Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Tôi đang ở Hanoi. Tư liệu không có/ Nhờ chị Laviedt và anh Linh Trang tư vấn giúp.
  2. Cho biết tuổi vợ và chồng. Câu hỏi không biết nam nữ tuổi như thế nào?
  3. Thực ra tôi ít tham gia vào những chuyện như thế này. Bởi vì, chỉ một việc minh chứng - Cội nguồn Việt trải gần 5000 văn hiến đã đủ phức tạp rồi. Nhưng thấy chuyện dở hơi quá đi, lại liên quan đến lịch sử, nên không thể không gõ vài lời. Câu đầu tiên của tôi là: Sở dĩ có sự lúng túng này vì những cái đầu thiếu cương quyết và dốt nát. Ngày trước nghe Lê Văn Lan (Cố vấn lịch sử của phim) nói: Việt Nam thời Lý làm gì có văn hóa xe ngựa. Nay lại thấy cái nhà ông này nhắc lại. Tôi xin hỏi lại các ông: Thôi thì cứ theo các ông - dân Việt không "ven miêng" bằng Tàu. Nhưng không lẽ cả ngàn năm đô hộ Tàu mà cái dân Việt này không tiếp thu nổi cái "ven hóe" xe ngựa của Tàu hay sao mà các ông bảo không có. Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, không làm phim Lý Công Uẩn - người khai sáng ra kính đô Thăng Long - thì không lẽ làm phim về ...Đề Thám? Lại nữa: Thế à! Việt Nam có võ thuật riêng thế cơ à. Đúng quá đi - và nó không thể từ thời Bắc thuộc - nó từ thới Hùng Vương đấy. Vào nhờ Rin86 cố vấn cho về kiếm pháp thời Hùng Vương đến cả chuôi kiếm. Phim ảnh là một loại hình nghệ thuật ra đời sau tất cả các loại hình nghệ thuật trước đó, nên nó có nét tổng hợp và có nét đặc thù của phim ảnh. Đồng thời cũng mang tính đặc trưng chung của các loại hình nghệ thuật - đó chính là tính biểu tượng. Võ tướng thì đi ngựa, mặc giáp thì làm sao có ngựa và giáp thì thôi. Đâu phải chờ đến đào mà được các võ tướng để có di vật khảo cổ lằm bắng chứng thì mới thực hiện được áo giáp của võ tướng? Không đào mả được các võ tướng cổ thì không lẽ họ "ở trần đóng khố". Chuyện đáng làm thì toàn bàn lùi. Lại bàn về cả làm phim Hanoi 1946 nữa chứ. Sao không làm vụ Đề Thám với "Hà Thành đầu độc" đi? Lý Công Uẩn là người khai mở nên kinh đô Thăng Long - kỷ niệm 1000 năm Thăng Long lại không làm về Ngài thì thật là ..hết đường nói. Chưa xem mà đã biết không chắc thấy trong phim? Khả năng tiên tri còn hơn cả Thiên Sứ nữa. Giới trẻ "hôm nay xem phim không phải là để biết Lý Công Uẩn mặc gì, cưỡi ngựa gì," thế thì việc gì mà phải đặt v/đ về Việt Nam có "ven hóe" xe ngựa hay không mà bàn kỹ vậy? Ở trên thì thừa nhận sự thiếu hiểu biết về tư liệu lịch sử như là một luận cứ để bàn ...ra. Ở dưới thì cho rằng không cần thiết, chỉ cần tính giáo dục. Nội trong câu đã đầy mâu thuẫn. Thiếu tư liệu và hiểu biết về lịch sử là trách nhiệm của chính những nhà "mần " sử Việt - trong đó có ông - phát biểu với tư cách "tổng thư ký hội Sử Học" chứ không phải những nhà phim. Cá nhân tôi - tôi đề nghĩ hãy tiếp tục làm phim về Ngài Lý Công Uẩn để nhắc nhở đến giai đoạn mở đầu cho thời ký hưng quốc hào hùng của dân tộc Việt - Thủ đô Thăng Long. Chính những nhà làm phim mới là người chịu trách nhiệm của họ về giá trị bộ phim. cũng như trách nhiệm của họ về sự đóng góp của nền điện ảnh Việt trong sự kiện lịch sử kỳ niệm giai đoạn khởi đầu huy hoàng của thời hưng quốc Việt, chứ không phải những người bàn ra kia. Vấn đề là chính các nhà làm phim có đủ quyết tâm, can đảm và tâm huyết hay không? Nếu quí vị có đủ, Thiên Sứ tôi sẵn sàng tư vấn miễn phí cho các nhà làm phim từ tri thức lịch sử đến phong cách thể hiện.
  4. Nguyễn Vũ Tuấn Anh là tên khai sinh của con trai tôi. Tôi lấy tên nó làm bút danh của tôi vì một số vấn đề liên quan đến lý học đông phương. Tên thật của tôi không phải Nguyễn Vũ Tuấn Anh - điều này tôi đã nói với Hoài Châu từ lâu rồi. Nhưng không sao. Hoài Châu gửi PM cho tôi cho biết thêm thông tin vẫn sẽ lĩnh tiền được.Cảm ơn Hoài Châu nhiều.
  5. Cảm ơn anh Trần Phương đã sưu tầm bài viết đầu tiên của quan điểm phủ nhận truyền thống sử truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Mong anh chị em tiếp tục sưu tầm các bài viết liên quan. Riêng về các bài viết có quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt thì ưu tiên các học giả có học vị cao của ngoại quốc và ở Việt Nam thì từ hàng giáo sư có tên tuồi trở lên. Thí dụ như Trần Quốc Vượng... Rất cảm ơn sự quan tâm trợ giúp của anh chị em.
  6. Tôi sẽ đề nghị mở riêng một mục trên diễn đàn về đề tài này. Trong đó sẽ có những topic mở để anh chị em đưa các tài liêu chuyên liên quan có phân loại theo chủ đề. Một tiểu mục mở để bất cứ ai đều có thể ghé ngang tham gia, thêm bớt đóng góp ý kiến. Chuyên đề nghiên cứu cội nguồn cổ sử Việt này sẽ là của chung của tất cả những ai tham gia với tinh thần xạy dựng. Tên của những người tham gia đóng góp sẽ ghi ở cuối sách - nếu xuất bản. Những người đóng góp nhiều cho đề tài này sẽ có một phần riêng giới thiệu cá nhân và công trình nghiên cứu liên quan. Tất cả đề hoạt động tự nguyện, phi lợi nhuận. Những kinh phí tài trợ liên quan - nếu có sẽ chi vào các việc đánh máy văn phòng, giấy mực, trả lương. sưu tầm tài liệu. Tuyệt đối không có nhuận bút tác giả - kể cả tôi. Nếu sau này dù sách có in thì lợi nhuận sẽ dùng vào việc từ thiên. Đây là đề nghị của tôi. Mong ý kiến đóng góp của quí vị và anh chị em.
  7. Lưu ý trong việc thứ hai không hùn ba tụ. Chúc may mắn.
  8. Tôi nghĩ chúng ta tìm chân lý lịch sử và cội nguồn. Việc Lục Tổ là người Việt không phải chỉ mình bài viết trên của một học giả Việt kiều nói tới - mà nhiều người nói đã lâu rồi . Nhưng vị hoc giả Việt kiều kia đưa ra bằng chứng tư liệu rõ ràng hơn mà thôi. Nếu ai không công nhận Lục Tổ là người gốc Việt thì cần đưa bằng chứng tư liệu phản biện lại ông học giả Việt kiều kia, Nếu đúng thì chúng ta ủng hộ. Còn tôi nghĩ chúng ta không nên đem cảm nghĩ cá nhân ra tranh luận rất dễ mất lòng. Còn việc anh Vô Trước đề nghị đang tải công trình nghiên cứu của anh - mà cá nhân tôi rất trân trọng . Nhưng diễn đàn của chúng ta chỉ giới hạn pháp nhân là nghiên cứu Lý học đông phương và cổ văn hóa sử. Bởi vậy mong anh Vô Trước cũng thông cảm. Bản thân tôi cũng có những việc chỉ viết trên blog: 360.yahoo.com/thiensulacviet
  9. Hoài Châu thân mến. Tối nay BBW - tức Tuấn Anh thiệt - đến Ngân hàng rút tiền. Nhân viên Ngân hàng hỏi tên và địa chỉ người gửi, BBW - và ngay cả tôi nếu có mặt ở đấy - không trả lời được (Dù nói đúng mã số và đúng tên người nhận - có CMT). Nhân viên ngân hàng không cho rút tiền (Lần trước họ không đòi hỏi điều này). Kết luận của họ là: Thông tin không đầy đủ. Xin thông báo để Hoài Châu rõ.
  10. Tôi không có ý bình luận gì, chỉ xin kể một câu chuyện mà người làm chứng duy nhất là Wildlaveder. Ngày ấy cách đây khoảng năm ngoái, năm kia, khi các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều người hồ hởi tin vào sẽ có một cuộc cải cách giáo dục triệt để và Wildlavender cũng tin như vậy. Tôi trả lời cô ấy đại ý như sau: "Còn anh còn em, anh không tin điều này có thể xảy ra". Hình như tôi nói rõ hơn là "sẽ không thể có một cuộc cái cách giáo dục nào thành công". Thông tin trên của Pháp Vân là bằng chứng cho thấy tôi nói đúng - Nếu Wildlavender nhớ câu chuyện này. Hình như lúc đó Wildlavender còn hỏi vậy phải làm thế nào? Tôi trả lời" Khôi phục lại sử Việt trong sách giáo khoa như cũ: Lịch sử văn hóa Việt trải gần 5000 năm văn hiến". Tôi biết rằng sẽ không ai có thể liên hệ được việc khôi phục lịch sử truyền thống Việt với những bất cập trong ngành giáo dục hiện nay. Nhưng đây sẽ là điều duy nhất đúng. Không tin cứ chờ xem.
  11. Pham Cuong - Văn phòng đại diện Hanoi đã đưa tôi 300. 000 VND. Đề nghị Thủy Tiên ứng giúp tôi vào quỹ từ thiện ủng hộ chị Nga và cộng số tiền này vào quỹ. Tôi đang ở Hanoi. Cảm ơn Phạm Cương và Thủy Tiên.
  12. Có hai người cùng gửi 200. 000 VND mà chỉ nhận được 1 khoản 200.000 VND. Vậy là của ai? Arigato hay somenhanbai? Đề nghị Thủy Tiên cố gắng yêu cầu Ngân hàng VCB xác minh giúp. Tôi nay Tuấn Anh nó đi lấy 100 ER nữa là ổn .Như vậy là chị Đỗ Thị Nga hy vong qua khỏi rồi. Nếu chị Nga qua khỏi tôi sẽ có một đề nghị liên quan đến Phong Thủy để bảo đảm cuộc sống lâu dài. Chứ cái nhà đó có sửa phong thủy cũng mang tính cấp cứu thôi. Ớn wá đi.
  13. Ai nói với Hoai Thu vậy? Riêng chú thì không! Chú cho rằng người chồng hơi khó tính và có lúc nóng giận bất thường. Nhưng là người tốt.
  14. Ngày 3 - 8: Hôm nay 4 - 8 Mậu Tý: THÔNG TIN KIỂM CHỨNG Nguồn BBC Gustav yếu dần nhưng vẫn nguy hiểm Bão đã yếu dần nhưng vẫn gây lo ngại Bão Gustav di chuyển vào đất liền sau khi đổ bộ vào duyên hải miền nam Hoa Kỳ nhưng New Orleans thoát nạn. Hệ thống thành chắn quanh thành phố có vẻ chống chọi được mực nước lũ do mưa bão Gustav đem đến nhưng giới chức khuyến cáo dân phải cảnh giác. Thị trưởng New Orleans, Ray Nagin khuyên 2 triệu dân đã di tản hãy ở nguyên vị trí thêm ít nhất một ngày nữa. "Bà con có thể trở về trong vài ngày nữa nhưng đừng quay lại trong ngày thứ Ba,'' ông Nagin thúc giục và cho biết nhà chức trách đang đánh giá mức độ thiệt hại. "Cây bị ngã trên khắp thành phố, dây điện nằm la liệt trên đường phố, và nhiều nhà dân cũng như doanh nghiệp sẽ không có điện.'' Thành phố ma Bão Gustav đã làm cho gần 90 người thiệt mạng khi đi qua vùng biển Caribbe đã đổ bộ vào phía tây của New Orleans. AP tường thuật giới chức Mỹ cho biết có 8 người chết vì bão. Trung tâm theo dõi bão quốc gia (NHC) ở Florida cho biết Gustav nay đang yếu đi nhanh chóng và chỉ còn là bão nhiệt đới với sức gió 95km/giờ. Trước đó các công ty dầu khí đã ngưng hoạt động gần như tất cả các giếng khoang trong vùng vịnh vốn cung cấp khoảng 25% sản lượng nội địa. Hôm thứ Hai, giá dầu hạ $4USD còn khoảng $111/thùng, một phần nhờ bão Gustav yếu đi. Cuộc di tản ra khỏi vùng duyên hải Louisiana qui mô lớn nhất trong lịch sử của tiểu bang. Nhiều người New Orleans đã di tản, chỉ có 10.000 người của thành phố 200.000 dân này ở lại. Hàng chục ngàn người cũng đã rời khỏi các khu vực ven biển của Mississippi, Alabama và đông nam Texas. Trích nguồn BBC Hôm nay mùng 4/ 8 Mậu Tý - ít nhất một ngày nữa tức là mùng 6/ 8 họ sẽ về. Chúc mừng người dân New Orleans.
  15. Tôi đề nghị tựa của đề tài này sẽ là: Thời Hùng Vương qua những di sản còn lại. Sau khi công trình của chúng ta hoàn tất thì họ có quyền chỉ ra cái sai của chúng ta trên cơ sở tiêu chí khoa học:Một lý thuyết khoa học bị coi là sai, nếu người ta chỉ ra được một cái sai trong chuỗi mắt xích những luận cứ của nó mà tác giả không biện minh được.
  16. LAVIEDT Mây nước mãi trôi Không trở lại Để lòng ai đợi Để ai thương... Mực khô Bút cạn Thơ tắc nghẹn... Cây cỏ vô tình Vẫn Thoảng hương... Thiên Sứ cảm tác Về đâu Mây nước buồn trôi Bâng khuâng ai gửi cuối trời xa xăm? Ai thương? Ai đợi âm thầm? Mực khô, bút cạn, lệ đầm hoen mi. Thương mà chi? Nhớ mà chi? Lời thơ nghen giữa biệt ly dâng sầu. Thoáng hương cây cỏ phai mầu. Vô tình như khắc thêm sầu xa xôi
  17. Khí đã xấu thì có 100 ông Quan Công cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tiền mua mấy ông nội đó để nhậu hoặc ăn kem. Nếu ở Hanoi thì nhờ Phạm Cuơng đến xem giúp cho.
  18. THIÊN SỨ NGHIÊN KÍU - Này thầy Thiên Sứ! Thấy thày mê sách kiếp hiệp tàu, dám hỏi thày có mê phim võ hiệp Tàu khồng? - Mê chứ, xuốt ngày tôi dán mắt lên màn hình xem phim võ hiệp Tàu. - Vậy thày có phát hiện điều gì trong các phim đó không? - Có chứ! - Thày thấy điều gì? - Các nhân vật trong phim từ đầu đến cuối mặc có mỗi một bộ quần áo. Tôi nghĩ ngày xưa chắc họ phải chế ra loại xà bông đặc biệt để giặt một lần mà mặc mãi không có mùi hôi.
  19. VIỆT NỮ TỪ Thơ Lý Bạch 越女詞 耶 溪 採 蓮 女, 見 客 棹 歌 回。 笑 入 荷 花 去, 佯 羞 不 出 來。 Việt nữ từ Da khê thái liên nữ, Kiến khách trạo ca hồi. Tiếu nhập hà hoa khứ, Dương tu bất xuất lai. Khúc hát về người con gái đất Việt Người dịch: Khương Hữu Dụng Gái Da Khê hái sen, Thấy khách, hát quay thuyền. Cười nấp vào sen lánh, Thẹn thò chẳng bước lên. Việt nữ hát bên sen Thiên Sứ Da Khê ai hát bên sen. Lung linh đáy nước hương chen bóng thuyền. Việt ca dâng khúc sầu miên. Nhớ non nước cũ ảo huyền xa xôi. Bóng sen che bóng thuyền trôi. Đài sen cười nụ, bóng người còn đâu? --------------- Lý Bạch có nhiều bài thơ ca ngợi nền văn hóa Việt, vẻ đẹp Việt. Những bài thơ của Lý Bạch chính là những di sản văn hóa phi vật thể minh chứng cho nền văn minh huyền vĩ Việt - dù đã tan nát theo thời gian, nhưng chỉ những gì còn lại sau hàng ngàn năm, cũng đủ để cho một bậc thi tài như Lý Bạch rung cảm. Nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm, không chỉ là sự minh chứng giới hạn trong phương pháp luận lịch sử, trong lý học Đông phương mà ngay cả trong thơ ca Đông phương ngót ngàn năm sau đó cũng phải ghi nhận. Đây là điều đáng để cho những người phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống trải gần 5000 năm của dân tộc Việt suy ngẫm như một cơ hội thức tỉnh.
  20. Vũ trụ có rất nhiều hành tinh giống Trái đất Ảnh:voxx.org. Một nghiên cứu gần đây của các nhà thiên văn học Mỹ chứng minh rằng những hành tinh tương tự Trái đất - nghĩa là không quá nóng và quá lạnh để sự sống có thể phát triển - khá phổ biến trong vũ trụ. Các chuyên gia thuộc Đại học Northwestern, bang Illinois, Mỹ sử dụng dữ liệu mới nhất về 300 hành tinh quay quanh các ngôi sao để xây dựng các mô hình về quá trình hình thành của các hệ hành tinh, trong đó có hệ mặt trời của chúng ta. Những mô hình quy mô lớn của nhóm nghiên cứu đã lần đầu tiên tái hiện được quá trình hình thành các hành tinh xung quanh một ngôi sao. Chúng được tạo nên bởi những đĩa khí và bụi còn sót lại sau sự hình thành của ngôi sao trung tâm. Từ những đĩa vật chất ấy, một hệ hành tinh đầy đủ ra đời. Những mô hình trước đây chỉ cung cấp những thông tin cơ bản về căn nguyên của quá trình hình thành hành tinh. Giai đoạn đầu trong quá trình hình thành các hệ hành tinh diễn ra trong hỗn độn và bạo lực. Đĩa khí khổng lồ tạo nên các hành tinh, nhưng sau đó nó đẩy chúng về phía ngôi sao trung tâm, nơi chúng co cụm thành nhóm. Một cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các hành tinh đang lớn diễn ra. Chúng đua nhau "nuốt chửng" khí và bụi để phình to. Quá trình này tạo nên sự đa dạng về kích cỡ của các hành tinh. Khi các hành tinh tiến lại gần nhau, lực hấp dẫn khiến chúng bị "khóa" trong những quỹ đạo hình elip. Chu vi của những elip khổng lồ đó tăng dần theo thời gian, cho đến khi chúng đủ sức "ném" các hành tinh tới nhiều nơi trong vũ trụ. Rất có thể Trái đất cũng từng trải qua tình trạng tương tự. Giáo sư Edward Thommes, một thành viên của nhóm nghiên cứu, khẳng định rằng các hành tinh mà đá chiếm phần lớn bề mặt như Trái Đất có nhiều điều kiện thuận lợi để tồn tại. Ông cho rằng chúng xuất hiện khắp nơi trong vũ trụ. Việt Linh (theo Telegraph) Lời bàn của Thiên Sứ Mặc dù vậy, nhưng chính sự hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành với nhưng quy luật tương tác vi mô đến tận từng hành vi của con người, khiến tôi có thể kết luận rằng: Sẽ rất khó tồn tại những sinh vật cao cấp có thể trao đổi thông tin với con người trên các hành tinh này. Nếu như nó không hội tụ đủ những yếu tố tương tác vũ trụ như Trái Đất của chúng ta.
  21. Hiệu ứng con bướm có không? Phạm Văn Thiều (Viết theo Tạp chí Scientific American) Tạp chí Tia Sáng Nguồn: chungta.com Lâu nay người ta tin rằng các dự báo thời tiết không thể sớm trước hai tuần do có “hiệu ứng con bướm”. Cơ học thống kê đã bác bỏ “tín điều” đó. Cái đập cánh của một con bướm không thể làm khởi phát bão tố, trái với ý tưởng rất được phổ biến hiện nay. Những hiệu ứng thống kê đã vào cuộc trong những diễn biến của khí quyển: sự chảy rối được tổ chức lại và sự nhảy cảm đối với các điều kiện ban đầu biến mất. Do đó, người ta có thể hy vọng sẽ dự báo được thời tiết vượt ra ngoài khoảng thời gian hai tuần định mệnh mà Lorenz – tác giả của hiệu ứng con bướm đã đưa ra. Trong khi sự thanh bình tĩnh lặng trên đỉnh Olympia dành cho các vị thần, thì con người từ lâu đã trăn trở phỏng đoán không biết mảnh trời nào sẽ có nguy cơ sập xuống đầu họ. Trong hai thiên niên kỉ, các hệ thống dự báo đã phát triển từ việc giải mã những sách sấm truyền, dựa trên những vật tế thần bằng động vật, thậm chí cả con người, tới những mô hình lý thuyết và tính toán bảng số. Cơ học thiên thể là trung tâm những hoạt động khoa học của thế kỷ XIX và dự báo khí tượng đã lấy sức bật của nó vào thế kỷ XX. Tuy nhiên, nó đã vấp phải những khó khăn nghiêm trọng liên quan tới việc mô hình hoá các hiện tượng của khí quyển cũng như tới việc xử lý các phương trình rất phức tạp thu được. Đối mặt với những trở ngại đó, tinh thần lạc quan của những năm l950 đã chuyển dần trong những năm 1960 thành tâm trạng bi quan quá đáng, gắn liền với một cái tên thật lãng mạn, đó là “hiệu ứng con bướm”. Quyết định luận Laplace Trong lịch sử dài lâu của công việc dự báo, dù là dự báo thời tiết hay dự báo về chuyển động của các thiên thể, một thời điểm cực kì quan trọng đó là phát minh của Newton ở thế kỉ XVII về các phương trình chi phối chuyển động của các hành tinh: biết vị trí và vận tốc của một hành tinh ở một thời điểm đã cho, ta có thể xác định được các điểm thuộc qũy đạo của nó ở mọi thời điểm sau. Vì tất cả các hệ cơ học đều tuân theo những phương trình thuộc cùng một loại, nên trạng thái ban đầu của một hệ hoàn toàn quyết định tương lai của nó. Ý tưởng này đã được Laplace truyền bá tới mức nó trở thành một hệ tư tưởng, đó là quyết định luận Laplace, mà theo nó không có cái gì mới có thể xảy ra mà lại không được chứa đựng trong những diều kiện ban đầu. Bài toán dự báo khi đó dường như đã được quyết định, ít nhất cũng là về mặt lí thuyết. Trong nửa sau của thế kỷ XIX quyết định luận Laplace đã gặp khó khăn khi các nhà toán học tiến hành tính toán qũy đạo của các thiên thể. Henry Poiacaré, rồi Jacques Hadamard đã phát hiện ra rằng những hệ khá đơn giản, như hệ gồm ba vật hút nhau bằng lực hấp dẫn, cũng đã cho những quỹ đạo rất phức tạp và đối với nhiều hệ, một sự biến thiên, dù là nhỏ nhất, của vị trí và vận tốc ban đần cũng làm nảy sinh những sai khác đáng kể của quỹ đạo. Vì người ta không bao giờ biết được trạng thái ban đầu một cách hoàn toàn chính xác, nên ta không thể xác định được sự tiến hóa của những hệ đó ở ngoài một khoảng thời gian nhất định. Những công trình này là những công trình sơ khai của lý thuyết hỗn độn (chaos), một thuyết được phát triển bắt đầu từ nhũng năm l970 và nghiên cứu sự tiến hóa theo sự bất định của trạng thái ban đầu. Bắt đầu từ những năm l980, các nhà thiên văn đã chứng minh được rằng không thể biết được trạng thái của hệ mặt trời ngoài phạm vi 100 triệu năm tới. Bên ngoài đường "chân trời" đó, trong những tính toán sẽ cần phải tính đến dạng cửa các thiên thể, các hiệu ứng thủy triều, và rất nhiều các tham số khác. Phát minh nay là đòn trí mạng đối với quyết định luận Laplace. Bây giờ ta quay trở lại khí tượng học: trong những năm l950, dự báo thời tiết "hiện đại" - một công việc khoa học đầy tham vọng - đã bắt đầu được hình thành. Nó tập hợp từ vật lý để mô hình hóa khí quyển, đến toán học, các kĩ thuật bằng số và cả tin học. Vào đầu nhũng năm 1960, những máy tính có hiệu năng cao đầu tiên đã mất hiện và cho phép thực hiện được những tính toán mà trước đó không thể làm được. Nhà khí tượng học người Mỹ Edward Lorenz khi đó mới bắt đầu nghiên cứu một mô hình đơn giản hóa về sự đối lưu của khí quyển, dựa trên các phương trình cổ điển về sự đối lưu của các chất lưu. Mô hình của ông mới chỉ có ba bậc tự do, tức là ba ẩn số và được thâu tóm trong ba phương trình vi phân ba biển số. Khi thử dự báo về sự tiến hoá mô hình của mình trong một khoảng thời gian dài, ông nhận thấy rằng không thể tính được một cách chính xác, vì một nhiễu động ban đầu dù nhỏ nhất của hệ cũng sẽ có tác dụng đáng kể trong thời gian dài và dẫn đến sụ bất định về trạng thái tương lai của nó, một sự bất định tăng theo hàm mũ với thời gian. Ngoài ra, khi biểu diễn trạng thái của hệ bằng một điểm di chuyển trong không gian (gợi là không gian pha), Lorenz còn thấy rằng, theo thời gian, điểm này vẽ nên một đường cong dường như tự cuộn lại xung quanh một vật có cấu trúc phức tạp, có tên là "nhân hút lạ" và ngày nay gọi là nhân hút Lorenz. Sau đó, Lorenz đã tấn công sang bài toán hoàn lưu của khí quyên ở thang lớn hơn . Nhìn từ xa, khí quyển trông giống như một màng khí mỏng bao quanh trái đất. Trong phép gần đúng đầu tiên, Lorenz xem rằng đây là một chất lưu lý tưởng, tức là không có độ nhớt (ở thang kích thước lớn, thực ra độ nhớt phân tử đóng vai trò không đáng kể) và xét bài toán hai chiều. Ông chỉ dùng một số nhỏ bậc tự do (khoảng vài chục) để cho bài toán được đơn giản. Lại một lần nữa Lorenz tìm thấy sự nhạy theo hàm mũ đối với các điều kiện đầu: cứ mỗi khi thời gian tăng một lượng cho trước thì kích cỡ của nhiễu động tăng gấp đôi. Khi đó, ông nghĩ rằng, đối với một số nhỏ bậc tự do, mà tương lai còn khó tiên đoán như vậy, thì tình hình sẽ chỉ càng xấu đi với mô hình gán với khí quyển hình gần với khí quyển thực hơn, tức là sẽ chứa nhiều bậc tư do hơn (như áp suất, các thành phần của vận tốc gió, độ ẩm... và bấy nhiêu ẩn số lại phải được xác định ở một điểm trên trái đất). Hiệu ứng con bướm ra khỏi cái kén của nó Với những công trình đó, Lorez đã tìm lại được những ghi nhận của Poincaré và Hadamard, tức là người ta không phải bao giờ cũng có thể tính được sự tiến hóa của một hệ đơn giản. Đóng góp của ông là đã chứng minh được rằng tính không tiên đoán được không chỉ liên quan với cơ học thiên thể mà cả với các dòng chảy của khí quyền. Một người phản đối, mà hiện không biết là ai, khi đó có nói với Lorenz rằng nếu chuyển động của khí quyển cũng không ổn định như vậy thì chỉ cần cái đập cánh của con mòng biển cũng đủ làm thay đổi căn bản sự tiến hóa của nó. Lorenz cũng đế luôn rằng đúng là như thế và tính ngay ra sự thay đổi đó sẽ diễn ra trong khoảng hai tuần lễ. Từ cuộc tranh luận này, con mòng biển đã biến thành con bướm và hiệu ứng con bướm ra đời từ đó: một sự kiện, như cú đập cánh của con bướm ở một điểm nào đó trên trái đất, hai tuần sau, sẽ làm nó ra một cơn bão tố ở một điểm khác rất xa. Rõ ràng, vì người ta không thể biết trạng thái của tất cả các con bướm tại một thời điểm đã cho, nên sự dự báo trạng thái của khí quyển ngoài phạm vi 15 ngày là không thể làm được. Cũng khoảng thời gian đó, nhà toán học Nga Vladimir Arnold trong khi phát triển những ý tưởng của người thay của mình là viện sĩ Andrei Kolmogorov đã thiết lập được mối liên hệ giữa thủy động lực học của một chất lưu và các mặt cong âm của Hadamard. Các mặt cong âm này tại mọi điểm của nó đều cho một profin giống như hình chiếc yên ngựa. Ta hãy xét một hòn bi nhỏ trượt không ma sát trên một mặt như vậy. Xuất phát từ một điểm bất kỳ mà người ta đặt nó, hòn bi, khi được buông ra với một vận tốc ban đau nào đó, sẽ vẽ nên một qũy đạo rất xác định. Tập hợp những qũy đạo mà người ta nhận được bằng cách thay đổi vị trí xuất phát và vận tốc ban đầu được gọi là "dòng chảy trắc địa” (nói nôm na là dòng chảy có thời gian ngắn nhất), Hadamard đã chứng minh được rằng chuyển động của hòn bi trên mặt có độ cong âm là không ổn định kiểu hàm mũ: khi hơi dịch một chút vị trí xuất phát hoặc thay đổi chút vận tốc ban đầu thì qũy đạo một sẽ rất nhanh chóng tách ra xa qũy đạo cũ (chẳng hạn, hòn bi có thể trượt về phía bên này hoặc phía bên kia của hình yên ngựa). Trên thực tế, người ta không thể tính được qũy đạo của hòn bi ở ngoài một khoảng thời gian ngắn. Arnold đã đưa bài toán về sự không ổn định thủy động lực học về bài toán “đơn giản hơn" là tính độ cong. Ý tưởng của ông là mô tả chuyên động của một chất lưu lý tưởng như chuyển động của một điểm trên một “mặt". Mặt này là rất đặc biệt, vì nó có vô hạn chiều (tuy nhiên trên đó vẫn có thể định nghĩa độ cong và dòng chảy trắc địa). Nói một cách khác, vận tốc gió tại mỗi thời điểm và ở một điểm của khí quyến (còn gọi là trường vận tốc) sẽ được mô tả bởi sự dịch chuyển của một hòn bi trên mặt đó. Arnold thậm chí còn tính được độ cong của mặt đó và chứng minh được rằng chuyển động của các chất lưu lý tưởng là tương tự với các dòng chảy trắc địa của Hadamard. Tình hình rõ ràng là phức tạp hơn, nhưng những tính toán chỉ ra rằng thường xảy ra hơn cả là quỹ đạo của các hạt chất lưu ban đầu ở cạnh nhau, nhưng với thời gian sẽ tách ra xa nhau theo hàm mũ. Như vậy, vào cuối những năm l960, người ta đã bổ sung thêm hai kết quả quan trọng cho các ghi nhận của Poinearé và Hadamard ở cuối thế kỉ XIX về tính nhạy cảm của các hệ động lực đối với các điều kiện đầu: đó là sự mô phỏng bằng số của Lorenz về sự hoàn lưu của khí quyển chứa tới vài chục bậc tự do và sau đó là những nghiên cứu lý thuyết của Amold về hệ có vô số bậc tự do và chứng minh được tính không ổn định kiểu hàm mũ của qũy đạo các hạt chất lưu.. Những kết quả này cộng với những khó khăn trong thực tiễn dự báo thời tiết đã làm nảy sinh ý tưởng cho rằng chuyển động của khí quyển là không thể dự báo được do độ nhạy kiểu hàm mũ đối với các điều kiện đầu: hiệu ứng con bướm nổi tiếng đã cất cánh .Hình ảnh hiện ứng con bướm vừa thơ mộng vừa dễ hiểu đã nhanh chóng được lan truyền trong công chúng và trở thành một hình mẫu mới thay thế cho quyết định luận của Laplace. Nó lan truyền cả vào những lĩnh vực khác (như kinh tế, xã hội học...) và mới gợi chúng ta suy nghĩ lại về thế giới thông qua ngôn ngữ "hiện đại" của hỗn độn , của độ phức tạp và tính không tiên đoán được. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách kỹ lưỡng hơn, hiệu ứng con bướm sẽ không thể chống chọi nổi sự phân tích được đẩy xa hơn. Hiệu ứng con bướm đập cánh Trong suốt mấy thập niên trở lại đây, các nhà khí tượng học đã tập trung nghiên cứu sự lan truyền của sai số ban đầu trong mô hình dự báo thời tiết của họ và họ đã thấy rằng sau một thời gian ngắn cỡ một hoặc hai ngày, sự tăng của các nhiễu động không phải theo hàm mũ như Lorenz đã tiên đoán mà là tỉ lệ thuận với thời gian. Đây là một quan sát không phù hợp với hiệu ứng con bướm. Chúng ta hãy thử phân tích xem sự mâu thuẫn này có nguồn gốc từ đâu. Trong cách làm của mình Lorenz đã phạm một sai lầm. Nói một cách chính xác hơn, ông đã ngoại suy hơi quá trớn và điều này đã dẫn ông tới những kết luận sai lầm. Thực vậy, ông đã không tính đến các hiện tượng mới có nguồn gốc thống kê dễ xuất hiện khi ta chuyển từ một số nhỏ sang một số rất lớn bậc tự do. Đây chính là nền tảng của cơ học thống kê đã được Boltzmaun phát minh vào cuối thế kỷ XIX. Ta hãy lấy một ví dụ quen thuộc: xét bốn hoặc năm phân tử khí nhốt trong một hộp kín. Chúng sẽ tương tác với nhau và tương tác với thành hộp. Để mô tả hành trạng của hệ bé nhỏ này trong thời gian dài, ta sẽ vấp phải chính những khó khăn trong tính toán mà Lorenz đã vấp phải: ta sẽ không dự báo được qũy đạo của các phân tử. Trái lại, bây giờ ta xét hệ tạo bởi tất cả các phân từ khí có mặt trong phòng. Rõ ràng là, nếu ta muốn mô tả chính xác chuyển động của tất cả các phân tử, thì đây là một nhiệm vụ không thể kham nổi. Trái lại, nếu ta chỉ quan tâm tới các giá trị trung bình (như mật độ, áp suất, nhiệt độ), thì ta thấy rằng những đại lượng có bản chất thống kê có thể tiên đoán được trong thời gian dài. Ví dụ, ta có thể tiên đoán với sai số tối thiểu rằng mật độ khí sẽ đồng đều và không đổi trong toàn phòng. Sở dĩ như vậy là vì, nếu hệ đủ hôn độn, các phân tử có xu hướng chiếm toàn bộ không gian có sẵn. Nói một cách khác, thậm chí nếu ban đầu ta có đặt tất cả các phân tử vào một góc phòng, thì do chuyển động hỗn loạn của mình chúng cũng sẽ không ở đó mãi mãi. Người ta dùng thuật ngữ "các đại lượng quan sát được ở thang vĩ mô" để chỉ các đại lượng trung bình thống kê như áp suất, nhiệt độ, đối lập với các qũy đạo cá thể của các phân tử là cái "quan sát được ở thang vi mô". Tóm tắt lại, bài học của Boltzmann là: với một số lớn bậc tự do, mặc dù hệ có thể là không nên đoán được ở thang vi mô, nhưng các đại lượng quan sát được ở thang vĩ mô là có thể nên đoán được. Trước khi đi xa hơn, ta hãy làm một cuộc dạo chơi trong lĩnh vực chảy rối vì khí quyển là một chất lưu chảy rối. Chảy rối và cấu trúc kết hợp Chảy rối chuyển động phức tạp và hỗn độn của một chất lưu – xuất hiện trong hầu hết các dòng chay trừ khi ma sát nhớt chiếm ưu thế. Trong trường hợp đó, dòng chảy có trật tự hơn và người ta nói nó chạy theo tầng. Trên thực tế, những dòng chảy mà ta quan sát thấy xung quanh (như các con sóng, các dòng không khí...) đều là những dòng chảy rối, kể cả những dòng khí quyển và đại dương. Ta sẽ quan tâm tới một lớp đặc biệt các dòng chảy rối hai chiều, tức là xảy ra trên một mặt phẳng hay một mặt nào đó. Đây không phải là một mô hình tưởng tượng, mà là một phép gần đúng có cơ sở đối với một chất lỏng chứa trong một bình quay nhanh hoặc đối với một chất lỏng được giữ trong một lớp có bề dày nhỏ. Chuyển động của khí quyển và đại dương được xem như những dòng chảy hai chiều vì bề dày của chất lưu nhỏ không đáng kể so với bề rộng của chúng. Chúng ta cũng giả thiết rằng dòng chảy của khí quyển là không nén, điều này đã được kiểm chứng ở thang toàn cầu cả trong khí quyển lẫn trong đại dương. Trong trường hợp đó, động lực học dòng chảy được xác định bởi một đại lượng có tên là "độ xoáy”, xác định tại mỗi điểm của chất lưu. Nó là độ đo vận tốc quay riêng của mỗi điểm thuộc chất lỏng: một điểm được biểu diễn bằng một con quay nhỏ quay quanh mình nó. Như vậy có thể xem chất lưu được tạo bỏi rất nhiều con quay, nhưng tất cả con quay không có vận tốc quay như nhau. Khi chất lưu chảy các con quay cũng dịch chuyển theo. Nhưng trong các dòng chảy mà ta nghiên cứu độ xoáy của một hạt chất lỏng không thay đổi, tức các con quay luôn giữ cùng một vận tốc quay vì ma sát do độ nhớt nhỏ không đáng kể. Khi ở thang nhỏ, chuyển động là hỗn loạn, nhưng ở thang lớn, ta thay các dòng chảy rối hai chiều không nén được tổ chức lại và những cấu trúc cuộn xoáy lớn xuất hiện được gọi là những "cấu trúc kết hợp". Những cấu trúc này được tạo bởi một cuộn xoay duy nhất, hoặc hai cuộn xoáy dính vào nhau và quay ngược chiều nhau, hoặc ba... hoặc nhiều hơn. Chúng trải rộng trên hàng ngàn kilômét trong khí quyển mà ta có thể quan sát thấy mỗi ngày. Một ví dụ ngoạn mục về cấu trúc nói trên là chấm đỏ lớn trên sao Mộc. Đây thực chất là một cuộn xoáy khổng lồ có đường kính cỡ 20.000km, được tạo ra trong lớp chất lưu mỏng ở bề mặt của hành tinh này. Sự tạo thành một cách hệ thống các cấu trúc kết hợp như vậy là một đặc trưng của các dòng chảy hai chiều. Chúng xuất hiện và duy trì trong lòng một dòng chảy rất hỗn độn, điều này một thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà quan sát. Tại sao chúng lại không bị sự chảy rối rất mạnh bao quanh làm cho tan rã? Một cuộn xoáy, trong một con sông chẳng hạn, được đặc trưng cục bộ bởi một độ xoáy cao, tức là nhiều con quay cùng chiều cụm lại một chỗ. Sự mô tả một cuộn xoáy sơ cấp như thế chưa đủ để cho ta hiểu được sự tổ chức của hệ thống các cuộn xoáy kết hợp. Thực vậy, các cuộn xoáy tương tác với nhau rất phức tạp, và đôi khi võ thành nhiều mảnh. Tuy nhiên, sự chảy cuối cùng sẽ được tổ chức thành một số cấu trúc đơn giản và duy trì theo thời gian. Nhờ những mô phỏng bằng số được tiến hành trong khoảng 20 năm trở lại đây, người ta đã có thể tái tạo được sự xuất hiện của các cuộn xoáy ổn định trong lòng một dòng chảy rối. Năm 1949 nhà vật lí người Mỹ Lars Onsager đã nhận xét rằng, động năng của một chất lưu được bảo toàn trong dòng chảy rối hai chiều. Khi đó, ông đề xuất rằng các cuộn xoáy ổn định cần phải được mô tả như các trạng thái cân bằng thống kê, bằng cách mỏ rộng cơ học thống kê của Boltzmann cho các chất lưu lý tưởng. Tuy nhiên, trong thời gian dài việc tính toán vấp phải những khó khăn về mặt lý thuyết. Vấn đề chỉ được giải quyết khi người ta đưa vào hai cấp độ mô tả chuyển động. Cấp độ thú nhất, vĩ mô, quan tâm tới chuyển động ở thang lớn, tức là nhìn từ xa và bỏ qua các chi tiết (cấp độ này tương ứng với thang hàng ngàn kilômét đối với khí quyển), cấp độ thứ hai, vi mô, mô tả những cái xảy ra ở thang nhỏ (cỡ vài chực klômét) - thang mà sự hỗn độn chảy rối nảy nở. Theo phương pháp của Boltzmann, ta định nghĩa một entropy - đại lượng đặc trung cho mức độ hỗn độn, ở đây là sự hỗn độn gắn liền với sự chảy rối: entropy thống kê của một trạng thái vĩ mô nhận được bằng cách tính số trạng thái vi mô khả dĩ tạo nên trạng thái vĩ mô đó. Entropy sẽ càng lớn nếu số trạng thái vi mô càng nhiều, do đó hỗn độn càng mạnh. Sau đó, ta sẽ tìm các trạng thái vĩ mô của hệ có xác suất lớn nhất là các trạng thái làm cho entropy cực đại. Những trạng thái này của khí quyển sẽ tương ứng với các cấu trúc cuộn xoáy kết hợp. Chúng ta bây giờ sẽ mô tả chính xác hơn kịch bản tạo thành các cấu trúc kết hợp. Trong trạng thái ban đầu độ xoáy biến thiên một cách đều đặn từ điểm này đến điểm lân cận của chất lưu: các con quay gần như quay với vận tốc tương tự. Sẽ chảy rối đã tạo ra một chuyển động phức tạp ở thang nhỏ. Theo mức độ mà sự chảy rối phát triển, các con quay với vận tốc quay khác nhau sẽ trộn lẫn vào nhau. Khi đó độ xoáy sẽ dao động một cách hỗn loạn từ điểm này đến điểm khác lận cận: một con quay quay chậm sẽ được xếp kề với một con quay quay rất nhanh. Và ta sẽ không thể dự báo được độ xoáy của các điểm của chất lưu. Tuy nhiên, những dao động không kết hợp này ở thang nhỏ, sẽ kéo theo sự tạo thành những cấu trúc ở thang lớn. Sự chuyển từ độ xoáy (một biến vi mô) tới trường vận tốc (một biến vĩ mô) của khí quyển, cũng tương tự như sự chuyên từ chuyển động của các phân tử khí sang áp suất: sự dịch chuyển hỗn loạn của các phân tử đã thúc đẩy chúng chiếm đồng đều không gian và áp suất xuất hiện từ những va chạm của các phân tử với thành bình. Người ta tính được giá trị áp suất này bằng cách tính số va chạm trưng bình vào thành bình, và nó có một giá trị rất xác định và đồng đều khắp nơi trong bình. Tương tự, người ta cũng suy ra trường vận tốc của dòng chảy bằng cách tính giá trị trung bình thống kê của các độ xoáy. Tuy nhiên, trường vận tốc được tính như thế sẽ không đồng đều, mà làm xuất hiện các cuộn xoay có tổ chức. Việc đưa cơ học thống kê vào nghiên cứu các dòng chảy hai chiều chứng tỏ rằng, trường vận tốc (một biến vĩ mô) về lý thuyết là có thể tiên đoán được. Điều này liệu có mâu thuẫn với những tính toán của Arnold không? Hoàn toàn không. Bởi vì những tính toán của ông chứng tỏ rằng các qũy đạo (vi mô) của các hạt là không ổn định theo hàm mũ với thời gian, tức là các qũy đạo sẽ phân kỳ bằng cách trộn lẫn những con quay quay chậm với các con quay quay nhanh. Hiện tượng này gây ra những dao động hỗn độn về độ xoáy ở thang nhỏ và rút cục, những dao động hỗn độn này sẽ làm nảy sinh một trường vận tốc tiên đoán được ở thang vi mô. Những dự báo dài hạn Chúng ta đã kiểm chứng cách tiếp cận này bằng cách thực hiện những mô phỏng bằng số cho phương trình chất lưu lý tưởng hai chiều và dùng một số lớn bậc tự do. Nói một cách khác là chúng ta làm lại những tính toán của Lorenz, nhưng một số lớn bậc tự do thay vì chỉ có vài chục như trước. Để làm điều đó chúng ta chọn một điều kiện ban đầu, xác định độ xoáy tại mọi điểm, rồi để mặc cho hệ tiến triển. Trạng thái ban đầu cụ thể nào sẽ cho nảy sinh những cấu trúc có tổ chức sau một pha chuyển tiếp diễn ra rất nhanh. Bằng cách thay đổi trạng thái ban đầu, người ta nhận được hai loại trạng thái cuối cùng: hoặc là một cấu trúc kết hơn ba cực, tức là ba cuộn xoay dính với nhau được kích thích bởi chuyển động toàn cực quay đều (xem hình 6d) hoặc là bốn cuộn xoáy tạo thành hai cặp quay ngược chiều nhau, mọi cặp gồm hai cuộn xoáy dính với nhau và truyền theo một đường thẳng với vận tốc không đổi. Những cấu trúc như vậy đã được quan sát thay trong khí quyển và đại dương. Thế còn hiệu ứng con bướm? Trên những mô phỏng trước, người ta thực hiện một nhiễu động nhỏ đối với các điều kiện ban đầu. Trong trường hợp ba cuộn xoáy, nhiễu động này không có ảnh hưởng gì đến sự tạo thành các cấu trúc: người ta vẫn tìm lại được ba cuộn xoáy đó dính với nhau. Khi tính toán sự tiến hoá theo thời gian của năng lượng nhiễu động, người ta thấy rằng nó ổn định rất nhanh và còn rất nhỏ so với năng lượng toàn phần của hệ. Trong trường hợp thứ hai (tức trường hợp 4 cuộn xoáy) nhiễu động cũng không ảnh hưởng gì rõ rệt và người ta cũng vẫn tìm lại được hai cặp cuộn xoáy. Tuy nhiên, khác với trường họp trước, lần nay năng lượng của nhiễu động tăng tuyến tính theo thời gian. Cũng tồn tại một trường hợp thứ ba, trường hợp ngoại lệ, và đây cũng là trường hợp tới hạn, là ranh giới giữa hai trường hợp trước, trong đó hệ còn "lưỡng lự, phân vân" không biết chọn trạng thái cuối cùng nào. Trong trường hợp đó và cũng chỉ trong trường hợp đó, các hệ bị nhiễu động hay không bị nhiễu động mới có hành trạng khác biệt hẳn nhau. Năng lượng nhiễu động ban đầu tiến triển như trong hai trường hợp trước, nhưng rồi nó đột ngột tăng vọt theo hàm mũ. Do đó, ta thay rằng sự không ổn định kiểu hàm mũ chỉ xuất hiện trong tình huống ngoại lệ nay, tình huống được gọi là sự chuyển pha, trong đó hệ lưỡng lự giữa hai con đường khả dĩ. Nếu chúng ta làm lại những tính toán trên, nhưng chỉ giam số bậc tự do (còn các thứ khác vẫn giữ như cũ) thì ta thấy rằng sẽ không có một cấu trúc nào được tạo thành mà chỉ có sự hỗn độn chảy rối xuất hiện và chiếm toàn không gian trong khi đó năng lượng nhiễu động tăng nhanh tới cỡ năng lượng toàn phần của hệ và khi đó ta tìm lại được những quan sát của Lorenz. Như vậy, những mô phỏng số chứng tỏ rằng hệ sẽ tiến triển rất khác nhau tùy theo ta tính tới một số nhỏ hay số lớn các bậc tự do: mặc dù do sự chảy rối hỗn độn ở thang nhỏ, qũy đạo của các hạt là không thể tiên đoán được, nhưng ta lại có thể tiên đoán được trường vận tốc của chất lưu, túc là không có sự nhạy cảm theo hàm mũ đối với các điều kiện ban đầu như hiện nay người ta vẫn tưởng... Nhưng có thể phản bác lại rằng khí quyền phức tạp hơn một chất lưu tưởng hai chiều mà chúng ta nghiên cứu ở đây rất nhiều. Chúng ta có thể trả lời sự phản bác đó thế này: một mặt, khi xét cùng một hệ như Lorenz nhưng ta lại đi tới một kết luận ngược hẳn lại, mặt khác, những mô hình phức tạp gắn với dòng chảy thực của khí quyển hơn, cũng có cùng những tính chất như phương trình của chất lưu lỹ tưởng hai chiều (nghĩa là hôn độn ở thang nhỏ, không nên đoán được quỹ đạo của các hạt chất lỏng và sự hình thành các cấu trúc kết hợp). Thêm nữa, những cấu trúc kết hợp này đã được quan sát thấy trong khí quyến và đại dương. Tóm lại, ta có thể kết luận rằng sự tăng trưởng của năng lượng nhiễu động không phải là hàm mũ mà thường xảy ra nhất chỉ là tuyến tính theo thời gian. Điều này cũng phù hợp với những quan sát của các nhà khí tượng học. Do đó, sai số của dự báo không phải tăng gấp đôi mỗi khi thời gian tăng một lượng cho trước như Lorenz tiên đoán mà là tàng tuyến tính, tức sai số tăng gấp dôi khi thời gian tăng gấp đôi. Những dự báo thời tiết sớm hai tuần không còn là giới hạn định mệnh nữa. Ta vẫn có thể làm những dự báo dài hạn nếu ta biết tốt hơn trạng thái ban đầu của khí quyển. Vì vậy ta có quyền hi vọng trong thời gian tới sẽ có những tiến bộ quan trọng về độ tin cậy trong những dự báo thời tiết, nhờ những máy tính mạnh hơn, mạng lưới các trạm quan sát dày đặc hơn và các mô hình hoàn chỉnh hơn. Hiệu ứng con bướm đã trở thành câu cửa miệng, thậm chí cả trong kinh tế và xã hội học, mỗi khi người ta muốn nhấn mạnh sự không thể dự báo những hậu quả của các nhiễu động rất nhỏ. Từ những điều trình bày ở trên ta có thể khẳng định rằng trong những hệ phức tạp có một số lớn bậc tự do và ta cần phải dự báo những đại lượng trung bình thống kê, tức là các đại lượng vi mô, thì sự không ổn định kiểu hàm mũ của hệ vĩ mô hoàn toàn không đồng nghĩa với tính không tiên đoán được. Phạm Văn Thiều (Viết theo Tạp chí Scientific American)
  22. Ối giời ơi! Lại hỏi câu này! Tôi đã nói hơn 1000 lần rồi. Thôi bỏ vài trăm lẻ gọi tắt là 1000:Yêu nhau cứ lấy! Cái vấn đề đặt ra là cái vấn đề "cô ấy có yêu mình không?".
  23. Ý tưởng lập biểu đồ hình tròn của anh Vô Trước thật xuất sắc. Chỉ cần hiệu chỉnh lại một tý thì giải thích đến tuyệt với chiếc La Kinh dùng trong Phong Thủy Lạc Việt (Còn La Kinh Tàu thì dep đi - không có tính quy luật). Hay anh sửa đi - tôi gợi ý như sau: Chọn năm Giáp Tý trong Ngũ Vận = Vận khí khắc Thiên Can. Rất tiếc là không có kinh phí. Nếu không tôi chế lại cái La Kinh Việt. Chúc thành công.
  24. * Minh Châu luận có tính khẳng định hơn. Có lý. Hãy để chứng nghiệm. Sau này nếu có chứng nghiệm thì Minh Châu nhớ lời dự báo này và đem so sánh với kết quả - như tôi thường làm - Kiểm chứng lời tiên tri. Tuy nhiên có một nước không thể gọi là "Phương Tây đang xuống" - xét về lâu dài - đó chính là Hoa Kỳ. * Bản thân tôi cũng hay bị "out" lãng nhách như vậy. Có lần soan xong bài đầu tiên của "Luận tuổi Lạc Việt" khi post thì "out", nên mất cảm hứng tới bây giờ luôn. Rút kinh nghiệm, những văn bản quan trọng, nên viết lưu trữ trước, rồi copi lại đưa lên mạng.
  25. THIÊN THƯỢNG Đã có bản dịch của Nguyễn Hiến Lê như sau: Diễn giải của tác giả: Khi dịch đoạn này, mặc dù đã cố theo sát nghĩa của nguyên bản, nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã vô tình đưa ý chủ quan của mình để giải nghĩa đoan văn trên. Bởi vậy đã làm cho sự khó hiểu thêm chồng chất. 1 – Đoạn văn trên không phải là nguyên bản của chương mở đầu của Đạo Đức Kinh. Đây chỉ là phần còn lại chủ yếu của chương này khi đã thất truyền. Bởi vì – nếu nhìn từ thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt - chúng ta sẽ thấy đoạn văn trên không thể là toàn bộ “Thiên Thượng” khởi đầu của Đạo Đức Kinh. Do chúng ta thấy nó thiểu hẳn sự giải thích liên hệ , nếu chúng ta đặt câu hỏi qua câu: Vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu. Nếu câu trên được hiểu rằng: “Không” là tên gọi của sự khởi nguyên của Trời Đất; “Có” là tên gọi khởi nguyên của vạn vật. Thì câu hỏi sẽ đặt ra là: Tại sao cái “Không” lại là tên gọi của sự khởi nguyên của trời đất? Khi cái “Có” ra đời đối đãi với cái “Không” thì cái “Không” mới gọi là “Không” – Vậy khi cái “Có” chưa ra đời để đối đãi với cái gọi là “Không” thì cái “Không” đối đãi với cái gì để gọi là “Không”? Trong đoạn văn trên không hề giải thích điều này! Đây chính là lý do mà tôi khẳng định rằng: Đoạn văn trên không phải là nguyên bản của chương mở đầu của Đạo Đức Kinh. Đây chỉ là phần còn lại chủ yếu của chương này khi đã thất truyền. Vậy thì nội dung đầy đủ của chương “Thiên Thượng” sẽ phải như thế nào? Điều này chỉ có thể phục hổi từ Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến huyền vĩ Việt trải gần 5000 năm văn hiến – Một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử. 2) – (Còn tiếp) Nguyễn Vũ Tuấn Anh