Thiên Sứ

Vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt Nam

2 bài viết trong chủ đề này

Vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt Nam

Với bất cứ dân tộc, hay tôn giáo nào, hễ đã nói tới nguồn gốc là trở thành vấn đề nghĩa là nói đến những khó khăn, những nghi ngờ, do dự, tìm kiếm rồi nhân đó nẩy ra rất nhiều ý kiến, nhiều giả thuyết. Nước Việt Nam tất nhiên không nằm ngoài thông lệ đó được: vì nguồn gốc thường bị chôn sâu dưới những dĩ vãng hỗn tạp: ai dám tự hào biết đích xác và biết hết cả được. Thành ra mỗi thuyết chỉ nói lên được một vài điểm nào đó. Người sau thấy có những điều thiếu sót thì lại đưa ra một thuyết mới, để cố nói lên những điều bỏ sót nọ, và đấy là trường hợp Việt Nho, nó dựa trên một số sự kiện hoặc bị các thuyết trước bỏ quên hoặc để lu mờ sau đây:

- Trước hết là mối liên hệ giữa Việt Nam và Bách Việt bị bỏ lơ là, nhiều người còn cho là không liên hệ chi cả với người Việt Nam này.

- Không đặt nổi được sự dị biệt giữa hai thứ Nho Giáo, một của thị dân, một của thôn dân, nên không nhìn ra trận tuyến văn hóa đích thực nằm giữa Hán Nho và Nho sơ khởi mà lại đặt lầm sang địa hạt chính trị giữa Tàu và Việt.

- Bởi thế thay vì nhìn nhận mối liên hệ thâm sâu giữa văn hóa Việt Nam với Nho Giáo, thì lại đặt chúng trên hai trận tuyến chống nhau.

- Do đó không thể nói lên cách lí giải đâu là nét đặc trưng của văn hóa nước nhà, ít ra những nét cơ bản nhất.

- Vì vậy không thể thiết lập nổi cho nước một chủ đạo thích hợp tính tình phong thổ và trình độ tiến hóa riêng biệt.

Đấy là những khuyết điểm mà Việt Nho muốn bổ cứu. Có thể nói năm điểm trên thuộc đối tượng. Ngoài ra nó cũng muốn đóng góp cả về phương pháp. Là vì trong làng văn hoá quốc tế đã có những phương pháp mới rất đáng chú ý mà cho tới nay chưa thấy được áp dụng ít ra cách triệt để vào việc tìm hiểu văn hóa nước nhà. Thế mà với bất cứ nền văn hóa nào thì những phương pháp nọ cũng rọi nhiều tia sáng mới lạ rất đáng chú ý, huống nữa với nền văn hóa Việt Nam có hai điểm khác văn hóa Tây phương: một là nó ưa lối không nói mà nói, gọi là “ý tại ngôn ngoại”. Hai là có sự tham dự của dân chúng vào việc hình thành văn hóa, thế mà dân chúng không “viết sách” dài nhưng chỉ nói vắn tắt qua ca dao, qua thể chế, thói tục, lễ lạy, huyền thoại… Vậy cần một phương pháp chú ý tới tất cả những cái đó, và đấy là điều chúng tôi thử làm với thuyết Việt Nho và gọi là huyền sử. Huyền sử là kết tinh bởi những phương pháp của các khoa nhân văn mới như xã hội học đặt nặng trên thói tục, thể chế uyên tâm chú ý đến huyền thoại được coi như tiếng nói của tiềm thức, cơ cấu chú ý hơn hết đến các con số tiêu biểu, khảo cổ dựa trên các di tích thám quật được.

Đó là những yếu tố mới lạ, khác với phương pháp quen dùng tới nay nặng tính chất hàn lâm hoặc duy sử. Vì có sự khác biệt cả về đối tượng lẫn phương pháp nên tất nhiên Viêt Nho đưa ra một lối nhìn khác xưa cùng với những đề quyết nhiều khi động trời khiến một số học giả bỡ ngỡ. Vậy với quyển này tuy chưa là tận cùng nhưng đã là thứ chín trong toàn bộ nên chúng tôi đã có thể nói rõ hơn về lập trường riêng, đồng thời đưa ra một vài kiểm điểm để gọi là mời độc giả cùng chúng tôi nghỉ giải lao để nhìn trở lại những bước đã kinh qua. Con đường tìm về nguồn gốc văn hóa dân tộc là đường bất tận, chẳng bao giờ tới cùng, nên lâu lâu phải dừng lại để kiểm điểm. Xong lại lên đường.

Chữ viết tắt

------------------------------

Archeo: The archeology of ancient china, by Kwang - chih – chang. Yale University Press. New haven. 1968.

Bezacier: L’art Vietnamien par L. Bezacier. Ed. Union Francaise. Paris 1954

Caedes: Les états himdouisés d’lndochine et d’lndonésie par G. Caedes. éd. de Boccard. Paris. 1948

Escara: Les institutions de la Chine par Henri Maspéro et Jean Escara P.U.F 1952

Eberhard: A History of China by Wolfram Eberhard. London 1955. Bản dịch Pháp của nhà Payot Paris.

Huard: Connaissance du Vietnam. EFEO 1954

Keim: Panorama de la Chine par Jean Keim Hachette 1951

Marg: La langue et l’écriture chinoises par Georges Margoulies. Payot Paris 1943.

Terrien: The languagas of China before he chinese by Terrien de La Couperie. Tapel 1970.

Chú ý: Các ký hiệu đã cho trong các quyển trước cùng bộ không nhắc tới.

I. Nền móng của Việt Nho

A. Những yếu tố văn minh của Lạc Việt

Trong “Việt lý Tố nguyên” có hai đề thuyết động trời một là Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu, hai là chính người Bách Việt đã chủ xướng ra Nho giáo, người Tàu chỉ làm cho hoàn bị cũng như làm sa đoạ ra Hán Nho. Chủ đề nhất kể như được kiện chứng rồi. Ở đây tôi chỉ chú ý đến chủ đề hai có tính chất thuần túy văn hóa.

Đó quả là một chủ đề quá táo bạo; nên có người cho rằng người Tàu sẽ không thèm cãi mà chỉ cười, cười khinh. Còn học giả ta thì một vài vị mới nói ngầm là ái quốc quá khích, là chủ quan…, ngoại giả còn chờ xem (wait and see). Tôi không chú ý đến người Tàu hay những người cho là quá khích, hay vội vàng, vì mỗi người có quyền nói lên cảm nghĩ của mình, nhưng đó mới là cảm nghĩ chưa xài được. Muốn xài (tức là đưa ra tranh luận) phải kê khai ra điểm nào là quá khích, điểm nào là chủ quan. Điều đó chưa ai làm, nên những bài sau đây chưa hẳn nhằm trả lời ai mà chỉ có ý đáp ứng sự chờ đợi của một số độc giả mong tôi minh định thêm về chủ trương Việt Nho.

Vậy việc trước hết phải làm là xem thuyết Việt Nho có nền tảng nào chăng. Muốn thế thì cần xét xem khi hai chủng gặp gỡ thì ai hơn, ai kém: nếu Hoa tộc hơn hẳn Việt tộc thì thuyết Việt Nho thiếu nền, ngược lại là có nền. Dấu hiệu để xét đoán hơn kém là sự vay mượn: ai vay là kém. Nếu người Tàu vay mượn Lạc Việt nhiều thì ta có quyền đưa ra thuyết như trên.

Vậy mà có nhiều việc chứng tỏ người Việt hơn. Tất nhiên không hơn vì có tài đặc biệt nhưng hơn vì vào nước Tàu trước, chiếm cứ miền tốt nhất là Hồ quảng, nên có dịp đi trước về một số điểm thí dụ về đóng thuyền bè đã giỏi đủ để vượt trùng dương đến các đảo xa xôi. Thứ đến là Lạc Việt hơn Tàu về cái nỏ. Trung Hoa đã tiếp xúc với Việt ở Kinh man từ đời nhà Hạ, mà mãi đến đời Tần, Tàu vẫn còn kém về nỏ; ẩn tích sự vụ đó còn để lại trong câu truyện huyền thoại nỏ thần của An Dương Vương chống Triệu Đà.

Tàu học của Việt ở đất Kinh man rất nhiều nhưng it ai chú ý đến là vì không chú ý đến sự kiện Lạc Việt đã vào nước Tàu trước cả hàng ngàn năm, khiến cho Tàu đến sau phải mượn của Việt khá nhiều cái, ta hãy lên sổ tạm:

1. Trước hết là cái nỏ. Người Tàu dùng cung thiếu cây dọc nên không bắn nhiều tên một trật được như nỏ.

2. Thứ đến là nhà nóc oằn góc mái cong lên trời người Tàu mới làm tự đời nhà Đường, trước kia mái nhà của họ thẳng như khoa khảo cổ chứng minh (xem L’art Vietnamienne tr. 32 Bezacier. Hoặc Archéo tr. 99).

3. Đôi đũa ăn cơm. (Naissance de la Chine tr. 307. Hoặc Huard tr. 198).

4. Làm thuyền.

Về điểm này Việt nổi hơn quá nhiều. Lúc Si Vưu thua Hiên Viên thì Lạc Việt đã vượt được biển mà người Tàu mãi tới đời nhà Hạ mới vượt sông Hà ở quãng hẹp nhất nơi cửa sông Vị, chứ chưa dám vượt phía đông rộng hơn.

5. Thủy vận và nghề đánh cá của dân Việt ông Huard (tr.227) nhận xét ngôn ngữ Việt đầy tiếng về thuyền bè…

6. Cách lợi dụng nước thủy triều để làm ruộng của dân Lạc Việt. Đây là điểm được người Tàu đặc biệt chú tâm coi như liên hệ tới vận số quốc gia của họ* thế mà còn phải mượn của Việt thì còn có thể nói đến nhiều cái khác như sơn mài mà người Thái ở Thục hơn Tàu. Nói chung thì trong hai ngàn năm đầu chỉ thấy có Tàu mượn Việt mà không thấy Việt mượn Tàu. Tàu hơn Việt được cái xe, nhưng Việt không mượn vì chuyên về thuyền.

------------------

* Có thể nhận thấy điều đó qua luận án Key economic in Chinese history, as revealed in the development of public works for water control của Chi Chao Tinh, London, 1936. Chủ thuyết trong cuốn này là khi nào Tàu săn sóc sông ngòi thì nước cường thịnh, đó là lối giải nghĩa thượng tầng văn hóa chính trị bằng hạ tầng kinh tế. Chúng ta không theo lối giải nghĩa đó, nhưng công nhận rằng tác giả nhìn thấy tầm quan trọng của việc trị thủy.

B. Người Tàu có thu nhận những yếu tố văn hóa Lạc Việt chăng?

Đó là phần văn minh. Bây giờ chúng ta bước sang phần văn hóa và hỏi người Tàu có mượn chi chăng? Thưa có nhiều. Hãy đi từ hình thức đến nội dung. Về hình thức thì nên chú ý đến ngôn ngữ là đầu, vì vay mượn ngôn ngữ của ai là đầu phục văn hóa của họ, coi là cao hơn. Thế mà trong vụ này thì cổ Mã lai có cho Trung Hoa vay. Thế mà cổ Mã lai với Bách Việt đồng tông (xem Việt Lý tr. 341). Việt chỉ học với Tàu về sau. Còn lúc mới gặp gỡ thì Tàu mượn của ta nhiều tiếng như đậu do đỗ, bản do ván, vân do mây... Về điễm này tôi không chuyên môn mà chỉ đọc ít nhiều tài liệu nói đến chuyện Hoa tộc vay nhiều tiếng của Lạc Việt đến nỗi cả cú pháp của họ cũng có thay đổi (Xin xem chi tiết trong quyển The languages of China before the Chinese của Terrein de Lacouperie mới được Chieng Wen tái bản tại Đài Bắc 1970) vì là ngành chuyên môn nên tôi xin thông qua để bàn sang các chuyện khác nhất là triết.

C. Ba cột cái của Nho.

Nói đến triết thì quan trọng không còn nằm trong hình thức (ngôn ngữ, chữ viết) mà là trong nội dung: “từ đạt nhi dĩ hĩ”. Vậy xét nội dung thì thấy trong Nho Giáo có những yếu tố sau đây của Lạc Việt là đạo thờ trời, lễ gia tiên và ngũ hành.

1. Đạo thờ trời là của Bách Việt về sau Tàu mượn và dành cho vua, dân không được thờ, đang khi bên ta đến năm 1945 có nơi đến 80% gia đình trong nhà có bàn thờ ông Thiên.*

-------------

* Chỗ này Võ phiến có một bài nhận xét nhan đề là ” Đất của con người” đăng trong Bách Khoa số 376 tháng 9-12 nói về miền Nam. Đại khái: “Đâu cũng có dấu tín ngưỡng: ngoài sân thờ ông Thiên, trong nhà thờ ông Địa và khắp cùng nơi dong chơi các ông Đạo… Đất miền Nam cơ hồ thuộc các đấng thần linh. Thế mà lạ: không ở đâu con người được đề cao bằng ở đây. Đây mới chính thị là đất của con người…”

Đây là bài tôi cho là sâu sắc và rất hợp với thuyết nhân chủ của tôi, con người hòa hợp với trời đất, mà vẫn giữ được nhân chủ tính… cũng như chủ trương coi miền Nam phản chiếu Việt Nho hơn hết (xem Vấn đề Quốc học).

------

Trời mà Việt Nho thờ rất bao dung như mẹ hiền. Có lẽ sau này Tàu đổi ra ông Trời, còn trước kia với Lạc Việt là bà Trời. “Ông trăng mà lấy bà trời”. Cùng với Thái dương thần nữ của Nhật, hay Cửu thiên huyền nữ của ta là một gốc. Chính đạo thờ trời này liên hệ với nhân chủ tính (xây trên tam tài) mà biểu hiện là gia tiên.

2. Vậy lễ gia tiên cũng là của Lạc Việt, Tàu mượn và dành cho quý tộc, chứ dân chúng không được thờ. Có người nhận xét là gia đình Tàu không có bàn thờ tổ tiên khác hẳn với Việt Nam nhà nào cũng có. Như vậy đã rõ nơi phát xuất phải là Việt thì người Việt mới thấm nhuần nhiều hơn được như vậy.

3. Còn ngũ hành thì đến nay các học giả cho là phát xuất tự đông nam kể cả tử vi căn cứ trên ngũ hành. Còn ý kiến bảo tự Tây Âu bị bác bỏ vì Tây thường là tứ hành với khí và gió lửa, đất (xem Need 11.244,246,355). Cũng như Âm Dương không thể do Perse vì không có tốt xấu, âm không xấu… (Need 11.277). Vì thế có thể coi là do Kinh sở tức do Lạc Việt, cả ngũ hành lẫn âm dương.

Đó là những cột cái hay là cơ cấu của Nho giáo sơ khởi và có thể coi như là những lẽ chứng minh tức căn bổn, còn lý do tùy để kiện chứng thì có thể đưa ra hai điểm sau:

Trước hết là việc Khổng Tử tuyên bố “thuật nhi bất tác” tức chỉ thuật lại đạo cổ xưa chứ ông không sáng tác và nếu cần xác định là đạo cổ ở phương nào thì ông bảo ở phương Nam. Trong câu: ”Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo. Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi.” Trung dung 10. Vì những lý do trên chúng ta nên từ bỏ hai thói quen: trước hết là coi Khổng Tử như người sáng lập ra Nho giáo. Công của Khổng Tử là làm cho đạo Nho phục hồi sức mạnh mà thôi.

Hai là trung tâm văn hóa của Tàu luôn luôn ở Hồ Quảng, tức miền của Lạc Việt hoặc thời Khổng Tử là Sơn Đông (Tề, Lỗ) cũng là miền có sự hiện diện lâu đời của Lạc Việt.

Với ba lý chứng lớn lao, với hai lẽ kiện chứng cụ thể tôi cho là không những có nền để đặt giả thuyết Việt Nho, mà thuyết đó còn đáng nâng lên bậc chủ thuyết.

D. Khả năng tiếp xúc.

Có người căn cứ trên sự kiện là không có sọ Lạc Việt ở vùng Hoa Bắc mà chối từ giả thuyết trên, nhưng giả sử là cuộc thám quật đã đầy đủ đi nữa thì vẫn còn nhiều lối khác như Viêm Việt ở hai phía Hoa Bắc là Sơn Đông (Đông di) và phía Tây (Khuyển nhung) ép Hoa tộc vào giữa, còn phía Nam thì nắm trọn. Nếu người Tàu chưa vượt được Hoàng Hà thì đã có người Việt: chữ Việt có nghĩa cụ thể là vượt Hà: vượt xuống Nam cũng như vượt lên Bắc. Vì thế mà năm 672 trước kỷ nguyên, nhà Chu còn phải xuống chiếu phủ dụ sở Thành vương phải chế phục và bình định những rợ Nam man, để cho lũ man di Việt đừng xâm phạm Trung Nguyên. Vả lại về ảnh hưởng văn hóa đâu có cần sự ở chen kẽ, chỉ cần tiếp xúc, mà Hoa tộc thì tự lúc vào nước Tàu đã liên tục tiếp xúc với Lạc Việt cả ba phía Đông, Tây, Nam. Vả lại Nho giáo chỉ kết tinh vào đời Chu thì không nên gảy bỏ ảnh hưởng miền dưới sông Hoàng Hà mà sức ảnh hưởng lớn lao đến nỗi đổi cả tâm hồn trí não, tâm tình vóc dáng và màu da của người Tàu đến cư ngụ ở miền Kinh Việt, cả chỉ số của họ cũng đổi đến nỗi có người nghĩ phải đặt ra cho họ một chủng riêng là Nam Mông gô lích. Tất cả những sự việc này xảy ra thời chung đúc Việt nho với Hoa nho làm nên Vương nho. Việt nho thuần chủng là tự đầu đến Hiên viên. Vương nho tự Hiên viên tới thời Xuân Thu, rồi Đế nho thời Ngũ Bá. Sau đó là Hán nho. Vì những lý do trên mà tôi cho là Tàu đã vay mượn cả văn hóa Lạc Việt nữa. Văn hóa đó tôi gọi là Nho giáo đang thai nghén tức mới cảm thấy lơ mơ nên diễn bằng huyền thoại. Có ý thức đủ để diễn ra bằng ngôn từ, văn tự, ý tưởng thì sẽ được người Tàu (hay lai Tàu) làm về sau đời nhà Chu, nhất là với Khổng Tử, tức là lối hai ngàn năm sau khi người Tàu đặt chân vào nước Tàu, nên quá đủ lâu dài để gồm cả ảnh hưởng Lạc Việt ở Kinh man vào đó. Vậy nói người Tàu vay mượn văn hóa Việt là có quá nhiều tang chứng, chứ không phải vô bằng chủ quan hay vội vàng như có người nghĩ đâu.

E. Thiếu sòng phẳng

Trong phạm vi văn hóa việc chủng này vay mượn chủng kia là quá thường không cần phải khai ra cũng chẳng sao, nhất là đối với Tàu là kẻ mạnh hơn Việt thì trước việc khai ra càng có lý do. Thế hỏi tại sao lại bảo người ta ăn cướp. Thưa rằng đó chẳng qua là lối nhấn mạnh cho câu văn mang tính chất kích động vậy thôi. Tuy nhiên vì là những danh từ có vẻ dao búa thì cũng phải có lý do nào đó mới được phép xài, và lý do đó ở tại việc Tàu có vay mượn của Việt mà lại khi dể người ta cho là Man di Bách Việt, thế cho nên tôi mới đi tìm thử coi Man di đáng khinh chăng thì té ra không hẳn như vậy, mà trái lại Tàu có vay mượn lại còn có cả cạo số nữa chứ. Thí dụ Lạc bộ chuy mà Tàu đã vay mượn tôn giáo thì lại viết với bộ thủy, thành ra Lạc bộ chuy mất tích luôn. Thế mà Lạc bộ chuy là Môn tức tổ tiên xa nhất của ta và còn để ẩn tích lại trong danh hiệu Hồng Bàng (chữ Hồng với chuy có liên hệ Điểu) thế mà sự cạo số đã thành công đến nỗi người Việt về sau mất trọn ý thức về mối liên hệ với Môn với Điểu, đến nỗi ngày nay nhiều người còn cho truyện Hồng Bàng thị là hoang đường thì đủ biết đã có sự cố tâm xóa bỏ gốc tích người ta.

Đấy là những chuyện lặt vặt, chắc còn nhiều mà ta chưa kịp truy tầm, nhưng đây chỉ cần nêu ra một việc quan trọng là trong khi lên sổ những chủng tộc làm thành dân tộc nước Tàu thì họ chỉ kể tới có Mông, Mãn, Hồi, Tạng còn Bách Việt thì quên ắng đi. Đang khi ấy thì chính Bách Việt vừa đông người nhất vừa đóng góp văn hóa nhiều nhất.

Đông nhất đến nỗi có thể nói là 60 hoặc 70% dân Tàu hiện nay là người Bách Việt. Vì thế tôi coi đó là một cuộc cạo số to nhất mà chúng ta có thể kiểm kê xuyên qua lối phát âm và được khoa ngôn ngữ tỉ giảo cho biết có đến 7, 8 phần mười người Tàu nói theo giọng Việt, hay nói theo phương âm là 9 trên 10.

F. Chín phần mười người Tàu nói theo giọng Việt.

Đó là căn cứ trên phương âm của Tàu hiện nay mà nói. Theo các nhà ngôn ngữ thì Tàu có tất cả 10 phương âm, trong đó Trung Nguyên của Tàu chính cống chỉ là một gồm Đông Thiểm Tây, Nam Hà Bắc, Nam Sơn Tây. Ngoại giả toàn là Tàu đọc giọng Lạc Việt gồm:

1. Tần ngữ: Ở Thiểm Tây được coi như tiếng tiền quan thoại.

2. Thục ngữ: là âm của người Thái xưa.

3. Yên, Tề ngữ: Đông Di (Sơn Đông) hay là Lạc Địch.

4. Sở ngữ: Kinh Man, Lạc Việt. Trung tâm văn hóa nước Tàu.

5. Mân ngữ: Mân Việt ở Phúc Kiến.

6. Việt ngữ: Quảng Đông, Quảng Tây.

7. Giang Hoài ngữ: Bắc Giang Tô, Việt Chiết Giang.

8. Ngô, Việt ngữ: Giang Tô, Chiết Giang - Việt xưa.

9. Điền Kiềm ngữ: Vân Nam.

Với một sự đóng góp cả về nhân số lẫn văn hóa lớn lao như vậy mà lại bỏ quên thì có dùng chữ cướp tưởng không quá khích chi cả.

Thế là tạm xong, người Tàu có mượn của Việt cả văn minh (nỏ, đũa, thuyền, thủy vận) lẫn văn hóa: đạo thờ trời, gia tiên, ngũ hành, giọng nói… Vậy thuyết cho rằng người Việt đã đóng góp vào việc hình thành Nho giáo có nền tảng.

G. Phần đóng góp của dân gian.

Đề quyết trên càng rõ hơn khi ta chú ý đến điều này là văn hóa trong các xã hội Việt nho được kiến tạo đầu tiên do dân gian, nhất là dân gian nước Sở, tức là Kinh Việt của tiền nhân ta dưới triều đại Kinh Dương Vương mà chúng tôi đã nói nhiều nơi về phần đóng góp quan trọng của dân gian, cũng như việc nhà Hán dùng dân nước Sở làm chủ lực thế mà dân Sở là Hoa gốc Việt, nên Hán chính là dân Kinh Việt.

Xét như trên thì những câu kết luận táo bạo của chúng tôi có đầy căn cứ, phương chi sự táo bạo cũng nhiều khi rất cần thiết trong phạm vi khoa học, dầu có sai đi nữa nhưng chính chúng mới làm cho khoa học tiến bước. Giá trị của chúng là khơi dậy sự chú ý, tạo dịp cho những chống đối, bắt phải điều chỉnh… Đấy là những tác động hợp khoa học vậy.

II. Thử ước lượng một độ số đóng góp của Lạc Việt.

A. Những phân biệt cần thiết.

Trước hết cần nói về nội dung hai chữ Hán nho và Việt nho. Đó là bộ danh từ tôi đặt ra để chỉ hai thứ nho khác nhau. Tôi rất lấy làm lạ tại sao các cụ xưa đã không chú ý tới sự phân biệt nền tảng này, chỉ bằng lòng với hai bộ danh từ Vương Đạo, Bá Đạo, mà không bàn tới nguồn gốc , cũng như những sự kiện lịch sử lớn lao có chứng tích như vụ Thạch Cừ, càng không kê khai ra những dị biệt căn bản giữa hai thứ nho. Theo tôi đó là sự thành công của nhà Hán trong việc xuyên tạc Nho giáo, xuyên tạc tài tình đến độ người sau không chú ý tới việc xuyên tạc nên đó cũng là dấu chỉ sự thất bại của Nho giáo đã không vươn lên được trải hàng ngàn năm. Mãi cho tới thời hiện đại mới được các nhà nghiên cứu Tây phương chú ý tới và phân ra cẩn thận hơn, thí dụ ông René Grousset cũng như ông Demiéville thì phân ra confucéisme là Hán nho (La Chine et son art, p.42). Tuy nhiên học giả Tây phương có phân biệt nhưng chưa một ai khai thác sự phân biệt đó đến cùng triệt nguồn ngọn, nên vẫn còn là một thiếu sót trầm trọng và vì thế chúng tôi thử làm để bù đắp.

Sở dĩ tôi không chấp nhận những bộ danh xưng trên vì quá hẹp chưa bao quát nổi vấn đề nguồn gốc cũng như sự sâu xa của triết nho mà Hán nho đã không nhìn ra. Vì thế mới phải đặt ra cặp danh xưng Hán nho và Việt nho. Với danh từ Hán nho tôi không những muốn chỉ cái nho tự đời Hán đã bị xuyên tạc mà chứng tích là thư viện Thạch Cừ (xem Cửa Khổng chương II) và tính chất là pháp hình tức quá nặng lý sự đến át tình người, mà còn muốn gộp vào đó cả yếu tố du mục như là nguồn gốc, dầu sau này có hoàn toàn nông nghiệp nhưng nếu còn đặt quá nặng lý trí, đề cao tù trưởng (vua) đến độ chuyên chế, đàn áp đàn bà, đặt ra các đặc quyền kèm theo giai cấp… thì vẫn cứ là du mục. Về điểm này độc giả tham khảo trong hai quyển “Cơ cấu Việt nho” và “Triết lý cái Đình” chúng tôi đã giải thích tường tận và sẽ bàn thêm ở dưới. Còn bên vương đạo thì chúng tôi gọi là Việt nho đi với nông nghiệp vì có những đức tính khác như nặng tình cảm, không đàn áp đàn bà, óc công thể thay cho đẳng cấp hay đặc ân, đề cao kinh nghiệm (trọng xỉ) hơn là sức mạnh tức đặt văn trên võ. Những điểm này được phân tích tới cùng triệt và được trình bày theo lối tổng hợp Đông Tây và tôi gọi là Việt nho, theo nghĩa nho siêu việt, siêu hình. Kèm theo đó còn một nghĩa nguồn gốc: Việt nho đó là của người Việt hiểu cả về xưa lẫn nay: xưa là tổ tiên Lạc Việt đã đặt nền móng, còn nay là có người Việt khai quật lên. Giả thuyết này được đưa ra là cốt để bơm sinh khí cho làng văn học Việt Nam mà thôi, nên danh nghĩa hai này rất là tùy phụ, nghĩa siêu hình trên mới là chính cốt. Tôi sẽ trở lại điểm này sau.

Bây giờ xin tiếp tục bàn đến phương pháp mới gọi là “chỉ số văn hóa” tức là lên sổ những yếu tố căn bản của nho rồi cho số điểm của Hán nho và Việt nho để xem hơn kém. Vậy trước hết xin phân tích Việt nho ra các điểm then chốt. Có hai tiểu đề lớn một là cơ cấu hai là nội dung. Mỗi đàng chỉ xin lấy 5 điểm làm mẫu.

B. Nội dung.

1. - Nhân chủ.

2. - Dân chủ.

3. - Bình quyền mọi người.

4. - Bình quyền nam nữ.

5. - Bình quân tình lý.

Cơ cấu gồm các số sau:

6. - Nhất = Thái cực.

7. - Nhị = Lưỡng nghi.

8. - Tam = Tam tài.

9. - Ngũ = Ngũ hành.

10. - Cửu = Cửu nữ.

Thế là có 10 mục mẫu. Tất nhiên có thêm được nhiều nhưng lấy 10 cho gọn. Mỗi đề cho tối đa 10 điểm cộng cả là 100 điểm, 50 điểm là trung bình, đỗ hạng thứ; 60 bình thứ, 70 ưu… Vậy bây giờ chúng ta đi vào chi tiết.

1. Điểm nhất là nhân chủ: Nhân chủ là khi xem con người đứng độc lập với trời và đất và tự làm chủ lấy bản thân mình, nghĩa là những thể thái sinh động giao liên được căn cứ trên bản tính con người hơn là trên những qui luật phát xuất tự trời hay đất. Và đó là thái độ độc lập căn bản làm nên nhân chủ tính, đưa lại cho con người qui chế vương giả, đường hoàng trong cõi riêng của mình. Nhưng độc lập mà không cô lập vì vẫn giữ liên hệ với trời với đất, bởi vậy gọi là nền nhân bản thái hòa. Nó khác với duy thiên là đi hẳn với trời (bái vật) cũng như duy địa đi hẳn với đất (duy vật) mà còn khác cả duy nhân nữa, vì thuyết này đối lập với trời cùng đất, coi người là trung tâm duy nhất. Ngược lại nhân chủ của Việt nho đứng trong thể tam tài tức có liên hệ mật thiết với trời cùng đất. Vậy phải gọi là nhân chủ, mà lý tưởng là phụng sự con người khi sống cũng như lúc chết, và do đó mà có lễ gia tiên kể được như biểu hiệu của nhân chủ tính, nên gia tiên chỉ có ở những nơi nào có nhân chủ tính. Đó là nét đặc trưng của Lạc Việt y như tam tài cũng là nét đặc trưng vì nó đặt con người ngang hàng cùng trời đất. Vì trong đó con người được tự do không phải nô lệ cho ý hệ nào. Không có chuyện giết người hay bắt người hi sinh cho những tư tưởng Tàu còn chôn người theo kẻ chết chứ Việt Nam thì không. Bách Việt cũng giống như tất cả mọi chủng tộc, ban đầu cũng đi qua bái vật: hi sinh người cho thần minh như giết người tế thần, nhưng rồi Việt bỏ tục man rợ đó trước Tàu, vì mãi tới thời Chiến Quốc mà Tàu còn giữ tục dã man đó. Vậy thì nhân chủ tính nên quy cho Hán hay Việt? Hán nho xét như là du mục nơi nhà cai trị quen xem bị trị như kiểu đoàn vật, thì không thể nào chịu để cho nảy sinh óc nhân chủ: sợ sẽ khó bảo. Vì thế mà tôi cho nhân chủ là của Lạc Việt đến 80%. Bây giờ bàn đến dân quyền.

2. Dân quyền: Đây là hệ quả của nhân chủ. Vì hễ đã là nhân chủ chân thực thì quyền bính được đặt trong tay nhân quyền nghĩa là ai nhân đức nhất tức thực hiện được nhân tính nhất thì nắm quyền bính. Đây là nói lý thuyết mà không kể hiện thực ít khi đạt. Tuy nhiên vẫn đáng nói vì có tiến trên lý thuyết rồi mới tiến được trên thực hiện. Lý thuyết là tiền hô nên thắng trên lý thuyết cũng là chuyện rất cam go phải cả từng ngàn năm mới đạt. Vậy dấu hiệu của dân quyền chân thực là trong xã hội không còn thiên quyền địa quyền. Thiên quyền là thần quyền, theo cái nghĩa là có hàng tăng lữ nắm chính quyền hay ra lệnh cho những người nắm chính quyền như trong xã hội Âu Ấn thời Trung cổ vua phải tuân lệnh quyền đạo. Còn địa quyền là những thế lực tài chính như bên Âu Châu sau cách mạng 1789 cho tới ngày nay. Cả hai thời đó chưa có dân quyền. Cái gọi là dân quyền ngày nay chỉ là hình thức, trong thực trạng là các thế lực kim tiền nắm trọn. Về điểm này thì Việt Nam vẫn hơn Tàu, thí dụ xã thôn Việt Nam dân chủ hơn hẳn xã thôn Tàu* cũng như lễ gia tiên không bao giờ dành cho quý tộc như bên Tàu. Đằng khác bên Tàu pháp gia (thương gia) đã ảnh hưởng khá mạnh vào chính quyền. Tức là để cho thế quyền (địa) nắm chính quyền mà không còn là nhân quyền. Vì thế ở điều này ta cũng có thể quy cho Việt Nam đến 70%.

-----------

* Về điểm này nên đọc quyển Việt Nam sociologie d’une guerre có thể nói toàn quyển đặt nền trên cái làng Việt Nam. Nhất là những trang 280. Tây cố phá làng Việt Nam ra sao… trang 330.

3. Bình quyền: là hết mọi người đều được hưởng quyền lợi như nhau: cùng ăn cùng chịu, không có đặc ân đặc quyền. Bởi vì nhân chủ coi mọi người đều là người nên mọi người đều được quyền lợi như nhau. Vì thế không có đặc quyền làm người dành cho một thiểu số, ngoại giả là nô lệ. Cũng không có đặc quyền tài sản dẫn đến tư sản tuyệt đối, nhưng ai cũng được tham dự vào tài sản chung gọi là bình sản. Về điểm này tuy tôi chưa để tâm nghiên cứu tỉ mỉ, nhưng có thể nói chung là Việt Nam trội vượt hơn bên Tàu. Bên Tàu không kể đến những triều ngoại quốc như Mông Cổ thì tài sản tích luỹ lại quá nhiều trong tay triều đại và thân thích, đến như những nhà bổn quốc thì sự chênh lệch cũng đầy. Tôi đọc thấy chẳng hạn đời Tống ruộng công chỉ còn 4% so với bên ta năm 1940 còn được đến 20% (tất cả những chi tiết này xin dành lại cho những người đang đi tìm đề tài luận án cao học hay tiến sỹ…) vậy điểm này có thể quy cho Việt Nam ít ra 60%.

4. Bình quyền nam nữ: Điều này chỉ là hệ luận của điểm 3. Nhưng vì địa vị đàn bà có một nét biểu tượng rõ ràng hơn nên chúng ta để riêng ra một số. Nói chung từ trước đến nay đàn bà ở đâu cũng bị lép vế, và mãi tận ngày nay vẫn còn phải có những mặt trận tranh đấu cho nữ quyền. Nhìn trong chiều hướng chung đó ta có thể nói ở Việt Nam thì tương đối đàn bà được tự do tuy sau bị ảnh hưởng Hán nho có sứt mẻ nhiều nhưng nói chung đàn bà vẫn tự do hơn bên Tàu, đến nỗi có những học giả cho rằng điểm duy nhất Việt Nam nổi vượt không những hơn Tây mà còn hơn cả Tàu là địa vị đàn bà ngang hàng với đàn ông (La Femme Annamite P: 16 Lustéguy). Không nên nói rằng xưa kia đâu đâu cũng như vậy, vì lúc ấy kể như chưa có văn hóa. Có văn hóa tự lúc con người can thiệp sắp xếp sao đó, và tự lúc ấy thì ta thấy rõ là có sự khác nhau giữa Tàu và ta mãi tự xa xưa rồi. Mãi tự đó ta đã thấy phụ nữ Việt Nam nắm quyền tư tế (các bà đồng) hay ít nữa là đồng tế trong lễ gia tiên. Về tài sản tuy chồng làm chủ nhưng đó là tự nhiên, trong nhà một chủ mới ổn, người đó tất nhiên là chồng nhưng khi chồng chết thì đến lượt vợ, chứ không có chuyện bà góa không được quyền hành chi trên tài sản như bên Tây phương. Có người xin tha cho thuyết “văn minh cồng gặp văn minh lệnh” nhưng tôi có nói gì khác hơn là đưa ra một số quyền lợi mà phụ nữ Viễn Đông vẫn giữ được trội vượt hơn hai nền văn minh Âu Ấn? Và cả bên Tàu nơi người chồng xem vợ con như nô lệ? Vì thế điểm này tôi cho Lạc Việt 70%

5. Quân bình tình lý: Hay nói khác là văn võ song hành. Văn đi với tình người, võ đi với lý sự. Tôi thích nhìn bên chiêu là biểu thị tình người vì đi về tay trái là bên có trái tim, nên là bên tâm linh, còn bên mục là tay mặt là sức mạnh. Đại khái thuyết chiêu mục chỉ nói có thế không hiểu vì lý do nào có người muốn bác đi mà vẫn đồng thời công nhận “tả nhậm” là nét đặc trưng của Lạc Việt, đang khi người Tàu nhiều thời trọng bên mục: nhà Thương, Chu, Tần… Còn chuyện người Tàu nặng lý trí, còn tâm tình cằn cỗi thì hiển nhiên. Vì thế nhiều khi chiêu được coi trọng như mục hay có khi còn hơn thì là biểu thị cho vị trí tình vẫn được duy trì cân đối với lý làm nên nét đặc trưng là tình lý tương tham và tôi cho là sự quân bình này thuộc Viêm Việt đến 80%.

Bây giờ bàn đến cơ cấu tức là cái khuôn tiên thiên dùng để diễn tả những ý tưởng chính. Đó là những lược đồ, những biểu tượng như tròn vuông, kinh vĩ v. v… hay là những huyền số. Có tất cả 10số trong đó quan trọng hơn cả là 1, 2, 3, 5 ,9. Ta sẽ lần lượt bàn:

6. Số một: Trong cổ sử Tàu có hai lối biểu thị con số quan trọng này là vòng tròn phẳng, đôi khi có lỗ ở giữa, hai vòng tròn gắn liền với âm dương và gọi là vòng thái nhất. Về vòng một không có gì đáng nói lắm vì là của chung nhân loại đâu đâu cũng có và câu nói Thượng Đế là một vòng tròn là thí dụ (xem bài Thái cực trong chữ Thời). Vậy thì điều đáng chú ý ở đây là cái thái nhất hay vòng thái cực mà cũng gọi là nhất nguyên lưỡng cực được dùng tới nhiều nhất và được coi là đặc trưng của Viễn Đông và tôi cho là thuộc Bách Việt đến 80% như sẽ bàn rõ hơn ở số 2 sau, vì một đàng thích nghi với tiềm thể gọi là âm, một đàng thích nghi với xuất lộ gọi là dương. Đó là hai mối thích nghi bao quát, không bao giờ được li lìa, bởi đó là đạo. Kinh dịch viết “nhất âm nhất dương chi vi đạo”. Câu ấy nói lên sự bao quát của đạo cả âm lẫn dương. Cả trời cả đất cùng với người làm nên nhất thể. Có lẽ đây là chỗ phải nói đến mái nhà cong và thuyền cong mũi của Lạc Việt thì hầu chắc là do ảnh hưởng này, bởi xét về đàng thực tế thì mái cong nóc oằn thật là vô ích. Vì không phải để tránh tuyết. Người Tàu còn ở mạn Bắc hơn nghĩa là gần tuyết hơn vậy mà góc mái nhà của họ lại thẳng, cho nên góc mái cong nóc oằn chỉ có thể do triết. Vì mái cong là của Lạc Việt nên tôi cho vòng thái nhất là của Lạc Việt đến 80%.

7. Số hai: Trên kia mới là vài dấu bên ngoài, cái nét đi đôi nền tảng hơn hết là âm dương. Hai nét này tôi cho là của Lạc Việt đã được kiểu thức hóa từ đạo phong nhiêu mà nghi lễ căn bản là các bà tư tế xin mời trời giao hợp với. Do đó sau này gọi là lễ tế giao đã được lý tưởng hóa; còn nguồn gốc là sự giao hợp được biểu thị trong hai nét âm dương, một cơ một ngẫu. Các nhà nghiên cứu Âu Mĩ đầu tiên cứ bị ám ảnh vì chuyện này và cho rằng âm dương chỉ là đạo phong nhiêu tức là cơ quan sinh dục trá hình. Tôi cho đúng như thế, nhưng không là trá hình mà là được kiểu thức hóa để theo nhịp tiến của con người. Những bức chạm trổ hình bà Nữ Oa và Phục Hi cuốn lấy đuôi nhau có thể được xem như những khoen trung gian. Còn chặng đầu thì dấu cụ thể như hai thần Nam Nữ ôm nhau trong thể giao hợp gặp đầy bên Tây Tạng, hay trong những tượng rời nhận thấy trên những bình đồng đào được ở Đào Thịnh (Lao Kay) có 4 đôi nam nữ giao hợp. Rồi tiến đến đợt nhì là hình Nữ Oa Phục Hi quấn lấy đuôi nhau; ở đây đuôi thay cho cơ quan sinh dục. Chặng cuối cùng sẽ là một nét âm đứt với một nét dương liền nên âm dương chính là tiếp nối đạo phong nhiêu. Vậy mà tôn giáo phong nhiêu (fécondité) là nét đặc trưng của Viêm-Việt nên tôi cho số hai là thuộc Việt đến 90%. Có hai số sinh chỉ đất là 2 và 4. Xem ra Lạc Việt chú trọng đặc biệt số 2 như có thể thấy những liên hệ ngầm nào đó với số 2, được kể như đạo (nhất âm nhất dương chi vi đạo) mà đã là đạo thì không thể li lìa dù một giây. Vì thế sử mệnh đã trao vào tay Lạc Việt con số hai để biểu lộ ra trong những việc căn bản hơn hết của con người là ở, ăn, nói.

Ở là nhà nóc oằn mái cong (cong do ảnh hưởng lưỡng nghi).

Ăn là đôi đũa…

Nói là thích dùng nhị âm: như chiếu chăn, non nước, chợ búa, viết lách, quan kiếc. Người Tàu độc âm.

Làm thì có thể biểu thị bằng “Tị dực điểu” sách nhĩ nhã nói phương Nam có loài chim liền cánh không bao giờ bay mà không liền cánh, gọi là kiêm kiêm. Đó là điều biểu thị cho mọi việc làm đều có lưỡng tính.

Vì thế số hai thuộc Lạc Việt đến 90% và do đó Lạc là chủ Kinh dịch một quyển kinh xây trọn vẹn trên hai biểu tượng âm dương.

8. Tam tài: Đây là hệ quả của hai nét trước, nó làm nền móng cho nhân bản, cũng gọi là nhân chủ. Đó là điều tôi khám phá thấy trong Nho giáo, một nền nhân bản tâm linh trung thực nhất, vì được xây trên nền siêu hình là tam tài. Và chính vì thế mà tôi chú ý đến số 3 lâu trước khi chú ý đến câu “tham thiên” trong kinh Dịch, với hai hướng Đông Nam. Có người cho rằng: sở dĩ hai hướng Đông Nam cũng như hai số 3, 2 được quan trọng vì đó là hai hướng người Tàu thấy mầm ăn được nên coi trọng chứ chẳng có triết lý nào hết. Đó là nói phỏng chừng. Xưa nay rất nhiều dân đã thiên di tự Bắc xuống Nam, tự Tây sang Đông mà sao lại chỉ có văn hóa Tầu mới quan trọng hóa hai hướng đó thì không thể quyết đoán suông kiểu duy vật, tức là do việc làm ăn được, mà phải giải nghĩa theo lối tâm linh, vì đó là bầu khí văn hóa với hệ thống các con số trong đó có số ngũ hành, hồng phạm, cửu trù, cũng như thuyết địa lý, phong thủy, coi hướng, coi giờ… có thể là những biến thể của một niềm tin nào đó. Niềm tin đó chính nền tảng đã được hệ thống và kiểu thức hóa như thấy rõ trong nguyệt lệnh: phương Đông đi với số 3, màu xanh v.v… thì không còn là một sự tin thường mà là một nền triết lý tức đã được những phần tử sáng suốt nhất trong dân nước chấp nhận, phát huy và hệ thống hóa. Vì thế mà tôi cho là của Lạc Việt đến 80%.

9. Số ngũ: Bây giờ đến số 5 thì rõ rệt đây là con số nổi của Đông Nam; của văn minh mẹ. Tuy đâu cũng có dùng biểu hiệu số 5 nhưng không đâu nó được quan trọng hóa như ở vùng Lạc Việt. Vì ngự ở trung cung của ngũ hành và do đó trở nên then chốt cho nguyệt lệnh rồi Hồng Phạm, Cửu Trù là cái lý tưởng uyên nguyên của Lạc Thư. Vì thế mà ta có thể gặp lu bù số 5 ở phía Nam hơn ở phía Bắc: ngũ lĩnh, ngũ khê, ngũ hồ, ngũ cốc, ngũ âm… tất cả đều phát xuất tự ngũ hành. Thế mà riêng ở Viễn Đông thì ngũ hành xuất hiện trước hết ở miền Đông và Kinh Việt (xem Need II 244, 246, 355), rồi sau người Tàu mượn. Mượn từ lúc nào? Chắc không phải thời nhà Chu mà ít ra ngay từ đời nhà Hạ “Lúc trời ban cho Hạ vũ Lạc thư” (Xem bài Qui lịch và Ngũ hành trong Chữ thời).

Còn có thể kể ra phận dã nước Việt có sao tỉnh là nguyên ủy khung Lạc thư, vì thế mà tôi cho Lạc thư chính là điền chương của dân Lạc Việt và số 5 thuộc Lạc Việt đến 80%.

10. Số cửu: Đây là con số hơi khó nói vì nhiều nới xài, như Mông Cổ v.v…tuy nhiên xem gần ta nhận ra một sự khác biệt là nó được Lạc Việt chú ý đặc biệt bằng hệ thống hóa: như tự Tam miêu lên ngũ hành rồi cửu Lê và tự nhân lên thành 81 chi hội của Si vưu (9 x 9) thì đó là dấu rõ của việc hệ thống hóa mấy số trên. Còn Hiên viên tù trưởng của Hoa tộc khi đầu chia nước thành 6 châu thì cũng không là 6 châu mà hầu chắc chỉ tâm hồn hướng theo lối du mục ưa số chẵn là số biểu thị triết học vòng ngoài chạy theo lưu tục (một chiều) thường là của phương Bắc được ám chỉ trong câu “con sông lục đẩu sáu khúc nước chảy một chiều anh ơi” tuy sau Hoàng Đế có dùng số 9 nhưng là sau khi thắng Si Vưu mới dùng và cũng chỉ dùng phất phơ, còn cách triệt để thì phải kể từ ông Hạ Vũ, đến nỗi người ta cho văn minh Tàu có tự lúc biết xây nhà, có thế tập và chia nước làm 9 châu. Vì thế nước Tàu kể là có nhà vua cũng như Kế tập tự ông Hạ Vũ. Tuy nhiên đó chỉ là huyền sử tức không có thực mà chỉ có thật nghĩa là có như một lý tưởng tiên thiên.Vì thế bản đồ cửu châu hình học theo kiểu Lạc thư phải vẽ theo hình Lạc thư mới đúng ý nghĩa thâm sâu của nó. Đón xem bài “Vũ chú cửu đỉnh” trong quyển “Cơ cấu Việt nho”. Thiên đó nói về đào sâu sông thì ít mà đào sâu triết (tuấn triết) thì nhiều. Triết nào? Thưa là nền triết tàng ẩn trong Hồng Phạm của Lạc Thư, diễn bằng các số 2, 3, 5 ,9, v.v… và như thế tôi có quá đủ lý do mà bảo số 9 thuộc Viêm Việt đến 70%.

Kết.

Thế là tạm xong cuộc “đo chỉ số văn hóa” ta hãy tóm lại một bảng để nhìn bao trùm xem mỗi điểm Viêm Việt được bao nhiêu:

A. 1. Nhân chủ được 80% ………………………..hay là 8 điểm

2. Dân quyền được 70%................................ hay là 7 điểm

3. Bình quyền được 60% ………………………hay là 6 điểm

4. Bình quyền nam nữ được 70%................... hay là 7 điểm

5. Tình lý tương tham được 90%......................hay là 9 điểm

B. 6. Thái nhất được 80% ………………………...hay là 8 điểm

7. Lưỡng nghi được 90% …………………….. hay là 9 điểm

8. Tam tài được 70% …………………………. hay là 7 điểm

9. Ngũ hành được 80% ………………………. hay là 8 điểm

10. Cửu lê được 70% …………………………… hay là 7 điểm

Tổng số là 72 vo tròn lại là 70. Có nhiều số cho điểm còn quá ngặt. Chẳng hạn mục Tam tài lẽ ra phải cho đến 8, 9 điểm, vậy mà lại được có 7 thì hơi oan cho Viêm Việt. Nhưng việc cho điểm số rất dễ chủ quan. Mỗi độc giả thử cho điểm lấy xem sao. Riêng phần tôi muốn cho điểm hơi ngặt là cốt để ăn chắc.

Bây giờ ta đi đến kết luận, thường thì chỉ cần 50 điểm đã đỗ, tức đã đủ lý do lập ra một giả thuyết, vậy mà đây đạt 72 thì kể là ưu hạng, tức giả thuyết có đủ nền tảng để lên bậc chủ thuyết: rằng trong Nho giáo sơ khai người Lạc Việt đã đóng góp lối quá bán phần vậy.

Tác giả: Kim Định

Nguồn:

www.dunglac.org

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đến thế kỷ 18, học giả người Pháp là C.J. de Guignes nhận định những chữ cái Ai Cập cổ có thể vừa biểu ý, vừa biểu âm như chữ Trung Hoa. Thậm chí ông còn cho rằng người Ai Cập đã từng xâm chiếm Trung Hoa. Tất nhiên đây là một nhận định quá đà.

Tuy nhận định trên của C.J de Guignes không đúng với sự thật lịch sử nhưng ông ta là một trong những học giả góp phần giải nghĩa chữ cổ Ai Cập, tức là một người tài ba, uyên thâm nên nhận định của ông chắc hẳn cũng dựa trên nhiều yếu tố chuyên môn.

Share this post


Link to post
Share on other sites