Thiên Luân

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    7.118
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    134

Everything posted by Thiên Luân

  1. Viết có dấu nếu muốn nhận được câu trả lời nhé
  2. 2 Tuổi này ko xung, hợp mạng, hợp thiên can, địa chị cũng hợp!!! Rất tốt! Cưới năm nay hoặc năm sau đều được. Sinh con năm Nhâm Thìn 2012 và Mậu Tuất 2018 sẽ được cách cuộc rất tốt, phát về sau!!! Thân mến.
  3. Nếu sinh liền thì nên chọn Nâm Thìn Quý Tỵ, chỉ e là gấp gáp quá thôi. Nếu có thể thì nên sinh Quý Tỵ và Mậu Tuất 2018!!!
  4. Sinh 1 đứa Nhâm Thìn, đứa thứ 2 năm Mậu Tuất 2018, con gái trước con trai sau thì tốt hơn!!! Sinh con đầu lòng vẫn ảnh hưởng chứ!!! Nhưng tương tác giữa con đầu và cha mẹ chưa mạnh (trong vài năm) thì đã sinh đứa thứ 2 thì tương tác đó lại thay đổi theo đứa 2. Nếu ko sinh nữa thì tương tác với đứa 2 sẽ kéo dài mãi! Thường thì tính tuổi sinh con tốt nhất thì con đầu con sau gì cũng howph bố mẹ, tuy nhiên ko phải lúc nào cũng có thể chọn được như vậy. Cho nên phải đảm bảo tối thiểu đứa út hợp cha mẹ. Nếu đứa đầu là con gái thì tương tác (nếu xâu) cũng xảy ra chậm hơn so với con trai). 2 vc Tân Dậu trên nếu sinh con đầu Đinh Hợi là con gái thì ko trục trặc nhiều so với sinh con trai, Đinh phá Tân, mạng Thổ khắc cha mẹ, âm Thổ khắc âm Mộc nên mọi thứ cứ âm ĩ, chỉ đợi ngày bùng phát, kinh tế thì lao đao mà tình cảm cũng sa sút. Nhà này nên sinh con năm Nhâm Thìn thì sẽ hóa giải được hết những điều trên!
  5. Theo quan điểm của diễn đàn cũng như theo Luận Tuổi Lạc Việt thì tương tác giữa 2 người chỉ là 1 yếu tố, sẽ còn nhiều yếu tố tác động khác, đặc biệt là sau khi có con thì sẽ càng thay đổi. 2 tuổi này năm trong tam hợp Thân Tí Thìn, nếu lấy nahu thì chồng sẽ rất chiều vợ, nhất vợ nhì trời đấy. Chẳng có chết chóc gì đâu! Nhưng quan trọng là 2 em còn trẻ lắm, tương lai còn nhiều, đừng bận tâm quá vào việc cưới hỏi!
  6. Bài này chỉ mang tính tham khảo thôi anh Hoangnt, ko phải quan điểm của TTNc-LHĐP.
  7. Nhâm Thìn tốt hơn Quý Tỵ, nếu sinh được con trai thì càng tốt! Chúc gia đình bạn may mắn!
  8. Tuất với Mão là nhị hợp, khắc ở đâu nhỉ? Từ khi có bầu thì cha cũng có nhiều có hội kiếm tiền hơn rồi, Sinh đứa này theo luận tuổi Lạc Việt là tốt, con mạng Mộc hóa giải được xung mạng Hỏa Thủy của cha và mẹ.
  9. Khôn vẫn là người mẹ, Tốn vẫn là con gái. Những gì thuộc về Tiên Thiên thì ko thay đổi, chỉ thay đổi vị trí trên Hậu Thiên Bát Quái Phối Hà Đồ, khác với phối Lạc Thư.
  10. Tượng Phật đứng vững giữa đống đổ nát sau sóng thần Liệu các bức tượng Phật không chỉ đơn thuần là những tác phẩm điêu khắc? Tuần trước, chúng ta đã phát hiện được hiện tượng kỳ lạ về các bức tượng Phật di chuyển và tỏa sáng ở Malaysia. Tuần này, chúng ta lại bắt gặp những bức ảnh sausóng thần ở Nhật Bản hồi tháng trước và ở Sri Lanka vào tháng 12 năm 2004. Những bức ảnh này cho thấy các bức tượng Phật, dù bị sóng đánh rất mạnh, vẫn đứng vững giữa đống đổ nát của các tòa nhà bị phá hủy. Liệu có phải là ngẫu nhiên khi các bức tượng Phật không hề bị hư hại? “Người ta không nghĩ rằng đây chỉ là một thảm họa, mà là Thần đang nói với họ rằng họ cần cải thiện hành vi của bản thân”, một người dân địa phương Sri Lanka bình luận vào tháng 1 năm 2005, như được tường trình bởi Đại Kỷ Nguyên. “Người dân Sri Lanka đang trở thành những người tốt hơn sau sóng thần.” ĐỨNG THẲNG: Một bức tượng Phật đứng vững giữa đống đổ nát trong một khu vực bị sóng thần tàn phá gần bờ biển, ở Natori, quận Miyagi, Nhật Bản, ngày 14 tháng 3 năm 2011, sau trận sóng thần và động đất ngày 11 tháng 3. (Ảnh: Toru Yamanaka/AFP/Getty Images) CAO HƠN VÀ XA HƠN: Một bức tượng Phật ngồi giữa đống gạch vụn với những chiếc sọ người bị trận sóng thần ngày 26 tháng 12 cuốn trôi đi từ nghĩa địa gần đó, tại thị trấn duyên hải miền Tây Nam Kahawa, Sri Lanka, ngày 2 tháng 1 năm 2005. (Ảnh: Raveendran/AFP/Getty Images) BẤT ĐỘNG NHƯ THƯỜNG LỆ: Một bức tượng Phật nguyên vẹn ngồi trên tầng lầu của một tòa nhà bị phá hủy tại Sri Lanka, vùng ngoại ô Hikkaduwa, bên ngoài Galle ngày 12 tháng 1 năm 2005. Các ngôi chùa, giáo đường Hồi giáo và nhà thờ đã phải chống chọi lại những cơn sóng lớn. (Ảnh: Indranil Mukherjee/AFP/Getty Images) Tác giả: Stephanie Lam (theo The Epoch Times)
  11. Cung Khôn có 3 sơn là Thìn Khôn Tỵ, Cung Tốn có 3 sơn Mùi Tốn Thân.
  12. Mới tháng 3 al nếu được thì vẫn có thể kịp, năm 2014 mạng Kim, muốn có năm tốt nữa thì đến 2018, 2019. Có thể chọn năm 2013 Quý Tỵ cũng được, nhưng cha sẽ hơi lép vế trong nhà tí!
  13. Nên sinh năm nay thì tốt hơn 2012. Mạng cha mẹ THủy Hỏa xung nhau nên sinh con mạng Mộc để hóa giải. Sinh con Nhâm Thìn ko hợp tuổi cha và mẹ, mọi việc có thể thay đổi theo hướng ko tích cực! Thân mến.
  14. Nhà bạn yên tâm đi, sinh đứa Tân Mão mọi chuyện sẽ tốt lên ngay thôi. Nếu chuyến này đổi việc thì khá hơn việc hiện tại đấy. Việc chọn giờ sinh bạn có thể qua mục Tử vi nhờ chọn hộ. TL ko chuyên tử vi. Đứa đầu mạng Thủy khắc mạng Cha mẹ Hỏa, thiên can khắc cha mẹ nên mọi việc ko được thuận lợi là đúng rồi! Nhưng con gái đầu thì ko sao, ko đến nỗi bế tắc! SInh đứa Tân Mão này sẽ hóa giải tất cả! Chúc gia đình bạn hạnh phúc!
  15. Cung Khôn trên Hà Đồ là Âm Hỏa Đới Thổ, là trạng thái Hỏa đang chuyển qua Thổ.
  16. Tập tục cưới hỏi thời Vua Hùng Sách Lĩnh Nam chích quái mô tả những nét chính của phong tục hôn nhân thời Hùng Vương như sau: “Khi chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam và nữ thì trước lấy gói muối (hay nắm đất) làm đầu, sau đó mới giết trâu, giết dê để làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân”. Qua truyền thuyết, chúng ta có thể thấy được phần nào phong tục hôn nhân thời Hùng Vương được cô đọng lại trong hình tượng đám cưới của Sơn Tinh và Ngọc Hoa. Một số làng xã trên địa bàn gốc của các vua Hùng, trong các ngày hội làng cũng có nhắc lại những sự tích phản ánh về phong tục hôn nhân thời kỳ dựng nước. Các nghi thức và tiết lễ Nghi thức và lễ tiết hôn nhân đã phát triển đến một mức độ đáng kể, hình thành nên một số phong tục có ý nghĩa sâu sắc. Trước hết là tục thách cưới, rồi đến lễ dạm với các vật phẩm. Khi tổ chức hôn lễ, nghi thức này thường kèm theo các trò vui, mọi người lấy bùn đất, hoa quả ném vào chàng rể như một sự cầu chúc những điều tốt đẹp của cộng đồng cho đôi vợ chồng mới. Tục ăn cơm chung cũng là một nghi thức quan trọng đánh dấu việc đôi nam nữ chính thức là vợ chồng. Đó là một vài nét cơ bản nhất về phong tục hôn nhân thời Hùng Vương mà chúng ta biết được qua các truyền thuyết, qua những tục lệ còn tồn tại đến ngày nay. Điều đó chứng tỏ phong tục hôn nhân thời Hùng Vương là một nét riêng khác biệt so với phong tục của những tộc người ở phía bắc nước Văn Lang; nó cũng là điều độc đáo mang đậm bản sắc mà tổ tiên chúng ta đã tạo dựng trong đời sống văn hóa của mình.Trong phong tục hôn lễ thời Hùng Vương, xuất phát từ đặc trưng của nền văn hóa mà các nghi thức, lễ tiết có những nét rất độc đáo, đặc biệt là những biểu trưng cầu chúc cho quan hệ vợ chồng mãi mãi vững bền, hạnh phúc. Điều này được thể hiện qua một số tục lệ. Lễ dạm: Trước hết là lễ dạm, trong lễ này, vật phẩm không thể thiếu là gói muối hoặc nắm đất. Nắm đất vừa là vật tượng trưng cho quê hương, nguồn cội, là lời nguyền gắn bó với đất đai, làng xóm, vừa là hương liệu (đất hun). Còn gói muối là lời chúc cho tình nghĩa của đôi trai gái mặn mà, đằm thắm, thuỷ chung; muối còn là gia vị cần thiết cho đời sống con người. Lễ rước dâu: Trong nghi thức rước dâu có tục ném bùn đất, hoa quả vào chú rể. Có lẽ tục này có ý nghĩa thử thách và cầu mong chú rể gặp may mắn, gặt hái thành quả cao trong lao động để tạo dựng đời sống gia đình tốt đẹp, hạnh phúc. Ngày hội làng ở các xã Vân Luông (huyện Phù Ninh) và Chu Hóa (huyện Lâm Thao) của tỉnh Phú Thọ có diễn lại tích Sơn Tinh rước Ngọc Hoa về núi Tản, người ta ném đất đá vào người đóng vai Sơn Tinh. Ở nhiều đám cưới của người Mường thời cận đại vẫn giữ nguyên phong tục cổ truyền này, ném bùn đất, hoa quả vào chàng rể. Lễ thành thân: Khi làm lễ thành thân còn có tục cô dâu, chú rể ăn chung với nhau một đĩa cơm nếp, uống chung một chén rượu. Ý nghĩa của tục này cũng là cầu chúc cho hai vợ chồng luôn gắn bó với nhau, dính nhau như dính cơm nếp và say mê nhau như say rượu. Tục ăn cơm nếp trong ngày cưới hiện còn thấy ở đám cưới người Mường và một số dân tộc thuộc khu vực Tây Nguyên. Đây là ý nghĩa của ba tục lệ chính trong hôn lễ thời Hùng Vương, nó phản ánh tư tưởng, tình cảm của người Việt được biểu hiện rất sinh động, hàm ý sâu sắc trên tinh thần cộng đồng keo sơn, gắn bó. Các đặc điểm của hôn nhân thời Hùng Vương Một trong những nét đặc trưng cơ bản của xã hội Việt Nam là tính cộng đồng, mọi việc liên quan đến cá nhân cũng đồng thời liên quan đến cộng đồng, kể cả hôn nhân là lĩnh vực riêng tư nhất. Hôn nhân của người Việt theo truyền thống không đơn thuần là việc hai người lấy nhau, mà là việc của cả cha mẹ, họ hàng hai bên, nó xuất phát từ quyền lợi của cộng đồng trên nền tảng văn hóa và mang những đặc điểm riêng: - Hôn nhân một vợ, một chồng (Sơn Tinh chỉ lấy Ngọc Hoa, Ngọc Hoa chỉ lấy Sơn Tinh; cô gái họ Lưu trong truyện Trầu Cau chỉ lấy người anh trong cặp anh em Tân và Lang…); trai gái gắn bó với nhau một cách ổn định, lâu dài. - Có tục thách cưới, phản ánh thân phận và giá trị của người phụ nữ (vua Hùng thứ 18 đặt điều kiện lễ vật khi Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đến xin cưới Ngọc Hoa). - Đồng nhất lễ hỏi và lễ cưới (nghi thức này còn tồn tại ở nhiều vùng nông thôn người Việt trong những thế kỷ trước; ngoài ra ta còn thấy ở nhiều đám cưới của đồng bào Mường và một số dân tộc Tây Nguyên thời cận đại). - Có sự phân biệt giàu sang, nghèo khó (vua Hùng thứ 18 không chấp nhận việc Tiên Dung lấy chàng đánh cá nghèo Chử Đồng Tử). - Hình thức hôn nhân của chế độ phụ hệ nảy sinh với tục cô gái về nhà chồng (phản ánh qua truyền thuyết Sơn Tinh - Ngọc Hoa, Trầu Cau,…). - Có tục phụ nữ đi lấy chồng rồi quay lại nhà bố mẹ đẻ ở một thời gian cho đến khi sinh con đầu lòng (Ngọc Hoa lấy Sơn Tinh, một thời gian sau đã quay về nhà mình. Theo các sách sử, Trưng Trắc và Thi Sách sau khi lấy nhau vẫn ở riêng tại đất của mình). Nhiều làng quê ở đồng bằng và trung du phía bắc cho đến cách mạng tháng 8/1945 vẫn còn giữ tục lệ này, như làng Nội Duệ ở Tiên Sơn (Bắc Ninh). - Trong các cuộc hôn nhân, người phụ nữ có một vai trò khá chủ động, đây chính là một biểu hiện tàn dư vai trò của phụ nữ trong phong tục hôn nhân thời kỳ chế độ mẫu hệ (Tiên Dung chủ động lấy Chử Đồng Tử, cô gái họ Lưu trong truyện Trầu Cau chủ động thử thách và chọn lấy người anh…). - Hôn nhân một vợ, một chồng đã hình thành các gia đình cá thể, mỗi gia đình gồm hai thế hệ: cha, mẹ và con cái. Sự phát triển của sức sản xuất và công cụ lao động với hiệu suất cao đã biến những gia đình cá thể thành các đơn vị kinh tế độc lập. Phong tục hôn nhân thời Hùng Vương đánh dấu những nghi thức của xã hội phát triển trong giai đoạn mới nhưng vẫn tồn tại nhiều tàn dư của phong tục hôn nhân thời mẫu quyền. Trong gia đình, địa vị và quyền lợi của người phụ nữ được tôn trọng và về nhiều mặt còn bình đẳng với đàn ông. Điều này được phản ánh trong những truyền thuyết, tín ngưỡng và nhất là biểu hiện một cách sinh động qua hình tượng người phụ nữ trong nghệ thuật tạo hình của văn hóa Đông Sơn. Trên đây là những đặc điểm chính của hôn nhân thời Hùng Vương. Tất cả thể hiện một bản sắc riêng, một phong cách dân tộc độc đáo được bảo lưu, kế thừa lâu dài trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Lê Thái Dũng
  17. Những bí mật ngỡ ngàng về mộng du Một y tá không biết gì về hội họa đã vẽ nên những kiệt tác nghệ thuật; người khác leo lên cần cẩu cao 40m để ngủ; thậm chí có người còn quan hệ tình dục trong khi… mộng du. Những pha mộng du kinh hoàng Một lần, vào khoảng 1h30 sáng, lính cứu hỏa ở đông nam Luân Đôn, Anh nhận được tin báo, một bé gái 15 tuổi có ý định tự tử khi leo lên chiếc cần cẩu cao hơn 40m. Nhưng khi lính cứu hỏa tới trợ giúp thì phát hiện ra cô bé đang nằm ngủ trên khối bê tông của một đầu tay cẩu. Khi tỉnh dậy, cô còn không nhớ tại sao mình lại có mặt trên chiếc cần cẩu đó. Người mộng du có thể đi trên mép hẹp của mái nhà (ảnh: Toiyeusuckhoe.com) Tháng 5 năm 2009, một cô gái mộng du đi luôn qua cửa sổ phòng ngủ của mình ở tầng 2. Rơi từ độ cao 7 mét rưỡi xuống đất, rất may cô gái còn đủ tỉnh táo để gọi người giúp trước khi lịm hẳn. Chưa hết sốc sau màn mộng du ngoạn mục, các bác sĩ đã trố mắt nhìn phim chụp khi nó cho thấy cô gái chả bị gãy một cái xương nào. Ngày hôm sau, cô gái 18 tuổi tỉnh dậy một cách khỏe mạnh.Kenneth Parks, 23 tuổi, sống tại Toronto, mắc chứng mất ngủ do dính dáng tới nhiều khoản nợ lớn. Một ngày nọ năm 1987, Parks mộng du, đứng dậy khỏi giường, lái xe một quãng đường 23 km và tới nhà mẹ vợ. Trong cơn vô thức, Parks đánh mẹ vợ đến chết và tấn công luôn bố vợ. Rất may ông bố vợ đã sống sót. Khi bị cảnh sát bắt, Parks còn chả nhớ mình đã làm những gì. Căn cứ vào lời khai, tiền sử bệnh mộng du và các yếu tố khác, Parks thoát tội giết người. Vào năm 2004, các chuyên gia về thuốc an thần đã chữa trị thành công cho một trường hợp vô cùng hiếm gặp: một người phụ nữ luôn ngủ với những người đàn ông lạ khi đang mộng du. Khi đêm xuống, người phụ nữ Úc tuổi trung niên bắt đầu mộng du, rời khỏi nhà và quan hệ tình dục với những người đàn ông lạ. Sự việc này diễn ra trong vài tháng và chính cô cũng không hề biết gì về những hoạt động về đêm của mình. Chỉ đến khi bạn trai cô bắt đầu tìm kiếm vào một đêm khi cô mất tích và mọi việc được phát giác từ đó. Các bác sỹ đã kết luận những hành động của cô hoàn toàn là một hiện tượng của mộng du và đã giúp cô chữa trị thành công căn bệnh quái lạ của mình. Phát huy khả năng tiềm tàng trong giấc ngủ Lee Hadwin là một y tá vào ban ngày, nhưng ban đêm anh lại là một “nghệ sỹ mộng du” – người đã tạo ra hàng loạt tác phẩm nghệ thuật lạ mắt và hấp dẫn nhưng lại không hề nhớ gì về chúng khi thức dậy vào sáng hôm sau. Y tá vẽ những bức tranh kiệt tác trong khi mộng du (ảnh: Oddee) Hadwin bị chứng mộng du từ khi lên 4 tuổi và bắt đầu sáng tác khi bước vào tuổi thiếu niên. Những tác phẩm của anh được vẽ trong lúc ngủ trên tất cả những đồ vật xung quanh như khăn trải bàn, báo chí, quần áo và tường nhà. Hadwin cảm thấy khó hiểu về khả năng vẽ tranh tranh trong đêm, vì ngay khi tỉnh giấc thì anh hoàn toàn không có một chút sở thích hay khả năng nào đối với nghệ thuật. Rút kinh nghiệm từ việc vẽ lên các đồ vật trong gia đình, Hadwin luôn chuẩn bị các vật liệu vẽ tranh trước khi đi ngủ, giấy vẽ và bút chì được để rải rác quanh nhà, đặc biệt là dưới cầu thang – nơi sáng tác yêu thích của anh. Robert Wood, một bếp trưởng 55 tuổi đến từ Glenrothes, Fife, nước Anh mắc phải chứng mộng du trong suốt 40 năm qua. Ông thức dậy khi đang ngủ từ 4-5 lần một tuần và vào bếp chuẩn bị các món ăn như trứng chiên, món xào, khoai tây chiên…Ông cho rằng một vết loét ở thành ruột có thể là nguyên nhân căn bệnh của ông bởi nó đã làm cho ông không thể ăn no và khi đêm xuống chính những cơn đói đã kéo ông đi vào bếp. Một cô gái 24 tuổi mắc bệnh mộng du đã được tiếp nhận vào bệnh viện làm hộ lý. Có lần vào ban đêm, bác sĩ trực đã chứng kiến cảnh tượng cô gái khoan thai đi lên tầng áp mái. Khi tới buồng cầu thang trên cùng, cô mở cửa sổ, đi ra và dạo bước trên mép mái nhà ngay trước mắt một cô hộ lý khác đang kinh hoàng theo dõi; sau đó cô đi vào bằng cửa sổ khác và xuống thang.Còn có người trong lúc mộng du có thể ngồi dịch sách từ tiếng Italia sang tiếng Pháp; nói tiếng nước ngoài như gió, trong khi anh ta chẳng biết tí nào về ngôn ngữ đó. Khi ngồi dịch, chỉ cặm cụi với quyển từ điển và tra từ dưới ánh sáng của ngọn nến đặt bên cạnh. Khi người ta tắt nến đi, anh ta lại châm nó lên, và tất cả những việc đó đều xảy ra trong giấc ngủ. Trong lúc vừa đi vừa ngủ, người bệnh thực hiện các động tác một các tự động mà không nhận thức được mình làm gì (ảnh: Anhso.net). Cứ 10 người thì có một người mộng du Chuyên gia về giấc ngủ, Irshaad Ebrahim, cho biết trong cơn mộng du người ta có thể lái xe hoặc cưỡi ngựa mà không hay biết gì hết. Có người thậm chí còn tìm cách lái trực thăng. Ông cho biết: “Thống kê cho thấy cứ 10 người có 1 người đã bị mộng du ít nhất một lần trong đời. Thường cơn mộng du không kéo dài và không nguy hiểm, nhưng đôi khi có thể dẫn tới thương tích”. Không có thuốc hay kỹ thuật y học nào có thể chữa được bệnh mộng du. Theo VNN
  18. Đưa ngôn ngữ chat vào từ điển tiếng Việt Đó là một gợi ý của GS.TS Nguyễn Đức Dân, nhân câu chuyện ban biên tập của bộ từ điển tiếng Anh danh tiếng Oxford vừa thông báo đã bổ sung thêm một số từ vựng của ngôn ngữ thời @. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.Trong thời đại hiện nay, hầu hết những người dùng máy vi tính không ít thì nhiều, đều đã từng “chat” - chuyện trò thân mật - trên bàn phím. Động từ tiếng Anh này có từ thế kỷ 15. Ngôn ngữ chat có những đặc điểm gì? Điều này phụ thuộc vào ba yếu tố chủ yếu: nhu cầu về tốc độ chat, quan hệ giữa những người chat, mục đích và những nội dung đề cập. Internet đã sinh ra một môi trường giao tiếp mới, ngữ cảnh mới và tất nhiên những từ vựng mới cho riêng nó. Nhu cầu về tốc độ Nói thì nhanh nhưng viết thì chậm. Nhu cầu thông tin nhanh trong khi chat dẫn tới hiện tượng rút gọn cả về ngữ pháp lẫn từ vựng. Rút gọn càng nhiều càng tốt miễn sao người giao tiếp hiểu được thông tin truyền đi. Nhằm thông tin nhanh, đã xuất hiện những từ tắt chính quy và không chính quy. Trong những văn bản chat và tin nhắn tiếng Anh gặp rất nhiều hiện tượng rút gọn thành những từ tắt (acronym), nhiều từ xuất hiện trước kỷ nguyên internet. Một số hiện tượng rút gọn được dùng trên mạng theo ngôn ngữ theo ý tưởng QWERTY (những chữ đầu tiên trên bàn phím vi tính) là ngôn ngữ hoà kết (blendings): ebook (→ electronic + book); 2moro (→ tomorrow); 2nite (→ tonight); B4 (→ before); B2B (→ Business to Business), B2C (→ Business to Customer)... – Rút gọn ngữ pháp: ASL? (→ what is your age, sex, location? – bạn bao nhiêu tuổi, giới tính, ở đâu?) Mar...d or sing? (→ Are you married or single? – Bạn có gia đình chưa?) – Chỉ dùng các chữ đầu: OMG (→ Oh My God – Chúa ơi!); tbh (→ To be honest: Thành thật mà nói); ntn (→ như thế nào), sn (→ sinh nhật), a (→ anh); e (→ em); ty (→ tình yêu). Ví dụ: “Hum ni là sn of e và là ngày kỷ niệm 4 ty of chúng mình. A còn nhớ không a?” (Hôm nay là sinh nhật của em và là ngày kỷ niệm cho tình yêu của chúng mình. Anh còn nhớ không anh?) – Lược bớt con chữ: bi g (bây giờ); ko (không)... – Dùng số thay chữ: 8 (tám); 4 (four, đôi khi for); 0 (không)… Ví dụ: “Mấy pà 8 zì mà 8 hoài thía? 4 tui 8 với coi nè” (Mấy bà tám gì mà tám hoài thế? Cho tôi tám với coi nè). – Dùng ký hiệu: ~ (những ); # (khác). Ví dụ: “Em mún có ~ kái # mới cơ” (Em muốn có những cái khác mới cơ). Quan hệ giữa những người chat Mối quan hệ giữa những người chat dẫn tới đặc điểm văn hóa của ngôn ngữ chat. Khi những người quen biết có quan hệ bạn bè, gia đình, thầy trò, đồng nghiệp, bạn hàng… chat với nhau, khi người viết blog có vị trí xác định trong xã hội thì ngôn ngữ chat được dùng đúng những chuẩn mực văn hoá – xã hội như yêu cầu của cuộc nói chuyện trực tiếp bằng lời. Nhưng trong những cuộc chat mà phần lớn những người chat dùng nickname - biệt danh - và không biết nhau thì đây là những giao tiếp không cần có không gian văn hoá về tôn ti, thứ bậc tuổi tác, vị trí xã hội, nhu cầu lịch sự, giữ thể diện… Lúc đó khả năng xuất hiện thứ ngôn ngữ vô văn hoá rất cao. Người chat sẵn sàng nói xấu nhau, tung tin thất thiệt, xưng hô bừa bãi, chỉ cần hơi trái ý là nặng lời thoá mạ, mắng chửi nhau, nói năng tục tĩu… gây ra những văn bản chat, những trang blog xấu xa. Xã hội dị ứng với loại ngôn ngữ chat này. Mục đích và những nội dung được đề cập Những cuộc chat của giới trẻ 8X, 9X nhằm nói theo cách vui nhộn những thông tin riêng tư đồng thời muốn khẳng định mình, sẽ dẫn tới thứ ngôn ngữ chat lạ hóa tiếng Việt, mà xã hội đặc biệt quan tâm và lo lắng chúng làm biến dị tiếng Việt. Lạ hoá tiếng Việt bình thường theo cách: a) dùng xen tiếng nước ngoài; B) dùng phương ngữ tuỳ tiện; c) dùng những ký tự lạ, biến đổi tuỳ tiện con chữ; d) thay đổi, rút gọn tuỳ tiện âm đầu, thanh điệu, nguyên âm, âm cuối trong một vần. Như: “Pùn nhủ mún chít mà zẫn fải học” (Buồn ngủ muốn chết mà vẫn phải học); “Tua^n` naizz` hum~ koa’ gi` dang’ ke^~… hum~ lum` dc gi` hit” (Tuần này hổng có gì đáng kể… hổng làm được gì hết)… Vui nhộn theo cách nói vần như đọc vè và tạo ra những từ khó hiểu, hoặc vô nghĩa: “ngu như cái xe… lu”, “xinh như con tinh tinh”, “nhí nhảnh như con cá cảnh”… Lạ hoá theo cách dùng từ ngữ 3T (Ta - Tàu - Tây) lẫn lộn: “Say rượu rồi lại Livơphun (Liverpool) ra đấy hả?” (Say rượu rồi lại phun ra đấy hả?); “Còn nói nữa à, hôm nay tao “phiu chờ” (future) mày “đầu lâu” quá nên đi học vội vội vàng vàng, bị liptông (Lipton) một phát vẫn chưa hết cay “chim cú” đây này” (Hôm nay tao chờ mày lâu quá nên đi học vội vội vàng vàng, bị tông một phát vẫn chưa hết cay cú đây này). Với những thông tin riêng tư cần giữ bí mật đặc biệt, trước hết với bố mẹ, người chat phải dùng tiếng lóng. Nếu là tiếng lóng dùng trong một nhóm xã hội như thế hệ 8X hoặc 9X thì vẫn có “mật mã” của nó. Thứ tiếng lóng riêng cho hai người thì không có quy luật, và dẫn tới những quái dị ngôn từ, rất khó phát hiện nội dung. Có những từ ngữ chat nghiêm chỉnh không chỉ tồn tại trong thế giới online mà đang thâm nhập cả vào đời sống hàng ngày, được nhiều người chấp nhận. Xã hội cũng đã dần “thích nghi” với chúng. Ý thức được điều này, có không ít những từ viết tắt, tiếng lóng được dùng phổ biến trong các dịch vụ chat hay tin nhắn đã chính thức có mặt trong Từ điển OED (Oxford English Dictionary). Tiếng Việt không là ngoại lệ. Chỉ cần hai luận án tiến sĩ về đề tài này - ngôn ngữ chat và tiếng lóng - chúng ta có thể xác định được những từ ngữ chat thông dụng cần được coi là những đơn vị của tiếng Việt hiện nay và tương lai, để chính thức đưa vào từ điển tiếng Việt. Theo GS.TS Nguyễn Đức Dân SGTT
  19. Lễ Dâng Hương Quốc Tổ Lạc Hồng và Offline các lớp Phong Thủy Lạc Việt Mồng 10 tháng 3 Tân Mão. Việt lich TP.HCM, 15h ngày 12/03/2010 nhằm ngày Mồng 10 tháng 3 năm Tân Mão, Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương tổ chức Lễ dâng hương Giỗ Tổ Hùng Vương tại đền Quốc Tổ Lạc Hồng, số 93 Nguyễn Thái sơn - Gò Vấp. Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương - thầy Thiên Sứ, cùng nhiều thành viên các lớp Phong Thủy và thành viên sinh hoạt tại diễn đàn đã tham gia buổi lễ dâng hương đầy ý nghĩa này. Phần 1 : Lễ Dâng Hương Tưởng Niệm Vua Hùng Điện thờ vua Hùng Mọi người cùng nhau thành kính hành lễ tưởng niệm vua Hùng, mong muốn phục hưng nền văn hiến Việt trải gần 5000 nănm lịch sử. Sư phụ Thiên Sứ mở đầu buổi dâng hương Lần lượt các học viên và thành viên diễn đàn LHĐP dâng hương Vua Hùng Điện thờ Tổ Mẫu Âu Cơ Kính lễ Tổ Mẫu Âu Cơ Điện thờ Tam Hoàng Viêm Đế Thần Nông. Dâng hương Viêm Đế Thần Nông.
  20. Còn mấy câu khẩu quyết nữa : - Yêu nhau cứ lấy (cứ lấy đi rồi mọi chuyện tính sau ) - Dương đắc âm vi tài - Âm đắc dương vi quan - Dở hơi biết bơi
  21. Bí ẩn chữ viết thời Hùng Vương (VTC News) - Ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa, phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu.Để chứng minh thời kỳ Hùng Vương đất nước ta có chữ Viết, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền đã đến hàng trăm đền, đình, miếu để khảo cứu. Càng tìm hiểu, ông càng ngạc nhiên khi thấy khắp đất nước ta, có cả trăm đền, miếu thờ thầy giáo, học trò. Ông đã đi khắp các tỉnh, từ Đông Bắc sang Tây Bắc, đi hết miền Trung để mục sở thị các di tích, ghi chép lại, lập bản đồ mạng lưới dạy học thời Vua Hùng, trước khi người Hán sang xâm lược. Ông Xuyền (bên trái) trao đổi với các nhà nghiên cứu của Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam. Ảnh nhân vật cung cấp. Trong quá trình khảo cứu, tìm tư liệu, ông Xuyền may mắn tiếp cận được những tài liệu mà người Pháp thu thập trong cuộc tổng kiểm kê các di tích, làng xã vào năm 1938. Rồi các công trình như: Thần linh đất Việt, Các nữ thần Việt Nam, Các nữ tướng của Hai Bà Trưng… Ông Xuyền đã tìm thấy cả trăm di tích nói về thầy, trò, lớp học. Theo đó, mở đầu của nền giáo dục trước khi Hán xâm lược, là thời Hùng Vương thứ 6 và kết thúc là thời Hai Bà Trưng với thầy Đỗ Nam Tế, cô Tạ Cẩn Nương, thầy Lê Đạo, sư bà chùa Phúc Khánh… Có điều lạ là, vào thời kỳ đó, có rất nhiều cô giáo và học trò nữ, chứng tỏ, thời Hùng Vương, nam nữ rất bình quyền. Tại đền thờ Lỗ Công ở thôn Bồng Lai (Từ Liêm), còn một tấm bia cổ ghi rõ: Thầy giáo Lỗ Công dạy học ở Kinh Thành (Văn Lang). Học trò của thầy Lỗ Công là Hoàng Trụ, con của công chúa Mỵ Châu Hoa (con gái Hùng Đinh Vương, Vua Hùng 16). Hoàng Trụ biết chữ, về thôn Bồng Lai mở lớp, dạy học. Do có công với dân làng, nên dân làng lập đền thờ phụng. Bản đồ mạng lới đền, miếu thờ thầy cô, học trò thời Hùng Vương do ông Xuyền lập. Sau khi phát hiện hàng trăm thầy, cô, học trò thời Hùng Vương (với ghi chép cụ thể, đầy đủ), thầy giáo Đỗ Văn Xuyền khẳng định rằng, thời Hùng Vương, đất nước ta đã có chữ viết. Nếu không có chữ, chẳng lẽ hệ thống giáo dục của thời kỳ này lại dạy chay? Có tài liệu của người Hán viết rằng, năm 178, Sĩ Nhiếp làm Thái thú đất Giao Châu, thấy vùng Giao Châu không có chữ viết, nên đưa chữ Hán vào dạy. Tuy nhiên, lịch sử từ nước ta khẳng định rằng, Sĩ Nhiếp đã đốt sạch tài liệu, sách vở, cấm người dân học chữ Việt, bắt buộc phải học chữ Hán. Hàng ngàn năm Bắc thuộc, chữ Việt mai một rồi biến mất cũng là điều dễ hiểu. Chữ cổ trên trống đồng trưng bày ở Đền Hùng. Càng tìm hiểu, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền càng tin rằng người Việt từng có chữ viết riêng. Người Lào, người Campuchia, thậm chí các dân tộc thiểu số quanh vùng còn có ngôn ngữ, chữ viết riêng, thì không lẽ gì người Việt lại không có chữ. Mang công trình ghi chép hành trình đi tìm các lớp học thời Hùng Vương gặp GS. Hà Văn Tấn để trình bày khát vọng muốn đi tìm chữ Việt cổ, ông Xuyền đã bị ấn tượng mạnh. Khi đó, GS. Hà Văn Tấn đã nằm liệt, không cử động được nữa. GS. Tấn cứ nắm tay ông Xuyền khóc không ngừng. GS. Tấn đã dành cả đời để nghiên cứu chữ Việt cổ, song công trình nghiên cứu còn dang dở thì ông đã nằm liệt, không tiếp tục được nữa. Sau này, ông Xuyền tiếp tục gặp GS. Lê Trọng Khánh, người cũng dành gần như cả cuộc đời để nghiên cứu chữ Việt cổ. Khi đó, GS Khánh đã 86 tuổi, mắt mờ, chân yếu. Ông Khánh khóc to lắm, rồi cứ nắm tay ông Xuyền dặn dò, động viên tiếp tục công việc nghiên cứu còn dang dở của ông. Chữ cổ trên bãi đá Sapa. Ảnh nhân vật cung cấp. Sau khi gặp hai vị giáo sư hàng đầu về chữ cổ, niềm khao khát giải mã chữ Việt cổ của thầy giáo Đỗ Văn Xuyền lại càng mãnh liệt. Nhưng trước hết, để giải mã được chữ Việt cổ, thì phải có trong tay nhiều chữ cổ. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần quy, bối hữu Khoa đẩu”. Nghĩa là, thời vua Nghiêu nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu. Theo cổ sử Trung Quốc, thời vua Nghiêu (năm 2357 TCN), sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) dâng thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch. Ông Xuyền viết chữ Việt cổ cho tác giả xem. Trong tài liệu “Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ”, do Viện Văn hóa in năm 1986, GS. Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy - Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Riêng ở Việt Nam, chữ Khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng.Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... trước đó là Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Việt sinh sống. Tiêu biểu là 28 ký tự cổ được phát hiện trên 4 chiếc qua đồng Đông Sơn. Các nhà khoa học cho rằng, những ký tự này là chữ Việt cổ, nhưng chưa giải mã được. Hễ nghe thông tin ở đâu phát hiện ký tự lạ, cổ, ông Xuyền lập tức lên đường tìm hiểu, bất kể ở trên rừng hay dưới biển, ở ngoài Bắc hay trong Nam và dù trời mưa nắng hay bão giông. Bản thảo chữ cổ do ông Vương Duy Trinh phát hiện. Do các chuyến đi đều dài ngày, đi xa, mà tiền lương hưu ít ỏi, nên ông giáo già Đỗ Văn Xuyền đã thực hiện tiết kiệm tối đa. Mỗi chuyến đi, ông đều chuẩn bị võng, bạt, bi đông đựng nước, mì tôm, bánh mì. Tối ông không vào nhà nghỉ mà mắc võng, dựng bạt ngủ ven rừng, bên đường, rồi nhai bánh mì, mì tôm sống cầm hơi. Hàng chục chuyến hành trình vất vả, kéo dài có khi đến cả tháng, nhưng thứ chữ ông thu thập phần lớn chỉ là chữ Chăm, chữ Lào, chữ Thái cổ. Đọc tài liệu về ông Phạm Thận Duật, ông Xuyền như bắt được vàng. Phạm Thận Duật là quan triều Nguyễn, từng làm Tri châu ở Tây Bắc, là một nhà văn hóa lớn của dân tộc. Cuối thế kỷ 19, ông tìm thấy chữ Việt cổ. Theo mô tả, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần trắc. Thứ chữ này khác với chữ Thái cổ, khác chữ Hán. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu, giải mã chữ Việt cổ của ông Duật còn dang dở, thì bị thực dân Pháp bắt. Ông bị đày đến Tahiti. Ông bị chết trên đường đi và thực dân Pháp ném xác ông xuống biển. Cùng thời gian đó, ông Xuyền tiếp cận được các tài liệu liên quan đến ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa. Năm 1903, ông này đã phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu. Ông Vương Duy Trinh khẳng định đây là chữ của tổ tiên thời Vua Hùng, vẫn còn được lưu truyền cho hậu thế, nhưng chỉ ở một bộ phận xã hội nhỏ. Ông viết: “Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ này. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Hán". Nắm được điều đó, ông Xuyền đã chuyển hướng tìm kiếm chữ cổ lên vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Cứ ở đâu có chữ lạ, chữ cổ, chữ không ai biết, không ai đọc được, là ông nghiên cứu, sưu tầm, so sánh. Còn tiếp… Phạm Ngọc Dương
  22. Sự thật ngôi miếu thờ thầy trò thời Hùng Vương (VTC News) - Vợ chồng thầy cô giáo được song táng trong lòng miếu và được người dân thôn Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt 2.300 năm. Ông Đỗ Văn Xuyền sinh năm 1937, quê gốc ở Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông tình nguyện lên Việt Trì dạy học. 22 tuổi, ông làm hiệu trưởng trường cấp 2. Khi đó, học sinh cấp 2 thậm chí lớn hơn cả thầy giáo. Ngày đó, trường mới lập nên còn hoang sơ lắm. Sau giờ học, thầy trò phải lao động cật lực, đào đất, san nền lấy mặt bằng để dựng trường, làm sân chơi. Trong quá trình đào bới, san lấp, ông cùng học trò của mình đào được vô số đồ cổ bằng đồng như giáo, mác, mũi tên, trống đồng và các loại đồ gia dụng... Học trò còn gánh đồ cổ về lớp chơi, tặng cho thầy giáo. Ông giáo Đỗ Văn Xuyền và tài liệu giải mã chữ Việt cổ. Thấy vùng đất này có quá nhiều đồ cổ, hiệu trưởng Đỗ Văn Xuyền lục lại sách vở, nghiên cứu lịch sử. Hóa ra, trường học nơi ông dạy từng là kinh đô Văn Lang với những địa danh nổi tiếng như Lầu Thượng, Lầu Hạ, Kẻ Lư, Thậm Thình, Mã Quàng… Nghiên cứu những đồ cổ thu thập được, lục lại lịch sử, thầy giáo trẻ Đỗ Văn Xuyền cảm nhận thấy rằng, lịch sử cổ xưa của nước mình chứa đựng nhiều điều vĩ đại lắm, chứ không đơn giản như sách sử của người Trung Quốc và cả Việt Nam viết. Với sự trân trọng lịch sử, cổ vật, thầy giáo trẻ Đỗ Văn Xuyền đóng gói hàng trăm cổ vật mà ông và học sinh đào được, gửi về Sở Văn hóa thông tin Phú Thọ cất giữ. Ngôi miếu thờ thầy giáo và học trò có tên miếu Hai Cô. Những năm bom Mỹ bắn phá miền Bắc, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền lại xung phong lên vùng Tây Bắc dạy học. Vừa dạy học, ông Xuyền vừa bỏ công tìm hiểu văn hóa của đồng bào dân tộc, sáng tác văn học. Năm 1980, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền trở về Việt Trì với cương vị Chủ tịch Hội Văn nghệ, kiêm Trưởng ban Văn hóa xã hội của Thành phố Việt Trì. Lúc này, ông đã là một nhà văn, có một số tác phẩm gây tiếng vang, với bút danh Khánh Hoài. Niềm đam mê nghiên cứu văn hóa, sáng tác văn học lại thêm thôi thúc ông đi tìm hiểu về lịch sử thời Hùng Vương của người Việt. Ông tích cực đi điền dã, tìm hiểu thực tế ở các thôn xóm, làng xã, nghiên cứu đền miếu… Sắc phong trong ngôi miếu cổ. Ảnh: Nhân vật cung cấp. Ông giáo Đỗ Văn Xuyền kinh ngạc khi phát hiện ra một ngôi đền thờ rất nhỏ, song lại thờ mẹ đẻ của Lạc Long Quân, vợ Kinh Dương Vương. Người trông đền thờ lại còn khẳng định ngôi mộ ở cạnh đền là mộ của bà. Với gần 5.000 tuổi, ông Xuyền biết rằng, sẽ chẳng còn xương cốt dưới mộ. Nhưng qua ngôi đền, ngôi mộ, ông Xuyền thấy rằng, người dân cố đô Văn Lang có ý thức bảo tồn di tích lịch sử rất tốt. Đó là điều kiện rất thuận lợi để ông đi sâu tìm hiểu văn hóa, lịch sử thời Hùng Vương. Tiếp tục điền dã, ông phát hiện một ngôi đền nhỏ xíu, cực kỳ cổ kính, cũ kỹ bên đường. Đó là đền thờ bà Thục Nương, Đại tướng của Hai Bà Trưng. Sau này, ông liên hệ với chính quyền và người ta đã xây dựng lại rất khang trang. Tài liệu ghi chép thông tin về ngôi miếu Hai Cô. Một ngôi miếu nhỏ đã làm thay đổi suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng và định hướng nghiên cứu của ông Xuyền, đó là miếu Hai Cô. Đó là lần điền dã qua quả đồi nhỏ ở thôn Hương Lan, trung tâm cố đô nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương, ông thấy một ngôi miếu cổ kính, tường nứt loang lổ, có diện tích bằng hai manh chiếu, nằm dưới gốc hai cây táu ngàn năm tuổi, to đến 4-5 người ôm. Mỗi khi hè về, hai cây táu lại rải những cánh hoa vàng, hoa bạc trên mái ngói rêu phong, càng tạo vẻ u tịch. Tò mò với ngôi miếu lạ, ông Xuyền tìm cụ Nguyễn Hữu Bồng, người được dân làng phân công trông nom miếu, để tìm hiểu. Ông Bồng kể, năm 1978, Hợp tác xã nông nghiệp Động Lực đã hô hào xã viên chặt hai cây táu để làm củi nung gạch. Các cụ già trong thôn đã kéo nhau ra miếu phản đối. “Cuộc đấu” giữa một bên đòi chặt và một bên đòi giữ diễn ra rất căng thẳng. Cuối cùng, ông Bồng đã ôm chặt thân cây kêu lớn: “Nếu các anh định chặt cây thì chặt xác tôi đã. Tôi không cho phép các anh phá nơi thờ tự thầy cô giáo”. Tượng thầy giáo Vũ Thê Lang và cô giáo Nguyễn Thị Thục. Mộ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang trong miếu Hai Cô. Chuyện cụ Bồng kể khiến ông Xuyền rất ngạc nhiên. Rõ ràng tên miếu là Hai Cô, nhưng sao lại thờ thầy giáo? Tìm hiểu kỹ các văn bản, thư tịch lưu lại trong miếu và qua lời kể của ông cụ Bồng, thì thực tế, ngôi miếu này lại thờ thầy giáo thời Vua Hùng, có tên họ hẳn hoi là Vũ Thê Lang, quê ở Mộ Trạch (Hải Dương). Theo đó, thầy giáo Vũ Thê Lang đã cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn (Kinh Bắc), đã lên vùng này dạy học vào thời Vua Hùng thứ 18. Thầy cô đã chết vào cùng một giờ, ngày 2-2 năm Quý Dậu (288TCN). Vợ chồng thầy cô giáo được song táng trong lòng miếu và được người dân thôn Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt 2.300 năm. Trên bàn thờ của ngôi miếu vẫn còn tượng thầy cô và đặc biệt có 2 cô gái cùng 2 thị nữ theo hầu. Tượng hai cô gái đó là công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con gái Vua Hùng 18, là học trò xuất sắc của thầy Vũ Thê Lang. Tại ngôi miếu còn có bức Hoành Phi nhỏ ghi “Thiên Cổ miếu” và đôi câu đối dài chừng 1m: “Hùng lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên chính khí linh từ”. (Tạm dịch: “Thắng tích: Dấu xưa Hùng Lĩnh/ Đền thiêng: Nguồn sáng trời Nam). Hoành phi được khắc chữ Việt cổ do thầy giáo Đỗ Văn Xuyền thực hiện. Những thông tin về ngôi miếu cổ này không phải do ông Đỗ Văn Xuyền bịa ra, mà nó được dân gian kể lại, có cả văn bản ghi chép, tất nhiên là thế hệ sau ghi lại, chứ không phải bằng chữ cổ thời Hùng Vương. Qua ngôi miếu này, ông Xuyền nhận ra rằng, từ thời Hùng Vương, tức là trước khi người Hán sang đô hộ, nước Văn Lang đã có lớp học, đã có thầy giáo, cô giáo, đã có học trò, và tất nhiên là phải có chữ viết. Việc phát hiện một ngôi đền thờ thầy cô giáo, học trò từ thời Hùng Vương, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền suy luận thời Hùng Vương có chữ viết, quả không có gì phi lôgic. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về ngôi đền này, tôi có một số lăn tăn mà chưa tìm được lời giải đáp. Theo gia phả họ Vũ Việt Nam, thủy tổ của hai dòng họ này là Vũ Hồn (sinh năm Giáp Thân 804 và mất năm Quý Dậu 853). Vũ Hồn là con của bà Nguyễn Thị Đức và ông Vũ Huy. Bà Đức quê ở Mạn Nhuế (Thanh Lâm, thuộc Chí Linh, Hải Dương bây giờ). Ông Vũ Huy là người làng Mã Kỳ (huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc). Trong lần du ngoạn sang ấp Cổ Nhuế, ông Huy lấy bà Đức và sinh ra Vũ Hồn. Ngôi mộ được cho là của bà Nguyễn Thị Đức, mẹ đẻ của người được cho là thủy tổ họ Vũ là ông Vũ Hồn. Mộ đặt tại xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương. Vũ Hồn đỗ thi Đình khi mới 16 tuổi, tinh thông cả thiên văn, địa lý, phong thủy. Năm 825 ( Ất Tỵ) đời vua Đường Kính Tông, niên hiệu Bảo lịch thứ nhất, Vũ Hồn được cử sang An Nam làm Thứ sử Giao Châu. Sau khi rời quan trường, Vũ Hồn về Hải Dương lập trang ấp, xây dựng nhà cửa, dinh cơ, gọi con cháu, nhân dân quanh vùng về ở, tạo nên xóm nhỏ, đặt tên là Khả Mộ Trang, tức là làng Mộ Trạch (Bình Giang, Hải Dương bây giờ). Vì thế, họ Vũ coi Vũ Hồn là thủy tổ của dòng họ và coi làng Mộ Trạch là nơi phát tích của dòng họ này. Như vậy, tìm hiểu gia phả họ Vũ và ngôi đền thờ thầy giáo Vũ Thê Lang, sẽ thấy có điểm mâu thuẫn rất lớn. Nếu căn cứ vào gia phả họ Vũ, thì họ Vũ và làng Mộ Trạch, mới xuất hiện ở nước ta 1.200 năm nay, vào thời Bắc thuộc. Vậy, thông tin ông thầy giáo Vũ Thê Lang quê ở làng Mộ Trạch, dạy học thời Vua Hùng, tức là cách ngày nay 2.300 năm là rất vô lý. Qua những thông tin này, sẽ có 2 giả thuyết: Thứ nhất, thầy giáo Vũ Thê Lang không thể dạy học từ thời Vua Hùng nếu ông Vũ Hồn là thủy tổ họ Vũ (Trong khi thời Vua Hùng, không thấy nhắc đến họ, ngay cả hai cô học trò được thờ trong đền là Ngọc Hoa và Tiên Dung cũng không có họ, nhưng vợ chồng thầy giáo lại có họ đàng hoàng). Thứ hai, thủy tổ họ Vũ không phải ông Vũ Hồn, mà thủy tổ họ Vũ phải từ thời Văn Lang, nếu thực tế có ông thầy giáo Vũ Thê Lang dạy học thời Vua Hung! Như vậy, việc căn cứ vào ngôi miếu Hai Cô thờ thầy cô và học trò khẳng định có lớp học thời Hùng Vương chưa thuyết phục. Tất nhiên, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền không dừng lại ở việc phát hiện hai ngôi miếu đầu tiên này để khẳng định thời Hùng Vương có chữ viết. Còn tiếp… Phạm Ngọc Dương
  23. Người 50 năm giải mã chữ của tổ tiên người Việt (VTC News) - Ông Xuyền nói: “Đây là chữ Khoa đẩu, chữ của người Việt cổ, của tổ tiên chúng ta. Từng chữ bốc lên như ngọn lửa, nên gọi là Hỏa tự”. Trong tôi trào dâng niềm xúc động, mặc dù, nhìn vào những dòng chữ đó, tôi chả hiểu được điều gì. Tôi nhớ mãi cái buổi tại Trung tâm Văn hóa người cao tuổi ở phố Đặng Văn Ngữ (Đống Đa, Hà Nội), vào cuối năm 2007, ông giáo già người Phú Thọ, đã thuyết trình cả buổi trước 40 nhà khoa học, toàn các giáo sư, tiến sĩ, các nhà sử học, ngôn ngữ học, văn học nước nhà. Lúc thì trên máy chiếu, lúc trên bảng đen, ông như thầy giáo của thời xưa cũ, và các nhà khoa học lớn của nước nhà, như những học trò, ngồi nghe ông thuyết giảng về một loại ký tự lạ. Loại ký tự lạ ấy không phải của người ngoài hành tinh, mà chính là của tổ tiên chúng ta! Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giảng giải về chữ Việt cổ (Ảnh: nhân vật cung cấp). Tôi cũng từng được nghe đâu đó, trong sử sách, truyền thuyết, rằng tổ tiên ta cũng có chữ cổ, rằng thứ chữ ấy có tên Khoa đẩu. Quả thực, tôi rất tò mò về loại chữ này. Tôi đã nhiều lần đến bãi đá cổ Sapa, đôi ba lần đến bãi đá cổ Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La, hiện các hòn đá đã được khai quật, giải phóng cho lòng hồ thủy điện Sơn La), bãi đá cổ ở Xín Mần (Hà Giang) và vinh dự là người đầu tiên được “người rừng” Trần Ngọc Lâm dẫn vào đại ngàn Hoàng Liên Sơn tận mắt bãi đá có hình khắc chưa từng được biết đến. Tuy nhiên, với khả năng hạn hẹp (gần như bằng không về cổ tự), tôi chỉ quan sát cho thỏa trí tò mò. Những hình vẽ loằng ngoằng đó liệu có phải cổ tự không, thú thật, tôi còn chẳng biết. Theo các nhà khoa học, trên bãi đá cổ Sapa xuất hiện nhiều chữ Việt cổ. Hôm nghe ông thầy giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền nói như lên đồng trước đông đảo các nhà khoa học, trong hội trường chật hẹp, về một thứ chữ cổ của người Việt, đã thất truyền, giờ được ông giải mã, không riêng gì tôi, nhiều nhà khoa học vô cùng xúc động. Dù thứ ngôn ngữ và cách giải mã của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền chưa được thừa nhận chính thức, song nó đã khẳng định một điều, rằng đất nước ta, rằng người Việt chúng ta, từ mãi thời Vua Hùng, từ tận thời Đông Sơn mấy ngàn năm trước, đã từng có chữ. Chữ là văn minh, chữ là thịnh vượng. Rằng chúng ta không phải những người “ăn nhờ” văn hóa, “đi mượn” chữ viết của các dân tộc khác. Điều này quan trọng biết bao, ý nghĩa biết bao và bớt đi tủi nhục biết bao. Tác giả bên một hòn đá có chữ lạ ở bãi đá cổ Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La). Và ở bãi đá có hình khắc chưa từng được biết đến trong rừng Hoàng Liên Sơn. Bẵng đi mấy năm, câu chuyện giải mã chữ Việt cổ, cách đọc chữ Việt cổ của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền cũng chìm vào quên lãng. Không thấy người ta hội thảo, không thấy bàn tán, chẳng thấy khen chê, ủng hộ, cũng chả thấy ai phản bác cái công trình 50 năm trời lặn lội của ông giáo giá kia. Chẳng lẽ công trình tưởng như không có gì lớn bằng, không có gì ý nghĩa bằng kia, là thứ vô tác dụng, là thứ nói ra cho biết rồi tống vào tủ cho mối mọt gặm? Ngày giỗ Tổ đến, cả triệu người dân nước Việt nô nức trẩy về đền Hùng, nơi thờ đức tổ Hùng Vương, với 18 chi, không biết bao nhiêu đời vua đã dựng xây, bảo vệ đất Việt suốt 2622 năm ròng (Từ thời Kinh Dương Vương 2879 TCN đến thời Thục Phán thôn tính nước Văn Lang 258 TCN). Tôi cũng hòa vào dòng người mang nỗi niềm xúc động tìm về tổ tiên. Trong lòng trào dâng bao ý nghĩ, bao thắc mắc về một thời khắc lịch sử rất dài mà có nhiều lộn xộn, khó hiểu. Thời đại Hùng Vương như một đám mây mênh mang, linh thiêng, bí ẩn và chưa được giải mã. Chữ Việt cổ chỉ còn rải rác xuất hiện trên những đồ vật thời Đông Sơn, trong đó có trống đồng. Lang bang với những ý nghĩ ấy, tôi chợt nhớ đến cái buổi hội thảo năm kia, ông giáo già tỉnh lẻ Đỗ Văn Xuyền, bằng công trình tâm huyết với tổ tiên, đã dựng lại cả một thời đại hùng tráng, thịnh vượng chả kém gì các nền văn minh rực rỡ của thế giới cổ đại. Thế là, rồi rời dòng người hối hả lên đền Hùng, tìm gặp ông giáo già Đỗ Văn Xuyền. Ngôi nhà khang ở con phố nhỏ phường Tân Dân (Việt Trì), ngay cạnh Công an tỉnh Phú Thọ lúc nào cũng im ỉm khóa, khóa cả cửa kính lẫn cửa sắt. Cạnh đó, có quán nhậu thịt trâu 7 món và cá sông Hồng nổi tiếng của Việt Trì, khách rất đông, ồn ào, náo nhiệt. Tôi bấm chuông mấy lần, người đàn bà mới ì ạch ra mở cửa. Bà nhìn tôi với ánh mắt không được thiện cảm. Tôi giới thiệu là nhà báo, bà bảo tôi vào ghế ngồi, rồi bà ngúng nguẩy lên gác. Ông Xuyền với bức tranh mà ông mô tả bằng hình ảnh và chữ viết của người Việt cổ. Một lát sau, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền từ gác đi xuống. Câu đầu tiên ông nói: “Cậu thông cảm. Bà vợ coi tôi là kẻ vô tích sự, toàn ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Bà ấy sợ các cậu đến, các nhà khoa học đến, lại thổi bùng lên nhiệt huyết trong tôi, rồi tôi lại bỏ nhà, bỏ mặc bà ấy lên đường tìm chữ cổ. Đấy là bà ấy nghĩ thế thôi, chứ niềm đam mê nghiên cứu chữ cổ đã ngấm vào máu của tôi hơn 50 năm nay rồi, cậu có động viên hay không thì tôi cũng vẫn say mê nghiên cứu. Suốt 50 năm trời, tôi tự mày mò, nghiên cứu, có cần ai động viên, ai cho tiền bạc gì đâu”. Lúc này, tôi mới hiểu rõ tâm tư bà vợ của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền. Cũng chả trách bà được. Công sức, tiền bạc, ông không dành cho gia đình, mà phục vụ thiên hạ, làm sao khiến phụ nữ vui cho được. Những tài liệu chữ Việt cổ được ông Xuyền bảo quản cẩn thận trong tủ kính. Tôi ngồi trò chuyện với ông Xuyền, vợ ông mang đên cốc nước rồi “lên án” chồng: “Ngày nào ông ấy cũng thức đến 12 giờ đêm nghiên với chả cứu. 3 giờ sáng ông ấy đã thức dậy rồi không ngủ nữa, cứ hì hục nghiên cứu chữ nghĩa. Mà cái thứ chữ ông ấy nghiên cứu có bán được đâu, có ăn được đâu. Tôi ở cùng nhà ông ấy, nhưng mấy chục năm nay, có mấy khi thấy mặt ông ấy đâu. Tiền lương hưu của ông ấy có hơn 2 triệu bạc, chả đủ để phô tô tài liệu, chứ đừng nói đến chuyện đi khắp trong Nam ngoài Bắc, lên rừng xuống biển. Có tiền ông ấy cũng đi, không có tiền ông ấy cũng đi, tôi ốm ông ấy cũng không thèm về, chả quan tâm gì đến cái gia đình này cả”. Những lời trách cứ của bà vợ, đã nói rõ nhiệt huyết của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền. Không bỏ nửa thế kỷ tâm huyết, không hy sinh tất thảy, làm sao ông Xuyền có thể hoàn thành một công trình lớn như vậy, công trình mà hàng trăm nhà khoa học đầu ngành về ngôn ngữ, lịch sử, đã ôm hận xuống suối vàng khi việc nghiên cứu còn dang dở. Ông Xuyền dịch Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng sang chữ Việt cổ. Nói điều này, không có nghĩa tôi công nhận công trình giải mã, phục hồi chữ Việt cổ của ông thầy giáo Đỗ Văn Xuyền là thành công tuyệt đối (việc này phải ở tầm cỡ quốc gia, quốc tế công nhận đã), nhưng tôi phải công nhận rằng, tâm huyết, trí tuệ của ông với văn hóa quốc gia là đáng trân trọng. Để bắt đầu câu chuyện hành trình đi tìm chữ cổ kéo dài hơn 50 năm trời, ông Đỗ Văn Xuyền chọn lọc trong đống tài liệu ngập tủ tủ kính phòng khách và phòng làm việc trên tầng 2 của ông cho tôi xem. Tôi lật từng trang tài liệu mà hoa cả mắt, rặt là một thứ chữ lạ, chẳng giống chữ Hán, chẳng giống chữ Nôm, cũng chẳng ra chữ Lào, chữ Thái. Ông Xuyền nói: “Đây là chữ Khoa đẩu, chữ của người Việt cổ, của tổ tiên chúng ta đấy. Từng chữ bốc lên như ngọn lửa, nên gọi là Hỏa tự”. Trong tôi tự dưng trào dâng niềm xúc động, mặc dù, nhìn vào những dòng chữ đó, tôi chả hiểu được điều gì. Còn tiếp… Phạm Ngọc Dương
  24. Hihi, tại sao nhân đinh thì ở trần đóng khố cho giống thời Hùng Vương mà các bác trong ban tổ chức lại áo dài khăn đống lại ko ở trần đóng khố cho đồng bộ mà mặc áo dài đỏ nhỉ? vậy mới ra Lạc Hầu Lạc Tướng chứ :D :D
  25. Cập nhật tiếp tục 1 số hình ảnh của buổi Offline Từ trái qua : dangkhoi79, Châu Thế Vinh, Thiên Đồng, Nguyên Anh Từ trái qua : Hoangnt, cô WildLavender, anh Công Minh, An Thanh và Biển Xanh Châu Thế Vinh và Thiên Đồng