Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Anh chị em thân mến. Hôm qua, hoặc cùng lắm là hôm kia, tôi xem trên báo - Không nhớ Tuổi trẻ hay Thanh Niên - nhưng chỉ 1 trong hai tờ này, có nói đến một ông Lang - Dược sĩ tại Ha Nội có chưa bệnh này và kết quả rất khả quan. Tôi đang tìm tờ báo này. Nếu tìm được sẽ đưa địa chỉ lên đây. May ra có hy vọng gì chăng? Ai giỏi vi tính có thể vào báo mạng tìm giúp. Tôi tìm mãi ko được nên phải gõ lên đây. Tôi nhớ mang máng là ông này ở quận Tây Hồ - chữa bệnh bằng châm cứu kết hợp với da cóc, chuyên chữa ung thư hạch. tỷ lệ khỏi bệnh rất cao. Tôi tìm trong cả các tờ quảng cáo không thấy. Không biết có sơ xuất gì không? Ai biết chỉ giùm. Tờ báo có ghi cả địa chỉ số Điện thoại ông Lang.
  2. Giờ Thìn 22/ 10 - Mậu Tý: Tử tiểu Cát. Tuần này và tuần sau thị trường có xu hướng giảm giá. May ra cuối tuần sau mới nhúc nhích lên được.
  3. Con gái 2006 - Bính Tuất . Được mạng cha là Hỏa (Theo Lạc Thư Hoa giáp) tương sinh và nhị hợp với cha. Mạng con Thổ sinh mẹ Kim rất tốt. Nhưng cái tốt sẽ phải đến từ từ. Nếu hoạnh phát thì hoạnh phá, vì là con gái Âm nên chưa hợp mẹ ngay. Sinh con Kỷ Sửu cho thấy tương quan như sau: Thiên can: Kỷ hợp Giáp (Mẹ). Mạng: Kỷ Sửu Thủy (Lạc thư hoa giáp) được mẹ Kim sinh. Địa chi: Nhà này được cách đối xứng qua trục Tý/ Sửu - Ngọ/ Mùi: Ất Mão cha đồi xứng Bính Tuất con gái. Giáp Tý Mẹ đối xứng Kỷ Sửu. Do đó trai gái đều tốt. Con trai tốt hơn con gái và bắt đầu phát lên ngay. Con gái phát chậm nhưng bền vững. Dự báo kiểm chứng: * Từ khi cấn bầu đứa Kỷ Sửu thì kinh tế gia đình đang dần ổn định. * Khả năng vợ chồng làm ăn thất bại năm 2007 không phải do tuổi con Bính Tuất mà có thể do một nguyên nhân khác - nghiêng về nhà này có động điền trạch vào đầu năm (Sửa chữa, xây dựng dời đổi chỗ ở). * Đứa con gái Bính Tuất rất xinh so với tương quan cha mẹ. * Nếu Kỷ Sửu là con út thì sau này mẹ sẽ chi phối toàn bộ kinh tế gia đình. Chúc vạn sự an lành. Chú ý: Tôi nói mạng Thủy Hỏa đây là theo Lạc Thư hoa giáp, chứ không phải theo sách Tàu, mà tôi đã khẳng định là sai. Miễn thắc mắc. Hãy vào trang chủ lyhocdongphuong.org.vn tham khảo.
  4. Rubi thân mến. Không bao giờ bảng Lạc Thư hoa giáp có hai nghiệm cả. Có thể Rubi hiểu sai vấn đề. Mặc dù tôi chưa tìm hiểu về phương pháp tính Tý - Ngọ lưu trú trong đông y. Nhưng vì tính hợp lý trong những vấn đề liên quan, nên tôi tin chắc điều này. Bảng Lạc Thư Hoa giáp đã được những nhà khoa học có bằng cấp cao trong khoa học hiện đại và tên tuổi xác định tính hợp lý và tính quy luật rất chặt chẽ của nó. Rubi hãy suy ngẫm lại. Tuy nhiên tôi sẽ chứng minh điều này - mặc dù chưa hề nghiên cứu về Tý Ngọ lưu trú - khi Rubi đưa lên đây bảng đồ họa để kiểm chứng. Nhân đây tôi cũng muốn gửi gấm lời tâm sự là: Hiện nay, tôi biết có một số người vẫn còn chưa tâm phục khẩu phục bảng Lạc Thư hoa giáp (Trong đó có không ít người không xuất phát từ nguyên nhân học thuật) - mà tôi tự hào nhân danh nền văn hiến huyền vĩ Việt . Họ dẫn chứng là có vài người phản đối tối. Nhưng thực ra, vài người đó chưa hề gọi là đủ khả năng phản biện, mà chỉ là phản ứng mà thôi. Hơn 2000 năm, chính người Tàu đến nay cũng phải thừa nhận không biết gì về nguyên nhân để có bảng Lục thập hoa giáp - Nhưng mấy người đó lại muốn chứng tỏ họ thông minh hơn cả nền văn minh Hoa Hạ mà họ tiếp thu một cách mê muội - khi chính cả nền văn minh đó bế tắc hàng ngàn năm không hiểu gì về cái mà họ coi là của chính họ.
  5. BUỒN THI HOÀNG Quê mẹ vời trông ruột chín chiều Bánh trưng ngày Tết lửa riu riu Con chim lẻ bạn bay ngơ ngẩn Tiếng trúc canh suông thổi dặt dìu Lặng lẽ giữa cơn mơ nhè nhẹ Chập chờn trong giấc ngủ thiu thiu Ai về cho gửi câu tâm sự Ngọn gió bên thềm thổi hắt hiu... Cảm tác Buồn Thiên Sứ Hiu hắt khói lam tỏa mỗi chiều. Mái tranh quê cũ gió liu riu. Đầu làng thôn nữ đi thơ thẩn. Bên giếng kìa ai hát dặt dìu. Tiếng võng ru buồn đưa kẽo kẹt. Ánh đèn bên cửa cảnh buồn thiu. Quê nghèo u uẩn niềm tâm sự. Dừng bước giang hồ dạ hắt hiu.
  6. Anh chị em thân mến. Bài viết dưới đây đăng trên VnExpress nói về một vụ cá cược lớn nhất Việt nam có đăng ký và bảo đảm tại Ngân hàng. Anh chị em thử toán quẻ, dự báo xem ai thực hiện chứng minh được ý tưởng của mình? Tòa nhà cao nhất VN cược 100 tỷ đồng cho tiến độ thi công Chủ đầu tư dự án Keangnam (Hà Nội) vừa thông báo đồng ý ký vào cam kết hoàn thành các tòa tháp vào đúng tháng 10/2010, nếu không sẽ nộp phạt 100 tỷ đồng. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam một chủ đầu tư dự án "cá cược" về tiến độ công trình. > Chính phủ yêu cầu kiểm tra dự án căn hộ lớn nhất HN Trong thông cáo gửi VnExpress.net và các báo hôm 14/11, Công ty TNHH một thành viên Keangnam - Vina, chủ đầu tư tổ hợp chung cư cao tầng, khách sạn, dịch vụ tại đường Phạm Hùng (Hà Nội), cam kết hoàn thành phần thô và tiểu cảnh sân vườn của 2 khối nhà 48 tầng và tòa khách sạn, văn phòng 70 tầng kịp thời gian kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. "Chúng tôi đồng ý nộp phạt 100 tỷ đồng nếu không đúng cam kết", văn bản do Chủ tịch Keangnam - Vina Ha Jong Suk ký, khẳng định. Chủ đầu tư cũng cho hay, trong trường hợp bị phạt vì không đúng tiến độ, toàn bộ số tiền sẽ được dùng cho mục đích từ thiện. Chủ đầu tư Keangnam, vốn rất ít khi xuất hiện trước báo giới, bất ngờ công khai vụ cược tiền cho tiến độ thi công sau khi có thông tin về việc dự án này đăng ký lượng vốn rất lớn, nhưng thực tế chi ra khoản tiền nhỏ hơn hẳn để đầu tư, và làm ăn không minh bạch. Phối cảnh 3 tòa tháp của dự án Hanoi Landmark Tower. Ảnh: HLT Trước đó, báo Cựu chiến binh Việt Nam ra ngày 30/10 có bài viết về dự án Keangnam và có đoạn: "Bằng hình thức bán nhà trên giấy, tập đoàn Keangnam Enterprises đã thu được một số lượng vốn rất lớn ở trong nước ta, mà xét đến cùng là họ mới bỏ ra chừng 20 triệu USD để đầu tư thuê đất, lệ phí xây dựng". Cũng theo bài báo, công trình không thể hoàn thành kịp phục vụ lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long. Một số cựu chiến binh, chuyên gia, kỹ sư xây dựng cũng đã gửi thư ngỏ đến Chủ tịch Keangnam - Vina Ha Jong Suk và đưa ra ý tưởng ký cam kết thực hiện công trình Keangnam Hanoi Landmark Tower, và sau đó được đăng trên báo Cựu chiến binh Việt Nam. Các tác giả bức thư viết: “Nếu các ông thực hiện đúng như cam kết là hoàn thành công trình đúng lễ kỷ niệm 1.000 Thăng Long - Hà Nội thì chúng tôi sẽ tặng cho các ông 100 tỷ đồng”. Trong thông cáo gửi báo chí, Keangnam cũng đề xuất, tập đoàn này và nhóm tác giả bức thư ngỏ sẽ ký cam kết trước sự chứng kiến của lãnh đạo UBND TP Hà Nội, báo giới và các ngành liên quan vào ngày 18/1 tới đây. Cùng với đó, mỗi bên đặt cọc khoản tiền hoặc tài sản tương đương 100 tỷ đồng vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước Hà Nội để đảm bảo thực hiện cam kết. Phía Keangnam cho hay sẽ đặt cọc bằng 11 căn hộ tầng 6 tòa tháp 48 tầng và một căn hộ penthouse có tổng giá trị tương đương 100 tỷ đồng. Nếu tập đoàn này không hoàn thành công trình đúng như cam kết, Kho bạc Nhà nước Hà Nội sẽ bán số căn hộ. Trong trường hợp số tiền bán căn hộ không đủ 100 tỷ đồng, Keangnam sẽ bù thêm tiền. Dự án Hanoi Landmark Tower của tập đoàn Keangnam khởi công vào tháng 8/2007, với tổng vốn đăng ký 1 tỷ USD, lớn nhất Hà Nội tại thời điểm đó. Tổ hợp này gồm căn hộ cao cấp, khách sạn, khu dịch vụ và văn phòng với 2 tòa tháp 48 tầng (gồm 918 căn hộ) và một tháp 70 tầng. Theo chủ đầu tư, Hanoi Landmark Tower là tòa nhà cao thứ 17 trên thế giới. Đây từng là dự án trọng điểm tại thành phố và là công trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Cuối tháng 10 vừa qua, Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng cũng đã yêu cầu UBND TP Hà Nội xem xét nội dung phản ánh về việc căn hộ chưa xuất hiện, nhưng chủ đầu tư Keangnam đã bán 40% số căn hộ của 2 tòa tháp 48 tầng. Phó thủ tướng đã yêu cầu Phó chủ tịch UBND TP Hà Nội Phí Thái Bình kiểm tra và báo cáo lên Thủ tướng. Thực tế, ngay sau khi chủ đầu tư Keangnam mở cửa khu nhà mẫu và thông báo bán căn hộ vào tháng 8 vừa qua, đã có nhiều thông tin về việc dự án này bán nhà trên giấy. Công ty được chỉ định làm đại diện bán căn hộ cho Keangnam cho hay, trong vòng 10 ngày, chủ đầu tư đã bán hết 400 căn, gấp 2 lần con số dự tính bán ra ban đầu. Đợt bán căn hộ thứ hai bắt đầu từ tháng 10 vừa qua, song số lượng nhà bán được rất hạn chế. Ngọc Châu
  7. Quốc kỳ Ấn Độ trên mặt trăng 17/11/2008 10:41 Các nhà khoa học Ấn Độ tại Trung tâm Kiểm soát hoạt động của tàu thăm dò mặt trăng Chandrayaan 1 - Ảnh: AFP Tàu vũ trụ thám hiểm mặt trăng không người lái đầu tiên của Ấn Độ, Chandrayaan 1, đã gởi một thiết bị thăm dò (tàu con) đến bề mặt mặt trăng. Thiết bị thăm dò (MIP), được sơn lá cờ Ấn Độ, đã lao vào bề mặt của mặt trăng lúc 15 giờ 4 phút giờ GMT (khoảng 22 giờ 4 phút giờ VN ngày 15-11), theo Tổ chức Nghiên cứu Không gian Ấn Độ (ISRO). Suốt giai đoạn xâm nhập mặt trăng được trung tâm kiểm soát theo dõi chặt chẽ, thiết bị thăm dò đã ghi nhận những thông tin cần thiết, trong đó có việc đo đạc thành phần trong tầng khí quyển của mặt trăng. Sứ mệnh này được xem như một bước quan trọng để Ấn Độ bắt kịp các quốc gia đang theo đuổi chương trình không gian khác ở châu Á. Theo BBC, thành công của sứ mệnh này được hân hoan chào đón tại Ấn Độ, nơi nhiều người xem đó như một dấu hiệu nữa của sự nổi lên của một cường quốc thế giới. Đầu tuần này, Chandrayaan 1 đã bắt đầu bay theo quỹ đạo mặt trăng khoảng 3 tuần sau khi nó được phóng lên từ trung tâm không gian ở phía Nam Ấn Độ. Việc tiếp cận của MIP (nặng 30 kg) với bề mặt mặt trăng đã kết thúc giai đoạn đầu của sứ mệnh. “Suốt thời gian này, một video camera đã chuyển những hình ảnh mặt trăng về trung tâm chỉ huy của ISRO. Trong hai năm tới, Chandrayaan 1 sẽ vẽ một bản đồ 3 chiều của mặt trăng và kiểm tra sự có mặt của nước đá với sự hỗ trợ về thiết bị của Ấn Độ và các quốc gia khác, bao gồm Mỹ, Anh và Đức. Chủ tịch chương trình không gian Ấn Độ Madhavan Nair mô tả nhiệm vụ đã thành công 95% và thông báo một sứ mệnh thám hiểm mặt trăng thứ hai sẽ được khởi động vào năm 2012, tất nhiên là tàu vũ trụ có người lái. Theo T. Minh / NLĐ
  8. Thôi chết. Tôi vô ý quá vì không thấy trong hình. Cảm ơn Vô Thường. Btkhanh xem lại xem cầu thang xoắn có đâm xuống bếp không thì hãy đặt nhá. Tránh cái cầu thang này ra. Nếu không thể tránh cầu thang được thì báo ngay cho tôi, tìm giải pháp khác.
  9. Xe bay Nguồn Thanh Niên Online 17/11/2008 17:44 Skycar cất cánh tương tự máy bay lên thẳng. Để khắc phục tình trạng kẹt xe tại nhiều đô thị lớn, trong năm 2009 tới, những chiếc xe hơi bay sẽ được đưa ra thị trường Mỹ. Thay vì tậu một chiếc BMW hay Mercedes, người tiêu dùng có thể bỏ ra số tiền tương đương để mua một chiếc xe hơi không biết đến chướng ngại vật. Những chiếc xe này có thể bay cũng như chạy trên đường như xe hơi thông thường. Một hãng sản xuất ở thành phố Davis, Mỹ, dưới sự lãnh đạo của kỹ sư hàng không Paul Moller đã thực hiện dự án xe hơi bay. Ngay từ những năm 60 thế kỷ trước, Moller đã bắt đầu thiết kế xe bay. Lâu lâu ông cũng đem các mẫu mã ra trình diễn, nhưng đến nay thì chiếc xe mới hoàn chỉnh với ký hiệu M200X. Moller nói rằng vào năm 2009, M200X sẽ được chào bán với giá 100 ngàn USD/chiếc. Ảnh 1: M200X đôi khi bị nhầm lẫn là đĩa bay. Ảnh 3: Xe bay có thể "treo" mình trên không trung Theo Sự thật thanh niên (Nga), M200X có cấu tạo giống như chiếc đĩa bay. Xe nhẹ với 2 chỗ ngồi, sử dụng loại động cơ mang tên Wankel, có thể chạy bằng cồn. Các động cơ cánh quạt nằm trong những chiếc ống giúp M200X có thể cất, hạ cánh theo phương thẳng đứng. Chiếc "đĩa bay" này có thể bay với vận tốc 200 km/giờ. Đặc biệt, người lái không cần phải thao tác nhiều, vì máy tính đã được cài đặt sẵn các chương trình điều khiển tự động: từ cất, hạ cánh đến ổn định độ cao, tầm bay và luôn sẵn sàng ngăn chặn các động tác (bay, lượn) gây nguy hiểm cũng như cảnh báo khi có khả năng va chạm trên không. Người lái chỉ cần sử dụng một tay để điều khiển cần lái (tương tự như trò chơi điện tử). Để cất và hạ cánh, M200X cần một bãi trống lớn hơn kích thước của nó một chút. Chiếc xe có 3 bánh hơi, nên dễ dàng chạy trên mặt đất. Paul Moller nói rằng, nếu như chỉ bay cao cách mặt đất 4 mét, thì người sử dụng không cần phải đăng ký M200X với cơ quan có thẩm quyền như một vật thể bay. Tuy nhiên, thực tế là M200X có trần bay vài trăm mét. Hiện Moller cũng đang dự tính sản xuất xe bay có dáng dấp giống máy bay, ký hiệu là M400 hoặc có tên thương mại Skycar. Chiếc xe hơi bay này có cánh và ca-bin đủ cho 4 người ngồi. Skycar hạ cánh và cất cánh nhờ các động cơ xoay, vận tốc 600 km/giờ và tầm bay là 6.000 km. Với hơn 100 đơn đặt hàng cho Skycar, Moller dự tính sẽ sản xuất 500 chiếc/năm với giá 500.000 USD/chiếc. Tuy nhiên nếu sản xuất được nhiều, thì giá bán sẽ hạ từ 60.000 - 80.000 USD/chiếc. Cũng cần nói thêm, với loại xe bay M400, nhà sản xuất cũng trang bị một chiếc dù lớn, để nếu động cơ không hoạt động thì xe vẫn có thể hạ cánh nhẹ nhàng. Bảo Quyên (Theo Sự thật thanh niên)
  10. Không có vấn đề gì. Họ chỉ cầu lợi, nhưng chưa chuẩn (Đây chỉ là giả thiết). Cho tôi hỏi nhà Tien hướng nào? Trong nhà ai là người lớn tuổi nhất so với Tien cùng huyết thông - giới tính?
  11. Kattyinlove26 Có thể đưa sơ đồ căn nhà lên đây. Nếu có thể được đưa cả bản đồ về tinh khu đất có căn nhà tọa lạc.
  12. Hi< Hổng khéo thì cả cái hội cựu chiến binh già đầu như Thiên Sứ bị sao quả tạ chiếu mất béng 100 Tỷ. Xây xong tiểu cảnh vườn và phân thô là thế quái nào? Xây xong tiểu cành vườn hay vườn gì đó thì Thiên Sứ tôi không xem kỹ. Nhưng để hòan thành một cái vườn cho đến 2010 thì có quái gì mà ko được? Vấn đề ở chỗ: Thế nào là xong phần thô? Nó lập lờ ở chỗ này. Với kỹ thuật xây dựng hại điện như Hàn Quốc mà chỉ dám hứa xây xong phần thô của một phần tòa nhà thì Thiên Sứ hổng chơi. Kiếm cớ rút lui đi các cụ. Cảnh báo thể đủ rồi. Còn lại để bản dân thiên hạ xem xem cái nhà bác Kiêng Nằm Hàn Quốc xoay sở ra sao. Rút lui bằng cách chỉ ra cái không rõ ràng trong hợp đồng cá cược.
  13. Kính thưa quí vị quan tâm. Nhà nghiên cứu Lê Văn Cường đã trao đổi với chúng tôi về dự án LHC của công đồng khoa học quốc tế mà tôi đã dự báo sự thất bại của dự án này bởi nhiều nguyên nhân trong đó có vấn đề mà cá nhân tôi cho rằng do cách đặt vấn đề sai và dẫn đến một thí nghiệm không thể minh chứng. Bài viết này của nhà nghiên cứu Lê Văn Cường là một sự lý giải nguyên nhân dẫn đến thất bại của thí nghiệm này mà quí vị có thể tham khảo. Xin trân trọng giới thiệu. Thiên Sứ Sự biến đổi vận tốc ánh sáng sẽ được chứng minh bằng thực nghiệm tại LHC. Le_van_cuong@yahoo.com Hiện nay tại châu Âu, trong dự án LHC (larger hadron collider project) các nhà khoa học đang cố gắng tạo ra vụ nổ “BigBang” cỡ nhỏ bằng việc gia tốc các chùm hạt proton tới gần tốc độ ánh sáng ở hai hướng ngược chiều nhau rồi cho va chạm với nhau nhằm tìm kiếm “hạt của Chúa”, (hạt: Higg, được lý thuyết vật lý tiên đoán là hạt tạo nên khối lượng). Để gia tốc các hạt proton có vận tốc xấp xỉ vận tốc ánh sáng, chúng ta sẽ phải sử dụng công thức năng lượng tương đối của Einstein: Er=mr.c2 hoặc Er=mo.γ.c2 ( trong đó γ là hệ số dãn và vận tốc ánh sáng là hằng số c=constant). Nhưng công thức năng lượng tương đối này lại không chính xác, (để biết điều này đề nghị xem các bài báo: “Công thức năng lượng của Einstein phải sửa đổi”, “Nghịch lý hai anh em sinh đôi” tại GSJ, website: wbabin.net bằng tiếng Anh và tại mục Lý học đông phương trong website: lyhocdongphuong.org.vn , bằng tiếng Việt). Công thức năng lượng tương đối đó phải được sửa thành Er=mr.cr2 hoặc Er=mo.γ.(co.γ)2=mo.γ3.co2, (trong đó co=c là vận tốc ánh sáng tại hệ không gian (km), thời gian (s) của proton khi nó không chuyển động và cr=co.γ là vận tốc ánh sáng tại hệ không gian (km.γ), thời gian (s.γ) của proton khi nó chuyển động nhanh gây hiệu ứng biến đổi khối lượng, không gian, thời gian của chính nó). Xin xem đồ thị minh hoa không gian, thời gian và vận tốc ánh sáng ở hình dưới: Đối với mọi người quan sát thì dù ở bất cứ vị trí nào hoặc bất cứ hệ quy chiếu nào cũng thấy vận tốc ánh sáng là hằng số với số đo là 300.000 theo đơn vị đo không gian, thời gian của họ. Giả sử anh A trong không gian (km), thời gian (s) thấy vận tốc ánh sáng là 300.000 km/s, thì anh B trong không gian (km.γ), thời gian (s) cũng thấy vận tốc ánh sáng là 300.000 km.γ/s.γ. Anh A không thể khẳng định vận tốc ánh sáng của mình mới là chuẩn còn vận tốc ánh sáng của anh B là không chuẩn, và ngược lại anh B cũng không thể tuyên bố vận tốc ánh sáng của mình mới đúng còn của anh A là không đúng. Anh nào cũng đúng vì đó là sự thật theo không gian và thời gian riêng của mỗi người. Chẳng có quan tòa nào có thể xét xử vận tốc ánh sáng của anh này mới đúng còn của anh kia là sai. Vận tốc ánh sáng mà cả hai anh đo được theo không gian, thời gian của riêng mình đều đúng, nhưng cái đúng này chỉ là cái đúng tương đối vì đơn vị đo không gian, thời gian của hai anh khác nhau. Bởi vậy, không thể lấy cái hằng số đúng của anh A áp đặt làm cái hằng số đúng cho anh B, và ngược lại. Vì vậy chúng ta không thể sử dụng cái c=constant như trong công thức năng lượng tương đối: Er=mo.γ.c2 của Einstein được. Và vận tốc ánh sáng trong không gian (km) và thời gian (s) của proton khi nó đứng yên chỉ đồng dạng chứ không bằng nhau với vận tốc ánh sáng trong không gian (km.γ) và thời gian (s.γ) của proton khi nó chuyển động nhanh gây hiệu ứng biến đổi. Chúng ta không thể nhìn thấy vân tốc ánh sáng thông thường c=300.000km/s tại vùng không gian xung quanh proton khi nó chuyển đông nhanh, vì lúc đó không gian xung quanh của proton đã bị biến đổi theo hệ số dãn γ và đơn vị đo của nó là km.γ. Vận tốc ánh sáng đi từ không gian với đơn vị đo (km) tới không gian với đơn vị đo (km.γ) đã bị biến đổi, tần số sóng không còn như trước nữa để mắt ta có thể nhìn thấy. Tôi nghĩ rằng tại dự án LHC tập trung hàng nghìn nhà khoa học ưu tú trên khắp thế giới cùng nghiên cứu, thiết kế máy gia tốc và kinh phí của dự án lên tới gần chục tỷ euro thì không thể có chuyện tính toán sai lầm hay thiết kế thi công cẩu thả để có thể xảy ra sự cố hỏng hóc “ngẫu nhiên” được. Xảy ra sự cố hỏng hóc ngay sau khi vận hành máy như vậy chỉ có thể do những yếu tố hết sức bất ngờ chẳng hạn như có một công thức tính toán hay một phương trình toán học nào đó chưa chuẩn mà khoa học hiên nay chưa phát hiện ra. Và công thức năng lượng tương đối của Einstein là một ứng viên rất đáng chú ý. Khi các hạt proton mang điện tích dương được gia tốc bằng lực điện từ (nam châm điện) để có vận tốc lớn xấp xỉ vận tốc ánh sáng thì năng lượng của nó theo công thức đã được chỉnh sửa là lớn hơn năng lượng tính toán theo công thức mẫu của Einstein. Tốc độ chuyển động của proton càng nhanh thì năng lượng của nó càng tăng mạnh vì sự khác nhau của công thức là hệ số dãn γ và γ3. Điều đó dẫn đến sự quá tải làm hỏng hệ thống dẫn điện cấp cho nam châm điện của máy gia tốc mà không ai có thể lường trước được. Nếu điều này là chính xác thì sự biến đổi vận tốc ánh sáng được xem như vận tốc ánh sáng không phải là hằng số tuyệt đối như tiên đề thứ hai của Einstein đã nêu ra trong Thuyết tương đối. Mặc nhiên rằng có thể dự án LHC chưa phát hiện được ra “hạt của Chúa”, nhưng sự thay đổi vận tốc ánh sáng sẽ được chứng minh bằng thực nghiệm tại máy gia tốc của dự án LHC một cách hết sức bất ngờ đem lại lợi ích to lớn cho sự phát triển tri thức khoa học của nhân loại. Hà Nội, ngày 7/10/2008 Lê Văn Cường
  14. Hôm nay vào xem lại bài báo đăng lại trên chính blog của tôi thì gặp đoan này. Chán nhể. Cứ Tiến Sĩ lói thì đều ..từ đúng trở lên cả. Bây giờ cái trí thức của ông tiến sĩ bẩu rằng thì là cái nhà ông Anh sơ tanh đúng hơn cái nhà ông Niu Tơn. Xin nỗi. Khi cái nhà bác Anh sơ tanh mới công bố thuyết tương đối thì cả thế giới cứ trợn mặt trợn mũi bảo ông ta dở hơi, dám phủ nhận Niu tơn vĩ đại. Có người còn bảo bác Anh sơ tanh là ....Cái gì nhỉ? đại khái theo võ hiệp Tàu gọi là "Tẩu hỏa nhập ma". Nhưng bây giờ, ông Anh sơ tanh trở lên vĩ đại thì mọi người vỗ tay rầm rầm. Sư Thiến tôi chẳng biết khỉ gì cũng vỗ tay rất to ra cái điều biết rất rõ Anh sơ tanh. Cùng tham gia vỗ tay với Sư Thiến còn có tiến sĩ Nguyễn Văn Khải. Nhưng cái khác nhau là Sư Thiến tui chỉ vỗ tay thôi, còn quan hàn lâm Khải thì vì có nhiều chữ hơn, nên còn tỏ ra "bức xúc" khi người ta đụng đến quan bác học Anh sơ tanh mà mọi người đều thừa nhận vĩ đại. Híc! Thật náo toét khi thàng nào con nào "dám đụng đến chân lý cuối cùng của thế giới do Anh sơ tanh vĩ đại tạo ra". Cách giải thích thái độ của các nhà khoa học với bác Cường là: Hê! Hê! Như vậy tất cả bàn dân thiên hạ đều thấy nhá! Màn hình trắng, hiển thị chữ đen đàng hoàng nhá. Rồi nhật trình đăng hẳn hoi nhá: Chính ông Khải gián tiếp thừa nhận tính vô trách nhiệm của những nhà khoa học đấy nhà : Híc.Đấy là hẳn tiến sĩ khoa học nhận xét về giới của mình. Chứ hổng phải Sư Thiến đâu ạ. Nhà em thì chẳng dám. Bố bảo cũng hổng dám. Nhưng xin tặng mấy zdầnn thơ này: Mần răng cũng chả mần răng. Dù có mần rằng cũng chả mần chi.
  15. Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 13 Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Cương vực nước Văn Lang Nguyễn Mạnh Lợi T ìm hiểu cương vực một nước, vấn đề trước tiên là tìm xem nước đó to, nhỏ, rộng, hẹp, ra sao, tiếp giáp với những nơi nào. Đối với nước Văn Lang, việc tìm hiểu cương vực có khó khăn riêng của nó vì cho đến nay trong thư tịch, khái niện Văn Lang khi thì được dùng để chỉ vùng đất Phong Châu quanh Bạch Hạc, khi thì chỉ miền đất Giao Chỉ và Cửu Chân xưa, có khi lại được dùng để chỉ khu vực rộng lớn từ hồ Động Đình, Ba Thục đến giáp Chiêm Thành. Vậy nước Văn Lang của các vua Hùng rộng hẹp ra sao là vấn đề chúng tôi muốn đề cập đến trong bản báo cáo này. Đất nước ta từ buổi đầu dựng nước được sử sách Trung Quốc trước thời Đường như Giao Châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí, v.v… gọi là “đất Giao Chỉ khi chưa có quận huyện”. Từ thời Đường về sau mới nhắc đến tên Văn Lang khi chỉ định quận huyện ở Giao Châu, như sách Thông điển của Đỗ Hựu viết: “Phong Châu là nước Văn Lang xưa”. Chưa có một tài liệu Trung Quốc nào chỉ định rõ ràng cương giới nước Văn Lang. Với lòng tự hào dân tộc được phát huy mạnh mẽ với những chiến thắng lừng lẫy đánh tan quân Nguyên, nhiều nho gia, sử gia thời Trần đã thu thập chuyện dân gian viết nên sử sách nêu lên cương giới lâu đời của đất nước chứng tỏ “quốc thống bắt đầu từ đấy”. Xưa nhất có quyển Lĩnh Nam chích quái, “Chuyện Hồng Bàng” chép về cương vực nước Văn Lang như sau: “Âu Cơ và 50 con lên đất Phong Châu, suy phục lẫn nhau: cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới hồ Động Đình, nam tới nước Hồ Tôn. Chia nước làm 15 bộ” (1). (1) Vũ Quỳnh, Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái – Bản dịch của Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San, Hà Nội, 1969, tr.23. Sau đấy các sách Dư địa chí củ Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đều chép gần giống như thế, song lên 15 bộ thì giữa các sách có xuất nhập ít nhiều: Có thể nói, đấy là những ghi chép cơ bản nhất để nghiên cứu cương vực nước Văn Lang trước đây. Từ trước tới nay, đất Phong Châu (tỉnh Vĩnh Phú và Hà Tây hiện nay) vẫn được xem là đất Tổ, là trung tâm của nước Văn Lang. Song về biên giới nước Văn Lang trước đây, Ngô Thời Sĩ trong Việt sử tiêu án, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, các sử gia thời Nguyễn trong lời cẩn án Việt sử thông giám cương mục, và H. Ma-xpê-rô trong bài Vương quốc Văn Lang cũng đã tỏ ra nghi ngờ về biên giới quá rộng được ghi chép trong các sách sử trước đó, mà cho rằng: “Đất nước các đời dựng ra trước thời An Dương Vương tức là biên giới nước Nam ngày nay” (1), “phía đông đến biển, phía tây giáp Vân Nam, phía nam giáp Chiêm Thành, phía bắc giáp tỉnh Quảng Tây, phía đông bắc giáp tỉnh Quảng Đông, phía tây giáp nước Lão Qua” (2). (1) Ngô Thời Sĩ: Việt sử tiêu án, dẫn trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú.(2) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch của Viện Sử học. Phải chăng các sử gia thời Trần, Lê muốn con dân nước Văn Lang là dòng dõi Bắc Triều, con cháu gần gũi của Thần Nông, xem Văn Lang vốn là Bách Việt, hay là do sự nhầm lẫn Dạ Lang ra Văn Lang mà kéo biên giới nước Văn Lang lên đến hồ Động Đình, Ba Thục. Vì rằng, theo thư tịch, nước Văn Lang sau trở thành nước Âu Lạc, rồi bị Triều Đà thôn tính vào nước Nam Việt, sau nhà Hán chia làm Giao Chỉ và Cửu Chân. Như vậy đất Gia Chỉ và Cửu Chân thời Hán chính là nước Văn Lang xưa. Hơn nữa trong lúc Hùng Vương dựng nước Văn Lang, thì miền Hoa Nam, từ hồ Động Đình trở xuống có nhiều nhóm người sinh sống, sử sách gọi họ là Bách Việt, trong đó có những nhóm người đã thành lập được quốc gia riêng như Đông Việt, Mân Việt, Điền Việt, Nam Việt…, như vậy dải đất Giang Nam rộng lớn đó làm sao có thể nằm trong nước Văn Lang được. Mặt khác, xét vị trí 15 bộ của nước Văn Lang, tuy tên gọi giữa các sách khác nhau chút ít, song hầu hết là tên các huyện thời Hán, thời Đường. Nhiều người tà từ những quận huyện thời Đường lần tìm vị trí 15 bộ, tuy sự chỉ định chưa hoàn toàn khớp nhau, song tất cả đều nhất trí hầu hết các bộ là nằm trong đất Giao Chỉ và Cửu Chân thời Hàn, thảng hoặc có bộ nằm trong đất Lưỡng Quảng chút ít. Hơn nữa cũng phải tính toán đến khả năng của nhà nước trong buổi mới được hình thành, có đủ sức quản lý một đất nước rộng lớn, núi rừng hiểm trở, cách trung tâm hàng nghìn kilômét hay không. Như vậy, qua những ghia chép trong thư tịch xưa, có thể thấy lãnh thổ chủ yếu của nước Văn Lang là đất Giao Chỉ và Cửu Chân thời Hán. Nếu thư tịch do sử gia các thời trước để lại về thời Hùng Vương không được bao nhiêu và cũng không được chính các sử gia đó tin lắm, thì mấy năm gần đây, lòng đất Phong Châu cũng như khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã cung cấp cho chúng ta hàng vạn di vật khảo cổ học là những tư liệu trực tiếp từ thời đó để lại có một giá trị đặc biệt trong việc tìm hiểu đất nước Văn Lang. Tài liệu khảo cổ cho biết, vào khoảng đầu Công nguyên cho đến trước thời Bắc thuộc, miền Bắc Việt Nam ngày nay đã có nhiều nhóm người sinh sống mà dấu tích là các nhóm di tích khảo cổ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Mỗi nhóm di tích khảo cổ này có những đặc điểm riêng, phản ảnh các giai đoạn phát triển từ thấp lên cao của những cộng đồng người ở đây. Song giữa chúng có nhiều điểm gần gũi thống nhất với nhau, tạo thành một phong cách riêng dễ dàng phân biệt với các vùng chung quanh. Phạm vi phân bố cùng niên đại của các nhóm văn hóa khảo cổ này phù hợp với những ghi chép về đất nước của Hùng Vương trong thư tịch xưa và truyền thuyết. Phải chăng cùng với sự hình thành một nền văn hóa chung, lãnh thổ Văn Lang của các Vua Hùng cũng dần được hình thành và quá trình phát triển từ giai đoạn Phùng Nguyên lên Đông Sơn là phản ánh quá trình hình thành nước Văn Lang. Vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nơi họp lưu của nhiều con sông lớn: sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà,… nằm giữa dãy núi Tam Đảo và Ba Vì là vùng phân bố dày đặc văn hóa Phùng Nguyên, có phong cách đặc biệt khác với văn hóa vùng núi, vùng ven biển và đồng bằng Thanh Hóa cùng thời kỳ. Đây là vùng còn giữ nhiều di tích lịch sử có liên quan đến thời đại các vua Hùng, mà tiêu biểu nhất là ngôi đền và mộ Hùng Vương. Ở đây, hầu như mỗi xã hội đều có đền miếu thờ các nhân vật thời Hùng Vương, và người dân còn truyền tụng nhiều câu chuyện có liên quan đến Hùng Vương. Nhân dân khắp nơi đều gọi vùng này là đất Tổ. Vậy phải chăng văn hóa Phùng Nguyên là di tồn của bộ Văn Lang, bộ lạc gốc của các vua Hùng, là phạm vi phân bố của van hóa Phùng Nguyên lại là địa bàn của bộ Văn Lang bao gồm Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nôi, và một phần Hà Bắc ngày nay. Từ đây, Hùng Vương đã dần dần xây dựng nên nước Văn Lang. Cho đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, đỉnh cao thời Hùng Vương, nước Văn Lang đã hình thành, và mở rộng ra ngoài vùng đất Tổ. Văn hóa Đông Sơn không những giúp chúng ta tìm hiểu người Việt cổ mà cùng với các nguồn tư liệu khác có thể cho chúng ta biết cương vực nước Văn Lang . Văn hóa Đông Sơn vẫn tập trung dày đặc ở trung du và một phần đồng bằng Bắc Bộ, ở đây đã phát hiện được những địa điểm vô cùng phong phú như Vinh Quang, Chiền Vậy, Nam Chính (Hà Tây), Việt Trì (Vĩnh Phú), Đình Chàng, Trung Mầu (Hà Nội) và nhiều di vật Đông Sơn nổi tiếng như trống đồng Hoàng Hạ, Miếu Môn (Hà Tây), thạp đồng Vạn Thắng (Vĩnh Phú). Song, theo các triền sông, văn hóa Đông Sơn đã mở rộng diện tích phân bố khắp các miền. Ngược sông Hồng về phía bắc, các di tích văn hóa Đông Sơnđã phát hiện được ở Yên Hưng, Yên Hợp, Đào Thịnh (Yên Bái), Phố Lu, Bản Lầu (Lào Cai). Về phía đông, cũng đã phát hiện được những địa điểm phong phú như Việt Khê, Núi Đèo, (Hải Phòng), Quỳnh Xá (Thái Bình) cùng những di vật nổi tiếng như trống đồng Ngọc Lũ, Đại Vũ (Nam Hà), Cửu Cao (Hải Hưng), qua đồng Núi Voi (Hải Phòng). Về phía nam văn hóa Đông Sơn phân bố dày đăc ở Thanh Hóa như Đông sơn, Thiệu Dương, Núi Nấp, Núi Sỏi, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ, Phà Công, còn ít dần ở Nghệ An (Yên Thành, Nghĩa Đàn), Hà Tĩnh (Xuân An, Thạch Đài), Quảng Bình (Cương Hà). Miền núi Hòa Bình cũng phát hiện được nhiều địa điểm và di vật Đông Sơn nổi tiếng như trống Sông Đà, Đồi Ro, v.v… Vùng núi Tây Bắc và Việt Bắc cho đến nay chưa phát hiện được những di chỉ cư trú hay mộ táng, mà chỉ tìm thấy một vài di vật Đông Sơn lẻ tẻ như trống đồng loại 1 ở Thuận Châu (Sơn La), rìu xé ở Phù Yên (Nghĩa Lộ), dao găm ở Thái Nguyên, Hà Giang, rìu xéo ở Tuyên Quang, Cao Bằng, khuôn đúc dao găm ở Lạng Sơn. Với những chiếc trống đồng loại 1 (theo cách phân loại của Hê-gơ), thạp đồng, thố đồng, rìu xéo các loại, rìu gót vuông, lưỡi cày cánh bướm, lưỡi cày gần bầu dục, các loại dao, lao, tấm che ngực,… cùng các loại hoa văn vòng tròn tiếp tuyến, văn răng cưa, văn hình chữ S xoắn đơn kép, văn hóa trang hình chim, các cảnh sinh hoạt bơi thuyền, giã gạo, nhà sàn, múa hát,… tạo cho toàn bộ văn hóa Đông Sơn một phong cách độc đáo phân biệt rõ ràng với văn hóa nước Điền, văn hóa Ngô – Việt, Nam Việt ở vùng Giang Nam, Chân Lạp, lão. Ở những vùng này hay xa hơn nữa tuy có phát hiện được lẻ tả một vài chiếc trống đồng loại như ở Vân Nam (trống đồng Khai Hóa, Tấn Ninh), ở Quảng Tây (trống đồng huyện Quý), ở Lào (trống U-bông), ở Tây Nguyên (trống Đắc-Giao), ở Thủ Dầu Một (trống Bình Phú), ở Mã-lai (trống Xun-gai-lang),… bên cạnh những di vật có phong cách hoàn toàn khác, cũng chỉ nói lên sức sống mãnh liệt và ảnh hưởng rộng lớn của văn hóa Đông Sơn mà thôi. Chắc hẳn đấy là những hiện vật do trao đổi mà có. Trên cơ sở những mối giao lưu qua lại đó đã ảnh hưởng đến bộ mặt văn hóa giữa các vùng ở mức độ nhất định. Qua đấy ta thấy các di chỉ và di tích văn hóa Đông Sơn chủ yếu phân bố ở vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ cùng dãy đất hẹp ven thượng lưu sông Hồng. Đây cũng là vùng có nhiều dấu tích lịch sử cũng như chuyện kể về thời Hùng Vương. Các đền miếu thờ các nhân vật thời Hùng Vương cùng những câu chuyện có liên quan đến việc dựng nước và giữ nước của các vua Hùng phong phú ở trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hóa, ít dần ở Nghệ An, Hà Tĩnh, hiếm hoi ở vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc và hoàn toàn xa lạ ở vùng phía nam Quảng Bình và Hoa Nam. Những tên đất, tên núi, tên sông được nêu lên trong các chuyện kể về thời Hùng Vương như Hy Cương, Núi Tản, Sóc Sơn, Trâu Sơn, làng Phù Đổng, Chữ Xá, đầm Nhất Dạ, đất Nga Sơn mà ngày nay còn đó đều nằm trong khu vực phân bố chủ yếu của văn hóa Đông Sơn. Đây cũng là khu vực đất đai phì nhiêu, thuận lợi cho cư dân định cư nông nghiệp, cũng là địa bàn cư trú chủ yếu của người Việt hiện nay. Phải chăng đây là địa bàn cư trú chủ yếu của người Việt cổ và là miền đất trung tâm, chủ yếu của nước Văn Lang. Đối với các vùng núi quanh khu trung tâm trên, từng nơi từng lúc mức độ khống chế của các vua Hùng cũng khác nhau tùy theo sức mạnh của trung tâm Văn Lang cũng như của các trung tâm khác ngoài đất Văn Lang. Vùng núi Hòa Bình – địa bàn cư trú của người Mường hiện nay – đã phát hiện được nhiếu đồ đồng Đông Sơn. Sự gần gũi giữa người Kinh và người Mường về mặt nhân chủng học, dân tộc học, và ngôn ngữ học hiện nay gợi cho chúng ta sự đồng nhất giữa người Mường và người Việt cổ trước đây và sự thống nhất về cương vực cư trú ở thời Hùng Vương là có thể tin được. Vùng núi Hòa Bình cùng một phần đất Sơn La, Nghĩa Lộ, vùng núi Thanh Hóa – vùng đất của người Mường chắc hẳn nằm trong lãnh thổ Văn Lang. Quá về phía tây và phía bắc là địa bàn sinh sống của người Thái, Mèo, Xá, Tày, Nùng, Dao, hiện nay chúng ta cũng đã phát hiện được một số di vật điển hình của văn hóa Đông Sơn. Hơn nữa về nhiều mặt như nhân chủng, phong tục của các dân tộc bản địa ở đấy cũng có nét gần gũi với người Việt cổ như tục nhuộm ăn trầu, ăn đất, uống bằng mũi, dùng trống đồng. Những điều đó chứng tỏ rằng ngay từ thời các Vua Hùng vùng núi rộng lớn này cũng đã có quan hệ chặt chẽ với vùng trung tâm Văn Lang. Tài liệu dân tộc học cho biết vùng núi Tây Bắc cũng như Việt Bắc là vùng tranh chấp của nhiều trung tâm chính trị thời cổ đại, nhiều cuộc chiến tranh từng diễn ra ở đấy. Song ảnh hưởng to lớn của trung tâm Văn Lang đối với vùng này là điều khẳng định, và có thể xem vùng núi Tây Bắc và Việt Bắc với vùng này là điều khẳng định, và có thể xem vùng núi Tây Bắc và Việt Bắc nằm trong phạm vi khống chế của trung tâm Văn Lang và nước Văn Lang mở rộng về phía tây có thể đi lên đến biên giới Việt – Lào, Việt – Trung ngày nay. Miền nam Quảng Đông, Quảng Tây tuy núi non hiểm trở, song cách trung tâm Văn Lang không xa lại là vùng tụ cư của người Lạc Việt nên chắc hẳn có mối quan hệ với trung tâm Văn Lang. Không phải ngẫu nhiên mà cư dân Hợp Phố (Quảng Đông) đã nổi dậy theo Hai Bà Trưng chống bọn thống trị nhà Hán. Và cho mãi đến thời Bắc thuộc, vùng Hợp Phố có lúc vẫn được sáp nhập vào đất Giao Châu. Trước đây khi chỉ định vị trí 15 bộ của nước Văn Lang, có ý kiến đã đặt bộ Trang Tuyển, bộ Ninh Hải trên đất Quảng Tây, Quảng Đông (1). Do cùng một tộc người sống cạnh nhau phải chăng một phần đất Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay xưa kia đã nằm trong phạm vi khống chế của nước Văn Lang. (1) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Hà Nội, 1996. Về phía dử cũ của ta đều cho là nước Văn Lang giáp nước Hồ Tôn (Lịch triều hiến chương loại chí cho lá giáp Chiêm Thành). Chiêm Thành là nước Hoàng Vương thời Đường, nước Lâm Ấp thời Tấn. Nói nước Văn Lang giáp nước Chiêm Thành nghĩa là giáp vùng đất mà sau đó lập nên nước Chiêm Thành, phải chăng là nước Hồ Tôn như nhiều sử sách đã ghi. Trong quá trình lịch sử, biên giới của Chiêm Thành ngày càng lùi dần vào nam, cho dến thời Lý, Hoành Sơn còn là biên giới phía bắc của nước Chiêm Thành. Hoành Sơn có thể xem như là đường biên giới của văn hóa khảo cổ của sự phân bố di tích lịch sử cùng truyền thuyết thời Hùng Vương. Từ Quảng Bình trở vào hầu như vắng mặt các di tích văn hóa Đông Sơn và các di tích thời Hùng Vương. Điều này cũng phù hợp với những ghi chép trong sử cũ, và Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày nay vùng giáp ranh hai nước, mà dãy Hoàng Sơn chắn ngang giữa Trường Sơn và biển đông là biên giới phía nam của nước Văn Lang. Như vậy, hội tất cả các nguồn tư liệu lại, chúng ta thấy vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa là trung tâm của nước Văn Lang. Nước Văn Lang đã khống chế một vùng rộng lớn từ Hoành Sơn cho đến miền nam Quảng Đông, Quảng Tây từ biển Đông cho đến biên giới Việt – Lào ngày nay. Như thế, vấn đề đặt ra là tại sao sử cũ lại ghi chép cương giới nước Văn Lang lên đến hồ Động Đình và Ba Thục. Chúng tôi nghĩ rằng các nhà biên khảo xưa muốn tìm nguồn gốc của tổ tiên ta ở phương Bắc, là con cháu vua Thần Nông nên cho rằng Hùng Vương là con cháu của Kinh Dương Vương, nhân vật được xem là thủy tổ của Bách Việt, mà suy đoán đất nước của Hùng Vương bao gồm cả châu Kinh, châu Dương ở lưu vực sông Dương Tử. Hơn nữa, miền Hoa Nam là nơi sinh tụ của nhiều nhóm người, gọi chung là Bách Việt, dễ khiến cho các nhà nho xưa xem truyền thuyết về 100 con trai của Lạc Long Quân là phản ánh tình hình Bách Việt đó, mà quan niệm Văn Lang vốn là Bách Việt, và biên giới Văn Lang đến tận hồ Động Đình. Mặt khác, có thể vì cho rằng An Dương Vương họ Thục, là con cháu của Thục Dương Vương mà Thục Vương là vua nước láng giềng với Văn Lang dễ cầu thân với Hùng Vương mà các nhà chép sử thời xưa đã xô bồ miền đất của Thục Vương với đất Ba Thục mà cho nước Văn Lang giáp đất Ba Thục. Qua các tài liệu trên ta thấy đường biên giới từ Ba Thục đến hồ Động Đình được ghi trong sử cũ không phải là cương vực phía bắc của nước Văn Lang, phải chăng đó là giới hạn giữa người Hán ở phía bắc và các tộc người ở phía nam mà sử Trung Quốc thường gọi là Man Di hay Bách Việt. * * * Từ những điều đã trình bày trên, đối chiếu với những điều ghi chép trong thư tịch xưa về cương vực nước Văn Lang chúng ta thấy: - Từ khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, ở vùng hợp lưu của các con sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà đã có một nhóm người sinh sống mà dấu vết để lại là văn hóa Phùng Nguyên. Phải chăng đây là văn hóa vật chất của bộ Văn Lang – bộ lạc gốc của Hùng Vương. Phạm vi phân bố của văn hóa Phùng Nguyên là địa bàn của bộ Văn Lang, bao gồm vùng Vĩnh Phú, một phần Hà Tây, Hà Nội, một phần Hà Bắc. - Vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa là vùng phân bố chủ yếu của di chỉ và di tích văn hóa Đông Sơn phải chăng là trung tâm của nước Văn Lang . Ở thời cực thịnh, từ đây các vua Hùng khống chế một vùng rộng lớn từ Hoành Sơn cho đến một phần đất phía nam Quảng Đông, Quảng Tây, từ biển Đông đến vùng biên giới Việt – Trung, Việt – Lào (có thể co dãn chút ít). Đó là lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng. - Còn cương vực rộng lớn bao gồm từ hồ Động Đình, Ba THục đến nước Hồ Tôn (hay Chiêm Thành) được ghi chép trong thư tịch và truyền thuyết, phải chăng là khu vực tụ cư của người Bách Việt nói chung dễ phân biệt với địa bàn sinh tụ của tộc Hán ở phía bắc. Còn tiếp Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nguồn: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974
  16. Thiên Sứ tui lọ mọ trên cái Bờ Lốc cốc của chính mình. Phát hiện ra bài này. Thì ra cái ông bạn già Lê Văn Cường lâu lâu lại gửi bài cho tôi đã được hẳn đăng bài trên nhật trình cơ đấy. Mà lại là nhật trình nhớn ở Việt Nam nữa chứ! Hẳn "Vê en e ếch phờ rét" mới kinh. Hì! Oai như cóc. Vậy mà trí nhớ của tôi kém đến mức không liên hệ được giữa ông Cường đăng báo với ông Cường viết email cho mình. Hôm nay đưa lên để giới thiệu. Chắc hai ông là một thui. * Tốc độ giới hạn của vũ trụ? Bài viết dưới đây trên VnExpress cho thấy quan niệm Tốc độ giới hạn của vũ trụ bằng tốc độ ánh sáng trong thuyết Tương Đối của Einstein là một quan niệm không chặt chẽ. Thứ sáu, 17/11/2006, 09:55 GMT+7 Thêm một người Việt phủ nhận Einstein và Newton Không chỉ Bùi Minh Trí mà gần đây, một người "ngoại đạo" khác cũng có nghiên cứu phủ nhận các công trình vật lý của Einstein và Newton. Đó là ông Lê Văn Cường, 55 tuổi, ở Thụy Khuê, Hà Nội - một kỹ sư xây dựng đã nghỉ hưu. Ông Lê Văn Cường bắt tay vào nghiên cứu công trình Chữa công thức bị lỗi của Einstein từ cuối năm 2004. Ông nói về những tìm tòi của mình: "Tôi kiểm tra đi kiểm tra lại, tự phủ định chính mình. Thật không ngờ, càng phủ định thì lỗi trong công thức của Einstein lại càng hiện rõ hơn. Cụ thể tính tương đối và phụ thuộc của ánh sáng vào không gian, thời gian khi hệ bị biến đổi có thể được chứng minh ngay trong sách giáo khoa về vật lý Physics principles & problems xuất bản tại Merill Publishing company - Colombus, Ohio 43216". Theo ông Cường, Einstein đã chỉ ra sự thay đổi không gian, thời gian khi hệ chuyển động với tốc độ cực lớn, nhưng Einstein bị nhầm bởi nhận thức vận tốc ánh sáng là tuyệt đối không đổi. "Nếu chúng ta không chấp nhận lỗi này trong công thức năng lượng hệ chuyển động của Einstein thì sẽ không phát hiện mới và hiểu gì về vũ trụ trong tương lai. Tôi nghĩ đã đến lúc phải lật sang trang mới cho khoa học vật lý; và bài 'Ba đại lượng vật lý không gian, thời gian và vận tốc ánh sáng' là có ích trong việc này" - ông Cường nói. Không ai tin ông Cường khi ông đưa công trình của mình đến nhờ các nhà khoa học nhận xét. Do đó, nhà nghiên cứu nghiệp dư này đã đã bỏ thời gian tự học tiếng Anh để tự dịch công trình của mình gửi cho các tạp chí vật lý thế giới. Cuối năm 2005, ông đã tự công bố nghiên cứu của mình trên một diễn đàn khoa học nước ngoài có tên là The General. Giáo sư Nguyễn Đại Hưng, Phó viện trưởng Viện Vật lý và điện tử cho biết, không có gì lạ khi xuất hiện những ý kiến về thuyết tương đối của Einstein và thuyết hấp dẫn của Newton. Hằng năm, viện nhận được hàng chục công trình nghiên cứu xung quanh chủ đề này. "Thay vì nhận xét nọ kia, chúng tôi đã tổ chức hội thảo cho mọi người cùng nhau trao đổi" - ông Hưng nói. Theo giáo sư Hưng, thông thường một công trình nghiên cứu có khả năng phủ định cái trước đó phải đáp ứng đủ 3 yếu tố. Thứ nhất, nghiên cứu đó phải bao trùm toàn bộ hiện tượng đã có. Thứ hai, phải có kiểm chứng bằng thực nghiệm. Cuối cùng, phải có giá trị ứng dụng trong thực tiễn. Vì thế, tính đúng đắn của một học thuyết khoa học phải do số đông cộng đồng khoa học quốc tế thừa nhận một cách dân chủ và tự nguyện. Tiến sĩ vật lý Nguyễn Văn Khải thì cho rằng, mọi hiện tượng chúng ta thấy ngày nay trên trái đất đều tuân theo các định luật của Newton. Với một số vật thể rất nhỏ, vô cùng nhỏ mà chuyển động với vận tốc vô cùng lớn thì khi đó, chúng ta phải dùng thuyết tương đối của Einstein để giải thích. "Cho nên, nếu như có ai đó bảo rằng các định luật của Newton hoặc Einstein không phù hợp với cuộc sống mà phải dùng các thuyết khác, định luật khác thì tôi cho rằng họ phải học lại vật lý phổ thông và kiến thức vật ký đại cương" - tiến sĩ Khải bức xúc. Theo ông Khải, nhiều nhà khoa học không phản đối công trình của ông Trí và ông Cường, không phải vì họ cho là đúng, mà vì họ cho rằng phản đối cũng chẳng làm được gì, không phản đối cũng chẳng sao. (Theo Khoa Học & Đời Sống) . Kính thưa quí vị quan tâm. Thiên Sứ tôi không phải là nhà nghiên cứu chuyên sâu về vật lý lý thuyết. Hiện nay không đủ điều kiện để hiểu sâu thuyết Tương đối của Einstein. Nhưng riêng về tốc độ vũ trụ có giới hạn bằng tốc độ ánh sáng thì tôi cho rằng: Nếu thuyết tương đối phản ánh một thực tại thì quan niệm tốc độ giới hạn của vũ trụ bằng tốc độ ánh sáng là một sai lầm của học thuyết này. Điều này, tôi không thể chứng minh bằng các công thức toán học, vì không phải là nhà Toán học, nhưng tôi xin phép được chứng minh trên cơ sở một lập luận hợp lý. Bây giờ chúng ta đặt giả thuyết rằng: Giới hạn của tốc độ vũ trụ bằng tốc độ ánh sáng theo quan niệm của thuyết Tương đối là đúng. Trên cơ sở giả thuyết này, chúng ta tiếp tục giả thuyết hệ quả của nó là: Nhận thức của con người bằng tốc độ giới hạn của vũ trụ theo giả thuyết trên. Tức là bằng tốc độ ánh sáng. Như vậy, theo chính lý thuyết vật lý cổ điển thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận thức được bất cứ một vật thể nào có tốc độ bằng tốc độ giới hạn. Bởi vì chúng luôn luôn có khoảng cách bằng khoảng cách không thời gian giữa nhận thức của chúng ta - bằng mọi phương tiện tự thân , hay nhân tạo - với không gian mà vật đó tạo ra trong thời gian vận động. Và như vậy, chúng ta sẽ không thể nhận thức được quá khứ. Đương nhiên chúng ta cũng không thể suy đoán được tương lai. Hay nói cách khác là không có khả năng tiên tri (Khả năng tiên tri là một tiêu chí khoa học). Bởi vậy, chỉ có thể coi thuyết Tương Đối của Einstein là một thành tựu vĩ đại trong chặng đường phát triển của tri thức nhân loại, chứ không thể coi đó là kết luận cuối cùng, nếu thực sự là một nhà khoa học có trách nhiệm quan tâm đến việc phát triển tri thức khoa học. Nhưng có thể nói rằng: Chính sai lầm này của Einstein trong lý thuyết của ông mà sau này sẽ có người chứng minh được một cách hoàn hảo, dẫn đến một phát kiến vĩ đại khác và đưa tri thức của con người đến với chân lý cuối cùng của vũ trụ. Đây là lúc thuyết Âm Dương Ngũ hành được tôn vinh và được xác nhận là lý thuyết thống nhất. Tuy nhiên, tôi không tán thành cách đặt vấn đề của giáo sư Nguyễn Đại Hưng khi ông đưa ra những tiêu chí như sau cho một lý thuyết khoa học: Tiêu chí thứ nhất: Nghiên cứu đó phải bao trùm toàn bộ hiện tượng đã có. Điều này thì Ok. Vì nó phù hợp với tiêu chí khoa học: "Phải giải thích một cách hợp lý hầu hết những hiện tượng liên quan đến nó" và "Một lý thuyết được coi là khoa học sẽ không phủ định những thành tựu khoa học đã được công nhân trước đó". Tiêu chí thứ hai: Phải có kiểm chứng bằng thực nghiệm.Híc! Cái này thì ngài giáo sư viện trưởng gây khó cho chúng em rùi. Một lý thuyết khoa học phải được quán xét bằng tiêu chí khoa học. Và trong tiêu chí để thẩm định một lý thuyết được coi là đúng và khoa học, không thấy buộc phải kiểm chứng bằng thực nghiệm. Nếu cần kiểm chứng bằng thực nghiệm mới được công nhận thì tôi tin rằng "Chưa một thực nghiệm nào xác định trực tiếp lý thuyết của Einstein cả: Tốc độ ánh sáng là tốc độ giới hạn của vũ trụ. Và điều quan trong là nhưng nhà gọi là ngâm cứu nửa mùa , nghèo rớt so với ngay cả người mẫu, lấy đâu ra chiền để thực nghiệm chư? Hay đàng phải ngâm cứu xong rồi...Hãy đợi đấy! Tiêu chí thư ba: Phải có giá trị ứng dụng trong thực tiễn.Thế này thì hỏng! Thí dụ như người ta bỏ cả trăm tỷ EUS để đi tìm hạt của Chúa thì ứng dụng vào cái gì? Hoặc như các nhà khoa học hàng đầu đi tìm trạng thái khởi nguyên vũ trụ (Giây 0 trước Bicbang) để ứng dụng vào cái gì? Hoặc người Mỹ nhẩy tưng tưng trên mặt trăng để ứng dụng vào cái gì? Lấy đá trên mặt trăng về trấn phong thủy tòa Bạch Ốc à? Híc Đã có một tiêu chí thẩm định cho một lý thuyết khoa học hoặc phương pháp khoa học được coi là đúng. Tại sao không thấy giáo sư Hưng nhắc tại mà ngài lại thêm vào mấy cái tiêu chí này? Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
  17. Lần sau Kattyinlove viết bài nên có dâu. Như vậy là phạm nội quy diễn đàn. Về nguyên tắc thì các anh chị em tư vấn sẽ không trả lời những bài không dấu. Nhưng vì anh/ chị mới tham gia có thể chưa chú ý nên tôi chỉ nhắc nhở thôi. Con đầu Kỷ Sửu cũng được . Nhưng nên có đứa Nhâm Thìn để tốt về lâu dài.
  18. Vopvinhivi bấm vaìo nút tùy chon ở phía trên bên phải màn hình. Trên đó có mục - tôi không nhớ lắm - để cọn cách hiển thị màn hình như thê 1nào. Bấm vào đấy nó trở lại bình thường. Hôm nọ tôi cũng bị như vậy, thì ra bị vô tình click vào nút này mà nó hiển thị kiểu trên.
  19. Vốn cho bất động sản tăng dè dặt 11:17' 16/11/2008 (GMT+7) - Trong 3 quý đầu năm, thị trường bất động sản (BĐS) đóng băng, nay có cơ hội hồi phục khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hạ lãi suất cơ bản (LSCB) và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên dù đã mở cửa tín dụng nhưng đa số ngân hàng vẫn thận trọng khi giải ngân BĐS. Nợ xấu do thị trường trầm lắng, dự án không được giải ngân Theo đánh giá của một số ngân hàng thì cho vay BĐS là lĩnh vực tín dụng bị ảnh hưởng nhiều nhất trong năm 2008 do giá cả vật liệu tăng, lãi suất (LS) cho vay cao, vốn vay bị hạn chế, thậm chí ngừng hẳn. Trong khi đó thị trường “đóng băng”, giao dịch ít, giá cả đến nay vẫn ở mức cao không phù hợp với khả năng tài chính của nhiều khách hàng. Lĩnh vực này vẫn còn những khó khăn, cần được tháo gỡ kịp thời. Theo Sở Giao dịch ngân hàng Vietcombank thì nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn của các khách hàng BĐS trong thời gian qua chủ yếu là do thị trường trầm lắng. Trên thực tế các khoản vay thế chấp BĐS thường có giá trị lớn, các nguồn thu nhập của khách như lương, cho thuê nhà đất, các thu nhập khác chỉ đủ để chứng minh nguồn trả lãi và một phần nợ gốc, nguồn trả nợ gốc thường được chứng minh từ nguồn chuyển nhượng nhà đất khác. Do đó nguồn trả nợ ngân hàng bị ảnh hưởng rất lớn từ diễn biến của thị trường. Khi thị trường nhà, đất trầm lắng khó khăn cho khách hàng đồng thời ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ gốc của NH, bên cạnh đó, tình hình kinh tế khó khăn cũng ảnh hưởng đến thu nhập của người vay và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Việc cung ứng vốn để thi công, xây lắp nhiều dự án đang gặp khó khăn. Một số dự án đang thực hiện nhưng không được giải ngân dẫn đến khó khăn cho các nhà thầu trong việc đảm bảo tiến độ thi công cũng như thu hồi vốn đầu tư và khả năng trả nợ ngân hàng. Các ngân hàng phải gia hạn nợ cho nhiều khách hàng (Ví dụ một số công ty cổ phần có hợp đồng thực hiện cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam chưa được thanh toán vì các ngân hàng tạm dừng việc giải ngân cho EVN để đàm phán lãi suất). Thị trường bất động sản trầm lắng, nhiều dự án không được giải ngân. Ảnh: KM Nhiều khách hàng nhà thầu hoạt động trong lĩnh vực XDCB đã có phiếu giá nghiệm thu thanh toán nhưng chủ đầu tư chưa thanh toán, dẫn đến các nhà thầu bị ảnh hưởng trong việc thu hồi vốn để trả nợ ngân hàng, trong khi đó các khách hàng này thường được duyệt hạn mức cho vay, vì vậy các khoản vay mới có thể không được giải ngân do đã sử dụng hết hạn mức vay. Bên cạnh đó các NHTM cũng đánh giá là LS tiền vay trong thời gian qua quá cao so thu nhập và dự tính của khách hàng, khả năng tiếp cận vốn tín dụng tiêu dùng hạn chế cũng ảnh hưởng khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân, làm giảm tổng dư nợ của ngân hàng, dẫn đến tình trạng nợ xấu ngày càng tăng cao. Khách hàng đề nghị thu xếp trả nợ dần Theo đánh giá của nhiều Ngân hàng thương mại (NHTM) ở Hà Nội thì nợ xấu trong lĩnh vực BĐS tuy có nguy cơ tăng nhưng không đến độ nguy hiểm vì những nguyên nhân: Tài sản thế chấp của các ngân hàng phần lớn là nhà đất trong nội thành, nằm ở vị trí 1 hoặc 2 nên tương đối dễ chuyển nhượng; ngân hàng chủ yếu định giá theo khung giá của UBND TP Hà Nội và cho vay tối đa bằng giá trị định giá, hoặc nhân hệ số k của từng ngân hàng (tối đa bằng 3 lần khung giá) và cho vay 50%-70%/giá trị định giá nên độ rủi ro không cao; Khi cho vay vốn, các ngân hàng đã thực hiện đầy đủ thủ tục về công chứng hợp đồng thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm; Hầu hết dư nợ cho vay đối với lĩnh vực BĐS là bằng VND, do đó tránh được rủi ro tỷ giá. Ngoài ra, ngân hàng nào cũng áp dụng LS thả nổi (điều chỉnh 6 tháng 1 lần) đối với các khoản cho vay trung, dài hạn nên đã hạn chế được rủi ro về biến động lãi suất… Một số khách hàng đã thực hiện đầu tư BĐS hiện tài sản có rất nhiều nhưng tính thanh khoản kém nên bị đọng vốn nhiều và phải chịu lãi vay cao vì vậy gặp nhiều khó khăn. Khối DN trong ngành XD do giá cả vật liệu tăng cao, việc huy động vốn khó khăn, nguồn thanh toán bị chậm (một số nguồn vốn ngừng giải ngân). Tuy nhiên, các ngân hàng đều cho biết hầu hết khách hàng có thiện chí trong việc trả nợ. Khó khăn hiện tại là nhất thời. Đa số khách hàng vẫn chấp nhận trả nợ lãi và lãi quá hạn, đồng thời khách hàng cũng mong muốn ngân hàng cùng hợp tác trong việc tháo gỡ khó khăn bằng cách để khách hàng thu xếp trả nợ dần. Hầu hết ngân hàng tại Hà Nội đều khẳng định là có khả năng thu hồi nợ các khoản nợ xấu trong lĩnh vực BĐS, nhưng cần có thời gian. Khó khăn lớn nhất ở đây là một số khoản cho vay từ năm 2005 khi thị trường BĐS sôi động nên một số ngân hàng đã nhận thế chấp đối với tài sản ở vị trí 3,4 và một số vùng ngoại thành. Khi giá nhà đất giảm thấp, một số ít khách hàng nợ xấu và lại có tài sản đảm bảo nằm ở vị trí không thuận lợi dẫn đến ngân hàng có khó khăn trong việc thu hồi nợ xấu, nhưng số nợ này chiếm tỷ trọng rất ít. Bên cạnh đó ngân hàng đang lo trong tương lai một số dự án khi hoàn thành có thể sẽ không bán hoặc cho thuê như dự diến ban đầu, làm ảnh hưởng đến việc trả nợ đúng hạn của khách hàng. Cho vay BĐS tăng dè dặt Các tổ chức tín dụng vẫn cho rằng trong thời điểm hiện tại, nền kinh tế vẫn còn khó khăn, thị trường BĐS đang trầm lắng, dự án trong lĩnh vực BĐS hiệu quả không cao. Bên cạnh đó, thời điểm này việc bán tài sản bảo đảm để thu hồi nợ không thuận lợi. Rủi ro các khoản vay này đang có nguy cơ gia tăng. Hoạt động cho vay đối với lĩnh vực BĐS đã và đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro vì khung pháp lý đối với lĩnh vực kinh doanh BĐS chưa hoàn thiện. Bên cạnh đó là tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới với hàng loạt các ngân hàng phá sản đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến nhiều dự án trong nước bị ngưng trệ, chậm tiến độ. Vì vậy, nợ xấu đối với các khoản vay BĐS sẽ có xu hướng tăng, khả năng thu hồi nợ đến hạn của các tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn. Thời gian tới các ngân hàng sẽ tiếp tục tái cho vay lĩnh vực BĐS. Nhưng đại diện một số Hiệp hội DN đang kiến nghị Chính phủ và ngân hàng nên ưu tiên cho lĩnh vực BĐS vì lĩnh vực này thu hút 50% tổng chi phí xã hội. Việc thực hiện các dự án BĐS kéo theo các lĩnh vực SX-KD khác (nguyên vật liệu XD, nội thất, giao thông vận tải...). Thời điểm này nên tăng dư nợ cho Chương trình phát triển nhà ở của Nhà nước. Các nhà thầu lớn sẽ kéo theo các nhà thầu nhỏ và DN, hộ gia đình gia công, một lượng lớn nhân công sẽ được huy động vào đây sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế... Từ những diễn biến hiện nay có thể dự đoán trong thời gian tới các ngân hàng sẽ tiếp tục tái cho vay lĩnh vực BĐS, nhưng trước hết tập trung chủ yếu ở hai mảng: tài trợ cho vay mua nhà để ở và cho vay dự án đầu tư XD nhà ở có hiệu quả. Nhiều DN BĐS đang nhắm đến những cá nhân, hộ gia đình thực sự mua nhà để ở, đất xây dựng nhà ở. Tuy nhiên số người có đủ 100% vốn tự có để trả tiền mua là không nhiều, muốn tăng lượng cầu ở đối tượng này vẫn cần có việc tăng tín dụng tiêu dùng của ngân hàng. Bản thân ngân hàng cũng đang nhắm đến đối tượng này vì khả năng thanh toán của khách hàng cao và có thể kiểm soát được. Vừa qua NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các ngành nghề chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính cũng là một thuận lợi để các ngân hàng giãn các khoản nợ vay BĐS đến hạn và tính toán đến việc cho vay lại lĩnh vực BĐS. Mặc dù vậy thì tín dụng BĐS sẽ tăng khá dè dặt trong những tháng còn lại của năm 2008 cho đến cuối năm 2009, đặc biệt là vốn cho vay trung và dài hạn cho dù DN cũng như cá nhân có nhu cầu rất lớn về nguồn vốn ổn định, trung và dài hạn để tiến hành đầu tư, mở rộng hoạt động kinh doanh hay mua sắm nhà ở. Tuy nhiên thị trường vẫn đang và sẽ thiếu nghiêm trọng nguồn vốn có tính ổn định như vậy để đáp ứng nhu cầu. Trịnh Ngọc Lan Nhời bàn của Sư Thiến:Trước khi bàn phải xủi một wẻ rồi mới bàn. Giờ Dần. Ngày 20 tháng 10. Mậu Tý. Quẻ Sinh Đại An. Đúng là chuyện Thổ Mộc - Nhà đất. Rất ứng với việc nhật trình nói về vấn đề vốn bắt đầu ấm lên và tất nhiện thị trường nhà đất cũng ấm lên. Theo dự báo từ đầu năm. Nhưng với quẻ này thì phải đầu xuân mới tăng thật sự. Nhưng cái zdấn đề kèm theo là quẻ Thương Lưu Niên. Lạy Chúa! Mặc dù Sư Thiến tui nhiều lần nói rằng: Thị trường nhà đất cũng như nông nghiệp theo lý học Đông phương là thuộc Trung Cung - hành Thổ sẽ tác động và quyết định ko nhỏ tới nền kinh tế nói chung trên thế giới. Nhưng đấy chỉ là nguyên lý chúng , chứ không phải biện pháp cụ tỷ. Biện pháp cụ tỷ sẽ có tác dụng tốt hay xấu. Thí dụ: Sư Thiên tui đem tiền đi cất nhà cao tầng cho thuê làm văn phòng ở Sahara, hoặc nhà nghỉ cao cấp ở rừng Chàm U Minh Hạ chẳng hạn thì tất đây sẽ là luật tương thừa của Lý học Đông phương. Lúc ấy đừng bào Lý học Đông phương dở, mà tại chưa hiểu hết nhẽ.
  20. Các cường quốc đối mặt với nguy cơ đổ vỡ mới 17:21' 16/11/2008 (GMT+7) Trong lúc thị trường tài chính vẫn đang ngổn ngang thì lại thêm một đòn nặng nề giáng vào các nền kinh tế hàng đầu thế giới, khi các ngành công nghiệp chủ chốt của các cường quốc công nghiệp đã bắt đầu ngấm đòn. Hiện có nhiều dự báo về các ngành công nghiệp chủ chốt của các cường quốc và đáng lưu ý là các dự báo không loại trừ khả năng sụp đổ của công nghiệp ôtô và một khi ngành công nghiệp ôtô sụp đổ sẽ làm đổ vỡ nền kinh tế. Khủng hoảng nghiêm trọng từ trái tim công nghiệp ôtô... General Motors - cánh chim đầu đàn của ngành công nghiệp ôtô Mỹ - đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất trong lịch sử 100 năm của mình, thậm chí nguy cơ phá sản là rất lớn. Trụ sở của GM ở Detroit, Mỹ. Ảnh Reuters. Trong quý 3 vừa qua, GM đã thua lỗ 2,5 tỉ USD và lượng tiền mặt dự trữ của ông lớn này đã giảm đáng kể từ trên 21 tỉ xuống còn 15 tỉ USD. Hiện tại, GM chỉ còn một lượng tiền mặt đủ dùng cho đến thời điểm giữa năm 2009. Nếu không được hỗ trợ về mặt tài chính thì việc GM có tên trong danh sách những công ty bị phá sản sẽ không có gì lạ. Nhà sản xuất ôtô lớn nhất nước Mỹ General Motors phá sản là một thảm hoạ đối với toàn bộ nền kinh tế Mỹ. Mặc dù chính phủ Mỹ đã thông qua khoản hỗ trợ 25 tỉ USD cho ngành công nghiệp ôtô nước này nhưng đến thời điểm hiện tại tiền vẫn chưa chảy vào túi các nhà sản xuất ôtô. Trung tâm nghiên cứu ô tô tại Ann Arbor, bang Michigan (Mỹ), vừa công bố một báo cáo cảnh báo rằng nếu các tập đoàn sản xuất ô tô ở Detroit (Mỹ) thu hẹp hơn nữa sản xuất hoặc bị sụp đổ, đồng nghĩa với gần 3 triệu việc làm bị mất đi, thì nền kinh tế Mỹ sẽ bị giáng một đòn nặng nề. Nếu cả 3 tập đoàn ô tô, gồm General Motor, Ford Motor và Chrysler LLC ở Detroit ngừng hoạt động thì Mỹ sẽ mất 2,95 triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp ngay trong năm đầu tiên. Chính phủ liên bang và các chính quyền bang sẽ mất ít nhất 156,4 triệu USD thuế trong 3 năm đầu. Còn nếu các tập đoàn này cắt giảm 50% sản lượng và việc làm để thích ứng với tình hình khó khăn hiện nay thì 2,46 triệu người sẽ bị mất việc ngay lập tức và nguồn thu thuế bị thiệt hại 108 tỷ USD trong vòng 3 năm. Những khả năng này hoàn toàn có thể xảy ra. Nghiên cứu trên cũng cho rằng, chính phủ của Tổng thống mới đắc cử Barack Obama cần hành động kiên quyết để tăng cường trợ giúp tài chính cho ngành công nghiệp ô tô trong nước. Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Chrysler Group’s Tom LaSorda (trái), Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc General Motors Rick Wagoner (giữa) và Tổng giám đốc Ford Alan Mulally (phải). Ảnh AP. ... sang tận bên kia bờ đại dương Nhìn sang đối tác thân quen nhất của Mỹ bên kia bờ đại dương, ở Nhật, ngành sản xuất ôtô gặp khó khăn và cũng đang tác động tới cả nền kinh tế... Lợi nhuận của 6 trong số 8 hãng sản xuất ô tô lớn của Nhật Bản đã sụt giảm trong 6 tháng đầu tài khóa 2008. Dự kiến, trong 6 tháng còn lại, tình hình còn khó khăn hơn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu và đồng yên cao giá. Ngoại trừ Fujitsu, 7 công ty còn lại đều đã điều chỉnh chỉ tiêu kinh doanh. Việc ngành công nghiệp ô tô, đầu tàu của nền kinh tế Nhật Bản, gặp khó khăn đã tác động mạnh tới cả nền kinh tế này. Hàng loạt các công ty sản xuất vật liệu và linh kiện cho ngành công nghiệp ô tô của Nhật Bản cũng bị vướng vào vòng khó khăn, có thể dẫn tới việc cắt giảm lao động trên diện rộng. Giám đốc một công ty sản xuất phanh ô tô tại tỉnh Aichi cho biết Toyota gặp khó khăn sẽ kéo theo hàng loạt công ty khốn đốn. Nỗ lực giảm giá thành cũng chỉ có hạn, nếu với giá thành hiện nay mà thị trường không phục hồi thì công ty này có thể phải đóng cửa. Khủng hoảng tài chính khiến thị trường ô tô Bắc Mỹ gần như rơi vào tình trạng đóng băng. Từ giữa năm 2008, xuất khẩu của Toyota vào thị trường Mỹ giảm. Công nghiệp ôtô Nhật cũng gặp khó. Ảnh Serious Wheels. Hệ luỵ của nó là số đơn đặt hàng của Toyota đối với các công ty cung ứng vật liệu và linh kiện giảm từ 20-30%. Số đơn đặt hàng giảm quá mạnh và nhanh khiến các công ty con không kịp điều chỉnh nhân sự, dẫn tới thua lỗ.Tác động của ngành công nghiệp ô tô tới ngành sản xuất thép và kính là dễ nhận thấy nhất. 4 công ty cán thép lớn nhất Nhật Bản đã phải tuyên bố giảm sản lượng thép thô. Quy mô giảm sản lượng thép lần này có thể lên tới 1,8 triệu tấn. Quá trình cơ cấu nhân sự, cắt giảm nhân viên bắt đầu được tiến hành mạnh hơn, đặc biệt là đối với những nhân viên không chính thức. Từ cuối tháng 6/08, Toyota đã ngừng ký mới hợp đồng với những lao động có thời hạn. Dự kiến đến tháng 3/09, số lao động hợp đồng có thời hạn của Toyota sẽ chỉ còn 3.000 người, giảm 60% so với 8.800 người hồi tháng 3/08. Tình trạng cắt giảm lao động cũng đã diễn ra tại Nissan, trong khi Matsuda đang tính toán kế hoạch cắt giảm nhân lực. Công ty Denso, nhà cung cấp linh kiện lớn nhất cho ngành công nghịêp ô tô, cũng đã cắt giảm 10% lao động trong thời gian từ tháng 4-9/08. Như vậy, ngoài mối lo về việc thị trường tài chính vẫn đang ngổn ngang thì việc các ngành công nghiệp chủ chốt của các cường quốc công nghiệp đã bắt đầu ngấm đòn lại đang là một nguy cơ đáng sợ nữa, có thể giáng thêm một đòn nặng nề vào các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Nhật Vy (Theo Times, NewsWeeks, BusinessWeeks)
  21. Thì ra vào ngay năm 1974 , nhưng tư duy giẻ rách đã bày đặt phân tích, phân teo lịch sử thời Hùng. Họ căn cứ trên những chỗ họ đào được những di tích khảo cổ học . Híc. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây là: Họ được đào ở đâu thì họ bảo đó là lãnh thổ thời Hùng Vương. Những chỗ không được đào - hoặc không đào được thì họ không coi là lãnh thổ của Hùng Vương. Sự dốt nát nó nằm ở chỗ này. Trong bài này họ chỉ đào ở đồng bằng Bắc Bộ nên họ tự gán cho lãnh thổ Văn Lang chỉ có ở đồng bằng Bắc bộ. Trong khi đó, truyền thuyết xác nhận ở Nam Dương Tử. Ngày mai để nghị tháo bài này ra khỏi trang chủ. Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 12 Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Tìm hiểu quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng Hoàng Xuân Chinh N ghiên cứu thời kỳ Hùng Vương có nghĩa là tìm hiểu thời kỳ dựng nước, tìm hiểu quá trình hình thành nhà nước đầu tiên của dân tộc ta. Trong quá trình hàng nghìn năm, cùng với sự phát triển của kỹ thuật, của sức sản xuất, sự thống nhất kinh tế, văn hóa cũng được thực hiện dần dần cùng với sự thống nhất lãnh thổ, đặt cơ sở cho sự hình thành quốc gia. Do đó tìm hiểu lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng không chỉ tìm hiểu bờ cõi buổi cực thịnh, lúc quốc gia đã hình thành, mà còn cần tìm hiểu cả quá trình trước đó. Đất nước trước buổi bình minh của lịch sử, chưa thể có được những đường biên giới có mốc rạch ròi. Sự chung đụng giữa con người cũng như văn hóa qua hàng nghìn năm lịch sử đã xóa nhòa những đường biên giới thời dựng nước. Hơn nữa tính không ổn định của những tập đoàn người trước lúc bước vào xây dựng một quốc gia thống nhất cũng chỉ cho chúng ta những khái niệm về phạm vi sinh sống hoạt động chung chung của họ mà thôi. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không thể tìm hiểu từng bước hình thành lãnh thổ từ buổi xa xưa đó. Từ những khác biệt trong dấu vết cuộc sống con người để lại – tài liệu khảo cổ học – chúng ta có thể lần tìm phạm vi sinh sống của những tập đoàn người cổ xưa. Thời kỳ này, ở một trình độ nhất định, văn hóa khảo cổ có tính chất đóng kín, cho nên nghiên cứu cẩn thận các văn hóa khảo cổ, có thể tìm hiểu được quá trình hình thành các tập đoàn người từ bộ lạc, liên minh bộ lạc tiến lên cộng đồng quốc gia. Đồng thời có thể tìm hiểu những mối quan hệ phức tạp giữa các tập đoàn người từ mối quan hệ đồng hóa, hòa hợp, quan hệ tộc ngoại hơn cho đến sự thiên di của một phần hay cả bộ lạc nào đó. Do đó, nghiên cứu sự phân bố các văn hóa khảo cổ, các nhóm di tích khảo cổ ở miền Bắc Việt Nam có ý nghĩa lớn trong việc tìm hiểu phạm vi hoạt động cùng quá trình hình thành các tộc người thời Hùng Vương. Cùng với tư liệu khảo cổ học, những đoạn thư tịch cổ, những truyền thuyết nói về vị trí các bộ thời Hùng Vương, các quận huyện thời Hán, sự thống nhất về khác biệt về phương ngôn, về phong tục tập quán giữa các tộc người cũng cho ta những gọi ý đáng quý về quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng. Song tình hình tư liệu hiện nay chưa cho phép chúng ta nói được gì nhiều lắm. Bản đồ khảo cổ học Việt Nam còn nhiều vùng trắng chưa được điều tra nghiên cứu. Tài liệu ngôn ngữ học, dân tộc học – người Kinh – con cháu trực tiếp người Việt cổ chưa cung cấp được bao nhiêu. Do đó, lấy tài liệu khảo cổ học làm cơ sở, cho có tập hợp tất cả các nguồn tư liệu lại cũng chỉ nêu lên được những gợi ý bước đầu về các giai đoạn lớn trong quá trình hình thành lãnh thổn Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Hùng Vương là một quá trình lịch sử kéo dài trên dưới 2.000 năm, cho đến giữa thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Tài liệu khảo cổ học vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ có niên đại được xác định bằng phương pháp C14 đã khẳng định điều đó (1). Còn nhiều điều cần bàn bạc thêm, song mọi người đều thống nhất những mốc lớn đánh dấu các giai đoạn phát triển của văn hóa khảo cổ vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ - vùng được xem là đất tổ, địa bàn gốc của các vua Hùng. Đó là văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, văn hóa Đông Sơn (2). Quá trình phát triển từ văn hóa Phùng Nguyên qua văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun đến văn hóa Đông Sơn là phản ánh quá trình lịch sử của con người thời Hùng Vương vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Đất nước thời các vua Hùng đã được mở rộng ra ngoài vùng đất tổ. Do đó theo các mốc đã được xác định ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đối chiếu với các vùng chung quanh có thể tìm hiểu những bước lớn trong quá trình mở rộng và hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng (1) Cho đến nay Viện khảo cổ học đã tiến hành xác định niên đại bằng phương pháp C14 ở các địa điểm sau:- Tràng Kênh độc sâu 1m90-2m10: 3.405 ± 100 trước năm 1950 - Đồng Đậu độ sâu 4m00: 3.328 ± 100 trước năm 1950 - Vườn Chuối độ sâu 0m80: 3.070 ± 100 trước năm 1950 - Vinh Quang độ sâu 1m80: 3.046 ± 100 trước năm 1950 - Chiền Vậy độ sâu 0m65: 2.350 ± 100 trước năm 1950 (2) Có ý kiến cho đó là các giai đoạn phát triển chứ không phải văn hóa. Cũng có ý kiến thêm giai đoạn Gò Bông sau giai đoạn Phùng Nguyên, và giai đoạn Gò Chiền, giai đoạn Đường Cồ sau giai đoạn Gò Mun. Cũng có ý kiến cho rằng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ không có văn hóa Đông Sơn, mà chỉ có Đường Cồ. * * * Vào buổi đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, hoặc sớm hơn nữa hầu khắp miền Bắc Việt Nam ngày nay đã có nhiều tập đoàn người sinh sống. Dấu vết cuộc sống của họ là các văn hóa khảo cổ phân bố rộng khắp các miền. Đó là các văn hóa Phùng Nguyên, Hạ Long, Tràng Kênh, Đông Khối, Thạch Lạc, văn hóa rìu có vai (1). Mỗi văn hóa khảo cổ có đặc trưng riêng và phân bố trong một phạm vi nhất định. (1) Văn hóa Phùng Nguyên phân bố ở trung du và một phần đồng bằng Bắc Bộ, giữa hai dãy núi Tam đảo và Ba Vì, mà trung tâm là chỗ hợp lưu của các con sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy, sông Cầu, sông Tích, bao gồm tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nội và một phần Hà Bắc hiện nay. Con người ở đây đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật đồ đá, và ở giai đoạn cuối đã biệt kỹ thuật luyện đồng. Sự phong phú những chiếc rìu bôn hình tứ giác kích thước nhỏ, vòng trang sức mặt cắt ngang hình chữ nhật dẹt, cùng đồ gốm thành mỏng, hình dáng cân đối hài hòa, trang trí hoa văn thừng mịn và khắc vạch những đồ án đối xứng sinh động v.v… là đặc điểm nổi bậc của văn hóa Phùng Nguyên. Cùng một trình độ với văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Hạ Long phân bố ở các cồn cát ven biển và hải đảo ở Quảng Ninh có phong cách riêng. Đó là sự phong phú những chiếc rìu bòn có vai, có nấc nhỏ nhắn, những chiếc bàn mài có rãnh mài cắt nhau mà có người gọi là “dấu Hạ Long”, những mảnh gốm xốp nhẹ, hoa văn giản đơn, tiêu biểu là văn đắp nổi và văn trổ lỗ. Địa điểm Tràng Kênh (Hải Phòng) nằm giữa văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Hạ Long, có thể tiêu biểu cho một văn hóa khảo cổ phân bố từ Hải Phòng, một phần Hải Hưng cho đến một phần Hà Bắc mà một vài đặc điểm đã tìm thấy trong lớp dưới di chỉ Từ Sơn. Hy vọng trong tương lai sẽ phát hiện được nhiều di chỉ kiểu Tràng Kênh trong vùng rộng lớn. Ở đây đồ đá cũng như đồ gốm có phảng phất phong cách văn hóa Phùng Nguyên, song những đặc trưng riêng cũng nổi lên khá rõ. Đó là sự vắng mặt những chiếc rìu bôn tứ giác nhỏ nhắn hình gần vuông, mà phong cách các loại đục đá và dao khắc đá, là loại gốm xốp mỏng, trang trí văn khắc vạch tiêu biểu là loại miệng có mái. Địa điểm Đông Khối có thể tiêu biểu cho văn hóa khảo cổ thuộc giai đoạn này ở vùng đồng bằng Thanh Hóa, mà chắc hẳn nhiều di chỉ ven sông Mã, sông Chu sẽ được phát hiện trong tương lai. Ở đây vắng mặt loại rìu có vai, mà tiêu biểu là loại rìu tứ giác kích thước tương đối lớn (địa điểm Đông Khối là một công xưởng làm rìu đá, hiện vật phát hiện được chỉ có rìu đá, phác vật rìu và mảnh tước, không thể cung cấp một cách đầy đủ và đặc trưng của một văn hóa khảo cổ). Quá vào nam, văn hóa Thạch Lạc phân bố trên các cồn sò điệp ven biển Hà Tĩnh. Địa điểm Bàu Tró (Quảng Bình) cũng gần gũi với văn hóa này. Đặc điểm nổi bậc ở đây là phong phú những chiếc rìu đá tứ giác, rìu có vai mặt cắt ngang gần hình bầu dục, là loại gốm thô mỏng trang trí văn khuông nhạc giản đơn. Trong một số hang động đá vôi rải rác từ Cao Bằng, Lạng Sơn cho đến Quảng Bình phát hiện được những di tích khảo cổ mà tiêu biểu là những chiếc rìu có vai, rìu dài, mài nhẵn: mặt cắt ngang hình chữ nhật cùng với loại gốm thô trang trí văn thừng, văn khắc vạch giản đơn. Ngoài những văn hóa khảo cổ hay những nhóm di tích khảo cổ phân bố thành từng vùng có đặc trưng riêng ở trên, còn phát hiện được một số di chỉ lẻ tẻ có phong cách riêng ở bên cạnh, phản ảnh mối quan hệ giữa các tập đoàn người đương thời. Di chỉ Tế Lễ, gò Con Lợn (Vĩnh Phú) phong phú loại rìu có vai nhỏ nhắn nằm gọn trong khu vực phân bố văn hóa Phùng Nguyên. Địa điểm Quất động nam, Vạn Ninh, Cộng Hòa (Quảng Ninh) với những chiếc rìu tứ giác dài mặt cắt ngang hình gần bầu dục ở sát ngay khu vực phân bố văn hóa Hạ Long. Sơ đồ phân bố các nền văn hóa khảo cổ vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên Sự khác biệt trong phong cách đồ đá, đồ gốm giữa các vùng chắc hẳn không phải do hoàn cảnh tự nhiên khác nhau giữa các vùng tạo thành. Lúc bấy giờ môi trường sinh sống của con người giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa cũng như giữa vùng ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng và ven biển Hà Tĩnh không khác nhau bao nhiêu, song bộ mặt văn hóa mỗi vùng có phong cách riêng. Phải chăng những khác biệt trong văn hóa là phản ánh những cộng đồng người khác nhau lúc bấy giờ. Đây là mối quan hệ giữa văn hóa khảo cổ và cộng đồng tộc người. Về vấn đề này đã được nhiều nhà khảo cổ học các nước bàn đến khá nhiều (1). Thông thường văn hóa khảo cổ ở thời đại đá mới và đầu thời đại đồng thau là di tồn vật chất của bộ lạc hay nhóm bộ lạc thân thuộc trong thời kỳ nhất định. Do đó các văn hóa khảo cổ hay các nhóm di tích khảo cổ trên không những nói lên mật độ cư dân đông đúc phân bố khắp mội miền đất nước, mà còn phản ánh sự phân bố cùng mối quan hệ giữa các nhóm người đương thời, có thể là các bộ lạc hoặc nhóm bộ lạc thân thuộc. (1) Xem: văn hóa khảo cổ - Đại bách khoa toàn thư Liên xô, xuất bản lần thứ II, quyển 24, tr.31.- Hạ Nãi: đối với vấn đề định tên văn bản khảo cổ - khảo cổ số 4 – 1959 (chữ Trung Quốc). - Bờ-ru-xốp: văn hóa khảo cổ và cộng đồng tộc người. - Tạp chí khảo cổ học xô viết, số 18 – 1956 (chữ Nga). Văn hóa khảo cổ chỉ rõ lúc bấy giờ ít nhất cũng đã có những bộ lạc sinh sống ở trung du và phần trên đồng bằng Bắc Bộ (người Phùng Nguyên, ở vùng đồng bằng ven biển và tả ngạn sông Hồng (người Tràng Kênh), ở vùng biển và hải đảo Quảng Ninh (người Hạ Long, người Quất đông nam), ở vùng đồng bằng Thanh Hóa (người Đông Khối), ở ven biển Hà Tĩnh (người Thạch Lạc) và những nhóm người sống rải rác trên vùng núi đá vôi (chủ nhân rìu có vai). Mỗi văn hóa có phong cách riêng, song giữa chúng cũng có nhiều nét gần gũi nhau, nhất là giữa các văn hóa Phùng Nguyên, Tràng Kênh và Đông Khối ở trung su đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa. Về đồ đá, những con người ở đây chỉ biết đến loại rìu tứ giác nhỏ nhắn xinh xắn, hầu như vắng mặt loại rìu có vai, họ ưa dùng các loại vòng trang sức, mà phong phú nhất là loại vòng mặt cắt ngang hình chữ nhật dẹt. Về đồ gốm, họ đều truyền thống làm gốm thô, xoa thêm lớp áo mịn, thành mỏng, trang trí các loại hoa văn thừng mịn, trải mịn và văn khắc vạch. Tiêu biểu cho sự thân thuộc gần gũi là những chiếc “vật hình cốc” (chữ chưa rõ công dụng phổ biến rộng rãi ở các văn hóa). Những nét chung này phản ánh mối quan hệ thân thuộc giữa những nhóm người cư trú ở vùng trung du và đồng bằng miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Đây là khu vực tụ cư đông đúc nhất của người Việt hiện đại. Phải chăng, những tập đoàn người này là những bộ lạc thân thuộc hình thành nên người Việt cổ. Văn hóa Hạ Long với những chiếc rìu bôn nhỏ nhắn độc đáo có nhiều nét tương đồng với miền duyên hải và hải đảo miền Nam Trung Quốc từ xa xưa đã gắn bó mật thiết với vùng ven biển và hải đảo đông bắc Việt Nam. Ở văn hóa Thạch Lạc và văn hóa rìu có vai phân bố trong vùng núi đá vôi miền Bắc Việt Nam (cả ở ngoài biên giới phía bắc Việt Nam) với những phong cách riêng của mình, cũng tồn tại nhiều văn thừng và văn khắc vạch trên đồ gốm có nét gần gũi với các văn hóa trên, chứng tỏ ngay từ buổi đầu dựng nước, có nhiều tộc người sống quanh người Việt cổ và có mối quan hệ nhất định với người Việt Cổ. Bên cạnh mối quan hệ thân thuộc xa gần, giữa những nhóm người cùng sinh sống cạnh nhau trên, còn có sự giao lưu trao đổi nhất định. Bằng chứng là có những nét gần gũi về phong cách đồ đá và đồ gốm giữa các văn hóa khảo cổ hoặc một ít hoa văn đồ gốm, đồ đá điển hình của văn hóa này tìm thấy trong văn hóa kia. Như ở di chỉ Tràng Kênh phát hiện được 1,25% mảnh gốm mà hoa văn và chất liệu hoàn toàn giống đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên và gần 5% đồ gốm có phong cách hoa văn gần gũi văn hóa Phùng Nguyên. Hoặc ở văn hóa Phùng Nguyên cũng phát hiện được vài chiếc rìu bôn có vai có nấc là vật điển hình của văn hóa Hạ Long. Những nhóm trên sẽ góp phần sinh thành lãnh thổ Văn Lang thời các Vua Hùng, song ở giai đoạn này, giữa các nhóm người tuy có mối quan hệ thân thuộc giao lưu nhất định vẫn còn độc lập lẫn nhau hình thành những văn hóa riêng biệt, phải chăng đó là những bộ lạc, những nhóm bộ lạc thân thuộc tụ cư trong những khu vực riêng. Giữ các nhóm chưa hòa hợp thành một tập thể thống nhất thể hiện trong một văn hóa chung. Những tập đoàn người trên không những để lại dấu vết trong các văn hóa khảo cổ, mà hình bóng của họ còn lắng đọng lại trong ngôn ngữ học. Sự gần gũi giữa tiếng Việt và tiếng Mường là phản ảnh mối quan hệ thân tộc giữa người Việt và người Mường trước đây. Tiếng Việt tuy đã trải qua hàng nghìn năm biến đổi, đã được nhiều lớp ngôn ngữ thuộc các thời đại sau này bao phủ, vẫn có thể cho ta nhiều gợi ý đáng quý. Tiếng Việt ngày nay, bênh cạnh sự thống nhất về ngữ âm, ngữ điệu, ngữ pháp, chúng vẫn tìm thấy những khác biệt về thổ âm thổ ngữ cũng như phương ngôn giữa các vùng. Tương đối phổ biến và dễ nhận thấy, đó là sự khác nhau về thổ âm giữa các làng gần kề nhau. Ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ cũng như ở khu 4 cũ phổ biến hiện tượng 2 làng kề nhau, không bị một biên giới tự nhiên nào ngăn cách, song lại có sự khác biệt về thổ âm và thổ ngữ. Đây có thể là kết quả của sự định cư tương đối ổn định của những thị tộc trước đây cùng mối quan hệ tương đối đóng kín của những công xã nông thôn tạo thành. Song bao trùm lên những khác biệt về thổ âm thổ ngữ đó, tiếng Việt cũng có sự thống nhất trong từng vùng nhất định. Phải chăng đó là các khu vực phương ngôn của tiếng Việt. Tiếng nói vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ với âm điệu nhẹ nhàng, phát âm đúng các dấu (huyền, nặng, hỏi, ngã) song lại lẫn lộn giữa các âm tr và ch, s và x, r và d dễ dàng phân biệt được với vùng khu 4 cũng với âm điệu nằng nặng, phát âm sai các dấu song lại đọc đúng các âm tr, ch, s, x, r, d v.v… Riêng ở Bắc Bộ, tiếng nói vùng đồng bằng ven biển và đặc điểm nói ngọng vần 1 và n cũng có khác biệt với vùng đồng bằng và trung du với đặc điểm thường lên cao giọng ở cuối câu. Và giọng nói vùng Nghệ An, Hà Tĩnh cũng cứng nặng hơn vùng Thanh Hóa. Sự khác biệt về phương ngôn này chắc hẳn không phải do hoàn cảnh thiên nhiên giữa các vùng tạo thành. Có điều đáng chú ý, là những khu vực phương ngôn này, trong chừng mực nhất định, gần trùng hợp với phạm vi phân bố những văn hóa khảo cổ cuối thời đại đá mới đầu thời đại đồng thau đã kể ở trên. Phải chăng những bộ lạc hay những nhóm bộ lạc thân thuộc của người Việt Cổ còn để lại dấu vết mờ nhạt trong ngôn ngữ Việt. Dầu vết các bộ lạc xưa cũng được ghi lại vài câu ngắn ngũi trong thư tịch cổ. Theo truyền thuyết và sử cũ, Hùng Vương chia nước làm 15 bộ (hoặc 15 bộ lạc như trong sách Việt sử lược), nhà Hán chiếm nước ta chia thành quận Giao Chỉ và Cửu Chân gồm 17 huyện. Có thể từ những quận huyện thời Hán được ghi chép trong thư tịch xưa lần tìm những bộ lạc hoặc những liên minh bộ lạc trước đó, vì nhà Hán đặc quận huyện trên cơ sở những đơn vị hành chính có sẵn. Trước đây Nguyễn Thiên Túng chú Dư địa chí của Nguyễn Trãi và gần đây Đào Duy Anh và một số người cũng đã cố gắng chỉ định vị trí 15 bộ thời Hùng Vương (1), song vì chỉ bằng vào một số ghi chép ít ỏi trong thư tịch xưa nên việc chỉ định khó phân biệt đúng sai. Đất nước của các vua Hùng có thể gồm 15 bộ, song cũng có thể nhiều hơn hoặc ít hơn. Cho đến nay chúng ta chưa tìm được 15 văn hóa khảo cổ hoặc nhóm di tích khảo cổ tương ứng với 15 bộ ghi chép trong thư tịch xưa, song việc liên hệ những văn hóa khảo cổ với các bộ thời Hùng Vương là điều có thể được. Và rất có thể nhiều bộ ở gần kề nhau cùng chung một nền văn hóa khảo cổ. (1) – Quốc sử quán triều Nguyễn: Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch của Viện Sử học, Hà Nội 1957, tập I, tr.54.- Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Hà Nội, 1964. Phải chăng chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên là người bộ Văn Lang, bộ lạc gốc của các vua Hùng; người Tràng Kênh thuộc bộ Dương tuyền, chủ nhân văn hóa Hạ Long và vùng ven biển Hoa Nam, đảo Hải Nam là thuộc bộ Lục Hải, Ninh Hải; người Đông Khối thuộc các bộ ở Cửu Chân; người Thạch Lạc thuộc bộ Cửu Đức, chủ nhân văn hóa rìu có vai chắc hẳn thuộc nhiều bộ lạc thân tộc sống rải rác trong vùng núi đá vôi. Và tất cả những nhóm người đó có thể là những bộ lạc, nhóm bộ lạc có quan hệ xa gần với nhau góp phần hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng sau này. Đất nước thời Hùng Vương lúc này chỉ là địa bàn của các bộ lạc, hoặc nhóm bộ lạc thân thuộc phân bố gần khắp miền Bắc Việt Nam ngày nay. Mối quan hệ giữa các bộ lạc, giữa các nhóm bộ lạc thân thuộc ngày càng khăng khít, sự giao lưu văn hóa càng được đẩy mạnh nhất là ở vùng trung du, đồng bằng và ven biển Bắc Bộ, làm cho bộ mặt văn hóa khảo cổ ở giai đoạn này có phong cách khác trước. Sự thống nhất văn hóa được thực hiện trong từng khu vực rộng lớn hơn. Kết quả của quá trình giao lưu hòa hợp dẫn đến tình hình là vào khoảng những thế kỷ cuối thiên niên kỷ thứ 2 và đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, trên miền Bắc Việt Nam hình thành các văn hóa khảo cổ mà phong cách có tính chất tổng hợp hơn, phạm vi phân bố và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn hơn. Không kể vùng núi, ít nhất cũng đã hình thành 2 khu vực khá rõ, lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã. Bắc Bộ, từ giai đoạn trước đã là nơi tụ cư của nhiều nhóm người, cũng là nơi dễ dàng tiếp xúc với các văn hóa vùng đông nam và tây nam Trung Quốc. Kết quả của quá trình giao lưu giữa các miền trong vùng và với các vùng chung quanh cũng như sự thay đổi trong đời sống kinh tế và xã hội làm cho phong cách văn hóa ở Bắc Bộ có nhiều thay đổi lớn. Từ phong cách cân đối, nhịp nhàng, hài hòa, đối xứng trên các đồ án hoa văn gốm Phùng Nguyên, qua hoa văn làn sóng các kiểu trên gốm văn hóa Đồng Đậu, đến hoa văn hình học trên gốm văn hóa Gò Mun. Song chính sự giao lưu mạnh mẽ này đã dẫn đến sự thống nhất văn hóa sớm ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Do hoàn cảnh tự nhiên và hình thái sinh hoạt kinh tế giữa các vùng khác nhau nên trình độ phát triển giữa các nhóm người không đồng đều. Chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên, trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp ruộng nước, với trình độ kỹ thuật cao hơn đã thu hút tinh hoa văn hóa ở các vùng chung quanh mà hình thành văn hóa khảo cổ có phong cách riêng: văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun. Hai văn hóa này chủ yếu vẫn phân bố ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, song rộng lớn hơn văn hóa Phùng Nguyên ít nhiều. Về phía Bắc, nó đã vượt quá sông Cầu, về phía nam nó cũng đã có mặt ở phía Tây Nam tỉnh Hà Tây. Phạm vi ảnh hưởng của văn hóa Gò Mun cũng đi xa hơn. Bằng chứng là sự có mặt của rìu đồng tứ giác ở lớp trên di chỉ Ngọc Vừng (tỉnh Quảng Ninh), những mảnh miệng gốm kiểu Gò Mun ở lớp dưới di chỉ Đông Sơn (Thanh Hóa). Cũng phải nhận rằng, tuy sự thống nhất văn hóa đã được thực hiện trong vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, song những nét đặc trưng văn hóa có tính chất truyền thống giữa các miền vẫn tiếp tục tồn tại, nhất là đối với những vùng xa trung tâm. Trong giai đoạn này, ở miền bắc Trung Bộ, dấu vết sinh hoạt của con người được giữ lại trong tầng văn hóa và lớp mộ sớm ở Đông Sơn và Thiệu Dương (Thanh Hóa). Ở Đông Sơn, tuy có tìm được khoảng 10 mảnh gốm, 1 mũi giáo, 2 lưỡi dao xéo đồng giống ở văn hóa Gò Mun, song toàn bộ chất liệu, hình dáng hoa văn đồ gốm ở đây không giống với đồ gốm trong văn hóa Gò Mun ở Bắc Bộ (1). (1) Gốm ở đây là loại thô, thành mỏng, độ nung thấp, gốm mềm, màu gạch non, hoa văn trang trí giản đơn, chủ yếu là văn thừng và văn đắp nổi, dễ dàng phân biệt với loại gốm thành dày, độ nung cao, màu xám, gốm cứng, miệng gãy trang trí hoa văn hình học phía trong thành miệng điển hình của văn hóa Gò Mun. Việc tìm thấy những mảnh gốm kiểu văn hóa Gò Mun ở đây không những nói lên niên đại tương đương mà còn nói lên phong cách khác nhau cùng mối giao lưu giữa 2 vùng. Sống trên vùng đồng bằng sông Mã phì nhiêu, nhóm người ở Đông Khối có trình độ kỹ thuật cao cùng với nền kinh tế nông nghiệp làm ruộng nước, đã đẩy mạnh quá trình đồng hóa, hòa hợp với các vùng chung quanh mà hình thành một văn hóa chung mà tiêu biểu là lớp dưới Đông Sơn và Thiệu Dương. Quá trình thống nhất văn hóa được thực hiện dần từng bước. Lúc này ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh phát triển chậm chạp hơn và vẫn có sắc thái riêng. Quá trình giao lưu hòa hợp văn hóa, dẫn đến hình thành văn hóa ở 2 khu vực Bắc Bộ và bắc Trung Bộ phải chăng phản ánh quá trình hình thành các liên minh bộ lạc hoặc bộ tộc lúc bấy giờ. Chủ nhân văn hóa Gò Mun là hạt nhân của liên minh bộ lạc hay bộ tộc ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Chủ nhân của văn hóa lớp dưới Đông Sơn là trung tâm của liên minh bộ lạc hay bộ tộc miền bắc Trung Bộ. Trong mỗi khu vực, bộ mặt văn hóa giữa các miền gần gũi những nét riêng trong phong cách chung, phải chăng phản ánh tính chất bảo lưu lâu dài của văn hóa vật chất, mặt khác nói lên tính chất độc lập tương đối của các bộ lạc, các nhóm bộ lạc thân thuộc trong liên minh bộ lạc hay bộ lạc lúc bấy giờ. Tài liệu dân tộc học cho biết, các dân tộc phía nam nước ta như Chăm-pa. Khơ-me, Ê-đê… gọi người Việt là người Doan, Yoan, Im, De; các dân tộc phía bắc như Tày, Thái, Dao, người ở Quảng Tây gọi người Việt là Keo (1). Nguồn gốc chữ Keo và Doan, Dẹ,… hiện nay chưa rõ. Phải chăng, nếu đây không phải là địa danh cổ, có thể là tên bộ lạc, liên minh bộ lạc, hay bộ tộc lớn mạnh ở phía bắc và nam nước ta trước kia. Và người Keo, người Doan phải chăng là 2 liên minh bộ lạc hay bộ tộc chủ yếu hình thành nên lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng. (1) Nguyễn Đổng Chi: Vài nét về thể chế gia đình, công xã và cộng đồng người thời Hùng Vương – Bài phát biểu trong cuộc tọa đàm khoa học về các vấn đề mấu chốt về thời kỳ Hùng Vương, Hà Nội, tháng 7-1970 – Tài liệu đánh máy, lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học. Sử cũ như Giao Châu ngoại vực ký, Hậu Hán thư cũng có nhiều đoạn ghi chép về sự khác nhau về phong tục tập quán cùng trình độ giữa 2 vùng Giao Chỉ và Cửu Chân, song lại có quan hệ gần gũi, trao đổi với nhau ở thời nhà Hán thống trị cũng phần nào phản ánh sự khác nhau và gần nhau giừa vùng trước lúc bị nhà Hán thống trị. Từ các nguồn tư liệu nói trên, chúng ta có thể hình dùng là vào khoảng vài thế kỷ cuối thiên niên kỷ thứ 2 và đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã đã là hạt nhân hình thành 2 liên minh bộ lạc hay bộ tộc lớn phân bố ở trung du và đồng bắng Bắc Bộ ở phía bắc và vùng đồng bằng sông Mã, sông Lam ở phía nam. Đó là 2 nhân tố chủ yếu hợp thành đất nước thời Hùng Vương. Ngoài ra cũng cần kể đến những nhóm người sinh sống ở vùng núi quanh 2 trung tâm trên cũng đã tham gia vào trong khối hợp thành ấy. Đồng thời với mối giao lưu đồng hóa trong nội bộ các liên minh, sự trao đổi với các liên minh cũng không ngừng mở rộng. Từ 2 lưu vực sông Hồng và sông Mã quá trình hòa hợp đồng hóa diễn ra ngày càng mạnh. Kết quả là vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, quá trình hòa hợp văn hóa giữa 2 khu vực được thực hiện, hình thành văn hóa Đông Sơn. Văn hóa Đông Sơn hình thành không chỉ là sự mở rộng phát triển của văn hóa Gò Mun hay của văn hóa lớp dưới Đông Sơn, Thiệu Dương, mà là kết quả của sự hòa hợp nhiều yếu tố văn hóa trước đó mà hạt nhân là văn hóa Gò Mun ở phía bắc và văn hóa lớp dưới Đông Sơn, Thiệu Dương ở phía nam. Do đó văn hóa Đông Sơn không chỉ đóng khung ở Thanh Hóa và một phần trung du và đồng bằng Bắc Bộ mà còn mở rộng ra cho đến vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và ảnh hưởng của nó còn sâu rộng ở vùng Tây Bắc và Việt Bắc và xa hơn nữa ngoài biên giới nước ta ngày nay (1). Song có di chỉ và khu mộ thuộc văn hóa Đông Sơn chủ yếu vẫn tập trung ở vùng trung du và đồng bằng thuộc lưu vực các sông Hồng, sông Mã là khu vực tụ cư chủ yếu của người Việt ngày nay, phải chăng cũng là khu vực sinh sống chủ yếu của người Việt cổ, và là vùng đất chủ yếu, là trung tâm của nước Văn Lang của các vua Hùng. Những di vật điển hình của văn hóa Đông Sơn tìm thấy ở khu Tây Bắc, Việt Bắc không những phản ánh sức sống của văn hóa Đông Sơn mà cùng với những phong tục, những chỉ số nhân chủng gần giống nhau giữa cư dân vùng núi ở đây với người Việt thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa những nhóm người vùng núi với người Việt cổ lúc bấy giờ. (1) Vùng đất Phong Châu và Thanh Hóa vẫn là nơi phát hiện được nhiều di chỉ và khu mộ văn hóa Đông Sơn cùng những chiếc trống đồng loại 1 Hê-gơ nổi tiếng như Vạn Thắng, Việt Trì (Vĩnh Phú), Hoàng Hạ, Miếu Môn, Vinh Quang, Nam Chính, Đường Cồ, Chiềng Vậy, Đại Án (Hà Tây), Đường Mây, Đình Chàng, Trung Mầu, Chùa Thông (Hà Nội), Quả Cam (Hà Bắc), Đông Sơn, Thiệu Dương, Núi Nấp, Núi Soi, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ, Phà Công (Thanh Hóa). Vượt ra ngoài vùng Phong Châu và Thanh Hóa, văn hóa Đông Sơn phân bố rộng khắp các miền. Ngược dòng sông Hồng văn hóa Đông Sơn phân bố dày đặc ven sông từ Yên Bái đến Lào Cai như Yên Hợp, Yên Hưng, Đào Thịnh, Đại Thắng, Kim Sơn (Yên Bái), Phố Lu, Bản Lầu, thị xã Lào Cai (Lào Cai). Theo dòng sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, sông Đáy về xuôi, văn hóa Đông Sơn cũng phát hiện được ở Cửu Cao, Liên Nghĩa, La Đôi (Hải Hưng), Việt Khê, Núi Đèo, Núi Voi, Tràng Kênh (Hải Phòng), Ngọc Lũ, Đại Vũ (Nam Hà), Quỳnh Xá, Diêm Điền (Thái Bình). Tuy chưa phát hiện được di chỉ, song vùng núi đá vôi Hòa Bình cũng phát hiện được nhiều di vật văn hóa Đông Sơn như rìu xéo, mũi qua, mũi giáo, lao và cả những chiếc trống đồng loại 1 nổi tiếng như trống Mu-liê, trống Đồi Ro. Từ Thanh Hóa vào Nam văn hóa Đông Sơn cũng phát hiện được ở nhiều nơi như Nghệ An tìm được trống đồng, trìu xéo, mũi giáo ở Nghĩa Đàn, Con Cuông, Yên Thành; Hà Tĩnh có rìu xéo, dao găm ở Xuân An, Thạch Đài; Quảng Bình tìm thấy rìu đồng, kiếm ở Cương Hà. Số hiện vật bằng đồng ở địa điểm Cương Hà hiện nay không biết ở đâu. Nghiên cứu các bản vẽ trong Tạp chí Ban Huế cổ tháng 1 – 1936 (tiếng Pháp) có 6 lưỡi rìu đồng và 1 thanh kiếm lưỡi sắt cán đồng. Trong số đồ đồng này, theo chúng tôi có 2 chiếc rìu đồng gần gũi phong cách văn hóa Đông Sơn. Những chiếc còn lại, nhất là những chiếc rìu có trang trí văn đan chúng tôi chưa gặp trong các sưu tập văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ và Thanh Hóa. Đây là những hiện vật thuộc văn hóa Đông Sơn hay chỉ chịu ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn cần được nghiên cứu cẩn thận hơn. Trong khu vực rộng lớn của người Thái, người Mèo, người Xá ở Tây Bắc, người Tày, người Nùng, người Dao ở Việt Bắc hiện nay, không những chưa phát hiện được các khu di chỉ. Khu mộ táng của văn hóa Đông Sơn, mà các di vật lẻ tẻ của văn hóa Đông Sơn phát hiện được cũng không nhiều. Cho đến nay chỉ phát hiện được trống đồng loại 1 ở Thuận Châu (Sơn La), rìu xéo ở Phù Yên (Nghĩa Lộ), khuôn đúc dao găm ở Lạng Sơn, dao găm ở Thái Nguyên, Hà Giang, rìu xéo ở Cao Bằng, Tuyên Quang. Vượt qua về phía bắc hay phía nam, chỉ thỉnh thoảng mới gặp vài chiếc trống đồng loại 1 văn hóa Đông Sơn, có thể do trao đổi mà có như trống Đác-Giao (Tây Nguyên), trống Bình Phú (Thủ Dầu Một), trống Khai Hóa, trống Thạch Trại (Vân Nam), trống U-Bông (Lào) và trống Mã-Lai, v.v… Sơ đồ phân bố nền văn hóa Đông Sơn và các di vật văn hóa Đông Sơn. Phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn từ lưu vực sông Hồng cho đến miền Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày nay khắp các vùng đều phát hiện được những khu di chỉ, mộ táng chức hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn vượt ra ngoài vùng trung du và đồng bằng và còn vượt quá biên giới miền Bắc Việt Nam ngày nay nói lên trình độ cao của văn hóa Đông Sơn cùng ảnh hưởng vai trò của người Việt Cổ đang trong quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang. Sự thống nhất văn hóa ở giai đoạn Đông Sơn cũng như phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn có ý nghĩa lớn trong việc tìm hiểu người Việt cổ cùng đất nước Hùng Vương thời cực thịnh. Quá trình hình thành văn hóa Đông Sơn phản ánh quá trình hình thành người Việt Cổ. Phải chăng từ 2 vùng đất màu mỡ, mối quan hệ giữa các liên minh bộ lạc ngày càng chặt chẽ, dẫn đến hình thành một khu vực thống nhất của người Việt cổ làm cơ sở cho sự hình thành lãnh thổ Văn Lang vào cuối thời Hùng Vương. Dựa trên sức mạnh của khối thống nhất bền vững này, Hùng Vương đã tập họp lại quanh mình những tộc người sinh sống ở các vùng núi mà xây dựng nên nước Văn Lang. Đến lúc này, một cương giới hẳn hoi của đất nước mới hình thành. Văn hóa Đông Sơn là dấu tích của người Việt Cổ trong buổi bình minh của đất nước. Vùng trung du và đồng Bắc Bộ và đồng bằng sông Mã, sông Lam – địa bàn sinh tụ của người Việt cổ, là trung tâm của nước Văn Lang. Từ đây, các vua Hùng khống chế cả vùng núi rộng lớn phía bắc và tây bắc, và nước Văn Lang lúc cực thịnh có thể kéo dài từ Hoành Sơn cho đến biên giới Việt – Trung ngày nay (hoặc co giãn chút ít). Cho đến giai đoạn Đông Sơn, sự thống nhất văn hóa trong khu vực cư trú của người Việt cổ đã được hiện, song những khác biệt trong phong cách văn hóa giữa các vùng vẫn tồn tại. Những khác biệt này dẫn đến hình thành các loại hình của văn hóa Đông Sơn: Chí ít cũng đã hình thành 2 loại hình: loại hình vinh quang tiêu biểu cho văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ, loại hình Thiệu Dương tiêu biểu cho văn hóa Đông Sơn ở bắc Trung Bộ. Sự hình thành những loại hình văn hóa Đông Sơn không làm lưu mờ sự thống nhất của văn hóa Đông Sơn, mà trái lại làm nổi rõ những tính chất địa phương của văn hóa Đông Sơn, phản ánh quá trình hình thành văn hóa Đông Sơn cùng mối giao lưu giữa các miền lúc bấy giờ (1). (1) Hoàng Xuân Chinh và Chữ Văn Tần: Nội dung loại hình và niên đại văn hóa Đông Sơn – khảo cổ học, Hà Nội, số 3 – 4, tháng 12 – 1969. Hai loại hình của văn hóa Đông Sơn phải chăng là dấu vết của 2 liên minh bộ lạc chủ thể hợp thành đất nước Văn Lang vẫn còn giữ những dáng dấp, những phong tục tập quán riêng khi quốc gia đã hình thành. Không những thế, giữa các miền trong vùng Bắc Bộ,các di vật văn hóa Đông Sơn cũng có những sắc thái riêng. Những lưỡi giáo, lưỡi rìu, dao găm ở ven biển (Việt Kê, Núi Đèo, Núi Voi, Quỳnh Xá), ở trung châu Bắc Bộ (Vinh Quang, Nam Chính, Việt Trì,…) và thượng du sông Hồng (Yên Hợp, Yên Hưng, đào Thịnh, Phố Lưu,…) không hoàn thành giống nhau trong nhiều chi tiết hình dáng. Những khác biệt trong chi tiết này phải chăng là dấu vết những tập đoàn người khác nhau hợp thành quốc gia còn được giữ lại mờ nhạt trong khối cộng đồng quốc gia thống nhất. Thế là, từ rất sớm, với sự hình thành văn hóa Đông Sơn, khối thống nhất dân tộc lấy người Việt cổ làm trung tâm được hình thành, tạo điều kiện thành lập nhà nước đầu tiên của dân tộc ta, đặt cơ sở cho sự tồn tại lâu dài của dân tộc ta, đủ sức chống chọi với sự xâm lược của phương Bắc. * * * Lịch sử hình thành lãnh thổ của các dân tộc vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ. Theo những quy luật chung của xã hội, con đường bước vào lịch sử văn minh của mỗi dân tộc cũng có những nét riêng của nó. Quá trình hình thành lãnh thổ của dân tộc ta cũng có cái chung và cái riêng của nó. Các nguồn tư liệu đều cho thấy phải từ rất sớm dân tộc ta đã bước vào ngưỡng cửa văn minh. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, không phải chỉ ở vùng núi, mà hầu khắp lãnh thổ miền Bắc Việt Nam ngày nay đã có nhiều nhóm người có quan hệ gần xa với nhau sinh sống. Những nhóm người này đã sáng tạo nên những nền văn hóa rực rỡ ở khắp các miền, từ vùng núi đá vôi với văn hóa rìu có vai đến vùng trung du và đồng bằng với văn hóa Phùng Nguyên, Đông Khối, Tràng Kênh, cho đến vùng ven biển và hải đảo với văn hóa Hạ Long, Thạch Lạc, v.v… Giữa những nhóm người này, mối quan hệ giao lưu trao đổi, hòa hợp, đồng hóa không ngừng được tăng cường, hình thành những tập đoàn người đông đúc hơn, rộng lớn hơn với sự thống nhất văn hóa trong từng khu cực lớn hơn: Lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã. Từ 2 lưu vực này, xu thế thống nhất ngày càng được đẩy mạnh. Cho đến nửa đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, với sự thống nhất và mở rộng của văn hóa Đông Sơn, khối thống nhất người Việt cổ được thực hiện, đặt cơ sở cho sự hình thành nước Văn Lang của các vua Hùng. Vào lúc thịnh, lãnh thổ của các vua Hùng có thể từ trung tâm sông Hồng, sông Mã đã vươn tới Hoành Sơn ở phía nam và biên giới Việt-Trung ở phía bắc (có thể co giãn chút ít). Đó là những chặng đường lớn trong quá trình hình thành lãnh thổ thời Hùng Vương. Chắc hẳn, con đường đi trong buổi bình minh lịch sử của dân tộc ta còn phong phú phức tạp hơn nhiều. Trong quá trình, từ những nhóm người có quan hệ gần xa với nhau sống trong từng khu vực riêng tiếng lên hình thành một quốc gia thống nhất ở thời các vua Hùng, mối quan hệ trao đổi, đồng hóa, hòa hợp bao trùm lên tất cả; song trong một giai đoạn nào đó, ở một vùng nào đó, những cuộc chiến tranh bộ lạc có thể không tránh khỏi. Đồng hóa hòa hợp hay chiến tranh bộ lạc cũng là biểu hiện của xu thế tập trung thống nhất quanh trung tâm người Việt cổ sinh sống ở vùng trung du đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa. Từ trung tâm này, người Việt cổ đã cùng các tộc anh em chung xây dựng nên nước Văn Lang của các vua Hùng. Còn tiếpỦy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nguồn: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974
  22. Cảm tác THỜI GIAN Thiên Sứ Thu Xưa ai cất thời gian Thế nhân thuở ấy chỉ toàn hư không. Với tay tôi lấy mây hồng. Kê làm gối ngủ trong không gian buồn
  23. Bão lửa hoành hành, Los Angeles báo động khẩn 11:57' 16/11/2008 (GMT+7) Nguồn: VnExpress Thống đốc bang California (Mỹ) Arnold Schwarzenegger hôm 15/11 đã phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp ở hạt Los Angeles, sau khi bão lửa đã thiêu hủy ít nhất 165 căn nhà ở khu vực này. Gió mạnh khiến đám cháy lan rộng. (Ảnh: THX) Ngọn lửa xuất phát từ các ngọn đồi phía bắc của thành phố và nhanh chóng lan ra các khu vực khác do gió mạnh. Các lực lượng cứu hỏa nhanh chóng được huy động. (Ảnh: THX) Gần 1.000 nhân viên phòng cháy chữa cháy cùng với xe cứu hỏa, máy bay trực thăng và xe ủi đất đã được huy động để chiến đấu với thần lửa nhằm ngăn chặn đám cháy lan sang các khu vực đông dân cư. Các nhân viên cứu hỏa nỗ lực chiến đấu với thần lửa. (Ảnh: THX) Tuy nhiên gió mạnh đã khiến lửa lan ra rất nhanh. Hiện diện tích đất bị lửa thiêu hủy đã lên đến 1.053 hécta. Nhà chức trách địa phương đã ra lệnh sơ tán khoảng 10.000 người dân. Theo phát ngôn viên của lực lượng phòng cháy chữa cháy địa phương, bà Melissa Kelley, đã có 1 người dân được đưa vào bệnh viện trong tình trạng nguy kịch do bị bỏng tới 60% cơ thể, trong khi hai nhân viên cứu hỏa đang được điều trị do bị bỏng nhẹ. Tổn thất hiện đang được tính toán nhưng dự tính là rất lớn. (Ảnh: THX) Ngọn lửa cũng thiêu rụi một số đường dây điện, có khả năng gây ra tình trạng mất điện trong thành phố, Thị trưởng Los Angeles Antonio Villaraigosa cho hay. "Thiệt hại trong trận bão lửa này còn nhiều hơn những gì chúng ta đã mất trong hơn 1 thập niên qua", ông Villaraigosa nói. Bão lửa ở Santa Barbara đã hủy hoại hơn 100 căn nhà. (Ảnh: THX) Trong khi đó, tại hạt Santa Barbara cách Los Angeles khoảng 128km về phía tây bắc, một đám cháy khác cũng đang tiếp diễn, khiến hơn 5.400 hộ dân phải sơ tán và lửa đã phá hủy hơn 110 ngôi nhà. Do tiết trời hanh khô cộng thêm xung quanh khu vực này là cả một vạt rừng bạch đàn rộng lớn, nên ngọn lửa khởi phát từ đêm 13/11 nhanh chóng lan rộng. Mặc dù các nhân viên cứu hỏa đã nỗ lực hết sức nhưng tới sáng 15/11 mới chỉ kiểm soát được khoảng 40% đám cháy. Những nơi thần lửa đi qua chỉ còn lại một đống hoang tàn. (Ảnh: THX) Hàng năm, hễ vào mùa thu, do khí hậu khô hanh và gió nóng thổi từ sa mạc, nên Los Angeles và các khu vực miền nam California thường bị đe dọa bởi thần hỏa. VÀI NÉT VỀ CALIFORNIA (Nguồn: Wikipedia, Ca.gov) Diện tích: 423.970 km2 Là bang có diện tích lớn thứ 3 của Mỹ. Dân số: 36.810.358 (số liệu 2005), là bang đông dân nhất của Mỹ. Thủ phủ: Sacramento. Các thành phố lớn: Los Angeles, San Diego, San Jose, San Francisco, Long Beach, Oakland và Sacramento. Thành phố lớn nhất: Los Angeles (nổi tiếng với Hollywood) Ngày thành lập: 9/9/1850 (bang thứ 31 của Hoa Kỳ) Tên gọi khác: Bang Vàng, Motto, Eureka Những ngành mũi nhọn: Nông nghiệp (ngũ cốc, hoa quả), công nghiệp bán dẫn (nổi tiếng với Thung lũng Silicon), rượu, ngư nghiệp. Đan Tâm (theo THX)
  24. Xưởng gỗ chìm trong biển lửa Lửa bốc ngùn ngụt trong khu dân cư, người dân nhốn nháo, gần 10 xe cứu hỏa được điều đến hiện trường. VnExpress.net ghi lại hình ảnh vụ cháy xưởng gỗ tại đường Võ Thị Sáu (Hà Nội), chiều 15/11. > Cháy xưởng gỗ trong khu dân cư Chiều 15/11, ngọn lửa bùng lên tại một xưởng gỗ - sơn trong khu dân cư Hồ Quỳnh đường Võ Thị Sáu (Hai Bà Trưng, Hà Nội), thiêu rụi hàng tấn gỗ bên trong. Một số ngôi nhà cạnh bên cũng bị lửa lan sang. > Xưởng gỗ chìm trong biển lửa 5h chiều, cột khói đen hàng chục mét bao phủ khu dân cư. Hàng trăm người dân vây kín khu vực xảy ra hỏa hoạn. Lửa bốc cháy dữ dội. Ảnh: Việt Tuấn. Ông Hòa người chứng kiến sự việc cho biết: "Thấy khói phát ra, tôi đã hô cháy nhưng chắc công nhân làm việc bên trong không nghe thấy. Ít phút sau lửa đã rừng rực". Gần 10 xe cứu hỏa đã được điều đến hiện trường. Tuy nhiên, do nhà được làm bằng gỗ, gác xép chứa nhiều đồ vật dễ cháy (chủ yếu là gỗ và sơn) nên lửa bùng dữ dội và bắt đầu lan nhanh sang các nhà xung quanh. Hàng chục người hất nước qua cửa sổ trong vô vọng. Gần 19h, ngọn lửa mới được khống chế, chủ cơ sở không có mặt tại hiện trưởng. Toàn bộ xưởng gỗ rộng gần 80m2 bị cháy rụi, bên trong than tàn chất đống. Các nhà dân xung quanh bị lửa làm tường đen thui. Lực lượng cứu hỏa dập lửa. Ảnh: Xuân Tùng. Ông Lê Đức Vượng, Bí thư chi bộ khu dân cư Hồ Quỳnh cho biết, xưởng sản xuất được xây dựng cách đây hơn 10 năm, thường xuyên gây ồn ào, ô nhiễm môi trường. Người dân đã kiến nghị chính quyền di dời nhiều lần. Nguyên nhân vụ việc đang được làm rõ. Xuân Tùng