Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Web: http://caomedia.wordpress.com Nghiêm túc đấy chứ: Họ ghi rõ nguồn là: Xeda111 - Trung Tâm nghiên cứu lý học Đông phương. Có thể họ Coppi từ trang web cũ. Thiên Sứ
  2. Trong Phong Thủy, nhất là Âm trạch có nhiều phương pháp - tạm gọi là khá huyền bí - với nhiều tên gọi khác nhau: Huyền linh pháp, Ngủ trản pháp, Chu Tiên pháp, Thủy pháp trường sinh (Cái này khá phổ biến)...vv..Bởi vậy cần biết sơ về nội dung ...ít nhất là như vậy, mởi biết được nó là cái gì. Ngày xưa, tôi và Điênbatn trấn mộ. Sau khi trấn khoảng 1 giờ đồng hồ thì một cơn mưa lớn ập xuống ngay khu nghĩa trang với đường kình khoảng 2km, mặc dù đang giữa mùa klhô ở Miền Nam Bộ. Cái này gọi là Thu thủy trường sinh pháp. Trận trấn yểm là của Dienbatn, nhưng quyết định trấn ở vị trí nào là do tôi. Những phương pháp này không phải lúc nào cũng ứng dụng được, nên gần như thất truyền. Thiên Sứ
  3. VẮNG BÓNG Mành liễu ru buồn sóng nước xanh Còn đâu tóc gió thổi mong manh Tôi về đây kéo muôn thu lại. Để giữ trong lòng giấc mộng xanh. * Giấc mộng xanh tàn theo lá bay. Ngàn thu khắc khoải có ai hay. Chiều buông cánh mỏi trời viễn xứ Theo bước hải hồ chút cỏ may. * Chút cỏ may rầu chân lữ khách. Níu người đi nhắc bóng quê xưa. Đường trần gió mãi đưa hương cũ. Để chất sầu miên ngập nắng mưa. * Tôi về trong kỷ niệm xưa Tìm hương xưa giữa gió mưa ngập lòng. Thiên Sứ
  4. LỜI TIÊN TRI 2008 Nguồn: Tuổi Trẻ Online Thứ Năm, 10/07/2008, 18:46 (GMT+7) 25 hãng hàng không ngừng hoạt động vì bão giá nhiên liệu TTO - Theo báo cáo của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA), trong sáu tháng đầu năm 2008, có 25 hãng hàng không thành viên của IATA phải ngưng hoạt động hay bị phá sản do bão giá nhiên liệu. Theo Anthony Concil, người phát ngôn của IATA, đây là con số đáng buồn trong suốt lịch sử tồn tại của hệ thống này. IATA qui tụ gần 240 hãng hàng không và áp dụng phương thức bù trừ tài chính giữa đa số các thành viên, nhằm bảo vệ khách hàng, đặc biệt trong trường hợp hãng hàng không bị phá sản. Theo đó, khi khách hàng mua một vé máy bay tại một hãng lữ hành, nơi này trả tiền cho IATA. Kế đó, IATA chuyển khoản tiền vé trên vào tài khoản quỹ của hãng hàng không liên quan. Trong trường hợp có những trở ngại, hệ thống chuyển tiền cho hãng hàng không trên sẽ bị ngưng lại nhằm bảo đảm việc hoàn trả tiền vé cho khách hàng. Trong sáu tháng đầu năm, bão giá nhiên liệu đã khiến nhiều hãng hàng không với mọi qui mô và mọi vùng miền thuộc IATA bị rơi vào khủng hoảng tài chính như Cameroun Airlines, Frontier Airlines (có trụ sở tại Denver, Mỹ), Air Mauritanie hay Silverjet, hãng hàng không chuyên phục vụ doanh nhân ở Anh. Theo dự kiến của ông Concil, danh sách các hãng hàng không phải ngưng hoạt động và đi đến phá sản có thể sẽ còn dài thêm trong những tháng tới, bởi giá nhiên liệu cao ngất là một tác động rất mạnh đến lĩnh vực hàng không. Trong một diễn biến khác cùng ngày, hãng hàng không Mỹ Northwest Airlines thông báo cắt giảm 2.500 nhân viên, tương đương 8% tổng số nhân sự đang làm việc tại hãng từ nay đến cuối năm. Theo ban giám đốc Northwest Airlines, việc cắt giảm trên thuộc khuôn khổ một kế hoạch qui mô lớn nhằm cân đong lại chi phí hoạt động của hãng trong thời bão giá nhiên liệu. Northwest Airlines dự định kế hoạch hợp nhất với hãng Delta Airlines có thể tiết giảm nhân sự và nhiều biện pháp khác sẽ cho phép hãng này tiết kiệm từ 250 - 300 triệu USD/năm. ĐỨC TRƯỜNG (Theo AFP, Reuters). Lời bàn của Thiên Sứ Chưa hết! Đây mới là sơ sơ. Thiên Sứ
  5. Đừng nản chí. Lân sau sẽ tìm được. Thiên Sứ
  6. Hi! Lái Đò ơi! Chú cũng chẳng "Lốt" được! Cũng tại dốt cái vi tính quá à! Thiên Sứ
  7. Hic! Đúng là "zdăng ghóa" coppi ! Hôm nào anh em quản trị thay mặt tôi hoặc Phạm Cương gửi cái email sang trang Oep tuvankientruc.com.vn hỏi thăm tác giả lấy bài ở đâu mà hay wá vậy? Nếu họ ngậm tăm thì yêu cầu họ ghi tên Kiến trúc sư Phạm Hoàng Cương - Trung tâm nghiên cứu lý học Đông phương vào cho nó có "zdăng ghóa" một tý! Bởi vậy, nên anh chị em Phong Thủy Lạc Việt phải cảnh giác! Nếu không nó thành Phong Thủy Tàu cả đấy! Thiên Sứ
  8. LỜI CHƯA NGỎ Thiên Sứ Thôi tìm đâu nữa nét đài trang. Để lá thu bay rụng ánh vàng. Đã chẳng ấm tình trong nắng hạ. Nên đành buông lạnh gió Đông sang. * Bâng khuâng dưới nguyệt chờ hoa nở. Nhớ nhung buông bắt lạc cung đàn. LỤY NHAU Thiên Sứ Có tài mà cậy chi tài? Ngàn thu ước muốn cùng ai nặng tình! Hải hồ nặng nợ ba sinh. Trời xui ly biệt để mình nhớ nhau. LỜI CHƯA NGỎ Laviedt Thơ dù có viết ngàn vạn trang Ngoài ngõ lá đâu đã bay vàng Lòng còn chưa ngỏ vào cuối hạ Mà gió đông sao đã thổi sang Thơ hỡi ngậm đau đừng nức nở Để vút không gian một tiếng đàn. LỤY NHAU Laviedt Lụy nhau bởi một chữ tài Biết chăng ai biết lòng ai nặng tình Phong trần nửa kiếp phù sinh Tỉnh say đôi chén cho mình thương nhau.
  9. Quan điểm của tôi là không làm cái gì can thiệp vào tự nhiên. Cái cằm lẹm nó tất cân đối với hình tương trên khuôn mặt. Thay đổi hình tướng sẽ thay đổi chính con người mình. Nhưng nếu hiểu cằm to ra là có hậu thì mới chỉ là một yếu tố. Biết đâu nó này sinh một yếu tố khác là ....tai nạn. Do mất cân đối với gò má chẳng hạn. Người cằm lẹm thường về già hay bị bệnh xương cốt, chứ chưa hẳn đã xấu về hậu vận. Vấn đề là cái cằm đó có đẹp hay không? Thiên Sứ
  10. Cảm ơn Phú Thương có lời khen ngợi! Nói chung những anh chị em tham khảo Lạc Việt độn toán đều có thể dự đoán được những việc tương tự. Nhân đây! Do một cảm ứng Thiên Sứ tôi nghĩ đến lãi xuất Ngân hàng đang hiện hữu. Giờ Sửu. mùng 9 tháng 6 - Mậu Tý: Cảnh Xích Khẩu. Nên giảm bớt lãi xuất ngân hàng xuống. Tùy! Thiên Sứ
  11. Hic! "Nại" bàn về zdăng ghóa! Trong trang "Văn hóa học" - ngay trang chủ mới oai - chạy một hàng chữ của ông Tây Văn hóa - tức "nà" đồ nhập cảng hẳn hoi chứ không phái thứ "nô" can. " Văn hóa là cái gì còn lại khi ta wên tất cả, là cái còn thiếu khi ta đã học tất cả" Dưới ký Edouard Herpiot. Ghê chưa. Hẳn Tây ký nha. Lần đầu tiên Sư Thiến tui xem một định nghĩa về zdăng ghóa là của quí ông cũng rất "lổi" tiếng - tuy không bằng Trần Quốc Vương - là Đào Duy Anh trong "Việt Nam Văn hóa Sử cương". Ông này định nghĩa "Zdăng ghóa" là sinh hoạt. Hic! Định nghĩa kiểu này thì mấy cái sinh hoạt trên giường cũng là zdăng ghóa sao? Nhưng ngày ấy Sư Thiến tui còn nhỏ. Mới 18 đôi mươi còn ham "văn hóa" nên không để ý. Bi zdờ già rồi - Khả năng "văn hóa" không còn nữa, mới hút thuốc "nào". uống trà mạn hảo suy ngẫm về cái zdăng ghóa của Đào Duy Anh thì thấy mọi sinh vật trên thế gian này đều sinh hoạt. Híc! Thế thì đến con chó cũng có "zdăng ghóa". Vậy thì sinh hoạt hổng phải "zdăng ghóa". Zdăng ghóa là những cái gì thuộc về con người chứ nhẩy? Sau khi lần mò cái "văn hóa" của Đào Duy Anh chán bèn sang cái khác! Híc! Cái zdăng ghóa của Trần Quốc Vương! "Văn hóa Ẩm thực". Ấy là nói chữ theo lối Tàu. Còn nói theo lối ta thì là "văn hóa ăn uống". Híc! Thế thì cái định nghĩa này của Trần Quốc Vượng chỉ là cụ thể hóa cái zdăng ghóa của Đào Duy Anh mà thôi! "Ẩm thực" là một trạng thái sinh hoạt. Hic! Bởi vậy từ cái định nghĩa cao cấp 1m 69 này nên nó mới đẻ cái "Văn hóa chửi" - Một trạng thái sinh hoạt khác! Chẳng bít văn hóa là cái gì nên mới nhập nhằng lấy một câu mơ hồ của ông Tây ngoại nhập một định nghĩa về văn hóa! " Văn hóa là cái gì còn lại khi ta wên tất cả, là cái còn thiếu khi ta đã học tất cả" Hê! Hê! Hê! Thế thì cô bồ nhí xinh đẹp chính là cái còn lại khi xếp đã wên tất cả các cô bồ to trước đó! Và đó cũng chính là cái còn thiếu khi đã mần tất cả! Cái zdăng ghóa này thì chắc không được mẹ ngỗng nhà tôi thừa nhận rùi! Hê! Hê! Hê! Đừng có chỉ cô bồ nhí mà bảo rằng thì là "Đây chính là cái "văn hóa" của tao". Này! Đừng có bảo Sư Thiến tôi xuyên tạc văn hóa nha! Phải tội đấy! Khi mà các "ranh nhân" với chiều cao khiêm tốn chưa định nghĩa được thế nào là "zdăng ghóa" thì lấy quái gì ra định nghĩa "zdăng ghóa" để xuyên tạc?! Bùn wá! Một cái khái niệm con con như vậy mà cả Tây lẫn ta trong "lước" "nẫn" ngoài "lước" chưa định nghĩa được. Vậy mà dám "khoe" quan điểm lịch sử phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt "nà" được "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và cả "cộng đồng khoa học quốc tế thừa nhận". Nói cho các cao nhân với chiều cao khiêm tốn biết: "Văn hiến" chính là tinh hoa của văn hóa đấy! Đến cái "văn hóa" còn chưa thấu đáo thì đừng tham vọng đụng đến nền văn hiến Việt! Trong tiếng Anh không có từ "Văn hiến"! Thiên Sứ
  12. Trong tướng pháp thường so sánh tường muôn loài với tướng con người. Pha Lê thấy tướng các con thú oai vệ nhất như sư tử, cọp ít khi nào mõm dài. Bởi vậy, nếu răng hô nên kiềng lại. Thiên Sứ
  13. Oh! Chào Huong28! Lâu quá mới gặp lại! Sức khỏe của Huòng28 bây giờ đỡ hơn chưa? Nhìn cái nick mới Phale chắc bây giờ ổn định rồi, chuẩn bị vươn lên phải không? Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  14. Văn hóa là gì? Hầu hết các nhà pha học trong nước và cộng đồng pha học thế giới khóc tiếng ...Hin Du. Họ sưu tầm được trên 300 định nghĩa về "Zdăng ghóa" và cãi nhau như mổ bò. Tất nhiên là rất "văn hóa cãi nhau". Toàn những cao nhân từ 1m 5 đến hơn 2 m bảo vệ luận cứ của mình như là chân lý bất biến. Bởi vậy họ đã có công chuyển từ "văn hóa tranh luận" sang "văn hóa cãi nhau" rồi thành "văn hóa mổ bò". Rút cục vẫn rất chi là bế tắc . Thế là một cao nhân 1m 69 là Trần Quốc Vượng phải dùng một thủ thuật phân nhỏ định lượng khái niệm văn hóa ra gắn liền với một trạng thái định tính là "Văn hóa ẩm thực". Ông Trần Quốc Vượng vốn lổi tiếng, thế là cái zdấn đề được tung hê lên. Ối giời ơi! Thế là nó đẻ ra cả hàng ngàn cái giá trị "zdăng ghóa". Bắt đầu là "văn hóa ẩm thực", văn hóa chửi - Lúc đầu cứ tưởng là của anh Trần Phương sáng tạo, té ra bản quyền thuộc về ông Trần Ngọc Thêm. Ối giời ơi! Chu choa, mèng đéc, mế, bầu, bọ, bủ ơi! Thế này thì cái văn hóa "ca bi nê", "văn hóa hôi nách" đầy sáng tạo của tôi chết chìm trong một đống "văn hóa gội đầu", "văn hóa bikini", văn hóa ăn (Việt hóa khái niệm văn hóa ẩm thực của Trần Quốc Vượng), văn hóa nhậu (Cụ thể hóa một trạng thái của văn hóa ẩm thực của Trần Quốc Vượng), văn hóa long sàng....văn hóa thuốc bắc, văn hóa đi bộ, văn hóa đi xe, văn hóa sơ mi cà là vạt, văn hóa mô to, xe máy. văn hóa ...hị..hị mệt wá...hết nói nổi. Thiên Sứ
  15. "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở..."* Sao dưới mi em đỡ giọt sầu? Người ơi! Duyên mộng dài lâu. Sao tình chết giữa biển dâu u hoài. Cánh chim bay chốn lạc loài. Ôm tình dang dở mệt nhoài Thiên Thu. Thiên Sứ --------- * Thơ Xuân Diệu
  16. CHỮ VẠN Ngày Tết, người Việt Nam chúng ta thường vào chùa lễ Phật. Ai cũng nhận thấy trên ngực tượng Phật trang nghiêm thờ giữa chính điện thường có dấu chữ vạn. Dường như đây là một biểu tượng đặt trưng của Phật giáo ? Hồi còn bé, tôi đã chú ý và có nhiều thắc mắc về ý nghĩa của dấu hiệu này. Tôi hỏi sư, sư bảo: “Đó là chữ Vạn, biểu tượng của đức Phật. Nó tượng trưng cho đức Đại Hùng , Đại Lực, Đại Từ bi của Phật . Nó là hình tượng của “ Bánh xe Pháp luân “đang vận động. Bốn cánh của chữ Vạn còn mang ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, tức là Khổ Tập Diệt Đạo. Có người còn gọi đó là Tứ khổ hải: Sinh – Lão- Bệnh-Tử. Nó nói lên vòng luân hồi bất tận của kiếp người trầm luân". Tôi nghe vậy thì biết vậy thầm nghĩ đạo phật thật cao siêu, chỉ có một dấu hiệu nhỏ mà mang bao nhiêu ý nghĩa thâm thuý. Sau này đọc lại trong tạp chí Indochine số 126 ngày 28 tháng Giêng năm 1943, tôi thấy có một bài viết về chữ Vạn ở trang 15, có đoạn khá ngộ nghĩnh. Tôi tạm dịch ra để hiến các độc giả trẻ hiếu học. Bài có tựa: Chữ Vạn với người An Nam : “Đây là dạng cổ nhất của chữ thập (+)[La croix], có tên gọi là Swastika. Swastika là biểu tượng của Đạo Phật, nói lên sự toàn thiện, toàn mỹ của Đức Phật. Đó là dấu hiệu của sự giải thoát. Người Ấn Độ đã khắc chữ vạn (Swastika) lên ngực tượng Phật, coi như dấu hiệu tối thượng của sự toàn thiện, toàn mỹ. Những nhà sư Việt Nam tiếp tục tôn thờ dấu hiệu này mà chẳng hiểu nó có ý nghĩa như thế nào (?!) . Họ gọi đó là “ Chữ Vạn Thiên Trúc” có nghĩa là “ chữ Vạn của nước Ấn Độ”. Và có người đã giải thích sự hiện diện của chữ Vạn trên ngực Đức Phật như thế này: “Một tên bạc ác ngày nọ đã đâm một nhát giáo lên ngực của Đức Phật nên Ngài đã giữ mãi vết tích đó suốt đời để nhắc nhở mọi người lánh xa điều ác” . ( Viết theo Dumoutir) Bài báo còn một đoạn nói về dấu chữ Vạn đã được dùng rất nhiều trong nghệ thuật trang trí của người Việt Nam ở Bắc Bộ, trên các bức chạm trổ và điêu khắc bằng gỗ hay kim loại, để trang trí bàn, ghế, tủ và các đồ dùng nội thất: Tứ bình , diềm cửa, phủ thờ, viền câu đối v..v.. Còn một đoạn khác quan trọng hơn Dumoutier viết thế này: ” Những người phụ nữ của bộ tộc Mán hiện đang sống trên các đỉnh núi Ba Vì ở hai bên bờ sông Đáy, thường sống tập trung thành các cụm dân cư rải rác trên các vùng Thượng du đấy núi non sứ Bắc kì. Họ thuường mặc những bộ quần áo bằng vải thô màu xanh dương có mang hằng dải dài những chữ Vạn thêu màu đỏ hay trắng” Đây mới là điều lạ. Người Mán cũng tôn thờ Đạo Phật hay Đạo Bà La Môn?. Hay họ tôn thờ một đấng thiêng liêng nào khác có nguồn gốc thật xa xưa? Điều này xin đặt câu hỏi cho các nhà dân tộc học và phong tục học nước ta. Nhưng sau khi đọc một quyển sách xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1969 do nhà sưu tầm cổ vật James Churchward viết, có tựa đề : The lost continent of MU (MU, Đại lục bị tiêu trầm)(1) tôi dần nghiệm ra, tuy chưa hẳn hoàn toàn tin tưởng vào những điều giải mã và lý giải trong sách. Theo James Churchward thì chữ Vạn là biểu tượng không phải chỉ riêng của Phật giáo hay Ấn giáo mà là biểu tượng chung của toàn thể nhân loại, trên khắp thế giói. Nó xuất phát từ những kí hiệu tượng hình được ghi trên các linh bài bằng đất thô có độ tuổi hàng vạn năm, tìm được ở Ấn Độ, được cất giấu trong các ngôi đền thật xưa. J. Churchward đã phân tích và giải mã chữ Vạn thật chi li. Ông khẳng định chữ Vạn chỉ là biến thẻ của chữ thập (+) tượng trưng cho “Tứ Đại Nguyên Động Lực” (Nước, gió, lửa, sấm, sét) = Four Great Primary Forces. Chữ thập và chữ Vạn, cũng như thạch trụ, (pylone, pilier) là những vật biểu tượng có tính tôn giáo, được tôn thờ từ lục địa MU, được truyền sang bờ Tây Thái Bình Dương qua ngõ Miến Điện, Nepal, Ấn Độ, sang Ba Tư, tới Lưỡng Hà, Ai Cập, Hi Lạpv..v.. và Mu được xem như là miền đất mẹ (Morther land) của nhân loại từ đó xuất phát mọi nền văn minh cổ nhất thế giới. MU thờ Mặt trời nên tất cả các dân tộc nào trên thề giới thờ Mặt Trời đều chịu ảnh hưởng của nền tôn giáo nguyên thuỷ của MU và J. Churchward phân tích sự tiến triển của chữ Vạn như sau (hình2) Hình A: Chữ thập (+) hình ảnh tièn khởi, tuợng trưng cho Tứ Đại Nguyên Động Lực Hình B: Chữ thập nằm trong vòng tròn. Vòng tròn tượng trưng cho Mặt TRời và Vũ Trụ, trong đó bao hàm Tứ Đại Nguyên Động Lực. Các động lực vận hành trong vũ trụ tạo ra sinh vật, nên hình số 2 này nói lên sự Sáng Tạo ( biểu tượng của Đấng Sáng Tạo = Tạo Hoá = Hoá Công). Hình C: Bốn cánh của chữ Vạn xoay quanh vòn tròn có chấm. Vòng tròn tượng trưng cho Đấng Sáng Tạo. Mặt trời nằm ở trung tâm: Vũ trụ xoay quanh Mặt Trời. Tứ Đại Nguyên Động lực làm cho vũ trụ vận hành. Các cánh của chữ Vạn đều xoay về hướng Tây, diễn tả vũ trụ vận hành từ Tây sang Đông (Theo chiều kim đồng hồ). Hình D: chữ Vạn không có vòng tròn ở giữa, chiều xoay từ tây sang Đông) Trong hình này biểu tượng về Đấng Sáng Tạo bị mất hẳn, chỉ còn lại bọ liên hợp 4 cánh gamma. (L) là chữ của người Kiu xưa, sau được người Hy Lạp dùng làm chữ gamma, và người La Mã biến thành chữ L. L là cái ê-ke vuông góc (Thước thợ nề) nói về “Người xây dựng” (builder). Bốn vị “Builders” này kết hợp lại thành “Bộ tứ Builders” gọi là “Tứ Đại Hùng Nhân” (The Four Great Strong Ones) chữ Vạn từ đó lưu truyền đến ngày nay. Có điều chúng ta nên lưu ý về chữ Vạn dã được phân tích trên đây có bốn cánh xoay về hướng Tây. Còn chữ Vạn của Phật Giáo Việt Nam và của Đức Quốc Xã thời Hitler lại có cánh xoay về hướng Đông. Biểu tượng chữ Vạn của người Naacal và chữ Vạn nguyên thuỷ ở xứ MU cũng có cánh quay về hướng Đông . Sự thay đổi hướng xoay của chữ Vạn xảy ra từ lúc nao không ai hiểu rõ. Chỉ thấy trên hoa văn một lọ chum đựng hài cốt tìm được ở Ý, có niên đại vào thời đồng khí, in trong sách Chemin de Sagese – Traité du Labyrinthe (Con đường Đạo Lý - Luận về Ma Trận) của Jacques Âttli, do Fayard xuất bản năm 1996 lại có cả hai chữ Vạn ngược chiều nhau. Nhưng chữ Vạn của Đức Quốc Xã (cũng giống như chữ Vạn Phật Giáo, có cánh xoay về phải) lại mang ý nghĩa khác. Hitler dùng chữ Vạn trên lá cờ tượng trưng cho Quyền năng của Tạo hoá, để gây niềm tin vào lý tưởng ưu việt của tộc người Aryen thuần chủng (Nhật Nhĩ Man = Normand = Người Đức) theo học thuyết Siêu Nhân = Surhomme”của Nietzsche đã được tác giả phác hoạ trong Ainsi parlait Zarathoustra (Zarathoustra đã nói thế). Hitler kêu gọi người Đức tàn sát người Do Thái vì sợ giáo thuyết “ Do Thái giáo” của họ mê hoặc tư tưởng người Nhật - Mỹ - Man. Họ kết tội dân Do Thái đã tố cáo Chúa Jésus khiến người La Mã hành hình Chúa, là hành vi đê tiện đáng trừng phạt nên đã có hàng vạn người Do Thái bị sát hại trong thời Thế Giới Chiến Tranh thứ hai. Hiện nay ở Châu Âu đang có một bọn người phát xít toan đề xướng thuyết “Tân Phát Xít” (Néo-Frascisme) và khôi phục lại chữ “Vạn” của Hitler. Nhưng như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa phát xít Đức đã gây racuộc đệ II Thế Chiến tàn hạibao nhiêu triệu nhân mạng trên thế giới, nhất là nó tàn sát người Do Thái rất dã man. Và chữ Vạn, khi còn là biểu tượng tôn giáo có ý nghĩa tuyệt vời, trái lại là huy hiệu của phát xít, nó đã gây ra bao nhiêu điều tàn ác. TRƯƠNG MINH HIỂN (Trích trong XƯA NAY, số 132-133) Thiên Sứ giới thiệu
  17. Chữ Vạn trong lịch sử nhân loại Chữ Vạn bắt đầu được sử dụng đặc biệt rộng rãi tại Ấn-độ từ hơn 2500 năm trước, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền xuất ra pháp môn tu tập của mình. Chữ Vạn —swastika hoặc svástika— là có gốc từ chữ svasti, tiếng Ấn-độ cổ với hàm nghĩa may mắn. Khi Phật giáo truyền sang Trung Quốc, ngươì Hoa gọi đó là chữ Vạn, là ký hiệu của nhà Phật, và biểu tượng của “cát tường như ý”. Văn hoá truyền thống của người Việt chúng ta cũng mang theo nét văn hoá ấy. Chữ Vạn thường hay được thấy ở trên tượng Phật và chùa triền Phật giáo: Dưới đây là hình chữ Vạn tìm thấy trong một bức tranh lụa 2300 năm trước ở Trung Quốc: Tấm lụa được tìm thấy trong những năm 1970 tại Mawangdui, gần Changsa, trong Mộ Cổ Số 3. Có 29 hình “sao chổi” trong tấm lụa, và 4 “sao chổi” có hình như trên. Như quý vị có thể thấy, cái bên trái mang hình chữ Vạn (cũng là cuối cùng trong tấm lụa, theo thứ tự từ phải sang trái). Chữ Vạn không chỉ xuất hiện trong văn hoá Trung-Ấn. Người ta còn tìm thấy chữ Vạn tại những nơi khác trên thế giới trong lịch sử. Có lẽ hình chữ vạn cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy được là chữ vạn được vẽ trong một hang động 10000 năm trước, thời kỳ đồ đá cũ. Cận đại, vì Hitle sử dụng một ký hiệu tương tự, do vậy một số người, nhất là người dân ở Đức hoặc ở châu Âu, có thể hiểu nhầm khi nhìn thấy chữ Vạn này. Một ví dụ nữa về chữ Vạn trong Phật giáo: chữ Vạn ở một ngôi chùa tại Triều tiên: Dưới đây là hình chữ vạn xoay theo chiều ngược lại. Những hình chữ vạn xoay theo cả hai chiều như vậy vẫn luôn phổ biến trong Ấn-độ giáo cho đến ngày nay. Chữ Vạn tại một chiếc vòng cổ xưa tìm thấy ở Iran: Chữ Vạn trên một chiếc mũ của người Hy-lạp: Hầu hết các nhóm, tộc người trong lịch sử đều từng biết đến mẫu hình chữ Vạn. Ngay tại Đức, các bộ tộc xưa vẫn gọi mẫu hình đó là “Cross of Thor” (chữ thập của thần Thor). Tại Anh quốc, những người dân mở đất Scandinavi cũng mang mẫu hình chữ Vạn trong văn hoá của họ đến vùng Lincolnshire và Yorkshire. Trong một ngôi đền cổ 2000 năm tuổi ở Palestine của người Do Thái, người ta cũng thấy có vẽ mẫu hình chữ Vạn này. Ở châu Mỹ, ở các di tích lịch sử của người bản địa cũng có thấy mẫu hình chữ Vạn, cả ở Bắc, Trung và Nam Mỹ. Ngày nay, nhìn hình của các thiên hà, chúng ta có thể liên tưởng đến đồ hình thái cực của Đạo gia hoặc hình chữ Vạn của Phật gia vốn được các thế hệ trong lịch sử nhìn nhận là biểu trưng cho vũ trụ: --------------------------------------Dưới đây là các tư liệu mà chúng tôi tham khảo để có thông tin về chữ Vạn trong lịch sử nhân loại: 1. Thomas Wilson, Curator, Department of Prehistoric Anthropology, U.S. National Museum, Chapter “The Swastika, the earliest known symbol and its migrations; with observations on the migration of certain industries in prehistoric times.” from “Report of National Museum” (1894), pp. 757-1030. 2. Barbara G. Walker, “THE WOMAN'S ENCYCLOPEDIA OF MYTHS AND SECRETS” (1983), and “THE WOMAN'S DICTIONARY OF SYMBOLS & SACRED OBJECTS” (1988), both published by Harper & Row; 3. James A. Michener, “THE SOURCE”; 4. Ernest Klein, “KLEIN'S COMPREHENSIVE ETYMOLOGICAL DICTIONARY OF THE ENGLISH LANGUAGE” (Elsevier, 1971); 5. Robert H. Mathews, “MATHEWS' CHINESE-ENGLISH DICTIONARY” (Harvard, 1966); 6. The book “In Search of the Cradle of Civilization” by Georg Feuerstein, Subhash Kak, and David Frawley (Quest 1995) describes the history of India from a perspective different from that of English colonialists. 7. Sagan and Druyan, book “Comet”, Random House 1985 8. http://en.wikipedia.org/wiki/Swastika9. http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2007/9/16/89609.html Tham chiếu: http://www.falundafa.org/intro/0-falun.htm. Nguồn : www.khaitam.minhhue.net
  18. LỊCH SỬ CHỮ THẬP NGOẶC (History of Swastika) Phạm Việt Hưng Gọi là “chữ”, nhưng thực ra cả hai đều là những biểu tượng. Người Việt Nam đã khéo léo phân biệt 2 biểu tượng này bằng cách dùng hai tên gọi khác nhau. Nhưng với người tây phương, cả 2 biểu tượng đều được gọi là Swastika, vì hình thức của chúng hoàn toàn như nhau. Trước đây, trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” trên Văn Nghệ ngày 15-06-2002, tôi đã nêu lên nhận xét cho rằng đây không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên, mà phải có chủ ý – chủ nghĩa quốc xã Đức đã cố tình lợi dụng Swastika để làm biểu tượng của chúng. Tuy nhiên, mọi nhận định trong bài viết đó vẫn mang tính chất suy luận cá nhân, chưa thể hiện đánh giá chính thức của lịch sử thế giới. Hôm nay tôi đã có đủ tài liệu để giới thiệu với đọc giả những sự thật lịch sử được ghi chép trên các tài liệu chính thức, trong đó cho biết đích thân Hitler đã chọn Swastika làm biểu tượng của đảng quốc xã, nhà nước quốc xã và quân đội quốc xã. Trước khi tìm hiểu cụ thể, xin chú ý rằng: · Swastika không phải là biểu tượng của riêng Phật giáo, mà là biểu tượng của rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau. · Swastika của Đức quốc xã hoàn toàn không liên quan gì đến chữ Vạn của Phật giáo, mà chỉ liên quan đến Swastika của người Aryan. Vì thế để tránh nhầm lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu tượng này là “Swastika”. “Chữ Vạn” sẽ chỉ được dùng cho Swastika của Phật giáo. Vậy Swastika có xuất xứ từ đâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Người Aryan là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng Swastika của người Aryan? Đó là những câu hỏi sẽ được trả lời trong bài viết này. 1- Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika Bản đồ 1 Swastika là một trong những biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng. Nó đã được phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có độ tuổi ít nhất hơn 3000 năm tại khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng sông Indus (Bản đồ 1). Swastika cũng xuất hiện trên các bình gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành Troy (Bản đồ 2), chứng tỏ nó đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N. Bản đồ 2 Mặc dù chưa ai vẽ ra được một “lộ trình di cư” chính xác của Swastika qua các thời đại, nhưng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn năm, Swastika đã có mặt ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên gọi khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng Hy Lạp – tetraskelion, tiếng Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Đức – hakenkreuz, tiếng Ý – croce uncinata, v.v… Nhưng tên gọi phổ biến nhất vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (đọc là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Độ. Trong tiếng Sanscrit: Sv, đọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự việc nào đó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng thái tốt lành (well-being). Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial History of World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity) và sáng tạo (creativity). Swastika trong nghệ thuật của người Hindu có các dấu chấm trong các cung phần tư (Hình 1-1), nhưng Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện sự thiêng liêng cao cả. Hình 1-1 Phật giáo đã thừa hưởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika thường xuất hiện ngay ở phần mở đầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị cái bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternality). Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Đài Loan viết: Theo truyền thuyết cổ Ấn Độ, phàm là thánh vương chuyển luân cai trị thế giới đều có 32 tướng tốt. Phật là một thánh vương trong Pháp nên cũng có 32 tướng tốt. Điều này được ghi trong kinh Kim Cương Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32 tướng tốt của Phật. Theo kinh Trường A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật. Tại Nhật Bản, chữ Vạn của Phật giáo được gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài hoà và cân bằng âm dương trong vũ trụ (giống tư tưởng của Dịch và Lão học) – trong đó manji quay trái được gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và lòng nhân từ, khoan dung; manji quay phải được gọi là ura manji, thể hiện sức mạnh và trí thông minh. Tại Nam Âu, khu vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng đã được tìm thấy trong các công trình kiến trúc thuộc nền văn hoá Byzantine – nền văn hoá thuộc khu vực Biển Đen và Địa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước CN đến tận thời trung cổ. Dấu vết Swastika cũng xuất hiện trong các đền đài thuộc nền văn hoá Celtic (đọc là Seltic hoặc Keltic) – nền văn hoá đậm nét Âu châu phi Địa Trung Hải, có xuất xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 năm trước CN kéo dài mãi đến nhiều thế kỷ sau CN, ảnh hưởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền văn hoá này là người Celt – người nói tiếng Celtic – những người nổi tiếng thông minh, yêu tự do, dũng cảm trong chiến đấu. Cần đặc biệt chú ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ rộng lớn hơn được gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và ngôn ngữ Ấn-Âu là gì? 2- Ngôn ngữ Aryan và người Aryan Những người ít quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ). Thuỷ tổ ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) – ngôn ngữ của những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay (Bản đồ 3). Những cư dân này tự gọi mình là người Aryan. Bản đồ 3 Vào khoảng 1500 năm trước CN, người Aryan đã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Độ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1000 năm đầu tiên tại Ấn, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này đến mức tìm ra cách để viết. Đó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ. Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lưu giữ được trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu mà ngày nay ta biết được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan có nước da sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là người phú quý (nobleman) hoặc chúa tể đất đai (lords of land)! Một nhánh khác của người Aryan đã di cư sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở đó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn người Âu châu ngày nay rất giống nhau – thực ra hầu hết người Âu đều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, Phần Lan, Latvia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga). Vì thế ngôn ngữ Aryan được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, người Aryan được gọi là người Ấn-Âu tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ còn được gọi là người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng mầu, trong khi người Ấn ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hơn, nước da tối mầu hơn. Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời đó như Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa người Âu châu tiền sử với người Aryan cổ đại. Trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” (đã dẫn), tôi đã đặt dấu hỏi: “Dân tộc Iran ngày nay và người Aryan xưa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm ngữ, hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ người Aryan đi chinh phục Ấn Độ và Âu châu hết mà không để lại một chi nhánh nào của dòng họ ở nơi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?”. Và tôi đã tìm thấy câu trả lời. Bách khoa toàn thư Wikipedia viết: “Vào khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, người Aryan đã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thực ra, thuật ngữ Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tư thời trung cổ, chúng ta thấy chữ Ariana được gọi là Eran, và cuối cùng trong tiếng Ba-Tư hiện đại, được gọi là Iran”. Nhà triết học nổi tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The Philosophy of history) rằng: "Lịch sử của loài người bắt đầu từ lịch sử của Iran”. Các di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền văn minh Iran có trước nền văn minh Ai Cập quãng 3000 năm, khởi đầu ít nhất từ 12000 năm trước đây. Tóm lại, người Aryan một phần đã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một phần đã di cư sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cư dân bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người Âu Mỹ như ngày nay. Tuy nhiên, khái niệm “người Aryan” dần dần đã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc biến tướng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại. 3- Về cái gọi là “chủng tộc Aryan” Như đọc giả đã thấy, những văn bản cổ mô tả người Aryan là những người có những “ưu điểm vượt trội”: những người “phú quý” hoặc “chúa tể đất đai”! Trong thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu! “Thành tích vượt trội” của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “người Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ưu tú hơn” (superior race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nhà Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi nói đến chữ Aryan, tôi không hề có ý định đề cập đến những khái niệm liên quan đến hộp sọ”. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp mọi giải thích, những kẻ có đầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học. Đến những năm 1920, chủ nghĩa quốc xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan lên đến mức cực kỳ phản động: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng (master race) có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Đác-uyn-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng nguyên lý đấu tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài người. Nhưng tại sao Đức quốc xã lại chọn Swastika làm biểu tượng của chúng? Trước khi biết rõ bối cảnh nào đã dẫn Hitler tới chỗ đích thân hắn chọn Swastika làm biểu tượng cho đảng quốc xã, đọc giả cần biết rõ sự kiện sau đây: Cuối thế kỷ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, người đã khám phá ra Swastika trên đống đổ nát của thành Troy, trong một công trình nghiên cứu công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu. Nói cách khác: Swastika là biểu tượng đặc trưng của người Aryan! Muốn biết Swastika của người Aryan đã bị Hitler lợi dụng ra sao, xem bài kỳ sau sẽ rõ. Chú thích minh hoạ: Bản đồ 1: Khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng sông Indus, một trong những cái nôi văn minh của loài người. Tại đó tìm thấy những chữ Swastika có độ tuổi khoảng 3000 năm. Bản đồ 2: Vị trí Thành Troy trên bản đồ. Swastika cũng được tìm thấy trên các bình gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành Troy, chứng tỏ nó đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N. Bản đồ 3: Vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay, nơi xuất xứ của người Aryan. Từ đây, một bộ phận người Aryan di cư đến Bắc Ấn, một bộ phận ở lại Iran, một bộ phận chinh phục châu Âu, trở thành người Ấn-Âu tiền sử. Hình 1-1: Swastika trong nghệ thuật và văn hoá của người Hindi, trong đó có 4 dấu chấm ở các cung phần tư, nhưng Swastika của Hindu giáo không có 4 dấu chấm đó, thể hiện sự thiêng liêng. Phạm Việt Hưng 8/2007 Nguồn: vietsciences.org và dongtac.net
  19. Sinh năm 80(?): 1) Nếu sinh vào đầu năm và còn trong năm Âm lịch Kỷ Mùi thì cưới vào các tháng: 4 - 5 - 10 - 11. 2) Nếu sinh trong năm và rơi vào năm Canh Thân thì cưới vào các tháng: 2 - 8 - 6. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  20. Vì sao người Việt cổ có tục xăm mình? Một trong những tục cổ xưa nhất của người Việt là xăm mình. Tục này, phải kéo dài mãi cho đến cuối thế kỉ thứ XIII, đầu thế kỉ thứ XIV mới chấm dứt. Có người nói rằng, bởi tục này mà tên nước đầu tiên của người Việt là Văn Lang. Hẳn nhiên, cách giải thích ấy chưa đủ sức thuyết phục, nhưng dẫu sao thì tục xăm mình cũng là một trong những tục cổ nhất và tồn tại thuộc vào hàng lâu dài nhất ở nước ta. Về nguyên nhân xuất hiện của tục này, sách Lĩnh Nam chích quái (phần Hồng Bàng thị truyện) viết như sau: “Bấy giờ, dân trên núi xuống nước đánh bắt cá thường bị thuồng luồng gây thương tổn, bèn cùng nhau tâu việc ấy với Vua. Vua nói: - Các giống ở trên núi khác với các loài ở dưới nước. Các loài ở dưới nước chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình, vì vậy, ta mới bị gây hại. Nói rồi, Vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thuỷ quái vào người. Từ đó, không bị thuồng luồng gây thương tích nữa. Tục vẽ mình của dân Bách Việt bắt đầu có kể từ đấy. Ở buổi đầu mở nước, mọi thứ vật dụng của dân chưa đủ. Dân phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ ống làm chiếu, lấy gạo nếp nấu rượu, lấy cây quang lang làm thức ăn, lấy cầm thú cá tôm làm mắm, lấy củ gừng làm muối, đao canh thuỷ chủng. Đất sản nhiều gạo nếp. Lấy ống bương thổi mà ăn. Làm nhà sàn mà ở để tránh cọp, chó sói làm hại. Cắt tóc ngắn để tiện vào rừng. Con mới vừa sinh ra thì lấy lá chuối lót cho nằm. Có người chết thì gõ vào cối không, cho xóm giềng nghe thấy để kéo nhau đến giúp. Con trai con gái lấy nhau, trước hết, dùng gói muối làm lễ hỏi rồi sau đó mới giết trâu, giết dê để ăn mừng thành vợ thành chồng. Cùng nhau đem cơm nếp vào buồng để ăn, vợ chồng mới thành thân, vì lúc đó trầu cau chưa có”. Lời bàn: Chinh phục thiên nhiên vùng đồng bằng sông nước là cả một quá trình lâu dài, phức tạp và cực kì khó khăn. Hình ảnh những con thuồng luồng gây thương tích cho dân có lẽ chính là một trong những biểu hiện của sự phức tạp và cực kì khó khăn đó. Dân gặp khó thì kêu vua, vua ân cần chỉ cho dân tất cả những gì mình biết. Lời chỉ dẫn ấy, đúng sai thế nào thì ta đã quá rõ, nhưng điều quan trọng hơn lại chính là ở chỗ, trên dưới như cha con một nhà, nghĩa tình đằm thắm biết là bao. Bấy giờ, hễ người Việt là xăm mình, hễ ai xăm mình là người Việt. Bạn thích hay không thích tục xăm mình, đó là việc riêng của bạn, nhưng, trông lại ngàn xưa, xin bạn hãy ghi nhận cho rằng, chính tục ấy đã góp phần làm cho Hán và Việt biệt lập rõ ràng, và cũng chính nhờ sự biệt lập rõ ràng ấy, giờ này, bạn mới có thể ung dung mà nói: non sông ta... Đời sống của cổ nhân ra sao, đoạn ghi chép ngắn ngủi trên kể cũng đã nói khá rõ. Kính thay, một thời chắt chiu cần mẫn, thương thay, một thời gian truân! Đi giữa giang sơn gấm vóc, xin chớ vô tâm quên tổ tiên ngàn đời. Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần Nguồn: NXB Giáo dục
  21. Somenhanbai: Chú quí bé, chứ sao lại ghét bé được. Đừng buồn vì mình không làm ra cái gì . Bé học cho chăm chỉ là làm ra cái gì rồi đấy! Bé không thấy các bậc cha mẹ - trong điều kiện có tiền - vẫn thường khoe con tôi nó kỹ sư, tiến sĩ, nó giỏi thế này , nó giỏi thế kia. Bởi vậy, chỉ cần bé học giỏi là làm ra rất nhiều. Chúc bé vạn sự an lành và thành đạt trong cuộc đời. Thiên Sứ
  22. Thứ tư, 9/7/2008, 15:25 GMT+7 Nguồn VnExpress Công trình khổng lồ dưới lòng đất Sài Gòn Ít ai biết sâu 17-20m dưới lòng đất Sài Gòn có một công trình khổng lồ thi công cả ngày lẫn đêm. Đó là dự án vệ sinh môi trường kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè với các cống thoát nước lớn đến nỗi xe ôtô có thể qua dễ dàng, những mũi khoan đồ sộ đặt 59 giếng khổng lồ dọc bờ kênh. > Robot trị giá 1 triệu USD kẹt dưới sông Sài Gòn Dưới lòng đất kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè yên ắng là công trình Vệ sinh môi trường khổng lồ đang thi công. Đây là dự án được kỳ vọng sẽ giải quyết tình trạng ngập nước cho TP HCM và cải tạo môi trường. 59 giếng tách dòng, mỗi giếng đường kính lên tới gần 10m, đã được đào dọc bờ kênh dài hơn 10 km. Từ dưới đáy giếng nhìn lên cao phải tới gần 20m. Hệ thống cống ngầm thu nhận nước thải rộng kỷ lục đến 3m, xe ô tô có thể chui lọt. Để có thể đào lắp đặt những cống này, đơn vị thi công sử dụng các mũi khoan xuyên thẳng lòng đất. Những mũi khoan đồ sộ. Toàn bộ dự án hiện có 4 rô bôt trị giá 1 triệu USD mỗi con dùng để kích ngầm. Mỗi robot này dài 10m và nặng vài chục tấn. Mới đây 2 con đã bị kẹt dưới lòng đất, chủ đầu tư phải bỏ mất một vì không giải cứu được. Kiên Cường
  23. Banmai: Chú viết nhầm: Chính xác là: Sang năm lấy chồng. Chậm là đầu 2010 (Chú viết là 2009. Híc! Già rùi lẩm cẩm) Thiên Sứ
  24. Thiên Hỷ: * Năm nay chắc chắn có thay đổi công việc. Tốt. * Năm nay cũng gặp tình duyên luôn. Sang năm cưới. Nên cưới vì năm Dần có tang. Số này nên ráng học cao làm công chức sẽ có nhiều tài lộc. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  25. Suy ngẫm chuyện đời thấy cũng buồn cười! Ngày trước Trần Quốc Vương đẻ ra một thuật ngữ "Văn hóa Ẩm thực" thế là ầm ĩ cả lên. Hình như có cả một câu lạc bộ hay hội "Văn hóa Ẩm thực" do ông Vương cầm đầu. Sau khi ông Vượng lâm chung thì cái tổ chức này nghe đâu cũng không tồn tại. Bây giờ anh Trần Phương lại sáng kiến ra "Văn hóa chửi" một cách hợp lý với tiêu chí của Trần Quốc Vượng. Đúng quá! Nếu không thế sao Nguyễn Công Hoan lại đưa vào sách văn học hẳn hoi. Theo tôi nghĩ còn có nền văn hóa "Ca - bi - nê" nữa đấy. Tập hợp được những giá trị văn hóa "Ca bi nê" bắt đầu từ "Đổi thùng" sang "Hố xí hai ngăn", "cầu tõm" rồi WC, toalet ..."Sướng nhất quận công"......là nền tảng căn bản của văn hóa "Ca bi nê"...Híc! Sau này còn có thể có "Văn hóa hôi nách" mà bắt đầu từ băng phiến, phèn chua xát nách...cho đến các loại dụng cụ xát nách cao cấp ngoại nhập từ Hàn quốc, Nhật Bản. Tôi nghĩ nền "văn hóa hôi nách" là rất cần thiết trong giao tiếp ứng xử. Nói tóm lại, khi những trào lưu văn hóa kiểu này nở rộ thì phải tôn vinh ông Trần Quốc Vượng làm tiên sư. Bởi ông là người đầu tiên sáng tạo ra một thuật ngữ mà trong đó giá trị văn hóa với tên gọi của nó được đính kèm với một trạng từ. Giáo sư Trần Văn Khê mặc dù đi đâu cũng tôn vinh nghệ thuật và tính minh triết trong bữa ăn của người Việt Nam cũng chưa được coi là tiên sư của các trào lưu văn hóa thời thượng. Bởi ông Trần Văn Khê không sáng tạo được thuật ngữ hoành tráng là "Văn hóa ẩm thực". Thật ra thì ông Trần Quốc Vương được tôn vinh là tiên sư của văn hóa chửi tôi nghĩ cũng xứng đáng! Chính ông là một trong số những nhà khoa học hàng đầu trong "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" có quan điểm cho rằng: "Thời Hùng Vương là một liên minh gồm 15 bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố". Chưa hết! Cũng ông Trần Quốc Vương thay vì chửi tục "Đ....mẹ" thì ông viết bài trên BBC có nội dung bình phẩm phụ nữ Việt thời Tàu lấy Tàu, thời Tây lấy Tây, rồi Đài Loan, Hàn Quốc... hàm ý dân Việt lai căng cả. Bài này của ông bị cụ Lê Gia cho một trận cũng rất văn hóa trên báo - một phạm trù văn hóa - hẳn hoi :" Xin hỏi ông lai giống gì?" Thiên Sứ