Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Trung Quốc khai thác Olympic như thế nào? Nguồn: Vietnamnet.net 09:18' 06/08/2008 (GMT+7) Từ những công trình xây dựng mới hoành tráng để thu hút tâm điểm thế giới, Olympic đang thực sự tác động lâu dài với Trung Quốc. Trung Quốc được gì khi tổ chức Olympic? Những "cô gái huy chương" tập đi đứng, tập có nụ cười "hở tám chiếc răng" (Ảnh: China Daily) Từ các nhà lãnh đạo tới hầu hết người dân đều cho rằng, việc Uỷ ban Olympic quốc tế tuyên bố Bắc Kinh sẽ tổ chức Thế vận hội năm 2008 đã đánh dấu sự nổi lên của Trung Quốc như một quốc gia đóng vai trò lớn trên phạm vi toàn cầu. Olympic Tokyo 1964 và Olympic Seoul 1988 đã góp phần đưa Nhật Bản, Hàn Quốc lên vũ đài quốc tế, và Olympic Bắc Kinh được chờ đợi sẽ minh chứng cho thế giới câu chuyện thành công về phát triển kinh tế cũng như sức mạnh chính trị của Trung Quốc. Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo từng tuyên bố, Olympic Bắc Kinh là cơ hội để Trung Quốc thể hiện với thế giới sự "dân chủ, cởi mở, lịch thiệp, thân thiện và hòa hợp". Olympic 2008 sẽ là một trong những sự kiện "đắt đỏ" nhất từ trước tới nay được tổ chức với 16 ngày thi tài ở 37 đấu trường. Ngoài Bắc Kinh, còn có 6 thành phố khác tham gia tổ chức Thế vận hội gồm: Hong Kong; Thanh Đảo (Sơn Đông); Tần Hoàng Đảo (Hà Bắc); Thượng Hải, Thẩm Dương (Liêu Ninh) và Thiên Tân. Để chuẩn bị cho Olympic, Trung Quốc đã đầu tư gần 40 tỉ USD riêng trong cơ sở hạ tầng từ 2002 - 2006, thay đổi diện mạo thành phố Bắc Kinh, đầu tư vào các vận động viên ngôi sao với hy vọng giành nhiều vị trí quán quân. Đầu tư thể thao Sau khi giành được quyền tổ chức Olympic 2008, Trung Quốc bắt đầu nỗ lực lớn trong bảy năm để đáp ứng các yêu cầu của Uỷ ban Olympic quốc tế cho Thế vận hội. Nhìn vào các Olympic trước đó, đặc biệt tại Sydney và Atlanta games, Uỷ ban Olympic Bắc Kinh bắt đầu công cuộc đổ tiền đổ của vào hàng loạt dự án xây dựng sân vận động, nhà thi đấu... Trung Quốc với sự hỗ trợ lớn của kiến trúc sư nước ngoài đã xây dựng Công viên Olympic cùng 37 sân vận động và điểm thi đấu. Trong đó có 32 dự án tại Bắc Kinh gồm 19 công trình mới và 13 công trình nâng cấp. Những cơ sở còn lại thuộc năm thành phố khác gồm: Một trung tâm đua thuyền tại Thanh Đảo, các sân vận động ở Thiên Tân, Tần Hoàng Đảo, Thẩm Dương và Thượng Hải. Trung Quốc còn xây dựng 59 trung tâm huấn luyện và các dự án cơ sở hạ tầng cho Paralympic Games, sẽ diễn ra ở Bắc Kinh vào tháng 9/2008 tiếp sau Olympic. Những công trình lớn tại Bắc Kinh như Sân vận động quốc gia (còn gọi là sân vận động Tổ chim) và Trung tâm biểu diễn Nghệ thuật quốc gia (thiết kế như hình quả trứng nổi trên mặt nước) đều sẵn sàng sử dụng lâu dài khi Olympic kết thúc. Giao thông và cơ sở hạ tầng Thống kê cho thấy, từ 2002 tới thời điểm trước khai mạc Olympic, Bắc Kinh sẽ chi khoảng 1,1 tỉ USD để nâng cấp hệ thống giao thông, như xây dựng và mở rộng hệ thống tàu điện ngầm thành phố, xây dựng và nâng cấp hơn 318km đường phố bao gồm 23 tuyến đường trong và xung quanh các địa điểm Olympic, hai tuyến đường vành đai mới, hệ thống kiểm soát giao thông công nghệ cao, một nhà đón khách mới ở Sân bay quốc tế Bắc Kinh, mở rộng đường dẫn đến sân bay... Từ 2006-2010, Bắc Kinh dự kiến chi hơn 200 triệu USD vào việc phá hủy các tòa nhà, công trình xây dựng cũ nát, nâng cấp 25 di tích lịch sử, khu nhà cổ, các danh thắng, trong đó có cả Tử Cấm Thành. Bắc Kinh cũng đã chi 3,6 tỉ USD để "hóa thân" thành một "thành phố số" năm 2008 với việc sử dụng rộng rãi thiết bị số, viễn thông băng thông rộng, công nghệ không dây, và "công nghệ thông minh". Bảy năm chuẩn bị cho một thế vận hội (Ảnh Reuters) Đầu tư môi trường Mặc dù Bắc Kinh đã nỗ lực cải thiện chất lượng không khí, như yêu cầu các nhà máy nhiệt điện giảm bớt lượng khí thải, các công trình xây dựng ngừng hoạt động trong kỳ Olympic, chuyển hơn 200 nhà máy gây ô nhiễm nặng ra khỏi thành phố... nhưng chất lượng không khí vẫn là một lo lắng lớn với các vận động viên tham dự Olympic. Trung Quốc đã thực hiện 20 dự án để cải thiện chất lượng môi trường của Bắc Kinh với tổng mức đầu tư là 12,2 tỉ USD. Thành phố đã xây dựng các nhà máy xử lý nước thải mới, chế biến rác thải rắn, lập vành đai xanh, xây dựng đội xe buýt sạch phục vụ Thế vận hội; thay thế 47.000 taxi cũ và 7.000 xe buýt động cơ diesel, bắt đầu yêu cầu xe cộ phải đáp ứng chuẩn khí thải châu Âu... Phát triển kinh tế Cục Thống kê Bắc Kinh cho hay, chi tiêu xung quanh Olympic đã góp thêm 2,5% tăng trưởng kinh tế thường niên của thành phố từ năm 2002. Rất nhiều công ty muốn tận dụng lợi thế Olympic đã khiến ngành quảng cáo bội thu. Số tiền chi cho quảng cáo tại Trung Quốc (với 42,5% tập trung vào truyền hình) đã tăng từ 14,7 tỉ USD năm 2007 lên 18,4 tỉ USD năm nay, quảng cáo trên Internet tăng 30%. Công nghiệp thể thao Trung Quốc cũng tăng nhanh chóng. Bắt nguồn từ những sự kiện thể thao lớn tổ chức tại Trung Quốc như Olympic Bắc Kinh 2008, Cúp bóng đá nữ thế giới 2007, Asia Games Quảng Châu 2010, công nghiệp thể thao Trung Quốc có thể tăng trưởng 20%/năm đặc biệt tại Bắc Kinh, Quảng Đông, Liêu Ninh và Chiết Giang. Chủ nghĩa dân tộc Theo Michael Davis, một giáo sư tại Đại học Trung Quốc ở Hong Kong, lợi ích lớn nhất từ Olympic Bắc Kinh mà Trung Quốc muốn khai thác là gắn liền sự kiện này với chủ nghĩa dân tộc. Với mức chi phí hàng chục tỉ USD (hơn 40 tỉ USD, so với số tiền đầu tư 16 tỉ USD cho Olympic Athens bốn năm trước), Trung Quốc hy vọng gì từ Olympic? Richard Baum, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc tại Đại học California, Los Angeles nói, Olympic được coi là dịp thể hiện phép màu kinh tế Trung Quốc. Với chính phủ Trung Quốc, Olympic còn là dịp để thực hiện "giấc mơ 100 năm", theo lời Susan Brownell, một nhà nhân loại học tại Đại học Missouri, St Louis, cho biết. "Đó chính là mơ ước in rõ dấu ấn Trung Quốc khi tổ chức Thế vận hội, manh nha từ năm 1908. Ý tưởng tổ chức Olympic luôn gắn liền với hình ảnh một quốc gia hùng cường, thịnh vượng, để được đối xử công bằng như các quốc gia khác", Brownell - tác giả cuốn sách "Bắc Kinh Games: Olympic có ý nghĩa thế nào với Trung Quốc" xuất bản đầu năm nay - nhấn mạnh. Tuy nhiên, theo bà Brownell, tâm điểm chú ý của Chính phủ Trung Quốc là nội địa hơn là tạo lập hình ảnh quốc tế. Đó là mục tiêu dùng Olympic để "quốc tế hóa" người Trung Quốc và tạo ra một thế hệ người Trung Quốc có đủ tư cách, phẩm chất thành những công dân toàn cầu. Từ năm ngoái, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện một chương trình giáo dục Olympic rộng khắp trong suốt hệ thống trường học. Những bài học mới về Olympic được đưa vào chương trình giảng dạy, dạy các học sinh về lịch sử Thế vận hội và khát vọng huy chương vàng của Trung Quốc. Và, tất cả không phải là màu hồng Năm 2008 là một năm khó khăn với Trung Quốc tính đến thời điểm này, tổ chức một Olympic hoành tráng lại càng tăng thêm áp lực. Một mùa đông khắc nghiệt với bão tuyết kéo dài, đã thể hiện tình trạng suy yếu về cơ sở hạ tầng của Trung Quốc, đặc biệt trong hệ thống mạng lưới đường dây cung cấp điện; Chặng đường rước đuốc không hoàn toàn là thuận lợi nhanh chóng; Cơn địa chấn hủy diệt tại Tứ Xuyên và một số tỉnh lân cận đã thu hút sự tập trung của Trung Quốc và thế giới, hơn là công cuộc chuẩn bị Thế vận hội. Chuyện ô nhiễm không khí, chất lượng thực phẩm cũng đã ảnh hưởng tới hình ảnh Olympic mà Bắc Kinh muốn tạo dựng. Nhiều người dân phải thay đổi chỗ ở, do dành đất để xây dựng các công trình Olympic hoặc đơn giản là để tạo diện mạo đẹp hơn cho thành phố. Nhiều người trong số này đã lên tiếng than phiền, vì sự xáo trộn, vì tiền đền bù không đủ. Những biện pháp an ninh, kiểm soát giao thông được áp dụng chặt chẽ cũng làm cho người dân gặp khó khăn. Những người không phải ở Bắc Kinh thì gặp nhiều trở ngại hơn trong việc xin cấp giấy phép cư trú, hành khách đi tàu điện ngầm buộc phải qua kiểm tra an ninh, xe ôtô bị hạn chế lưu thông để đảm bảo chất lượng không khí... Một người lái taxi cho hay, Olympic không có ý nghĩa gì với anh ta: "Tại sao tôi phải học tiếng Anh, tôi không có thời gian làm việc đó", anh than phiền. Trong một quán cà phê nhỏ ở Bắc Kinh, một ông chủ công ty tư nhân nhỏ cũng nói về các quy định an ninh mới mà Trung Quốc áp dụng trước Olympic. "Vài ngày, cảnh sát lại yêu cầu họp tổ họp xóm một lần. Họ yêu cầu chúng tôi đề cao cảnh giác phát hiện mọi hành vi trái phép, rồi sau đó là hàng loạt quy định mới được làm hay không được làm gì". Bảy năm chuẩn bị, các địa điểm thi đấu đã sẵn sàng, những tuyến tàu điện ngầm mới đi vào khai trương, các nhà máy ô nhiễm bị đóng cửa, những cô gái trao huy chương vừa hoàn tất khóa học tiếp đón với nụ cười "vừa đủ hở tám chiếc răng"... Trung Quốc đang chờ ngày khai mạc Olympic 8/8/2008. Kỳ Thư (tổng hợp)
  2. Gà 9 cựa sắp tuyệt chủng Bản Cỏi (Xuân Sơn, Tân Sơn, Phú Thọ) gồm 77 hộ người Dao, đang nắm giữ "báu vật" được cho là có từ thời vua Hùng: giống gà 9 cựa. Tuy nhiên, giống gà này đang ngày một vắng bóng. > Người dân hiếu kỳ với gà nhiều cựa Trưởng bản Cỏi, ông Đặng Vĩnh Phúc, khẳng định nếu không có giống gà nhiều cựa, chẳng ai biết đến bản Cỏi nghèo khó. Giống gà này của người Dao, có từ xa xưa, khi ông lớn lên đã thấy. "Trước đây, nhà nào cũng nuôi, ít thì chục con, nhiều vài ba chục. Nhưng hình như tôi thấy chỉ có 6-8 cựa thôi, hiếm khi thấy gà 9 cựa lắm", ông Phúc kể. Nhiều người dân cho biết gà 9 cựa thường thì vài năm mới thấy xuất hiện một con. Giống này lạ lắm, muốn nhân rộng ra để nuôi nhiều hơn cũng không được, nhưng chúng cũng chẳng tự nhiên mất đi, tồn tại bao đời nay rồi. "Chỉ gà bố mẹ nhiều cựa thì mới sinh ra gà con nhiều cựa. Nhiều người dưới xuôi lên xin giống mang đi nơi khác, nhưng hoặc là gà chóng chết, hoặc là đẻ trứng ra, cho ấp nở thì gà con chẳng thấy có nhiều cựa", một người dân kể. Gà nhiều cựa ở bản Cỏi. Ảnh: Công an Nhân dân. Trưởng bản Phúc bảo năm nay gà nhiều cựa hiếm rồi, bởi chúng đồng loạt lăn ra chết vào tháng 7 năm ngoái. Có người tiếc của đem chọn mấy con to làm thịt, còn thì vứt hết ngoài bìa rừng. Hết dịch, ông Phúc đi kiểm tra thì cả bản Cỏi chỉ còn chưa tới 50 con nhiều cựa. Cách đây vài tháng, đám gà còn lại lăn ra chết. Hiện số gà nhiều cựa trong bản Cỏi chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Trước đó, các cán bộ của Vườn quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ) từng vào bản mua gà nhiều cựa về nuôi. Ông Trần Đăng Lâu, Giám đốc Vườn cho biết, chưa nghiên cứu tường tận được tại sao giống gà 9 cựa lại có nhiều ở bản Cỏi, mà không thấy xuất hiện ở các vùng khác. "Đây là sự ngẫu nhiên hay có những bí ẩn nào khác mà chúng ta chưa biết? Có thể bản Cỏi nằm liền kề với một khu rừng nứa thuộc họ cỏ, là nguồn thức ăn lý tưởng cho gà 9 cựa mà không phải nơi nào cũng có. Bên cạnh đó, nguồn nước ở Bản Cỏi từ trong núi đá vôi hàm lượng canxi lớn chảy ra, rất sạch, phải chăng tạo nên những sự đột biến về xương (cựa gà) đó?", ông Lâu nghi vấn. Ông Lâu cho biết thêm cách đây chừng 10 năm, khi phát hiện ra giống gà nhiều cựa, Vườn đã nghĩ ngay đến truyền thuyết "Hùng Vương thứ 18 kén rể", nên cũng để tâm nghiên cứu. Nhưng nay nhiều người từ xa tìm đến tận bản Cỏi tìm mua gà nhiều cựa, họ trả giá cao, thậm chí là tiền triệu để mua bằng được, nên gà cứ thưa thớt dần đi. "Cộng với dịch bệnh, nguy cơ mất đi giống gà quý này là rất cao. Chúng tôi đã bí mật sưu tầm được một số cá thể gà nhiều cựa, tìm cách bảo tồn để nhân giống và thử nghiệm nuôi ở một vùng sinh thái khác...", Giám đốc Vườn nói. (Theo Công an Nhân dân) LỜI BÀN CỦA THIÊN SỨ Hiện nay, trong nghiên cứu lịch sử có một xu hướng - tôi tạm gọi là - "Hiện thực hóa truyền thuyết". Đây là một phương pháp nghiên cứu rất sai lầm, nó dẫn đến phá hoại, xuyên tạc và tầm thường hóa truyền thuyết lịch sử văn hóa của dân tộc. Tôi thí dụ điển hình như truyện Thạch Sanh, được hiện thực hóa bằng một cái động ở Hà Tiên gọi là Thạch Động, rồi tìm thấy mảnh gốm vỡ thì giải thích là đồ dùng của Thạch Sanh, gọi sự đa dang của thạch nhũ , nào là: Hình phật bà, Tôn Ngộ không, công chúa được kéo lên...vv Khiến cho trí tuệ ấu thơ cảm giác câu chuyện có thật và tất nhiên tiếp theo đó - hoặc là thừa nhận đàn thần, nồi cơm thần, trăn tinh, đại bàng tinh có thật...vv....Hoặc phủ nhận ngay chính một truyền thuyết dân gian nổi tiếng của người Việt vì tính phi lý với hiện thực do các nhà gọi là "nghiên cứu" tạo ra. Vấn đề gà chín cựa dù có thật thì điều này không có nghĩa là nó liên hệ chặt chẽ với nội dung truyền thuyết Sơn tinh - Thủy tinh mà ông cha ta đã gửi gấm một nội dung khác (Xin xem "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Trang chủ- lyhocdongphuong.org.vn). Bởi vì nếu gà chín cựa có thật và liên hệ hữu cơ với truyền thuyết Sơn Tinh _ Thủy Tinh thì tất yếu sẽ không thể tìm thấy voi chín ngà, ngựa chín hồng mao. Như vậy - hoặc là truyền thuyết là phi lý vì không có những giá trị hiện thực tương đương kèm theo (Voi chín ngà, gà chín cụa, phép thuật của hai vị thần....vv...) - và như vậy sẽ dẫn đến phủ nhận truyền thuyết. Hay với một cách nhìn khác về chuyện này là người ta gắn liền truyện Sơn Tinh _Thủy tinh với việc trị thủy trên sông Hồng - tức là hiện thực lũ lụt. Nhưng nếu chỉ như vậy thì không cần phải có voi chín ngà , gà chín cựa...vv....mà chỉ cần thì chạy 100m đủ để phân thắng thua. Bởi vậy, tôi hy vọng những nhà nghiên cứu nghiêm túc nên cảnh giác với phương pháp hiện thực hóa truyền thuyết.
  3. Đoạn trên đây là một sai lầm nghiêm trong nhất về mặt nguyên tắc phương pháp luận lịch sử khoa học của tác giả Lê Văn Hảo. Quan niệm "Nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở đồng bằng Bắc Bộ" chính là tiền đề của quan điểm phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt. Bởi vậy, mặc dù sự thông thái của tác giả Lê Văn Hảo, nhưng ông ta vẫn mắc sai lầm rất nghiêm trọng. Với cái nhìn này thì không giải thích được điều gì trong lịch sử. Đó cũng mới chỉ là một yếu tố cần trong một luận điểm khoa học.
  4. KIỂM CHỨNG LỜI TIÊN TRI 2008 Hôm nay, đảng cầm quyền Nhật chọn Thủ tướng10:31' 23/09/2007 (GMT+7) Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền ở Nhật hôm nay (23/9) bầu chọn lãnh đạo mới, người sẽ trở thành Thủ tướng. Ông Yasuo Fukuda được dự đoán sẽ giành thắng lợi. Hai ứng viên trong cuộc bầu chọn hôm nay, Fukuda (trái), Taro Aso (phải) Một năm nắm quyền của Thủ tướng Shinzo Abe là thảm họa đối với đảng cầm quyền. Những bê bối liên tiếp làm các cử tri mất niềm tin với chính phủ và đảng đối lập giành chiến thắng trong bầu cử Thượng viện trong khi các vấn đề về kinh tế và xã hội trở nên tồi tệ. Với hy vọng lấy lại vận may, đảng Dân chủ Tự do (LDP) được mong đợi sẽ chọn chính trị gia lão thành theo đường lối ôn hòa Yasuo Fukuda làm lãnh đạo mới trong cuộc bầu chọn hôm nay. Người thắng cuộc trong cuộc bỏ phiếu hôm nay sẽ được chọn làm Thủ tướng sau hai ngày nữa. Ông Fukuda, 71 tuổi, con trai của Thủ tướng Nhật những năm 1970. Chính trị gia này được coi như người trừ tà cho các vấn đề mà Thủ tướng Abe gặp phải. Ông Fukuda cam kết sẽ giữ trật tự trong đảng cầm quyền, khẳng định Nhật sẽ tiếp tục cuộc chiến chống khủng bố, giải quyết các vấn đề bất bình đẳng ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Ông Fukuda làm Chánh văn phòng nội các từ 2000 đến 2004, hiện là người được đa phần thành viên trong LDP ủng hộ. Theo kết quả sớm từ các chi nhánh của LDP, ông Fukuda nhận được 60% phiếu ủng hộ. Tuy nhiên, cuộc bỏ phiếu quyết định chính thức diễn ra vào cuối ngày. Ứng viên lãnh đạo LDP Fukuda phải có được đa số trong tổng số 528 lá phiếu được bỏ. Trong ngày vận động tranh cử cuối cùng diễn ra vào hôm qua (22/9), ông Fukuda nói sẽ cố gắng thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các khu vực nghèo khó ở nông thôn với những đô thị giàu có. Trong khi đó, đối thủ của ông, cựu Ngoại trưởng Taro Aso thừa nhận đang tụt phía sau ông Fukuda một khoảng cách khá xa. Các phe phái chính trong LDP đã tỏ rõ sự ủng hộ đối với ông Fukuda sau khi Thủ tướng Abe tuyên bố từ chức ngày 12/9. Ông Fukuda được kỳ vọng sẽ đem lại ổn định sau một năm nắm quyền được đánh dấu bằng những bê bối và thất bại trong bầu cử của Thủ tướng Abe. Hôm qua, ông Abe đã trao lá phiếu trắng cho quan chức phụ trách bầu cử của đảng LDP Hideo Usui từ căn phòng trong bệnh viên. Đảng LDP, hiện vẫn nắm đa số trong Hạ viện, đang cố gắng ổn định chính phủ và giành lại sự tín nhiệm của dân chúng. Hoài Linh (Theo AP, BBC, AFP) Thiên Sứ Đây là chính phủ thứ hai bị thay đổi.
  5. Về những "sát thủ" ở một thành phố hòa bình 03:07' 15/07/2008 (GMT+7) - Chuyện về cái chết của những con sẻ nâu trong thành phố của chúng ta là chuyện nhỏ phải không? Chuyện về việc một tiến sĩ và những sinh viên xâu xé những bông hoa anh đào (Nhật Bản) trong triển lãm Giảng Võ mùa xuân vừa rồi còn nhỏ hơn… Nhưng… những chuyện rất nhỏ ấy chính là những chấm hoại tử không nhỏ trong cơ thể văn hóa của một đất nước, một thủ đô được gọi là thành phố hòa bình. Cái tít bài tôi đặt như là tên một bộ phim hành động của Hollywood. Nhưng nếu tôi đặt một cái tên bằng một cụm từ mỹ miều hay to tát nào đó thì có lẽ rất nhiều bạn đọc sẽ bỏ qua những điều tôi sẽ viết dưới đây. Những điều tôi sắp viết có thể trong mắt nhiều người là những điều vụn vặt không đáng nói. Có thể một nhà quản lý nào đó của thành phố này sẽ bực dọc: “Chúng tôi đang bận bao việc to lớn mà lại mang cái việc bé bằng hạt tấm ra mà nói”. Thành phố này là thành phố nào? - Đó là thủ đô Hà Nội yêu dấu của chúng ta. Cái việc bé bằng hạt tấm là việc gì? - Đó là việc liên quan tới những con sẻ nâu bé bỏng. Và tôi muốn nói về cái chết của những con sẻ nâu ấy. Thành phố hoà bình. Ảnh: nettra.vn Cách đây vài năm, tôi nhớ là như thế, Hà Nội được gọi là thành phố hoà bình. Nhưng trong thành phố hoà bình ấy, tôi đã từng chứng kiến những công dân của thành phố vác súng hơi săn tìm những con sẻ nâu trở về làm tổ trong những mái nhà và bay lượn trong những vòm cây. Vào mùa hạ, bầy sẻ nâu như đông hơn. Đó cũng là mùa sinh nở của chúng. Có những người đàn ông mặc soọc trắng, áo pull hàng hiệu, đi giày thể thao Adidas, tay lăm lăm khẩu súng hơi 12 ký, săm soi tìm những con sẻ nâu và những con chim khác để tiêu diệt. Tôi đã thấy những người đàn ông khoác súng hơi, đi xe máy Dylan hoặc SH và một dây những chú sẻ nâu bị bắn chết treo ở xe. Trên đường về nhà sau chuyến đi săn, họ ghé vào một quán bia hay cà phê như để tự thưởng cho chiến công của họ. Những người trong quán nhìn thấy dây chim sẻ nâu dài thì ồ lên vẻ thán phục. Hình như không có ai cảm thấy day dứt về những con chim bị đạn chì bắn vỡ ngực. Những người tìm giết những con chim bé bỏng ấy không phải là những kẻ đói khát. Việc bắn vỡ ngực những con sẻ nâu là thú tiêu khiển của họ. Họ mệt mỏi khi đọc một cuốn sách, khi xem một bức tranh, khi nghe một bản nhạc, khi chăm sóc một cái cây… nhưng bắn giết những con chim vẫn sáng sáng hót vang trong những vòm cây thành phố lại là niềm hứng khởi của họ. Đó là một niềm hứng khởi ma quỷ. Ảnh - tưlieu.bachkim.vn Những “sát thủ” vô cảm của bầy sẻ nâu kia là ai? Đương nhiên, họ không phải là những người nghèo. Vì nghèo thì làm gì có tiền mua súng. Người sở hữu những khẩu súng hơi nhãn hiệu của Đức chỉ thuộc hai loại: người giàu có và những công chức khá giả. Nghĩa là, hầu hết họ thuộc những người có học hành chứ không phải những người ít được giáo dục. Lúc này, tôi nhớ là hình như trong sách giáo khoa phổ thông không có những bài học về cái thế giới kỳ diệu của côn trùng và chim muông. Và bao nhiêu năm nay, trên nhiều kênh truyền hình, người ta quảng cáo về các game thủ chứ đâu có ai nói về những con chim đang chết dần chết mòn trong những vòm cây thành phố. Đã nhiều lần tôi (và cả chúng ta) chứng kiến trên hè đường ở ngay cạnh Hồ Gươm một cảnh tượng hãi hùng. Một người ngồi bán những con sẻ nâu còn sống. Những con sẻ nâu bị vặt trụi lông đứng run rẩy bên nhau như những đứa trẻ con bị lột truồng trong gió rét. Trong khi đó, người bán hàng điềm nhiên lôi những con sẻ nâu khác từ trong lồng ra và tiếp tục vặt lông. Nhưng cảnh tượng ấy hình như không gây nên bất cứ cảm giác gì với những người đi đường. Và rồi, một người béo tốt nào đó, ăn mặc sang trọng dừng lại mua những con sẻ nâu đã vặt trụi lông đang rúc vào nhau và tươi tỉnh xách đi. Họ đang nghĩ về một bữa tối có bia lạnh hay rượu vang đỏ nhấm nháp với những con sẻ nâu bị vặt trụi lông vũ như những đứa trẻ cởi truồng được chiên vàng. Những chú chim để... chiên bơ? - Ảnh: vietbao.com Không ít nhà hàng ở Thủ đô Hà Nội, các nữ tiếp viên xinh đẹp nồng nhiệt giới thiệu với khách món đặc sản của họ: Chim sẻ chiên bơ. Và không chỉ mình tôi mà rất nhiều người trong chúng ta đã chứng kiến những vị khách đeo caravat nhai rau ráu những con sẻ nâu chiên vàng làm mỡ tứa ra hai bên mép. Tôi không nói thì mọi người đều biết những vị khách ẩm thực kia thuộc loại người nào trong xã hội. Tuy nhiên tôi vẫn phải nói: họ là những người có tiền và có vị trí trong xã hội. Chính thế mà tôi mới cảm thấy rùng mình về một cái gì đó thuộc về văn hoá trong đời sống của chúng ta. Nếu những người ăn những con sẻ nâu kia là những người ăn mày thì chúng ta có thể tha thứ. Những con sẻ nâu bị đạn chì bắn vỡ ngực hay bị vặt trụi lông vũ, khi còn sống chưa bao giờ trở thành đề tài của chúng ta. Có lẽ người ta nghĩ những con sẻ nâu quá vớ vẩn và chẳng có một chút ý nghĩa gì trong sự phát triển một một đô thị hiện đại. Rằng họ phải lo những điều lớn lao. Nhưng họ đã sai lầm - một sai lầm có thể nói là hệ trọng. Việc hành xử với những con sẻ nâu bé bỏng kia đã để lại một lỗ thủng không nhỏ trong tâm hồn con người và trong đời sống văn hoá của chúng ta. Sự bắn giết và ăn thịt những con sẻ nâu chỉ là một ví dụ trong muôn vàn ví dụ khác. Và cái lỗ thủng tâm hồn ấy cũng chỉ là một trong muôn vàn lỗ thủng tâm hồn khác của các công dân trong một thành phố vốn chứa đựng một nền văn hóa lâu đời. Toà tháp đôi khổng lồ đến nhường kia mà sau khi bị sụp đổ, người ta đã đang bắt đầu xây dựng những toà nhà khổng lồ hơn thế. Chỉ vài ba năm nữa, chúng ta sẽ được chứng kiến sự xuất hiện của những toà nhà khổng lồ ấy. Nhưng một lỗ thủng lớn trong tâm hồn con người sẽ mất bao lâu thời gian để hàn gắn lại? Chúng ta đang mắc rất nhiều sai lầm trong chiến lược về con người. Và mỗi ngày, chúng ta đã được chứng kiến hậu quả của những sai lầm ấy. Nhiều lúc, chúng ta không tìm được cách lý giải vì đâu mà con người hôm nay trở nên hiếu sát, cay nghiệt và vô cảm hơn hôm qua. Xâu xé những bông hoa anh đào Nhật Bản. - Ảnh: VNN Chúng ta thấy sự cay nghiệt và vô cảm ngay trong chính ngôi nhà của mình. Bạn phải thừa nhận với tôi điều ấy và xin đừng ngụy biện. Nhưng tôi tin rất nhiều người đồng ý với tôi về sự thật này. Nếu con người biết yêu một con chim thì sẽ biết yêu một con người. Đấy là một chân lý đơn giản mà ai cũng biết dù bây giờ quá ít người muốn nghe. Chuyện về cái chết của những con sẻ nâu trong thành phố của chúng ta là chuyện nhỏ phải không? Chuyện về việc một tiến sỹ và những sinh viên xâu xé những bông hoa anh đào (Nhật Bản) trong triển lãm Giảng Võ mùa xuân vừa rồi còn nhỏ hơn. Chuyện các công dân thành phố này vứt những con chuột chết ra đường còn nhỏ hơn nữa. Chuyện một người trẻ không chịu nhường chỗ cho một người già trên những chuyến xe buýt thành phố lại còn nhỏ hơn nhiều… Và nhiều người trong chúng ta chẳng hề cảm thấy những việc trên có ảnh hưởng gì đối với họ hay đối với công cuộc hiện đại hóa thành phố. Nhưng họ không biết rằng, những chuyện rất nhỏ ấy chính là những chấm hoại tử không nhỏ trong cơ thể văn hoá của một đất nước, một thủ đô được gọi là thành phố hòa bình. Nguyễn Quang Thiều Lời bàn của Thiên SứTôi hay nghe bài hát: "Người thợ săn và đàn chim nhỏ" do ca sĩ Khánh Ly hát và tôi rất xúc động trước cái chết của những con chim trong miêu tả của bài hát. Nhớ hồi còn nhỏ, tôi nuôi hai con chim vành khuyên cũng rất lâu. Sau vài tuần, chơi chán tôi thả hai con chim ra. Chúng bay lên cái khung cửa sắt phía trong nhà tôi. Hai con chim cọ mỏ vào nhau rất âu yếm, một lúc sau cùng bay qua ô gió phía trên và bay đi. Sau này khi đứng tuổi, tôi nhiều lần nhìn thấy ánh mắt thất thần của những con chim phóng sinh bị nhốt trong lồng. Chúng kêu la thảm thiết. Chúng sống với nhau rất có tình như con người chúng ta. Có thể nói rằng chúng ta đau khổ thể náo thì những sinh vật cao cấp cũng đau khổ như thế đấy. Đây không phải lời khách sáo của tôi mà là chứng nghiệm bản thân. Khi một con chim mất bạn, chúng hót tiếng kêu ai oán. Chim trống mái về tổ không thấy con chúng kêu thất thanh thảm thiết, còn đàn chim con mất mẹ tiếng kêu sầu thảm bi ai. Để ý thì thấy rất rõ. Đức Phật nói:" Tất cả chúng sinh đều có Phật tính" và "chính cái bao tử của con người là mồ chôn hàng vạn sinh linh". Bởi vậy trong đạo Phật, ăn chay là một phương tiện giải trừ nghiệp chướng. Khoa học hiện đại nhận thấy giữa gen di truyền của con người và ruồi giấm chỉ khác nhau vài bộ gen. Lý học Đông phương quan niệm "Vạn vật đồng nhất thể" - Khí tụ thì thành hình, nhưng nguyên khí của trời đất thì chỉ có một bởi vậy chúng sinh đều đồng đẳng. Thời Hùng Vương, ông cha ta đã có những điều luật cứ như bây giờ thì có thể gọi là điều luật bảo vệ môi trường. Trong những điều luật đó cấm săn bắn, phá tổ những sinh vật trong mùa sinh nở (Khi nào tìm lại được những tư liệu này tôi xin đưa lên đây). Bởi vậy, tôi hay khuyên những thân chủ của mình thả chim làm phước. Đây không phải đơn thuần chỉ là một việc tâm linh mơ hồ. Mà chính khí bế tụ trong những con chim được giải thoát đồng cảm với tâm từ bi của người thả chim mang lại những tần số rung động phù hợp với những giá trị tốt đẹp sẽ tạo cho người có tâm thiện gặp những điều kiện thuận lợi hơn trong cuộc sống , môi trường của mình - Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu - theo lý học Đông phương. Có người lý luận rằng: "Chính vì cón người thả chim , nến mới có người bắt chim. Không ai thả chim thì sẽ chẳng có ai bắt chimn cả". Đây chỉ là một suy nghĩ đơn giản và hợp lý hình thức. Khi cuộc sống quanh ta đã xuất hiện những người sống bằng nghề bắt chim bán để ăn nhậu, thì chính tâm từ bi thả chim sẽ tác động đến tâm tính con người xung quanh ta và môi trường. Tôi đồng cảm với bài viết trên Vietnamnet. Nhưng làm thế nào bây giờ. Bài viết này trên một trang web không phải là phương tiền truyền thông hữu hiệu và càng không hữu hiệu với những kẻ bất cần đời. Chúng ta hy vọng và trông cậy vào một hệ thống giáo dục hoàn hảo.
  6. Đúng là anh Chí - lò gạch thật. "Nếu anh làm người lương thiện thì làng xóm được nhờ" (Lời Bá Kiến). Nhưng thôi! Thể theo lời của anh Chí, tôi sẽ xen kẽ kiến thức Âm trạch vào chương trình Phong Thủy Lạc Việt sau khi qua phần Hình - Lý - Khí. Phải giỏi hình lý khí mới xem Âm trạch được và lưu ý đây không phải chương trình chính của lớp học. Nhưng nhớ nhắc tôi vì hay quên. Tạm thời anh chị em nào đăng ký học lớp Phong Thủy hãy xem qua cuốn Bảo Ngọc Thư đi (Trên trang chủ diễn đàn). Ngoài ra tham khảo thêm các bài viết của cụ Tri Tri và các sách khác về Âm Trạch để có khái niệm trước về Âm Trạch đã.
  7. Theo tôi việc đầu tiên phải xem xét tổng thể địa thế Hanoi mới trong tương quan cảnh quan bên ngoài và thực tế đang tồn tại. Tập hợp những nhà Phong Thủy giỏi (Chứ không vớ vẩn như thiết kế Trung Tâm hội nghị quốc gia: Dương thịnh, Âm suy, tạp khí tùm lum trong kiến trúc, hình thể thì cứ như một trận lụt có một cái nóc nhà đổ nhô lên. Híc) - để đề xuất ý kiến về phong thủy có phân tích hẳn hoi. Sau đó mở cuộc hội thảo về Phong Thủy hanoi để xem xét các đề án Phong Thủy (Do các nhà Phong thủy tự đánh giá công trình của nhau). Sau đó mới phối hợp với kiến trúc sư quy hoạch tổng thể Hanội trên cơ sở Phong Thủy đã được lựa chọn. Còn chuyện đặt tên Hanoi hay Thăng Long thì bàn sau.
  8. 7 giờ ngày mùng 6 tháng 7 Mậu Tý . Giờ khe:Sinh Tốc Hỷ + Thương Xích khẩu. Về nước lúc đầu thì tốt nhưng sau thì vất vả. Cố gắng xem xét sao cho có cái Phong Thủy tốt có thể hóa giải. Chúc vạn sự an lành.
  9. Yêu nhau thì cứ lấy. Còn không thì thôi. Nếu yêu nhau và lấy thì nên sinh con Kỷ Sứu đầu. Con sau để chú nghĩ đã. Tiên quyết là yêu nhau mới lấy nha. Chứ trong thiên hạ bao nhiêu là nữ Giáp Tý quen Canh Thân thì chú chịu (Chưa bấm quẻ - cái này hỏi chị Laviedt - thần sầu trong dự báo hôn nhân).
  10. Chungdc thân mến.Chú chỉ xem qua giúp Chungdc được thôi. Chú bận lắm và không có cảm hứng xem Tử Vi nhiều vì suy nghĩ phân tích đau đầu lắm. Nhưng Chung dc có thể hỏi cái gì cụ thể chú có thể trả lời.
  11. Tôi đi công việc xa mới về nên trả lời chậm. Mong Hướng Dương thông cảm.Tạm thời tôi chưa nghĩ ra, nhưng với đứa Giáp Thân thì đã hóa giải rất nhiều những yếu tố xấu trong mối quan hệ vợ chồng: Giáp con sinh Bính cha. Khắc Canh mẹ (Với phụ nữ thì Thiên Can không quan trọng). Mạng mẹ Mộc sinh con Hỏa (Theo Lạc Thư hoa giáp) => sinh cha Thổ: Rất tốt. Theo tôi nghĩ vợ chồng hiện đang bình yên và khá giả. Tôi có ý niệm trong đầu về tuổi đứa con út của Hướng Dương, nhưng cũng đang lấn cấn. Hướng Dương link lá số Tử Vi Lạc Việt cho tôi xem qua được không? Nếu có cả hai vợ chồng và con thì càng tốt. Chúc vạn sự an lành.
  12. KIỂM CHỨNG LỜI TIÊN TRI CỦA JUSELINO Giới thiệu sơ lược về những lời tiên tri của Juselino: Ông đã viết: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...elino/t231.htmlThiên Sứ đã viết - Đại ý: Trừ Nhật Bản sẽ không có thiên tai lớn xảy ra trong năm nay. (Tôi viết ngay trong diễn đàn này, nhưng không nhớ nằm ờ topic nào). Tháng 7 dương lịch đã qua - (Tôi nghĩ ông Juselino dự báo bằng thời gian Dương lịch) - Tại Nhật Bản có xảy ra một trận động đất gây thiệt mạng ngót 10 người, nhưng không phải trận động đất lớn gây sóng thần cao 30m. Nếu coi Juselino là nhà tiên tri quốc tế - luôn luôn đúng thì riêng trường hợp này ông ta đã sai. Trong một số bài viết liên quan đến dự báo về thiên tai trong năm nay, Thiên Sứ tôi đã dự báo: trừ Nhật Bản và Đài Loan sẽ không chịu những thiên tai lớn trong phạm vị dự báo "Nhanh thì năm 2007 - chậm thì trong năm 2008 sẽ có một vùng lãnh thổ hoặc quốc gia bị hủy diệt vì thiên tai". Tuy nhiên, Thiên Sứ tôi có thể rút lại lời dự báo có tính hóa giải những dự báo xui xẻo cho Đài Loan và Nhật Bản trong năm nay; nếu như những nghiệp chướng của họ mà Thiên Sứ tôi cảm nhận được bởi những mối liên hệ liên quan. Thiên Sứ tôi cảnh báo rằng: "Những quốc gia, hoặc những thế lực nào có ý thức nhằm gây thiệt hại cho dân tộc Việt dưới bất cứ hình thức nào - kể cả dùng phong thủy - thì đây chính là nghiệp chướng của họ và họ sẽ phải lãnh chịu với một lãi xuất mà không một kẻ cho vay nặng lãi nào trong lịch sử nhân loại có thể mơ ước". Nhân đây tôi cũng xin nhắc lại sự hóa giải lời nguyền Tecumseh với tổng thống Bush: "Ngài tổng thống Bush sẽ bình yên và lời nguyền Tecumseh không hề gây ảnh hưởng tới Ngài". Đồng thời, trước lời tiên tri của Juselino về một trận khủng bố vào cuối năm nay ở Hoa Kỳ: "Vào ngày 17 tháng 12, tại Mỹ, sẽ có khủng bố xảy ra" Thiên Sứ tôi cũng dự báo rằng: Tất cả những âm mưu khủng bố nhằm vào Hoa Kỳ trong năm nay sẽ bị phá vỡ, tất cả thủ phạm sẽ bị bắt.
  13. Lactuong và nhất là Luke đoán giỏi. Tôi cũng vừa nhận được tin trên VietNamnet là chuyện tăng giá xăng chỉ là tin đồn thất thiệt. Chuẩn bị cuối năm tập tiên tri quốc tế nha. Tôi sẽ hướng dẫn.
  14. Không có chuyện tăng giá xăng18:33' 05/08/2008 (GMT+7) - Người tiêu dùng đang đổ xô ra mua xăng tại các cửa hàng bán lẻ xăng dầu, do nghe tin đồn giá bán lẻ xăng R0N 92 tăng lên 25.000 đồng/lít. Công điện khẩn của Bộ Công Thương phát đi chiều 5/8 nêu rõ như vậy. Tuy nhiên, cũng trong công điện khẩn này, Bộ Công Thương bác bỏ tin đồn thất thiệt về việc tăng giá xăng nói trên. Bộ cũng yêu cầu các cơ quan chức năng TP.HCM điều tra và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với những tổ chức, cá nhân phao tin đồn thất thiệt, gây bất ổn thị trường. Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú khẳng định hoàn toàn không có động thái nào về việc tăng giá trong thời điểm này. "Người dân nên bình tĩnh, không nên làm xáo động cuộc sống của mình trước những tin đồn không chính xác, cũng là tránh các hiện tượng lợi dụng xáo động tâm lý để trục lợi. Tăng giá xăng trên 20 ngàn là tin đồn thất thiệt"- ông Tú nói. Đến gần 7 giờ tối ngày 5/8, cây xăng tại Thanh Đa, quận Bình Thạnh, TP. HCM vẫn còn cảnh xếp hàng đổ xăng (ảnh: BV) Thông tin thêm với VietNamNet, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú cho biết, ngay khi có thông tin về tin đồn tăng giá xăng, lãnh đạo Bộ Công thương đã liên lạc với các cơ quan chức năng của TP.HCM chỉ đạo 4 việc: - Kiểm tra thông tin, công bố thông tin chính thức để trấn an tâm lý người tiêu dùng. - Lực lượng quản lý thị trường TP.HCM kiểm tra cây xăng đảm bảo không cây xăng nào tăng giá, đóng cửa hay ghim hàng. - Gửi công điện khẩn đến các cơ quan truyền thông đề nghị thông tin về tăng giá xăng chỉ là tin đồn thất thiệt. - Gửi công điện khẩn đến các công ty xăng dầu yêu cầu chuẩn bị hàng hóa phòng khi nhu cầu tăng đột biến, do người dân đổ xô đi mua xăng theo tin đồn. TIN LIÊN QUAN Tăng giá xăng dầu vì ngân sách hết chịu nổi Tăng giá xăng: Xe khách bình tĩnh, taxi bối rối Tăng giá xăng dầu là thông tin thất thiệt Tại TP.HCM, địa phương rộ lên tin đồn tăng giá xăng, chiều 5/8, ông Lê Xuân Đài, Chi cục phó Chi cục quản lý thị trường TP.HCM, cho biết từ đầu giờ chiều, khi nghe báo có tin đồn tăng giá xăng, Chi cục đã triển khai cho lực lượng quản lý thị trường đi kiểm tra. Tuy nhiên, không phát hiện cây xăng nào bán giá cao hay ghim hàng. Ông Đài cho biết, nếu người dân thấy cây xăng nào bán giá cao, có dấu hiệu bất thường, hoặc thấy ai đó tung tin thất thiệt về giá xăng... thì báo ngay cho Chi cục qua đường dây nóng 08-9325251 hoặc 08-9322491 để lực lượng quản lý thị trường xử lý ngay. Nhóm PV
  15. Tôi đã nhiều lần lưu ý trên các diễn đàn rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm. Xét về tiêu chí khoa học thì hoàn toàn có cơ sở để thừa nhận điều này. Nó thuộc về một nền văn minh cổ đã tồn tại trên Địa cầu và đã bị hủy diệt. Sự kiện tiên tri của bà Vanga khi chính bà chưa hề có nhận thức về thuyết Âm Dương Ngũ hành không phải là bằng chứng khoa học chứng minh cho tính khoa học của học thuyết này. Nhưng cũng không thể coi là ngẫu nhiên. Tuy nhiên tôi chủ quan cho rằng: Sự nghiên cứu dẫn đến thừa nhận thuyết Âm Dương Ngũ Hành không nhất thiết phải chờ đến - Theo cách nói của bà Vanga - "Xyri vẫn còn chưa sụp đổ". Trước đây, tôi đã tiên tri rằng: "Lời nguyền Tecumdo" không ảnh hưởng đến Tổng Thống Buhs. Nếu từ nay đến hết nhiệm kỳ - Sự hóa giải lời nguyền Tecumdo của tôi hiệu nghiệm - thì tôi hy vọng rằng: Sự trở lại của "một học thuyết thông thái và cổ nhất" sẽ luôn là những giá trị nhân bản và không hề gây sự đau buồn cho bất cứ một dân tộc nào.
  16. Sang năm thế giới tiếp tục khủng hoảng lớn hơn hay yên bình tùy thuộc vào giải pháp của các vị lãnh đạo thế giới cuối năm nay. Nhưng hy vọng sẽ bình yên: Khai Tốc Hỷ. Xin lưu ý RanDom là hy vọng thôi nha. Cuối năm nay các cao thủ Lạc Việt độn toán sẽ quyết định dự báo như thế nào. Sang năm tôi sẽ nhường anh chị em Lạc Việt độn toán dự báo trước, tôi chỉ tổng hợp lại.
  17. Lần chỉ huy thứ ba: xảy ra vào năm 510 trước công nguyên, lúc này giữa nước Ngô và nước Việt lần đầu tiên xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn mà sử sách còn ghi lại đó là cuộc “Đại chiến Huề-Lý”. Trong cuộc chiến này lần đầu tiên Tôn Vũ đưa ra cách dụng binh “Quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong đánh trận do vậy chỉ với 3 vạn quân với phép dụng binh tài tình của Tôn Vũ đã đánh bại 16 vạn quân nước Việt. Xin lỗi vì chen ngang: Năm 510 trước CN lúc đó nước Việt vẫn gọi là Văn Lang và Âu Lạc do Thục Phán lãnh đạo chỉ thành lập vào năm 258 trước CN (Theo sử cũ) , còn sử mới (Tức quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt) thì vào năm 179 trước Cn. Tức là sau thời điểm Tôn Vũ chỉ huy lần thứ ba (510 trước CN) Hơn 250 năm.
  18. Anh Trần Phương thân mến. Căn cứ vào tính cao cấp và siêu việt cũa Thuyết Âm Dương Ngũ hành thì mặt trăng là một thực tại tự nhiên vốn có nằm trong sự quán xét của học thuyết này và là một yêú tố tương tác không thể thiếu trong hệ thống lý luận dự báo của học thuyết này và cả nguyên lý tương tác Âm Dương của nó. Do đó, nếu như nó được con người tạo ra bởi ý thức của con người thì tự thân học thuyết này sẽ không hoàn chỉnh trước khi có mặt trăng do con người tạo ra. Bởi vậy, theo tôi: Giả thuyết mặt trăng là một vật thể nhân tạo là không có cơ sở khoa học. Mặt trăng phải là một thực tại mà con người nhận thức được và trở thành một tiền đề thực tại cho cơ sở lý luận của học thuyết Âm Dương Ngũ hành.
  19. Tôi đi công việc hơn một tuần mới về , nên trà lời chú chậm. Nhưng với tuổi của chú thì năm ngoái làm ăn khá chất vật vào cuối năm và chú yếu làm ăn thất thoát từ đầu năm nay phải không? Phải 30 tuổi trở lên chú mới trụ lại được.
  20. Vanga viết: Xét về mặt khoa học thì thuyết Âm Dương Ngũ hành phù hợp với tiêu chí khoa học về một lý thuyết thông nhất. Nay xét luôn về mặt tâm linh - qua bà Vanga - thì bà ta cũng nói y như vậy. Một học thuyết thông thái và cổ xưa chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vâng! Vấn đề còn lại là ý kiến của nhân loại. Không nên chậm hơn.
  21. Vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt Nam Với bất cứ dân tộc, hay tôn giáo nào, hễ đã nói tới nguồn gốc là trở thành vấn đề nghĩa là nói đến những khó khăn, những nghi ngờ, do dự, tìm kiếm rồi nhân đó nẩy ra rất nhiều ý kiến, nhiều giả thuyết. Nước Việt Nam tất nhiên không nằm ngoài thông lệ đó được: vì nguồn gốc thường bị chôn sâu dưới những dĩ vãng hỗn tạp: ai dám tự hào biết đích xác và biết hết cả được. Thành ra mỗi thuyết chỉ nói lên được một vài điểm nào đó. Người sau thấy có những điều thiếu sót thì lại đưa ra một thuyết mới, để cố nói lên những điều bỏ sót nọ, và đấy là trường hợp Việt Nho, nó dựa trên một số sự kiện hoặc bị các thuyết trước bỏ quên hoặc để lu mờ sau đây: - Trước hết là mối liên hệ giữa Việt Nam và Bách Việt bị bỏ lơ là, nhiều người còn cho là không liên hệ chi cả với người Việt Nam này. - Không đặt nổi được sự dị biệt giữa hai thứ Nho Giáo, một của thị dân, một của thôn dân, nên không nhìn ra trận tuyến văn hóa đích thực nằm giữa Hán Nho và Nho sơ khởi mà lại đặt lầm sang địa hạt chính trị giữa Tàu và Việt. - Bởi thế thay vì nhìn nhận mối liên hệ thâm sâu giữa văn hóa Việt Nam với Nho Giáo, thì lại đặt chúng trên hai trận tuyến chống nhau. - Do đó không thể nói lên cách lí giải đâu là nét đặc trưng của văn hóa nước nhà, ít ra những nét cơ bản nhất. - Vì vậy không thể thiết lập nổi cho nước một chủ đạo thích hợp tính tình phong thổ và trình độ tiến hóa riêng biệt. Đấy là những khuyết điểm mà Việt Nho muốn bổ cứu. Có thể nói năm điểm trên thuộc đối tượng. Ngoài ra nó cũng muốn đóng góp cả về phương pháp. Là vì trong làng văn hoá quốc tế đã có những phương pháp mới rất đáng chú ý mà cho tới nay chưa thấy được áp dụng ít ra cách triệt để vào việc tìm hiểu văn hóa nước nhà. Thế mà với bất cứ nền văn hóa nào thì những phương pháp nọ cũng rọi nhiều tia sáng mới lạ rất đáng chú ý, huống nữa với nền văn hóa Việt Nam có hai điểm khác văn hóa Tây phương: một là nó ưa lối không nói mà nói, gọi là “ý tại ngôn ngoại”. Hai là có sự tham dự của dân chúng vào việc hình thành văn hóa, thế mà dân chúng không “viết sách” dài nhưng chỉ nói vắn tắt qua ca dao, qua thể chế, thói tục, lễ lạy, huyền thoại… Vậy cần một phương pháp chú ý tới tất cả những cái đó, và đấy là điều chúng tôi thử làm với thuyết Việt Nho và gọi là huyền sử. Huyền sử là kết tinh bởi những phương pháp của các khoa nhân văn mới như xã hội học đặt nặng trên thói tục, thể chế uyên tâm chú ý đến huyền thoại được coi như tiếng nói của tiềm thức, cơ cấu chú ý hơn hết đến các con số tiêu biểu, khảo cổ dựa trên các di tích thám quật được. Đó là những yếu tố mới lạ, khác với phương pháp quen dùng tới nay nặng tính chất hàn lâm hoặc duy sử. Vì có sự khác biệt cả về đối tượng lẫn phương pháp nên tất nhiên Viêt Nho đưa ra một lối nhìn khác xưa cùng với những đề quyết nhiều khi động trời khiến một số học giả bỡ ngỡ. Vậy với quyển này tuy chưa là tận cùng nhưng đã là thứ chín trong toàn bộ nên chúng tôi đã có thể nói rõ hơn về lập trường riêng, đồng thời đưa ra một vài kiểm điểm để gọi là mời độc giả cùng chúng tôi nghỉ giải lao để nhìn trở lại những bước đã kinh qua. Con đường tìm về nguồn gốc văn hóa dân tộc là đường bất tận, chẳng bao giờ tới cùng, nên lâu lâu phải dừng lại để kiểm điểm. Xong lại lên đường. Chữ viết tắt ------------------------------ Archeo: The archeology of ancient china, by Kwang - chih – chang. Yale University Press. New haven. 1968. Bezacier: L’art Vietnamien par L. Bezacier. Ed. Union Francaise. Paris 1954 Caedes: Les états himdouisés d’lndochine et d’lndonésie par G. Caedes. éd. de Boccard. Paris. 1948 Escara: Les institutions de la Chine par Henri Maspéro et Jean Escara P.U.F 1952 Eberhard: A History of China by Wolfram Eberhard. London 1955. Bản dịch Pháp của nhà Payot Paris. Huard: Connaissance du Vietnam. EFEO 1954 Keim: Panorama de la Chine par Jean Keim Hachette 1951 Marg: La langue et l’écriture chinoises par Georges Margoulies. Payot Paris 1943. Terrien: The languagas of China before he chinese by Terrien de La Couperie. Tapel 1970. Chú ý: Các ký hiệu đã cho trong các quyển trước cùng bộ không nhắc tới. I. Nền móng của Việt Nho A. Những yếu tố văn minh của Lạc Việt Trong “Việt lý Tố nguyên” có hai đề thuyết động trời một là Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu, hai là chính người Bách Việt đã chủ xướng ra Nho giáo, người Tàu chỉ làm cho hoàn bị cũng như làm sa đoạ ra Hán Nho. Chủ đề nhất kể như được kiện chứng rồi. Ở đây tôi chỉ chú ý đến chủ đề hai có tính chất thuần túy văn hóa. Đó quả là một chủ đề quá táo bạo; nên có người cho rằng người Tàu sẽ không thèm cãi mà chỉ cười, cười khinh. Còn học giả ta thì một vài vị mới nói ngầm là ái quốc quá khích, là chủ quan…, ngoại giả còn chờ xem (wait and see). Tôi không chú ý đến người Tàu hay những người cho là quá khích, hay vội vàng, vì mỗi người có quyền nói lên cảm nghĩ của mình, nhưng đó mới là cảm nghĩ chưa xài được. Muốn xài (tức là đưa ra tranh luận) phải kê khai ra điểm nào là quá khích, điểm nào là chủ quan. Điều đó chưa ai làm, nên những bài sau đây chưa hẳn nhằm trả lời ai mà chỉ có ý đáp ứng sự chờ đợi của một số độc giả mong tôi minh định thêm về chủ trương Việt Nho. Vậy việc trước hết phải làm là xem thuyết Việt Nho có nền tảng nào chăng. Muốn thế thì cần xét xem khi hai chủng gặp gỡ thì ai hơn, ai kém: nếu Hoa tộc hơn hẳn Việt tộc thì thuyết Việt Nho thiếu nền, ngược lại là có nền. Dấu hiệu để xét đoán hơn kém là sự vay mượn: ai vay là kém. Nếu người Tàu vay mượn Lạc Việt nhiều thì ta có quyền đưa ra thuyết như trên. Vậy mà có nhiều việc chứng tỏ người Việt hơn. Tất nhiên không hơn vì có tài đặc biệt nhưng hơn vì vào nước Tàu trước, chiếm cứ miền tốt nhất là Hồ quảng, nên có dịp đi trước về một số điểm thí dụ về đóng thuyền bè đã giỏi đủ để vượt trùng dương đến các đảo xa xôi. Thứ đến là Lạc Việt hơn Tàu về cái nỏ. Trung Hoa đã tiếp xúc với Việt ở Kinh man từ đời nhà Hạ, mà mãi đến đời Tần, Tàu vẫn còn kém về nỏ; ẩn tích sự vụ đó còn để lại trong câu truyện huyền thoại nỏ thần của An Dương Vương chống Triệu Đà. Tàu học của Việt ở đất Kinh man rất nhiều nhưng it ai chú ý đến là vì không chú ý đến sự kiện Lạc Việt đã vào nước Tàu trước cả hàng ngàn năm, khiến cho Tàu đến sau phải mượn của Việt khá nhiều cái, ta hãy lên sổ tạm: 1. Trước hết là cái nỏ. Người Tàu dùng cung thiếu cây dọc nên không bắn nhiều tên một trật được như nỏ. 2. Thứ đến là nhà nóc oằn góc mái cong lên trời người Tàu mới làm tự đời nhà Đường, trước kia mái nhà của họ thẳng như khoa khảo cổ chứng minh (xem L’art Vietnamienne tr. 32 Bezacier. Hoặc Archéo tr. 99). 3. Đôi đũa ăn cơm. (Naissance de la Chine tr. 307. Hoặc Huard tr. 198). 4. Làm thuyền. Về điểm này Việt nổi hơn quá nhiều. Lúc Si Vưu thua Hiên Viên thì Lạc Việt đã vượt được biển mà người Tàu mãi tới đời nhà Hạ mới vượt sông Hà ở quãng hẹp nhất nơi cửa sông Vị, chứ chưa dám vượt phía đông rộng hơn. 5. Thủy vận và nghề đánh cá của dân Việt ông Huard (tr.227) nhận xét ngôn ngữ Việt đầy tiếng về thuyền bè… 6. Cách lợi dụng nước thủy triều để làm ruộng của dân Lạc Việt. Đây là điểm được người Tàu đặc biệt chú tâm coi như liên hệ tới vận số quốc gia của họ* thế mà còn phải mượn của Việt thì còn có thể nói đến nhiều cái khác như sơn mài mà người Thái ở Thục hơn Tàu. Nói chung thì trong hai ngàn năm đầu chỉ thấy có Tàu mượn Việt mà không thấy Việt mượn Tàu. Tàu hơn Việt được cái xe, nhưng Việt không mượn vì chuyên về thuyền. ------------------ * Có thể nhận thấy điều đó qua luận án Key economic in Chinese history, as revealed in the development of public works for water control của Chi Chao Tinh, London, 1936. Chủ thuyết trong cuốn này là khi nào Tàu săn sóc sông ngòi thì nước cường thịnh, đó là lối giải nghĩa thượng tầng văn hóa chính trị bằng hạ tầng kinh tế. Chúng ta không theo lối giải nghĩa đó, nhưng công nhận rằng tác giả nhìn thấy tầm quan trọng của việc trị thủy. B. Người Tàu có thu nhận những yếu tố văn hóa Lạc Việt chăng? Đó là phần văn minh. Bây giờ chúng ta bước sang phần văn hóa và hỏi người Tàu có mượn chi chăng? Thưa có nhiều. Hãy đi từ hình thức đến nội dung. Về hình thức thì nên chú ý đến ngôn ngữ là đầu, vì vay mượn ngôn ngữ của ai là đầu phục văn hóa của họ, coi là cao hơn. Thế mà trong vụ này thì cổ Mã lai có cho Trung Hoa vay. Thế mà cổ Mã lai với Bách Việt đồng tông (xem Việt Lý tr. 341). Việt chỉ học với Tàu về sau. Còn lúc mới gặp gỡ thì Tàu mượn của ta nhiều tiếng như đậu do đỗ, bản do ván, vân do mây... Về điễm này tôi không chuyên môn mà chỉ đọc ít nhiều tài liệu nói đến chuyện Hoa tộc vay nhiều tiếng của Lạc Việt đến nỗi cả cú pháp của họ cũng có thay đổi (Xin xem chi tiết trong quyển The languages of China before the Chinese của Terrein de Lacouperie mới được Chieng Wen tái bản tại Đài Bắc 1970) vì là ngành chuyên môn nên tôi xin thông qua để bàn sang các chuyện khác nhất là triết. C. Ba cột cái của Nho. Nói đến triết thì quan trọng không còn nằm trong hình thức (ngôn ngữ, chữ viết) mà là trong nội dung: “từ đạt nhi dĩ hĩ”. Vậy xét nội dung thì thấy trong Nho Giáo có những yếu tố sau đây của Lạc Việt là đạo thờ trời, lễ gia tiên và ngũ hành. 1. Đạo thờ trời là của Bách Việt về sau Tàu mượn và dành cho vua, dân không được thờ, đang khi bên ta đến năm 1945 có nơi đến 80% gia đình trong nhà có bàn thờ ông Thiên.* ------------- * Chỗ này Võ phiến có một bài nhận xét nhan đề là ” Đất của con người” đăng trong Bách Khoa số 376 tháng 9-12 nói về miền Nam. Đại khái: “Đâu cũng có dấu tín ngưỡng: ngoài sân thờ ông Thiên, trong nhà thờ ông Địa và khắp cùng nơi dong chơi các ông Đạo… Đất miền Nam cơ hồ thuộc các đấng thần linh. Thế mà lạ: không ở đâu con người được đề cao bằng ở đây. Đây mới chính thị là đất của con người…” Đây là bài tôi cho là sâu sắc và rất hợp với thuyết nhân chủ của tôi, con người hòa hợp với trời đất, mà vẫn giữ được nhân chủ tính… cũng như chủ trương coi miền Nam phản chiếu Việt Nho hơn hết (xem Vấn đề Quốc học). ------ Trời mà Việt Nho thờ rất bao dung như mẹ hiền. Có lẽ sau này Tàu đổi ra ông Trời, còn trước kia với Lạc Việt là bà Trời. “Ông trăng mà lấy bà trời”. Cùng với Thái dương thần nữ của Nhật, hay Cửu thiên huyền nữ của ta là một gốc. Chính đạo thờ trời này liên hệ với nhân chủ tính (xây trên tam tài) mà biểu hiện là gia tiên. 2. Vậy lễ gia tiên cũng là của Lạc Việt, Tàu mượn và dành cho quý tộc, chứ dân chúng không được thờ. Có người nhận xét là gia đình Tàu không có bàn thờ tổ tiên khác hẳn với Việt Nam nhà nào cũng có. Như vậy đã rõ nơi phát xuất phải là Việt thì người Việt mới thấm nhuần nhiều hơn được như vậy. 3. Còn ngũ hành thì đến nay các học giả cho là phát xuất tự đông nam kể cả tử vi căn cứ trên ngũ hành. Còn ý kiến bảo tự Tây Âu bị bác bỏ vì Tây thường là tứ hành với khí và gió lửa, đất (xem Need 11.244,246,355). Cũng như Âm Dương không thể do Perse vì không có tốt xấu, âm không xấu… (Need 11.277). Vì thế có thể coi là do Kinh sở tức do Lạc Việt, cả ngũ hành lẫn âm dương. Đó là những cột cái hay là cơ cấu của Nho giáo sơ khởi và có thể coi như là những lẽ chứng minh tức căn bổn, còn lý do tùy để kiện chứng thì có thể đưa ra hai điểm sau: Trước hết là việc Khổng Tử tuyên bố “thuật nhi bất tác” tức chỉ thuật lại đạo cổ xưa chứ ông không sáng tác và nếu cần xác định là đạo cổ ở phương nào thì ông bảo ở phương Nam. Trong câu: ”Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo. Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi.” Trung dung 10. Vì những lý do trên chúng ta nên từ bỏ hai thói quen: trước hết là coi Khổng Tử như người sáng lập ra Nho giáo. Công của Khổng Tử là làm cho đạo Nho phục hồi sức mạnh mà thôi. Hai là trung tâm văn hóa của Tàu luôn luôn ở Hồ Quảng, tức miền của Lạc Việt hoặc thời Khổng Tử là Sơn Đông (Tề, Lỗ) cũng là miền có sự hiện diện lâu đời của Lạc Việt. Với ba lý chứng lớn lao, với hai lẽ kiện chứng cụ thể tôi cho là không những có nền để đặt giả thuyết Việt Nho, mà thuyết đó còn đáng nâng lên bậc chủ thuyết. D. Khả năng tiếp xúc. Có người căn cứ trên sự kiện là không có sọ Lạc Việt ở vùng Hoa Bắc mà chối từ giả thuyết trên, nhưng giả sử là cuộc thám quật đã đầy đủ đi nữa thì vẫn còn nhiều lối khác như Viêm Việt ở hai phía Hoa Bắc là Sơn Đông (Đông di) và phía Tây (Khuyển nhung) ép Hoa tộc vào giữa, còn phía Nam thì nắm trọn. Nếu người Tàu chưa vượt được Hoàng Hà thì đã có người Việt: chữ Việt có nghĩa cụ thể là vượt Hà: vượt xuống Nam cũng như vượt lên Bắc. Vì thế mà năm 672 trước kỷ nguyên, nhà Chu còn phải xuống chiếu phủ dụ sở Thành vương phải chế phục và bình định những rợ Nam man, để cho lũ man di Việt đừng xâm phạm Trung Nguyên. Vả lại về ảnh hưởng văn hóa đâu có cần sự ở chen kẽ, chỉ cần tiếp xúc, mà Hoa tộc thì tự lúc vào nước Tàu đã liên tục tiếp xúc với Lạc Việt cả ba phía Đông, Tây, Nam. Vả lại Nho giáo chỉ kết tinh vào đời Chu thì không nên gảy bỏ ảnh hưởng miền dưới sông Hoàng Hà mà sức ảnh hưởng lớn lao đến nỗi đổi cả tâm hồn trí não, tâm tình vóc dáng và màu da của người Tàu đến cư ngụ ở miền Kinh Việt, cả chỉ số của họ cũng đổi đến nỗi có người nghĩ phải đặt ra cho họ một chủng riêng là Nam Mông gô lích. Tất cả những sự việc này xảy ra thời chung đúc Việt nho với Hoa nho làm nên Vương nho. Việt nho thuần chủng là tự đầu đến Hiên viên. Vương nho tự Hiên viên tới thời Xuân Thu, rồi Đế nho thời Ngũ Bá. Sau đó là Hán nho. Vì những lý do trên mà tôi cho là Tàu đã vay mượn cả văn hóa Lạc Việt nữa. Văn hóa đó tôi gọi là Nho giáo đang thai nghén tức mới cảm thấy lơ mơ nên diễn bằng huyền thoại. Có ý thức đủ để diễn ra bằng ngôn từ, văn tự, ý tưởng thì sẽ được người Tàu (hay lai Tàu) làm về sau đời nhà Chu, nhất là với Khổng Tử, tức là lối hai ngàn năm sau khi người Tàu đặt chân vào nước Tàu, nên quá đủ lâu dài để gồm cả ảnh hưởng Lạc Việt ở Kinh man vào đó. Vậy nói người Tàu vay mượn văn hóa Việt là có quá nhiều tang chứng, chứ không phải vô bằng chủ quan hay vội vàng như có người nghĩ đâu. E. Thiếu sòng phẳng Trong phạm vi văn hóa việc chủng này vay mượn chủng kia là quá thường không cần phải khai ra cũng chẳng sao, nhất là đối với Tàu là kẻ mạnh hơn Việt thì trước việc khai ra càng có lý do. Thế hỏi tại sao lại bảo người ta ăn cướp. Thưa rằng đó chẳng qua là lối nhấn mạnh cho câu văn mang tính chất kích động vậy thôi. Tuy nhiên vì là những danh từ có vẻ dao búa thì cũng phải có lý do nào đó mới được phép xài, và lý do đó ở tại việc Tàu có vay mượn của Việt mà lại khi dể người ta cho là Man di Bách Việt, thế cho nên tôi mới đi tìm thử coi Man di đáng khinh chăng thì té ra không hẳn như vậy, mà trái lại Tàu có vay mượn lại còn có cả cạo số nữa chứ. Thí dụ Lạc bộ chuy mà Tàu đã vay mượn tôn giáo thì lại viết với bộ thủy, thành ra Lạc bộ chuy mất tích luôn. Thế mà Lạc bộ chuy là Môn tức tổ tiên xa nhất của ta và còn để ẩn tích lại trong danh hiệu Hồng Bàng (chữ Hồng với chuy có liên hệ Điểu) thế mà sự cạo số đã thành công đến nỗi người Việt về sau mất trọn ý thức về mối liên hệ với Môn với Điểu, đến nỗi ngày nay nhiều người còn cho truyện Hồng Bàng thị là hoang đường thì đủ biết đã có sự cố tâm xóa bỏ gốc tích người ta. Đấy là những chuyện lặt vặt, chắc còn nhiều mà ta chưa kịp truy tầm, nhưng đây chỉ cần nêu ra một việc quan trọng là trong khi lên sổ những chủng tộc làm thành dân tộc nước Tàu thì họ chỉ kể tới có Mông, Mãn, Hồi, Tạng còn Bách Việt thì quên ắng đi. Đang khi ấy thì chính Bách Việt vừa đông người nhất vừa đóng góp văn hóa nhiều nhất. Đông nhất đến nỗi có thể nói là 60 hoặc 70% dân Tàu hiện nay là người Bách Việt. Vì thế tôi coi đó là một cuộc cạo số to nhất mà chúng ta có thể kiểm kê xuyên qua lối phát âm và được khoa ngôn ngữ tỉ giảo cho biết có đến 7, 8 phần mười người Tàu nói theo giọng Việt, hay nói theo phương âm là 9 trên 10. F. Chín phần mười người Tàu nói theo giọng Việt. Đó là căn cứ trên phương âm của Tàu hiện nay mà nói. Theo các nhà ngôn ngữ thì Tàu có tất cả 10 phương âm, trong đó Trung Nguyên của Tàu chính cống chỉ là một gồm Đông Thiểm Tây, Nam Hà Bắc, Nam Sơn Tây. Ngoại giả toàn là Tàu đọc giọng Lạc Việt gồm: 1. Tần ngữ: Ở Thiểm Tây được coi như tiếng tiền quan thoại. 2. Thục ngữ: là âm của người Thái xưa. 3. Yên, Tề ngữ: Đông Di (Sơn Đông) hay là Lạc Địch. 4. Sở ngữ: Kinh Man, Lạc Việt. Trung tâm văn hóa nước Tàu. 5. Mân ngữ: Mân Việt ở Phúc Kiến. 6. Việt ngữ: Quảng Đông, Quảng Tây. 7. Giang Hoài ngữ: Bắc Giang Tô, Việt Chiết Giang. 8. Ngô, Việt ngữ: Giang Tô, Chiết Giang - Việt xưa. 9. Điền Kiềm ngữ: Vân Nam. Với một sự đóng góp cả về nhân số lẫn văn hóa lớn lao như vậy mà lại bỏ quên thì có dùng chữ cướp tưởng không quá khích chi cả. Thế là tạm xong, người Tàu có mượn của Việt cả văn minh (nỏ, đũa, thuyền, thủy vận) lẫn văn hóa: đạo thờ trời, gia tiên, ngũ hành, giọng nói… Vậy thuyết cho rằng người Việt đã đóng góp vào việc hình thành Nho giáo có nền tảng. G. Phần đóng góp của dân gian. Đề quyết trên càng rõ hơn khi ta chú ý đến điều này là văn hóa trong các xã hội Việt nho được kiến tạo đầu tiên do dân gian, nhất là dân gian nước Sở, tức là Kinh Việt của tiền nhân ta dưới triều đại Kinh Dương Vương mà chúng tôi đã nói nhiều nơi về phần đóng góp quan trọng của dân gian, cũng như việc nhà Hán dùng dân nước Sở làm chủ lực thế mà dân Sở là Hoa gốc Việt, nên Hán chính là dân Kinh Việt. Xét như trên thì những câu kết luận táo bạo của chúng tôi có đầy căn cứ, phương chi sự táo bạo cũng nhiều khi rất cần thiết trong phạm vi khoa học, dầu có sai đi nữa nhưng chính chúng mới làm cho khoa học tiến bước. Giá trị của chúng là khơi dậy sự chú ý, tạo dịp cho những chống đối, bắt phải điều chỉnh… Đấy là những tác động hợp khoa học vậy. II. Thử ước lượng một độ số đóng góp của Lạc Việt. A. Những phân biệt cần thiết. Trước hết cần nói về nội dung hai chữ Hán nho và Việt nho. Đó là bộ danh từ tôi đặt ra để chỉ hai thứ nho khác nhau. Tôi rất lấy làm lạ tại sao các cụ xưa đã không chú ý tới sự phân biệt nền tảng này, chỉ bằng lòng với hai bộ danh từ Vương Đạo, Bá Đạo, mà không bàn tới nguồn gốc , cũng như những sự kiện lịch sử lớn lao có chứng tích như vụ Thạch Cừ, càng không kê khai ra những dị biệt căn bản giữa hai thứ nho. Theo tôi đó là sự thành công của nhà Hán trong việc xuyên tạc Nho giáo, xuyên tạc tài tình đến độ người sau không chú ý tới việc xuyên tạc nên đó cũng là dấu chỉ sự thất bại của Nho giáo đã không vươn lên được trải hàng ngàn năm. Mãi cho tới thời hiện đại mới được các nhà nghiên cứu Tây phương chú ý tới và phân ra cẩn thận hơn, thí dụ ông René Grousset cũng như ông Demiéville thì phân ra confucéisme là Hán nho (La Chine et son art, p.42). Tuy nhiên học giả Tây phương có phân biệt nhưng chưa một ai khai thác sự phân biệt đó đến cùng triệt nguồn ngọn, nên vẫn còn là một thiếu sót trầm trọng và vì thế chúng tôi thử làm để bù đắp. Sở dĩ tôi không chấp nhận những bộ danh xưng trên vì quá hẹp chưa bao quát nổi vấn đề nguồn gốc cũng như sự sâu xa của triết nho mà Hán nho đã không nhìn ra. Vì thế mới phải đặt ra cặp danh xưng Hán nho và Việt nho. Với danh từ Hán nho tôi không những muốn chỉ cái nho tự đời Hán đã bị xuyên tạc mà chứng tích là thư viện Thạch Cừ (xem Cửa Khổng chương II) và tính chất là pháp hình tức quá nặng lý sự đến át tình người, mà còn muốn gộp vào đó cả yếu tố du mục như là nguồn gốc, dầu sau này có hoàn toàn nông nghiệp nhưng nếu còn đặt quá nặng lý trí, đề cao tù trưởng (vua) đến độ chuyên chế, đàn áp đàn bà, đặt ra các đặc quyền kèm theo giai cấp… thì vẫn cứ là du mục. Về điểm này độc giả tham khảo trong hai quyển “Cơ cấu Việt nho” và “Triết lý cái Đình” chúng tôi đã giải thích tường tận và sẽ bàn thêm ở dưới. Còn bên vương đạo thì chúng tôi gọi là Việt nho đi với nông nghiệp vì có những đức tính khác như nặng tình cảm, không đàn áp đàn bà, óc công thể thay cho đẳng cấp hay đặc ân, đề cao kinh nghiệm (trọng xỉ) hơn là sức mạnh tức đặt văn trên võ. Những điểm này được phân tích tới cùng triệt và được trình bày theo lối tổng hợp Đông Tây và tôi gọi là Việt nho, theo nghĩa nho siêu việt, siêu hình. Kèm theo đó còn một nghĩa nguồn gốc: Việt nho đó là của người Việt hiểu cả về xưa lẫn nay: xưa là tổ tiên Lạc Việt đã đặt nền móng, còn nay là có người Việt khai quật lên. Giả thuyết này được đưa ra là cốt để bơm sinh khí cho làng văn học Việt Nam mà thôi, nên danh nghĩa hai này rất là tùy phụ, nghĩa siêu hình trên mới là chính cốt. Tôi sẽ trở lại điểm này sau. Bây giờ xin tiếp tục bàn đến phương pháp mới gọi là “chỉ số văn hóa” tức là lên sổ những yếu tố căn bản của nho rồi cho số điểm của Hán nho và Việt nho để xem hơn kém. Vậy trước hết xin phân tích Việt nho ra các điểm then chốt. Có hai tiểu đề lớn một là cơ cấu hai là nội dung. Mỗi đàng chỉ xin lấy 5 điểm làm mẫu. B. Nội dung. 1. - Nhân chủ. 2. - Dân chủ. 3. - Bình quyền mọi người. 4. - Bình quyền nam nữ. 5. - Bình quân tình lý. Cơ cấu gồm các số sau: 6. - Nhất = Thái cực. 7. - Nhị = Lưỡng nghi. 8. - Tam = Tam tài. 9. - Ngũ = Ngũ hành. 10. - Cửu = Cửu nữ. Thế là có 10 mục mẫu. Tất nhiên có thêm được nhiều nhưng lấy 10 cho gọn. Mỗi đề cho tối đa 10 điểm cộng cả là 100 điểm, 50 điểm là trung bình, đỗ hạng thứ; 60 bình thứ, 70 ưu… Vậy bây giờ chúng ta đi vào chi tiết. 1. Điểm nhất là nhân chủ: Nhân chủ là khi xem con người đứng độc lập với trời và đất và tự làm chủ lấy bản thân mình, nghĩa là những thể thái sinh động giao liên được căn cứ trên bản tính con người hơn là trên những qui luật phát xuất tự trời hay đất. Và đó là thái độ độc lập căn bản làm nên nhân chủ tính, đưa lại cho con người qui chế vương giả, đường hoàng trong cõi riêng của mình. Nhưng độc lập mà không cô lập vì vẫn giữ liên hệ với trời với đất, bởi vậy gọi là nền nhân bản thái hòa. Nó khác với duy thiên là đi hẳn với trời (bái vật) cũng như duy địa đi hẳn với đất (duy vật) mà còn khác cả duy nhân nữa, vì thuyết này đối lập với trời cùng đất, coi người là trung tâm duy nhất. Ngược lại nhân chủ của Việt nho đứng trong thể tam tài tức có liên hệ mật thiết với trời cùng đất. Vậy phải gọi là nhân chủ, mà lý tưởng là phụng sự con người khi sống cũng như lúc chết, và do đó mà có lễ gia tiên kể được như biểu hiệu của nhân chủ tính, nên gia tiên chỉ có ở những nơi nào có nhân chủ tính. Đó là nét đặc trưng của Lạc Việt y như tam tài cũng là nét đặc trưng vì nó đặt con người ngang hàng cùng trời đất. Vì trong đó con người được tự do không phải nô lệ cho ý hệ nào. Không có chuyện giết người hay bắt người hi sinh cho những tư tưởng Tàu còn chôn người theo kẻ chết chứ Việt Nam thì không. Bách Việt cũng giống như tất cả mọi chủng tộc, ban đầu cũng đi qua bái vật: hi sinh người cho thần minh như giết người tế thần, nhưng rồi Việt bỏ tục man rợ đó trước Tàu, vì mãi tới thời Chiến Quốc mà Tàu còn giữ tục dã man đó. Vậy thì nhân chủ tính nên quy cho Hán hay Việt? Hán nho xét như là du mục nơi nhà cai trị quen xem bị trị như kiểu đoàn vật, thì không thể nào chịu để cho nảy sinh óc nhân chủ: sợ sẽ khó bảo. Vì thế mà tôi cho nhân chủ là của Lạc Việt đến 80%. Bây giờ bàn đến dân quyền. 2. Dân quyền: Đây là hệ quả của nhân chủ. Vì hễ đã là nhân chủ chân thực thì quyền bính được đặt trong tay nhân quyền nghĩa là ai nhân đức nhất tức thực hiện được nhân tính nhất thì nắm quyền bính. Đây là nói lý thuyết mà không kể hiện thực ít khi đạt. Tuy nhiên vẫn đáng nói vì có tiến trên lý thuyết rồi mới tiến được trên thực hiện. Lý thuyết là tiền hô nên thắng trên lý thuyết cũng là chuyện rất cam go phải cả từng ngàn năm mới đạt. Vậy dấu hiệu của dân quyền chân thực là trong xã hội không còn thiên quyền địa quyền. Thiên quyền là thần quyền, theo cái nghĩa là có hàng tăng lữ nắm chính quyền hay ra lệnh cho những người nắm chính quyền như trong xã hội Âu Ấn thời Trung cổ vua phải tuân lệnh quyền đạo. Còn địa quyền là những thế lực tài chính như bên Âu Châu sau cách mạng 1789 cho tới ngày nay. Cả hai thời đó chưa có dân quyền. Cái gọi là dân quyền ngày nay chỉ là hình thức, trong thực trạng là các thế lực kim tiền nắm trọn. Về điểm này thì Việt Nam vẫn hơn Tàu, thí dụ xã thôn Việt Nam dân chủ hơn hẳn xã thôn Tàu* cũng như lễ gia tiên không bao giờ dành cho quý tộc như bên Tàu. Đằng khác bên Tàu pháp gia (thương gia) đã ảnh hưởng khá mạnh vào chính quyền. Tức là để cho thế quyền (địa) nắm chính quyền mà không còn là nhân quyền. Vì thế ở điều này ta cũng có thể quy cho Việt Nam đến 70%. ----------- * Về điểm này nên đọc quyển Việt Nam sociologie d’une guerre có thể nói toàn quyển đặt nền trên cái làng Việt Nam. Nhất là những trang 280. Tây cố phá làng Việt Nam ra sao… trang 330. 3. Bình quyền: là hết mọi người đều được hưởng quyền lợi như nhau: cùng ăn cùng chịu, không có đặc ân đặc quyền. Bởi vì nhân chủ coi mọi người đều là người nên mọi người đều được quyền lợi như nhau. Vì thế không có đặc quyền làm người dành cho một thiểu số, ngoại giả là nô lệ. Cũng không có đặc quyền tài sản dẫn đến tư sản tuyệt đối, nhưng ai cũng được tham dự vào tài sản chung gọi là bình sản. Về điểm này tuy tôi chưa để tâm nghiên cứu tỉ mỉ, nhưng có thể nói chung là Việt Nam trội vượt hơn bên Tàu. Bên Tàu không kể đến những triều ngoại quốc như Mông Cổ thì tài sản tích luỹ lại quá nhiều trong tay triều đại và thân thích, đến như những nhà bổn quốc thì sự chênh lệch cũng đầy. Tôi đọc thấy chẳng hạn đời Tống ruộng công chỉ còn 4% so với bên ta năm 1940 còn được đến 20% (tất cả những chi tiết này xin dành lại cho những người đang đi tìm đề tài luận án cao học hay tiến sỹ…) vậy điểm này có thể quy cho Việt Nam ít ra 60%. 4. Bình quyền nam nữ: Điều này chỉ là hệ luận của điểm 3. Nhưng vì địa vị đàn bà có một nét biểu tượng rõ ràng hơn nên chúng ta để riêng ra một số. Nói chung từ trước đến nay đàn bà ở đâu cũng bị lép vế, và mãi tận ngày nay vẫn còn phải có những mặt trận tranh đấu cho nữ quyền. Nhìn trong chiều hướng chung đó ta có thể nói ở Việt Nam thì tương đối đàn bà được tự do tuy sau bị ảnh hưởng Hán nho có sứt mẻ nhiều nhưng nói chung đàn bà vẫn tự do hơn bên Tàu, đến nỗi có những học giả cho rằng điểm duy nhất Việt Nam nổi vượt không những hơn Tây mà còn hơn cả Tàu là địa vị đàn bà ngang hàng với đàn ông (La Femme Annamite P: 16 Lustéguy). Không nên nói rằng xưa kia đâu đâu cũng như vậy, vì lúc ấy kể như chưa có văn hóa. Có văn hóa tự lúc con người can thiệp sắp xếp sao đó, và tự lúc ấy thì ta thấy rõ là có sự khác nhau giữa Tàu và ta mãi tự xa xưa rồi. Mãi tự đó ta đã thấy phụ nữ Việt Nam nắm quyền tư tế (các bà đồng) hay ít nữa là đồng tế trong lễ gia tiên. Về tài sản tuy chồng làm chủ nhưng đó là tự nhiên, trong nhà một chủ mới ổn, người đó tất nhiên là chồng nhưng khi chồng chết thì đến lượt vợ, chứ không có chuyện bà góa không được quyền hành chi trên tài sản như bên Tây phương. Có người xin tha cho thuyết “văn minh cồng gặp văn minh lệnh” nhưng tôi có nói gì khác hơn là đưa ra một số quyền lợi mà phụ nữ Viễn Đông vẫn giữ được trội vượt hơn hai nền văn minh Âu Ấn? Và cả bên Tàu nơi người chồng xem vợ con như nô lệ? Vì thế điểm này tôi cho Lạc Việt 70% 5. Quân bình tình lý: Hay nói khác là văn võ song hành. Văn đi với tình người, võ đi với lý sự. Tôi thích nhìn bên chiêu là biểu thị tình người vì đi về tay trái là bên có trái tim, nên là bên tâm linh, còn bên mục là tay mặt là sức mạnh. Đại khái thuyết chiêu mục chỉ nói có thế không hiểu vì lý do nào có người muốn bác đi mà vẫn đồng thời công nhận “tả nhậm” là nét đặc trưng của Lạc Việt, đang khi người Tàu nhiều thời trọng bên mục: nhà Thương, Chu, Tần… Còn chuyện người Tàu nặng lý trí, còn tâm tình cằn cỗi thì hiển nhiên. Vì thế nhiều khi chiêu được coi trọng như mục hay có khi còn hơn thì là biểu thị cho vị trí tình vẫn được duy trì cân đối với lý làm nên nét đặc trưng là tình lý tương tham và tôi cho là sự quân bình này thuộc Viêm Việt đến 80%. Bây giờ bàn đến cơ cấu tức là cái khuôn tiên thiên dùng để diễn tả những ý tưởng chính. Đó là những lược đồ, những biểu tượng như tròn vuông, kinh vĩ v. v… hay là những huyền số. Có tất cả 10số trong đó quan trọng hơn cả là 1, 2, 3, 5 ,9. Ta sẽ lần lượt bàn: 6. Số một: Trong cổ sử Tàu có hai lối biểu thị con số quan trọng này là vòng tròn phẳng, đôi khi có lỗ ở giữa, hai vòng tròn gắn liền với âm dương và gọi là vòng thái nhất. Về vòng một không có gì đáng nói lắm vì là của chung nhân loại đâu đâu cũng có và câu nói Thượng Đế là một vòng tròn là thí dụ (xem bài Thái cực trong chữ Thời). Vậy thì điều đáng chú ý ở đây là cái thái nhất hay vòng thái cực mà cũng gọi là nhất nguyên lưỡng cực được dùng tới nhiều nhất và được coi là đặc trưng của Viễn Đông và tôi cho là thuộc Bách Việt đến 80% như sẽ bàn rõ hơn ở số 2 sau, vì một đàng thích nghi với tiềm thể gọi là âm, một đàng thích nghi với xuất lộ gọi là dương. Đó là hai mối thích nghi bao quát, không bao giờ được li lìa, bởi đó là đạo. Kinh dịch viết “nhất âm nhất dương chi vi đạo”. Câu ấy nói lên sự bao quát của đạo cả âm lẫn dương. Cả trời cả đất cùng với người làm nên nhất thể. Có lẽ đây là chỗ phải nói đến mái nhà cong và thuyền cong mũi của Lạc Việt thì hầu chắc là do ảnh hưởng này, bởi xét về đàng thực tế thì mái cong nóc oằn thật là vô ích. Vì không phải để tránh tuyết. Người Tàu còn ở mạn Bắc hơn nghĩa là gần tuyết hơn vậy mà góc mái nhà của họ lại thẳng, cho nên góc mái cong nóc oằn chỉ có thể do triết. Vì mái cong là của Lạc Việt nên tôi cho vòng thái nhất là của Lạc Việt đến 80%. 7. Số hai: Trên kia mới là vài dấu bên ngoài, cái nét đi đôi nền tảng hơn hết là âm dương. Hai nét này tôi cho là của Lạc Việt đã được kiểu thức hóa từ đạo phong nhiêu mà nghi lễ căn bản là các bà tư tế xin mời trời giao hợp với. Do đó sau này gọi là lễ tế giao đã được lý tưởng hóa; còn nguồn gốc là sự giao hợp được biểu thị trong hai nét âm dương, một cơ một ngẫu. Các nhà nghiên cứu Âu Mĩ đầu tiên cứ bị ám ảnh vì chuyện này và cho rằng âm dương chỉ là đạo phong nhiêu tức là cơ quan sinh dục trá hình. Tôi cho đúng như thế, nhưng không là trá hình mà là được kiểu thức hóa để theo nhịp tiến của con người. Những bức chạm trổ hình bà Nữ Oa và Phục Hi cuốn lấy đuôi nhau có thể được xem như những khoen trung gian. Còn chặng đầu thì dấu cụ thể như hai thần Nam Nữ ôm nhau trong thể giao hợp gặp đầy bên Tây Tạng, hay trong những tượng rời nhận thấy trên những bình đồng đào được ở Đào Thịnh (Lao Kay) có 4 đôi nam nữ giao hợp. Rồi tiến đến đợt nhì là hình Nữ Oa Phục Hi quấn lấy đuôi nhau; ở đây đuôi thay cho cơ quan sinh dục. Chặng cuối cùng sẽ là một nét âm đứt với một nét dương liền nên âm dương chính là tiếp nối đạo phong nhiêu. Vậy mà tôn giáo phong nhiêu (fécondité) là nét đặc trưng của Viêm-Việt nên tôi cho số hai là thuộc Việt đến 90%. Có hai số sinh chỉ đất là 2 và 4. Xem ra Lạc Việt chú trọng đặc biệt số 2 như có thể thấy những liên hệ ngầm nào đó với số 2, được kể như đạo (nhất âm nhất dương chi vi đạo) mà đã là đạo thì không thể li lìa dù một giây. Vì thế sử mệnh đã trao vào tay Lạc Việt con số hai để biểu lộ ra trong những việc căn bản hơn hết của con người là ở, ăn, nói. Ở là nhà nóc oằn mái cong (cong do ảnh hưởng lưỡng nghi). Ăn là đôi đũa… Nói là thích dùng nhị âm: như chiếu chăn, non nước, chợ búa, viết lách, quan kiếc. Người Tàu độc âm. Làm thì có thể biểu thị bằng “Tị dực điểu” sách nhĩ nhã nói phương Nam có loài chim liền cánh không bao giờ bay mà không liền cánh, gọi là kiêm kiêm. Đó là điều biểu thị cho mọi việc làm đều có lưỡng tính. Vì thế số hai thuộc Lạc Việt đến 90% và do đó Lạc là chủ Kinh dịch một quyển kinh xây trọn vẹn trên hai biểu tượng âm dương. 8. Tam tài: Đây là hệ quả của hai nét trước, nó làm nền móng cho nhân bản, cũng gọi là nhân chủ. Đó là điều tôi khám phá thấy trong Nho giáo, một nền nhân bản tâm linh trung thực nhất, vì được xây trên nền siêu hình là tam tài. Và chính vì thế mà tôi chú ý đến số 3 lâu trước khi chú ý đến câu “tham thiên” trong kinh Dịch, với hai hướng Đông Nam. Có người cho rằng: sở dĩ hai hướng Đông Nam cũng như hai số 3, 2 được quan trọng vì đó là hai hướng người Tàu thấy mầm ăn được nên coi trọng chứ chẳng có triết lý nào hết. Đó là nói phỏng chừng. Xưa nay rất nhiều dân đã thiên di tự Bắc xuống Nam, tự Tây sang Đông mà sao lại chỉ có văn hóa Tầu mới quan trọng hóa hai hướng đó thì không thể quyết đoán suông kiểu duy vật, tức là do việc làm ăn được, mà phải giải nghĩa theo lối tâm linh, vì đó là bầu khí văn hóa với hệ thống các con số trong đó có số ngũ hành, hồng phạm, cửu trù, cũng như thuyết địa lý, phong thủy, coi hướng, coi giờ… có thể là những biến thể của một niềm tin nào đó. Niềm tin đó chính nền tảng đã được hệ thống và kiểu thức hóa như thấy rõ trong nguyệt lệnh: phương Đông đi với số 3, màu xanh v.v… thì không còn là một sự tin thường mà là một nền triết lý tức đã được những phần tử sáng suốt nhất trong dân nước chấp nhận, phát huy và hệ thống hóa. Vì thế mà tôi cho là của Lạc Việt đến 80%. 9. Số ngũ: Bây giờ đến số 5 thì rõ rệt đây là con số nổi của Đông Nam; của văn minh mẹ. Tuy đâu cũng có dùng biểu hiệu số 5 nhưng không đâu nó được quan trọng hóa như ở vùng Lạc Việt. Vì ngự ở trung cung của ngũ hành và do đó trở nên then chốt cho nguyệt lệnh rồi Hồng Phạm, Cửu Trù là cái lý tưởng uyên nguyên của Lạc Thư. Vì thế mà ta có thể gặp lu bù số 5 ở phía Nam hơn ở phía Bắc: ngũ lĩnh, ngũ khê, ngũ hồ, ngũ cốc, ngũ âm… tất cả đều phát xuất tự ngũ hành. Thế mà riêng ở Viễn Đông thì ngũ hành xuất hiện trước hết ở miền Đông và Kinh Việt (xem Need II 244, 246, 355), rồi sau người Tàu mượn. Mượn từ lúc nào? Chắc không phải thời nhà Chu mà ít ra ngay từ đời nhà Hạ “Lúc trời ban cho Hạ vũ Lạc thư” (Xem bài Qui lịch và Ngũ hành trong Chữ thời). Còn có thể kể ra phận dã nước Việt có sao tỉnh là nguyên ủy khung Lạc thư, vì thế mà tôi cho Lạc thư chính là điền chương của dân Lạc Việt và số 5 thuộc Lạc Việt đến 80%. 10. Số cửu: Đây là con số hơi khó nói vì nhiều nới xài, như Mông Cổ v.v…tuy nhiên xem gần ta nhận ra một sự khác biệt là nó được Lạc Việt chú ý đặc biệt bằng hệ thống hóa: như tự Tam miêu lên ngũ hành rồi cửu Lê và tự nhân lên thành 81 chi hội của Si vưu (9 x 9) thì đó là dấu rõ của việc hệ thống hóa mấy số trên. Còn Hiên viên tù trưởng của Hoa tộc khi đầu chia nước thành 6 châu thì cũng không là 6 châu mà hầu chắc chỉ tâm hồn hướng theo lối du mục ưa số chẵn là số biểu thị triết học vòng ngoài chạy theo lưu tục (một chiều) thường là của phương Bắc được ám chỉ trong câu “con sông lục đẩu sáu khúc nước chảy một chiều anh ơi” tuy sau Hoàng Đế có dùng số 9 nhưng là sau khi thắng Si Vưu mới dùng và cũng chỉ dùng phất phơ, còn cách triệt để thì phải kể từ ông Hạ Vũ, đến nỗi người ta cho văn minh Tàu có tự lúc biết xây nhà, có thế tập và chia nước làm 9 châu. Vì thế nước Tàu kể là có nhà vua cũng như Kế tập tự ông Hạ Vũ. Tuy nhiên đó chỉ là huyền sử tức không có thực mà chỉ có thật nghĩa là có như một lý tưởng tiên thiên.Vì thế bản đồ cửu châu hình học theo kiểu Lạc thư phải vẽ theo hình Lạc thư mới đúng ý nghĩa thâm sâu của nó. Đón xem bài “Vũ chú cửu đỉnh” trong quyển “Cơ cấu Việt nho”. Thiên đó nói về đào sâu sông thì ít mà đào sâu triết (tuấn triết) thì nhiều. Triết nào? Thưa là nền triết tàng ẩn trong Hồng Phạm của Lạc Thư, diễn bằng các số 2, 3, 5 ,9, v.v… và như thế tôi có quá đủ lý do mà bảo số 9 thuộc Viêm Việt đến 70%. Kết. Thế là tạm xong cuộc “đo chỉ số văn hóa” ta hãy tóm lại một bảng để nhìn bao trùm xem mỗi điểm Viêm Việt được bao nhiêu: A. 1. Nhân chủ được 80% ………………………..hay là 8 điểm 2. Dân quyền được 70%................................ hay là 7 điểm 3. Bình quyền được 60% ………………………hay là 6 điểm 4. Bình quyền nam nữ được 70%................... hay là 7 điểm 5. Tình lý tương tham được 90%......................hay là 9 điểm B. 6. Thái nhất được 80% ………………………...hay là 8 điểm 7. Lưỡng nghi được 90% …………………….. hay là 9 điểm 8. Tam tài được 70% …………………………. hay là 7 điểm 9. Ngũ hành được 80% ………………………. hay là 8 điểm 10. Cửu lê được 70% …………………………… hay là 7 điểm Tổng số là 72 vo tròn lại là 70. Có nhiều số cho điểm còn quá ngặt. Chẳng hạn mục Tam tài lẽ ra phải cho đến 8, 9 điểm, vậy mà lại được có 7 thì hơi oan cho Viêm Việt. Nhưng việc cho điểm số rất dễ chủ quan. Mỗi độc giả thử cho điểm lấy xem sao. Riêng phần tôi muốn cho điểm hơi ngặt là cốt để ăn chắc. Bây giờ ta đi đến kết luận, thường thì chỉ cần 50 điểm đã đỗ, tức đã đủ lý do lập ra một giả thuyết, vậy mà đây đạt 72 thì kể là ưu hạng, tức giả thuyết có đủ nền tảng để lên bậc chủ thuyết: rằng trong Nho giáo sơ khai người Lạc Việt đã đóng góp lối quá bán phần vậy. Tác giả: Kim Định Nguồn: www.dunglac.org
  22. Anh Trần Phương thân mến. Câu hỏi của anh mang tính định lượng về thời gian tồn tại và phát triển của - giả thiết về một nền văn minh toàn cầu đã từng tôn tại - Bởi vậy nếu chưa trả lời được câu này không có nghĩa giả thuyết đó sai - Khi những yếu tố định tính cho sự tồn tại về một nền văn minh này - theo cái nhìn của tôi - đã quá rõ ràng. Còn việc nền văn minh đó tồn tại bao lâu? Bị hủy diệt vào lúc nào? Xã hội đó tổ chức ra sao? Họ làm ra được cái gì? Y phục họ mặc như thế nào...vv...để thể hệ sau làm tiếp khi phương tiện và các lý thuyết khoa học xã hội , nhân văn và kỹ thuật ngày càng hoàn hảo.
  23. Lô xô sóng vỗ mạn thuyền Gió thu thổn thức thuyền quyên đâu rồi Xa xa cánh nhạn sánh đôi Đò đưa một chuyến lạc trôi bến sầu. RELAX Bạn thơ như bến với thuyền Như anh hùng với thuyền quyên sánh rồi Ước gì như nhạn có đôi Thuyền về với bến cho vơi nỗi sầu... Laviedt Trăng tan sầu vỗ mạn thuyền Lênh đênh chở mối sầu miên giữa trời Cô liêu đâu mộng lứa đôi. Biết đâu bờ bến chia vơi nỗi sầu. Thiên Sứ
  24. Rin86 viết: NHỮNG HIỆN TƯỢNG VŨ TRỤ LIÊN QUAN ĐẾN NĂM 2012 Lịch tôn giáo của người MAYA kết thúc vào 2012 Văn minh Maya có một loại lịch gọi là lịch tôn giáo (religious calendar).: Muời ba ngày là một tuần, hai mươi tuần là một năm. Một năm lịch tôn giáo của người Maya chỉ có 260 ngày. Người Maya tính toán lịch của họ theo tròn chu kỳ tồn tại của thế giới, mà chu kì hiện tại kết thúc vào năm 2012. Liên hệ mốc thời gian này với các tài liệu của thiên văn học (Astronomy) và vật lý thiên văn (Astrophysics) ta thấy có nhiều sự kiện trùng hợp: 2. Tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời đều nằm trên một mặt phẳng dẹt gọi là Ecliptic. Theo tính toán của Thiên văn học, Năm 2012 các hành tinh trong hệ mặt trời thẳng hàng với nhau. Điều này theo tính toán của NASA là đúng như vậy. Lực hút từ một loạt các hành tinh thẳng hàng tác động lên mặt trời sẽ làm nhiều điểm trên mặt trời gọi là sun-spot sẽ bắn tung các cơn bão lửa solar- flares về phía các hành tinh . Hiện tượng này gọi là coronary mass ejection (CME). Thực chất solar flares là mảnh bể vụn của mặt trời chứa đầy điện tích. Năm 2001 CME đã tạo solar flare đánh trúng vào Bắc Mỹ làm ngắt điện một vùng rộng lớn. 3. Hiện tượng Galactic alignment Cũng vào 2012, hệ mặt trời (hình đĩa dẹt) của chúng ta lại chuyển dịch đến vị trí cắt ngang Dãi Ngân Hà (Milky way galaxy), nghĩa là nằm cùng một mặt phẳng với dãi Ngân Hà: Galactic alignment. 4. Khả năng đổi cực của Trái đất: Polar shift. Trong tự nhiên Mặt trời thay đổi cực liên tục khoảng 11 năm một lần, còn trái đất thì luôn ổn định cực. Lần vừa rồi mặt trời đổi cực vào năm 2001. Với hiện tượng galactic alignment vào 2012, lần này sự đổi cực của mặt trời có khả năng kéo theo sự thay đổi cực trên trái đất. 5. Trái đất nóng lên, băng tuyết tan nhanh Bên cạnh những dự kiến về biến động thiên văn sắp xảy ra vào 2012, là sự kiện trước mắt về hiện tượng nóng lên nhanh của trái đất. Khối băng địa cực đang tan chảy nhanh hơn dự kiến. 6. Sự trùng hợp thời điểm 2012 với một số tiên tri trong một số lớn các tôn giáo Tất cả các thông tin trên chỉ có tính sơ lược. Hãy gõ 2012 vào Google search hoặc Youtube để đọc nhiều thông tin chi tiết hơn. Phạm Doãn http://blog.360.yahoo.com/blog-eW8Oa5Mhc6d...Re7XwJ0U?p=1731
  25. Rin86 viết: Theo tôi với một nền văn minh đã đạt đến đỉnh cao là tìm ra một lý thuyết thống nhất vũ trụ và để lại những tri kiến thiên văn kỳ vĩ khiến ngay cả nhà tri thức ưu tú nhất trong thời hiện đại phải ngạc nhiên thì tất nó phải qua một giai đoạn sản xuất những công cụ - phương tiện phục vụ cho sự phát triển của tri thức. Tuy nhiên vấn đề là những công cụ đó cần những cái gì và là những cái gì? Nó có nhất thiết phải đi theo con đường mà lịch sử nền văn minh hiện đại đã và đang đi không? Nói cụ thể hơn là nó có nhất thiết phải khai thác tất cả các mỏ dầu, quặng trên trái đất để thỏa mãn nhu cầu cho phương tiện sử dụng đến từng con người trong công đồng - như ô tô, ti vi, tủ lạnh....không? Hơn nữa, một sự hủy diệt có tính toàn cầu tất yếu phải kèm theo những biến động ở bề mặt địa cầu. Tức là có xáo trộn ở kết cấu địa tầng vỏ quả đất. Có thể giải thích từ sự xáo trộn này mà tạo nên sự xuất hiện những mỏ quặng mới để nền văn minh sau đó khai thác vì phù hợp với phát triển của nó. Chúng ta thấy rằng - mặc dù cùng tồn tại trên bề mặt địa cầu - nhưng chỉ với một khoảng cách địa lý khác nhau mà nền văn minh Phương Tây đã phát triển khác với văn minh Phương Đông trong những ngàn năm đầu tiên của lịch sử văn minh nhân loại. Sự hòa nhập hai nền văn minh chỉ là những thế kỷ gần đây. Do đó với một nền văn minh tồn tại ở thời gian khác, vẫn có thể hoàn toàn phát triển theo một trình tự không giống lịch sử phát triển của nền văn minh hiện đại. Tuy nhiên chân lý tận cùng chỉ có một mà thôi. Bởi vậy, dù phát triển theo con đường nào thì vẫn có thể khẳng định rằng: Chân lý cuối cùng phải được sáng tỏ. Hay nói một cách khác: Họ vẫn đạt đến lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại hiện đại đang mơ ước. Nếu xét theo tiêu chí khoa học về một lý thuyết khoa học - Xét theo định tính cho một lý thuyết thống nhất vũ trụ thì thuyết Âm Dương Ngũ hành được phục hồi nhân danh nền văn minh Việt chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước. Nhưng - rất tiếc - cái "hầu hết những nhà khoa học trong nước* " và "cộng đồng khoa học quốc tế*" không dễ gì công nhận lịch sử Việt trải gần 5000 văn hiến mà họ đã trót phủ nhận. Nên họ phải tìm mọi cách để minh chứng Thiên Sứ sai lầm (Chủ yếu là sau lứng Thiên Sứ). Vì thuyết Âm Dương Ngũ hành là lý thuyết thống nhất gắn liền chặt chẽ hữu cơ với lịch sử văn hiến Việt. Nhưng chính nhu cầu phát triển của nền văn minh nhân loại sẽ phải thừa nhận dù rất muộn màng. Tuy nhiên, mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn nếu thừa nhận điều này ngay hôm nay. :rolleyes: ---------------- * Lời trong bài viết của tác giả Nguyễn Anh Hùng trong KTNN số 256.