Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Nữ tu gây chấn động ở The Voice, nước Ý Một nữ tu, Cristina Scuccia, với giọng ca bốc lửa của mình,đã tao một chấn động lớn tại The Voice của Ý Đại Lợi. Hiệu quả tiếp theo là hơn17 nghìn lượt truy cập vào clip của sơ. https-~~-//www.youtube.com/watch?v=TpaQYSd75Ak
  2. Phong thủy thành phố Hồ Chí Minh: Đẹp nhưng chưa chính long mạch? Trước khi xây dựng một thành phố, một ngôi nhà, đặt một nơi chôn cất người khuất núi, người ta đều phải xem phong thủy. Xem phong thủy là chọn để làm sao xây dựng được công trình phù hợp cả 4 yếu tố: Một là loan đầu - tức cảnh quan môi trường; Hai là hình lý dương trạch - tức cấu trúc hình thể ngôi nhà; Ba là bát trạch - tức ảnh hưởng của từ trường trái đất; Bốn là huyền không - thời gian xây cất, hoàn thành ngôi gia trong mối liện hệ với môi trường vũ trụ. “Khí” là yếu tố quan trọng hàng đầu, cốt tủy trong nghiên cứu phong thủy, là động lực của sự hình thành và phát triển của vạn vật. Khí là một dạng vật chất huyền bí chảy theo các mạch đất. Có chính khí và có sát khí. Nơi nào tụ chính khí thì nơi đó phát triển, nơi nào tụ sát khí thì nơi đó tăm tối, gặp nhiều tai ương. Rất nhiều nhà nghiên cứu phong thủy đã xem xét vị trí của TP Hồ Chí Minh để lý giải những diễn biến lịch sử của thành phố trung tâm của phía nam đất nước, nơi đã từng được ca ngợi là “Hòn ngọc Viễn đông” này. Cũng bằng quan niệm cổ truyền, chúng tôi xin có mấy lời lạm bàn về vấn đề này. Cầu Nguyễn Văn Cừ mới xây nối liền Chợ Lớn sang Thủ Thiêm Vùng đất có vị trí phong thủy đẹp Câu chuyện trà dư tửu hậu với một ông già người Hoa bên hông chợ Bình Tây cho tôi thêm một chi tiết về Chợ Lớn, một thành phần quan trọng tạo nên TP Hồ Chí Minh hôm nay. Ông kể một câu chuyện xưa. Ngày ấy, một nhóm người Hoa đến cư ngụ, buôn bán tại một khu đất cao bên bờ sông. Công việc buôn bán thuận lợi, mấy ông đứng đầu liền mời hẳn một ông thầy địa lý từ bên Trung Quốc sang xem phong thủy. Mất cả tháng trời, đi khắp cả vùng, ông mời tất cả các vị bô lão đến và phán: Đất cũng gọi là đẹp, làm ăn phát tài nhưng không yên. Các cụ hỏi lại, đâu mới là đất tốt hơn. Ông thầy quơ tay một vòng: Đêm, ta nhìn sang bên kia sông, khí sáng một vùng. Đấy mới là chân long, nhưng các người không có số đâu. Thôi đừng cố. Ông già người Hoa thở dài: Ngẫm chuyện xưa mấy trăm nay mà cũng có nhiều cái đúng. Lại nhớ đến những ngày các kiến trúc sư người Pháp lập quy hoạch xây dựng cảng và TP Sài Gòn. Lúc đó có nhiều ý kiến lập thành phố xuôi về phía nam, nhưng nhìn sang bên kia sông nước ngập mênh mông, sú vẹt lẫn với tràm và dừa nước ken chặt, mấy kiến trúc sư lắc đầu: Làm bên này. Và Sài Gòn chính là phần trung tâm của TP Hồ Chí Minh hiện nay.Các ý kiến đều đúng. TP Hồ Chí Minh: là thành phố nằm ngay bên phải bờ sông Sài Gòn, con sông này bắt nguồn từ tỉnh Tây Ninh ở phía Tây Bắc rồi chảy xuống, đi ngang qua khu vực phía Bắc của Sài Gòn rồi uốn lượn qua phía Ðông của thành phố, sau đó nhập với sông Ðồng Nai từ phía Bắc chảy xuống rồi đổ ra biển nơi phía Nam. Sài Gòn nằm giữa một khoảng bình nguyên (đất bằng) rộng lớn, xa xa nơi phía Bắc và Ðông Bắc, tại các tỉnh Quảng Ðức, Lâm Ðồng là phần cuối của dãy Trường Sơn hướng tới. Rồi nơi phía Tây Bắc tại tỉnh Tây Ninh cũng có dãy núi Bà Ðen, nơi phía Ðông Nam là khu núi Vũng Tàu, cả hai đều là dư khí của dãy Trường Sơn còn sót lại. Nằm ở khu vực phía Nam và Tây Nam TP Hồ Chí Minh là các sông Vàm Cỏ, xa hơn nữa là vùng đồng bằng sông Cửu Long với 2 con sông Tiền Giang và Hậu Giang.Với địa thế núi, sông bao bọc như trên, ta thấy TP Hồ Chí Minh có nhiều điểm đặc biệt, xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế và chính trị quan trọng bậc nhất trên đất nước ta. Trước hết là mạch Trường Sơn chấm dứt từ tận Quảng Ðức, Lâm Ðồng, tạo ra cái thế Huyền vũ che chở cho sau lưng Sài Gòn, nhưng lại không tiến đến quá gần để trở thành cái thế đe dọa hoặc lấn áp thành phố này, mà chừa cho TP Hồ Chí Minh một khoảng trống rộng lớn để hấp thu hết vượng khí của toàn bộ miền nam Việt Nam. Rồi đến núi Bà Ðen ở Tây Ninh và vùng núi ở Vũng Tàu tạo thành thế tả, hữu long, hổ để hộ vệ TP Hồ Chí Minh. Nhưng một điểm hay là vì núi Bà Ðen (hữu Bạch hổ) lại cao hơn núi Vũng Tàu (tả Thanh long). Nên khi nằm lệch về phía Vũng Tàu, Sài Gòn đã tạo thành thế long-hổ quân bình, khiến cho nền kinh tế của thành phố bao giờ cũng sung túc. Phía trước mặt của TP Hồ Chí Minh là Long An và vùng đồng bằng sông Cửu Long, một bình nguyên rộng lớn với những con sông hàng hàng, lớp lớp chảy qua, khiến cho vượng khí vô biên, thần lực miên man, bất tận. Ðó là chưa kể thương cảng Sài Gòn còn có mũi Vũng Tàu nằm ở bên ngoài hộ vệ, nên xứng đáng là một trung tâm quyền lực quan trọng về kinh tế và chính trị. Nếu còn được thêm một mũi đất nữa nhô ra ở cửa Ðại (thuộc sông Tiền Giang, trong tỉnh Bến Tre) để tạo thành đầy đủ thế tả, hữu hộ vệ nơi cửa biển thì uy lực của TP Hồ Chí Minh sẽ còn tăng lên gấp bội. Ngoài ra, con sông Sài Gòn khi đến gần thành phố lại uốn lượn thành nhiều khúc, rồi sau khi đi qua còn quay đầu nhìn lại tới 2 lần (2 khúc sông uốn cong trở lại) rồi mới đổ ra biển. Ðây chẳng những là một cảnh sông nước hữu tình, mà còn tạo cho TP Hồ Chí Minh một sự phồn thịnh, sung túc đến nỗi không một thành phố nào trên toàn cõi Việt Nam cũng như khắp vùng Ðông Nam Á có thể so sánh được. Cần nói thêm là dáng khúc của sông Sài Gòn khi đến gần thành phố đã uốn khúc rất nhiều lần, khi chảy đi lại quay đầu thêm hai lần nữa (hai lần khúc sông uốn cong trở lại), tạo ra hình dáng cát nhất trong thủy pháp. Sách xưa viết: “Làm quan thanh quý, thường là vì dòng nước vây quanh Thanh Long; được phúc dài lâu, nhất định là dòng nước quẩn Huyền Vũ”. Nếp sông uốn khúc đem lại cho Sài Gòn sự phồn thịnh, hưng túc hiếm có. Nhưng chưa phải là chân long Nhưng tại sao cho đến nay TP Hồ Chí Minh vẫn chưa phải là thành phố đứng đầu Đông Nam Á? Các nhà phong thủy cũng đã giải thích lý do. Mặc dù TP Hồ Chí Minh nằm trong vùng phong thủy đẹp, nhưng trung tâm thành phố không phải nằm đúng vị trí đắc địa cho nên đã hạn chế phần nào những hỗ trợ phát triển. Thay vì phải nằm ở trong khu vực giữa sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn để chiếm lấy vị trí của “chân long” (chính long mạch), Sài Gòn lại nằm ở phần đất bên ngoài tức chỉ là “hộ sa” (đất hộ vệ) của chân long. Ðối với phong thủy, chân long mới là nơi kết tụ được nguyên khí của trời, đất để chiếm lấy thế lực lớn lao hay đứng đầu về chính trị và kinh tế của cả khu vực đồng thời mới thu hút được những anh hùng kiệt xuất, những lãnh tụ vĩ đại. Còn hộ sa chỉ là phần đất chư hầu, nguyên khí đã bị tản mát, khó trở thành một trung tâm kinh tế hoặc chính trị hùng mạnh. Muốn được hưởng trọn vẹn lợi thế cát cát do dòng sông lượn hai vòng trung tâm thành phố cần phải nằm tại những khu vực được dòng sông ôm lấy như khu Thủ Thiêm. Vị trí hiện tại tạo ra tình thế không yên, phong thủy gọi là thủy bạc tình. Chính vì vậy, chủ trương phát triển trung tâm sang phía Thủ Thiêm là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Vị trí Thủ Thiêm là chính long mạch Vùng đất Thủ Thiêm được các nhà phong thủy gọi là chân long, nơi hội tụ sinh khí dồi dào nhất của cả vùng Đông Nam Bộ. Trước khi giao nhau với sông Đồng Nai để đổ ra biển, sông Sài Gòn đã uốn lượn rất đẹp và ôm lấy đất vùng Thủ Thiêm, dáng sông thế này gọi là đại cát, rất tốt đẹp cho cơ nghiệp và vinh hiển cho công danh. Sau khi uốn khúc ở Thủ Thiêm, sông Sài Gòn đổ ra giao với sông Đồng Nai, tạo ra vượng khí cho vùng đất trù phú này. Thủ Thiêm được sinh ra để ưu ái lĩnh nhận trọn vẹn tất cả sinh khí hưng vương của dòng chảy ấy.Thế đất Thủ Thiêm là thế đất đẹp hiếm có theo phong thủy. Vùng Thủ Thiêm rất đắc địa để cư dân có thể lạc nghiệp an cư bởi thế đất lớn sẽ đem lại phúc lộc dồi dào, cơ nghiệp thịnh đạt, và sinh khí cát lợi do dòng sông mang đến hứa hẹn nhiều thành đạt trong công danh và cử nghiệp cho con cháu. Tóm lại, gia thế hưng thịnh, lộc tồn bền lâu, an lành phước thọ… có lẽ là lời chúc phúc trọn vẹn mà phong thủy dành tặng cho con người nơi đây. theo anninhthudo.vn ========================================= Đoạn trên copy y chang bài giảng của Phong thủy Lạc Việt. Chứng tỏ khả năng chỉa chôm rất là tinh vi để chém gió đập ruồi.
  3. Donetsk tuyên bố độc lập, muốn sáp nhập vào Nga Những người thân Nga ở vùng Donetsk, miền đông Ukraine, hôm nay bỏ phiếu đồng thuận về tuyên bố thành lập một quốc gia độc lập, sau khi tổ chức chiếm giữ các tòa nhà chính quyền ở địa phương. Người biểu tình ủng hộ Nga bao vây và chiếm giữ một tòa nhà chính quyền ở miền đông Ukraine. Ảnh: AFP. Theo RT, vào 12h20 giờ địa phương, phiên họp của Hội đồng Donbass (vùng Donetsk) đã diễn ra tại hội trường chính của hội đồng khu vực và nhất trí thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Donetsk. Hội đồng trên tự tuyên bố là cơ quan hợp pháp duy nhất trong vùng cho đến khi các khu vực ở đông nam Ukraine tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc sát nhập Nga, dự kiến diễn ra muộn nhất vào ngày 11/5 tới. "Cộng hòa Donetsk được thành lập trong các biên giới hành chính của vùng Donetsk. Quyết định này sẽ có hiệu lực sau trưng cầu dân ý", tuyên bố của Hội đồng Donbass cho biết. Hội đồng ở Donetsk cũng gửi thỉnh cầu đến Tổng thống Nga Vladimir Putin về việc triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình tạm thời đến khu vực này. "Không có sự hỗ trợ, chúng tôi sẽ rất khó chống lại chính quyền ở Kiev", thông báo viết. "Chúng tôi thỉnh cầu Tổng thống Nga Putin vì chúng tôi chỉ có thể giao phó an ninh của chúng tôi cho Nga". Việc Donetsk tự tuyên bố độc lập diễn ra sau khi khoảng 2.000 người biểu tình ủng hộ Nga chiếm giữ các tòa nhà chính quyền địa phương và đòi đi theo con đường sát nhập Nga của bán đảo Crimea. Tại cuộc họp nội các khẩn cấp, Thủ tướng lâm thời Ukraine Arseniy Yatsenyuk cáo buộc Moscow đứng sau những diễn biến trên. "Kế hoạch này nhằm gây bất ổn tình hình để cho các binh sĩ nước ngoài vượt biên và chiếm lãnh thổ của quốc gia. Chúng tôi sẽ không cho phép điều đó", ông nói và nhấn mạnh rằng những người tham gia biểu tình có giọng Nga đặc trưng. Theo ông, quân đội Nga vẫn duy trì trong khu vực cách biên giới Ukraine 30 km. Căng thẳng đang gia tăng ở khu vực miền đông Ukraine, nơi có đa số người dân nói tiếng Nga, kể từ khi ông Viktor Yanukovych bị mất ghế hồi tháng hai, và chính phủ lâm thời ở Kiev ủng hộ việc thắt chặt quan hệ với Liên minh châu Âu (EU). Nga coi chính phủ mới ở Kiev là bất hợp pháp và đã sát nhập bán đảo tự trị Crimea với lý do có những mối đe dọa với cộng đồng nói tiếng Nga ở vùng này. Động thái làm dấy lên cuộc đối đầu lớn nhất giữa Nga và phương Tây kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh. Anh Ngọc
  4. NHÂN VÍA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ (17-11 ÂM LỊCH) Hạnh nguyện của Phật A Di Đà Theo lời dạy của Phật Thích Ca, Đức Phật A Di Đà đã thành Phật cách đây mười ức kiếp; hiện là giáo chủ cõi Cực lạc phía Tây thế giới Ta bà. Ngài có hạnh nguyện rộng lớn là tiếp độ tất cả chúng sanh trong mười phương pháp giới, nếu người nào có lòng ưa thích muốn được sanh về thế giới của Ngài. A Di Đà, tiếng Phạn là Amitaba, theo kinh Phật Thuyết A Di Đà (La Thập dịch) thì: “Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng, nên gọi là Phật A Di Đà”. Còn theo kinh A Di Đà và kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Tho thì danh xưng A Di Đà có ba nghĩa là Vô lượng quang, Vô lượng thọ và Vô lượng công đức. Vô lượng quang nghĩa là Đức Phật A Di Đà có ánh sáng vô lượng, chiếu soi khắp mười phương pháp giới. Ánh sáng vô lượng biểu thị Phật A Di Đà có trí tuệ vô lượng. Vô lượng thọ là Đức Phật A Di Đà có thọ mạng lâu dài không thể tính kể. Thọ mạng lâu dài biểu thị công năng thiền định của Phật A Di Đà là vô tận. Vô lượng công đức là Phật A Di Đà có công đức vô cùng vô tận. Công đức vô lượng biểu thị Phật A Di Đà có giới đức vô biên. Tóm thâu, danh xưng A Di Đà có ý nghĩa vô lượng giới, định và tuệ. Mà giới, định, tuệ là pháp môn tu hành căn bản của đạo Phật. Ba đời chư Phật trong qua khứ do đây mà thành tựu; chư vị Bồ tát cũng nương vào pháp môn này để đắc quả Vô thượng Bồ đề và tất cả chúng sanh nếu ai muốn siêu phàm nhập thánh thì không thể rời bỏ pháp môn này. Về nhân địa tu hành của Đức Phật A Di Đà, theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tiền kiếp quá khứ Đức Phật A Di Đà là con thứ chín trong mười sáu người con của Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Sau khi Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai xả tục xuất gia tu hành thành Phật, mười sáu vị vương tử cũng phát tâm xuất gia làm Sa di trong pháp hội của Phật. Sau khi Phật Đại Thông Trí Thắng nhập Niết bàn; mười sáu vị Sa di thay Phật tiếp tục giảng kinh Pháp Hoa, nhờ công đức giảng kinh này mà mười sáu vị vương tử đều thành Phật. Trong đó vị vương tử thứ chín thành Phật, hiệu là A Di Đà ở cảnh giới Cực lạc. Theo kinh Xuất Sanh Bồ Tát, về thưở quá khứ có vị Thái tử tên là Bất Tư Nghì Thắng Công Đức, nhờ nghe kinh Pháp Bổn Đà La Ni của Đức Phật Bảo Công Đức Tinh Tú Kiếp Vương mà xả tục xuất gia, tinh tấn tu hành. Sau khi xuất gia, Ngài đã hóa độ được mười muôn ức na-do-tha chúng sanh phát tâm bồ đề, trụ bậc bất thối chuyển. Thái tử Thắng Công Đức chính là tiền thân của Đức Phật A Di Đà. Lại theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải, đời quá khứ Ngài làm một vị Tỳ kheo, nhờ công đức siêng năng kính lễ và quán tưởng tướng lông mày trắng của Đức Phật Không Vương, nên được Phật Không Vương thọ ký thành Phật hiệu là A Di Đà. Theo kinh Bi Hoa, quá khứ hằng hà kiếp về trước, Ngài là vị Chuyển luân thánh vương tên Vô Tránh Niệm. Vị Chuyển luân thánh vương này có một vị đại thần tên Bảo Hải, rất giàu lòng tín ngưỡng Phật pháp. Một hôm vua hay tin Đức Phật Bảo Tạng đến thuyết pháp tại vườn Diêm phù ở gần bên thành, vua cùng đại thần Bảo Hải đến nghe và sanh tâm hoan hỷ. Vua phát tâm thỉnh Phật và đại chúng vào vương cung cúng dường trọn ba tháng để cầu phước báo. Đức Phật khuyên nhà vua nên phát tâm bồ đề để cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi đó Đức Phật Bảo Tạng liền phóng hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của chư Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy. Đại thần Bảo Hải liền thưa với vua Vô Tránh Niệm: “Nay bệ hạ nhờ oai thần của Phật, được thấy các thế giới, vậy bệ hạ muốn cầu thế giới nào”. Vua đảnh lễ Phật quỳ gối chắp tay phát đại nguyện, cầu xin sau khi tu hành thành Phật, quốc độ và nhân dân của Ngài, đều được trang nghiêm thanh tịnh. Do nhân duyên ấy, sau Ngài thành Phật hiệu là A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc. Còn theo kinh Vô Lượng Thọ, đời quá khứ lâu xa cách đây hơn mười kiếp, có một nước tên là Diệu Hỷ, vua cha là Nguyệt Thượng Luân Vương, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan sanh ra được ba người con. Người con trưởng là Nhật Nguyệt Minh, người con thứ hai là Kiều Thi Ca, người con thứ ba là Nhật Đế Chúng. Khi ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai. Thái tử Kiều Thi Ca bỏ ngôi phú quý theo Phật xuất gia, thọ giới Tỳ kheo, được Phật cho hiệu là Pháp Tạng. Tỳ kheo Pháp Tạng đối trước Phật phát bốn mươi tám đại nguyện rộng lớn, độ khắp mười phương chúng sanh. Ngài nguyện rằng nếu có một nguyện nào không viên mãn, thì thề chẳng thành Chánh giác. Khi ấy chư thiên rải hoa, tán thán, quả đất rung động, giữa hư không có tiếng khen ngợi: “Tỳ kheo Pháp Tạng quyết định sau này sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà”. Về hạnh nguyện độ sanh của Phật A Di Đà, theo kinh Vô Lượng Thọ, trong khi hành Bồ tát đạo làm vị Tỳ kheo Pháp Tạng, Phật A Di Đà đã thỉnh cầu Phật Thế Tự Tại Vương vì mình mà thị hiện hai trăm năm mươi ức Phật độ. Sau khi quán sát quốc độ mười phương chư Phật, Tỳ kheo Pháp Tạng liền chọn lọc những điểm đặc sắc của mỗi quốc độ để kiến lập thế giới Cực lạc. Đồng thời Tỳ kheo Pháp Tạng đem thế giới thù thắng đó thưa với Phật. Phật Thế Tự Tại Vương dạy Pháp Tạng muốn thành tựu được cảnh giới thù thắng đó cần phải phát đại nguyện, rộng độ chúng sanh. Sau khi nghe Phật dạy, Tỳ kheo Pháp Tạng liền đối trước Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai phát bốn mươi tám đại nguyện. Trên nền tảng của bốn mươi tám đại nguyện, Tỳ kheo Pháp Tạng xây dựng quốc độ của mình bằng ba phương tiện nhiếp pháp hàng đầu, đó là nhiếp pháp thân nguyện, nhiếp tịnh độ nguyện và nhiếp chúng sanh nguyện. Nhiếp pháp thân nguyện là nguyện xây dựng Phật thân. Bồ tát Pháp Tạng chọn quả Vô thượng Bồ đề, để đem công đức thù thắng, thệ nguyện trang nghiêm thành tựu Pháp thân chư Phật, ánh sáng vô lượng, thọ mạng vô lượng và công đức vô lượng. Nhiếp tịnh độ nguyện là Bồ tát Pháp Tạng thệ nguyện xây dựng cõi Phật trang nghiêm, tạo thuận duyên cho chúng sanh tu hành. Vì thế sau khi thành Phật, quốc độ của Ngài toàn bằng thất bảo, thanh tịnh thù thắng không có Tịnh độ của Đức Phật nào có thể sánh bằng. Nhiếp chúng sanh nguyện là Bồ tát Pháp Tạng với lòng từ bi vô lượng, nhận thấy tất cả chúng sanh trong mười phương, tuy siêng năng tu học nhưng khó thành tựu đạo quả. Ngài liền kiến tạo thế giới Cực lạc, nơi hội đủ duyên lành cho chúng sanh tu học, đồng thời phát tâm tiếp độ và giáo hóa tất cả chúng sanh bao gồm cả phàm phu và thánh trí. Hạnh nguyện tiếp độ chúng sanh của Đức Phật A Di Đà đã thể hiện rõ nét qua thánh tượng của Ngài. Như chúng ta biết thánh tượng của Phật A Di Đà, đứng trên hoa sen trụ giữa hư không, bên dưới là bể cả sóng dậy chập chùng; mắt Ngài nhìn xuống, tay phải đưa lên ngang vai, tay trái duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi tiếp cứu những chúng sanh đang lặn hụp biển cả ba đào. Phật A Di Đà đứng trên hoa sen trụ giữa hư không, hai mắt nhìn xuống biểu thị Phật luôn luôn hướng về chúng sanh, theo dõi chúng sanh; tâm Phật thương yêu chúng sanh chẳng khác nào mẹ hiền thương con đỏ. Tay phải của Phật đưa lên biểu thị đón tiếp tứ Thánh, tay trái Phật duỗi xuống biểu thị tiếp dẫn lục phàm. Nghĩa là Ngài luôn sẵn sàng đón tiếp tứ Thánh, cứu độ lục phàm, đồng đưa lên bờ giác. Kỷ niệm ngày Khánh đản Đức Từ phụ A Di Đà, chúng ta nên noi theo đại nguyện của Ngài, phát tâm bồ đề rộng lớn, nguyện phát tâm tín sâu, nguyện thiết, chuyên trì thánh hiệu Ngài. Chúng ta hãy cùng nhau hướng về pháp hội Di Đà vĩnh hằng vô tận, hướng về thế giới Liên Trì Hải hội thanh tịnh, hoan hỷ sáng lạn tràn ngập tiếng cười, cất lên tiếng hát an lành của đại sư Ấn Quang, vị cao tăng hoằng dương pháp môn Tịnh độ thời cận đại: Vãng sanh phát nguyện đi thôi Suối non đất khách mặc người quẩn quanh Quê nhà chẳng chịu về nhanh Hễ về ắt được, ai giành gió trăng. THÍCH NGUYÊN LIÊN
  5. Địa Tạng Vương Bồ Tát: Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục Thường Ngọc (Tri thức trẻ) Hồng danh Địa Tạng có nghĩa như đất đai rộng lớn chứa hết vạn vật. Địa Tạng Vương Bồ Tát có một chùm lông trắng xoáy nằm ở trên trán, giữa hai mắt, tay trái cầm Như Ý Châu, tay phải cầm Tích trượng có sáu vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi. Có nhiều sự tích về Ngài, nhưng hai ấn bản về thân thế được lưu truyền nhất về Ngài phải kể đến là Đức Địa Tạng sinh ra trong một gia đình vốn thuộc dòng dõi Bà-La-Môn, tên là Kolita Moggallàna hay còn gọi là Mục Kiền Liên. Ngài là người có đức, có tâm nhưng bà Thanh Đề mẹ Ngài lại mang nhiều sát nghiệp. Bà Thanh Đề chết đi, bị đày xuống Vô gián địa ngục, phải chịu sự trừng phạt đau đớn, không thể siêu thoát. Mục Kiền Liên thương mẹ, thiền định niệm Phật trước linh cữu bà nhiều ngày, Đức Phật cảm động nói với Ngài vào ngày rằm tháng Bảy, hãy cùng chư tăng tổ chức một buổi lễ để cầu nguyện và hộ niệm cho cửu huyền thất tổ và mẹ Ngài. Mục Kiều Liên làm theo cuối cùng bà Thanh Đề cũng được giải thoát. Về sau Ngài cùng người bạn từ thuở niên thiếu Upatissa, Xá Lợi Phất, được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thu nhận làm đệ tử. (Trích trong quyển Thập Đại Đệ Tử). Đây cũng chính là điển tích nói về lễ Vu Lan (Xá tội vong nhân) vào ngày 15/7 âm lịch hàng năm, là ngày những người con nhớ ơn công lao sinh dưỡng và tình yêu thương của mẹ. Bông hồng cài áo là nghĩa cử cao đẹp do Thiền sư Thích Nhất Hạnh đề xướng ở Việt Nam Biết được có nhiều người cũng sa chân vào chốn lầm than, Ngài đã đến trước Đức Phật nói rằng Ngài nguyện xuống địa ngục, cứu vớt chúng sinh. Bao giờ địa ngục hết chúng sinh lầm than mới xin thành Phật. “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề”. Đức Địa Tạng Vương trong tôn tượng tay trái cầm Châu Như Ý, tay phải cầm Tích Trượng, ngồi tòa sen trên mình Đế Thính Ấn bản thứ hai lưu truyền lại rằng Ngài là hoàng tử xứ Tân La (Nay thuộc Nam Hàn) tên là Kim Kyo-Gak (Kim Kiều Giác). Tuy là người sinh ra trong hoàng tộc nhưng hoàng tử Kim Kiều Giác là người giản dị, đạm mạc, thích đọc sách Thánh hiền.Năm 24 tuổi Ngài xuất gia, dắt theo con chó trắng tên là Thiện Thính (Đế Thính) đi khắp nơi tìm chốn thanh tịnh để tĩnh tu. Cuối cùng Ngài chọn núi Cửu Hoa (nay thuộc An Huy Trung Quốc) và thiền định tròn 75 năm tại đó. Tương truyền một hôm Ngài đang thiền định thì bị một con rắn nhỏ cắn vào chân nhưng Ngài vẫn bất động, ngay lập tức có một người phụ nữ tuyệt đẹp từ vách núi bay ra cúi lạy, đưa thuốc cho ngài, để tạ lỗi người đó đã tạo ra dòng suối Long Nữ tuyền nổi danh ở núi Cửu Hoa. Sự tích về ngài còn gắn liền với chuyện cha con Văn Các lão nhân là Mẫn Công và nhà sư Đạo Minh. Mẫn Công là trưởng giả giàu có, hay tích đức làm việc thiện, thường xuyên cúng dường, bố thí cho các nhà sư, người nghèo. Con trai Mẫn Công ngưỡng mộ Đức Địa Tạng, đến xin xuất gia, hiệu là Đạo Minh. Sau Mẫn Công vì muốn thuận tiện cho việc nghe giảng pháp đã bái Đạo Minh làm thầy. Đây là giai thoại nổi tiếng trong chốn Thiền môn. Khi ở tuổi 99 vào ngày 30 tháng 7, Ngài gọi chúng cao tăng đệ tử lại để từ giã. Tương truyền lúc đó từ khắp núi rừng phát ra tiếng gào khóc thảm thiết của muông thú, cỏ cây héo rũ, mây phủ che kín, khắp nơi tỏa ra mùi hương thơm ngát. Sau khi viên tịch, nhục thân của Ngài được chúng đệ tử đặt vào một động đá. Ba năm sau, chúng tăng mở động ra phát hiện nhục thân vẫn nguyên vẹn như khi còn sống bèn đem đến bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh để thờ cúng. Địa Tạng Vương Bồ Tát và hai cha con Văn Các lão nhân Địa Tạng Vương là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh dưới địa ngục và bảo vệ trẻ em. Nhiều người tin rằng những đứa trẻ yểu mạng, vì thương nhớ cha mẹ và người thân nên quanh quẩn bên sông, không chịu qua cầu Nại Hà đi đầu thai. Lúc này Đức Địa Tạng sẽ xuất hiện, an ủi, giảng giải và giúp đỡ chúng tạo công đức qua sông.Tại Trung Quốc, trú xứ của Đức Địa Tạng Vương là núi Cửu Hoa (một trong Tứ đại danh sơn). http://www.phattuvie...c/giaolycanban/
  6. TQ: Bẫy tiền tinh vi của các thầy phong thủy Thứ Hai, ngày 10/02/2014 19:41 PM (GMT+7) Với chiêu xem bói miễn phí, các thầy phong thủy tha hồ hù dọa khách hàng để ép họ mua những món đồ với giá cắt cổ. Phong thủy, một thuyết truyền thống của Trung Quốc chuyên nghiên cứu về đời sống họa phúc của con người dưới tác động của các yếu tố khác nhau trong vũ trụ giờ đây đang sản sinh ra nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các “thầy phong thủy” trong dịp năm mới Giáp Ngọ. Ở thành phố Nam Ninh thủ phủ tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, các cửa hàng Phong Thủy, nơi bày bán vô số bùa chú, vòng cổ, tượng phật và tượng kỳ lân đang tìm cách thu hút khách hàng bằng dịch vụ xem bói miễn phí. Các “chuyên gia phong thủy” tại cửa hàng tuyên bố những lá bùa may mắn của họ đã được các vị sư tổ ban phước và “sẽ đem lại vận may” cho người mua trong năm Giáp Ngọ. Những món đồ phong thủy bán chạy trong năm Giáp Ngọ Để khách hàng tin tưởng và bị thuyết phục hơn nữa, những thầy phong thủy này còn sẵn sàng xem bói miễn phí cho khách hàng, và thông thường những người xem bói tại đây sẽ bị phán rằng năm 2014 là một năm rất xấu đối với họ, và họ chỉ có thể hóa giải vận hạn đó bằng cách mua những món đồ phong thủy tại cửa hàng. Một khi khách hàng đã tin vào những lời phán “chắc như đinh đóng cột” của thầy bói kiêm chuyên gia phong thủy, họ sẽ được dẫn đi xem các món đồ được cho là phù hợp, và những lá bùa hay món đồ phong thủy này có giá không hề rẻ, có thể lên tới gần 350 triệu đồng (16.500 USD). Đi lễ đầu năm mới, cô Trương Vũ, một người dân sống ở Nam Ninh đồng ý xem bói “miễn phí” tại một cửa hàng phong thủy, và “thầy” phán rằng cô sẽ gặp rất nhiều xui xẻo trong năm Giáp Ngọ, và thứ duy nhất có thể giúp cô hóa giải vận hạn là những hòn đá quý bày bán trong cửa hàng. Cô Trương mỉm cười chua chát: “Nhưng mà viên đá rẻ nhất mà họ bày bán ở đây có giá lên tới gần 7 triệu đồng, thật vớ vẩn.” Thuật phong thủy đã được áp dụng ở Trung Quốc trong hàng ngàn năm qua, tuy nhiên nhiều người vẫn coi đây là một trò mê tín hơn là một hiện tượng văn hóa, và mặc dù chính phủ Trung Quốc chưabao giờ ra lệnh cấm chính thức, song thuật phong thủy vẫn được định nghĩa trong các từ điển tiếng Trung là “tín ngưỡng siêu nhiên ở Trung Quốc cổ đại”. Những lá bùa như thế này có giá lên tới hàng triệu đồng Tuy nhiên gần đây, đặc biệt là trong dịp năm mới, thuật phong thủy đã đem lại cho các “thầy”, các “chuyên gia” khoản lợi nhuận khổng lồ. Một thầy bói kiêm thầy phong thủy trên phố Dongge ở Nam Ninh cho biết ông đã kiếm được hơn 3,8 triệu nhân dân tệ trong năm 2012, trong khi chi phí thuê cửa hàng chưa đến 800.000 tệ. Ông Chen Lidan, một người chuyên mở các lớp đào tạo về thuật phong thủy ở miền nam Trung Quốc cho hay các “thầy” hiện đang tìm cách kiếm lời từ việc kinh doanh các món đồ phong thủy. Ông nói: “Chỉ riêng ở thành phố 3 triệu dân Nam Ninh đã có tới hơn 100 cửa hàng chuyên bán đồ phong thủy.” Trong khi đó, một chuyên gia phong thủy tên Hoàng ở Nam Ninh cho biết đa phần các thầy bói trong cửa hàng phong thủy đều là những người trẻ tuổi, thậm chí nhiều người không được học hành tử tế. Một thầy phong thủy giấu tên nói rằng những người mới được tuyển vào cửa hàng của ông chỉ được đào tạo qua loa về bói toán, và sau đó có thể dần tiếp xúc với khách hàng để “kiếm cơm”. Ông này tiết lộ bí quyết: “Nếu khách hàng không biết nhiều về phong thủy, bạn hãy cứ nói rằng họ sẽ gặp năm hạn, và đề nghị họ mua bùa cầu may ở trong cửa hàng.” Một thầy phong thủy đang xem bói cho khách hàng Huang Bindi là chủ của một công ty tư vấn phong thủy ở Nam Ninh, chuyên giới thiệu những thầy phong thủy hàng đầu cho khách hàng có nhu cầu. Khách hàng chủ yếu của ông là các doanh nghiệp lớn, tuy nhiên ông cho rằng nghề này chỉ hái ra tiền nếu có quan hệ tốt. Ông này tiết lộ: “Nhiều lãnh đạo hàng đầu của các công ty khi có nhu cầu di chuyển trụ sở đều đến gặp tôi để nhờ tìm kiếm các thầy phong thủy tài năng, và họ sẵn sàng chi ra hàng triệu tệ để mua những con sư tử đá, những loài cây cổ và rất nhiều thứ khác.” Để giải thích cho sự thành công của mình, Huang cho biết dù thầy phong thủy có là ai và trình độ đến thế nào đi chăng nữa, họ cũng phải có một danh hiệu thật kêu và thật ấn tượng để xóa tan đi bất cứ nghi ngờ nào của khách hàng, và những danh hiệu này thường phải bao gồm cả cụm từ “quốc tế” hoặc “toàn cầu” vào trong đó. Theo Huang, danh hiệu càng lớn, số tiền mà ông kiếm được từ khách hàng càng nhiều. Hồi năm ngoái, ông đã giới thiệu một thầy phong thủy nước ngoài tới giảng giải nửa ngày về thuật phong thủy cho một công ty ở Nam Ninh với mức thù lao hơn 100.000 tệ. Tuy nhiên Huang cũng thú nhận rằng ông không hề ảo tưởng về nghề nghiệp của mình, và cho biết ông sẽ chỉ làm nghề phong thủy trong một thời gian ngắn. Vị giám đốc chuyên môi giới phong thủy này tâm sự: “Tôi không thể sống mãi với nghề làm ăn giả dối được, và hết tết này tôi có thể sẽ bỏ việc để về quê kiếm sống.” Trí Dũng (Theo Hoàn Cầu) (Khampha.vn) ==========================================================
  7. Dẹp biển hiệu tiếng Trung Quốc: “Nói là làm chứ đừng để nó nguội!” (Dân trí) - “Các anh bàn đi, dẹp hết bảng hiệu Trung Quốc! Hai ba ngày sau là phải xử lý xong. Nói là làm chứ không để nó nguội... Để biến đó thành thành phố Tàu là không được. Rất nguy hiểm!” - Bí thư Thành ủy Đà Nẵng cương quyết. Thực hiện chỉ đạo của Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trần Thọ, ngày 3/4, Thanh tra Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch TP Đà Nẵng và các quận Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn đã tiến hành kiểm tra, xử lý các cơ sở kinh doanh có trao bảng hiệu Trung Quốc.Trước đó, tại Hội nghị Thành ủy Đà Nẵng lần thứ 15, ngày 2/4, ông Huỳnh Hùng, Giám đốc Đài Phát Thanh truyền hình Đà Nẵng đã có ý kiến về việc tình trạng người Trung Quốc có mặt tại Đà Nẵng ngày càng nhiều trong thời gian qua. Kéo theo đó là tình trạng bảng hiệu tại các nhà hàng tại khu vực ven biển sử dụng tiếng Trung Quốc rất nhiều, gây ảnh hưởng không ít đến tâm lý của người dân.Trước tình trạng này, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trần Thọ cho rằng: “Phản ánh của anh Hùng là đúng. Hiện nay người Trung Quốc tràn vào thành phố đông lắm. Trong lượng khách quốc tế đến Đà Nẵng có đến 90% là người Trung Quốc nên lực lượng công an; văn hóa, thể thao và du lịch phải xem xét. Đối với việc bảng hiệu sử dụng tiếng Trung Quốc, giao cho anh Vinh (ông Ngô Quang Vinh, Giám đốc Sở VHTT-DL - PV), anh Xuân Anh (ông Nguyễn Xuân Anh, Phó Chủ tịch UBND TP - PV). Sao lại để thế, thành phố Tàu à?”. Đoàn kiểm tra các cơ sở kinh doanh viết, đặt biển hiệu, quảng cáo sai quy định (ảnh Khánh Hồng) “Các anh bàn đi, dẹp hết bảng hiệu Trung Quốc. Cấm có được không? Vũng Áng họ lên án vấn đề này rồi đấy. Làm đi, bao giờ làm, bao giờ xong? Bây giờ làm luôn đi. Hai ba ngày sau là phải xử lý xong vấn đề này. Nói là làm chứ không để nó nguội... Để biến đó thành thành phố Tàu là không được. Rất nguy hiểm. Bài học từ Đắk Nông có rồi đấy”, Bí thư Trần Thọ nói cương quyết tại hội nghị. Ngày 3/4, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lãnh đạo quận Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn đã tiến hành kiểm tra, rà soát 35 cơ sở kinh doanh tập trung các tuyến đường Hoàng Sa, Võ Nguyên Giáp, Hồ Xuân Hương chủ yếu là nhà hàng, cơ sở kinh doanh ăn uống, buôn bán, dịch vụ. Một cơ sở kinh doanh đang chấp hành việc tháo gỡ biển hiệu sai quy định (ảnh Khánh Hồng) Theo đó, qua kiểm tra, đoàn phát hiện 13 cơ sở kinh doanh viết, đặt biển hiệu, quảng cáo sai quy định, có chữ viết tiếng nước ngoài lớn hơn 3/4 chữ tiếng Việt, các đối tượng sai phạm tập trung ở những cơ sở kinh doanh, buôn bán, cơ sở kinh doanh dịch vụ. Đoàn kiểm tra đã tiến hành lập biên bản đối với một số sai phạm và yêu cầu phải tháo gỡ biến hiệu sai quy định. Ngoài ra, Thanh tra sở đã kiểm tra và lập biên bản đối với một khách sạn đã treo phương tiện quảng cáo băng rôn tiếng Trung ngay tại tiền sảnh khách sạn. Đồng thời yêu câu đơn vị phải gỡ bỏ ngay băng rôn tiếng Trung Quốc sai quy định. Khánh Hồng - Công Bính ================ Nghĩ lạ, ở Việt Nam mà để chữ Việt thì nhỏ, chữ tàu thì to và nhiều nữa. Phải làm sát sao, nghiêm ngặt thôi. Bắc Ninh: Hạ hơn 100 biển quảng cáo tiếng Trung Quốc (Dân trí) - Trong quá trình thanh kiểm tra tình trạng biển quảng cáo tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Trung Quốc, “lấn át” tiếng Việt tại thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh), các cơ quan chức năng tỉnh Bắc Ninh đã phát hiện, xử lý, bắt hạ hơn 100 biển quảng cáo vi phạm. Những năm gần đây, trên địa bàn các phường Trang Hạ, Đồng Kỵ và xã Phù Khê (thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh) xuất hiện nhiều biển quảng cáo tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Trung Quốc lấn át tiếng Việt tại các xưởng sản xuất gỗ, cửa hàng kinh doanh mua bán, công ty vận tải, hàng ăn, nhà nghỉ… Đi dọc quốc lộ 1A cũ, theo đường Nguyễn Văn Cừ tại thị xã Từ Sơn, có thể thấy tràn ngập những tấm biển hiệu tiếng Trung. Các biển hiệu này xuất hiện phía ngoài mặt đường chính, tập trung ở các doanh nghiệp, cửa hàng kinh doanh lớn. Biển hiệu quảng cáo chữ Tàu "lấn át" chữ Việt tại TX Từ Sơn (Bắc Ninh). Đặc biệt tại thôn Phù Khê Thượng, xã Phù Khê, tồn tại đủ loại biển quảng cáo của các quán ăn, nhà nghỉ, cửa hàng kinh doanh... viết hầu hết bằng chữ Trung Quốc với đủ loại kích cỡ to nhỏ. Lý giải tình trạng trên, anh Dương Văn Thưởng, chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ Niềm Tin 1, phường Đồng Kỵ, cho biết, hàng tháng, anh bán được 20% số sản phẩm cho khách hàng Trung Quốc nên biển hiệu phải viết tiếng Trung. Những năm trước, khi chưa tập trung bán hàng cho khách Trung Quốc, các biển hiệu quảng cáo trong làng nghề thường viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Lo ngại về tình trạng "phố Tàu" tồn tại nhiều năm tại TX Từ Sơn. Những năm gần đây, do lượng khách Trung Quốc tìm đến đông, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu 100% cho khách Trung Quốc nên biển hiệu dĩ nhiên cũng phải ưu tiên viết tiếng Trung. Anh Thưởng cho biết, cửa hàng của gia đình anh giành 80% diện tích biển quảng cáo cho tiếng Việt, 20% cho cả tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Trao đổi vấn đề biển quảng cáo tiếng nước ngoài vi phạm quy định, ông Dương Văn Canh - Chủ tịch UBND phường Đồng Kỵ - cho biết, do lượng khách nước ngoài đến giao thương trên địa bàn chủ yếu là các thương lái Trung Quốc, có nhiều người không biết tiếng Việt, nên để thuận tiện cho việc trao đổi, buôn bán, đã xuất hiện những biển quảng cáo có cả tiếng Việt và tiếng Trung. Đã có hơn 100 biển quản cáo sai quy định bị hạ. Theo thông tin từ thanh tra Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh, tháng nào thanh tra Sở cũng đi thanh tra. Đặc biệt trong tháng 3/2013, thanh tra Sở phối hợp với công an tỉnh đi thanh tra trên địa bàn toàn tỉnh; qua thanh tra đã phát hiện, xử lý, bắt hạ hơn 100 biển quảng cáo vi phạm luật quảng cáo vì để chữ nước ngoài ở trên và to hơn chữ tiếng Việt. Nói về vấn đề xử lý triệt để vi phạm quảng cáo, ông Nguyễn Văn Ảnh - Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL tỉnh Bắc Ninh - cho biết, Phòng Thanh tra chỉ có 5 người nên sau khi đi thanh tra xử lý xong giao lại cho chính quyền địa phương và Phòng Văn hoá giám sát quản lý chứ không thể vòng đi vòng lại thanh kiểm tra liên tục. Tuy vậy, hàng tháng thanh tra Sở vẫn đi thanh tra để kịp thời phát hiện sai phạm, chấn chỉnh, xử lý. Đoàn Thế Cường
  8. ĐI TÌM NGUỒN GỐC VÀ NĂM XUẤT HIỆN CỦA VĂN BẢN BINH THƯ YẾU LƯỢC HIỆN CÓ Ngô Đức Thọ Văn bản Binh thư yếu lược (viết tắt: BTYL) chúng tôi nói đến trong bài này là bộ sách chữ Hán chép tai gồm 4 quyển đóng làm 2 tập, cộng 410 tờ (26x15cm, ký hiệu A.476/1-2 lưu tàng từ trước ở Thư viện Viện Viễn Đông Bác cổ, hiện nay do Viện Nghiên cứu Hán Nôm quản lý, sách này là bản chính của một dịch phẩm do Nxb. KHXH xuất bản tại Hà Nội vào các năm 1970 và 1977(1). Ở Sài Gòn cũng có bản dịch BTYL do Nhà Khai Trí xuất bản(2). Do trong sách có những chỗ nói đến tướng nhà Minh Mộc Thạch, Liễu Thăng, vua Lê, Nguyễn Huệ (Bd, tr. 232, 213, 245) v.v cho nên rõ ràng không thể coi bản BTYL hiện có là di tác của Trần Hưng Đạo được. Tuy vậy, Lời giới thiệu và Thuyết minh bản dịch của cả 2 lần xuất bản, ở mức độ dè dặt, vẫn kết luận rằng: “BTYL của Trần Quốc Tuấn đến đầu thế kỷ XIX đã được một nho sĩ am hiểu quân sự, yêu khoa học quân sự, sửa chữa và bổ sung nhiều” (tr.8), hoặc cho đó “là một bộ sách được biên soạn theo một phương pháp thời Trần (có thể đặc biệt là Hưng Đạo vương), thời Lê, thời Nguyễn tiếp tục nhau mà biên soạn” (tr.27). Vậy sự thực về văn bản BTYL ra sao? Chúng tôi nghĩ rằng vấn đề này cần được nghiên cứu để có thể nhận định tương đối chính xác giá trị văn bản, từ đó mới tránh được những suy diễn sai lầm, như từng có ý kiến dựa vào BTYL để mô tả cơ cấu Bộ tư lệnh và hệ thống quân đội đời Trần, cùng những vũ khí binh cụ của thời kỳ ấy v.v.(3).1. Hai đầu mối: “Kỷ sự tân biên” và “Kim thang thập nhị trù”Để giải đáp vấn đề nói trên, chúng tôi đã tìm đọc những sách Hán Nôm Trung Quốc cổ liên quan thuộc môn loại quân sự học. Nhưng đầu mối thực sự chỉ bắt đầu từ cuốn Kỷ sự tân biên: Sách chữ Hán do nhà tàng bản Trí Trung Đường, khắc in tại Hà Nội mùa hè năm Tự Đức Kỷ Tỵ (1869). Đầu sách có bài Tựa của Đặng Huy Trứ tước Hoàng Trung Tử, một sĩ phu yêu nước trước sau thuộc phái chủ chiến, khi ấy ông giữ chức Khâm phái Thượng biện Hà Nội tỉnh vụ. Đại ý bài Tựa nói: Mùa xuân năm Kỷ Mùi (1859) ông làm Tri huyện Thọ Xương (Hà Nội) gặp lúc Phú Lãng Sa (chỉ quân Pháp) gây sự ở Đà Nẵng, trong lòng phẫn uất muốn quét sách đi. Vì vậy ông muốn rộng tìm loại sách binh thư để phòng khi dùng đến nhưng tìm kiếm chưa được. Sau gặp Tú tài Lương Mộng Thiều người làng Phượng Lịch, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) bấy giờ đang làm Huấn đạo huyện Nông Cống, trong khi trò chuyện bàn đến môn học của binh gia, Lượng Mộng Thiều nhân đó đưa cho ông tập Kỷ sự tân biên (viết tắt: KSTB) do thân phụ đã quá cố của ông là Thận Trai tiên sinh soạn ra. Ông nhận sách đó mà đọc, hơn một tháng trời, bỏ sách xuống mà than rằng: “Tiên sinh là một trong Tứ hổ ở đất Thanh Hóa. Ông nghiên cứu thiên văn, địa lý, luật lịch, binh thư, bản đồ núi sông, không môn nào không học tới, mà soạn thuật ra chỉ một sách này. Cái chí của tiên sinh có lẽ cũng là lo trước cái lo của thiên hạ chăng?”. Đoạn sau tác giả bài Tựa cho biết: Ông trước đã biên tập sách Vũ kinh trích chú lại vừa cho khắc in sách Kim thang tá trợ, nay cho khắc ván in sách này để công bố với các bạn đồng chí, khiến cho cái học của Thận Trai tiên sinh đã không thi hành được ở đương thời thì sách của tiên sinh được truyền lại cho hậu thế. Tiếp theo là bàn Dẫn do con rể của Thận Trai là Cử nhân Đỗ Xuân Cát, tự Bá Trinh viết năm Thiệu Trị Bính ngọ (1846) cho biết: Thận Trai là tên hiệu của Lương Huy Bích tự Huyền Chương, người đời cuối Lê, thời Tây Sơn ở nhà dạy học đời Nguyễn có chiếu của Minh Mệnh triệu vào kinh nhưng cáo bệnh không đi, được ban tước Hàn lâm đãi chiếu, tước Ngô Giang Tử. Sau khi ông mất, con trai là Khanh và Huyền sợ để lâu ngày di thảo mai một, bèn đưa cho anh rể là Đỗ Xuân Cát hiệu đính. Tờ đầu sách đề: “Cổ Ái Lương Huy Bích Huyền Chương Phủ soạn định, năm Huy Khanh Mộng Thiều, tế Đỗ Xuân Cát Bá Trinh biên tập, Hậu học Đặng Huy Trứ Hoàng Trung hiệu chính. Sách gồm 5 quyển đóng làm 1 tập, cộng 202 tờ (25x15cm) ký hiệu ở Thư viện Viện Hán Nôm: A. 684. Phương pháp làm sách đại thể là dẫn đầu mỗi chương mục đều có lời dẫn giải bình luận về chủ đề bàn đến, sau đó dẫn ý kiến của các nhà quân sự học Trung Quốc thời cổ, trích trong các sách binh pháp của Tôn Vũ, Ngô Khôi Hoàng Thạch Công, Lý Vệ Công v.v. tức là những sách thuộc hệ thống Vũ kinh thất thư được ban định năm Nguyên Phong (1078 - 1086) đời Tống. Ngoài ra còn trích dẫn các sách khác như Hổ kiềm tinh của Hứa Động đời Tống, Kỷ hiệu tân thư của Thích Kế Quang đời Minh v.v.Đối chiếu KSTB với BTYT chúng tôi thấy có một khối lượng đáng kể các thoại(4) giống nhau khá có hệ thống, như ở chương Hành quân (BTYL, T.1, 159/Bd. tr.118-122) tiến phát giống với 16 điều ở mục Độ hiểm (vượt nơi hiểm yếu) trong KSTB (Q.3, tờ 10-12b); BTYL (T.1, tr.167/Bd. tr.125) chép riêng một mục Độ hiểm pháp chỉ gồm 1 thoại ở KSTB trích theo Liên châu hành doanh đảo quyên đồ. Ở chương Đồn trú, BTYL (T.1, 199/Bản diễn ca, tr.146-148) chép 12 quy định về việc đóng trại lần lượt tương ứng với các điều 5-7, 9-10, 13, 15-19 (cộng 12 điều) trong số 25 điều ở mục Thủ dinh ước thúc ở KSTB (Q.2, tờ 19-23) v.v. Các chương sau như Dạ doanh (phép đóng trại ban đêm). Ám doanh (đóng trại bí mật), Thại lương (chuyển lương) v.v cũng có nhiều thoại tương đồng giữa KSTB và BYTL.Theo ý của bài Tựa, chúng tôi tìm đọc Kim thang tá trợ. Tên sách in ngoài bìa là Kim thang thập nhị trù (viết tắt KTTNT), nhưng tên đầy đủ là Kim thang tá trợ thập nhị trù. Sách cũng do Đặng Huy Trứ giao cho nhà Trí Trung Đường khắc in năm Tự Đức Kỷ Tỵ (1869), in vào mùa xuân, sớm hơn mấy tháng so với KSTB. Toàn bộ gồm 12 quyển đóng làm 3 tập, cộng 451 tờ (26x16), ký hiệu ở Thư viện Viện Hán Nôm: AC.202/1-3. Sách của soạn giả Trung Quốc là Lý Bàn tự Tiên Hữu, có bài Dẫn của Hùng Ứng Cưu và bài Tựa của soạn giả. Tiếp theo là Tựa của Đặng Huy Trứ cho biết ông nhận được sách này do người quen là Dương Tuệ Khanh tặng nhân khi ông đi công cán ở Quảng Đông năm Mậu Thìn (1868). Ông nhận thấy so với Vũ kinh trích chú KSTB thì sách này đặc biệt giản yếu dễ hiểu, đúng là của báu của nhà tướng. Vì vậy, ông ngày đêm khảo đính để khắc ván ấn hành. Như vậy là cùng trong năm Kỷ Tị (1869), nghĩa là chưa đầy 2 năm sau khi thực dân Pháp thôn tính nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ và đang ráo riết chuẩn bị đánh ra Bắc Kỳ, Đặng Huy Trứ đã cho in 2 bộ binh thư khá có giá trị. Có lẽ đó là một trong những cách trả lời tốt nhất của một nhà nho trước nạn ngoại xâm đang đe dọa vận mệnh của đất nước.Đối chiếu KSTB với KTTNT chúng ta dễ nhận ra có sự tương đồng ở một số chương mục, điều đó có thể hiểu được vì cả 2 sách đều thoát cảo từ Đặng Huy Trứ. Mà liên quan tới văn bản BTYL thì ở KTTNT còn ở mức độ nhiều hơn, như ở các mục thuộc chươngThủy chiến: Thuyền máy thần phi, thuyền mẹ con, thuyền liên hoàn, bè gỗ, áo lội nước (phi ba giáp), ngựa nước (thủy mã) v.v… BTYL, 2-261/Bd tr. 271-281; KTTNT. Q11, tờ 12-32b) (xem thêm ở mục sau). 2. BTYL VỚI KIM THANG THẬP NHỊ TRÙMở rộng việc tìm kiếm xuất xứ các thoại trong BTYL chúng tôi tìm đến nguyên thư của tác phẩm được trích dẫn… Nói chung, những thoại nào có xuất xứ ở binh thư Trung Quốc, từ Tôn Tử (của Tôn Vũ). Ngô Tử (của Ngô Khởi), Lục thao, Tư Mã pháp, Tam lược, Uất Liệu Tử, Lý Vệ công vấn đôi (của Lý Tĩnh, cũng gọi là Vệ Công binh pháp), Hồ kiềm kinh (của Hứa Động), Kinh thể bát loại toàn biên(của Trần Nhân Tích), Vũ kinh tổng yếu (của nhóm Tăng Công Lượng). Kỷ hiệu tân thư (của Thích Kê Quang) v.v.. đều tìm được xuất xứ chính xác, chủ yếu dựa theo 2 bộ tùng thư Vũ kinh tổng yếu (P.1121) ở thư viện Viện Thông tin KHXH hoặc các sách riêng biệt (đơn hành ban) hiện có ở Thư viện Quốc gia.Kết quả đối chiếu làm xuất hiện mấy điều đáng lưu ý sau đây:a. Trong BTYL có 5 thoại ghi là trích sách Bảo giám (Bd, tr 39, 54, 55, 168) trong đó 2 thoại ở tr.54 và 168 (Bd) là của Tôn tử, còn 3 thoại khác là trích theo Vũ kinh tổng yếu.Như vậy tại sao người làm sách BTYL lại không ghi xuất xứ ở sách Tôn Tử hoặc Vũ kinh (tức Vũ kinh tổng yếu) như nhiều trường hợp khác trong sách đã ghi? Xuất xứ thì tác giả có thể quên hoặc chép sót, nhưng tại sao lại ghi là Bảo giám? Qua tra cứu có thể khẳng định không có binh thư nào có tên chính hoặc tên gọi tắt là Bảo giám, cũng không thấy tên sách nào (Người dịch bản Nxb KHXH cũng đã từng ghi “Chúng tôi không tìm ra sách Bảo giám”, Bd, tr.39). Phải chăng người làm sách BTYL đã vô tình hay hữu ý đưa ra một tên sách mơ hồ? Điều đó có thể còn liên quan đến một tên sách mơ hồ khác sau đây:b. Trong BTYL có 4 thoại ghi xuất xứ ở sách Binh lược (Bd, tr.65, 88, 213, 245). Cả 4 thoại này đều liên quan đến các sự việc của Việt Nam, không có xuất xứ nhiều tầng bậc trong các binh thư Trung Quốc. Những thông tin quá khứ không cho chúng ta biết sách nào gọi là Binh lược, mà tên sách gần giống với nó là Binh thư yếu lược thì chúng ta chỉ được biết đó là tên tác phẩm của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đời Trần và tên của bản chép BTYL hiện hành mà thôi.Thoại ở tr.65 (Bd) có liên hệ một câu: “Liễu Thăng vào nước Nam ta vì chí kiêu mà đổ quân mất mạng”. Thoại ở tr.213 (Bd) nói đến quân năm Giáp Ngọ (chỉ quân Trịnh), quân năm Bính Ngọ (1786, chỉ quân Tây Sơn), và quân Bắc năm Kỷ Dậu (1789, chỉ quân Thanh) v.v. Thoại tr. 245 nói việc Nguyễn Huệ đem thủy quân đến sông Nhị Hà. Ba thoại này hiển nhiên là bằng chứng tự bác bỏ nguồn gốc tác phẩm đời Trần! Thoại tr.88 (Bd) nói về tên lửa (hỏa tiễn) ở trên đầu có dùng thuốc súng của người Hồi Hồi, lại nói xa xôi đến một thứ tên lửa ở phương Nam. Thoại này ở hầu hết các sách đã nêu trên đều không có, chỉ tìm thấy một xuất xứ duy nhất ở KTTNT (Q.11, tờ 33a). Đó là một dẫn chứng cho thấy có sự liên quan trực tiếp giữa văn bản KTTNT và BTYL.c. Tiếp tục khảo sát quan hệ giữa KTTNT và BTYL có thể thấy thêm những hiện tượng sau đây:Chương Thủy chiến trong BTYL bám sát theo mục Phụ khảo Thủy chiến trong KTTNT (Q.11, tờ 12b), sau mục Quạ già nước (Thủy lão nha, BTYL chép nhầm là Thủy nha lão!) đáng lẽ tới các mục: câu liên và một số binh cụ khác, người làm BTYL đã lược bỏ, đặt ra một mục Hỏa công, mở đầu bằng câu: “Đại phàm thủy chiến thường chuyên dùng hỏa công…”, minh họa bằng 4 câu thoại: Chu Du và Lưu Bị đánh Tào Tháo ở Xích Bích, Du Thông Hải đánh Trần Hữu Lượng ở Nam Xương, Âu Dương Ngột làm phản ở Lĩnh Nam (?), Hàn Thế Trung cầm cự với quân Kim ở Hoàng Thiên Đăng (BTYL, 2-217/Bd, tr. 277 - Bd thay Kim nhân bằng tên vua Kim, và nhầm Hoàng Thiên Đăng là tên người). 3 trong 4 thoại nói trên đều có trong KTTNT (Q.11, tờ 44-45), hợp thành một mục hoàn chỉnh nói về phép hỏa công trong thủy chiến. Có mấy thoại đó minh chứng rồi mới đi đến tiểu kết: “Dĩ thượng thủy chiến nhi chuyên dụng hỏa công giả dã”. Người làm BTYL lấy câu đó đem lên đầu làm thành tên một mục, đổi 2 chữ “Dĩ thượng…” thay bằng “Đại phàm…” và bỏ hai chữ sau (… giả dã). Thêm nữa thoại thứ 3 nói việc Âu Dương Ngột đóng quân ở Nhai khẩu cho chứa các đá vào lồng tre thả xuống sông để chặn thuyền của Chiêu Đạt, xét ra không ăn nhập gì với việc đánh hỏa công. Đúng ra đó là 1 thoại minh họa cho một mục khác “Dùng mưu cắt đường thủy” như đã thấy ở KTTNT (Q.11, tờ 49a).Lại ở mục Thủy chiến kiêm dùng lục quân (BTYL T.2, tờ 172/Bd tr.279; KTTNT Q.11, tờ 46a) cũng thấy hiện tượng cắt câu nhằm mục như trên. Ở đây, KTTNT dẫn 1 thoại: Lưu Dụ sai quân đâo thủ đi thuyền nhẹ chặn đánh đoàn thuyền lớn của Lự Tuần, một mặt sai quân kỵ và quân bộ đi ở bờ tây để hỗ trợ. Thuyền của Lự Tuần không tiến được, cùng lúc lại bị quân cung nỏ trên bờ bắn xuống…, Lự Tuần cả thua phải chạy sang Giao Châu. Thứ sử Giao Châu là Đỗ Tuệ Độ cho quân bắn tên lửa lông trĩ xuống làm cháy thuyền, giết được Lự Tuần. Do thoại ấy mới có tiểu kết “Dĩ thượng thủy chiến nhi kiêm dụng lực binh giả dã”. BTYL không có thoại ấy (bỏ sót) thì không có nội dung minh họa cho đề mục. Đã vậy lại tiếp theo bằng câu: “Thủy chiến lấy thuận gió là thế”, không ăn nhập gì với đề mục đã nêu. Câu này thực ra là một mục đồng đẳng tiếp theo: “Thủy chiến dĩ thuận phong vi thế” (KTTNT Q.11, tờ 46b), được thuyết minh bằng thoại Vương Lâm nhà Hậu Lương đi đánh quân của nhà Hậu Trần (không có trong BTYL). Còn thoại Vương Tuấn bị quân nước Ngô dùng xích sắt chặn ngang dòng sông, Tuấn biết trước sai dùng bè gỗ đẩy đi trước để phá, BTYL đã chép vào mục “… kim dùng lục quân”, thì lại cính là 1 trong 6 thoại dùng để minh họa cho mục “Dùng mưu cắt đường thủy” (KTTNT, Q.11, tờ 49a) v.v. Sai lầm móc xích như vậy còn kéo dài đến một số mục khác nữa. Đó là bằng chứng cho thấy người làm BTYL đã sử dụng tài liệu ở KTTNT mà vì sơ suất đã để lại những sai lầm.3. Đầu mút: BTYL và Vũ bị chế thắng chíTrong BTYL có nhiều thoại trích ở sách Võ bị chế thắng chí (viết tắt VBCTC) (Bd tr.1, 118, 148, 234, 283, 355). Tuy vậy, qua tìm kiếm xuất xứ chúng tôi phát hiện việc trích VBCTC đã diễn ra trên quy mô rộng lớn hơn nhiều. Có thể dẫn hàng loạt thoại mục như sau:- Hạ doanh trạch địa pháp (chọn đất đóng dinh): BTYL 2-1, Bd, tr. 144-146/ / VBCTC, T.1, Q.3, tờ 58a.- Dạ doanh (Đóng trại ban đêm) BTYL 1-259; Bd. tr.148-155/ /VBCTC, Q.6, tờ 16a.- Ám doanh (Đóng trại bí mật): BTYL 1-258, Bd. tr.155-15 // VBCTC, T.1, Q.3, tờ 72b.- Thủy chiến (phần nói về các đồ dùng trên thuyền) BTYL 2-258, Bd. tr.288-292 // VBCTC, T.4, Q.13, tờ 45b-57b.- Đánh thành (các binh cụ: thang bay - Sào xa) BTYL, 2-261, Bd. Tr.316-320 // VBCTC, T.2, Q.5, tờ 54-76.- Giữ thành (các dụng cụ: Cửa treo - giếng khơi) BTYL, 2-389, Bd. tr.365-368 // VBCTC, T.3, Q.10, tờ 19a v.v.Mặt khác cũng có bằng chứng cho thấy việc trích dẫn các binh thư cổ Trung Quốc trong BTYL không phải trực tiếp từ nguyên thư mà một phần lớn thông qua trung gian VBCTC. Ví dụ: về “quật hào doanh giáp” (phép đào hào đóng trại), theo Vũ binh tổng yếu: “... hào đào xong thì tạm bắc cầu phao, khi gấp rút thì chặt đi ngay, cứ cách 20 bước thì đặt một chiếc lâu” (…đương giới nhị thập bộ trí nhất chiến lâu)… ở ngoài lại đào một hố sập ngựa rộng 25 bước (… ngoại quật hãm mã khanh nhất trùng, khoát nhị thập ngũ bộ) (Tân san Vũ kinh tổng yếu tiền tập, Q.6, tờ 12b - 13a). Thoại này ở KSTB (Q.2, tờ 17a) cũng trích đúng là 20 bước, và hố sập ngựa rộng 25 bước. VBCTC T.1, Q.1, tờ 28 nhầm nhị thập bộ thành nhi thiên bộ (2000 bước), và hố sập ngựa rộng 2 bước. BTYL (1-233) sao chép lại ở VBCTC, rốt cuộc nhầm “nhị thập bộ” thành “nhị thiên bộ” và “nhị thập ngũ bộ” thành “nhị bộ”!Từ công việc điều tra văn bản trên đây có thể sơ bộ xác lập một lược đồ như sau(5): Theo lược đồ trên đây thì thời điểm xuất hiện văn bản BTYL không thể sớm hơn năm Tự Đức Kỷ Tị (1869) là năm in KTTNT và KSTB, và cũng không thể sớm hơn năm xuất hiện của VBCTC.Nhưng VBCTC là một bộ sách như thế nào?Đó là một bộ sách khá dày, toàn bộ gồm 27 quyển, cộng 655 tờ (28x8), đóng làm 7 tập, ký hiệm từ thư viện của VĐBC cũ: AC.597/1-7. Sách chép tay, ở tờ mặt sách đề Trùng khắc Vũ bị chế thắng chí (Hai chữ Trùng khắc gợi liên tưởng một bản sao căn cứ theo một bản sách in). Đầu sách chép 1 bài Tựa của Tri phủ (?) Quảng Đông là Dương Bái Úy tự Nông Phủ (Tiến sĩ) đề năm Quý Mão niên hiệu Đạo Quang 23 (1843). Tác giả bài Tựa nói khi ông ta đến Việt Đông (tức Quảng Đông) thấy một hàng sách đang bắt đầu khắc ván in bộ Vũ bị chế thắng chí¸ bèn cầm lấy xem, thì thấy sách này “cũng tựa như một món trong loại sách viết về võ bị” (tự diệc vũ bị chí trung chi nhất luyến). Theo lời thỉnh cầu của nhà hàng, ông bèn viết vài lời đặt lên đầu sách để chất chính cùng các bậc quân tử. Đó là một bài Tựa khiến ta ngạc nhiên nhiều hơn thú vị. Đối với một bộ sách lớn mà ở quyển đầu có ghi rõ là tác phẩm do Mao Nguyên Nghi soạn, hầu hết mọi chương mục đều có một đoạn ngôn luận mở đầu bằng mấy chữ: “Mao Tử viết…” (Thầy Mao nói…), vậy mà việc đề tựa chỉ làm hầu như ngẫu nhiên, không một lời nào nhắc đến Mao Tử. Một điều băn khoăn khác: Quảng Đông là một tỉnh, quan chức đứng đầu tỉnh ấy là chức Tuần phủ, đây lại ghi là “Tri phủ”? Người dịch bản của Nxb KHXH trong khi điểm lướt các bộ binh thư cổ của Trung Quốc có ghi Mao Nguyên Nghi soạn bị chí, 19 quyển; lại có Vũ bị chế thắng chí do học trò của Mao Nguyên Nghi soạn, 31 quyển. Người dịch bản của nhà Khai Trí (Sài Gòn) thì lại kê Võ bị chí của Mao Nguyên Nghi, 240 quyển, mà không nói gì đến VBCTC. Chưa rõ hai dịch giả căn cứ vào đâu để ghi như trên, mà cũng không thấy nói qua điều gì về Mao Nguyên Nghi? Chúng tôi vì chưa đủ tư liệu nên chưa dám tin như vậy. Trong khi nghiên cứu văn bản BTYL lục tìm các binh thư Trung Quốc thì thấy hầu hết các sách liên quan đều có bản in ở Thư viện Viện Thông tin KHXH, các bản hiệu chú xuất bản sau 1949 cũng có khá đủ ở Thư viện Quốc gia, mà riêng VBCTC (hoặc rộng ra là sách của Mao Nguyên Nghi) thì chỉ có 1 bản chép tay AC.597 như đã nói mà thôi. Hai bộ từ điển: Trung Quốc nhân danh đại từ điển (tr.716) và Trung Quốc văn học gia đại từ điển (tr.1266) đều có ghi tiểu sử và tác phẩm của Mao Nguyên Nghi, nhưng không thấy tên sách nào là Vũ bị chí hoặc VBCTC. Sơ đồ của chúng tôi vì vậy tạm thời phải dừng lại với thời điểm xuất hiện bản chép tay VBCTC còn bỏ ngỏ. Tuy vậy, chúng tôi nghĩ đến khả năng bản chép VBCTC là bản sách được chép ra để bán lại cho thư viện của VĐ - BC có nghĩa là phải có sau năm 1900 là năm bộ sưu tập sách Trung Quốc cổ được bắt đầu thực hiện ở thư viện này. Với những dữ kiện như đã trình bày, thời điểm xuất hiện BTYL tất phải lùi muộn có thể đến 1, 2 thập kỷ sau năm nói trên.Nói tóm lại, qua những cứ liệu trên đây, chúng ta nghĩ rằng có thể đi đến kết luận văn bản Binh thư yếu lược hiện có chẳng những không liên quan gì đến di tác của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mà cũng không phải là một bộ sách được biên soạn tiếp nối qua các đời Lê - Nguyễn như có ý kiến trước đây đã khẳng định.CHÚ THÍCH(1) Binh thư yếu lược. Phụ: Hồ trướng khu cơ Nguyễn Ngọc Tỉnh và Đỗ Mộng Khương dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Văn Tân giới thiệu, Nxb. KHXH. H. in lần thứ 1: 1970, 418 tr; lần thứ 2: 1977, 525 tr. Trong bài này khi dẫn bản dịch (Bd) chúng tôi ghi số tran lần in thứ 2.(2) Binh thư yếu lược. Nguyễn Phước Hải, Mã Nguyên Lương, Lê Xuân Mai dịch. Sài Gòn Nhà sách Khai Trí, 1969, 162 tr. Bản dịch này chỉ dịch hết quyển 1, và không thấy ghi căn cứ theo bản chữ Hán nào. Nhưng đối chiếu nội dung thì có phần chắc là dịch giả đã sử dụng bản vi phim sao chụp lại bản A.476 từ Viện Viễn đông Bác cổ.(3) Xem: Quản Hùng - Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Sài Gòn, Phương Đông, Số 11, tháng 5-1972, tr.357.(4) Chúng tôi dùng chữ “thoại” để chỉ đoạn văn gồm một hoặc nhiều câu diễn đạt trọn vẹn một chủ ý của tác giả.(5) Chúng tôi loại bỏ không thể hiện trong sơ đồ phần nội dung mà người làm ra văn bản BTYL đã lấy từ tác phẩm Hổ trướng khu cơ (của Đào Duy Từ). Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1989.Tác giả Ngô Đức Thọ là PGS.TS, nhà nghiên cứu văn bản học Hán Nôm hàng đầu của Việt Nam, nguyên cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm Nguồn: http://nguyenxuandie...u-yeu-luoc.html
  9. Bài thuốc thần kỳ cứu sống nhiều người bị chó cắn đã phát dại Nhiều người bị chó dại cắn đã sủi bọt mép, co giật, có người đã rên rỉ, cào cấu nhưng sau khi được uống thuốc thì chắc chắn khỏi. Nặng thì 1 tuần, còn nhẹ thì vài tiếng đồng hồ. Hơn 10 năm trong nghề là chừng ấy thời gian vị lương y này đã đem y đức của mình giúp biết bao bệnh nhân bị chó dại cắn khỏi bệnh. Hầu hết, họ, người bị chó dại cắn, tìm đến không chỉ ở tiếng tăm của ông với bài thuốc gia truyền “có một không ai” mà trên hết là tấm lòng, sự chu đáo, ân cần và cái nghĩa tình của một người thầy thuốc. Ông là lương y Lê Văn Sơn (SN 1965, ngụ tại thôn Thủy Tú 1, xã Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị). Lá mãng cầu xiêm - một trong 10 vị của bài thuốc chữa bệnh chó dại cắn. Theo lời đồn đại của người dân trong vùng, chúng tôi đã không quản ngại đường sá tìm về diện kiến vị lương y “thần thông quản đại” có tấm lòng bồ tát này. Vì là “bệnh viên” tại gia nên chỉ hoạt động vào buổi trưa và tối, còn lại thời gian với chức vụ Chủ tịch Hội Nông dân xã nên ông dành cho những người nông dân ngoài đồng ruộng. Hôm chúng tôi đến rất đông người bị chó dại cắn, nhưng họ không hề nao núng vì họ tin vào tài năng chữa bệnh của ông Sơn. Gặp chúng tôi, vẫn với nét mặt điềm tĩnh, ông Sơn rót nước mời khách rồi bắt đầu thăm khám cho bệnh nhân. Ông Sơn chữa bệnh cho một người bị chó dại cắn. Lật cuốn sổ ghi chép bệnh nhân đến thăm khám dày cộm, ông Sơn không sao đếm được mình đã cứu chữa cho biết bao con người bị chó dại cắn. Bài thuốc chữa bệnh chó dại cắn và tên tuổi của lương y Lê Văn Sơn đã nức tiếng khắp trong và ngoài tỉnh. Có nhiều người bệnh từ Hà Nội, Bắc Giang, Cà Mau, Vũng Tàu… cũng tìm đến nhờ ông cứu giúp. “Nhiều người đến đây đã sủi bọt mép, co giật, có người đã rên rỉ, cào cấu nhưng sau khi được uống thuốc thì chắc chắn khỏi. Nặng thì có thể một tuần, còn nhẹ thì vài tiếng đồng hồ sau là khỏi bệnh, nhưng tốt nhất nếu người đã phát dại thì nên ở nhà vì người phát dại rất sợ gió, ánh sáng. Vì thế, có thể nhờ người thân đến mang thuốc về nhà uống” – ông Sơn bộc bạch. Kể về cơ duyên đến với nghề này, ông Sơn cho biết, gia đình ông vốn có nghề thuốc đã lâu, ông là đời thứ năm được thừa hưởng bài thuốc quý này. Trước đó bốn đời, có người đàn ông người Trung Quốc trong lúc chạy loạn đã lạc vào nhà cụ tổ và được cụ cưu mang trong suốt 10 năm. Đến thời Pháp thuộc, người đàn ông ấy bỏ đi rồi không ai rõ tung tích ra sao. Trong thời gian ở nhờ, người ấy đã truyền lại một vài bài thuốc quý giúp chữa trị các bệnh thông thường, trong đó có cách chữa chó dại cắn. Nhà có sáu anh em nhưng chỉ mình ông Sơn được truyền lại bài thuốc quý. Đến năm 1987 cha ông mới quyết định cho ông theo chân lên rừng đi kiếm cây thuốc và học cách pha chế thuốc chữa bệnh chó dại cắn. Cứ thế, ông Sơn đã mất 7 năm học nghề mới được cha cho ra nghề. Rất nhiều người được ông Sơn chữa khỏi bệnh chó dại cắn. Càng về trưa trưa, căn nhà cấp bốn nhỏ hẹp của ông Sơn càng lúc càng đông. Trong đó có chị Đỗ Thị Tuyết Nhung (40 tuổi) lặn lội bắt xe khách vượt hàng trăm cây số đưa con trai mình đã Trần Đỗ Minh Hiếu (10 tuổi) từ tỉnh Đồng Nai ra nhà ông Sơn để chữa trị cho con. Chị Nhung cho hay, trên đường đi học về, con trai chị bị chó dại cắn ở chân phải. Người thân trong gia đình lo lắng bảo chị đưa con đi tiêm vắc xin nhưng chị sợ vắc xin sẽ gây những biến chứng, hại đến cơ thể của con mình nên không đưa đi viện. Trước đó, chị cũng bị chó dại cắn và được ông Sơn chữa khỏi, vì vậy nên quyết định đưa con mình ra nương nhờ ông Sơn chứ không dám tiêm vắc xin vì tiêm vắc xin ngừa chó dại rất có hại cho sức khỏe con tôi về sau. Vừa trò chuyện với chị Nhung xong, chúng tôi giật mình khi thấy một người thanh niên lực lưỡng nhưng gương mặt nhợt nhạt, bọt mép chải dài, quằn quại trong đau đớn đang được người nhà dìu xuống từ chiếc xe tắc xi. Vừa thở gấp, người thanh niên chỉ thì thào “cứu tui với bác Sơn ơi!”. Một lát sau, anh cho biết họ tên là Hoàng Quý Minh (28 tuổi, trú huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế) bị chó dại cắn nhưng để lâu ngày không chữa trị, đến lúc vào bệnh viện thì đã quá muộn nên bác sĩ bó tay. May mắn nghe bà con mách tiếng nên đã được người nhà đưa đến ông Sơn nhờ cứu giúp. Chưa kịp nghỉ ngơi, một cháu bé học lớp 2 ở huyện Đakrông (Quảng Trị) được cha mẹ mình chở đến nhà ông Sơn nhờ ông thăm khám. Nhìn đứa trẻ với ánh mắt trìu mến, ông Sơn nói nhỏ, yên tâm để ông khám cho. Nói rồi ông lấy trong tủ thuốc ra một nắm lá thuốc, dán sau gáy cháu nhỏ. Sau 10 phút, ông gỡ nắm lá thuốc ra và gọi cháu bé ra ngoài ánh sáng mặt trời để khám bệnh. Thật kì lạ, không hề nhìn vào vết thương của cháu nhỏ vì cháu mặc quần dài nhưng ông Sơn chuẩn đoán đúng 100%: “Vết thương nhẹ, chỉ sợt ngoài da nhưng có chảy máu. Chó này là chó lành nên không bị dại”. Cũng là cốc thuốc màu sẫm nhưng theo ông Sơn, loại thuốc này dùng để phòng ngừa, uống nó rồi thì trong vòng 10 tháng, dù có chó dại cắn cũng không sao. Còn về việc đắp lá thuốc sau gáy để thăm bệnh, theo ông Sơn đó là cách thử độc để nhận biết vết cắn là của chó dại hay chó lành. Ông Sơn tiết lộ, sau khi tháo thuốc ra, nếu trên da xuất hiện các tia tím, đỏ, hồng chứng tỏ người bệnh đã bị nhiễm độc, nhìn vào đó cũng cho thấy vết cắn có hình dáng ra sao, sâu cạn thế nào và xác định độ nặng nhẹ của bệnh nhân để đưa ra liều lượng chữa trị phù hợp. Nhưng để học được “tuyệt kỉ” thử độc này, ông Sơn đã mất thời gian khá dài. Có một kỷ niệm mà luôn ám ảnh trong trí nhớ của ông Sơn suốt hai mươi năm qua, ông chỉ nuối tiếc một ca bệnh đã tìm đến tay ông nhưng vì quá muộn. “Tôi còn nhớ lúc anh thanh niên ở tỉnh Kon Tum đó tới thì đã không ăn uống gì được, gan đã bị lầy, và sắp chết. Dù tôi cố gắng bao nhiêu thì anh ta cũng không thể qua khỏi. Giá như anh ta đến sớm hơn chút nữa thì… ” – ông Sơn trầm buồn. Cái tâm, cái tình của vị lương y Công việc bình dị của ông Sơn khi rãnh rỗi là làm cỏ quanh vườn tiêu để có thu nhập. Nhiều người đã nói về ông như vậy bởi cái tâm, cái tình ông dành cho những bệnh nhân. Ngần ấy năm chữa bệnh cứu người trong cơn thập tử nhất sinh nhưng ông Sơn chưa bao giờ nghỉ đến chuyện danh lợi cho mình. Đó cũng là lời răn dạy mà tổ tiên ông truyền lại “cấm lợi dụng việc làm thuốc chữa bệnh để làm tiền. Làm thầy thuốc là để giúp thiên hạ khỏi nguy nan”. Như minh chứng cho lời nói của ông, chị Nguyễn Kim Cúc quê ở tỉnh Gia Lai, người trước kia được ông Sơn chữa trị giờ ghé thăm nhà ông để thăm hỏi, tặng gói bánh tỏ lòng biết ơn. Chị Cúc cảm kích: “Trước đây tôi bị chó dại cắn, phát dại rồi, cứ tưởng không qua, gia đình tôi đã chuẩn bị sẵn hậu sự. May mà có thầy Sơn cứu giúp chứ không thì giờ đã xanh cỏ lâu rồi. Hồi đó nhà tôi nghèo, hai vợ chồng ra nhà thầy mà chỉ có một trăm nghìn. Được thầy Sơn chữa bệnh miễn phí, lại cho ăn ở, lành bệnh còn cho tiền xe để về. Gia đình tôi đội ơn thầy Sơn nhiều lắm”. Xem bảng giá thuốc chữa bệnh của ông chúng tôi mới biết mỗi gói thuốc chữa bệnh chó dại cắn trọn gói có giá 500 nghìn đồng hết bệnh và 200 nghìn đồng cho loại thuốc phòng ngừa bệnh dại có tác dụng trong 10 tháng. So với giá cả của Tây y thì còn còn khá “khiêm tốn”. Hành nghề chữa chó dại nhiều năm, ông Sơn thú thực: “Nhiều lúc tôi cũng sợ lắm, vì trong khi chữa trị, người bệnh lên cơn thường cào xé, cắn bậy, chỉ cần vô ý là có thể bị lây nhiễm độc dại qua nước bọt, vết máu người bệnh. Nhưng nhìn thấy người ta sắp chết mà không cứu thì lòng không yên nên cứ kệ, nguy hiểm cũng chấp nhận, miễn sao cứu được người”. Khi được hỏi về phương châm chữa bệnh cứu người của ông là gì?. Ông Sơn nhìn lên bàn thờ tổ tiên rồi đáp: “Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp. Không màng danh lợi, không vì tiền mà chỉ vì mạng sống của con người”. Một đời chữa bệnh, ông Sơn luôn nhắc nhở bệnh nhân mỗi khi ra về đó là người bệnh đang điều trị độc chó dại, trong 24 giờ sau khi uống thuốc, tuyệt đối kiêng cử đám tang. Nếu phạm phải điều cấm kị này thì độc tố sẽ tăng lên gấp trăm lần, có thể dẫn đến mất mạng. Khi được hỏi tại sao như thế thì ông Sơn trả lời: “Chính tôi và tổ tiên cũng không giải thích được, nhưng đã là điều cấm kị thì phải tuyệt đối nghe theo”. Bài thuốc của ông Sơn có tổng cộng 12 loại lá cây, trong đó lá cây mãng cầu xiêm và lá cây hoa dẻ kết hợp lại có tác dụng chữa độc chó cắn. Ngoài ra nó cũng là thành phần chính để bào chế chữa độc rắn cắn. Chín loại lá khác cũng chỉ là cây cỏ trong vườn, ở đồng ruộng hay trên rừng, duy chỉ có một loại lá ở Việt Nam không có, ông phải đặt ở Trung Quốc đưa về, nếu không có loại lá thuốc này thì không thể bào chế thuốc được. Những loại lá cây này chỉ được hái trong những ngày vào dịp Tiết Thanh Minh. Và mỗi năm chỉ có thể chế biến thuốc duy nhất một lần vào đúng ngày Hạ chí. Mười lá cây được sao khô, sau đó tán thành bột dự trữ sẵn. Hai loại còn lại là lá cây mãng cầu xiêm và lá cây hoa dẻ đem lọc lấy nước rồi đóng chai. Khi có người bị chó dại cắn, chỉ cần trộn đều thứ bột thuốc và nước lá tươi rồi pha loãng vào nước lọc cho bệnh nhân uống. Phần xác lá xát nhẹ lên vùng da thâm quầng do răng chó tạo ra. Còn loại thuốc để phòng ngừa thì có thêm bớt một số vị thuốc nhưng cũng đủ 12 loại thảo dược. http://soha.vn/song-khoe/bai-thuoc-than-ky-cuu-song-nhieu-nguoi-bi-cho-can-da-phat-dai-20140323153633653.htm?mobile=true
  10. Ba tàu rất ba xàm! Bởi vậy trong cuốn "Bí ẩn phong thủy" gì gì đó dịch ra từ sách tàu, các định nghĩa về Phong thủy đều có đi kèm các chữ: mê tín, tín ngưỡng...
  11. Phó Chủ tịch Hội khuyến học & Dân trí - PGS, TS. Trần Xuân Nhĩ: Nhân dân ta phải giỏi tiếng Anh để không bị tụt hậu Nhân dịp Hội khuyến học Việt Nam và Học viện Anh ngữ EQuest đồng tổ chức cuộc thi English Champion 2014, Phó Chủ tịch Hội khuyến học& Dân trí PGS.TS Trần Xuân Nhĩ khẳng định Hội Khuyến học VN mong muốn học sinh ta phải giỏi tiếng Anh để không bị tụt hậu so với các nước láng giềng. Xin ông cho biết lý do mà Hội Khuyến học VN lại quyết định đăng cai đồng tổ chức một cuộc thi tiếng Anh là cuộc thi English Champion 2014? Hội khuyến học là một đoàn thể lớn chú trọng tới giáo dục tại VN hiện nay. Chúng tôi có 11 triệu hội viên, được tổ chức từ TW đến cơ sở, được ông Nguyễn Mạnh Cầm Nguyên Ủy Viên Bộ Chính trị, Nguyên Phó Thủ tướng, Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao giữ chức Chủ tịch Hội. Hội hoạt động với tinh thần: “Khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước là một xã hội học tập”. Với tinh thần đó, TW Đảng Cộng sản đã tặng Hội một bức trướng nêu cao tinh thần ấy. Hằng năm Hội có rất nhiều học bổng khuyến khích học sinh nghèo đến trường, vinh danh học sinh giỏi. Còn lý do tại vì sao mà chúng tôi lại cùng với EQuest tổ chức cuộc thi English Champion 2014 là Hội Khuyến học nhận thức được đất nước chúng ta đang hội nhập, tiếng Anh là ngôn ngữ chung cho toàn thế giới. Hội nhập để chúng ta đi ra ngoài thế giới và thế giới đến với nước ta. Ngôn ngữ tiếng Anh rất cần thiết và vô cùng quan trọng. Chính vì thế, Bộ Giáo dục & Đào tạo có một đề án nâng cao trình độ tiếng Anh cho học sinh và toàn bộ người dân. Điều mà Hội Khuyến học mong muốn là học sinh ta phải giỏi tiếng Anh, nhân dân ta phải giỏi tiếng Anh. Khi đất nước đang hội nhập, mọi người dân, đặc biệt là thế hệ măng non có nền tảng tiếng Anh vững chắc, không bị tụt hậu so với các nước láng giềng”. PGS.TS Trần Xuân Nhĩ trả lời phỏng vấn. Theo ông, tiếng Anh sẽ đem lại lợi thế cạnh tranh gì giữa các nước không nói tiếng Anh trong thời đại hiện nay?Khi tôi sang Campuchia, tôi cứ nghĩ là người ta kém hơn mình. Té ra về mặt tiếng Anh, họ giỏi hơn mình. Tôi đi đến 20 cửa hàng và cả 20 người phụ nữ đều nói tiếng Anh rất giỏi. Họ có thể giới thiệu mặt hàng của mình với khách nước ngoài. Điều tôi bất ngờ thứ hai đó là khi tôi đi xe túc túc, trên đường đi 2 bên đường người dân đều có thể giới thiệu về danh lam thắng cảnh cho chúng tôi. Thứ ba nữa là khi tôi vào các quán ăn, họ đều giới thiệu từng món ăn cho chúng tôi. Kết quả này là nhờ Chính phủ Campuchia đã đưa ra một điều luật bắt buộc những người bán hàng phải học tiếng Anh. Họ phải nói được tiếng Anh mới được cấp giấy phép bán hàng. Sau khi được cấp giấy phép, những người bán hàng vẫn phải tiếp tục trau dồi tiếng Anh. Nếu năm sau, các cơ quan chức năng kiểm tra mà những người bán hàng không nói được tiếng Anh, họ sẽ lại thu lại giấy phép bán hàng. Do đó, những người bán hàng tại Campuchia buộc lòng phải đi học tiếng Anh để có thể duy trì công việc kiếm sống của mình. Đó là ngoài xã hội, còn trong nhà trường, từ Lào đến Campuchia, mọi người dân đều được học tiếng Anh bởi người ta nói rằng tiếng Anh có thể xuất khẩu, thu được rất nhiều tiền. Tôi tin Việt Nam cũng có thể làm như thế. Tôi có hai đứa cháu học cấp 2, gia đình cho đi Singapore học. Bên đó họ tổ chức kì thi cho học sinh chỉ có 2 môn toán và tiếng Anh. Họ chấm có 2 môn đó mà lấy 600 USD. Chi phí dẫn con đi, ăn uống rồi nghỉ ngơi cũng tốn hàng nghìn đô nữa. Đó là ở Singapore, mình phải bỏ tiền túi mình ra. Theo tôi, các chuyên gia ngoại giao Việt Nam khi đi sang nước ngoài đàm phán, nếu tự mình biết nói tiếng Anh thì cơ hội thắng lớn hơn rất nhiều. Vì vậy, nếu Việt Nam không nâng cao trình độ tiếng Anh thì không thể nào làm được những bước tiến vượt bậc so với các nước khác. Hội Khuyến học cũng có mong ước toàn dân ta và các em học sinh trong trường đều có trình độ tiếng Anh cao. Ông có thể chia sẻ lý do mà Hội khuyến học Việt Nam chọn EQuest làm đơn vị đồng hợp tác tổ chức cuộc thi English Champion 2014? Hội Khuyến học đã thấy được thành công của English Champion 2013, nhiều em đạt giải cao, sau này đã giành được những suất học bổng đi nước ngoài. Vì vậy, theo đề nghị của EQuest, Hội Khuyến học quyết định tổ chức English Champion 2014 lớn hơn, và mở rộng qui mô trong tương lai, mở rộng ra các cấp từ tiểu học đến PTTH và có thể tiến hành ở các trường Đại học. Trong tương lai, Hội Khuyến học sẽ hợp tác với EQuest tổ chức kì thi này ở các trường Đại học, Cao đẳng... mà trước hết là một số trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập, đồng thời trao những suất học bổng khuyến khích nhân tài. Hy vọng Cuộc thi năm nay giành được những kết quả tốt. Điều này hoàn toàn nằm trong khả năng của Hội Khuyến học. Chúng tôi rất sẵn sàng hợp tác với EQuest để trong tương lai có thể mở rộng quy mô cuộc thi này. Với ý nghĩa như vậy, chúng tôi đã hợp tác với EQuest. Một biểu hiện thiết thực nhất là ngay trong năm nay, chúng tôi sẽ tập trung tổ chức cuộc thi để tạo tiền đề cho năm sau mở rộng quy mô hơn nữa. Xin cám ơn ông về cuộc trò chuyện này. ======================= Xin hỏi GS rằng người Nhật chả thèm học tiếng Anh, thậm chí dở tiếng Anh mà sao kinh tế đứng top đầu thế giới? Campuchia, Lào mà GS thấy hầu như ai cũng nói được tiếng Anh thì đứng thứ mấy thế giới và thứ mấy khu vực?
  12. Loại suy tất cả những ngày xấu là phương cách tính ngày của TTNC Lý học Đông phương. Còn lại những ngày cho là xấu vì những ngày này còn phạm các tiêu chí mà cổ thư đã nêu, tuy nhiên cứ máy mốc và cứng nhắc thì có thể sẽ hư việc cho nên những "ngày xấu" ấy nếu không phạm những ngày Nguyệt Kỵ, Tam nương sát thì cứ tiến hành. Những việc trọng yếu thì nên làm vào "ngày tốt" như bài đã đăng. Nếu không còn những ngày tốt, thì chẳng đặng đừng phải chọn "ngày xấu" và tránh tiêu chí kiêng kỵ. Vd: định làm việc xây sửa vào ngày A, nhưng truy cập lại ngày A kiêng xây sửa thì bỏ đi, chọn ngày tương đối khác. Đã là ngày xấu thì ít nhất phải chọn được giờ tốt. Mặc dù chưa chắc tốt hẳn hay hết xấu. Thiên Đồng
  13. Những ngôi mộ cổ dòng họ Lê Văn Duyệt - Kỳ 17: Bi kịch Lê Văn Duyệt Khi dựng gia phả họ Lê Văn (dòng họ của Tả quân Lê Văn Duyệt, Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong) chúng tôi đã có những chuyến điền dã về 2 xã Long Hưng, Hòa Khánh (Tiền Giang) và thôn Bồ Đề, xã Đức Nhuận, H.Mộ Đức (Quảng Ngãi) là Tổ quán họ Lê để tìm hiểu lai lịch các ngôi mộ cổ, hiểu được sự thăng trầm cũng như những bi kịch mà lịch sử đã đè nặng lên họ tộc Lê Văn suốt mấy trăm năm. Đức Tả quân Lê Văn Duyệt là bậc khai quốc công thần, là vị tướng giỏi phò chúa Nguyễn Ánh vạn dặm trường chinh từ khi chúa Nguyễn còn gian nan bôn tẩu cho đến lúc lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long. Tả quân Lê Văn Duyệt giữ chức Tổng trấn Gia Định hai lần, lần thứ nhất trong những năm 1813-1816 và lần hai từ năm 1820 cho đến lúc qua đời. Sự phát triển vượt bậc về kinh tế, xã hội, văn hóa và quân sự của đất Gia Định trải dài từ Bình Thuận tới Cà Mau, Hà Tiên sách sử đã ghi nhận. Tài năng, công đức của Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt được người dân Nam Bộ hết lòng tôn kính. Ông mất năm 1832 nhưng chỉ hai năm sau thì “đất bằng dậy sóng”. Mộ song táng Tả quân Lê Văn Duyệt và phu nhân - Ảnh: T.L Năm 1835, vụ nổi dậy chống lại triều đình của con nuôi Lê Văn Duyệt là Phó vệ úy Lê Văn Khôi kết thúc đẫm máu. Hàng ngàn sinh linh bị vua Minh Mạng ra lệnh xử chém, tạo nên ngôi mả Ngụy trên đất Phiên An. Lê Văn Duyệt dù đã chết cũng không tránh khỏi liên lụy. Sau khi các quan đại thần dâng biểu nghị án, vua Minh Mạng ra chỉ dụ: “Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả không bõ gia hình. Vậy cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên khắc những chữ "Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử", để chính tội danh cho kẻ đã chết mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời". Thế người nằm dưới mồ bị kết án 7 tội trảm, 2 tội xử giảo, 1 tội phát quân, cho san bằng và xiềng mộ. Nhưng Tả quân Lê Văn Duyệt phạm tội gì mà mộ ông bị san bằng và cắm bia “sỉ nhục”; những phẩm hàm của ông, của thân sinh ông bị tước, bia mộ bị đục xóa, điền ruộng bị tịch thu, nhà thờ họ tộc tại làng Bồ Đề, H.Mộ Đức, Quảng Ngãi (Tổ quán họ Lê Văn) bị voi của quan quân Quảng Ngãi về tàn phá, và thảm kịch mấy mươi người là con cháu của ông bị xử trảm hàng loạt tại kinh thành Huế năm 1838? Nguyên nhân vì: khi vua Gia Long lập di chiếu truyền ngôi báu, Lê Văn Duyệt đã phản đối việc vua bỏ dòng trưởng (của Hoàng tử Cảnh, chết năm 22 tuổi) để lập dòng thứ (Nguyễn Phúc Đảm tức vua Minh Mạng). Dù vua Gia Long không nghe theo nhưng Lê Văn Duyệt là vị khai quốc công thần hết sức tài giỏi và trung thành, nên vua vẫn tin cậy trao phó trách nhiệm phò tân quân (Minh Mạng). Do Lê Văn Duyệt có công dẹp giặc, an dân, mở mang đất nước giàu có, cường thịnh nhất là vùng Đồng Nai - Cửu Long (tức Gia Định, Nam Kỳ lục tỉnh)..., nên khi chính thức lên ngôi vua - dù không vừa lòng - Minh Mạng cũng phải đối xử cho đúng với công lao của ông. Nhưng sau khi Lê Văn Duyệt qua đời (1832), những người có trách nhiệm tại Gia Định như Bạch Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Quế... đã đối xử bất công với những người thân tín của ông, khiến Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Gia Định. Lê Văn Duyệt tuy đã chết cũng bị đem ra xét xử và bị buộc vào tội “phản nghịch” như Lê Văn Khôi. Các quan muốn làm đẹp lòng vua, hùa nhau buộc tội Lê Văn Duyệt với những lời lẽ có vẻ cường điệu, vu khống như “Lê Văn Duyệt đã gọi mồ mả cha mẹ mình là “lăng”, nói với người khác thì xưng là “cô”, giải thích chức Tổng trấn như là Phó vương... toàn những tội phạm thượng, phản nghịch, bất trung phải bị chém đầu! (Lăng chỉ mồ mả của bậc đế vương; Mộ chỉ mồ mả của bề tôi; Cô gia hay Trẫm là tiếng vua tự xưng). Cũng như gán cho Lê Văn Duyệt là người “lạm dụng quyền thế” đã dùng quyền “tiền trảm, hậu tấu” để chém đầu Huỳnh Công Lý (cha một sủng phi của vua Minh Mạng) trước, rồi mới làm tờ trình về tội trạng gửi lên vua sau... Bi kịch họ Lê Văn quả thật hãi hùng! Việc vua Minh Mạng xét xử Lê Văn Duyệt bất công đến nỗi chính con của ông là vua Thiệu Trị (1841, khi mới lên ngôi) đã ra lệnh đại xá cho Lê Văn Duyệt và cháu của Minh Mạng là vua Tự Đức (1848, khi mới lên ngôi) đã phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần nhà Nguyễn, trong đó có Tả quân Lê Văn Duyệt. Vua Tự Đức xem sớ cảm động ra chỉ dụ giải oan cho Tả quân và trả lại tước vị, phẩm hàm ngày trước đã ban cho ông và song thân ông. Quan làng Long Hưng, tỉnh Định Tường tìm ra Lê Văn Niên, con bà Lê Thị Hổ là cháu gọi Tả quân bằng cậu, trả lại 32 mẫu ruộng làm hương hỏa thờ phụng song thân Tả quân. Lại đón Lê Văn Thi là con cụ Lê Văn Dược, cháu nội Tả dinh Đô thống chế Lê Văn Phong, về cùng hương chức làng Bình Hòa xây nơi thờ tự Tả quân. Từ đó đến nay, Đền thờ Tả quân (lăng Ông) sau nhiều lần trùng tu và mở rộng, đã trở thành khu lăng mộ cổ kính và uy nghi tọa lạc ngay cạnh chợ Bà Chiểu, TP.HCM. Chánh thất phu nhân của ông là bà Đỗ Thị Phẩn không bị kết tội. Sau ngày Tả quân qua đời, bà đã vào tu trong một ngôi chùa rồi mất ở đó, được an táng bên cạnh mộ Tả quân. Mộ song táng của Tả quân Lê Văn Duyệt và Chánh thất phu nhân Đỗ Thị Phẩn được đắp cao, xây lại đàng hoàng với tường thành kiên cố xung quanh. Trải qua hàng trăm năm, mưa nắng đã tạo nhiều vết rêu phong cổ kính trên khu mộ; nhưng bi kịch họ tộc Lê Văn vẫn không phai nhòa trong lòng người dân Gia Định. Diệp Hồng Phương - Hà Đình Nguyên ================= Nghe nói ngày xưa Ngài rất thiêng, ai có chuyện gì đến trước mộ Ngài mà lập lời thề và bẻ cổ gà thì ứng ngay.
  14. Trong phong thủy Lạc Việt cũng có nhiều vật khí trấn yểm tương đồng như pháp khí Mật Tông. Thí dụ như con ốc trong bài viết này... Xin được đưa lên để quý đọc giả tham khảo. Thiên Đồng ============================ Ý nghĩa pháp khí Mật tông Tây Tạng Pháp khí là những dụng cụ dùng để thực hành các loại pháp sự, để dân cúng lên chư Phật hoặc các đạo tràng nghiêm trang, hoặc làm dụng cụ trợ ích trong tu chứng Phật pháp. Pháp khí của Phật giáo Tây Tạng đại khái có thể chia làm sáu loại lớn là kính lễ, tán tụng, cúng dường, trì nghiệm, hộ thân và khuyến giáo. Pháp khí hay còn gọi là Phật khí, là dụng cụ trong tu chứng Phật pháp, giúp người tu hành thực hiện các nghi thức Phật giáo và sinh hoạt Phật pháp. Những dụng cụ được sử dụng trong các Phật sự như tu pháp, cúng dường, pháp hội, hay những vật dụng mà giáo đồ Phật giáo thường mang theo người như tràng hạt, tích trượng, đều được gọi là pháp khí . Phật giáo Tây Tạng sở hữu một lượng pháp khí phong phú, được làm từ nhiều vật liệu khác nhau, chủ yếu đúc bằng vàng, bạc, đồng, tạo hình sâu sắc, mỗi loại pháp khí mang một hàm nghĩa tôn giáo khác nhau, mang đậm màu sắc thần bí. Về cơ bản pháp khí có thể chia làm sáu loại lớn là kính lễ, tán tụng, cúng dường, trì nghiệm, hộ thân, khuyến giáo. Như cà sa, vòng cổ, kha-ta là pháp khí kính lễ; chuông, trống, sáo xương, vỏ ốc, đàn lục huyền, kèn thuộc loại pháp khí tán tụng; tháp, đàn thành, bát bảo, thất bảo, đàn cúng, lọng hoa thuộc loại pháp khí cúng dường; Tràng hạt, mõ, chùy kim cương, bình quán đỉnh, bát sọ người thuộc loại pháp khí trì nghiệm; Phật hộ pháp, bùa bí mật là pháp khí hộ thân; đèn mani, bánh xe mani, đá có khắc hoặc viết chân ngôn sáu chữ thuộc loại pháp khí khuyến giáo. Chuông Chày Kim Cang Chày và chuông cũng là những pháp khí không thể thiếu trong các pháp đàn, các nghi quỹ tu trì của Mật Tông. Chày và chuông thường được làm bằng bạc hoặc đồng. Vì do những rung động của những phân tử kim loại này có ảnh hưởng tốt tới khí mạch trong cơ thể con người. Chuông: tượng trưng cho phương tiện. Chày: tượng trưng cho trí tuệ. Dao Phurba (Kilaya) Kila hay Kilaya là một con dao găm có dạng tam giác, là đại diện cho thực tế tận cùng của ba cánh cửa giải thoát - tính trống rỗng, sự độc nhất, vô sở cầu - là sự đồng nhất của Tam Thân Phật, các năng lực này được huy động hết tất cả vào tại một điểm để chiến thắng tất cả mọi tội lỗi và chuyển hoá nó thành tốt lành. Vajrakilaya, hay kila, có nghĩa là một thứ gì đó sắc nhọn, một thứ dùng để đâm, chọc xuyên qua các thứ khác, đại loại như là một con dao găm. Một con dao găm mà nó quá bén đến mức có thể đâm xuyên mọi thứ, trong khi không thể có cái gì đâm xuyên qua được. Sự sắc bén và năng lượng xuyên thủng mọi thứ này là những gì được sử dụng trong thực hành và là phương pháp quan trọng nhất trong những phương tiện vô lượng không thể tính đếm của Kim Cang Thừa. Dao phurba và hành giả thực hành pháp này ở đâu thì nơi đó sẽ được an bình, tránh được các não hại, ma chướng. Sự thực hành các pháp bí mật lại sớm được thành tựu do oai lực bất khả tư nghì của pháp khí + đàn pháp này. Tương truyền ngài Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) cũng đã từng thực hành đàn pháp kilaya với pháp khí này để thành tựu Vajrakilaya là một trong những bổn tôn phổ biến nhất được biến đến khi dùng để tiêu diệt những chướng ngại. Guru Rinpoche đã đạt được giác ngộ thông qua sự thực hành Yangdag Heruka, tuy nhiên trước đó ngài đã phải thực hành Vajrakilaya để dẹp, cũng như làm sạch những chướng ngại, và sau đó, thông qua đó, ngài thực hiện những phần còn lại và đạt được những gì ngài mong muốn. Do vậy, Vajrakilaya được biết đến thông qua sự dọn sạch những chướng ngại. Vajrakilaya được biết đến như là những hiện thân của tất cả mọi hoạt động của chư Phật. Khi nói đến Vajrakilaya, thì chúng ta còn được biết đến ngài như là một hoá thân phẫn nộ của Vajrasattva (Kim Cang Tát Đoả) Trống Damaru Trống Damaru là loại trống hai mặt từ Ấn Độ và Tây Tạng. Trống thường được làm từ gỗ, với mặt trống làm bằng da. Đôi khi trống có thể được làm từ xương sọ. Có nhiều loại trống có cái nhỏ khoảng chừng gần 10 cm cho đến cái lớn có thể tới 30cm. Sử dụng trống damaru bằng một tay. Lắc trống bằng cử động của cổ tay. Trống Damaru được dùng trong các nghi thức của Phật Giáo Tây Tạng, đặc biệt là với sự thực hành Chod. Trống Damaru rất nổi tiếng trong Ấn Độ. Nó liên quan tới thần Shiva ở dạng Nataraja đang trình diễn điệu vũ của tanvada. Âm thanh của damaru đại diện cho âm thanh và nhịp điệu nguyên thủy. Cờ Tây Tạng Những là cờ nguyện cầu bay phấp phới trong gió có thể được tìm thấy cùng với những cọc đá mani bảo trên mái nhà, dọc đường núi, băng qua sông và những nơi linh thiêng khác Cờ cầu nguyện thường được làm bằng vải hình vuông bằng các màu màu trắng, xanh dương, vàng, xanh lá và đỏ. Cờ được trang hoàng bởi những hình ảnh, thần chú và các lời cầu nguyện. Thông thường tại tâm của lá cờ cầu nguyện này, đó là hình ảnh của con ngựa gió là đại diện cho Tam Bảo của Phật Giáo. Ở bốn góc của lá cờ là những linh thú như là Garuda (Kim Xí Điểu), Rồng, Cọp và Sư Tử Tuyết đó là bốn linh thú đại diện cho bốn quyền năng: Trí tuệ, quyền năng, sự tự tin và vô úy Thỉnh thoảng ta có thể thấy các biểu tượng cát tường của Phật Giáo ở các góc cạnh của lá cờ. Các khoảng trống ở giữa được in vào các hình ảnh, lời cầu nguyện và thần chú . Có 2 loại cờ cầu nguyện, loại ngang được gọi là Lungta và loại dọc được gọi là Darchor. Cờ ngang thì hình vuông và được nối với nhau tại cạnh đỉnh trên cùng bằng sợi dây dài. Cái ít phổ biến hơn là cờ dọc thì thường là những lá cờ vuông riêng biệt hoặc nhóm những lá cờ vuông được thêu trên cọc được trồng ở mặt đất hay trên mái nhà. Người Tây Tạng tin rằng các lời nguyện cầu và thần chú sẽ được thổi tới các cung trời như là những phẩm vật cúng dường tới các hộ thần của họ và đem lại thật nhiều lợi lạc cho những ai treo cờ, cho hàng xóm của họ, và cho tất cả chúng sinh, thậm chí là các loài chim bay trên trời. Tuy nhiên, nếu cờ được treo sai ngày, chúng sẽ chỉ đem lại những kết quả tiêu cực. Và càng được treo lâu bao nhiêu, thì chướng ngại được sinh ra sẽ lớn hơn. Cờ cũ được thay bởi cờ mới thường niên vào Tết của Tây Tạng. Vật khí dùng cúng dường Mandala Trong tu học Mật Tông, thì tích lũy hai bồ tư lương phước trí là việc cực kì trọng yếu. Chính sự tích tập cùng lúc 2 thứ này trong pháp tu là sự khác biệt chính yếu làm cho Mật Tông trở thành pháp tu mà mọi người hay gọi nôm na là “tu tắt” – do sức nhanh chóng trong việc tích tập đầy đủ hai tư lương này. Nói về phương pháp tích tập phước đức, thì trong Mật Tông có rất nhiều pháp. Nhưng trong các pháp, pháp đơn giản và đem lại lợi lạc nhiều nhất có thể nói đến pháp cúng dường Mandala. Pháp cúng dường Mandala được đề cập nhiều trong pháp tu ngondro dự bị trong tất cả mọi dòng truyền thừa của Mật Tông Tây Tạng. Pháp cúng dường Mandala khi thực hiện thì dùng đồ cúng dường mandala. Vừa cất lời tụng, tay vừa rãi các hạt gạo, cát, hoặc đá quý….lên từng vòng, theo thứ lớp để tạo thành mandala. Ở đây sự cúng dường này không chỉ mang ý nghĩa là chỉ cúng dường gạo, cát hoặc đá quý…mà là sự dâng hiến lên cho Bổn Sư, cho dòng truyền thừa, cho Tam Bảo tất cả những thứ tốt đẹp nhất mà mình sở hữu. Ngoài phước báu lợi lạc do sự cúng dường này, thực cúng dường mandala còn là một phương pháp tuyệt vời để cắt bỏ tâm chấp trước, chấp ngã…. Kèn ốc loa Kèn ốc loa thường được làm bằng vỏ ốc. Âm thanh được tạo ra của kèn ốc loa khi thổi vào tượng trưng cho âm Om là âm thanh khởi đầu của vũ trụ ( theo quan niệm của Phật Giáo và Hindu giáo). Trong kinh, kèn ốc loa còn được xem như Pháp loa là biểu tượng cho chánh pháp được lưu truyền khắp nơi do sức vang rền, chấn dộng không gian của nó. Theo Mật Tông Phật Giáo thì Kèn ốc loa là một trong 8 thứ quý báu để cúng dường cho Bổn Tôn (hay còn được gọi là Bát Cúng Dường - bao gồm có nước, rượu, hoa, ánh sáng - nến, trầm, nước hoa, trái cây và Kèn ốc loa). Kèn ốc loa cũng là thứ bảo vật mà ta thường thấy ở trong Bát Báu Kiết Tường mà Chakravatin ( Chuyển Luân Thánh Vương) thường hay sử dụng. Mạn đà la Kalachakra - Kim Cang Thời Luân Biểu tượng Kalachakra (Kim Cang Thời Luân) là sự kết hợp của 10 chủng tự mật tông kết hợp với nhau. Là biểu tượng cho 10 quyền lực của Phật (thập lực). Là tinh hoa của tất cả tinh hoa. Tương truyền rằng biểu tượng này còn là đại diện cho bàn thờ thập phương chư Phật. Nếu không có bàn thờ, nếu không có hình ảnh, tôn tượng của chư vị. Thì chỉ cần thờ hình ảnh của biểu tượng này, cũng xem như là đã có bàn thờ hướng tới thập phương chư Phật. Công năng, diệu dụng của Kalachakra thật không thể nghĩ bàn và diễn tả hết được. Nơi nào có biểu tượng kalachakra, nơi đó sẽ không bị nạn về đất, nước, gió, lửa và được cát tường. Trống Chod Một trong pháp môn hành trì của Mật tông nổi tiếng là Chöd để dứt trừ chấp ngã, theo đó hành giả đi vào trong nghĩa địa lúc 12 giờ đêm và xướng tụng bài kệ. Chöd trong khi bàn tay phải thì quay một cái trống lớn. Còn tiếp http://www.phathoc.n...ge=vi&ID=574240
  15. Chủng loại và công dụng của pháp khia a. Chủng loại pháp khí Pháp khí là những vật dụng dùng trong tu chứng Phật pháp, về cơ bản có thể chia làm sáu loại, là kính lễ, tán tụng, cúng dường, trì nghiêm, hộ thân, khuyến giáo. Kính Lễ: Khata (kha-gtags) : dâng lụa khata dể thể hiện lòng tôn kính với chư Phật. Cúng dường: đèn nến : dùng của cải và vật chất và tấm lòng thanh tịnh dể cúng dường chư Phật. Tán Tụng: Sáo xương : dùng âm thanh dể mời gọi chư tôn, thức tỉnh chúng sinh. Hộ Thân: Hạt ô: mang theo Phật. Bồ Tát bên mình để hộ thân. Khuyến Giáo: Đá mani: dùng chân ngôn của chư Phật để khuyến giáo chúng sinh cầu phúc cho chúng sinh. Trì Nghiệm: Bình Quán Đỉnh: dụng cụ dùng trong tu trì, tạo phúc, trấn tà ma. b. Công dụng của pháp khí Trong quá trình tu luyện, người tu hành nhờ vào sự trợ giúp của pháp khí để tăng cường trí tuệ và linh cảm, nhanh chóng đạt đến chứng ngộ. Pháp khí cũng chính là cầu nối để liên kết người tu hành cới chư Phật và chúng sinh. Lục tự đại minh chú: Um Mani Padme Hum – Án Ma Ni Bát Di Hồng Trì tụng minh chú Om mani padme hum [Án ma ni bát di hồng] là một việc rất tốt. Tuy vậy, khi tụng chú cần phải nhớ nghĩ đến ý nghĩa của lời chú, vì sáu âm này mang ý nghĩa thâm sâu quảng đại vô cùng. Âm thứ nhất, OM, là tổng hợp của ba mẫu tự A, U và M, tượng trưng cho thân miệng ý ô nhiễm của người tụng chú, đồng thời cũng tượng trưng cho thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà. Mặt trên của một Mani có 6 chữ là : Om mani padme hum Có thể nào chuyển thân miệng ý ô nhiễm thành thân miệng ý thanh tịnh được không? hay đây là hai phạm trù hoàn toàn tách biệt? Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm, mang đủ mọi tánh đức. Thân miệng ý thanh tịnh đến từ sự tách lìa trạng thái ô nhiễm, chuyển hóa ô nhiễm thành thanh tịnh. Chuyển hóa bằng cách nào? Phương pháp tu được nhắc đến qua bốn âm kế tiếp. MANI [ma ni], nghĩa là ngọc báu, tượng trương cho phương tiện, là tâm bồ đề, vì chúng sinh mà nguyện mở tâm từ bi, đạt giác ngộ. Cũng như viên ngọc quí có khả năng xóa bỏ cảnh nghèo, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng xóa bỏ sự bần cùng khó khăn trong cõi luân hồi và niết bàn cá nhân. Như ngọc như ý có khả năng chu toàn mọi ước nguyện của chúng sinh, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng chu toàn mọi ước nguyện chúng sinh. Hai chữ PADME [bát mê], nghĩa là hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ. Hoa sen từ bùn mọc lên nhưng lại không ô nhiễm vì bùn. Tương tự như vậy, trí tuệ có khả năng đặt người tu vào vị trí không mâu thuẫn ở những nơi mà người thiếu trí tuệ đều sẽ thấy đầy mâu thuẫn. Có nhiều loại trí tuệ, trí tuệ chứng vô thường, trí tuệ chứng nhân vô ngã (con người không tự có một cách độc lập cố định), trí tuệ chứng tánh không giữa các phạm trù đối kháng (nói cách khác, giữa chủ thể và khách thể) và trí tuệ chứng sự không có tự tánh. Mặc dù có nhiều loại trí tuệ, nhưng chính yếu vẫn là trí tuệ chứng tánh Không. Trạng thái thanh tịnh có được là nhờ sự kết hợp thuần nhất giữa phương tiện và trí tuệ, được thể hiện qua âm cuối, HUM [hồng]. Âm này ứng vào trạng thái bất nhị, không thể phân chia. Trong hiển thừa, phương tiện và trí tuệ bất nhị có nghĩa là phương tiện ảnh hưởng trí tuệ, và trí tuệ ảnh hưởng phương tiện. Trong mật thừa, sự hợp nhất này ứng vào một niệm tâm thức trong đó phương tiện và trí tuệ đồng loạt hiện hành. Nói về chủng tự của năm vị Thiền Phật, HUM là chủng tự của Bất Động Phật [Akshobhya], sự đứng yên không gì có thể lay chuyển nổi. Vậy Lục Tự Đại Minh Chú, Om mani padme hum, có nghĩa là dựa vào đường tu kết hợp thuần nhất phương tiện và trí tuệ mà người tu có thể chuyển hóa thân miệng ý ô nhiễm của mình thành thân miệng ý thanh tịnh của Phật. Thường nói người tu không thể tìm Phật ở bên ngoài, tất cả mọi nhân tố dẫn đến giác ngộ đều sẵn có từ bên trong. Đức Di Lạc Từ Tôn có dạy trong bộ Tối Thượng Đại Thừa Mật Luận (Uttaratantra) rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh trong tâm. Chúng ta ai cũng mang sẵn trong mình hạt giống thanh tịnh, cốt tủy của Như Lai (Tathatagarbha – Như lai tạng), đó là điều cần nuôi nấng phát triển đến mức tột cùng để bước vào địa vị Phật đà. Dalai Lama - Hồng Như (dịch)
  16. Kèn Kangling Chiếc còi làm bằng xương xương đùi làm thoát ra âm thanh như muốn xé nát không gian . RÌU KIM CƯƠNG Với hình dáng tương tự như một loại rìu dùng trong chiến đấu thời cổ đại, ngụ ý Phật pháp là không thể xâm phạm. Thể hiện sự bảo vệ đối với Phật pháp. Như tạo hình các vị Không Hành Mẫu(Dakini) đầu hổ, Không hành mẫu đầu sư tử, Đại Uy Đức Kim Cương (Vajrabhairava) trong Phật giáo Tây Tạng đều mang rìu kim cương. Ngoài rìu, rìu cong cũng là một loại pháp khí của Mật Tông, với vẽ ngoài tượng trưng cho chùy kim cương, nhưng phần đuôi có hình chóp nhọn. Ở chính giữa gắn vào một cán dài, pháp khí này thường thấy trong các bức họa Thang-kar, thế nhưng số liệu rùi cong trên thực tế rất ít ỏi. Rìu cong tượng trưng cho đức nhiếp triệu của Như Lai, đưa tất thảy chúng sinh vào trí tuệ Phật. Trống Gabbra Trong tiếng Phạn, gabbra có nghĩa là đầu lâu. Loại trống này được làm bằng hai nắp sọ người ghép lại với nhau,bịt bằng da khỉ, tang trống thắt lại, bên dưới có gắn cán nhỏ và dây lụa, bên tang trống buộc thêm hai cục xương nhỏ. Khi lắc trống. Hai cục xương nhỏ đập vào mặt trống phát ra âm thanh. Loại trống này thường được sử dụng trong khi tu pháp, nhằm ca ngợi công đức của chư Phật Bồ Tát, thường được sử dụng phối hợp với chuông kim cương, chùy kim cương. Màn kinh Đây là một pháp khí hết sức phổ biến tại vùng Tây Tạng, thường được đặt trên nóc nhà, chân núi, bờ sông, ven đường, chùa chiền tu viện. Bên trên có chép kinh Phật, mỗi khi gió thổi vào màn kinh cũng như tụng được một lượt kinh, truyền đạt tâm nguyện của con người đến với chư Phật Bồ Tát để cầu xin sự phù hộ. Bát Gabbra Tức là bát sọ người, một đồ đựng có hình chiếc bát được làm từ bát được làm từ nắp hộp sọ người, phần lớn được chế tác từ nắp hộp sọ của cao tăng đại đức căn cứ vào di chúc của họ. Miệng bát và lòng bát được khảm bạc, bên dưới có trôn đế bằng kim loại, người Tây Tạng còn thêm nắp kim loại cho bát. Bát sọ người cũng là một pháp khí được dùng trong nghi thức quán đỉnh, thượng sư Mật Tông đựng nước hoặc rượu trong bát, sau đó nhỏ lên đầu người thụ pháp, với ngụ ý đem lại sự gia trì. Khata Một vật dụng bày tỏ sự tôn kính trong Phật giáo Tây Tạng. Đây là một tấm lụa mỏng hình chữ nhật, có các màu trắng, đỏ, vàng, xanh lam, dài từ ba thước đến hơn trượng. Màu sắc và độ dài của khata có thể thay đổi tùy theo thân phận của người được nhận, địa vị càng tôn kính thì khata càng dài. Khata màu trắng là cao quý nhất, tượng trưng cho sự thuần khuyết, cao thượng Thang-kar Một loại tranh Phật được bồi trục, một trong những loại hình nghệ thuật đặc thù của Phật giáo Tây Tạng. Việc bảo quản cất trữ tranh thang-kar cần tuân theo những quy tắc nhất định, phải cuốn tranh theo chiều từ dưới lên trên, nếu làm ngượi lại sẽ làm bất kính, phỉ báng thánh thần. Thang-kar được dùng trong tu hành chủ yếu với tư cách là đối tượng quán đỉnh và chiêm bái. Torma Một loại đồ ăn làm bằng bột mì, bột mạch chín, dùng để cúng tế chư Phật Bồ Tát, Bản tôn, các vị thần, hoặc bố thí cho vong hồn. Cũng có khi dùng trong quán đỉnh, tượng trưng cho sự gia trì của thần Bản tôn đối với đệ tử. Bánh xe Mani (kinh luân) Đây là một loại pháp khí được giáo đồ Phật giáo sử dụng trong tụng niệm, có hình trụ tròn, có thể quay quanh một trục ở chính giữa. Trong hình trụ này dán các tấm giấy chép kinh văn. Người cầu nguyện vừa xoay bánh xe mani vừa tụng chân ngôn sáu chữ Om mani padme hum (Án ma ni bát di hồng ), nhằm ca tụng chư Phật. Bánh xe mani cần phải xoay theo chiều đồng hồ, xoay được một vòng tượng trưng cho đọc một lượt thần chú.
  17. Chồng cháu 1983 Cháu sinh năm 1984 Con gái đầu 2011 Con gái thứ 2 sinh 2012 Tóm lại sinh năm 2017 là tốt nhất, không sinh 2016. 2016 xung cha. 2017 hợp mẹ rất tốt, mới có cơ hội phục hồi và phát triển hơn. Chúc như ý.
  18. ĐỒ HÌNH ÂM DƯƠNG LẠC VIỆT Ở ĐÌNH THÀNH HOÀNG NGỌC LÃNG, TUY HÒA, PHÚ YÊN Linh vị thờ thần Thành Hoàng Lê Văn Xuyến Linh vị được vua nhà Nguyễn ban cho sau khi ngài mất, bằng gỗ tốt, hầu như không hư hoại theo thời gian, đến nay là hơn 200 năm. Được 9 lần sắc phong, phong thần qua các đời vua. Sắc phong Bạch mã Tthượng đẳng thần là đẳng cao nhất. Tư liệu hình ảnh do thành viên hungpy chuyển gửi cho diễn đàn.
  19. Sinh 2016 không tốt bằng 2017, vì 2016 xung tuổi bố thì cũng rất nguy! Nếu xây nhà trên đất mình chưa ở bao giờ, thì được. Còn nhà đang ở mà vừa sinh con, vừa xây nhà mới lại, thì không được. 2017 thì chồng có tuổi xây cất nhà. Chuyển công tác thuận lợi. Thiên đồng
  20. 1. Chúc mừng. 2. Bấp bênh và trầy vi trốc vẩy. 3. Đầm thắm, mặc dù lâu lâu có vài cơn sóng to. chúc thuận lợi Thiên Đồng
  21. 1. Công việc cũng chưa mấy ổn, thu nhập cũng bèo. 2. Chuyện này thì tốt, tháng 5 âm thì sẽ rõ ràng. 3. Chuyên này chỉ liên quan đến lo lắng tiền tài. Nên Lau dọn sắp xếp lại đồ đac trong nhà, lắp đèn mới hay thêm ánh sáng cho sáng nhà lên, dọn dẹp sân bãi lại. Thiên Đồng Gửi thư cho tôi qua mail, salsasport@gmail.com, tôi chỉ cho.Thiên Đồng 1. có biến động rất lớn, 5 ăn 5 thua, có thể chuyển nhiều lần việc. 2. Nước sẽ trong và hoa sẽ nở. Chúc thành công Thiên Đồng
  22. 1. Chi tiêu dè xẻn, tích cóp lúc khốn khó. 2. Tháng 10 âm. 3. Nên ở riêng thì mới phát triển được. nhưng muốn ra riêng thì cũng phải tới năm 2015. Chúc thuận lợi Thiên Đồng
  23. 1. Năm nay có thể mua đất, có người giúp, khoảng tháng 5 âm, trể là tháng 10 thì được. 2. Lương vẫn vậy, không tăng. 3. sẽ xin được, tháng 3 âm hoặc tháng 5 âm thì đc việc. Thiên Đồng
  24. Phán đoán sức khỏe qua vị trí tóc bạc mọc (Dân trí) - Nhắc đến tóc bạc, chúng ta nghĩ ngay đến tuổi già sắp đến, nhưng tóc bạc cũng là dấu hiệu báo hiệu bệnh tật. Từ vị trí mọc tóc bạc có thể phán đoán ra tình trạng sức khỏe. Tóc bạc ở trán – tỳ, dạ dày rối loạn Khu phản xạ tương ứng với trán là dạ dày, tỳ. Người có dạ dày, tỳ không tốt thường chướng bụng, đầy hơi, đau bụng, acid vị toan, nhạt miệng khát, tay chân lạnh, phân lỏng. Có người thường xuyên kèm theo hôi miệng, ăn quá nhiều hoặc tay chân phù thũng, dạ dày lạnh thích ấm, tiểu tiện lâu vv, những dấu hiệu này đều là triệu chứng của dạ dày, tỳ hư. Đối sách: Điều chỉnh dạ dày và tỳ hài hòa sẽ giúp phòng ngừa tóc bạc ở trán. Người bị tỳ dạ dày hư hàn nên cách 3-5 ngày nấu một nồi cháo gừng. Nguyên liệu đơn giản: 3g gừng tươi thái sợi, 60g gạo, nấu cháo loãng, mỗi ngày hâm nóng ăn 2 bát vào bữa sáng và bữa tối, có thể thêm vừng vào theo khẩu vị của từng người. Gừng tươi tính ấm, có công hiệu tản hàn ra, toát mồ hôi, ấm dạ dày và giảm đau, diệt khuẩn, chống viêm, dùng gừng tươi chữa trị viêm dạ dày hư lạnh, viêm dạ dày dạng loét đều có tác dụng rất tốt. Tóc trắng hai bên mai – Gan nóng Khu đối xứng với hai bên mai là gan mật, người có lửa gan mật bùng cháy mạnh mẽ hoặc là có tính khí gắt gỏng, cáu bẳn hoặc hay để giận trong lòng. Những người này thường khô miệng, đắng miệng, lưỡi cháy, mắt khô rát, điều này đều do lửa gan, túi mật gây ra, từ đó gây tổn thương cho tỳ, dạ dày. Đối sách: Với tình trạng này, khi ăn cơm người bệnh chủ yếu ăn đồ thanh đạm, có thể ăn nhiều cháo bát bảo, cháo hạt sen, cháo hạt sen nấu với nấm tuyết, hoặc uống trà tâm sen, trà hoa hồng, trà sơn tra. Nếu khô miệng, đắng miệng nghiêm trọng, nên ăn nhiều tâm sen và mướp đắng. Đồng thời kết hợp với bác sỹ khám uống thuốc theo chỉ định của bác sỹ. Đương nhiên, nếu tâm trạng không tốt cũng là nguyên nhân gây ra nóng. Vì vậy, những người có tóc bạc hai bên mai nên duy trì tâm trạng thư giãn, tốt nhất nên kết hợp một số hoạt động đoàn thể như nhảy, múa, hát… để tăng thêm hứng thú về cuộc sống. Tóc bạc ở sau ót- khí thận không đủ Khu phản xạ đối xứng của ót là đường bàng quang. Người có đường bàng quang hư yếu thường kèm theo các triệu chứng như đi tiểu nhiều, tiểu dắt hoặc đái dầm, đi tiểu khó vv. Do chức năng chủ yếu của bàng quang là tích và bài nước tiểu, vì vậy, những người bị bệnh này tốt nhất không nên nhịn tiểu, chỉ có cảm giác là vào vệ sinh tiểu ngay. Còn chức năng bài trừ nước tiểu của bàng quang có quan hệ mật thiệt với khí thận mạnh hay yếu. Đối sách: Chế độ ăn uống có lợi cho thận phải dựa vào thể chất khác biệt của nam và nữ để phân tách. Nam nên ăn gan động vật, thịt chó, thịt cừu/dê, thịt hươu, chim sẻ, cá chình, tôm, gà trống, quả óc chó, đỗ đen vv. Phụ nữ nên ăn sò điệp, hạt dẻ, cá vược, cẩu khởi, thủ ô. Đương nhiên, những thực phẩm kể trên nam nữ phải dựa vào thể chất và biểu hiện của mình là thận dương hay thận hư để lựa chọn. Tùng Đan