Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Cảm ơn nncuong đã hiệu đính. Tôi hy vọng sẽ là bằng chứng rõ hơn cho việc minh chứng một giá trị minh triết Việt phi Hán và là cội nguồn của văn minh Đông phương cổ.
  2. Nếu Thiên Sứ mà giải mã truyền thuyết thì có thể nói cái "hầu hết" và cái "cộng động" xúm vào rêu rao là không có cơ sở "pha học" , nhưng ở đây là hẳn "phó giáo sư" nhưng chúng ta thấy ông này cũng giải mã đấy chứ. Đây: Cũng bày đặt giải mã giải miếc. Híc! Nếu chỉ để miêu tả sự hợp tác chống xâm lăng thì cần quái gì phải bày đặt thần thoại hóa việc sính lễ và thi tài làm gì? Chỉ cần bảo Sơn Tinh Với Thủy Tinh thì chạy 100 m là đủ, cùng lắm thì oẳn tù tì. Có thể nói rằng: Tất cả những lập luận phủ nhận những giá trị văn hóa huyền vĩ Việt đều đại loại chủ quan và vô căn cứ như vậy cả, nhưng lấy cái mác giáo sư tiến sĩ ra lòe mấy thằng dốt.
  3. Nguồn: tuvilyso.net Cự Cơ tình cờ đọc được một câu truyện số mạng, Cự Cơ thấy rất hay và muốn chia sẻ cùng các Bác, các Anh, Các Chị. Sau khi đọc xong Cự Cơ mới nhận ra rằng việc xem số (truy tìm cái phước quá khứ) là một điều không quan trọng, và có những điều còn quan trọng hơn! Sau đây là nội dung câu chuyện! "... Thưa Thiền sư, vậy số mệnh có thể tránh được ư? Thiền sư dạy: - Số mệnh do ta gây ra, họa phước chính ta tìm lấy. Đó là điều sách vở đã dạy rành rành, kinh Phổ môn Phật dạy “cầu giàu sang được giàu sang, cầu con trai con gái được con trai con gái, cầu sống lâu được sống lâu. Ôi vọng ngữ là một giới cấm nặng của nhà Phật, há lẽ Chư Phật, Bồ tát lại khi cứu người đời mà nói ra câu ấy hay sao?” Tôi hỏi tiếp: - Thầy Mạnh Tử nói: “hễ cầu thời được” ấy là nói cầu những điều chính nơi tâm mình có thể làm được kia. Như điều đạo đức nhân nghĩa thời có thể ra sức mong cầu, còn như công danh phú quý là điều ngoài năng lực mình, làm sao mong cầu được ? Thiền sư nói: - Thầy Mạnh Tử nói không lầm chỉ tại ông hiểu lầm thôi! Ông không nghe ngài lục tổ Huệ Năng nói sao? Ngài nói “hết thảy phước điền không ngoài gang tấc” hễ tâm cầu gì đều cảm thông nấy, cầu ngay nơi ta không những được đạo đức nhân nghĩa cũng được luôn công danh phú quí, hễ trong đạt được thì ngoài đạt được nên càng thấy rõ hiệu nghiệm của tâm hướng nội mong cầu. Người nào không chịu ngó lại mình để tu tỉnh cứ như một bề rong ruổi tìm cầu bên ngoài, tuy họ có lập cách tìm cầu thế nào chăng nữa kết quả cũng tùy số mạng định đoạt cả thôi. Lối mong cầu này hoài công vô ích, những người không chịu hồi tâm tu tinh lo cầu mong phú quí công danh bằng con đường đạo đức nhân nghĩa, lại chỉ lo tìm cầu bằng những thủ đoạn gian ác rốt cuộc họ bị thiệt thòi cả hai mặt là công danh phú quí không thành mà đạo đức nhân nghĩa cũng hỏng. Thiền sư lại hỏi tôi về việc chấm số của Khổng tiên sinh, tôi thuật lại đúng cả mọi điều. Thiền sư hỏi lại tôi: - Bây giờ ông thử xét lại ông có còn hy vọng thi đậu không ? Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi trả lời: - Không thể ! Người khoa giáp phải là người có phước tướng, còn tôi chỉ là kẻ bạc phước. Lại không biết dồn chứa công hạnh làm nền tảng phước đức, không chịu khó gúp ai, không khoan dung đại độ, có khi còn cậy mình tài trí lấn lướt kẻ khác, nghĩ gì làm nấy, nói năng khinh suất dối trá chẳng nể vì ai. Đấy toàn là những tướng của kẻ bạc phước làm sao tôi mong cầu được khoa giáp? Vả lại phàm đất nhớt mới có nhiều vi trùng sinh, nước trong thì đâu có cá lội. Thế mà xét lại tính tôi vốn ưa tinh khiết, nên tôi không con là phải, phàm khí tiết ôn hòa mới nuôi dưỡng muôn vật, thế mà xét lại tính tôi hay nóng nảy, thế nên không con là phải, phàm nhân ái là gốc sinh hóa, nhẫn tâm là gốc suy tàn, thế mà xét lại tính tôi cứ khư khư danh tiết hão huyền, chẳng hề hy sinh gúp ai, thế nên tôi không con là phải. Đó là chưa kể tôi còn có tật nói nhiều làm tổn khí, tật ưa uống rượng làm tán tỉnh, tật ưa ngồi suốt đêm không biết bảo tồn khí cốt và nếu kể hết tật sấu của tôi thì hẳn còn nhiều nữa. Thiền sư nói: - Không riêng gì một việc thi cử, chính tất cả mọi việc thế gian này thấy đều nằm trong lý nhân quả, những người có được sản nghiệp trị giá ngàn vàng tức là người có được cái phước hưởng được ngàn vàng đó, những người có được sản nghiệp trị giá trăm vàng tức là người có được cái phước hưởng trăm vàng đó, những người bị chết đói, tức là người có cái nghiệp chết đói đó. Thế mà người đời không nhận rõ lẽ này, cứ đổi dồn cho trời đất xui nên, kỳ thật! Trời đất bất quá chỉ ra thêm những điều mình đã tạo sẵn, chứ trời đất có bao giờ sanh được mảy may họa phúc nào cho ai đâu? Ngay đến việc sinh con cũng thế, người nào có công đức trăm đời thời sẽ sinh con cháu trong mười đời kế tiếp gìn giữ, người nào có công đức ba đời, hai đời thời sẽ sinh con cháu trong ba đời, hai đời kế tiếp gìn giữ. Còn người nào tuyệt nhiên không con ấy là người chỉ có công đức mỏng manh vậy. Nay ông đã biết chỗ khuyết điểm của mình, ông hãy tận tình gợt bỏ cái tướng không phát khoa giáp và không sinh con kia đi và muốn vậy ông phải lo tích đức, phải mở lòng bao dung, phải giữ niệm hòa ái, phải yêu tiết tinh thần bao nhiêu việc trước đập tan ngày qua đã chết, bao nhiêu việc sau phát khởi như ngày nay đã sinh. Được vậy tức là ông tự làm một cuộc tái sinh đầy nghĩa lý đó, cái thân xác thịt còn có vận số, huống cái thân đầy nghĩa lý này không cảm thông cùng trời đất ? Thiên thai giáp trong Kinh thi có câu: “ Trời làm ương nghiệp mình có thể tránh, mình làm ương nghiệp không thể nào tránh” Kinh thi nói “thường hay nói phối hợp thiên mạng chính là nói tự mình cầu được nhiều phước” trước đây Khổng tiên sinh tiên đoán số ông không phát khoa giáp, không sinh con đó là điều ương nghiệp do trời đất gây ra, nó có thể tránh gỡ, nếu ông mở rộng đức tính gắng làm việc thiện dồn chứa âm công, mình gây ra phước há mình không được hưởng thụ hay sao? Dịch là bộ kinh mưu tính việc suy cát tinh hung gúp cho người quân tử hạng người biết phản tỉnh tu đức. Nếu thật có cái thiên mạng cố định, ai tốt cứ tốt, ai xấu cứ xấu thì đâu có thể nói đến chuyện mưu tính suy khắc tinh hung. Mở đầu kinh dịch còn có câu “nhà nào chứa điều thiện sẽ có thừa điều phúc – tất thiện chi gia, tất hữu dư khánh” Ông có tin nổi điều ấy chăng? "...Sau khi được thiền sư chỉ dạy tôi liền đổi hiệu Học hải trước kia để lấy Liễu phàm vì từ đây đã hiểu cái lý nghĩa lập mạng là thế nào, không muốn để mình rơi vào sào huyệt phàm phu nữa. Từ nay trở đi suốt ngày gìn giữ cẩn thận do đó tôi tự thấy ngày nay khác xa ngày trước, ngày trước tôi chỉ là con người lêu lổng buông xuôi, nhưng từ nay tôi đã biết lo gìn lòng, giữ ý, cẩn thận từng khắc từng giờ. Dẫu ở chỗ kín đáo riêng tư, lòng vẫn sợ lỡ làm điều chi sai quấy mắc tội với trời đất, hoặc lỡ gặp ai ghanh ghét, phá phách, tôi vẫn cố giữ tính điềm nhiên hỷ xả. Bước sang năm sau Bộ lễ mở khoa thi, Khổng tiên sinh đoán Bộ sẽ khảo thí từ tên đậu ba trong khóa trước trở xuống, nhưng nay Bộ lại khảo thí từ tên đậu nhất. Thế là lời dự đoán của Khổng tiên sinh lần này không ứng nghiệm và tiên sinh không đoán tôi được đậu cử nhân thế mà tôi đã đậu cử nhân trong kỳ Hương thí mùa thu. Tuy nhiên tôi tự xét việc hạnh nghĩa mình làm chưa thuần thục, sai sót còn nhiều hoặc có khi thấy việc lành mà làm không hăng hái hoặc có khi cứu giúp người mà tâm còn do dự, hoặc có khi thân gắng làm lành mà miệng nói quá ác, hoặc khi tỉnh thì tháo vát và khi say lại phóng giật. Tôi đem tội chiết tính bù trừ với công thì thấy hẳn có nhiều ngày mình sống uổng. Tôi phát nguyện từ năm kỷ Tỵ đến năm kỷ Mão, suốt 10 năm mới hoàn thành ba ngàn việc thiện. Khi dời Lý tiệm am tiên sinh để vào Trung Quốc tôi chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn việc thiện kia. Năm canh Thìn có dịp trở lại Nam biên tôi mới thỉnh các Hòa thượng Thánh Không, Huệ Không đến đồng tháp thiền đường chứng minh cho lễ hồi hướng, nhân đó tôi lại phát nguyện làm thêm ba ngàn điều lành khác để cầu sinh con và đến năm tân Tỵ tôi đã may mắn hạ sinh một quý tử. Mỗi lần làm được một việc gì tôi liền lấy bút ghi vào sổ, vợ tôi không viết được nên hễ làm được việc gì thì lấy nắp bút chấm son ấn vào tờ lịch một khoanh tròn, chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, mua vật phóng sinh tính ra mỗi ngày có đến mười khoanh. Sang tháng tám năm quý Mùi tính lại đủ số ba ngàn điều lành sau khi đã khấu trừ các điều ác tôi lại thỉnh các Hòa thượng Thánh Không, Huệ Không đến nhà chứng minh lễ hồi hướng. Ngày 13 tháng 9 tôi lại phát nguyện làm thêm một vạn điều lành cầu thi đậu tiến sĩ. Quả nhiên năm Bính Tuất tôi thi đậu và được bổ làm chi huyện Bửu đề. Trong lúc làm chi huyện, tôi sắm sẵn một tập sách để ghi thiện ác, đặt tên là “Chi Tâm Thiền – Sách Sửa Lòng” cứ mỗi sáng dậy gia nhân đem nó giao lính hầu đem đến để trên án làm việc, nếu trong ngày tôi làm được điều lành, điều dữ nào dù lớn dù nhỏ đều ghi rõ ràng vào sách. Đêm đến thuyết án giữa trời bắt trước ông Triệu Diệt Đào thắp hương cáo với trời đất. Vợ tôi thấy đã lâu mà chẳng làm được bao nhiêu việc lành mới trau mày buồn bã nói: - Trước ông ở nhà có tôi gúp sức nên ông đã làm đủ ba ngàn điều lành theo sở nguyện, nay ông nguyện làm thêm một vạn điều, nhưng ở tại công đường chẳng có gì để làm thì biết bao giờ ông mới làm đủ số ấy? Đêm đó mộng thấy một thần nhân, tôi mới than thở về lý do khó là đủ các điều lành mình đã hứa. Thần nhân bảo: - Chỉ một việc giảm thuyên tiền thuế cho dân của ông vừa rồi, cũng đủ sánh bằng một vạn điều lành. Nghe lời thần nhân bảo tôi liền xét lại nhớ mình có làm việc đó thật, vì khi trước thuế huyện của huyện Bửu Đê, mỗi mẫu phải đóng hai phân, ba ly, bảy hào. Xét ra quá nặng đối với muôn dân nên tôi đã giảm xuống mỗi mẫu chỉ đóng một phân, bốn ly, sáu hào. Tuy vậy tôi vẫn hồ nghi tại sao việc làm đó lại có thể sánh bằng một vạn điều lành, may đâu gặp được Huyền Như thiền sư vừa từ núi Ngũ Đài đến, tôi đem việc nằm mộng ra hỏi xem có đáng tin không? Thiền sư trả lời: - Hễ có thiện tâm trân thành thì một việc lành có thể đương được muôn việc lành huống chi giảm thuế cho cả một huyện, muôn dân đều chịu ơn. Tôi liền cúng một số tiền lương nhờ thiền sư mang về Ngũ Đài trai tăng một vạn vị sư gọi là để làm lễ hồi hướng cho tôi. Khổng tiên sinh trước kia đoán tôi đến năm 53 tuổi gặp tai nạn. Nhưng đến năm đó chẳng có gì xảy ra dù tôi không hề cầu đảo sinh, tăng thọ. Và nay thì tuổi tôi đã 69 rồi, trong Kinh Thi có câu „Trời không dễ tin, mạng không định thường“ lại có câu, vận mạng chẳng nhất định“ những câu ấy đâu phải những lời dối trá ? Do đó tôi biết chắc rằng họa phúc phải cầu ngay nơi mình, đó mới thật là đúng ý của Thánh Hiền, ngược lại người nào nói họa phúc do mệnh trời thì đó là lối suy luận thông thường của kẻ thế tục. Hiện tại số mệnh mỗi người thế nào chưa dễ biết được vậy đang khi được hiển vinh hãy tưởng như gặp điều không vừa ý, đang khi được thuận lợi hãy tưởng như gặp điều trái nghịch, đang khi được sung túc hãy tưởng là thiếu nghèo, đang khi được mọi người ái kính hãy tưởng khi bị khuất phục, đang khi gia thể trọng vọng hãy tưởng mình ở hạng thấp kém, đang khi có chút học vấn uyên thâm hãy tưởng mình còn thiển cận Xa về trước nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tiên dương, gần hiện tại nghĩ tới lầm lỗi của mẹ mà tìm cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đình, ngoài thì gúp người ngăn ngừa tai nạn, trong thì lo ngăn ngừa tà ác chính mình, cốt phải ngay chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải, nếu một ngày không tự biết mình quấy tức một ngày an lòng tự cho mình là phải, một ngày không ăn năn hối quả tức một ngày tức là một ngày không tiến bộ. Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp họ cũng chỉ sống một đời đình trệ an phận dật dờ gặp chăng hay trớ mà thôi. Cái thuyết lý an thân lập mạng của Vân Cốc Hội thiền sư trao dạy trên đây thật là chí tình, chí lý, chí thân, chí chánh. Nếu biết ngẫm kỹ và thực hành sẽ khỏi một đời luống trôi vô ích vậy...." Bai này bên Website:Nhan Trac Hoc do Hoàng Thiện Minh sưu tầm.
  4. Tượng thiếu nữ Việt tại chủa Dâu Thuận Thành - Bắc Ninh - tương truyền đã xây dựng từ thế kỷ thứ III sau công nguyên. Tượng thiếu nữ hoàng tộc Việt cũng tại địa chỉ trên. Chúng ta thấy rằng y phục của hai người hoàn toàn giống nhau. Những giải lụa trên y phục phần thân chúng ta thấy lặp lại ở những y phục cung đình Nguyễn thời cận đại - đó chính là hình ảnh cách điệu của chim Phượng. Họ chỉ khác nhau cái mũ và khăn trùm đầu. Tất nhiên không thể giải thích rằng người đội mũ là bắt chước Hán, còn người đội khăn là của người Việt . Mà chỉ có thể khẳng định rằng: Đây chính là y phục Việt cổ. Khăn trên đầu người Kinh trong hình minh họa trên là khăn vấn và chúng ta vẫn có thể gặp ở những bà cao tuổi ngay bây giờ. Tục đội khăn không chỉ của người Kinh mà một số đồng bào các dân tộc cũng đội. Điều này chứng tỏ chúng phải có sự liên hệ về cội nguồn văn hóa. Liên hệ với những bằng chứng đã chứng minh ở bài trước, cho thấy rằng từ thời Hùng Vương y phục dân tộc Việt đã hết sức trang trọng và rất xứng đáng với một nền văn hiến. Nền văn hiến Việt qua y phục dân tộc đã có một ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Hán mà chính Khổng Tử cũng phải thừa nhận. Quan niệm dân tộc Việt thời Hùng Vương "Ở trần đóng khổ", chỉ xuất phát từ tư duy rất thiển cận với nên khả năng tầm nhìn cũng hạn chế. Với những người này thì một bồ sách trong đầu cũng chỉ có tính nhập liệu như bộ nhớ điện tử. Để có được những dữ liệu như vậy, chỉ cần nâng cấp bộ nhớ máy tính.
  5. MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỒ HÌNH ÂM DƯƠNG VIỆT. Bình trà độc ẩm vẽ hình âm dương Việt. Bát hương tại chùa Dâu Bắc Ninh và hình Âm Đương Việt. So sánh với bát hương hiện đại của các nghệ nhân chắc có hiểu chút ít về Dịch Tàu
  6. Anh Danchu thân mến. Bài viết này có nguồn từ một website chính thức của Công ty Cổ phần Phần mềm Hà Nội (Hanoi Software JSC) có tên miền là chungta.com. Tôi rất mong lần sau anh cố gắng ghi rõ nguồn xuất xứ. Tuy nhiên chúng tôi cũng xin lưu ý là diễn đàn của Trung Tâm nghiên cứu lý học Đông phương không có chức năng theo qui định để nghiên cứu các vấn đề xã hội , đại loại như: dân chủ, dân sinh và các vấn đề chính trị xã hội khác....Ngoại trừ những vấn đề đó được giải thích bằng phương pháp luận của Lý học Đông phương. Chúng tôi chỉ được phép nghiên cứu về lý học Đông Phương và cổ văn hóa sử. Bởi vậy, chúng ta cũng nên hạn chế những loại đề tài này. Nhất là những loại bài mang tính bình luận và không có tính thông tin. Rất cảm ơn sự quan tâm của anh và quí vị.
  7. Tất nhiên rùi! Tôi đã thông báo sự việc bắt đầu từ lâu rùi mà. :)
  8. Đi tìm chữ Việt cổ (Bản dự thảo lần thứ nhất để xin ý kiến) Tác giả Đỗ Văn Xuyền (Khánh Hoài) Hội viên Hội nhà văn Việt Nam Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Việt Trì Phó ban chỉ đạo đề án “Nghiên cứu thấm định và phục hồi các di tích của cố đô Văn Lang” Chủ nhiệm đề tài Chữ Việt cổ (trong nhóm nghiên cứu thời tiền sử thuộc trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam). Trước khi vào cuộc kiếm tìm Từ một ngôi miếu nhỏ Trên một quả đồi nhỏ ven đường, thôn Hương Lan – Nơi trung tâm của cố đô Văn Lang xưa – Có một tòa cổ miếu nằm ẩn mình dưới hai cây táu, gốc to đến bốn, năm người ôm không xuể, ước tính tuổi đời đã đến ngót nghìn năm. Mỗi độ hè về, trên mái ngói rêu phong và quanh những gốc cây lại phủ đầy những cánh hoa vàng, hoa bạc làm tăng thêm vẻ u tịch và cổ kính. Người ta gọi đây là miếu Hai Cô. Ngôi miếu rộng chừng ngót chục mét vuông với bức tường thấp nứt nẻ và hai mái nhỏ lô xô những viên ngói vỡ tưởng chừng có thể sụp đổ và tan biến trước bão tố trong thời gian bất kể lúc nào, nếu không có hai cây cổ thụ vươn dài những cánh tay lực sỹ che chở. Vào một mùa hè năm 1978, ban lãnh đạo Hợp tác xã nông nghiệp Động Lực quyết định cho chặt hai cây táu trước miếu về làm củi nung gạch. Được tin này các cụ già thôn Hương Lan đã kéo nhau ra miếu. Nhìn đám xã viên vác rìu, búa… chuẩn bị vào cuộc, cụ Nguyễn Hữu Bồng đã chạy đến, ôm chặt gốc cây hét lớn: “Không được phá nơi thờ thầy, cô giáo. Nếu chúng mày định chặt cây thì hãy chặt xác tao luôn thể”. Đến lúc này, người ta mới biết đây không phải là miếu Hai Cô như người dân đã bao đời lầm tưởng, mà là miếu thờ thầy giáo Vũ Thê Lang – quê ở Mộ Trạch - Hải Dương (cùng vợ là cô Nguyễn Thị Thục quê ở Đông Ngàn – Kinh Bắc) đã lên đây dạy học từ thời Vua Hùng thứ 18. Thầy Cô đã chết vào cùng một giờ, ngày 2 tháng 2 năm Quý Dậu (288 trước Công nguyên) và được song táng trong lòng miếu. Ngôi mộ đã được nhân dân Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt gần 23 thế kỷ. (1) (1) Theo Ngọc Phả do Nguyễn Bính phụng soạn. Trên bàn thờ còn tượng thầy cô và đặc biệt có hai cô gái với thị nữ theo hầu. Đó chính là Tiên Dung và Ngọc Hoa, hai cô học trò yêu của thầy họ Vũ mà người ta dùng hình ảnh để ngụy trang cho ngôi miếu cổ. Bức hoành phi nhỏ “Thiên Cổ Miếu” và đôi câu đối bằng gỗ mộc, dài chừng một mét đã nói lên tầm cỡ của di tích này: “Hùng lĩnh trung chi thắng tích, Nam thiên chính khí linh từ” (Tạm dịch: “Thắng tích: Dấu xưa Hùng Lĩnh Đền thiêng: Nguồn sáng trời Nam) …Đến cả một hệ thống đền, miếu thờ thầy cô giáo thời trước HánMở rộng phạm vi tìm kiếm, ta thấy ngoài miếu Thiên cổ thôn Hương Lan, còn rất nhiều nơi thờ thầy cô giáo ở khắp vùng miền núi, trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Nghệ Tĩnh. Điều đáng tiếc là sau bao năm bị chiến tranh tàn phá và do nhận thức nông cạn một thời, nhiều di tích lịch sử đã không còn nữa. Rất may mắn là năm 1938, người Pháp đã có một cuộc tổng kiểm kê di tích các làng xã. Tài liệu hiện giờ còn lưu giữ ở kho AE Viện Hán Nôm, cộng với một số công trình của một số tác giả: “Thần linh đất Việt”, “Các nữ thần Việt Nam”, “Các nữ tướng của Hai Bà Trưng” cộng với các di tích còn sót lại… Ta đã có thề dựng lại tấm bản đồ vùng Giao Chỉ, Cửu Chân cũ với rất nhiều dấu tích của một nền giáo dục thời trước Hán, mở đầu từ thời Hùng Vương thứ sáu và kết thúc là thời Hai Bà Trưng với thầy Đỗ Năm Tế, cô Tạ Cẩn Nương, thầy Lê Đạo, sư bà chùa Phúc Khánh… Có tấm bản đồ ghi chú và qua danh sách các thầy cô giáo học sinh kèm theo ta cũng có thể hình dung được sự học hành của tổ tiên ta thời ấy. Như vậy phải chăng ngay từ thời đại Hùng Vương dân tộc ta đã từng có chữ viết riêng?Đất nước ta nhỏ bé, lại phải trải qua hàng nghìn năm bị thống trị với chính sách đồng hóa nghiệt ngã của kẻ thù, bao nhiêu di sản quí báu của tổ tiên đã không còn nữa. Giờ đây nhiều nhà khoa học đang dành hết công sức vào các công cuộc kiếm tìm. Riêng về chữ viết, trong suốt mấy nghìn năm đã có bao nhiêu người từng nhắc tới. Từ Hứa Thận, Trịnh Tiểu… đời Tống cho đến Vũ Quỳnh, Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Lê Huy Nghiệm… Và gần đây là Bùi Văn Nguyên, Lê Trọng Khánh, Hà Văn Tấn, Trần Ngọc Thêm… Và một số lượng không nhỏ các nhà nghiên cứu Việt Kiều. Những dấu tích về ký tự của tổ tiên cũng ngày càng phát lộ nhiều hơn: - Từ những nét khắc đơn sơ trên các bãi đá cổ ở Xín Mần (Hà Giang) Pá Màng (Sơn La), trên các đồ đồng Đông Sơn đến các hình vẽ tinh xảo đã mang tính khoa học, trên hàng trăm tảng đá ở Sa Pa mà chúng ta chưa giải mã được. - Tiến lên một bước, ta còn tìm thấy dấu tích chữ khoa đẩu trên vách đá Đài Loan - một loại chữ tượng hình mà nhìn qua ta cũng đoán biết đây là tiền thân của chữ Hán. Các nhà khảo cổ Trung Quốc còn phát hiện nhiều di vật có khắc chữ, cách đây tới sáu, bảy nghìn năm, vào thời điểm mà các vùng phát hiện còn là khu vực cư trú của người Bách Việt. Ấn tượng về loại chữ khoa đẩu mạnh đến mức còn lưu dấu lại trong các tác phẩm văn học như Thủy Hử của Thi Nại Am, Lộc Đĩnh Ký của Kim Dung… Thời điểm ghi lại sự xuất hiện của loại ký tự này đã cách xa tới bốn, năm nghìn năm trước… Ta biết rằng ký tự của một dân tộc bao giờ cũng phát triển từ đơn sơ lên hoàn chỉnh. Sự phát triển này mang tính kế thừa. Vì vậy, muốn nghiên cứu về chữ viết của tổ tiên, ta phải bắt đầu từ loại chữ viết xuất hiện gần ta nhất (song song với ngôn ngữ của giai đoạn đó). Thời điểm này ít nhất cũng vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên khi đất nước ta bắt đầu chìm vào đêm dài tăm tối của trên 1000 năm Bắc thuộc. Với phương pháp nghiên cứu khoa học, có điều kiện tiếp xúc nhiều tài liệu và với cái nhìn khách quan, một số nhà khoa học thế giới đã giúp ta những tài liệu mới về vấn đề này. Giáo sư Noel Barnard ở Đại học Quốc gia Úc đã khẳng định: “Rõ ràng là thời trước Hán (thời của dòng Bách Việt) ở Trung Quốc đã tồn tại một hình thức chữ viết và ngôn ngữ văn học khá chuẩn xác”. Trong cuốn “Lịch sử chữ viết thế giới” xuất bản trước năm 1945, nhà khoa học Tiệp Khắc Cesmir Loukotca viết: “Phía nam đế quốc Trung Hoa có nhà nước An Nam, ngay từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên đã bị người Hán thống trị. Viên Thái thú Sĩ Nhiếp đã du nhập chữ Hán vào. Trước đó, người An Nam đã đọc bằng thứ chữ ghi âm riêng. Chữ đó không còn lại đến ngày nay”. - Trước đó, năm 1887, Terrien de Couperie đã viết trong tạp chí Hoàng gia Anh: “… Sĩ Nhiếp đã bắt người Việt học thứ chữ Hán tượng hình và cấm dùng thứ chữ tượng thanh của mình”. Vào giai đoạn này, nhiều cuốn kinh Phật được dịch sang chữ Hán (như Tạp thí dụ kinh, Cựu tạp thí dụ kinh… và Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội - dịch năm 246). Tới nay, căn cứ vào nội dung và hình thức ngữ pháp của sách, Thiền sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã có một phát hiện quan trọng: Cuốn Lục độ tập kinh không phải dịch từ chữ Phạn mà là chép nguyên văn một cuốn sách bằng chữ Việt. Thiền sư khẳng định: Ngay từ trước khi chữ Phạn từ Ấn Độ được truyền sang Đông Nam Á theo con đường Phật giáo thì ở Việt Nam đã có một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh. Không phải chỉ có loại chữ ghi âm, tiến bộ vượt bậc so với loại chữ Hán tượng hình. Trong khi, đến thế kỷ thứ 3, nhiều nơi ở Trung Quốc vẫn dùng thẻ tre ghi chép thì từ năm 43, Mã Viện đã báo cáo với vua Hán: Dân Giao chỉ đã làm được giấy mật hương, loại giấy thả xuống nước không nát. Sử sách còn ghi: “Năm 284 lái buôn La Mã mua từ Giao Chỉ 30.000 tờ giấy mật hương biếu vua Tấn”. Điều đó chứng tỏ kỹ nghệ làm giấy đã phát triển rất cao. Giáo sư Jean Pierre Drege, Giám đốc viện Viễn Đông bác cổ ở Pháp, căn cứ vào sách “Nam phương thảo mộc trạng” của Kê Hàm năm 304 và sách “Thập di ký” của Vương Gia, thời gian sau đó đã đi đến kết luận: “Ngay từ thế kỷ 2 trước Công nguyên, người Việt đã làm ra giấy và sau đó truyền vào Trung Hoa”. Tất cả để chứng minh rằng: Ngay từ khi lập quốc, tổ tiên ta đã có chữ viết, từ những hình vẽ đơn sơ đến loại chữ khoa đẩu như hình con nòng nọc và tới khi bị kẻ thù triệt hạ thì cứ văn tự ấy đã đạt đến mức độ cao về mặt khoa học: Thứ ký tự ghi âm có chữ cái ghép vần… có thể đứng ngang hàng với những loại chữ tiến bộ nhất của nhân loại. Thứ tài sản vô giá ấy của tổ tiên liệu có còn không? Làm sao để chúng ta tìm lại được và tìm ở những nơi nào? Đất nước ta nhỏ bé, ở bên cạnh một đế quốc to lớn, bị thống trị tới hàng nghìn năm mà vẫn giành lại được độc lập dân tộc, vẫn tồn tại với cả một nền văn hóa độc đáo. Trải qua bao thử thách khốc liệt, dân tộc ta vẫn giữ vững ý chí quyết chiến quyết thắng với lòng yêu nước mênh mông và tình yêu thương nhân loại cao cả. Bao nhiêu di tích, bao nhiêu di sản quý giá từ thời đại đồ đá, đồ đồng… Vẫn được dân ta bí mật cất dấu bảo vệ thì Chữ Việt cổ nhất định vẫn còn. Chỉ có điều chúng ta không hy vọng tìm thấy ở các vùng biên giới phía Bắc, đồng bằng và đô thị. Cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, lệnh triệt hạ chữ viết cổ của Sĩ Nhiếp khi bắt dân ta học chữ Hán, một chỉ dụ của Minh Thành Tổ gửi Trương Phụ năm 1875, chắc những nơi đó không còn sót lại được gì. Chỉ còn vùng Tây Bắc. Một số nhà khoa học thế giới và trong nước đã khẳng định: Vùng triền núi ven sông Đà là nơi cư trú của người Lạc Việt từ hàng vạn năm trước, sau đó là người Mường và người Thái. Do địa hình cao và địa thế hiểm trở, dân ở đây không phải chịu những cuộc thiên di do Đại hồng thủy và kẻ thù cũng không dễ dàng vượt qua sông Đà đầy ghềnh thác mà vào cái vùng rừng núi đầy hiểm trở này. Chúng ta hướng việc tìm tòi về phía đó, chỉ có điều, phải dùng một phương pháp nghiên cứu khác (để không bị rơi vào những cái bẫy kiến thức người ta đã đặt sẵn – làm bao nhiêu người lệch hướng). Chúng ta tin tổ tiên còn lưu giữ lại nhiều. Chí có về với dân và dùng phương pháp nghiên cứu hiện đại nhất, ta mới hy vọng tìm ra sự thật. Như vậy, ta có thể xác định: - Đối tượng tìm của ta là Chữ Việt cổ, loại chữ ghi âm đã có chữ cái ghép vần. - Địa điểm tìm, chủ yếu là vùng Tây bắc. - Phương pháp của ta là: dựa vào dân tìm tư liệu trong dân. Thu thập, lựa chọn để tìm ra những bộ chữ có nhiều khả năng nhất. Tìm cách giải mã và sau đó dùng phương pháp hiện đại nhất để kiểm nghiệm. Đỗ Văn Xuyền
  9. Xin cảm ơn bà Bích Hoàng và Laviedt có lời chia sẻ. Laviedt thân mến. Thiên Sứ tôi thích ăn cả, nay chia nửa thì cũng nản. Nhưng buồn thay! Ý muốn thì vậy! Còn cuộc đời đôi khi không được góc tám! Một nửa cũng may lắm rồi! Xin cho tôi một chút suy tư về bài thơ này vì khó họa. Câu nào cũng có "Chia nhau" và "một nửa". Bởi vậy phải tìm từ tương ứng và xuyên suốt bài thơ.
  10. HOÀN TOÀN CHÍNH XÁC! :) :lol: :lol:
  11. Chiếc bàn "lộc cộc" (tên tôi đặ cho nó) có khả năng tiên tri. Còn chiếc bàn xoay thì chỉ xoay thôi. Sắp sửa lại có những nhà "pha học" lên tiếng cho rằng đây là "vén đè mê tín dị đoan" - phát chán! Giữa hiện tuong và cách giải thích là hai vấn đề khac nhau. Có thể giải thích nhân danh khoa học, có thể giải thích theo mê tín dị đoan....vv...Nhưng hiện tượng là chân lý không thể phủ nhận. Hiện tương là khách quan và là đối tượng nghiên cứu khoa học. Ở một xứ sở mà quả cà chua chỉ có màu vàng thì họ thấy quả cà chua màu đỏ như chúng ta thường thấy là lạ. Nhưng ở xứ chúng ta thì quả cà chua vàng là hiện tượng lạ khách quan. Bởi vậy chúng ta cần phân biệt hiện tượng và nhận thức hiện tượng. Có người khoa học nửa mùa - chủ yếu là giả khoa học - thì tất cả những hiện tượng lạ đều phản bác nhân danh khoa học - để chứng tỏ ta là khoa học nhằm kiếm chút cháo. Những kẻ buôn thần bán thánh thì giải thích nhân danh Thượng đế. Những nhà khoa học giả hiệu - có thể có học vị cao - và những kẻ buôn thần bán thánh giống nhau ở chỗ là sự phủ nhận và khẳng định vội vàng. ,Còn những nhà khoa học chân chính thì sẽ tìm bản chất của hiện tượng và lý giải một cách hợp lý.
  12. Hi! Thảo nào Thiên Sứ tui cũng nghi nghi, theo quẻ thỉ Sói con làm sao sinh sớm thế? Mặc dủ không nhớ chính xác lắm.
  13. Anh chị em đăng ký học lớp Phong Thủy Lạc Việt khóa II lưu ý: Nhằm mục đích giao lưu trao đổi trước khoa học, hiện Ban kỹ thuật đã mở mục "Phong Thủy Lạc Việt khóa II" và đưa tất cả những ký danh - nick - của những ai đã đăng ký hợp lệ theo qui định vào trong lớp. Đề nghị anh chị em nào đã đăng ký nhưng chưa vào được sẽ lên tiếng để Ban Kỹ thuật hiệu chỉnh. Tôi xin lưu ý một lần nữa là anh chị em chưa phải đóng tiền học phí trước khi lớp chính thức khai giảng 1 tuần.
  14. Quan điểm của Lý học Đông phương về môi trường sống của con người là: Thân thiên với môi trường và hòa nhập với thiên nhiên. Đây chính là điều lý giải tại sao tổ tiên ta - một thời huy hoàng huyền vĩ ở nam sông Dương tử - đã không để lại những công trình đồ sộ như Vạn Lý Trường thành, Kim tự tháp... Bởi vậy, việc phá bỏ cảnh quan môi trường văn hóa truyền thống và sinh hóa, để xây những công trình đồ sộ là điều xa la với quan niệm của Lý Học Đông Phương. Xu hướng hiện đại của thế giới ngày nay đang tiến tới bảo vệ và hòa nhập với môi trường - Đây cũng là điều mà những tư duy vĩ đại tạo nên lý thuyết thống nhất vũ trụ đã nhận thức tử hàng ngàn năm trước. Bởi vậy, cá nhân Thiên Sứ tôi ủng hộ bài viết trên của Tuần Vietnamnet.
  15. Hiện tôi đang ở xa. nên không đủ tư liệu. Nhưng ngoài ý tưởng về Dịch Phong thủy tôi đã trình bày ở trên thì vị trị Khảm Ly có thể còn liên quan đến việc phân cực 4 mùa trên cung Hoàng Đạo.
  16. Cảm ơn Đông Thiền! Sắp tới đây sp mua được hai cái máy đo bức xạ điện từ , sẽ minh chứng năng lực mạnh mẽ của gương Hậu Thiên Lạc Việt so với gương tàu.
  17. Bùn thì Thiên Sứ mần thơ. Hết bùn Thiên Sứ vật vờ tỉnh say. Dịch thơ Hindu B)
  18. Không cói vấn đề gì đâu. Có thể do lỗi của trang web. còn cảnh cáo 0% là chương trình tự động cho tất cả các thành viên.
  19. NGHE TIẾNG ĐÀN AI. Hoàng Bích Dư Bài thơ tặng chồng Thu 1998 Nghe tiếng đàn ai chạnh nhớ mình. Tay dồn phím nhạc chảy lung linh Mắt buồn say đắm bên song cửa. Mỗi tứ thơ gieo gợn sóng tình. Ai đem tiếng nhạc phổ vào thơ Chỉ có yêu thương lẫn đợi chờ Một khúc tình tang khơi viễn mộng. U hoài tan biến giữa cơn mơ. Ai đã từng nghe một tiếng đàn. Cõi hồn men dậy sóng âm vang Lao xao cung bậc cung hoài niệm. Dồn dập thanh âm chuyển điệu làn. Một khúc cầm ca não trúc tơ. Ai hay nhạc đã lẻn vào thơ. Thơ hòa nhịp điệu thơ vương vấn. Nhạc quyện tơ sấu nhạc ngẩn ngơ. Ngàn xưa thơ nhạc quyện ngàn sau. Luyên láy thanh âm điệp điệp màu. Một tiếng tơ chùng thơ nức nở. Tay ngà buông bắt đẫm mưa ngâu. CẢM TÁC NGHE TIẾNG ĐÀN AI Thiên Sứ Thánh thót nghe như tiếng khóc mình. Năm dây ru lệ nến lung linh Vút cao ray rứt niềm ly hận Trầm tiếng buồn dâng giọt lệ tình. * Mênh mang sóng nhạc lạc hồn thơ. Thồn thức như ai khóc đợi chờ. Dâng khúc ly quê buồn viễn xứ. Tỏa men hồ hải nhạt huyền mơ. * Giọt lệ sầu rơi lạnh khúc đàn. Oan khiên sao gợi nỗi ly tan? Cung thương thổn thức bao hoài niệm. Lên đỉnh trầm buồn tỏa khói lan. * Chợt tiếng rung trầm não khúc tơ. Một trời ly biệt khóc trong thơ. Duyên xưa hòa nhạc gieo vương vấn. Thu cũ bây giờ có ngẩn ngơ? * Tiếng xưa réo rắt nhắc ngàn sau. Lá rụng thiên thu vẫn một màu. Sao tiếng nhặt khoan gieo nức nở. Dâng đầy vương vấn ngập mùa Ngâu? * Năm giây bặt tiếng đã lâu. Nước mây vẫn ngập nỗi sầu thiên thu.
  20. Đây chính là con chim Lạc - một trong hai biểu tượng cao quý của giống nòi Lạc Việt. Còn Việt là con chim trĩ ("Chim Việt đậu cành Nam - Kinh Thi). Chim Hạc - Lạc được cách điệu và thờ trong các đền đình. Trong một số chùa hiện đại cũng có cặp chim này. Chúng ta hãy nhìn kỹ cặp chân của con linh điểu này: Chúng có mỗi chân đúng chín đốt x 2 = 18. Đây chính là tổng số cửu cung Hà - Lạc. Trong mỏ chim có ngậm một viên tròn. Đây chính là biểu tượng của Thái Cực. Có thể nói rằng: Hình ảnh cặp chim này trong văn miếu là biểu tượng chuẩn nhất của "Chim Lạc trên thần Quy". Nhưng tôi dự đoán cặp tượng này chỉ xuất hiện trong vòng 3 - 4 trăm năm trở lại. Nguyên thủy thì chỉ có một con ngậm viên ngọc. Con kia không.
  21. Tổng thống Bush ký lệnh tấn công bên trong lãnh thổ Pakistan Thứ Sáu, 12/09/2008 - 6:38 AM (Dân trí) - Tổng thống Bush đã bí mật phê chuẩn các mệnh lệnh lần đầu tiên cho phép các lực lượng “Chiến dịch đặc biệt của Mỹ” tiến hành các cuộc tấn công trên bộ bên trong lãnh thổ Pakistan, mà không có sự đồng ý trước của nước này. Tiết lộ trên của các quan chức cấp cao Mỹ giấu tên báo hiệu sự thay đổi lớn trong chính quyền Bush sau gần 7 năm nỗ lực hợp tác với Pakistan trong cuộc chiến chống tàn quân Taliban và mạng lưới khủng bố al-Qaeda, cũng như sau nhiều tháng bế tắc cao độ về phương cách tiêu diệt căn cứ ngày càng an toàn của phiến quân ở những khu vực bộ lạc thuộc Pakistan. Theo những quan chức này, phía Mỹ sẽ thông báo cho Pakistan biết khi nào họ tiến hành các cuộc tấn công trên bộ có giới hạn, giống như cuộc đột kịch “Chiến dịch đặc biệt” hồi giữa tuần vào một ngôi làng của Pakistan giáp giới Afghanistan, nhưng họ sẽ không xin phép. “Tình hình ở những khu vực này là không thể chấp nhận được”, một quan chức nói. “Chúng tôi càng ngày càng phải quyết đoán hơn. Mệnh lệnh đã được đưa ra”. Các mệnh lệnh mới của ông Bush cho thấy sự lo ngại về thiên đường an toàn cho al-Qaeda và Taliban bên trong lãnh thổ Pakistan, cũng như quan điểm của Mỹ cho rằng Pakistan thiếu quyết tâm và khả năng chống lại những phần tử này. Các lệnh mới cũng chứng tỏ sự ngờ vực kéo dài về khả năng của các cơ quan quân đội và tình báo Pakistan. Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã nhiều năm dùng máy bay không kích vào những khu vực nghi ngờ là sào huyệt của các phần tử nổi dậy và khủng bố bên trong lãnh thổ Pakistan. Nhưng các chỉ thị mới đã nới lỏng những hạn chế nghiêm ngặt về việc tiến hành các cuộc đột kích vào bên trong lãnh thổ của một đồng minh quan trọng mà không xin phép. Quan chức quân đội hàng đầu của Pakistan trước đó tuyên bố lực lượng của ông sẽ không tha thứ cho các hành động xâm nhập của Mỹ giống như vụ việc đã xảy ra tuần trước và quân đội sẽ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ “bằng mọi giá”. Nguyễn Viết Theo NYTimes
  22. Chú không thấy năm nào sớm hơn mà tốt hơn 2014. Còn 37 - 38 đẻ thì còn trẻ chán. Bà xã tôi lúc 52 tuổi dọa đẻ đứa nữa. Tôi phải gọi bằng chị bà ấy mới tha cho. B)
  23. Miếng ăn, thức uống của vua chúa không những phải ngon, đẹp, tinh, giàu chất dinh dưỡng mà còn mang tính chất y lý trong từng nguyên liệu sử dụng để đạt sược sự trường thọ cho người ăn. Chế độ phong kiến đã tàn lụi theo quy luật phát triển tất yếu của lịch sử. Thế hệ của chúng ta hôm nay thật sự chỉ biết được quá khứ qua từng trang sách sử. Những gì được ghi chép, còn tiếp tục lưu truyền. Những gì không lưu chép, chỉ tản mạn truyền khẩu trong dân gian thì đang dần mai một... Và kiến thức về ẩm thực cung đình Việt Nam phải chăng đang đi dần vào con đường tàn lụi ấy bởi khó tìm thấy những văn bản ghi chép "Chuyện vua ăn". Bài viết này chỉ xin cung cấp cho bạn đọc một phần kiến thức nhỏ nhoi về "Bát trân trong ẩm thực cung đình Việt Nam xưa” là tám món ăn quý hiếm. 1 - Yến sào: Là tổ của loài chim hải yến (én biển) là một thực phẩm cao cấp vô cùng quý giá: Việt Nam là một trong tám quốc gia trên thế giới có yến sào. Yến sào có nhiều loại: yến huyết, quan địa, bài... mỗi loại đều có giá trị chất lượng khác nhau nhưng tất cả đều có giá trị dinh dưỡng cũng như giá trị kinh tế lớn. Bản thân yến sào không phải là một món ăn ngon - mùi yến sào tanh tanh, vị nhạt nhạt nhưng ăn nó sẽ được bồi bổ thần kinh, gân cốt, chữa bệnh kiết, chống suy nhược và kéo dài tuổi thọ. Yến sào có thể chế biến nhiều món ăn: - Chè yến - Chè yến sào hạt sen - Yến thả - Bồ câu tiềm yến sào Xưa kia vua chúa chỉ ban yến cho hai đối tượng: - Các sứ giả đến bang giao với Việt Nam - Các vị tân khoa đỗ đầu Ngày nay, trong tám loại thực phẩm quý hiếm trên chỉ còn yến sào là vẫn dễ dàng tìm kiếm và được phép sử dụng. Bảy thứ còn lại, một số loài đã tuyệt chủng hoặc nếu còn, đều thuộc danh mục các thú vật quý hiếm phải hết sức bảo vệ và gìn giữ. 2 - Nem công: Nem là một món ăn đặc biệt của người Việt được chế biến không qua nấu nướng. Thực phẩm tự chín bằng sự lên men vi sinh do sự tác động của các gia vị có tính nóng (riềng, tỏi, tiêụ..) phối hợp vào nguyên liệu chính là thịt đùi công được giã mịn. Làm nem, nếu biết chọn thịt đùi, nem sẽ dai ngon. Công là một loài chim có bộ lông đẹp. Nó thường sống ở các cây cao hoặc gò cao. Đến mùa giao tình thường xòe cánh múa các vũ điệu để gọi bạn. Con người rất thích thưởng ngoạn các vũ điệu ấy. Việc săn bắt công để cung cấp thịt hàng ngày phục vụ chế biến thức ăn không phải dễ dàng. Nem công được liệt vào danh mục "bát trân"? Thịt công ngon điều này cũng chỉ đúng một phần bởi cái ngon của thịt công giống vị của thịt gà. Nhưng thịt công lại có tính giải độc. Khi ăn nem công, thịt công hấp thu vào máu sẽ có khả năng giải các thứ độc tố mà người ăn lỡ ăn phải. Chính đây là điều then chốt để hiểu vì sao nem công lại là món ăn quý. Như trên đã nói, tính mạng của các bậc đế vương luôn được đặt hàng đầu. Việc tranh giành ngôi báu khiến con người cố sát, đầu độc nhau trong lịch sử của nhiều triều đại không phải là không có. Do đó, món ăn này được xem như "thần hộ mạng". 3- Chả phụng: Chim phụng là chim đực. Chim cái được gọi là Hoàng. Loài chim phụng chỉ sống ở núi cao, ít người trông thấy. Thịt phụng được giã mịn, nêm gia vị, gói vào lá chuối thật kín rồi hấp chín. Cũng như thịt loài chim công, thịt chim phụng vừa có chất dinh dưỡng, vừa có tác dụng dược tính nhằm bảo vệ tối đa sức khỏe. 4- Da tây ngưu: Loại thú tây ngưu hay còn gọi là tê ngưu chỉ sống ở trong các rừng sâu, ăn toàn loại cây cỏ có gai. Hình dạng Tây ngưu rất xấu xí. Người xưa kể rằng, mỗi khi ra suối uống nước, Tây ngưu nhìn xuống suối, thấy bộ dạng mình xấu xí quá, con vật hổ thẹn quậy cho nước thật đục rồi mới uống . Da tây ngưu rất cứng, dày, duy nhất ở nách của con vật có một đám da rất mỏng. Nếu biết bắn hay đâm vào điểm ấy mới làm con vật chết. Phần da nách ấy, ngâm nước cho mềm, nấu thành món ăn rất ngon và bổ dưỡng. 5- Bàn tay gấu: Gấu đực gọi là Bi, gấu cái gọi là Hùng. Thú vật này có cổ dài, chân cao, đi được bằng hai chân. Gấu có sức mạnh, có thể dùng hai chân trước khuân cả tảng đá lớn. Chúng rất giỏi leo cây, thích ăn mật ong ở các tổ trên cành cao. Lúc đói hoặc lúc trú đông, gấu có thể ở trong hang không ra ngoài, không có thực phẩm thì chỉ liếm bàn tay (hai chân trước) để sống. Bàn tay gấu là một món ăn rất ngon và bổ dưỡng. 6- Gân nai: Loài nai lớn con hơn loài hươu. Giống nai đực có gạc. Nai ưa xuống ở núi. Vào tiết hạ chí, nai đực thường rụng sừng. Sừng non của nai gọi là lộc nhung, là một vị thuốc tráng dương, bổ thận, tăng sinh lực nhưng phải biết cách bào chế và sử dụng. Gân nai lại được dùng để chế biến món ăn, rất ngon. Khi làm thịt, dùng lửa thui đùi nai, cạo sạch lông. Cho giò vào nước luộc mềm. Dùng dao nhọn xẻ tách gân ra khỏi phần bắp thịt. Cho gân nai vào phiêu trong nước có ít muối và giấm cho trắng. Khi gân đã mềm, cắt khúc, hầm chung gân nai với các nguyên liệu: tôm khô, măng củ đậu, chả lụa... trong nước hầm gà đã lọc trong veo. Nêm gia vị vừa ăn khi các nguyên liệu đã chín mềm. 7- Môi đười ươi: Đười ươi là một giống khỉ lớn, có thể đi bằng hai chân như người. Theo sách An Nam chí thì đười ươi chỉ ưa sống trong hang núi, đi không bao giờ theo một đường nhất định. Muốn bắt được đười ươi, con người phải lừa đặt be rượu và các đôi dép da trên đường chúng đi qua. Giống đười ươi hay bắt chước nên uống rượu rồi mang dép như loài người mà nó đã từng thấy. Lúc này chúng vừa say vừa đi xiêu vẹo, người săn thú mới dễ dàng bắt được. Môi đười ươi rất ngon, dùng chế biến các món sơn hào dâng vua chúa. Ngày nay, giống thú này rất quý hiếm, cần phải ra sức bảo vệ. 8 - Thịt chân voi: Voi là một loài vật to nhất trong loài thú bốn chân. Nó rất thông minh, lanh lợi. Thịt voi rất nhạt nhẽo - người đời vẫn thường nói "mười voi không được bát nước xáo". Khi voi chết, người ta thường chỉ lấy ngà voi. ở bàn chân voi có một lớp thịt gân rất mềm, chế biến thành món ăn rất ngon. Nó đã là một thực phẩm rất khó kiếm nên chỉ dành dâng vua chúa thưởng thức. Nhưng chúng ta vẫn còn có thể tái hiện các tiệc cung đình bằng chính những nguyên liệu cao cấp mà nguồn tài nguyên phong phú của Việt nam có thể cung cấp: yến sào, vi cá, bóng cá, hải sâm, cua gạch, tôm hùm, sò huyết, bào ngư để thu hút nguồn khách quốc tế khi họ đến với Việt Nam!
  24. Khi về nhà tôi sẽ nghiên cứu trường hợp này trên mọi khía cạnh. Bởi vì tôi có một kỷ niệm rất ấn tượng về vấn đề này.Số là: Khi tôi viết và in cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" thì có người phản biện sau lưng tôi là: Thiên Sứ nguy biện, không có cơ sở. Ông ta đảo ngược Khảm lên phía trên, Ly phía dưới gây khó khăn cho người có chuyên môn về dịch khi thẩm định sách của ông ta. Bởi vì những người này quen nhìn theo sách Tàu - Ly trên khảm dưới. Câu chuyện đến tai tôi, tôi ngán ngẩm cho tinh thần phản biện này, bèn khuyên họ: "Hãy xoay ngược cuốn sách lại xem có đúng như sách Tàu không? Sau khi thẩm định xong lại quay lại như cũ để đọc chữ". Thực ra vấn đề là tất cả do thói quen. Tuy nhiên riêng vấn đề gương bát quáy thì việc quay ngược, hoặc xuôi sẽ thành quẻ Vị Tế hay Ký tế là điều phải quan tâm. Cũng như với Bát quái tiên thiên thì Càn khôn trên dưới sẽ thành quẻ Bĩ hay Thái. Ngoài ra chúng ta cũng cần quan tâm đến Dịch Phong Thủy - là một phương pháp chưa thấy công bố trong các sách đã xuất bản phổ biến , mà chỉ là bí truyền qua các nhà Phong Thủy.
  25. THU TRINH NỮ Hoàng Bích Dư Tặng con gái Ngày trở về Hung Ga Ry Con gái tăng ta cành thục nữ Hoa mang biệt hiệu "Mi mo sa" Trắng trong cánh diệp lung linh nở. Chen đóa cúc vàng sắc thắm pha. Mẹ cắm vào bình hai thứ hoa. Lững lờ ngắm mãi sắc vàng pha Mùa Thu trở lại lâu chưa nhỉ? Giờ quyên hương thu thật đậm đà. Mang hoa tặng mẹ ngày con đi. Thu đến chưa mừng đã biệt ly. Tiễn đến sân bay hồn trống lạnh Mưa thu như đã ngập hàng mi. Ơ nắng sao ta tưởng trận mưa. Mưa Ngâu con ạ đến Ngâu chưa? Con đi mang cả hoa và nắng Mang cả thu vàng mẹ tiễn đưa. NGHE TIẾNG ĐÀN AI. Hoàng Bích Dư Bài thơ tặng chồng Thu 1998 Nghe tiếng đàn ai chạnh nhớ mình. Tay dồn phím nhạc chảy lung linh Mắt buồn say đắm bên song cửa. Mỗi tứ thơ gieo gợn sóng tình. Ai đem tiếng nhạc phổ vào thơ Chỉ có yêu thương lẫn đợi chờ Một khúc tình tang khơi viễn mộng. U hoài tan biến giữa cơn mơ. Ai đã từng nghe một tiếng đàn. Cõi hồn men dậy sóng âm vang Lao xao cung bậc cung hoài niệm. Dồn dập thanh âm chuyển điệu làn. Một khúc cầm ca não trúc tơ. Ai hay nhạc đã lẻn vào thơ. Thơ hòa nhịp điệu thơ vương vấn. Nhạc quyện tơ sấu nhạc ngẩn ngơ. Ngàn xưa thơ nhạc quyện ngàn sau. Luyên láy thanh âm điệp điệp màu. Một tiếng tơ chùng thơ nức nở. Tay ngà buông bắt đẫm mưa ngâu.