một mối tình thủy chung son sắt của công chúa Mỵ Châu và thái tử Trọng Thủy. Một tình yêu được hình thành trong nền hòa bình của hai quốc gia láng giềng. Trọng Thủy là người ủng hộ sự liên minh giữa hai quốc gia, đã trở về nước để tham gia cuộc chiến chống lại sự xâm lược nhà Hán theo lời cha chàng. Mỵ Châu đã đưa nỏ thần cho Trọng Thủy để giúp quân đội Nam Việt chống xâm lược. Nhưng Trọng Thủy đã bị chính cha chàng lừa dối. Khi lấy được nỏ thần, Triệu Đà đem quân tấn công Âu Lạc. Trọng Thủy đuổi theo quân viễn chinh để cứu người yêu. Nhưng khi chàng đến nơi thì tất cả đã tan hoang. (Đoạn văn trên do người viết phục chế lại, xin được các bậc trí giả bổ khuyết). Trong Thuỷ đem quân bản bộ đi tìm Mỵ Châu theo đường lông ngỗng trắng ước hẹn. Đến nơi thì người yêu đã chết. Thất vọng và đau khổ vì đã góp phần gây nên cái chết của nàng và sự tàn phá đối với quốc gia mà chàng yêu mến. Trọng Thủy đã ôm xác Mỵ Châu tự tử trong giếng nước Cổ Loa đầy kỷ niệm của mối tình. Cái chết của thái tử Trọng Thủy vì tình yêu, để lại đằng sau chàng một ngai vàng – biểu tượng của quyền lực tối cao và phú quý tột đỉnh – đã khẳng định: tình yêu con người vượt lên mọi sự phù hoa và phủ nhận chiến tranh, nguyên nhân của sự đau khổ mà loài người tự gây ra cho mình. Nếu như chuyện tình Romeo – Juliette của đại văn hào Shakespeare cùng với đề tài này, chỉ giới hạn hận thù của hai dòng tộc. Bằng những thủ pháp nghệ thuật, Shakespeare đã chứng minh công lý và luật pháp có thể ngăn chặn, nhưng không thể xóa bỏ được hận thù (hình ảnh của quân triều đình can thiệp vào những cuộc trả thù của hai dòng tộc) và chỉ có tình yêu đích thực của con người mới là nguyên nhân của một cuộc sống thanh bình, được minh chứng sau cái chết kết thúc thiên bi diễm tình của Romeo – Juliette. Nhưng ở chuyện tình “Mỵ Châu – Trọng Thủy” có nội dung sâu sắc hơn nhiều. Ở đây, cuộc chiến giữa Nam Việt và Âu Lạc đã vượt ra ngoài phạm vi công lý của một quốc gia. Ngoài quyền năng của thượng đế thì chính tình yêu con người – qua thiên bi diễm tình “ Mỵ Châu –Trọng Thuỷ“ – đã chứng minh chỉ có tình yêu là vĩnh cửu. Khi cả Nam Việt – Triệu Đà lẫn Âu Lạc đều thuộc về tay nhà Hán... Hàng ngàn năm đã trôi qua, thành Cổ Loa – bãi chiến trường xưa – nay chỉ còn là những doi đất ngổn ngang. Thời hoàng kim của Nam Việt với những võ công và những âm mưu đen tối, đã chìm vào quá khứ. Nước Nam Việt chỉ còn là một hiện tượng trong lịch sử của cả Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng viên ngọc miền Nam Hải hóa thân của Mỵ Châu vẫn rực sáng khi gặp nước giếng Cổ Loa pha hồn Trọng Thủy. Hình tượng viên ngọc trai rực sáng như muốn minh chứng cho tình yêu bất diệt của con người, phủ nhận những cuộc chiến tranh vô nghĩa. Cùng với đề tài về tình yêu và chiến tranh đạt đến đỉnh cao văn học nghệ thuật, còn có Iliad & Odissey của Homer. Nhưng tiếc thay, đây lại là một thiên anh hùng ca bi tráng của con người. Tình yêu trong Iliad & Odissey lại chính là nguyên nhân bi thảm của cuộc chiến, khi nữ thần tình yêu Aphorodite cho nàng Helen xinh đẹp làm vợ hoàng tử si tình Panis của thành Troa. Có thể khẳng định rằng: ngay cả vào thời kỳ suy tàn của nền văn minh Văn Lang; nền văn minh này cũng còn để lại một tác phẩm văn học với đề tài tình yêu và chiến tranh, rất giàu chất nhân bản hay nhất trong thể loại chuyện này của nền văn minh nhân loại; kể từ thời cổ đại cho đến tận bây giờ. Giả thuyết về thời điểm xuất xứ của chuyện tình “ Mỵ Châu – Trọng Thuỷ“ Với nội dung câu chuyện đã phục chế và trình bày với bạn đọc như trên, thì chuyện tình “Mỵ Châu – Trọng Thủy” không thể hình thành trong thời đại của Nam Việt. Như vậy, chỉ có khả năng thời điểm xuất hiện câu chuyện này vào đầu thời Bắc thuộc đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Đây là một thời kỳ chưa có chủ trương hủy diệt văn hóa và sự đồng hóa khốc liệt. Có thể chuyện tình “Mỵ Châu – Trọng Thủy” xuất hiện vào thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa của Hai Bà, hoặc khi Hai Bà lên trị vì vương quốc Văn Lang cũ. Theo sử cũ thì cuộc khởi nghĩa của Hai Bà được sự ủng hộ của nhân dân ở các vùng Nam Việt cũ. Cho nên nội dung câu chuyện có tác dụng đoàn kết các lực lượng ủng hộ Hai Bà thuộc những miền đất này, vốn gốc xưa là của Văn Lang. Mỵ Châu rải lông ngỗng trắng – hay xuất xứ nguyên thủy của câu chuyện là rải lông chim Lạc (Hạc)? Một hình tượng kêu gọi người Lạc Việt tìm về nguồn cội, giành lại đất nước của tổ tiên, vốn đầy tình yêu thương của con người. Nhưng cũng chính vì vậy mà các triều đại phong kiến Bắc thuộc không thể chấp nhận mối tình “Mỵ Châu – Trọng Thủy” và góp phần làm sai lệch nội dung tác phẩm văn học này (có thể ngoại trừ nhà Nam Tống khi sắp mất nước với Mông Cỗ). Những tác phẩm văn học thuộc nền văn minh Văn Lang, dù dưới mọi hình thức với nội dung khác nhau: truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết văn học hoặc thần thoại cổ tích, đều có nét tương đồng ở tính nhân bản và đề cao sự hòa nhập tình yêu con người. Đây là một nét đặc thù, khó có thể tìm thấy ở nội dung những câu chuyện dị bản khác. Giá trị nhân bản được thể hiện trong những tác phẩm văn học của các tác giả Lạc Việt là một trong những yếu tố chứng tỏ rằng: để có được những tác phẩm trác tuyệt đó, thì nền tảng xã hội của nó phải có một nền văn hiến đạt tới đỉnh cao của giá trị nhân bản và một tổ chức xã hội với một nền văn minh tương xứng, tạo ra sự ổn định cho cuộc sống và con người. Những giá trị nhân bản đầy tình yêu thương con người của thời Văn Lang không tạo cho đất nước này những võ công hiển hách của Alexander đại đế hoặc vinh quang của Thành Cát Tư Hãn. Nền văn minh Lạc Việt cũng không hề để lại những kỳ quan đồ sộ đầy máu, mồ hôi và nước mắt như Kim Tự Tháp, Vạn Lý Trường Thành... Nhưng chính những giá trị nhân bản và tình yêu con người trong nền văn hiến Văn Lang là nguyên nhân cho sự tồn tại gần 3000 năm của đất nước này. Lòng nhân ái và tình yêu con người, tuy không phải là nguyên nhân thắng lợi của một cuộc chiến, nhưng là mơ ước của con người. Những võ công hiển hách của cha ông – quốc gia duy nhất chiến thắng quân Mông Cổ – ngoài sự lãnh đạo sáng suốt đã góp phần làm nên chiến thắng đó, phải chăng chính là sự hy sinh vì tình yêu cuộc sống, vốn là một truyền thống có tự ngàn xưa? Hàng ngàn năm sau, nước Việt hưng quốc, truyền thống nhân nghĩa đó đã được tiếp nối trong lời mở đầu của “Bình Ngô đại cáo” – bản tuyên ngôn độc lập thuộc vào hàng thiên cổ hùng văn của dân Lạc Việt. Từng nghe, Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt vì nhân trừ bạo. Cho đến tận ngày nay, hùng khí của người Lạc Việt hòa chất lãng mạn, chan chứa tình yêu con người với những truyền thống nhân bản được tiếp nối từ thời Hùng Vương, vẫn còn thể hiện trong thi ca Việt Nam với những vần thơ trác tuyệt: Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa. Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi. Chàng ơi ! Điện ngọc bơ vơ quá. Trăng chếch, ngôi trời bóng lẻ soi. Trích bài thơ “Trưng Nữ Vương” Nữ sĩ Ngân Giang Linh hồn của đoạn thơ trác tuyệt của nữ sĩ Ngân Giang, như hòa nhập với sự diễm lệ bi tráng và đầy nhân bản của truyện tình "Mỵ Châu Trọng Thủy" và những câu truyện từ thời lập quốc. Có rất nhiều liệt nữ anh hùng trong lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ có Hai Bà mới có nét đặc trưng, được miêu tả tài tình, đầy hình tượng trong ngôn từ, cô đọng tất cả sự bi phẫn và hùng khí Lạc Việt về nội dung chỉ trong một câu thơ:”Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi”. Với 4 câu thơ trong khổ thơ cuối của bài thơ bất hủ, nữ sĩ đã miêu tả một cách thiên tài bằng hình tượng gián tiếp, thể hiện sự bi tráng và tình yêu con người của vị nữ Vương đầu tiên của người Lạc Việt. Như tất cả câu truyện có từ thời Hùng Vương, mà chất nhân bản và tình người đã tạo nên sự linh diệu đến mức huyền vi của nội dung. Trong thơ của nữ sĩ Ngân Giang, sự sáng tạo nghệ thuật đạt đến sự vi diệu sâu lắng của tâm linh, cũng từ chất nhân bản và tình yêu con người. Trong bi phẫn với nỗi đau nhân thế vì sự tham bạo của con người, Hai Bà đã lập bao võ công hiển hách và đạt tới tột đỉnh vinh quang. Ở nơi lầu son, gác tía đầy phú quí vinh hoa; nhưng ở đấy tình người và những giá trị nhân bản vẫn vượt lên trên tất cả. Hai câu thơ cuối đầy chất lãng mạn với hình tượng nghệ thuật tương phản đạt đến tuyệt kỹ – giữa trạng thái nội tâm cô đơn tận cùng và sự phù hoa cao nhất. Chính từ sự tương phản này đã khẳng định những giá trị của tình yêu con người vượt lên trên tất cả. Hồn thơ mang tình người như vút lên không gian vô tận, tràn ngập trong nỗi cô đơn tận cùng, bỏ lại đằng sau đỉnh cao những mơ ước phù vân của thế nhân. Cả bài thơ, cả hồn thơ, cả cõi tâm linh con người như đã hòa vào vũ trụ, đi tìm trong hư vô, trong thời gian vô tận với sự khao khát một tình yêu con người. Câu thơ cuối như chỉ còn đọng lại trong thế nhân một nỗi buồn sâu lắng, khi hồn người cô đơn trong ảo ảnh vàng son: Chàng ơi!Điện ngọc bơ vơ quá. Trăng chếch, ngôi trời bóng lẻ soi. Trải qua bao nỗi đau thương, thăng trầm theo dòng lịch sử của giống nòi Lạc Việt. Những áng văn chương tiếp nối nền văn hiến Văn lang không chỉ còn chất lãng mạn trữ tình, mà còn pha chất bi tráng – dấu ấn của những cuộc chiến giữ nước đầy gian khổ. Nhưng từ trong sâu thẳm của tâm linh, người Lạc Việt vẫn khẳng định chất nhân bản và tình yêu con người, chống lại nhưng cuộc chiến tranh phi nghĩa. Một trong những bài thơ hay nhất có nội dung trên trong văn học Việt Nam hiện đại, phải kể đến bài “Màu tím hoa sim”của nhà thơ Hữu Loan. * * * Thời đại Hùng Vương – một thời đại đã được minh chứng về tầm vóc đồ sộ của một nền văn hiến – trong đó có những tác phẩm văn xuôi còn lại đã được trình bày ở trên. Một giá trị tự nhiên của tư duy và rung cảm nghệ thuật khác, đó là: âm nhạc, thi ca và hội họa của thời đại này phải được chứng tỏ. Những thanh âm trác tuyệt của tiếng sáo Trương Chi, tiếng đàn Thạch Sanh đã hòa vào hồn sông núi. Nhưng những vần thơ, phải chăng còn lại đâu đó trong ca dao dân gian Việt Nam. Và còn ở những truyện Nôm khuyết danh còn lưu truyền cách đây vài thập kỷ, khi thể thơ lục bát là thể thơ duy nhất có ở Việt Nam (*); hoặc còn ẩn mình dưới cái tên khác trong những cổ thư tìm thấy ở những vùng đất thuộc Văn Lang cũ. Về vấn đề nghệ thuật thời Hùng Vương còn khoảng trống lớn là âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc... Nhưng do khả năng có hạn và điều kiện thời gian hiện nay chưa thể tìm hiểu sâu hơn, nên xin đặt vấn đề để các bậc trí giả quan tâm xem xét. Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị. Thiên Sứ * Chú thích: Trong kinh Trung Dung của Nho giáo, phần mở đầu cũng có hai câu có kết cấu giống thơ lục bát (theo “Lều chõng” - Ngô Tất Tố).
  24. Hệ thống giếng cổ 4.000 năm đang bị lãng quên ? Trương Điện Thắng Trẻ con và người lớn đang tắm giặt trong giếng cổ Trong công trình nghiên cứu về văn minh lúa nước và nghề trồng lúa Việt Nam, GS Bùi Huy Đáp từ năm 1985 đã giới thiệu một công trình khảo cổ học có giá trị về một hệ thống giếng cổ của người Việt trên đất Gio Linh, Vĩnh Linh (Quảng Trị). Đây là hai di chỉ được giới khảo cổ Việt Nam phát hiện, thuộc cuối thời kỳ đá mới, cách đây khoảng trên dưới 4.000 năm. Theo GS Bùi Huy Đáp: "Hệ thống tưới nước Gio Linh được xây dựng cuối thời kỳ đá mới là công trình nước tự chảy của người xưa khá tinh vi. Từ cao xuống thấp có một khoảng phẳng rộng tập trung lấy nước, một bể chứa hứng nước từ trên núi xuống, bể thứ hai hứng nước từ bể ở trên bằng ống máng (làm từ cây luồng - một loài tre to, thẳng có mắt nhỏ - PV) và thấp nhất là một đầm nước rộng có mương đưa vào ruộng. Trong hệ thống này có công trình giếng Kình khá tinh vi...". Cũng theo GS Bùi Huy Đáp, cuộc cách mạng thời kỳ đá mới đã làm cho nghề trồng lúa phát triển và những tiến bộ về trị thủy của người Việt cổ (theo Văn minh lúa nước và nghề trồng lúa Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội 1985). Chúng tôi đã có dịp đến tận thôn Hảo Sơn, xã Gio An, huyện Gio Linh trong những ngày qua và tận mắt chứng kiến công trình gồm 14 giếng cổ mà Bộ Văn hóa - Thông tin đã cấp bằng "di tích lịch sử - văn hóa" cấp quốc gia từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Chị Trần Thị Quỳnh Nga, ủy viên văn hóa - xã hội của xã Gio An đã đưa tôi đến tận nơi, ngoằn qua những đường làng quanh co. Đó là một hệ thống giếng thơi rất lạ lùng và hiếm. Các giếng ngày nay có lẽ đã cạn, nhưng nước vẫn trong vắt, có thể nhìn thấy những con cua nhỏ lội dưới đáy. Xung quanh thành giếng là những lớp sa thạch được xếp chồng khít lên nhau rất đẹp (xem các ảnh kèm theo). Trẻ con trong thôn Hảo Sơn vẫn hằng ngày ra tắm lội trong những giếng này. Nối từ các giếng ra ruộng (đang được trồng cây rau sà-lách son) bằng những mương dẫn nước chắn bằng sa thạch. Giữa các giếng cao và thấp cách nhau cả chục mét, nước từ trong các khe đá chảy ra cũng trong xanh. Dân làng cho biết, mùa hè nước rất mát và mùa đông thì nước lại ấm, nên không chỉ tắm giặt, tưới rau, mà hệ thống giếng này còn là nguồn nước uống tinh khiết cho dân làng. Hệ thống dẫn nước bằng đá sa thạch Theo những tài liệu khảo cổ để lại, thì đúng đây là một tài sản quý hiếm không chỉ đối với nghề trồng lúa nước lâu đời của người Việt từ xa xưa. Nó còn là một di tích lịch sử quan trọng trong hàng chục di tích lịch sử cận đại khác của khu vực Gio Linh cận kề đường Hồ Chí Minh, trong đó có nghĩa trang Trường Sơn, di lích Dốc Miếu phía bờ nam sông Bến Hải thuộc hệ thống các điểm du lịch DMZ nổi tiếng). Tuy vậy, nhìn hệ thống giếng Kình hầu như không ai chăm sóc, bảo vệ này, chúng tôi bỗng thấy hết sức lo lắng. Chung quanh cỏ rác mọc um tùm, chỉ có vài trụ xi măng ghi ranh giới bảo vệ đơn sơ và cũ kỹ. Không có một bảng hướng dẫn nào để dân làng và người từ xa biết về giá trị của một di tích cổ mấy ngàn năm. Bởi vậy, nhìn cảnh người dân tự tiện mang cả áo quần xuống giữa các giếng giặt giũ, chẳng còn có ai ngạc nhiên. Và, người làm công tác văn hóa xã hội trẻ của xã Gio An tỏ ra ngơ ngác trước những câu hỏi của chúng tôi về giá trị lịch sử của di tích này, cuối cùng chỉ là hệ quả tất yếu của việc một quy trình bảo vệ, giữ gìn và phát huy các giá trị lịch sử văn hóa đang dần như "vô cảm" hiện nay mà thôi. Trương Điện Thắng http://www2.thanhnien.com.vn/Vanhoa/.....;/17/170363.tno
  25. Chuyện bà Clinton và ông Obama kể như xong. Lạc Việt độn toán mà điển hình là chị Laviedt đã đoán trước điều này từ ....năm ngoái, khi bà Clinton mới ra tranh cử. Bây giờ chúng ta tập trung vào dự báo: Ai sẽ là Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ tới? OBAMA hay McCLAIN ? Hy vọng anh chị em tham gia dự báo vừa để chứng nghiệm. Cảm ơn sự quan tâm của anh chị em. Thiên Sứ