-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Sinh năm Tân Mão hoặc Quý Tỵ đều được. Nhưng Quý Tỵ tốt hơn.
-
Anh chị em đã thống nhất vẫn đi vào chủ nhật - 28/ 9 Năm 2008. Vì đây là thời gian thích hợp của anh chị em. Thời gian thì 7g 30 sáng xe chuyển bánh.
-
Đường link đây Nguyen Kha à. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...n/page/100.html Nằm ở Trang 6 ở topic "Lời tiên tri 2008".
-
NguyenKha giới thiệu thêm trang web của mình và nói rõ lời tiên tri này đã công bố ngày nào? Nếu cần cho ngay đường link vào thẳng lời tiên tri. Rất cảm ơn Nguyên Kha.
-
Anh Vô Trước thân mến. Anh phủ nhận năng lượng trong khái niệm về vật chất thì đây là một sai lầm lớn nhất. Một lý thuyết khoa học không phủ nhận những thành tựu trước đó đã coi là chân lý. Nếu bỏ yếu tố năng lượng thì định luật bảo toàn năng lượng sẽ sai. Vài dòng để anh tham khảo.
-
Ok quá đi ấy chứ! Trai gái gì cũng tốt. Con trai tốt hơn. Có phương pháp tính ở trang chủ đấy. Vào tham khảo và thực hiện đúng thì hiệu quả đến 90%.Chúc vạn sự an lành.
-
Anh Nguoncoi thân mến! Thiên Sứ viết: Hãy tìm cách ổn định thị trường nhà đất và nông nghiệp thì sẽ tránh được khủng hoảng. Nhưng như thế nào là ổn định thị trường nhà đất và nông nghiệp? Vấn đề sẽ không đơn giản chỉ là tăng năng xuất nông nghiệp, bảo đảm vụ mùa bội thu ...vv...Hoặc chỉ là ổn định về giá cả và khả năng lưu thông của thị trường nhà đất, hay theo kiểu "xây cho nhà cao. cao mãi". Mà là phải ổn định từ cái gốc của nó. Cái gốc của nó là khả năng quy hoạch để phát triển và tồn tại từ vi mô đến vĩ mô. Chính sự quy hoạch như thế nào sẽ dẫn đến khủng hoảng hoặc ổn định. Sở dĩ tôi đoán trước được sự khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, chính vì những thông tin le lói về những chỉ dấu suy thoái của thị trường nhà đất của Hoa Kỳ ở tận năm 2006. Nhà nước Hoa Kỳ cần điều chỉnh lại những quy hoạch xây dựng của họ. Họ đừng tưởng với tri thức khoa học tiên tiến của họ thì quy hoạch của họ luôn hoàn chỉnh. Có thể nó hoàn chỉnh so với những nước có nền văn minh kém hơn, nhưng chưa hẳn đã coi là hoàn chỉnh với tự nhiên. Còn ở Việt Nam thì thực tế thế nào anh biết rõ hơn tôi. Tuy nhiên tôi có lời khuyên thành thật rằng: Hãy đưa môn Phong thủy vào trong các trường đại học Kiến trúc và Xây dựng như một môn khoa học chính thức và bắt buộc. Một chiến lược quy hoạch sẽ thông minh hơn rất nhiều nếu các chuyên gia Việt Nam có tri thức về Phong thủy. Tôi cũng thành thật mà nói thêm rằng: Chỉ có Phong Thủy Lạc Việt mới có khả năng tham gia vào những quy hoạch ở tầm vĩ mô. Còn các tri thức Phong thủy từ cổ thư chữ Hán và của các nước khác không có khả năng này. Bởi vì tri thức phong thủy lưu truyền qua cổ thư chữ Hán và ở các nước khác rất rời rạc và thiếu tính hệ thống, mặc dù đó là những di sản rất đáng trân trọng.
-
Điều này tôi đã diễn giải trong cuốn: "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt" (Sách công bố ở trang chủ website lyhocdongphuong.org.vn và tuvilyso.net - văn hiến Lạc Việt). Anh và quí vị có thể tham khảo và cho ý kiến.
-
Congly thân mến. Tôi đã viết cuốn "Định mệnh có thật hay không?" và qua đó xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm. Trong đó, những nguyên lý của nó giải thích tất cả những hiện tượng mà Congly đã dẫn - như trường hợp con bulong. Đúng là thiên nhiên thông qua con người để tạo ra những sản phẩm mà con người tự hào là "nhân tạo". Đây chính là lý do để tổ tiên người Lạc Việt - kẻ nắm những bí ẩn của vũ trụ thông qua thuyết Âm Dương Ngũ hành - đã biết trước và tiên tri điều này trên bãi đá cổ Sapa. Sau này - không lâu đâu - những phương tiện gọi là nhân tạo của con người sẽ bất lực trước những ham muốn hiểu biết mà nó cần khám phá để tiến hóa (Sự thất bại trong mục đích cuộc thí nghiệm lớn nhất đang thực hiện ở Châu Âu, sẽ chứng tỏ điều này). Và lúc đó con người sẽ phải sử dụng chính khả năng tư duy của mình để khám phá vũ trụ. Lúc đó các lý thuyết khoa học sẽ phát triển và được kiểm chứng bằng tiêu chí khoa học chứ không bằng những thực nghiệm khi phương tiện trở nên bất lực. Tính minh triết sẽ quay trở lại thay thế cho thực chứng. Một tiếng gõ tuy bé và lẻ loi nhưng báo hiệu về việc này chính là cuốn "Đạo của Vật lý". Đây là lời tiên tri hay là lời nguyền thứ nhất của Thiên Sứ: Nhân loại sẽ chỉ tiếp tục khám phá ra những bí ẩn của vũ trụ khi thừa nhận lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm và là nguồn cội của nền văn hóa Đông phương.
-
Anh Nguon Coi thân mến. Về lý thuyết thì người ta thường cho rằng: khi con người biết được qui luật của tự nhiên sẽ tác động để thay đổi qui luật đó với mục đích có lợi cho con người. Nhưng thực sự vấn đề không đơn giản như vậy. Bởi vì ngay cả tư duy của con người cũng bị chi phối bởi tính quy luật của vũ trụ. SW. Hawking đã phát biểu rất đúng một cách thiên tài rằng: Nếu có một lý thuyết thống nhất vũ trụ thì nó sẽ chi phối ngay cả ý thức của chúng ta và chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không? Như vậy ngay cả ý thức "cải tạo thiên nhiên" cũng thuộc phạm vi chi phối của vũ trụ, để con người nhận thức được sai lầm của mình và phải hòa nhập với thiên nhiên. Bởi vậy, việc xoay chuyển được các vấn đề xã hội, thiên nhiên và con người thật sự khó khăn. Do những điều kiện có thể nói là bất khả kháng. Nhất là những vấn đề xã hội và con người. Nó phải có những điều kiện của nó. Cũng như muốn đưa trái đất ra khỏi quỹ đạo thì cần một điểm tựa. Nhưng sẽ chẳng bao giờ có điểm tựa đó cả. Khi suy ngẫm tìm hiểu về Lý học, tôi nhận thấy sự tế vi của tạo hóa và nhận thấy rằng: Không phải tất cả những con bướm vỗ cánh ở rừng Amazon đều tạo nên bão ở Thái Bình Dương. Nhưng để có một cơn bão như Katrina, đôi khi chỉ cần một cái vẫy râu của một con muỗi trong điều kiện của nó. Về giải pháp chung cho kinh tế cấp quốc gia đến toàn cầu, tôi chỉ có thể trình bày một giải pháp rằng: Hãy tìm cách ổn định thị trường nhà đất và nông nghiệp thì sẽ tránh được khủng hoảng.
-
NGƯỜI CUỐI CÙNG CỦA LỤC ĐỊA ATLANTIC Sự cố Những chiếc mô tô bay chạy bằng nệm không khí lướt ào ào trên băng tuyết Nam cực. Tất cả hướng về vịnh Victoria. Họ vừa được thông báo một hiện tượng lạ xảy ra ở đây. Khi tới nơi, mọi người vội vã ra khỏi xe. Trước mặt họ là một quả trứng khổng lồ màu trắng bạc, nửa nổi nửa chìm trong băng tuyết. Toàn bộ công việc trên công trường khai thác băng Nam cực phải dừng lại vì sự cố này. Trưởng đoàn Reild báo cáo sự kiện về trung tâm ở Châu Âu. Họ được lệnh bằng mọi cách phải đưa quả trứng khổng lồ này về trụ sở, nơi trú ngụ của đoàn người đang làm việc ở đây. Hồi sinh Những đám mây huyền ảo, đủ màu sắc từ từ tan đi trong tiềm thức của Nig. Những bộ phận máy móc tinh xảo trong quả trứng đã hoạt động khi có nhiệt độ thích hợp. Chúng làm hồi sinh lại Nig. Nig đã tỉnh hẳn. Anh ra lệnh cho bộ phận tự động chuyển từ chế độ tự bảo vệ sang chế độ hoà nhập với môi trường. Quả trứng tách ra và tự động chuyển Nig ra ngoài, trước sự ngạc nhiên của đoàn người khai thác băng Nam cực. Reild hỏi Nig: "Ông là ai? Tại sao lại ở trong quả trứng này?". Nig ngỡ ngàng trước câu hỏi. Anh không hiểu họ nói gì. Ngôn ngữ của họ xa lạ với anh. Chàng hỏi lại: "Các ông, các bà là ai?". Họ cũng không hiểu anh nói gì. Ngôn ngữ của anh xa lạ với họ. Họ mang đến một tấm bản đồ thế giới. Họ chỉ vào họ và chỉ vào những vùng khác nhau trên bản đồ. Nig hiểu họ muốn nói đến quê hương của họ. Nig nhìn vào bản đồ. Anh buồn bã lắc đầu, rồi chỉ vào một vùng biển ở Đại Tây Dương. Họ ngơ ngác nhìn nhau và cùng thốt lên: "Lục địa Atlantic!". Anh cũng không hiểu họ nói gì. Đại Hồng thuỷ Tất cả cư dân trên Địa cầu đã được thông báo qua lời tiên tri về một tai nạn sẽ xảy ra: Thế giới sẽ bị huỷ diệt. Băng sẽ tan ra. Nước biển sẽ tràn ngập. Mưa lớn sẽ trút nước ở khắp nơi. Một số người tin vào lời tiên tri, tìm cách chạy trốn lên các vùng cao. Noê bạn của Nig, không tin vào những thành tựu khoa học kỹ thuật. Ông cho rằng chính khoa học kỹ thuật là nguyên nhân của tai hoạ. Nó đã làm Trái đất nóng lên, đã tạo ra hiệu ứng nhà kính. Nó đã thách thức những quyền năng của Thượng đế mà con người chưa hiểu hết được Ngài. Nó đã làm Ngài nổi giận và trận Đại Hồng thuỷ sắp tới là cơn thịnh nộ của Ngài. Nig không bằng lòng. Anh cho rằng khoa học kỹ thuật là điều tất yếu trong quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Sự lạm dụng quá đáng những thành tựu khoa học cho cuộc sống con người, làm mất tính cân đối của thiên nhiên. Hiện tượng Đại Hồng thuỷ là điều kiện để thiên nhiên cân đối môi trường. Với anh thì tình yêu con người vẫn là điều kiện tiên quyết. Khoa học mang lại hạnh phúc của con người. Nên đối với Nig, nó vẫn là điều tất yếu và cần thiết. Noê không tin điều này. Mặc dù ông vẫn thừa nhận tình yêu con người là mục đích cao cả của sự sống. Và với ông như thế là đủ. Con người hãy sống với thiên nhiên và tình yêu. Ông chạy trốn bằng việc làm của con người gần gũi với thiên nhiên nhất. Ông đã làm một con thuyền rất lớn. Trong đó là tất cả những thứ súc vật mà ông có thể mang theo trên con thuyền vĩ đại đó. Ông bảo với mọi người rằng: "Ông làm việc này nhân danh Thượng đế". Nhiều người tin và đi theo ông. Những người tin vào sức mạnh khoa học kỹ thuật đều chuẩn bị cho mình một quả trứng để có thể sống tiềm sinh trong đó. Trong số những người này, tất nhiên có Nig. Dấu tích Đại Hồng thuỷ Trận Đại Hồng thuỷ đã xảy ra. Thật là khủng khiếp. Bản văn cổ nhất trên đất sét của nền văn minh Sumer mà nhân loại hiện đại đã tìm thấy, ghi nhận điều này như sau: Cơn mưa lớn bảy ngày bảy đêm. Cày xới trên mặt đất. Một quá khứ chìm sâu. Sự im lặng bao trùm tất cả. Mọi người thành đất sét. Con cháu của ông Noê còn sống sót đến ngày nay, đã bảo rằng: "Chính Thượng đế đã cứu ông và con cháu của ông". Câu chuyện này được lưu truyền. Đến nay vẫn nhiều người tin như vậy. Tình yêu đơn phương Như thế Nig là người cuối cùng còn sống sót của lục địa Atlantic. Anh được đoàn người khai thác băng Nam cực cứu sống, sau nhiều ngàn năm nằm trong quả trứng tiềm sinh. . Những nhà khoa học của thiên niên kỷ thứ IV chưa cho anh hội nhập với đời sống của nhân loại hiện đại. Họ e sợ Nig sẽ mang những căn bệnh từ thế giới cổ sơ vào thế giới hiện đại của họ. Anh sống và làm việc với những người khai thác băng ở Nam cực. Anh đã yêu Melady, người con gái dịu hiền và đẹp nhất nơi đây. Melady cũng yêu anh với tất cả những hành động và sự thể hiện tình cảm tốt đẹp nhất của một người dành cho người tình. Nig không thể tìm thấy và chưa hề biết đến một tình yêu như thế trong xã hội Atlantic của anh. Ở đấy, tất cả những con người đều nhân hậu và yêu thương nhau. Họ làm việc vì hạnh phúc của con người. Đấy là điều mà Noê bạn anh và cả anh mong muốn. Nhưng họ lại sống trong một xã hội rất hiện đại. Thật là một sự hài hoà giữa tình yêu và một cuộc sống hoàn chỉnh. Nhưng khi ngày cưới đến gần thì một sự thật đã làm cho anh choáng váng. Melady chỉ là người máy. Nàng là người máy cao cấp được tạo ra để làm các công việc về văn phòng. Tất cả những người khai thác băng ở Nam cực cũng đều chỉ là người máy. Kể cả Reild trưởng đoàn. Hụt hẫng và chơi vơi trong cô đơn tận cùng, niềm an ủi đối với Nig là anh sẽ trở về với thế giới của con người thật sự và tìm thấy tình yêu đích thực trong đó. Thất vọng Cuối cùng Nig đã đạt được ước nguyện. Anh tin rằng chủ nhân của những người máy giầu chất nhân bản, sẽ phải đang sống trong sự tuyệt đỉnh của tình yêu con người. Anh được đưa về lục địa châu Âu. Người ta ra đón anh rất đông và nồng nhiệt ở sân bay. Tên tuổi của anh được đưa lên những phương tiện thông tin đại chúng và cả mạng Internet từ rất lâu. Cả nhân loại đã biết đến anh. Nhưng bây giờ họ mới nhìn thấy. Anh được mời vào làm việc ở Viện "Nghiên cứu lịch sử cổ đại". Rất nhiều cô gái yêu anh. Họ thay nhau mời anh đi chơi với họ ở tất cả những nơi vui chơi giải trí. Nhưng tình cảm của họ ngắn ngủi. Sự nồng thắm bùng lên và tan rất nhanh. Anh không tìm thấy một chiều sâu trong tình yêu con người. Có lần Jenny, người yêu anh đã trả lời cho hiện tượng này: "Con người đã hoàn chỉnh và được đáp ứng về mọi điều kiện vật chất, trong mọi mặt của cuộc sống. Cho nên mỗi cá thể đều có thể tự tồn tại và con người không cần đến nhau nữa." Nig hụt hẫng chơi vơi. Anh nghĩ về Melady. Sự phận biệt về ngoại hình của nàng và các cô gái không hề khác nhau. Nhưng ở nàng có tất cả những gì anh cần về tình yêu con người. Cô đơn Nig lại trở về vịnh Victoria. Ở đây mọi người vẫn yêu thương anh. Melady vẫn đợi chờ và nàng vẫn dành cho anh sự nồng thắm như ngày nào. Nhưng từ từ anh nhận thấy một nhịp sống đều đặn của những cỗ máy được lập trình. Anh có thể biết trước được tất cả những phản ứng của Melady và các người xung quanh. Đã có lần anh cố nạp vào bộ nhớ của nàng sự hờn dỗi, ghen tuông và một chút tham vọngナ nhưng không được. Càng ngày anh càng lạc lõng. Một sự trống vắng không thể giải thích được tràn ngập trong tâm hồn Nig. Phải chăng anh không có dĩ vãng của một thời hoàng kim Atlantic; thuở hồng hoang của con người. Thời mà con người đến với nhau bằng những rung cảm thật sự trong tâm hồn. Có thể anh sẽ không có sự trống vắng này. Nig nhớ đến Noê và các bạn anh. Nig nhớ đến người yêu của anh ở lục địa Atlantic. Tất cả đều đã chết từ hàng chục ngàn năm về trước, Anh không còn gì cả. Ngày tận thế Sự cô đơn tận cùng đã khiến Nig buồn bã. Anh bỏ dở công việc ở ban chỉ huy công trường trở về nơi cất quả trứng tiềm sinh của anh. Anh chui vào trong đó và ra lệnh cho bộ phận tự bảo vệ. Cánh cửa quả trứng từ từ khép lại. Từ trung tâm ở lục địa Âu châu, các nhà khoa học đã phát hiện ra điều này. Họ ra lệnh cho Reild và đoàn người làm việc ở đấy: "Phải tìm mọi cách cứu Nig". Reild và tất cả mọi người phóng mô tô bay quay trở về tìm Nig. Nhưng không kịp. Nig đã nhấn nút tự huỷ diệt. Một đám lửa lớn bùng lên làm sáng một vùng trời bạc của Nam cực. Thật là may mắn, đoàn mô tô bay kịp thời dừng lại ở một khoảng cách an toàn trước quả cầu lửa sáng chói. Có tiếng rú ga. Một chiếc mô tô bay phóng hết tốc lực lao vào quả cầu lửa. Trên đó là Melady. Nét mặt nàng đau khổ đến tận cùng, ánh mắt hoang dại. Nàng lao vào để cứu Nig. Chiếc xe bị nuốt chửng trong khối lửa. Một tiếng nổ bùng lên. Sự việc diễn ra rất nhanh làm mọi người không kịp trở tay. * Ở trung tâm nghiên cứu khoa học Địa cầu, họ đổ lỗi cho nhau. Nhưng có một lỗi kỹ thuật mà tất cả các nhà khoa học không thể giải thích được. Đó là tại sao Melady lao vào quả cầu lửa, khi nàng không được lập trình để làm việc này? Sài Gòn 1999
-
CÁI CƯỜI CỦA THẰNG BỜM Tiểu "nuận" Thằng Bờm có cái quạt mo Phú ông xin đổi ba bò chín trâu Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu Phú ông xin đổi ao sâu cá mè Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè Phú ông xin đổi một bè gỗ lim Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim Phú ông xin đổi con chim đồi mồi Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi Phú ông xin đổi nắm xôi. Bờm cười. Cứ như thế, bài ca dao thằng Bờm ngộ ngĩnh, tửng tửng theo gió, luồn lách qua luỹ tre làng, qua mái tranh, gốc rạ, lưu truyền không biết tự bao đời, cho đến tận bi giờ. Chẳng phải vì triết lý sâu xa dạy đời; cũng chẳng phải là áng văn chương trác tuyệt làm rung động lòng người; cũng lại càng chẳng phải huyền thoại, sử thi khiến người đời phải trân trọng gìn giữ. Nhưng lạ thay! Chuyện thằng Bờm vẫn cứ tồn tại, còn lâu hơn cả nhũng bài thơ đắc ý của những thi nhân vào "hạng thường thường bậc trung". Hẳn như truyện Kiều, khi sáng tác cụ Nguyễn Du đã chép ra giấy trắng mực đen rõ ràng, chứ đâu phải truyền miệng như "Thằng Bờm". Vậy mà khi lưu truyền, còn có bậc "cao nhân" nào đó trong lúc nhậu nhẹt say sưa, nổi máu giang hồ, liều mạng sửa văn của cụ Nguyễn Du, bôi chữ "tác" thành ra chữ "tộ". Khiến cho hậu thế có luôn mấy bản Kiều khác nhau, bản dài, bản ngắn để lưu truyền. Tao nhân, mặc khách về sau thi nhau bàn bạc chữ "tộ" chữ "tác", cứ loạn cả lên. Ấy thế mà chuyện "Thằng Bờm" chưa thấy ai sửa được chữ nào. Cũng may, nếu bị sửa chỉ cần một chữ thì đâu còn là "Thằng Bờm" nữa. Sự tồn tại của chuyện "Thằng Bờm" kể ra thì cũng "lọa", chẳng thua gì một huyền thoại. Nhưng chẳng ai có thể biết được bài ca dao ấy có từ bao giờ, gốc tích ra sao? Từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, hay thời Trần, thời Lý? Hẳn từ thời Bắc thuộc hay có khi từ thời Hùng Vương cũng nên? Ai là tác giả chuyện "Thằng Bờm"? Hổng biết luôn! Đến như chuyện Thạch Sanh, thần thoại từ đầu đến đuôi, thế mà cũng có người tìm ra được "dị vật" bảo chứng cho nguồn gốc của câu chuyện mới ghê chứ(?). Người ta bảo rằng thì là ở tận tít Hà Tiên, có cái động gọi là "Thạch Động" (liên quan chặt chẽ đấy nhé: Thạch với Thạch giống nhau); trong động còn có cái hang ăn thông xuống biển (cứ y "choang" như trong chuyện). Hình như còn có cả mảnh vỡ của nồi niêu, xong chảo bằng đất nung nằm lung tung trong ấy nữa (Hẳn là đồ dùng của Thạch Sanh khi đi làm quan quăng lại!?). Đã vậy, hiện nay ở vùng đồng bằng Nam bộ có rất nhiều người mang họ Thạch (Chắc đấy là con cháu do Thạch Sanh lấy công chúa đẻ ra?). Như vậy thì chuyện Thạch Sanh phải có thật đứt đuôi đi rồi! Ối giời đất ơi! Chu choa, mèng đéc, mế bầu, bọ bủ ơi! Thế thì mau mau cố gắng đào bới chung quanh Thạch động xem, có khi còn cả cây đàn và niêu cơm thần vẫn chôn đâu đó. Cổ vật có giá trị thượng thặng đấy! Đào được thì "Nô - tế bồ" về giá cả. Cứ gọi là trúng quả đậm chứ chẳng phải chuyện chơi! Nhưng eo ơi! Nếu thế thì chuyện đại bàng, trăn tinh, thuỷ quái đều phải có thật cả đấy! Cửa giả phải đóng cẩn thận; buổi tối trẻ con phải đi ngủ sớm. Nếu không yêu tinh bắt ăn thịt đấy! Kinh quá! Còn chuyện thằng Bờm thì lại chẳng có cái may mắn đó! Di vật khảo cổ thì chẳng thấy mồ mả thằng Bờm chôn ở đâu. Xét gia phả cũng chẳng thấy ai là con cháu thằng Bờm.Văn bản chữ Hán, chữ Nôm cũng chưa thấy ai viết chuyện "Thằng Bờm". Có lẽ văn bản "cổ" nhất về "Thằng Bờm" được ghi bằng chữ Quốc ngữ? Chà! Như vậy thì có thể "Thằng Bờm" xuất hiện vào thời Tây mới sang xâm lược nước ta cũng nên? Ơ! Nhưng mà văn bản "Thằng Bờm" thì lại không có dấu ấn của thời Tây trong đó? Bởi vì nếu vào thời Tây thì chắc hẳn thay vì con chim đồi mồi sẽ là con búp bê chớp mắt mở mắt chẳng hạn; hoặc giả câu cuối có thể viết là " Phú ông đổi bánh ga - tôi (*). Bờm cười" thì mới đúng là dấu ấn thời Tây chứ! Đằng này nó lại cứ tưng tửng, chỉ trừ thời đại đồ đá. còn thời nào cũng được. Như vậy là chuyện "Thằng Bờm" không may mắn như chuyện Thạch Sanh rồi. Bàn chuyện xuất xứ của thằng Bờm khó quá. Cứ y như đi tìm sơ yếu lý lịch của Chí Phèo ở làng Vũ Đại, cũng đến hoà cả làng thôi. Thế thì đành phải quay ra bàn về nội dung của câu chuyện thằng Bờm vậy. Cũng nhiều người bàn rồi. Thằng Bờm lên phim lên kịch, thằng Bờm vào sách vở học sinhナ Người Việt Nam ta ai mà chẳng biết thằng Bờm, cứ y như ai cũng biết ông trời vậy. Thậm chí, người viết có lần vô tình đã nhìn thấy một quán cà phê karaoke lấy tên "Thằng Bờm" hẳn hoi. Đủ hiểu thằng Bờm nổi tiếng cỡ nào! Nói thế chứ chưa ai biết được thằng Bờm mặt mũi ra sao, ăn mặc thế nàoナ Có người bảo rằng thằng Bờm ngớ ngẩn không biết giá trị vật chất cao sang, nên đã từ chối những gì phú ông cho nó. Cũng có người lại bảo rằng: thằng Bờm là tiêu biểu cho giới trí thức bình dân, vốn thật thà chất phác. Cho nên Bờm không tham lam (giới bình dân thì không tham lam? Hơ!), nên chỉ đổi cái quạt mo lấy đúng giá trị của nó là gói xôi ナ Hình như những nhận xét của người đời không làm thằng Bờm thoả mãn, nên nó vẫn cười cho đến tận bi "vờ". Nếu bảo Bờm ngớ ngẩn - theo tiêu chuẩn phương pháp luận: không biết giá trị của cải cao sang là ngớ ngẩn - thì không lẽ phú ông cũng là thằng ngu hay sao mà đem cả một gia tài đồ sộ để đổi lấy cái quạt mo? Cứ theo phương pháp luận này thì phú ông không thể là thằng ngu. Bởi vì phú ông ngu thì làm sao mà lắm tiền thế? Như vậy thì Bờm cũng không thể ngu. Lập luận kiểu này là không lô gích. Nếu bảo Bờm không tham lam, cái quạt mo chỉ giá trị bằng gói xôi thì phú ông đổi làm gì? Để ngài quạt phạch phạch cho nó mát chăng?! Ở cái xứ sở mà người ta ăn trầu từ thời thượng cổ, mo cau thiếu gì! Giầu như phú ông chỉ cần bỏ ra một đồng kẽm cũng mua nổi ngót chục cái quạt mo chứ đừng nói một cái. Cứ gọi là đổi gói xôi cũng còn là mắc tiền. Lập luận này cũng không lô gích. Ấy thế mà xét theo nội dung văn bản qua ngôn từ của bài ca dao, thì rõ ràng thằng Bờm đã đổi cái quạt mo đâu? Nếu Bờm đã đổi thì sao bài ca dao câu cuối không viết là: "Phú ông xin đổi nắm xôi. Bờm: Ừa!". Cái oái ăm nó ở chỗ Bờm mới chỉ cười. Cười thì cũng còn nhiều kiểu. "Cười" khác, mà "ừ" khác. Đó là hai "phạm trù" khác nhau hẳn. Bởi vậy bảo Bờm cười tức là đã đồng ý đổi chỉ là lập luận vội vã, chưa thấu đáo. khiên cưỡng, chủ quan, duy ý chí, không khoa học, thiếu logic, chưa thể hiện rõ tính bức xúc, trăn trở, trằn trọc suy tư cho vấn đề ナ."cười". Tất nhiên đó là một sai lầm và cần phải xem xét lại. Chưa biết được đây là cái cười thoả mãn, bằng lòng; hay là cái cười của sự minh triết Lạc Việt trước những giá trị của nó mà người đời chưa hiểu hết, nên không thể đem so sánh nó với những giá trị vật chất của đời thường? Ba bò chín trâu là những phương tiện sản xuất dồi dào, của cái thời mà các nhà xã hội học gọi là phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu; một bè gỗ lim có thể xây được nhà cao cửa rộng vào loại thứ "xịn"; ao sâu cá mè thể hiện sự phú túc an nhàn trong cuộc sống; con chim đồi mồi là một vật trang trí nội thất của những nơi quyền quí cao sang. Nếu tất cả đều hiện hữu ngay trong xã hội hiện đại, thì số tài sản đó bán đi có thể gây dựng được một doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ghê chưa! Thế mà chỉ để đổi cho thằng Bờm lấy một cái quạt mo? Vậy mà Bờm còn chưa chịu đổi, thế mới kinh chứ! Nhưng trong văn hoá dân gian Việt Nam không phải chỉ có một mình thằng Bờm độc quyền có quạt đâu nhé! Chú Tễu trong múa rối nước cũng có cái quạt và cũng cuời toe toét. Ông Địa khi ngồi ở góc nhà - để nhận sự kính trọng và phù hộ cho thế nhân được giàu có - cũng cầm một cái quạt và cũng cười như Bờm vậy. Khi ông Địa chơi với đám múa Lân, múa Rồng, người ta thấy ông cười vui hơn và vẫn không bỏ cái quạt. Đặc biệt cái quạt của ông lúc này sinh động hơn nhiều. Ông chỉ cần cầm quạt ve vẩy, thì cả Lân lẫn Rồng đều như bị thôi miên mà chạy theo ông. Lân và Rồng là những biểu tượng cho sức mạnh huyền bí và là điềm lành cho cuộc sống con người. Như thế thì thằng Bờm cũng giống như ông Địa ở chỗ cũng có cái quạt vậy. Ông Địa thì chẳng ai dám to gan mà gạ đổi cái quạt của ông ấy! Ông ấy mà trù cho thì chỉ có mà nghèo mạt rệp! Có mà lạy ông ấy cũng còn chưa chắc ăn; ở đấy mà xôi mới chè! Thằng Bờm thì được, vì đã là "thằng" thì thân phận chắc chả hơn được ai. Thích thì cứ gọi nó lại mà đổi, cứ y như đầy tớ nhà giầu gọi ăn mày đổi nắm cơm để lấy mẩu quai bị, chữa mẹo cho bệnh quai bị của con chủ nhà vậy. Trong trường hợp này ông ăn mày đổi ngay. Có ông nào láu cá lắm thì cũng chỉ kỳ kèo chủ nhà cho thêm chút tiền mua lại cái bị khác thay cho cái bị đứt quai, để tiếp tục nghề ăn mày. Ấy thế mà với một gia tài vĩ đại mà phú ông đem đổi - đủ khiến cho ngay cả những thằng giầu cũng hoa cả mắt, lùng bùng cả lỗ tai - thì thằng Bờm lại chưa thèm đổi. Kể ra thì câu chuyện đến đây cũng thấy là "lọa". Nhưng chẳng hay cái quạt mo của thằng Bờm có giá trị hơn cái quạt của ông Địa trong đám múa Lân, múa Rồng hay không mà phú ông đổi nhiều đồ đến thế! Phú ông thì không thể là thằng ngu. Bởi vì đã ngu thì sao mà thành "phú" mà còn được gọi bằng "ông". Hẳn cũng phải khôn lõi đời ra ấy chứ! Đã không ngu thì ngài phải biết giá trị những món đồ mà ngài đem ra đổi cái quạt mo. Chứng tỏ ngài phải biết giá trị cái quạt. Bằng chứng cho sự thông minh và nhận ra chân giá trị của cái quạt mo, chính là tài sản mà phú ông đem ra đổi. Thế thì Bờm làm sao mà ngu được, cho dù thế nhân có xin phép gọi là "thằng" đi nữa. Nếu ngu thì Bờm đã đổi ngay với một con bò đầu tiên, chứ đừng nói đến ba con. Vì chỉ cần một con bò cũng đủ to hơn cái quạt, với một thằng ngu nhất nếu không bị bệnh "Đao" cũng biết điều đó. Ở đây Bờm không đổi. Như vậy chứng tỏ Bờm cũng biết giá trị của cái quạt mo, nên cũng không đổi một cách dễ dàng. Vậy mà chỉ với một gói xôi thì Bờm cười. Cười chưa hẳn đã là bằng lòng. Như vậy thì vấn đề mấu chốt, giá trị cốt lõi, tính chất căn bản, nguyên nhân sâu xa, nội dung quan trọng của sự hấp dẫn và cũng là tình tiết bất ngờ tạo nên mâu thuẫn khó hiểu trong chuyện thằng Bờm, chính là ở gói xôi. Xôi chứ không phải là cơm nắm đâu nhé! Có văn bản ghi rõ ràng trên giấy trắng mực đen đàng hoàng hẳn hoi. Chỉ có điều là không nói rõ ra là xôi gì mà thôi. Nhưng có lẽ vì xét thấy không quan hệ, nên ông cha ta không nói chi tiết lắm! Xôi là được rồi, xôi gì thì tuỳ hỷ. Như vậy vấn đề không kém phần "nghiêm trọng", bức xúc cần phải bàn ngay chính là "gói xôi". Xôi thì làm bằng gạo nếp, cơm thì làm bằng gạo tẻ, đây là một chân lý phổ biến. Tất nhiên về mặt hiện tượng, trong "thời xa vắng" cũng có những bà hàng xôi giầu tính sáng tạo, đã trộn gạo dẻo vào xôi để kiếm lời. Cho dù đấy là một hiện tượng đã tồn tại trên thực tế. Nhưng về mặt lý thuyết thì mọi người vẫn tuân theo chân lý phổ biến mà công bố :"xôi làm bằng gạo nếp". Kể cả các bà hàng xôi nói trên. Như vậy theo phương pháp luận chính thống xuất phát từ chân lý phổ biến - được hầu hết những người ăn xôi ở trong nước, kể cả cộng đồng những người ăn xôi ở nước ngoài đều thừa nhận - thì "xôi làm bằng gạo nếp" sẽ được ứng dụng để tìm hiểu "gói xôi thằng Bờm". Xôi nếp thì ăn chắc dạ hơn cơm tẻ. Ăn chắc dạ nghĩa đen thì là no bụng. Nhưng trong ngôn ngữ Việt Nam, "ăn chắc" còn có nghĩa là một sự bảo đảm. Tức là phải có một sự bảo đảm, phải ăn chắc thì thằng Bờm mới có thể đổi cái quạt mo. Như vậy, chắc chắn giá trị cái quạt mo của thằng Bờm phải lớn hơn nhiều cái gia tài đồ sộ biểu trưng của phú ông; vì nó đòi hỏi một sự bảo đảm nơi người sử dụng. Như vậy, "gói xôi" là hình tượng của sự bảo đảm của phú ông khi được sở hữu cái quạt mo của Bờm. Ở đây, theo đúng nội dung văn bản thì cái sự chắc ăn và bảo đảm đó mới chỉ làm cho "Bờm cười". Thế thì vấn đề tiếp theo là Bờm có đổi hay không sau cái cười đó? Trong văn bản thì Bờm đã từ chối tất cả của cải vật chất cao sang. Không tin hả? Đây nè: "Bờm rằng: Bờm chẳng lấyナ". Đấy! Thấy chưa? Sự khẳng định rõ ràng và được lặp đi lặp lại nhiều lần hẳn hoi. Cái Bờm cần ở đây là một sự bảo đảm nơi người sử dụng. Đã có sự bảo đảm - qua hình tượng "gói xôi" của phú ông - có khi Bờm cho luôn cũng chẳng biết chừng? ("Síc"! Ở cái thì buổi kinh tế thị trường này, nói cho luôn cũng khó tin hỉ). Vì đã là vật vô giá thì lấy gì để đổi nhỉ? Nhưng cái quạt mo của thằng Bờm là cái gì đã thì mới có thể biết được Bờm có đổi hay không chứ? Thế thì phải đặt một vấn đề từ cội nguồn của nó là tại sao lại là "quạt mo" chứ không phải "quạt nan", "quạt giấy" nhỉ? Nếu là "quạt nan" thì bài thơ chỉ cần đổi lại là: Thằng Bờm có cái quạt nan. Phú ông xin đổi cả đàn bò trâu? Bờm rằng: Bờm chẳng....... Còn nếu là "quạt giấy" thì cũng chỉ cần đổi là: Quạt giấy thằng Bờm có đây. Phú ông khoái, đổi một bầy bò trâu. Bờm rằng: Bờm chẳng... Nghe cũng được đấy chứ ! Tuy có hơi không có chất cụ thể. Thế nhưng chính văn nó lại là cái quạt mo, thế mới rắc rối? Phải chăng cái "quạt mo" chính là biểu tượng cho nền văn minh "Trầu - Cau " của con cháu vua Hùng? Cứ như phương pháp luận logic lủng củng nêu trên thì cái quạt mo của Bờm không thể chỉ có nghĩa đơn giản là cái quạt làm bằng mo cau, rẻ tiền và tiện lợi, đầy rẫy ở xứ sở quen ăn trầu từ thời Hùng Vương đến bi vờ. Nó phải là một biểu tượng cho một giá trị tinh thần đủ để đối xứng và vượt trội những giá trị vật chất mà phú ông có thể có đem ra đổi kèm theo một sự bảo đảm. Một điều hiển nhiên nữa và cũng là sự liên hệ tiếp nối là giá trị tinh thần đó thuộc về văn minh Lạc Việt. Bởi vì, cái quạt mo thuộc về nền văn hoá trầu cau mà xuất xứ của nó thuộc về nước Văn Lang dưới thời trị vì của các vua Hùng. Phải chăng cái quạt mo của thằng Bờm - ngoài ý nghĩa trên - chính là biểu tượng cho cái chìa khoá để mở kho tàng bí ẩn của nền Minh Triết Đông phương, còn tồn tại trong đời sống văn hoá dân gian của người Việt, nơi cội nguồn của nền văn hoá trầu cau này? Đó cũng là lý do để Bờm cần có sự bảo đảm chắc ăn. Chà! Nếu đúng như thế thì Bờm có đổi không hà? Thôi thì cứ cho rằng thì là chắc ăn thì Bờm sẽ đổi đi! Nhưng như thế nào gọi là chắc ăn chứ? Ăn xôi mà đã chắc à! Cho dù cũng nhiều thằng "chịu đấm ăn xôi" Hỏi Bờm xem có đúng không? Bờm cười! Khó hiểu thật! Sài Gòn 1999 ----------------------- (*) Chú thích: Cứ theo đúng cách "mần" thơ ra lối Lục Bát của người Lạc Việt thì chữ thứ sáu của câu tám phải bắt vần với chữ cuối câu sáu ở trên. Thế thì câu trước vốn là "Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi"; vần "ôi". Nên câu sau phải đổi bánh gatô gọi theo lối Tây ra "ga - tôi", cho đúng kiểu "mần" thơ Lục Bát.
-
8giờ xe lăn bánh. Quí vị và anh chị em tham gia xin đến trước 8 giờ. Thí dụ 8g kém 15 chẳng hạn.Vì đi xa lém. Nếu đông thì tùy nhiều hay ít chúng ta thuê thêm xe 4 hoặc 7 chỗ. Cho đến giờ này tổng số chưa tới 15.
-
Anh Votruoc thân mến. Không có chi. Chúng ta cứ giữ quan điểm của mình trong định nghĩa về vật chất. Vấn đề còn lại là ứng dụng khái niệm đó trong việc giải thích vũ trụ.
-
Thứ Bảy, 20/09/2008, 08:48 Hầm va đập hạt nhân hỏng máy biến thế Nguồn: tienphong.vn TP - Đây là chiếc máy biến thế dùng cho thiết bị làm lạnh nhằm tạo ra môi trường cho chất siêu dẫn ở âm độ không (zero) tuyệt đối hay âm 459,67 độ Fahrenheit. Ngày 19/9, các hãng tin dẫn lời Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu cho biết chiếc máy biến thế nặng 30 tấn lắp trong đường hầm ngầm va đập hạt nhân tại khu vực biên giới Pháp-Thụy Sĩ đã bị hỏng chỉ vài ngày sau khi phòng thí nghiệm này được đưa vào hoạt động. Đây là chiếc máy biến thế dùng cho thiết bị làm lạnh nhằm tạo ra môi trường cho chất siêu dẫn ở âm độ không (zero) tuyệt đối hay âm 459,67 độ Fahrenheit. Nhiệt độ này được các nhà khoa học cho là nhiệt độ hiệu quả nhất cho việc thí nghiệm va đập hạt nhân. Sau khi bị hỏng, chiếc máy biến thế khổng lồ liền được thay thế để nhanh chóng đưa phòng thí nghiệm ngầm vào hoạt động trở lại. Các nhà khoa học cho biết, khi chiếc máy biến thế nói trên bị hỏng, nhiệt độ trong phòng thí nghiệm ngầm lập tức tăng lên từ mức dưới 2 độ Kenvin lên mức 4,5 độ Kenvin. Đây là mức nhiệt độ đã rất lạnh so với mọi chuẩn mực nhưng vẫn còn quá nóng so với nhiệt độ hoạt động bình thường của phòng thí nghiệm va đập hạt nhân. Phòng thí nghiệm va đập hạt nhân ngầm lớn (Large Hadron Collider) được đưa vào hoạt động từ hôm 10/9 khi lần đầu tiên các nhà vật lý cho thí nghiệm bắn chùm protons vào trong đường hầm ngầm dài đặt các máy gia tốc hạt theo chiều ngược kim đồng hồ tương đương tốc độ ánh sáng bằng một thiết bị làm cho chùm protons chụm vào nhau chặt chẽ. Sau đó, các nhà khoa học lại bắn những chùm proton khác theo chiều ngược lại cũng được các máy gia tốc hạt đẩy đi với tốc độ ánh sáng để các hạt nhân va đập vào nhau ở tốc độ cao gấp hai lần tốc độ ánh sáng. Trước khi máy biến thế nói trên bị hỏng, các nhà khoa học đã thành công trong việc làm cho chùm tia protons luôn bện chặt chẽ vào nhau tạo ra môi trường sẵn sàng cho sự va đập. Nhưng ngày 11/9 máy biến thế khổng lồ được lắp trong phòng thí nghiệm ngầm này bỗng dưng trục trặc khiến cho toàn bộ hệ thống phải ngừng lại. Các quan chức tại phòng thí nghiệm ngầm nói trên cho biết, ngày 19/9 việc lắp đặt máy biến thế khổng lồ mới đã hoàn tất và dự tính trong vài tuần tới các cuộc thí nghiệm bắn các chùm proton vào máy gia tốc hạt sẽ được thực hiện. Phòng thí nghiệm và đập hạt nhân Large Hadron Collider được thiết kế để phục vụ cho nghiên cứu của các nhà vật lý về vụ nổ lớn (Big Bang) hình thành nên vũ trụ ngày nay. Đ.P Quí vị quan tâm thân mến! Nội dung của lời tiên tri không phải để chỉ sự hỏng hóc của chiếc máy thí nghiệm, mà là mục đích của cuộc thí nghiệm. Cuộc thí nghiệm này sẽ thất bại vì sai lầm ngay từ lúc đặt vấn đề của các nhà khoa học.
-
Sinh năm Kỷ Sửu hoặc Canh Dần 2010 đều được. Nhưng Kỷ Sửu 2009 tốt hơn.Chúc vạn sự an lành.
-
Anh Vô Trước viết: Tôi đã suy ngẫm rất kỹ trước khi tham luận ý kiến của anh. Cuối cùng tôi vẫn phải giữ quan niệm của tôi trong định nghĩa về vật chất trên cơ sở thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến huyền vĩ Việt: “Tất cả các dạng tồn tại chứa năng lượng và có khả năng tương tác với nhau đều là vật chất”, Tại sao phải chứa đựng năng lượng là điều kiện tiên quyết ? Bởi vì trong quá trình hình thành vũ trụ có một giai đoạn không có tương tác - nhưng không thể coi là "phi vật chất" . Đó chính là Thái Cực theo quan niệm của Thuyết Âm Dương Ngũ hành được phục hồi nhân danh nền văn hiến huyền vĩ Việt. Đây chính là "Tính thấy"; là "Đạo"; là "Giây /O/ trước bicbang(*); là cái tuyệt đối: không thời gian, không không gian và không lượng số. Bởi vậy, nếu vật chất được định nghĩa chì là tương tác thì trạng thái này sẽ phải coi là "phi vật chất". Phi vật chất thì không thể tương tác với vật chất, nếu bản thể nó không có năng lượng hay là một trang thái tồn tại chứa năng lượng. Ngay Đức Phật cũng chỉ rõ: Hư không chỉ là sự đối đãi với cái có, với cái không phải hư không. Không có Hư Không tuyệt đối vì trong Hư không còn chưa đựng tính thấy. (Thần chú Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm) Sự thiếu hiểu biết của con người về vũ trụ, nên con người đã huyền bí hóa nó, gọi nó là "tâm linh", là "khoa học huyền bí". Và với những người không tin sự huyền bí thì coi đó là duy tâm, là phi khoa học, là huyền bí. Nhưng tất cả đều do sân chấp mà ra. ------------------- * Khái niệm Bicbang là tôi tạm dùng như một thuật ngữ phổ biến trong giới khoa học hiện đại giải thích khởi nguyên vũ trụ. Trong thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt không có bicbang.
-
Đã thuê được xe 15 chỗ với giá 1.200. 000 VND/ Ngày. Sáng Chúa Nhựt 28/ 9 - Nhằm 29/ 8 Mậu Tý. anh chị em đến Văn phòng Trung tâm tại A75/ 6f/ 14 Bạch Đằng phường II Tân Bình và chúng ta cùng đi. Về ẩm thực bữa trưa đề nghị - tuy vào nhà hàng nhưng chúng ta chỉ nên ăn toàn những món đặc sản như: Rau muống luộc chấm tương, dưa cà và mắm kho... :) . Chủ yếu chúng ta hưởng bữa tiệc tinh thần là chính với sự hoành tráng của Đại Nam quốc tự mà kinh phí xây dựng lên đến 3000. 000. 000. 000 VND do tiền túi của ngài Dũng Lò Vôi khả kính. Dự trù kinh phí thế của chúng ta: Nhẹ cũng 500.000VND/ mạng. :lol: . Anh chị em nên thủ túi thêm mỗi người 200. 000 VND để phòng khi xe sì lốp, nhà hàng đóng cửa...vv...
-
Tư liệu: Nguồn: svnv.org http://www.vietnamwebsite.net/ebook/ls.htm[/b] http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/index.html http://www.vietlibrary.com/VNSL0.htm http://www.viendu.com http://www.saigonbao.com/ http://chimviet.free.fr/index2.htm http://www.dunglac.net/
-
Xin quí vị và anh chị em quan tâm vào đây để xem một phần của cái "Hầu hết các nhà khoa học trong nước" được "Cộng động khoa học thế giới" ủng hộ quan điểm phủ nhận giá trị lịch sử văn hóa truyền thống Việt trải gần 5000 năm. http://svnhanvan.org/forum/index.php?topic=4224.0
-
MỘT BÀI VIẾT PHẢN BIỆN THÀY TRẦN QUỐC VƯỢNG Người giới thiệu: 50qhx103 Nguồn: svnv.org Trong một lần lang thang trên những diễn đàn về lịch sử, em tình cờ đọc được một bài viết của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh, dưới tên Thiên Sứ viết với nhan đề "Phản Biện Trần Quốc Vượng", hôm nay em xin post lên diễn đàn bài viết đó, đồng thời cũng post cả bài của GS Trần. Chắc có bác đã đọc qua, nhưng chắc cũng nhiều người chưa biết. Tự nhận thấy mình còn non trình quá nên không dám đưa ra ý kiến thảo luận, kính mong các bậc "đức cao vọng trọng" đưa ra những ý kiến chỉ rõ hay dở để chúng em được mở mang thêm kiến thức. Vô cùng cảm ơn! Chúc các bác an lành. TỪ HOA LƯ ĐẾN THĂNG LONG Gs. Trần Quốc Vượng Những thủ lĩnh địa phương và lãnh địa. Thời đại văn hoá Đông Sơn, thời đại các Vua Hùng không nên xem là một thời đại của vương triều thống nhất. Văn Lang là cái tên xuất hiện trong sử một cách muộn mằn (thời nhà Đường, thế kỷ thứ VII đến thứ IX). Tôi đã chứng minh rằng Vua hùng là một Po Khun – thũ lĩnh mạnh nhất cũa một phức thể Khun (Vua = Bua = Pò; Hùng = Khun) tức hệ các thủ lĩnh địa phương chiếm cứ các vùng từ đỉnh châu Thổ sông Hồng (Việt Trì) đến các vùng bãi biển. Theo truyền thuyết và theo sử cũ thì lúc bấy giờ có 15 bộ. Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith Taylor đã dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord”. Cuối đời Hùng nổi lên nhân vật Thục Phán (An Dương Vương) và nước Âu Lạc, thành Cổ Loa. Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội)nằm gần ngã ba Dâu Canh, được giới địa lý học coi là đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ, sau cái đỉnh thứ nhât là ngã ba Hạc - Việt Trì. Sự dịch chuyển đỉnh châu thổ sông Cái (Nhị - Hồng) từ trung du tới vùng châu thổ cao (địa) khéo theo sự chuyển di trung tâm phức thể Việt với một tổ chức nhà nước Âu Việt sơ khai (Chính tri). Điều đó là đúng với quy luật địa chính trị, địa chiến lược, địa văn hoá. Tôi và Cầm Trọng đã chứng giải “Thục Phán” không phải là một tên riêng (nhân danh) mà là một từ - chức năng : “Túc Phắn” chỉ thủ lĩnh đi “mở đất mở mường”. Đất nước trải ngàn năm Bắc thuộc. Nhưng Nam Việt Triệu Đà (180-137tr.CN) rồi Tây Hán Vũ Đế (111tr.CN-8 năm sau CN) cũng chỉ phái “sứ giả” (Triệu) hay thứ sử , thái thú (Hán) cùng một số đạo quan binh sang đóng giữ các miền ở Mê Linh, ở Luy Lâu rồi Long Biên……(tại xứ Đoài, xứ Bắc ngày sau) và thu cống nạp chứ bên dưới vẫn “để Lạc tướng trị dân như cũ”, “dĩ kỳ cố tục trị” (Tiền Hán thư). Và Hai bà Trưng vẫn được ghi là “con gái Lạc tướng Mê Linh” và Thi (hay Thi Sách) là “con trai Lạc tướng Chu Diên”. Thái thú Tô Định tàn ngược định dùng pháp chế Hán thắt buộc hạn chế thế lực thủ lĩnh địa phương cũ (“dĩ pháp thằng chi”- Hậu Hán thư) thì lập tức con cái Lạc tướng và các thủ lĩnh cổ truyền đã vì oán giận, nổi dậy chống Hán. Không nên xem Khởi Nghĩa Bà trưng là biểu hiện cũa sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên xem đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán- Hoa, làm một khuôn mẫu phổ biến. Tôi đề nghị giới khảo cổ sử học Việt Nam nên coi khởi nghỉa Hai Bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị. Dù sau năm 43-44, Mã Viện và chính quyền Đông Hán có can thiệp sâu hơn xuống cấp huyện (vùng), nhưng cuối thời Đông Hán đầu thời Tam quốc, đất Việt - với Sĩ Nhiếp và các em ông, tuy tổ tiên 6 dời là ở nước Lỗ (Sơn Đông) nhu8ng7 sang Nam Việt – Giao Chỉ đã lâu và đã nhiều phần bản địa hoá - về thực chất vẫn là một dất tự trị, tự quản. Thời Lục triều (Nguỵ Tấn Nam Bắc triều) cũng như vậy. Triều đình trung ương Trung Hoa thì suy yếu, các thế lực địa phương vẫn mạnh mẽ. Nhiều quan lại Tống, Tề, Lư ơng, Trần (Nam triều Trung Hoa, mà phần Hoa bắc đã bị Ngũ Hồ loạn Hoa chiếm giữ) cử sang Giao Châu chỉ là “hữu danh vô thực”, rất chông chiêng. Chúng ta, giới sử học Việt Nam nên đặt cuộc khởi nghĩa Lý Bí giữa thế kỷ VI và việc thành lập nước Vạn Xuân với danh hiệu Lý Nam Đế (Tiền, Hậu) trong bối cảnh đó. Nên chăng cần ghi nhận, với Lý Nam Đế và nước Vạn Xuân, người Việt sau 600 năm Hán hoá đã bắt đầu có ý thức quốc gia và tinh thần “vô tốn (không thua kém, không lùi bước) Trung Hoa”. (Kháiniệm “vô tốn” và “ bất dị” (không khác) Trung Hoa là do Lê Quý Đôn khái quát lại về sau, ở thế kỷ XVIII). Đằng sau Lý Nam Đế là thế lực tinh thần Phật Giáo , thế cho nên lột Lý Xuân nào đó của tịch thư Trung Hoa thì lại tự xưng là Lý Phật Tử (Con Phật). Cuối đời Tuỳ (605-617), đế quyền Trung Hoa suy yếu thì các thế lực địa phương lại trỗi lên, diển hình là cha con Lê Cốc (Lê Ngọc) ở Ái Châu (Thanh), và Hoan Châu (Nghệ An) - tức là vùng ngoại biên của không gian xã hội Việt – mà nàh Đường tuy lên ngôi ở Trường An năm 618 nhưng phải đến 622 mới tạm dẹp yên được để có được một An Nam đô hộ phủ với trung âm là Tống Bình – Hà Nội ngày nay. Từ Cổ Loa xuống Luy Lâu – Long Biên nửa đầu thời thuộc Bắc 600 năm là sự dịch chuyển từ vùng cao xuống vùng thấp châu thổ sông Hồng và (sông Thái Bình) đã khẩn trương hơn do áp lực dân số ngày càng tăng và cũng do kỹ thuật đồ sắt hậu Đông Sơn, kỹ thuật thuỷ lợi tưới tiêu nước ruộng đồng Lạc điền ngày càng tiến bộ và phát huy rộng rãi (Phong Khê; vùng Cổ Loa – Đông Ngàn cũ đã có đê) (Hậu Hán thư) , một phần do hội nhạp kỹ thuật thuỷ lợi và trị thuỷ Trung Hoa vùng ven biển từ Phúc Kiến đến Quảng Đông ngày nay ( Mã Viện do sử chép ( Hậu Hán thư) đã đào sông khơi ngòi …sinh lợi cho dân”). Đấy vẫn là những hệ thuỷ lợi và trị thuỷ cổ truyền của người Bách Việt cũ được người Hán tiếp thu và truyền dạy lại. Và Luy Lâu là trung tâm buôn bán, trung tâm truyền bá Phật giáo, Nho Giáo, Đạo giáo. Ở thời đó Phật giáo còn nhiều chất pha trộn Bà-la-môn giáo . Sử sách nhà Đường và nhà Tống chép hồi cố về nhà Đường như Cựu Đường thư, Tân Đường thư và Man thư, Nguyên Hoà quận huyện chí, Thái Bình hoàn vũ ký , Đường hội yếu ..v…v .. kể cả Tuỳ thư cho ta biết nhà Đường và nhà Tuỳ đã từng bước đổi mới cơ cấu chính trị - hành chính ở đất Việt khá ổn định. Với các cấp An Nam đô hộ phủ, Châu (12 châu như Giao, Trường, Ái, Hoan, Lục (Hoàng) và kể cả các châu “ki mi” (ràng buộc lỏng lẻo ở miền núi Việt Bắc và một phần Tây Bắc hiện nay) rồi xuống Huyện, Hương và Xã nữa (đơn vị xã có ở đất Việt từ thời thuộc Đường (VII - đầu X), rất nhiều quan cấp sử An Nam đô hộ, Tiết độ sứ…) là người phi Hoa hay chỉ nửa Hoa như Khang Thái. Y như thời Tam Quốc Nam Bắc triều, có rất nhiều thái thú Cửu Chân ( Thanh Nghệ) có họ Mạnh của Mạnh Hoạch hay họ Thoán người gốc Di (Tạng Miến) Vân Nam như Thoán Cốc, Mạnh Thống v..v.. Đây là vấn đề rất lý thú để hiểu thêm về ảnh hưởng Tạng Miến, ảnh hưởng thảo nguyên trung Á đến nền văn hoá việt nam như MậtGiáo , Sa Man giáo… Đồ làng Vạc Đông Sơn muộn cũng như trống đồng Hưng Yên , Quảng Trị có nhiều mô típ trong trang trí kiểu Điền (Vân Nam) . Song, Tuỳ Đường thư vẫn không chối cãi được một sự thật là chính quyền Trung ương Trung Hoa chỉ cử quan được đến cấp châu “còn ở bên dưới, cấp huyện, thì tuỳ tiện tuyển bổ “bọn cừ suý Lý Lão Man” làm huyện quan và ràng buộc chúng lỏng lẻo mà thôi” Cho nên ta đừng nhìn thấy cơ cấu chính trị - tư tưởng Trung Hoa quá mạnh xuống tới cơ sở. Nó chỉ là một lớp sơn mỏng – dày tuỳ nơi, tuỳ lúc phết lên cái lõi văn hoá Việt. Và thật chính xác, khi nói cái làng Việt luôn là cứ điểm chống Hoa hoá cả về chính trị và văn hoá. Làng Việt là nơi lưu giữ bản sắc dân tộc và dân gian lâu dài nhất. Từ Lục triều Tuỳ Đường trở đi, sư sãi đã trở thành lớp trí thức Việt đầu tiên (chứ không phải là nho sĩ, còn lẻ tẽ lắm và thiếu tổ chức lại, ưa vọng ngoại “Nam nhân Bắc hướng”). Và trớ trêu thay, hay nghịch lý thay, thực ra là thuận lý khi lớp sư sãi Việt bản địa và cả gốc Hoa lâu đời, nhiều người đã đi hành hương sang Thiên Trúc, nhiều bậc cao tăng đã sang tận kinh đô Trường An giảng kinh cho vua Đường, có người sang cả kinh đô Nara (Nại Lương) của Nhật Bản nữa, họ đủ chất kinh lịch, từng trải vượt lên trên lớp tiểu nông Phật tử “sống ở làng”, họ hội tụ và kết tinh tinh hoa đất thần linh - người Việt và họ trở thành đại diện của tinh thần quốc gia dân tôc Việt, họ trở thành kẻ tiên tri của nền tự chủ Việt và bằng thế lực tinh thần - vật chất của tự viện, họ trở thành người lãnh đạo tinh thần cho phong trào tự chủ Khúc – Ngô – Đinh – Lê ở thế kỷ thứ X,cái “I An Mil” làm bước ngoặt lịch sử cho cả nước ta, nước Tàu và thế giới Phương Tây. 12 sứ quân: Sự hoài cổ tiền Bắc thuộc: Thế kỷ X là một sự đảo lộn chính trị, một sự lộn xộn nữa, nhưng khuynh hướng chính là tiến bộ, tiến tới nền tự chủ của nước nhà. Tôi rất thích thú về lời ca thán của nhiều sử sách Trung Hoa: “Dân Việt rất khó cai trị, rất thích làm loạn”. Tiếp cận văn hoá học thì “thông điệp” đó có nghĩa là người Việt thích lối sống riêng, không thích sự áp đặt chuyên quyền độc đoán của khuôn mẫu Trung Hoa. Đấy là quan điểm đầy nhân tính, cận nhân tình và do vậy cũng là một số hằng số văn hoá rất hiện đại và luôn có tính thời sự. Quan điểm đó được kết tinh ở tầng lớp Thiền sư và hào trưởng địa phương. Chính quyền trung ương quân chủ nhà Đường suy yếu và chết hẳn vào năm 907 để Trung Hoa mở ra cục diện “Ngũ đại thập quốc” kéo dài hơn nửa thế kỷ X. Đấy là thời cơ thuận tiện để dân ta nổi dậy dành chính quyền tự chủ. Sự nghiệp xây dựng tự chủ đầu tiên là họ Khúc ở Hồng Châu (Bình Giang, Hải Dương) vốn là một hào trưởng địa phương. Lợi dụng sự trống chỗ của Tiết độ sứ cai quản an toàn An nam, Khúc Thừa Dụ đã nổi dậy kéo quân về đô hộ phủ (An Nam, Tống Bình, Hà Nội) và tự xưng Tiết độ sứ năm 905. Đấy là một mưu mẹo chính trị hay và mềm dẻo. Ông đã vạch ngay được một phương hướng chiến lược chính trị mà mấy trăm năm sau vua chúa Đại Việt còn áp dụng: “Chính sự cốt chuộng Khoan Dung - Giản Dị để cho dân chúng được An Cư - Lạc nghiệp” (Cương Mục). Khúc Thừa Dụ mất năm 907, con ông là Khúc Hạo chỉ để tang cha có 7 ngày (một ứng sử phi Nho) đã bắt tay cầm quyền trị nước , cải cách hành chính, đổi hương làm xã và đặt chức xã quan (củng cố chính quuyền cơ sở ), giảm tô thuế (so với định mức tô – dung - điệu của nhà Đường trước) để sinh lợi cho dân. Nhưng con ông, Khúc Thừa Mỹ hèn yếu, bất lực và thần phục nhà Hậu Lương là một trong ngũ đại ở Trung Hoa (do bị áp lực của Nam Hán, bấy giờ là Nam Hán chứ không còn là Nam Việt thời Triệu Đà nữa, có sự bàn bạc của triều đình Quảng Châu ngàn năm sau Triệu Đà, trải Hán - Đường thống trị và di dân đồng bào hoá đã hoàn toàn Hán hoá rồi, còn Giao Chỉ - Cửu Châu, mức độ Hán hoá thấp, vẫn là đất Việt, dân Việt tuy sống lối sống đã khác với người Việt cổ Đông Sơn) Khúc Thừa Mỹ đã đi bước lùi của lịch sử hẳn vì dù đã có Đại La (Hà Nội) vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, phải cầu viện ngoại viện (nhà Lương). Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem về Quảng Châu. Ông này chết mất tích ở Quảng Châu. ? Nhưng lại có hào trưởng ở Ái Châu là Dương Đình Nghệ (nha tướng cũ của Khúc Hạo) diệt tướng nam Hán , xung Tiết độ sứ. Xứ Thanh bước vào vũ đài lịch sử là bắt đầu từ đây, cho dù, hay chính vì, xứ Thanh là miền “ngoại biên” của đất Việt. Hào trưởng Châu Phong (mạn Phúc Thọ) là một thế lực lớn ngoại biên gần châu thổ sông cái đã kéo quân giết Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền – con Ngô Mân tướng quân “Thứ sử châu Phong đời đời là nhà quý tộc quê Đường Lâm”, và là con rể Dương Đình Nghệ - đã kết liễu Kiều Công Tiễn rồi dẹp giặc bên Nam Hán ở Bạch Đằng, dựng lại quyền từ chủ (châu Thao gồm 2 nửa ở hai bên sông Thao,hữu ngạn (Sơn Tây sau) là phạm vi thế lực của Ngô, tả ngạn (Vĩnh Phúc, Phú Thọ sau) là phạm vi thế lực của họ Kiều. Sử cũ ghi chép chuyện đánh lẫn nhau rồi bên yếu cầu ngoại viện.Thực chất của cuộc nội chiến này, theo tôi, là sự đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Việt của các thủ lĩnh địa phương (mà GS O.W. Woleters gọi là các “man of proess” = người dũng mãnh) Chính quyền quân chủ Trung ương Đường suy tàn rồi biến mất tạo ra một khoảng trống quyền lực ở đất Việt (An Nam đô hộ phủ), một cái “hẫng hụt trung ương” mà nhiều hào trưởng địa phương có tham vọng điền vào chỗ trống ấy. Do vậy theo tôi không nên nhìn thời kỳ “Thập nhị sứ tướng quân” chỉ như một cuộc loạn sau thời Ngô Vương Quyền mất. “Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật” (Hoạ phúc có mầm đâu chốc lát) Ức Trai Cái “loạn” ấy có mầm mống ngay sau năm 905, hay còn từ trước đó nữa như tôi đã dẫn giải ở trên và không nên lấy làm lạ là trong số 12 sứ quân mà sử cũ chép theo nhau ta thấy đến 2 ông sứ quân họ Kiều là cháu nội của Kiều Công Tiễn ở Phong Châu, 2 ông sứ quân họ Ngô thuộc dòng dõi Ngô Quyền, và ông sứ quân họ Đỗ - Đỗ Cảnh Thạc – thì từ đời Đỗ Viện - Đỗ Tuệ Độ thế kỷ thứ IV đã là một thế lực lớn ở Đỗ Động Giang (Thanh Oai – Hà Tây) ..v…v.. Họ Đinh ở Hoa Lư mà một thế lực thủ lĩnh địa phương ở ngoại biên châu thổ sông Cái, nơi ấy sự phân hoá Mường - Việt chưa diễn ra mạnh mẽ. Dễ hiểu là cho đến nay vùng sát dải núi 99 ngọn dọc sông Đáy thì sườn phía Đông dải núi này là Việt còn sườn phía Tây dải núi này (mạn Hoà Bình nay) vẫn là Mường và dòng họ Đinh quý tộc Mường vẫn tự nhận mình là gốc gác Đinh Tiên Hoàng “nhất thế vi vương, vạn đại phi nhất vương tù trưởng” (nhà Đang mường Động). Hoa Lư – sau đổi thành Trường Yên là đất Trường Châu cũ của An Nam đô hộ phủ đời Đường kéo dài hai bên bờ sông Đáy từ Hà Nam tới Ninh Bình nay (Hà Nam là quê Lê Hoàn, Ninh Bình là quê Đinh Bộ Lĩnh). Trong viên gạch có in chữ “Giang tây quân” là một phiên hiệu của quân sĩ phong thu, phong đông ở thời Đường. Ở đôi bờ sông Cái mạn Nam Định- Thái Bình nay (bố hải Khẩu nay là vùng Cầu Bo, Vũ Thư, Thái Bình) là thế lực của sứ quân Trần Lâm - Gốc Mông Phúc Kiến đã sang khai thác miền ven biển rồi Việt hoá. Hai thế lực Đinh - Trần liên kết với nhau, chiếm cứ cả dải phù sa mới ven biển từ cửa sông Đáy (Độc bộ) đến cửa sông Cái Đại Hoàng Giang - tiểu Hoàng Giang là sông Châu - sông Đáy. Vùng ấy có đất đai phì nhiêu, lại có buôn bán bằng đường biển, có đánh cá, tài lực dồi dào, Phật Giáo pha trộn với Thần Giáo cũng phát triển ở vùng Giao Thuỷ (Giao Thuỷ là vùng nước ngọt - nước mặn giao nhau mà theo luật địa - kinh tế, địa - văn hoá là nơi thuyền bè tụ họp chờ nước triều lên xuống để ngược sông ra biển) nên thường hình thành các thị tứ như vùng non nước Đáy – Vân Sàng (Ninh Bình), vùng giao nước Châu Giang – sông Cái Tức Mặc (Nam Định), vùng giao nước sông Cái – sông Trà Lý (Trà Lý là một địa danh gốc Melayu – Trà = Ea = nước, sông nước) (Thái Bình nay). Hai thế lực liên kết Đinh – Lê đó đã ngược sông dần dà chinh phục hay khống chế được các sứ quân khác từ Hưng Yên (Đằng Châu - Phạm Phòng Át, Tế Giang (Văn Giang) Lã Đường), Bắc Ninh (Siêu Loại Lý Khuê, Tiên Du Nguyễn Thủ Tiệp, Phù Liệt - Nguyễn Siêu (Phù Liệt – vùng Sét – Thanh trì nay) rồi Đỗ Động Giang - Đỗ Cảnh Thạc (Thanh Oai), Đường Lâm (Sơn Tây) Ngô Nhật Khánh, rồi anh em họ Kiều (Cẩm Khê - Bạch Hạc Phú Thọ) Nguyễn Khoan - Nguyễn Gia Loan – Yên lạc – Vĩnh Phúc). Nghĩa là kiểm soát được toàn vùng tam giác châu sông Cái - Nhị - Hồng). Cái lãnh thổ cốt lõi của nước Đại Việt ta thời Đinh – Lê là đó. Song Đinh Lê chưa thể ra đóng đô ở thành Đại La cũ “giữa cõi bờ đất nước” được, mà vẫn thủ thế ở vùng Hoa Lư - Trường Yên “quê nhà”. Nhà Đinh nên được xem là một nhà vua quân chủ tập quyền. Sao chăng nữa, cũng đã có một hình mẫu quôc gia ở Hoa Lư, giới khảo cổ Việt Nam đã phát hiện được ngày càng nhiều viên gạch xây thành, xây cung điện có in dòng chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây thành của vua nước Đại Việt – Do vậy cần xem lại cái quốc hiệu “Đại Cồ Việt”của sử cũ. Nhiều nhà nghiên cứu ngờ Cồ Việt là tên nôm : Kẻ chỉ Việt, Không gian xã hội văn hoá của người Việt) Theo tôi nhìn, cái nhìn địa - văn hoá thì Hoa lư – Trường Yên nghĩa hẹp là một bồn địa giữa núi được lấp đầy dần bởi phù sa sông biển (qua các bài thơ của Nguyễn Trãi thì cho đến thế kỷ XV Thần Phù (Yên Mô – Ninh Bình nay) vẫn là vùng “hải khẩu” và vùng non nước (thị xã Ninh Bình ) vẫn rất gần cửa biển. Còn Hoa lư nghĩa rộng là một vùng tứ giác nước bao bọc bởi các sông Hoàng Long, Đáy, Vân Sàng. Từ Hoa Lư thế lực Đinh Lê vươn tới được Cửu Châu = Kẻ (xứ) Thanh nhưng vẫn phải nhân nhượng các thế lực địa phương như Lê Lương ở Đông Sơn chẳng hạn. Và nên chú ý tới thế lực họ Dương ở vùng ngã ba Dàng (Dương Xã). Dương Đình Nghệ không còn như Dương Tam Kha còn “quậy” dưới thời Ngô. Và trong năm bà hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng (và cả họ Lê - Lý sau này) vẫn có bà hoàng hậu (sau là thái hậu) họ Dương. Sau lưng mỗi bà hậu là một thế lực địa phương. Hôn nhân cung đình thực chất là một cuộc liên minh chính trị, nhà Nho sau không hiểu cho là Đinh – Lê – Lý làm trái lễ Nho, chỉ một “hậu” thôi chứ! Thế lực sĩ phu Nho gia thời đó đâu đã mạnh bằng thế lực Phật giáo. Lê Hoàn sau khi phá tan Tống Bình Chiêm, uy danh có lớn hơn song biên niên sử chép đầy dẫy việc ông phải đi đánh “giặc”, “kẻ làm loạn” ở các xứ Ái, Hoan, Diễn (có vai trò kích động của họ Dương – Dương Tiến Lộc 989), Đỗ Động Giang, Phong Châu… và phải chia đất cho các con cai quản ở các vùng trọng yếu: Đằng Châu (Hưng Yên), Phong Châu (Sơn Tây – Phú Thọ - Vĩnh Phúc), Ngũ huyện giang (xứ Thanh), Đỗ Động (Hà Đông), Cổ Lãm (Bắc Ninh), Phù Đái Hải Dương)… Lại đến lượt các con ông trở thành các thế lực địa phương, sau khi ông mất (1005), lại đánh lẫn nhau trong 8-9 tháng trời để tranh lập các thế lực địa phương khác. Nhà Lý lên ngôi và dời đô ra thành Đại La cũ (Thăng Long) Ông Nguyễn Thiệu Lâu đã nêu một ý tưởng địa lý rất hay: Hà Nội là thủ đô thiên nhiên của Đại Việt: trăm núi, trăm sông đều hội tụ về đây, rồi từ đây lan toả. Sau này theo thuyết phong thuỷ người ta nói đến thế long bàn (rồng cuộn - bên tả, tả thanh long là dải Tam Đảo), hổ cứ (hổ ngồi – bên hữu - hữu bạch hổ - là dải 99 ngọn) với cái chẩm (Gối – Ba Vì) ở sau cái đai (dải nước Nhị Hà) ở trước và trung tâm là Long đồ, (rốn rồng) nơi có trục trung tâm nối trời với đất, rồi sông Tô Lịch với thần Long Đỗ, thần Tô Lịch v..v.. Đặc biệt Hà Nội là xứ sở của rất nhiều huyền thoại - huyền tích, huyền tích bản địa và huyền tích vay mượn và biến đổi từ Trung Hoa, từ Ấn Độ: - Nào là huyền tích “Cửu vĩ hồ tinh” với Long Vương dâng nước phá hang cáo, tạo ra đầm xác cáo (làng Cáo đỉnh bên bờ Hồ Tây – Xuân Đỉnh nay). - Nào là huyền tích hồ Trâu Vàng và sông Kim Ngưu - mượn từ huyền tích Hồ Tây bên Hàng Châu, Trung Quốc. - Nào là huyền tích hồ trả Gươm với nghi thức thần thoại nhúng thanh gươm (dương - lửa sấm sét) xuống nứơc (âm – lũ lụt) được lịch sử hoá thành thanh thần kiếm “Thuận Thiên” thần ban cho Lê Lợi chống giặc Minh, thắng lợi rồi Trời sai thiên sứ Rùa Vàng - một hoài cố thần Kim Quy với thành cổ Loa hay Quy thành ở xứ Tứ Xuyên Trung Quốc - xuống xin lại thanh gươm (Hồ Hoàn Kiếm). - Nào là huyền tích đức thánh Chèm – ông Khổng Lồ xoạc chân đôi bờ sông Cái giết giải - thuồng luồng trả thù cho mẹ bị thuỷ quái nuốt ở thời sơ cổ (Lý Ông Trọng). - Rồi đến huyền tích Khổng Lồ - Không Lộ - Minh Không, đi thuyền như bay về Kinh sư chữa bệnh hoá hổ của vua Lý Thần Tông bằng việc nhúng tay vào vạc dầu sôi sùng sục rồi tắm vuốt cho thân thể nhà vua (đây là ma thuật chữa trị của các nhà Yoga). - Và trước đó Từ Đạo Hạnh vứt gậy ở Yên Quyết (Cót). Gậy trôi ngược dòng đến cầu Tây Dương (Cầu Giấy) mới dứng lại và thiền sư (kiêm một pháp sư) dùng gậy đó đập chết pháp sư Đại Điên, trả thù cho bố… Sau đó là chuyện Từ Đạo Hạnh đập dầu vào đá hang núi chùa Thầy đầu thai làm Lý Thần Tông. Trước đó là huyền tích Pháp sư Đại Điên xui Nguyễn Bông nấp trong buồng tắm Ỷ Lan nguyên phi để đầu thai làm Lý Nhân Tông v..v. và v..v.. Kho di sản văn hoá vô thể đó của Hà Nội cần được nghiên cứu, giải mã, giữ gìn và phát huy. Để kết thúc bài viết này, tôi xin quay trở lại với bài văn thường được gọi là Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Chiếu là một thể văn của Trung Hoa chỉ một người (Vua) được dùng và nhằm hạ lệnh. Bài Chiếu của Lý Công Uẩn (do ai đó soạn thảo, có thể là theo ý tưởng của thiền sư Vạn Hạnh). Theo tôi là một tuyên ngôn địa – chính trị, địa chiến lựơc về vùng đất Đại La “ở giữa Đông Tây Nam Bắc, tiện hình thế núi sau, sông trước, xứng đáng là thượng đô của muôn đời” và Lý Công Uẩn bày tỏ khát vọng “Đóng nơi trung tâm, mưu toan việc lớn cho muôn đời con cháu mai sau”. Bài chiếu lại kết thúc bằng một câu phá cách văn chiếu Trung Hoa mang đậm đà bản sắc văn hoá Việt “Trẫm nghĩ như vậy, nhưng ý các khanh thế nào?”. Tôi đã nói nhiều lần đây là bài chiếu hỏi ý kiến quần thần về việc dời đô đầy ý vị Việt Nam. Được viết ở Hoa Lư vào tháng 2 và tới tháng 7 mới bắt đầu cuộc dời đô bằng thuyền, từ Hoa Lư theo dòng Hoàng Giang ra sông Đáy, sông Nhị để tiến lên Đại La. Huyền tích Rồng Bay và cái tên mới của kinh thành Thăng Long xưa nay vẫn được cắt nghĩa như là biểu hiện sức vươn lên mới của dân tộc thì cũng không sai. Song nếu tôn trọng tâm thức lịch sử đương thời thì theo tôi cần giải thích theo Quẻ Càn (Trời – Vua) của Dịch học: Tiềm long vu thuỷ Hiện long tại điền Phi long tại thiên TRẦN QUỐC VƯỢNG Theo báo Nguồn Sáng: Tháng 8 năm 99. Còn đây là bài viết của ông Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh PHẢN BIỆN TRẦN QUỐC VƯỢNG (Nguồn Tuvilyso.com)Bài viết ngày 18/ 5- 2005 Thiên Sứ Trên báo Nguồn Sáng số tháng 8 năm 1999, có bài “Từ Hoa Lư đến Thăng Long” của ông Trần Quốc Vượng. Đọc qua cái tựa, người đọc hy vọng tìm thấy những dấu ấn lịch sử huy hoàng của dân tộc Việt trong giai đoạn đầu giành lại độc lập sau hơn 1000 năm chịu ách đô hộ của các triều đại phong kiến Bắc phương. Nhưng toàn bộ bài viết là một sự phủ định giá trị lịch sử dân tộc qua cái nhìn của một người được coi là Giáo sư sử học. Mặc dù với tựa đề là “Từ Hoa Lư đến Thăng Long” ,nhưng để dễ dàng chứng minh những luận điểm của mình, tác giả bài báo đã bắt đầu từ thời Hùng Vương là một thời kỳ khuyết sử của dân tộc Việt Nam. Thời Hùng Vương chính là khởi điểm quan trọng để dẫn đến sự khẳng định hoặc phủ định giá trị lịch sử Việt. Cho nên ngay những dòng đầu tiên của bài báo, ông Trần Quốc Vượng đã viết: “Thời đại văn hoá Đông Sơn, thời đại các vua Hùng không nên xem là một thời đại của vương triều thống nhất. Văn Lang là cái tên xuất hiện trong sử một cách muộn mằn (Thời nhà Đường, thế kỷ thứ VII - IX). Tôi đã chứng minh rằng vua Hùng là một Pò Khun - thủ lĩnh mạnh nhất của một phức thể Khun (Vua = Bua = Pò, Hùng = Khun) tức hệ thủ lĩnh địa phương chiếm cứ các vùng từ đỉnh châu thổ sông Hồng (Việt Trì) đến các vùng bãi biển. Theo truyền thuyết và sử cũ thì lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ. Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith - Taylor đã dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord””. Đối với An Dương Vương và Âu Lạc, ông Trần Quốc Vượng chỉ cho rằng đó là: “Một tổ chức nhà nước Âu Lạc sơ khai”. Để chứng minh cho luận điểm của mình, ông Trần Quốc Vượng viết: “Tôi và Cẩm Trọng đã chứng giải “Thục Phán” không phải là một tên riêng (nhân danh) mà là một từ chức năng - “Túc Phắn” chỉ thủ lĩnh đi “mở đất mở mường”. Những luận điểm trên đây của ông Trần Quốc Vượng chính là cơ sở để từ đó dẫn đến sự phủ định hàng loạt những giá trị lịch sử dân tộc. Bởi vì, một khi đã coi thời Hùng Vương không phải là một vương triều thống nhất, Âu Lạc chỉ là một nhà nước sơ khai (tức là chưa đủ tư cách là một quốc gia) thì toàn bộ diễn biến lịch sử đầy máu và nước mắt của người Lạc Việt khởi nghĩa giành lại độc lập dân tộc trong con mắt của ông Trần Quốc Vượng chỉ còn là những cuộc nổi dậy và phản ứng của dân chúng với vương triều Hán. Do đó, về cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng, ông Trần Quốc Vượng viết: “Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”. Đây là một đoạn văn gây xúc phạm mạnh mẽ trong tâm linh dòng dõi Lạc Việt. Cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng trong lịch sử dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa vẫn được coi là biểu tượng của ý chí quật cường, sự trỗi dậy đầy khí phách của người Lạc Việt. Chưa hết, ông Trần Quốc Vượng còn đặt cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ với cục diện “Ngũ Đại Thập Quốc” của Trung Hoa vào cuối đời Đường. Phải chăng ông Trần Quốc Vượng muốn nói rằng cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ tạo nên nền tảng đầu tiên của nền độc lập Việt Nam chỉ là một cuộc ly khai may mắn hơn các thủ lĩnh của Trung Hoa cùng thời kỳ? Những ý tưởng lạc lõng của ông Trần Quốc Vượng không chỉ dừng lại ở đấy mà có thể khẳng định rằng: toàn bộ nội dung của bài báo là một sự bôi nhọ trắng trợn giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc. Về văn hoá, Trần Quốc Vượng cho rằng hầu hết huyền thoại cổ tích liên quan đến thành Thăng Long - miền đất đế đô đầu tiên khi phục hồi nền độc lập quốc gia của người Lạc Việt - chỉ là sự vay mượn ý tưởng của nước ngoài. Ông đã lấy huyền thoại Rồng bay - Thăng Long - niềm tự hào về kinh đô chính thức và lâu đời của dân tộc, ông Trần Quốc Vượng cũng cho rằng huyền tích này mượn ý của văn hoá Trung Hoa cổ bằng cách viện dẫn Dịch học nói về quẻ Càn. Ông Trần Quốc Vượng viết: “Huyền tích Rồng bay và cái tên mới của kinh thành Thăng Long xưa nay vẫn được cắt nghĩa như là biểu hiện sức vươn lên của một dân tộc thì cũng không sai. Song nếu tôn trọng tâm thức lịch sử đương thời thì theo tôi cần giải mã quẻ Càn (Trời vua) của Dịch học. Tiềm Long vu Thuỷ Hiện Long tại Điền Phi Long tại Thiên Đến đây ông Trần Quốc Vượng bỏ lửng coi như là đoạn kết của bài báo. Phải chăng ông Trần Quốc Vượng muốn chứng tỏ rằng - mặc dù với sự kiện thành lập kinh đô, sự khẳng định một quốc gia độc lập vững chắc của người Lạc Việt; đối với Trần Quốc Vượng thì nước Đại Việt vẫn nô lệ về văn hoá? Để có cớ dẫn đến sự phản bác giá trị lịch sử văn hoá truyền thống của dân tộc, tất nhiên vị giáo sư khả kinh - vốn được một số người xếp vào hàng tứ trụ trong giới sử học Việt và dài phát thanh có tên tuổi BBC phỏng vấn – ông Trần Quốc Vượng phải nhân danh khoa học. Chúng ta xét xem những chứng cứ gọi là “khoa học” của ông Trần Quốc Vượng trong bài báo được thực hiện như thế nào? Căn cứ cụ thể trên bài báo mà ông Trần Quốc Vượng dựa vào bắt đầu từ danh xưng của vua Hùng và Thục Phán theo cách gọi của đồng bào các dân tộc. Đương nhiên, để phủ nhận những giá trị lịch sử dân tộc Việt Nam, Trần Quốc Vượng không thể chỉ căn cứ vào cách gọi và nội dung danh từ chỉ vua Hùng và Thục Phán; mà có thể còn phải căn cứ vào rất nhiều hiện tượng lịch sử khác. Nhưng việc đưa lên báo cách gọi vua Hùng và Thục Phán của đồng bào các dân tộc – để dẫn đến sự khẳng định thời Hùng Vương không phải là vương triều thống nhất, Âu Lạc chỉ là nhà nước sơ khai theo quan niệm của ông Trần Quốc Vượng – thì tất yếu đó phải là luận cứ quan trọng nhất. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu liên quan đến danh xưng của vua Hùng và Thục Phán. Trước đây, ông Đào Duy Anh có quan điểm ngược lại với Trần Quốc Vượng về Thục Phán. Ông Đào Duy Anh cho rằng: Thục Phán là một từ nhân danh (Trần Quốc Vượng cho là một từ chức năng), là Thục Vương Tử và cố chứng minh rằng Thục Phán là con vua nước Ba Thục. Cho rằng Trần Quốc Vượng đã đúng so với Đào Duy Anh, tức là vua Hùng được gọi là Pò Khun và đúng luôn cả cái nghĩa là thủ lĩnh mạnh nhất; Thục Phán là Túc Phắn, là thủ lĩnh mở đất mở mường thì điều đó cũng không thể coi là luận cứ có sức thuyết phục để phủ nhận thời Hùng Vương là một vương triều và cho rằng Âu Lạc chỉ là nhà nước sơ khai. Ngược lại; hiện tượng mà chính ông Trần Quốc Vượng đưa ra lại có thể giải thích ngược lại rằng: Chính sự tồn tại của từ Pò Khun trong đồng bào các dân tộc để chỉ vua Hùng; đã chứng tỏ quyền lực của các vua Hùng không phải chỉ ảnh hưởng đến chủng tộc Lạc Việt, mà còn bao trùm trên các chủng tộc khác trên đất nước Văn Lang. Sự ảnh hưởng này chắc chắn phải rất mạnh; nên 2000 năm sau hình ảnh vua Hùng vẫn tồn tại trong lịch sử phát triển của đồng bào các dân tộc để ông Trần Quốc Vượng biết được Pò Khun là vua Hùng, là thủ lĩnh mạnh nhất. Ông Trần Quốc Vượng còn căn cứ vào sử sách của người Hoa hạ để chứng minh rằng quốc hiệu Văn Lang của Việt Nam xuất hiện vào đời Đường. Như vậy ông Trần Quốc Vượng gián tiếp phủ nhận luôn nội dung truyền thuyết cổ nhất của dân tộc Việt Nam - truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, niềm tự hào của người Lạc Việt; khi truyền thuyết này khẳng định thời Hùng Vương quốc hiệu là Văn Lang. Nếu vậy - theo ông Trần Quốc Vượng – thì sẽ phải đặt lại vấn đề: Truyền thuyết này có từ bao giờ? Và tiếp theo đó sẽ là việc đặt lại thời điểm xuất hiện của hàng loạt những truyền thuyết lịch sử thời Hùng mà tuần tự thời gian được xác nhận ngay trong các truyền thuyết đó đều có sau truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên; như: Bánh Chưng , bánh Dầy; Trầu cau.... Đây là một việc mà khả năng của ông Trần Quốc Vượng và tất cả những học giả chung quan điểm với Trần Quốc Vượng - kể cả trong và ngoài nước (không loại trừ Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Taylor) không bao giờ có thể làm được; để phủ nhận giá trị lịch sử của những truyền thuyết đó. Tổ tiên người Lạc Việt đã để lại một tổ hợp truyền thuyết lịch sử về thời Hùng Vương có một kết cấu chặt chẽ với những di ấn không thể phủ định. Đó là sức mạnh của nền văn hiến Việt Nam được chứng tỏ qua bao thăng trầm của lịch sử. Chỉ cần một hiện tượng đó cũng đủ chứng tỏ thời Hùng Vương là một quốc gia có tổ chức với một nền văn minh rực rỡ. Thời Hùng Vương không thể phủ định thì giá trị lịch sử đầy máu và nước mắt của dân tộc Việt Nam thể hiện trong các cuộc khởi nghĩa đầy khí phách dành độc lập của dân tộc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc không thể phủ định. Tiêu biểu cho khí phách và tinh thần anh dũng đó chính là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Để chứng minh điều này; tôi trở lại với vấn đề quốc hiệu Văn Lang của các vua Hùng – nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt và các dân tộc anh em. Hiện nay có không ít những nhà nghiên cứu cho rằng các truyền thuyết về thời Hùng Vương là nguỵ tạo từ thế kỷ XV. Họ căn cứ vào cuốn ”Lĩnh Nam trích quái “ được viết vào thế kỷ XV. Đúng là cuốn sách này được viết vào thế kỷ XV thật. Nhưng điều đó không có nghĩa những truyền thuyết này chỉ xuất hiện vào thời kỳ đó. Chính tác giả của cuốn sách cũng thừa nhận chỉ sư tầm chép lại từ dân gian. Ông Vũ Quỳnh - viết trong lời tựa: Ôi! Lĩnh Nam liệt truyện có phải chỉ riêng khắc vào đá; viết vào tre mới là quí hơn bia miệng đâu? Từ đứa trẻ hoi sữa đến các cụ già tóc bạc đều truyền tụng để tỏ lòng yêu dấu..” Nhưng chuyện tiêu biểu về thời Hùng Vương trong Lĩnh Nam trích quái chúng ta cũng thấy rằng: Truyện lập quốc Văn Lang là sớm nhất. Sau đó mới đến Trầu Cau và Bánh Chưng – Bánh Dầy . Ông Trần Quốc Vương và một số không ít các nhà nghiên cứu ủng hộ ông có thể chứng minh được tục làm bánh chưng bánh dầy trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc vào thế kỷ XV chăng? Hay họ có thể chứng minh tục ăn trầu có từ thời Lý - Trần chăng? Ăn trầu là phong tục của người Trung Quốc chăng? Như vậy; chính những giá trị văn hoá phi vật thể là chiếc bánh chưng – bánh dầy trong ngày lễ Tết của dân tộc Việt và tục ăn trầu phổ biến khắp miền năm sông Dương Tử – và ngay bây giờ ở Đài Loan (vốn có vị trí vĩ tuyến ngang Đông Đình Hồ là biên giới Văn Lang xưa) – đã chứng tỏ tính thống nhất về văn hoá trong một cộng đồng sinh sống ở một vùng lãnh thổ rộng lớn Nam Đông Đình Hồ. Sự thống nhất về văn hoá này chứng tỏ đã có một quyền lực bảo trợ cho những giá trị văn hoá ấy . Đó là triều đại các vua Hùng mà chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại đã thừa nhận; họ gọi là nước Ba. Các truyền thuyết sau – “Trầu Cau” và “Bánh Chưng – Bánh Dầy” lại là sự bảo chứng cho truyền thuyết trước về một nước Văn Lang ở Nam Động Đình Hồ với những dấu ấn văn hoá phi vật thể tồn tại từ hàng ngàn năm trước. Cho dù có một văn bản nào đấy nhắc tới một địa danh Văn Lang vào thời nhà Đường thì điều đó cũng không có nghĩa danh từ Văn Lang chỉ xuất hiện vào thời kỳ này. Ông Trần Quốc Vượng muốn chứng minh rằng nước Đại Việt dù độc lập về chính trị nhưng vẫn lệ thuộc về văn hoá, bằng cách đưa lời Hào Từ của quẻ Thuần Càn trong Kinh Dịch về con Rồng trong văn hoá Han để liên hệ với Thăng Long trong chiếu dời đô của Hoàng đế Lý Thái Tổ. Nhưng Kinh Dịch vốn được người Hoa Hạ coi là sản phẩm của mình lại có nguồn gốc hết sức mơ hồ, cứ như từ trên trời rơi xuống. Đó là một cuốn sách không đầu không đuôi, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Người coi Kinh Dịch là sách bói, người coi là sách triết và lịch sử Kinh Dịch thì đầy mâu thuẫn. Cho đến ngày nay, cả thế giới hiện đại xúm vào nghiên cứu Kinh Dịch vẫn còn ngơ ngác; thậm chí Kinh Dịch bí ẩn ngay cả với các học giả Trung Hoa hiện đại vốn tự nhận là hậu duệ của nền văn minh sản sinh ra Kinh Dịch. Đã có những học giả Việt Nam khả kính đặt vấn đề cho rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch liên quan đến nền văn minh Bách Việt; đó là Giáo sư Bùi Văn Nguyên với tác phẩm “Kinh Dịch Phục Hy” và Lê Văn Sửu với tác phẩm “Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành”. Đây là một giả thuyết rất có cơ sở khoa học. Như vậy, nếu đứng về góc độ của khoa học và thực tiễn thì lý luận của ông Trần Quốc Vượng chưa đủ sức thuyết phục. Nhưng ông Trần Quốc Vượng đã vội vàng khẳng định quan điểm của mình có tính áp đặt; khi đề nghị: “Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”. Chính lời đề nghị này đã chứng tỏ một tư duy phi khoa học, khi khoa học cần có sự đối thoại để tìm chân lý. Sự đề nghị có tính áp đặt của ông Trần Quốc Vương sẽ không cho phép những tư duy phản biện xuất hiện. Đấy không phải là tinh thần khoa học. Không xuất phát từ một tư duy khoa học thì ông Trần Quốc Vượng nhân danh cái gì để phủ định những giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam? Nếu có sự nói thẳng ra điều này dưới bất cứ hình thức nào thì Thiên Sứ tôi sẽ im lặng. Vì Thiên Sứ tôi chỉ nhân danh khoa học. Sắp tới ngày tưởng niệm hai vị liệt nữ anh hùng của dân tộc Việt. Hai vị đã giải phóng 64 thành trì và giành độc lập; gìn giữ lại những bản sắc văn hiến của dân tộc Việt. Xin có lời nhắc nhở đến những ai có quan niệm phủ định công lao của Hai Bà trong lịch sử dân tộc bằng cách cho rằng: Lãnh thổ của nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở đồng bằng Bắc bộ; nên làm gì có 64 thành để Hai Bà Trưng giành lại. Nhưng chính Tô Đông Pha đã viết: ” ...Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 - 207 tr.CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại tình trạng man di. Bì Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ. ----------------------- * Chú thích: An Nam chí lược: Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục “Cổ Tích”. Viện ĐạI hoc Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận. Qua đoạn trích dẫn trên thì dân Chín quân sẽ không thể chỉ là Nhật Nam và Cửu Chân; mà là bao trùm nam sông Dương Tử. Chính với vùng lãnh thổ rộng lớn này sẽ giải thích hơn 60 thành mà ông Tô Đông Pha nói tới. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị. NGUYỄN VŨ TUẤN ANH
-
Tại cuộc đời của si phọ cũng như con thuyền không bến vậy. Nên có sự đồng cảm. Biết đâu bờ bến? Một con thuyền theo trăng trong.... Nhưng ngay cả hình ảnh ấy nay cũng chỉ còn là ký ức.
-
Zdìa chồng thì năm Dần 2010 lấy choàng. Đường công danh thì sau này nên tự làm chủ lấy mình thì hơn (Tự kinh doanh), có ông chồng hiền lành tử tế phụ giúp. Chúc vạn sự an lành.
-
Năng lượng là khái niệm của tri thức khoa học hiện đại và chúng ta hiểu theo nghĩa đó. Trong Lý học Đông phương chỉ có khí lực. Khái niệm khí lực trong lý học Đông phương là sự tương tác, tác động có định hướng, có thể coi như gần tương đương với khái niệm năng lượng. Chúng ta dùng tri thức của khoa học hiện đại để làm sáng tỏ những khái niệm còn bí ẩn trong lý học Đông phương nên chúng ta có thể dùng khái niệm thay thế, không nhất thiết Lý học Đông phương không có thì điều đó là không có, khi bản thân môn lý học đã thất truyền nên còn nhiều khiếm khuyết, chỗ trống để chúng ta phải bổ sung, hoàn chỉnh. Câu hỏi của VinhL với anh Vô Trước thì tôi không biết anh Vô Trước sẽ trả lời thế nào. Nhưng với cách hiểu của tôi về thuyết Âm Dương Ngũ hành liên hệ với tri thức khoa học hiện đại thì không có "phi vũ trụ", không có "phi vật chất" mà chỉ có những dạng tồn tại khác nhau của vật chất đã được khám phá , hoặc chưa được khám phá. Không thể lấy cái không hiểu, không biết của con người để báo nó không có và "phi vật chất". Theo định nghĩa của tôi thì Thượng Đế cũng sẽ là một hiện tượng vật chất nếu Ngài tương tác với vật chất và lúc đó Ngài sẽ là đối tượng nghiên cứu khoa học.
-
Theo tôi Congly nên mở một topic khác để trình bày quan điểm của mình. Còn topic này coi như hành lang để trao đổi những ý tưởng của Congly. Hoặc Congly tiếp tục viết ở đây là tùy.