Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. @ nguoivosu, Tháng 12 âm có ngày 8, 12, 16 là ngày tốt. Chọn 1 trong 3 ngày đó. TD
  2. Số của nữ: Tháng 10 âm vừa rồi đi xa mất lộc nhỏ, hay tài sản nhỏ. Năm nay người này tuy vất vả nhưng cũng có lộc nhỏ. Số của nam: 0919126557, 0919126557công việc lai rai, chủ yếu là vuột cơ hội, được cái là có cơ hội du lịch. Năm nay người này chạy đôn chạy cháo nhưng ngốc mỏ. Số dt này nên đổi.
  3. Bản đa thê và chuyện "3 vợ, một giường" (VTC News ) Ông Lầu A Xá, cán bộ tư pháp xã Xa Dung (Điện Biên Đông, Điện Biên), cho biết: Xã tôi cũng có nhiều người lấy hai vợ đấy. Biết rằng lấy hai vợ là vi phạm pháp luật nhưng xã bất lực ngăn chặn. "Mình đẹp trai kéo vợ hai dễ lắm!" Xã Xa Dung nằm cách trung tâm huyện Điện Biên Đông khoảng 30km. Chuẩn bị cuộc hành trình, chúng tôi vào trạm xăng nạp nhiên liệu cho con “ngựa sắt” Wave Alpha thì được một người bản địa thốt lên: “Các anh có bị điên không? Lên Xa Dung mà đi xe này chỉ có khóc dọc đường. Nắng lên thì may chạy được mấy đoạn xuống dốc, còn mưa xuống đừng nói đi mà đẩy cũng chẳng xong". Rồi anh ta khuyên nên thuê chiếc xe Win may ra bò lên được. Nghe vậy, đành đổi "ngựa". Ông Lầu Chú Di cùng 3 bà vợ và các cháu (từ trái sang bà cả Chá Thị Dua, bà hai Chá Thị Mỵ và bà ba Sồng Thị M … Rời trung tâm huyện chừng được 3km, y rằng lời nói người bản địa đúng thật. Trước mặt chúng tôi là con đường cấp phối rộng chừng 3m, đất đá lổm chổm hết lên dốc rồi đổ đèo. Ông Vừa Xô Dày, Chủ tịch UBND xã Xa Dung, vui vẻ: “Các chú khá đấy chứ. Người dân bản địa mỗi lần xuôi xuống huyện đã ngán nhưng các chú lên được tận đây”. Gặp ông hỏi về đời sống kinh tế bà con xã thế nào, ông liền than: “Ở xã có 20 bản, trong đó người Mông (chiếm 80%) và người Thái (20%) sinh sống. Nhưng tình trạng đẻ nhiều khiến cuộc sống các hộ gia đình thiếu ăn thường xuyên. Đặc biệt, phong tục đa thê xẩy ra. Bởi người Mông có quan niệm “mười gái chẳng bằng một trai”. Do đó, kéo tụt mọi thành quả, nỗ lực thoát nghèo của chính quyền xã”. Cầm tờ giấy, ông Lầu A Xá, cán bộ tư pháp xã thống kê, Xa Dung có 8 người đàn ông lấy hai vợ, ba vợ. Ông Xá phân trần: “Biết lấy hai vợ là vi phạm pháp luật nhưng xã bất lực ngăn chặn. Từ bao đời này người Mông có phong tục vợ cả không có con trai thì lén lút cưới vợ hai về “thi đẻ” với vợ cả kiếm con trai nối dõi”. Để mục sở thị những người đàn ông đa thê, chúng tôi tìm đến ông Chá Già Lử (48 tuổi, bản Xa Dung B). Gặp ông, chúng tôi đùa: “Bọn em đến gặp bác học hỏi kinh nghiệm về dưới xuôi lấy hai vợ”. Nghe xong ông đáp: “Mình ưng thì lấy thôi, ở đây mình lấy vợ công khai mà. Hai vợ ngủ chung, ăn chung, làm chung một nương hết nhưng cơm lành canh ngọt”. Ông Lử kể, khi mới 18 tuổi ông theo đám thanh niên trong bản đi chơi và kéo bà Mùa Thị Tùng (bản Chua Ta, Mường Lạn, Tuần Giáo, Điện Biên) về. Ở với nhau 5 năm, bà Tùng sinh cho ông 3 đứa con gái thì “tịt đẻ” luôn. “Người Mông không sợ đói, chỉ sợ không có con trai thôi. Mình đang khoẻ mạnh, đẹp trai thì kéo vợ hai dễ lắm”, ông Lử tâm sự. Đã có với bà cả 3 đứa con, nhưng ông Lử phải lòng bà Vừa Thị Khua (SN 1964) ở cùng bản. Bà Khua đã có hai đứa con, chồng chết sớm. Từ đó, cứ ba năm hai đứa, trong vòng 15 năm bà Khua sinh cho ông 5 đứa con (2 trai 3 gái). Lấy hai vợ, có được con trai nhưng gánh nặng cơm áo, gạo tiền đè lên đầu ông Lử. Trước đây, ông là người giàu có nhất bản nhưng nay ông “tụt hạng” do đàn con đông đúc, chưa hết mùa đã chạy ăn từng bữa. “Trước đây nhà mình nuôi nhiều trâu lắm, lúa ngô không lúc nào thiếu. Từ khi cưới vợ hai về đàn con thi nhau ra đời, chúng không có gì ăn khóc cả ngày. Để có cái bỏ miệng mình bán dần mọi thứ nay đã hết. Nhà nghèo, thiếu ăn và 10 người con đẻ và hai đứa con của vợ hai đang tuổi ăn học nhưng phải nghỉ để lên nương”, ông Lử buồn bã. Ba vợ một giường Với người Mông ở bản Xa Dung A, tiêu biểu trong chuyện “đa thê” phải kể đến ông Lầu Chứ Di đã lập nên “chiến tích” có 3 vợ và 8 đứa con. Đặc biệt, bao nhiêu năm chung sống nhưng chưa bao giờ ba bà có một cuộc “chiến tranh lạnh” hay tranh giành “gần gũi” với chồng. Tìm đến nhà ông Di, từ già tới trẻ, ai cũng chỉ đường vanh vách. Và bất cứ ai sau khi nhiệt tình chỉ dẫn đều tủm tỉm hỏi lại: “Cán bộ dưới xuôi lên ạ! Đến khuyên con cháu ông Di và dòng họ Lầu đừng lấy nhiều vợ như ông đúng không?”. Năm nay, ông Di đã bước sang tuổi 60. Vào năm 18 tuổi, ông Di kéo bà Chá Thị Dua (SN 1956) về làm vợ. Lấy nhau về được 3 năm thì bà Dua sinh cho ông hai đứa con gái và “tịt đẻ”. Không có con trai, họ hàng lên tiếng phải kéo thêm vợ hai về đẻ để kiếm con trai nối dõi. Ông Di là trưởng họ Lầu nên dứt khoát phải có con trai vì thế ông Di tiếp tục đi kéo thêm vợ nữa. Vào năm 1972, sau nhiều ngày tán tỉnh, cô Chá Thị Mỵ (SN 1965) ở cùng bản đã ưng cái bụng. Nhưng sau đó, cái miệng “dẻo” của ông Di khiến bà Sồng Thị Mỵ (SN 1963) dính vào lưới tình. Rồi họ đẻ cho ông 8 người con (3 trai 5 gái). Tự hào về “chiến tích” có 3 vợ, ông Di tâm sự: “Để có nhiều vợ điều quan trọng là cái miệng. Mình có nhiều lúa, lắm trâu gì đâu, trong lúc có hai vợ nhưng mình nói chuyện hay các cô gái nghe lọt tai, cứ thế theo mình về làm vợ hết”. Tôi buột miệng hỏi: “Việc ông cưới ba vợ chính quyền xã họ có ý kiến gì không?". Ông Di nhanh nhảu đáp: “Biết làm sao được, ngày trước vợ mình có bao giờ ra ngoài đâu”. Trong số ba bà thì chỉ có bà vợ cả do bố mẹ ông Di cưới có thủ tục đăng ký kết hôn đàng hoàng. Hai bà còn lại ông đều cưới “chui” hoặc cứ đến sinh sống với nhau như vợ chồng. Điều ấy dân bản biết hết và sau này chính quyền biết. Thế nhưng xã không có biện pháp ngăn chặn. Khi hỏi ông làm sao mà để các bà không cãi nhau, tranh chồng thì ông cười: “Quan trọng là ở mình biết giáo dục chứ. Nếu biết cách thì mấy vợ cũng được hết". Rồi ông vui cười: “Ngày trước còn ở một nhà, đêm nào ba bà cũng nằm chung một giường nhưng chẳng bà nào ghen tị bà nào cả. Ba bà cùng các con ăn một mâm, ngủ cùng chồng và đi làm một nương. Lịch “gần gũi” ba bà cũng được tôi phân công rõ ràng. Theo phương thức xoay vòng, mỗi bà một ngày đêm, tuyệt đối không ai vi phạm”. Chào ông Di ra về, ông còn đùa rằng: “Tôi xem trên phim thấy người dưới xuôi muốn lấy vợ hai kiếm con trai mà lén lút “cặp bồ” rồi mua nhà to cho bồ ở. Và cảnh người vợ cả đi tìm bồ của chồng đánh đập, có nhiều người còn giết nhau nữa. Ở đây, người Mông chúng tôi không thế đâu, ba vợ mà vẫn sống hạnh phúc, hoà thuận”. ------------ "Để ngăn chặn phong tục lấy hai vợ, ba vợ ở đồng bào người Mông không đơn giản, bởi nhận thức của bà con về đăng ký kết hôn rất thấp. Thực tế mấy năm trở lại đây cán bộ tư pháp ở các xã mới có. Điện Biên Đông là huyện vùng cao, chúng tôi mong muốn ở mỗi xã nên có hai cán bộ tư pháp, bởi địa bàn rất rộng một người muốn tuyên truyền rất khó", bà Phạm Thị Ngân, Phó Trưởng phòng Tư pháp huyện Điện Biên Đông, cho biết. Đắc Thành - NNVN
  4. Phụ nữ và giác ngộ không phân biệt giới tính trong quan kiến Kim Cương Thừa Bình đẳng giới và phong trào giải phóng phụ nữ, xét ở một mức độ nào đó, đã được cải thiện ở nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng, trong cộng đồng Phật Giáo vẫn tồn tại rất nhiều thành kiến và sự nghi ngờ đối với khả năng tu học, thành tựu, đặc biệt là thành tựu đại giác ngộ của người nữ... Dường như sự hiện hữu của những nữ nhân kiệt xuất trong lịch sử Phật Giáo chưa đủ sức thuyết phục đa số nhân loại tin tưởng vào năng lực của người nữ có thể thực sự thành tựu giác ngộ. Đạo Phật không phân biệt giới tính, giác ngộ không phân biệt giới tính, nhưng sự bám chấp bản năng cố hữu đối với tự ngã và giới tính của bản ngã đã trở thành kiên cố vọng tưởng không thể dễ dàng đổi dời. Vì thế, sự phân biệt đối xử giới tính trong ngay cả cộng đồng Phật Giáo nói chung còn hết sức nặng nề. Do sự bám chấp cố hữu vào giới tính của các yếu tố văn hóa, giáo dục, xã hội cùng nhiều nguyên nhân khác, bản thân các nữ hành giả cũng có những nhận thức sai lầm và thiếu tự tin vào chính bản thân, vào chính khả năng, năng lực vốn thực sự hết sức siêu việt của mình. Trước thực tại ấy, với mong muốn dẹp tan khối vọng tưởng kiên cố bám chấp vào giới tính, cải đổi cái nhìn thiên lệch và những tác động tiêu cực của xã hội lên người nữ, trang bị cho họ chính kiến và nhận thức đúng đắn để tự giải phóng bản thân, một sự giải phóng chân thật xuất phát từ quan kiến thanh tịnh về chân lý vạn pháp nhằm tiến tới thành tựu đại giải thoát hoàn toàn và rốt ráo, chúng tôi xin được đề cập tới chủ đề đại giác ngộ không phân biệt giới tính, đặc biệt là trong quan kiến của Phật Giáo Kim Cương Thừa, để thấy được thực tế phụ nữ hoàn toàn có tiềm năng và khả năng thành tựu đại giác ngộ, cũng như giới thiệu những phương cách giúp họ đạt được điều đó. Ngoài ra, trong phạm vi hiểu biết và khả năng khiêm tốn của mình, người viết còn mong muốn được giới thiệu và đề xuất những giải pháp thực tiễn đối với mỗi cá nhân cũng như những giải pháp mang tính xã hội và cộng đồng để góp phần cải thiện, giải quyết thực tại bất bình đẳng này vì lợi ích của hết thảy nữ nhân và chúng sinh không phân biệt. Trong thế giới quan của Đạo Phật, tất thảy vạn loài chúng sinh đều vốn sẵn đủ Phật tính, tất cả mọi người đều có tiềm năng và khả năng chứng đạt giác ngộ dù người đó là ai, thuộc đẳng cấp xã hội nào và dù đó là người nam hay nữ. Ngay từ thời Đức Phật trụ thế, Ngài đã tuyên bố và ấn chứng quyền được tu tập giáo pháp giải thoát cũng như khả năng tu tập thành tựu giác ngộ tối thượng của người nữ. Sự quyết định và ấn chứng của đức Phật chính là một bước ngoặt của lịch sử nhân loại, mang lại cho người nữ quyền được tham dự vào Tăng đoàn, quyền được đón nhận giáo lý và tu tập giáo pháp giải thoát, được khai phát trưởng dưỡng những phẩm hạnh cao quý bi- trí- dũng để chứng đạt cảnh giới giác ngộ. Có thể liệt kê một số các hàng nữ hành giả cũng có khả năng vượt bậc, chứng đắc vô sở úy như Tỳ kheo ni Maha Pajapati Gotami, bậc đại trí tuệ đệ nhất Khema, bậc thần thông đệ nhất Uppalavanna, trì luật đệ nhất là Patacara, thuyết pháp đệ nhất là Dhammadinna, tu thiền đệ nhất là Nanada, chuyên cần tinh tấn đệ nhất là Sona, thiên nhãn đệ nhất là Sakula, thắng trí tấn tốc đệ nhất là Bhaddà Kundalakesa… Như vậy, sự ấn chứng của đức Phật và những minh chứng thành tựu Phật quả giải thoát của chính các nữ hành giả thời đức Phật tại thế giúp khẳng định rằng người nữ hoàn toàn không thua kém với người nam về phương diện khả năng và sự thành tựu quả vị giác ngộ tối thượng. TRÍ TUỆ PHỤ NỮ VÀ NGUYÊN LÝ MẪU TÍNH TRONG KIM CƯƠNG THỪA Đến đây, một câu hỏi cần được đặt ra: tại sao trên mọi bình diện học thuyết và thực tế cuộc sống, Đạo Phật đều chủ trương không phân biệt giới tính, và với bằng ấy sự ấn chứng của Đức Phật cũng như thực tế lịch sử đã chứng minh rằng người nữ thật sự có khả năng thành tựu và chứng đạt giác ngộ không khác gì người nam, vậy mà hiện thực xã hội ngày nay lại cho thấy các nữ hành giả phần nhiều vẫn còn quá tự ti, không tin vào khả năng thành tựu Phật quả ngay trong thân nữ vốn được coi là bất tịnh và bất tài đến như để trở thành Ma Vương cũng là điều không thể? Nặng nề hơn nữa là phần đông xã hội và nửa kia của thế giới luôn áp đặt lên họ những thành kiến cố hữu, đánh giá thấp và thiếu niềm tin ở người nữ, luôn phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa tăng và ni, giữa nam cư sĩ và nữ cư sĩ; hoặc phủ nhận nhiều khả năng nhất định của nữ giới. Nếu được hỏi người nữ có thể chứng đạt đại giác ngộ trong thân nữ hay không, chắc chắn câu trả lời nhận được từ nhiều người sẽ là không hoặc tỏ thái độ nghi ngờ vì cho rằng về mặt lý là có thể nhưng về mặt sự thì không. Hệ quả là nữ giới bị kìm hãm sự phát triển và bị phong tỏa trên con đường tiến tới giác ngộ cứu kính. Nguyên nhân thì rất nhiều, nhưng căn nguyên chính nằm ở sự nhận thức. Phàm phu chúng ta chưa có trí tuệ viên mãn như chư Phật, chư Bồ Tát, nhưng trước hết chúng ta phải có nhận thức đúng đắn khế hợp với chính pháp. Sự phân biệt giới tính sở dĩ tồn tại là do chúng ta còn bám chấp những tà kiến sai lầm. Hoặc có thể nhiều người trong chúng ta mặc dù đã quá quen thuộc với ý niệm Đạo Phật là không phân biệt giới tính và giác ngộ không phân biệt giới tính, nhưng sự hiểu biết ấy có lẽ chưa đủ sâu sắc để cải biến định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức của chúng ta về vấn đề phụ nữ và giác ngộ. Vậy, chúng ta hãy tìm hiểu kỹ hơn về trí tuệ phụ nữ trong giáo pháp của Đạo Phật, đặc biệt là trong truyền thống Kim Cương Thừa để có được chính kiến thực sự sâu sắc có công năng đập tan vọng tưởng phân biệt giới tính. Trong Đạo Phật, nguyên lý mẫu tính nêu biểu cho trí tuệ bản lai. Vì Phật quả là sự viên mãn của trí tuệ bản lai, nên trí tuệ còn được xem như là mẹ của hết thảy chư Phật. Trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa và Bát Nhã Tâm Kinh, Đại Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật chính là biểu tượng của trí tuệ ban sơ đại toàn thiện đại viên mãn này. Trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật, sự viên mãn của trí tuệ sâu xa của nguyên lý mẫu tính được gọi là “Thai tạng của chư Như Lai” hay “Mẹ của chư Phật”. Trí tuệ Bát Nhã là tính chất trí tuệ sắc bén với sự xả bỏ bản ngã. Năng lực này của trí tuệ sâu xa là suối nguồn, hay thai tạng nơi chư Phật hiển lộ, và vì thế được gọi là “Thai tạng của chư Phật”. Và trí tuệ ấy được thể hiện bằng hình tượng Bát Nhã Phật Mẫu. Do đó, trong Đạo Phật, trí tuệ phụ nữ chính là trí tuệ tính không siêu việt. Phụ nữ và phương diện nữ tính bên trong mọi chúng sinh bất kể nam hay nữ biểu trưng cho đại trí tuệ siêu việt. Thông thường, nhiều người quan niệm rằng phụ nữ được liên hệ với tình thương, lòng nhân từ, từ bi chứ không phải trí tuệ, còn người nam mới là đại diện của trí tuệ. Và sự từ bi của người nữ thường được cho là chỉ dừng lại ở lòng tốt, nhân hậu, tử tế, thương người. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này là do chúng ta không hiểu về những nguyên lý mẫu tính và phụ tính bên trong mọi sinh linh. Thực tế, mỗi hữu tình đều mang trong mình hai nguồn năng lượng mẫu tính và phụ tính. Theo quan điểm Kim Cương thừa, mỗi một người nam hay nữ đều sẵn đủ toàn vẹn viên mãn của mẫu tính và phụ tính. Những nguyên lý này là dòng năng lượng chảy trong cơ thể cả nam giới và nữ giới. Khía cạnh năng lượng nam tính chính là tâm đại từ bi vô lượng và năng lượng âm tính chính là đại trí tuệ toàn tri - cội nguồn của vạn pháp. Hai nguyên lý mẫu tính và phụ tính hay đại trí tuệ siêu việt và đại từ bi vô lượng là tương sinh tương hợp và bất khả phân, chính vì thế mà mọi hữu tình đều bình đẳng, vốn sẵn đủ Phật tính và đều có khả năng giác ngộ thành Phật. Nhìn từ bình diện chân lý tuyệt đối, trí tuệ và từ bi hay hai dòng năng lượng phụ tính và mẫu tính là bất khả phân, nhưng một cách tương đối, sự thể hiện ra bên ngoài dưới lăng kính nghiệp báo của chúng sinh chúng ta lại thấy chúng dường như phân chia tách biệt, có nam có nữ. Sự phân biệt giới tính chính từ đây thành lập và giải thích tại sao sự bám chấp này lại kiên cố nặng nề như vậy. Do vô minh và nghiệp lực chi phối nên chúng ta chỉ thấy khía cạnh là nam hoặc là nữ trong mỗi người mà thôi. Bên cạnh đó từ khi sinh ra chúng ta được rèn luyện một cách sai lầm trong cách nhìn nhận sai lầm của nhiều nền giáo dục, văn hóa và tôn giáo, khía cạnh nam tính trong người nữ không được coi trọng và nhìn nhận đúng mức, thậm chí bị xuyên tạc và bị gạt ra khỏi nguồn năng lượng - tiềm năng giác ngộ của chính họ. Vì thế, chúng ta không có khả năng hợp nhất viên mãn những nguồn năng lượng này. Đàn ông cố che giấu khía cạnh nữ tính nơi mình, còn phụ nữ thì lại sợ bộc lộ năng lượng nam tính trong họ. Kết quả là họ luôn cảm thấy cô đơn và thiếu thốn và cần một đối tượng bên ngoài để thỏa mãn sự cô đơn đó. Chính họ đã lãng quên suối nguồn Phật Mẫu tính và Phật Phụ tính trong chính mình. Cứ như thế, họ cứ tìm cầu những giải pháp bên ngoài và càng mãi trôi lăn trong những chướng ngại khổ đau không cùng tận. Trong hoàn cảnh như vậy, người nữ ngày càng trở nên tự ti hơn, ngày càng giới hạn mình vào những thiên kiến hạn hẹp. Có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi rằng chúng ta thực sự là ai, tại sao chúng ta lại sân giận, ham muốn, khi sân giận ham muốn chúng ta vừa thỏa mãn lại vụt tắt ngay, rồi lại tiếp tục các sân giận, ham muốn khác, tại sao lại cứ mãi lặp đi lặp lại như thế. Ham muốn tiếp tục ham muốn, thôi thúc làm chúng ta khát khao, đau khổ và tuyệt vọng. Cái gì trong nó và cái gì ngoài nó? Đại giác ngộ thành tựu chỉ khi chúng ta có thể hợp nhất được hai dòng năng lượng Phụ tính và Mẫu tính, từ bi và trí tuệ. VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHỤ NỮ VÀ KHẢ NĂNG CHỨNG ĐẠT PHẬT QUẢ TRONG THÂN NỮ THEO THẾ GIỚI QUAN KIM CƯƠNG THỪA Kim Cương thừa cho ta một cái nhìn toàn diện, chi tiết, cụ thể và minh xác về những nguồn năng lượng từ bi và trí tuệ trong bản thân mỗi chúng ta, cách chúng vận hành, trôi chảy, tương tác với nhau như thế nào, làm thế nào để nhận diện được chúng, và cách thức chuyển hóa để đạt được sự cân bằng đại hợp nhất siêu việt hai nguồn năng lượng này. Chính khi đó đại giác ngộ vô thượng được thiết lập. Hết thảy chúng sinh nam nữ không chỉ bình đẳng về Phật tính và còn bình đẳng về cả khả năng chứng đạt Phật quả, nghĩa là không phải người nam có thể thành tựu dễ dàng hơn người nữ, và ngược lại, người nữ khó hoặc thậm chí là không thể viên mãn đạo quả trong hình tướng nữ nhân. Chính vì thế, trong Kim Cương Thừa, phụ nữ chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, không thể thiếu và bằng nhiều cách khác nhau nêu biểu cho nguyên lý mẫu tính giác ngộ. Người nữ được liên hệ với Đất mẹ, với vai trò nền tảng và kho tàng, suối nguồn của cuộc sống, năng lượng, về thể chất và tâm linh của tất cả chúng sinh. Kim Cương thừa nhấn mạnh tới nguyên lý Mẫu tính giác ngộ thông qua những hình ảnh Phật mẫu Bát nhã, Phật mẫu Tara, biểu trưng cho cội nguồn của vạn pháp. Cho nên được gọi là mẹ của hết thảy chư Phật. Đặc trưng của nguyên lý Mẫu tính là năng lực hàm chứa, sản sinh và sáng tạo. Phật mẫu không phải là một ý chí sáng tạo ra quy luật và thế giới mà chính là bản thể của thế giới. Trong Kim Cương thừa, tầm quan trọng và năng lực giác ngộ của người nữ được thể hiện thông qua các Thangka, Mandala, các biểu tượng và pháp khí. Hình ảnh Kim Cương Thánh Mẫu, Dakini trong tư thế vũ điệu thắng lạc hoặc an tọa trong tư thế thiền định với khế ấn đặc trưng, trang hoàng bằng những bảo man quý báu, những mảnh xương và vương miện bằng xương hoặc bằng hoa. Điều này khẳng định chắc chắn khả năng đạt được giác ngộ quả tức thân thành Phật ngay trong một đời của người nữ là điều có thể. Trong Mật điển tán thán tầm quan trọng và khả năng thiền định của nữ giới, như các bậc Yogini, Dakini, hay những bậc Trì Minh. Yogini nghĩa là hành giả nữ thực hành yoga, người nữ với năng lực thần thông hay Bản Tôn Thánh Mẫu. Dakini vượt trên nhận thức thông thường, đó là những “Không Hành Mẫu”, các ngài du hí tự tại trong tự tính pháp giới. Các ngài còn là bậc trì giữ trí tuệ, hiện thân của đức Phật mẫu Bát nhã, mẹ của chư Phật. Những Dakini Trí Tuệ là những bậc đã giác ngộ như Vajra Yogini, họ cũng được miêu tả như là các Phật Mẫu Minh Phi của các bậc Hoạt Phật hay các bậc Bồ Tát. Dakini là một nguồn gốc của quy y. Bên cạnh việc quy y Tam Bảo, chúng ta cũng quy y tam Căn Bản (Guru, Yidam và Dakini – Thượng Sư, Bản Tôn và Không Hành); Dakini đại diện cho cội nguồn của các công hạnh giác ngộ bởi vì Dakini là năng lượng giác ngộ mẫu tính nêu biểu cho trí tuệ bản lai. Dakini được gắn liền với hư không và có khả năng sản sinh vô số tiềm năng của những công hạnh giác ngộ mà có thể chia thành bốn: Tức tai, Tăng ích, Kính ái và Hàng phục. Dakini cũng là những hiện thân của sự hợp nhất tính không và trí tuệ. Và sự hợp nhất này là siêu việt vô song. Đây là cảnh giới của sự tỉnh thức được kiểm soát, vững chắc và hoàn toàn tự do. Mọi người đều có khả năng và tiềm năng để chứng ngộ tự tính Dakini trí tuệ cho chính mình bất kể bạn là nam hay nữ. Điều này có nghĩa là không có sự phân biệt giới tính, bất kể người nào cũng có phẩm chất của một Dakini trí tuệ hay năng lượng giác ngộ mẫu tính. Mặt khác lòng bi mẫn lại liên quan đến năng lượng Phụ tính và khi cả trí tuệ và lòng bi mẫn được trải rộng đến hoàn hảo, chúng ta đạt được giác ngộ và trở thành Phật. Dakini - những bản tôn hóa thần đại diện cho trí tuệ vĩ đại và nam hóa thần đại diện cho lòng đại bi. Ngoài những biểu tượng giác ngộ trên, tầm quan trọng của người nữ còn được thể hiện thông qua việc trì giới trong Kim Cương thừa. Giới nguyện Samaya có tầm quan trọng trong Phật Giáo Kim Cương thừa, được các hành giả trì giữ nghiêm mật trên đạo lộ tu tập của mình. Có 14 đọa lạc căn bản, nếu hành giả phạm sẽ làm phá vỡ lời thệ nguyện trì giữ Samaya. Căn bản đọa thứ 14 nói rằng: Nếu miệt thị và coi thường người nữ thì có nghĩa hành giả đã phạm giới nguyện Samaya. Một khi còn những thái độ miệt thị như coi phụ nữ không có năng lực và khả năng tâm linh cũng tức là đã phạm vào giới nguyện Samaya. Nếu hành giả chỉ cần có một ý niệm không muốn giúp đỡ một người nữ cũng đã làm phá bể giới Samaya, còn trong trường hợp, nếu hành giả coi một nữ huynh đệ kim cương là kẻ thù thì đó là sự phá bể giới nguyện cao nhất. Như vậy, ta thấy Kim Cương thừa chống lại mọi quan điểm phân biệt giới, mang lại một sự bình đẳng lớn lao cho người nữ và đặc biệt đề cao, coi trọng địa vị và tầm quan trọng của người nữ trong việc hành trì tu tập Mật giáo, bởi Kim Cương thừa dựa vào một nguyên lý vô cùng xác đáng: nguyên lý nữ tính nêu biểu cho trí tuệ tính không. Nói cách khác, người phụ nữ hiển diện một cách trực tiếp trong mục đích và lý tưởng của đạo Phật, bởi vậy miệt thị phụ nữ cũng chính là miệt thị đạo Phật. Sự miệt thị như vậy là một chướng ngại cho sự tu tập giác ngộ của cả nam và nữ. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NỮ HÀNH GIẢ THÀNH TỰU GIÁC NGỘ TRONG KIM CƯƠNG THỪA? Quay trở về với thực tế cuộc sống, rất nhiều người cho rằng phụ nữ không thể chứng đạt giác ngộ vì lý do thể chất yếu đuối, tâm sinh lý và nghiệp chướng nặng nề. Xét ở một chừng mực nào đó, sự thực là bản thân phụ nữ có rất nhiều thiếu sót và hạn chế. Về thể chất, phụ nữ không mạnh mẽ như nam giới, hơn nữa còn phải chịu ảnh hưởng tác động tiêu cực của thân thể vật lý mà điển hình là với chu kỳ hàng tháng. Ngoài ra, phụ nữ thường có thiên hướng dễ bị tình cảm chi phối nên khó kiểm soát được cảm xúc trong khi tu tập. Với thiên chức làm mẹ, phụ nữ thường hướng nội vì phải chăm sóc gia đình, con cái. Vì hầu hết thời gian, tâm trí và sức lực dành cả cho gia đình nên thật không dễ dàng để họ có thể dâng hiến trọn vẹn cho sự tu tập và giải thoát. Bên cạnh những trở ngại đến từ bên trong, người phụ nữ còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại đến từ phía xã hội. Do nền giáo dục dựa trên sự phân biệt giới tính mang tính cố hữu, ngay từ thuở nhỏ, thay vì được giáo dưỡng và phát triển các phương diện mẫu tính và phụ tính giác ngộ trong mình, các bé gái được dạy dỗ từ thái độ, nhận thức cho đến những hành vi ứng xử bên ngoài như đi đứng, nằm ngồi, ăn mặc, v.v… theo cách mà xã hội áp đặt cho rằng một người nữ cần phải như vậy. Không những chỉ phải đối mặt với những thành kiến ngoài xã hội, khi bước chân vào con đường thực hành giáo pháp, các nữ hành giả cũng còn phải đối mặt với rất nhiều mặc cảm phân biệt giới tính một cách có ý thức và vô thức ngay trong bản thân cộng đồng Phật Giáo nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm bất lợi và trở ngại trên, người nữ cũng có những thế mạnh nhất định trong tu tập thực hành. Đó chính là tín tâm dâng hiến và sự nhẫn nhục bền bỉ. Với tín tâm thanh tịnh và đức tính nhẫn nhục, nữ hành giả hoàn toàn có thể vượt qua được những chướng ngại về thân và tâm sinh lý hướng về đại giải thoát. Vậy, làm thế nào để nữ hành giả tu tập thành tựu giác ngộ? Để thực hành giáo pháp Kim Cương Thừa, điều kiện tiên quyết là nữ hành giả phải tìm được bậc Thượng sư giác ngộ thuộc một dòng truyền thừa không gián đoạn, bất luận ngài là nam hay nữ và nghiêm cẩn tu tập theo sự giáo huấn, hướng đạo của ngài. Kim Cương thừa có nhiều phương pháp thù thắng để chuyển hóa những năng lượng tiêu cực, chứng đạt tính toàn vẹn nguyên thủy- sự hợp nhất từ bi và trí tuệ vĩ đại trong ta. Dưới sự dẫn dắt của một bậc Thượng Sư giác ngộ, nữ hành giả có thể tu học bốn thứ lớp Tantra: Tantra nghi quỹ, Tantra hành động, Tantra Yoga và Tantra Yoga tối thượng. Mỗi thứ lớp dành cho một đối tượng hành giả đặc biệt; và điều khác biệt giữa thứ lớp này thứ lớp kia là mức độ năng lượng ham muốn mà hành giả có đủ thiện xảo để hướng nó vào con đường tu tập. Phật Giáo Kim Cương Thừa đưa ra rất nhiều phương pháp thiện xảo để trưởng dưỡng và tịnh hoá tâm. Những phương pháp này bao gồm các cách tu tập, quán tưởng về bản tôn, lập đàn, những nghi lễ đặc sắc, trang hoàng rực rỡ, vũ điệu và nghệ thuật linh thiêng, pháp thực hành yoga vi tế để chuyển hoá toàn bộ sự khao khát trần tục vào trong lĩnh vực hỉ lạc và giác ngộ thức tỉnh. Ngoài ra, một trong những mục đích chính của việc hành trì Kim Cương thừa là sự hoàn hảo thanh tịnh bên trong và thế giới bên ngoài bằng cách quán tưởng vũ trụ là một cảnh giới mandala, còn tự thân là Hóa Phật Bản tôn. Bản tôn được quán tưởng tượng trưng các hiện tướng của năng lượng giác ngộ và những công hạnh giải thoát. Ví dụ, Đức Phật mẫu Tara biểu trưng cho sự giải thoát, bảo vệ những người cầu nguyện khỏi sự nguy hiểm tinh thần và vật chất với lòng bi mẫn của đức từ mẫu, trong khi nụ cười hỷ lạc và an bình của ngài biểu trưng cho sự an lạc, vượt thoát khổ đau. Đức Kim Cương Thánh Mẫu Vajrayogini là đức Phật mẫu thành tựu chứng ngộ đại hợp nhất tính không và đại hỷ lạc, thể tính của ngài là không hình, không tướng, tuy nhiên ngài hóa thân thị hiện trong sắc tướng thiếu nữ trẻ trung để mang lại sự tự tin, sự tín tâm cho người nữ giúp họ có được niềm tin vững chắc vào bản tính Phật mẫu, bản chất Phật tính và tiềm năng giác ngộ vốn có trong mình từ đó giúp khai phát, hiển lộ niềm tự hào kim cương về bản chất Phật Mẫu tính nơi mình. Trong Kim Cương thừa, cũng giống như những bậc Đại Thành tựu giả xuất hiện trong hình tướng nam nhân, có rất nhiều những Yogini vĩ đại thành tựu giác ngộ tối thượng trong thân người nữ ngay trong một đời. Các Ngài đã khai phát, chứng ngộ nguồn năng lượng Phật Mẫu tính và Phật phụ tính trong mình. Đây là những tấm gương, là những mẫu hình sống động cho nhiều thế hệ, đặc biệt đối với người nữ, những người chân thành khát ngưỡng tìm cầu giáo pháp giải thoát. Các Ngài không chỉ là những bậc thành tựu giác ngộ ngay trong một đời mà những công hạnh nhập thế của các ngài cũng vô cùng mãnh liệt và lợi ích, có những ảnh hưởng và đóng góp to lớn cho Phật Giáo Kim Cương thừa. Bởi vậy công hạnh và tiểu sử của các nữ hành giả Kim Cương thừa khơi dậy niềm cảm hứng, sự tôn kính, hy vọng và tín tâm bất thoái chuyển đối với người nữ rằng họ có thể tu tập giáo pháp giải thoát và thành tựu giác ngộ ngay trong một đời. Công hạnh và tiểu sử của các nữ hành giả Yogini vĩ đại trong lịch sử Kim Cương Thừa như Đức Yeshe Tsogyal bậc trí tuệ đa văn đệ nhất giống như ngài Ananda, Yogini Niguma nữ đại thành tựu giả đã sáng lập sáu pháp Yoga của Niguma, Gelongma Palmo ngưới sáng lập pháp thực hành Nyungnay- pháp đại thành tựu Avalokiteshvhara, Machig Labdron (1055-1152) bậc thượng thủ dòng truyền thừa Chod...được ghi lai một cách minh xác trong lịch sử là những minh chứng cho chân lý rằng: sự thành tựu giác ngộ nơi người nữ ngay trong một đời là một thực tế. Tiềm năng giác ngộ, nguồn năng lượng Phật mẫu tính và Phật phụ tính đều sẵn có nơi mỗi người nam và cả người nữ. Bởi vậy cho dù là người nam hay người nữ, dù ở địa vị xã hội nào, nếu có tín tâm dâng hiến, sự tự tin tu trì thì đều có thể chứng đạt hợp nhất bi trí dũng, để đem suối nguồn giác ngộ lợi ích cho muôn loài chúng sinh. GIẢI PHÁP MANG TÍNH XÃ HỘI VÀ CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI NỮ - BƯỚC CẢI CÁCH TRONG NHẬN THỨC VÀ HẠNH ĐỘNG ĐỐI VỚI NỮ HÀNH GIẢ TRUYỀN THỪA DRUKPA Trong giới hạn khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu về Truyền Thừa Drukpa thuộc truyền thống Kim Cương Thừa – Đại Thừa Phật Giáo, dưới sự dẫn dắt của Đức Toàn Tri Tôn Quý Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII với những chủ trương và hành động thực sự dựa trên căn bản của giác ngộ không phân biệt giới tính, đã và đang đem lại sự giải phóng đích thực như thế nào cho các nữ hành giả. Dòng truyền thừa Drukpa có lịch sử phát triển huy hoàng hơn 800 năm tới nay với những bậc hành giả chân tu, khổ hạnh, thanh tịnh và thành tựu giác ngộ ngay trong một đời. Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII luôn tâm nguyện mang lại cơ hội bình đẳng trong việc thực hành giáo pháp cho những nữ hành giả và trì giữ dòng truyền thừa Togdenma. Đức Pháp Vương đã chia sẻ quan kiến rằng: “Giác ngộ không phân biệt giới tính, từ bi không phân biệt giới tính, trí tuệ không phân biệt giới tính. Về bản lai, chúng ta đều là Phật”, và “Tất cả mọi người, bất kể là nam hay nữ, đều có tiềm năng và có quyền chứng đạt Phật quả cứu kính”. Ngài đã thực hiện rất nhiều dự án với tâm nguyện nâng cao địa vị của nữ hành giả trong cộng đồng tâm linh dòng truyền thừa Drukpa. Ngài đã bảo trợ nâng đỡ tự viện Druk Gawa Khiwa Abbey- một cộng đồng tâm linh cho nữ hành giả. Nơi đây, các nữ hành giả đã được trao cơ hội tu tập các pháp tu thâm diệu của Truyền Thừa Drukpa, trong số đó đã có những nữ hành giả đã có những sự tiến bộ tâm linh cao cấp, được tu các pháp tu đặc biệt như Sáu Pháp Yoga của Naropa dưới sự hướng đạo trực tiếp của đức Pháp Vương. Pháp vương cũng đã trao cho nữ hành giả rất nhiều cơ hội sự bình đẳng trong sự tu tập như trong suốt Lễ hội Naropa, đức Pháp vương đã cho phép 200 ni sư chịu trách nhiệm cử hành nghi lễ trước sự hiển diện của hơn 135 ngàn tăng ni Phật tử. Có thể nói đây là một bước đột phá trong truyền thống Phật Giáo Kim Cương Thừa bởi lẽ thông thường các chư tăng vẫn đảm nhận vai trò này. Một sự kiện nữa nổi bật gần đây nhất là vào tháng 7 năm 2009, theo gót chân sen của Đức Pháp Phương, hơn 400 chư ni đã tham gia chuyến bộ hành triều bái thánh địa kéo dài 400 km từ Manali đến Ladakh (Ấn Độ), băng qua những dãy núi Himalaya hùng vĩ trên độ cao từ 3.000 đến hơn 5.000 km so với mực nước biển trong thời tiết khắc nghiệt, nhiệt độ xuống dưới 00C. Chuyến hành trình mặc dù đầy gian nan, khó nhọc và cam go, thánh thức đối với ngay cả chư tăng và các nam hành giả, nhưng các sư ni đã xuất sắc hoàn thành không chỉ vì sự nghiệp tâm linh của bản thân mà còn vì lợi ích của hết thảy dân làng vùng Himalaya cũng như của chúng hữu tình vô lượng. Đây cũng là một minh chứng tuyệt vời cho khả năng, đức tính nhẫn nhục, tín tâm dâng hiến chí thành và ý chí siêu việt của các nữ hành giả. Trong lịch sử dòng truyền thừa Drukpa có rất nhiều các bậc nữ hành giả Yogi thành tựu giác ngộ ngay trong một đời. Đức Pháp vương tâm nguyện phục hồi, trì giữ dòng truyền thừa Togdenma của các nữ hành giả Yogini thành tựu hiện đang có nguy cơ thất truyền. Hai nữ hành giả thành tựu giác ngộ trứ danh được rất nhiều người trên thế giới tôn kính trong dòng truyền thừa Drukpa hiện nay là Khandro Thrinlay Chodon và Jetsunma Tenzin Palmo. Khandro đản sinh trong một gia đình của các đại Thành tựu giả Yogi, trứ danh với sự thành tựu các pháp tu cao cấp thanh tịnh của truyền thừa Drukpa. Jetsunma Tenzin Palmo là một trong những người nữ Phương Tây đầu tiên được thụ giới là một Ni sư Kim Cương thừa. Dưới sự hướng đạo của Thượng sư, Tenzin Palmo đã nhiều năm tu tập nghiêm cẩn và thành tựu các giáo pháp của truyền thừa Drukpa. Cả hai Ngài đều đang triển khai rất nhiều dự án hoằng dương giáo pháp rộng khắp trên thế giới, đặc biệt là các dự án như xây dựng ni viện, trung tâm nhập thất, đào tạo, nâng đỡ và tạo điều kiện cho các ni sư và nữ cư sĩ có cơ hội được tu tập giáo pháp giải thoát. Các Ngài là những tấm gương điển hình của nữ hành giả chứng ngộ trong thân người nữ, hòa nhập giáo pháp trong thế giới đương đại. THAY LỜI KẾT – DỰ ÁN CHÙA TÂY THIÊN – GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG NGƯỜI NỮ VÀ THIỆN HẠNH SỐNG ĐỂ YÊU THƯƠNG Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được đề xuất một số giải pháp và ý tưởng thông qua mô hình dự định của dự án chùa Tây Thiên (gồm ba ngôi: chùa Thượng Tây Thiên, Tây Thiên-Phù Nghì và chùa Thiên Ân) thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, được thiết kế và xây dựng theo truyền thống Truyền Thừa Drukpa thuộc Kim Cương Thừa – Đại Thừa Phật Giáo. Nằm trong thung lũng lòng chảo của hệ thống núi Tam Đảo, Tây Thiên là khu địa linh với cảnh quan hết sức nên thơ, hùng vĩ. Ba ngọn núi Thạch Bàn ở giữa, hai bên tả hữu là Phù Nghĩa và Thiên Thị đều cao hơn một ngàn mét với những dòng suối trong xanh đổ xuống từ trên cao và uốn lượn quanh co tạo nên một bức tranh thiên nhiên kỳ tú, diễm lệ. Tại nơi danh lam thắng cảnh tập hợp với mật độ dày đặc các di tích Phật Giáo và đình đền miếu mạo cổ này, dự án chùa Tây Thiên được quy hoạch trên quần thể của ba ngôi chùa cổ: chùa Thượng Tây Thiên, Tây Thiên-Phù Nghì và Thiên Ân Thiền Tự. Qua những nghiên cứu khảo cổ gần đây, ba ngôi cổ tự này được xác định có niên đại ít nhất từ thời Trần thế kỷ XIII sau Công Nguyên và ngoài Yên Tử, Tây Thiên chính là một trung tâm Phật Giáo mang tầm quốc gia thời Trần. Đặc biệt, căn cứ vào nhiều sử liệu cho biết Đạo Phật được truyền vào nước ta từ thời vua Hùng thứ VII (Hùng Chiêu Vương) vào khoảng thế kỷ thứ II-III trước CN và nhiều nhận định cho rằng Tây Thiên chính là chiếc nôi đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam. Theo kế hoạch, dự án chùa Tây Thiên sẽ là một quần thể kiến trúc tâm linh đặc biệt bao gồm tự viện, trung tâm nhập thất, khuôn viên cử hành các đại lễ, các nghi quỹ, cầu nguyện, tán tụng, trì chú, thiền định, vũ điệu Kim Cương Thừa; và có trung tâm giáo dục như giảng đường lớn nơi đào tạo ni chúng và Phật tử học về mật điển, như các môn học về âm nhạc Kim Cương Thừa, kiến trúc, điêu khắc, hội họa Kim Cương Thừa, kiến lập Mandala. Chương trình trọng điểm trong dự án chùa Tây Thiên sẽ liên quan đến việc giáo dục nội điển, giáo pháp Kim Cương thừa của truyền thừa Drukpa, đào tạo ni chúng và Phật tử theo những căn cơ và nhóm đối tượng khác nhau. Ngoài việc được cung cấp kiến thức và thực hành tu trì các giáo pháp căn bản và sâu xa của Phật Pháp, từ cách tiếp cận trực diện của Kim Cương Thừa đối với vạn pháp, người nữ còn hiểu được bản chất Phật tính, các nguyên lý phụ tính và mẫu tính trong chính mình, hiểu được thân vật lý, tâm sinh lý, thân vi tế, cơ chế vận hành của thân tâm, những nguồn năng lượng, quá trình phát khởi, diễn tiến, kết thúc và chu trình, quy tắc vận động của các trạng thái xúc tình phiền não, phương thức nhận diện và chuyển hóa những năng lượng tiêu cực ấy thành mật ngọt cam lồ, trí tuệ và dũng lực, v.v…Thông qua nền giáo dục nội điển này, người nữ sẽ hiểu được bản chất tại sao mình lại thực sự bình đẳng với nam nhân, không chỉ là bình đẳng trên phương diện tự tính tuyệt đối hay về mặt lý thuyết, mà còn thật sự bình đẳng trên phương diện tương đối, về khả năng, tiềm năng, năng lực, sức mạnh, trí tuệ,…Trên cơ sở đó, người nữ mới có thể thiết lập và phát triển sự tự tin vững chắc, vô tác, bất thoái chuyển ở nơi chính nội tâm mình. Mặt khác, vì nam nhân cũng là đối tượng của chương trình giáo dục này nên họ cũng sẽ được trang bị một nền tảng nhận thức đúng đắn về bản thân mình cũng như về nữ giới, giúp họ từ đó không chỉ chuyển hóa một cách có ý thức những thành kiến sai lầm và sự bám chấp, phân biệt giới tính, phân biệt đối xử với nữ giới, mà còn tôn trọng, tự giác hỗ trợ và tạo điều kiện cho người nữ phát triển. Trên cơ sở được trang bị đầy đủ các giáo pháp nội điển cùng kiến thức và các kỹ năng hiện đại, các hoạt động nhập thế độ sinh cũng sẽ được tổ chức thông qua các dự án Sống Để Yêu Thương (Live To Love) do Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đề khởi. Các dự án Sống Để Yêu Thương được chia thành năm nhóm chính: Giáo Dục, Y Tế, Bảo Vệ Môi Trường, Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa và Cứu trợ. Thứ nhất, về dự án Giáo Dục, đối tượng ưu tiên đầu tiên của chúng tôi sẽ là trẻ em nghèo. Trên cơ sở không phân biệt tôn giáo và thành phần xã hội, trẻ em sẽ được dạy văn hóa, ngoại ngữ, các kỹ năng sống, giao tiếp, phương pháp học tập, đặc biệt là phát triển nhân cách, phát triển lòng từ bi và trí tuệ để trở thành một công dân tốt và có ích cho gia đình cùng xã hội. Ngoài ra, chương trình Giáo Dục đặc biệt chú trọng hoằng dương chính pháp thông qua phối hợp đa dạng nhiều kênh truyền thông khác nhau như thành lập các website, phát hành các tập san định kỳ, tổ chức các diễn đàn trao đổi Phật Pháp và chia sẻ, nâng cao nhận thức của nhiều thành phần xã hội và để cùng nhau giải quyết các vấn đề thực tại của cuộc sống. Thứ hai, về lĩnh vực Y Tế và chăm sóc sức khỏe, các sư ni chủ động trang bị cho người dân nhận thức chân thực về giá trị đời sống, những kỹ năng, phương pháp đặc trưng của Kim Cương thừa như: lễ dài, Yoga, thiền định giữ tâm trong sáng, các phương pháp thiện xảo thanh lọc tâm thức và thể chất trong xã hội hiện đại; giới thiệu những phương pháp ăn chay thực dưỡng tự nhiên để thân tâm an lạc; chủ động hợp tác với các bệnh viện, các trung tâm chăm sóc y tế và sức khỏe truyền bá nhân rộng pháp tu Kim Cương thừa về tạng thư sống chết, khai thị thân trung ấm, chuyển hóa tâm thức cho những người sắp chết. Ngoài ra, kết hợp với giáo dục kiến thức và đạo đức học Phật Giáo, chương trình Y Tế cũng chú trọng giúp cộng đồng giải quyết những vấn nạn nhức nhối của xã hội hiện đại như nghiện hút. Thứ ba, công tác Bảo Vệ Môi Trường cũng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng có thể được thực hiện thông qua việc chủ động tạo một kênh thông tin giữa cộng đồng người dân, các doanh nghiệp, chính quyền địa phương và các cơ quan truyền thông đại chúng trong việc đề xuất, thông tin và xử lý các khu vực, vùng miền bị ô nhiễm môi trường, tuyên truyền, vận động người dân sử dụng tiết kiệm, hợp lí nguồn năng lượng tự nhiên như điện, nước. Tổ chức triển khai các hoạt động định kỳ như nhặt rác, dọn vệ sinh tại các nơi công cộng, các địa điểm du lịch tâm linh; triển khai dự án trồng cây gây rừng, phóng sinh... Thứ tư, dự án Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa được bắt đầu bằng bảo tàng trưng bày triển lãm văn hóa Phật Giáo Kim Cương Thừa với những tác phẩm nghệ thuật như tranh cuộn Thanka, Mandala, các pho tượng Phật, Bồ Tát và Truyền Thừa Thượng Sư, tranh ảnh, băng đĩa, ấn phẩm nhằm giới thiệu và bảo tồn nền nghệ thuật Phật Giáo Kim Cương Thừa. Ngoài ra, tại đây sẽ lưu giữ và trưng bày các giá trị truyền thống của nền văn hóa Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt là những giá trị vật thể cũng như phi vật thể với nhiều yếu tố đặc trưng của Mật Giáo vốn đã bắt rễ sâu xa trong tiềm thức và được thể hiện ra ngoài đời sống thường nhật của Phật tử và người dân Việt Nam. Theo đó, những nghiên cứu lịch sử và các tác phẩm lịch sử sẽ được công bố và phổ biến rộng rãi. Thứ năm, những công hạnh từ thiện cũng cần được đẩy mạnh bằng việc triển khai quyên góp, ủng hộ, cứu trợ đồng bào gặp lũ lụt, khó khăn, những học sinh nghèo, đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa… Để nhân rộng được mô hình tới nhiều nhóm đối tượng đang cần được giúp đỡ, các sư ni và Phật tử sẽ chủ động tạo một kênh thông tin với chính quyền các địa phương, kết hợp với các tổ chức xã hội chuyên nghiệp, có uy tín và các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm triển khai hoạt động này một cách có hiệu quả nhất. Dù không phải là nhà hoạt động thế tục cũng như chưa đủ khả năng hoằng dương nhập thế, tuân theo những huấn từ của Đức Phật và Đức Pháp Vương, chúng tôi nguyện phát huy hết khả năng khiêm tốn của mình để phát triển ni chúng Tây Thiên với thành tâm hy vọng sẽ có những đóng góp thiết thực vì lợi ích của nữ giới và bình đẳng hữu tình. Trên thực tế, khi kiến lập tịnh thất Tây Thiên, chúng tôi đã có tâm nguyện sẽ mở rộng cánh cửa nơi thâm sơn cô tịch này để khuyến khích và trợ giúp các sư ni trẻ tuổi trên bước đường vượt qua trở ngại, khó khăn tìm cầu ánh sáng giải thoát. Chúng tôi vui mừng nhận thấy ngày nay các ni sư trẻ tuổi đã nghiêm túc rèn luyện trong giới hạnh thanh tịnh, ngày càng tinh tấn tu tập để có thể hoằng dương Phật pháp vì lợi ích hết thảy hữu tình. Dù còn nhiều khó khăn, thiếu khuyết, chúng tôi cũng đang nỗ lực cân bằng giữa yêu cầu tu tập miên mật và những hoạt động Phật sự biến bi tâm thành hành động thuộc thiện hạnh Live To Love (Sống Để Yêu Thương) cao quý của Đức Pháp Vương. Phụ nữ có một vai trò quan trọng bởi vì thiên chức và bản tính linh hoạt của họ góp sức vào hoạt động phụng sự nhân loại. Bởi lẽ phụ nữ vốn dĩ đã là chất xúc tác tự nhiên mang lại sự thay đổi cho xã hội ngay cả khi họ không có những nỗ lực gì đặc biệt, cho nên người phụ nữ càng tích cực thì nhân loại càng được lợi ích lớn lao. Chúng tôi mong nguyện rằng dự án Tây Thiên sẽ góp một bàn tay nhỏ bé mang lại tầm ảnh hưởng tích cực, rộng lớn và dài lâu đến với cộng đồng và xã hội, và nguyện rằng chúng ta sẽ không chỉ có một số ít những nữ nhân kiệt xuất mà là vô số những bậc nữ giác ngộ đầy lòng từ bi và trí tuệ tuôn tràn về phía vô lượng khổ não chúng sinh. Nguồn: Bài viết tại Hội nghị ni giới Phật giáo quốc tế tổ chức tháng 1 năm 2010, T/p HCM Việt Nam. Vô Úy – Drukpa Việt Nam
  5. Phú Quý Bần Tiện 1. Phú - Giàu Mười Huyệt Giàu Có Chín Huyệt Oa, Y Như Cái Ổ Trong Nhà Lớn, Tám Phương Chẳng Thấy Cái Ao Phong, Thành Vàng Thủy Tụ Cung Mắt Án, Bốn Góc Tam Can Đều Đầy Đặn, Thủy Tụ Thiên Tâm Lại Có Tình, Nhập Thủy Hình Khí Tựa Ba Ba, Trái Kho Phải Vựa Đẩu Tinh Kim. 2. Quý - Sang Mười Cái Quý Huyệt Chín Cái Cao, Khí Độ Tầng Tầng Áp Chúng Non, Trống Cờ Cổ Vũ Bày La Liệt, Sư Tượng Lân Ly Lại Bảng Vàng, Văn Bút Án Cao Vạn Hốt Chầu, Long Lầu Phượng Các Quý Cực Phẩm, Thủy Đến Chín Khúc Núi Xuyên Mây, Khanh Tướng Công Hầu Phúc Miên Miên. 3. Bần - Nghèo Mười Cái Huyệt Nghèo Chín Cái Thiếp, Sa Phi Thủy Chạy Chẳng Thành Vòng, Bốn Phương Ao Phong Long Hổ Phản, Mang Chứa Hoài Thai Gặp Gió Lạnh, Đã Dành Chia Dòng Lại Nhảy Tót, Nước Chảy Loang Toàng Khí Thất Tán, Dắt Trâu Cắt Gót Mộc Thành Thủy, Cháu Con Nghèo Kiết Tựa Ăn Xin. 4. Tiện - Hèn Mười Cái Huyệt Hèn Chín Cái Phản, Đào Hoa Xạ Kiếp Thảy Xung Xạ, Tứ Chính Thủy Đã Một Đường Đi, Vung Tay Vén Áo Hình Chặt Đầu, Bắn Chéo Đâm Nghiêng Đề La Sơn, Hoa Rã Kéo Lôi Người Hạ Tiện, Cần Phòng Ly Tốn Đoài Ba Vị, Sa Thủy Phản Phá Ô Danh Gia. A Tư Tiểu Khang dịch
  6. Không còn gì để nói!!! Tất cả có thể hiểu trừ chuyện này. Đây là cái gì? Nó là cái mặt trống đồng được làm nắp cống hay là cái nắp cống được mô phỏng theo mặt trống đồng, không biết nữa. Tiện tay hay cố tình đây? Tấm ảnh này do Cá Gỗ gửi cho bọ, với email: “Trưa nay đi ngang đường Ngô Quyền, ngay trước cửa Thành uỷ Hà Nội, tui ngỡ ngàng khi nhìn thấy cái hình trống đồng biểu tuợng 4000 năm văn hiến của dân ta, đêm nào cũng xoay xoay trên TV ở chuơng trình thời sự, ngạo nghễ hiên ngang ở phòng khánh tiết lắm cơ quan…vậy mà người ta đúc để làm nắp cống! Tui không biết họ tinh tế ở mô, văn hóa chỗ nào mà lại đến nông nỗi này.” Ôi trống đồng, biểu tượng của lịch sử, văn hiến Việt, vật linh Ngàn năm Thăng Long- Hà Nội, sao ra nông nỗi này ? Không còn gì để nói. nguồn:http://ttngbt.wordpress.com =========================== Biểu tượng văn hóa Việt có thể để ở nơi như thế này ư? Sao nhẫn tâm đến thê?! Thiên Đồng
  7. Này ntpt, bậu bói cho nó đúng và đúng đối tượng! Kẻo người ta bảo bói mò. Mà mò cho nó trúng, trúng Kình hay trúng Cự hay trúng Khúc - Xương gì phải cho nó tới chỉ.
  8. Chim! Chim chích....Chim Chích Bông ơi, tôi đang diễn tuồng!
  9. Long Môn Bát Cục Luận Thủy Trong lý luận của Phong Thủy thì núi chủ con người , nước chủ tài . Trong Long Môn Bát Cục luận thủy , nước chia làm Tiên Thiên Thủy và Hậu Thiên Thủy , Tiên Thiên Thủy chỉ sự hưng vượng con người , Hậu Thiên Thủy để chỉ tiền tài quảng tiến . Long Môn Bát Cục luận thủy thì lấy phương vị phối Tiên Hậu Thiên bát quái mà đến . Ví dụ : Lập nhà tọa chính bắc , tất Đoài là Tiên Thiên Thủy , Khôn là Hậu Thiên thủy . Làm thế nào để xác định chính bắc Tiên Thiên thủy ? Phải lấy Hậu Thiên Bát Quái làm điểm xuất phát , tại Hậu Thiên Bát Quái chính bắc là Khảm , mà tại Tiên Thiên Bát Quái Khảm tại chính Tây . Nên lấy thủy đến chính Tây làm Tiên Thiên Thủy . Tức là theo Hậu Thiên tìm Tiên Thiên . Làm thế nào để xác định chính Bắc Hậu Thiên Thủy ? Đầu tiên lấy Tiên Thiên Bát Quái làm xuất phát điểm , tại Tiên Thiên Bát Quái chính Bắc là Khôn , mà tại hậu thiên bát quái Khôn tại Tây Nam . Cho nên nói Tây Nam có thủy đến là Hậu Thiên thủy . Tức là theo Tiên Thiên tìm hậu thiên . Tất cả theo đó mà suy : - Tọa Nam triều bắc , tiên thiên thủy tại chính đông , hậu thiên thủy tại tây bắc . - Tọa Đông triều tây , tiên thiên thủy tại đông bắc , hậu thiên thủy tại chính nam . - Tọa Tây triều đông , tiên thiên thủy tại đông nam , hậu thiên thủy tại chính bắc . - Tọa Đông Nam hướng tây bắc , tiên thiên thủy tại tây nam , hậu thiên thủy tại chính tây . - Tọa Tây Bắc hướng đông nam , tiên thiên thủy tại chính nam , hậu thiên thủy tại đông bắc . - Tọa Đông Bắc hướng tây nam , tiên thiên thủy tại tây bắc , hậu thiên thủy tại chính đông . - Tọa Tây Nam hướng đông bắc , tiên thiên thủy tại chính bắc , hậu thiên thủy tại đông nam . Long Môn Bát Cục Thủy Pháp , tuy chỉ nói về thủy nhưng cũng cần có sơn liên hệ . Ví như lấy Tiên Thiên Thủy Hậu Thiên Sơn , hoặc Tiên Thiên Sơn Hậu Thiên Thủy . Sơn với thủy tương giao . Thế Anh dịch
  10. Hung Nguyen thấy được cái gọi là "ghớm" thì phải chăng thấy được một phần nào đó của mình giống vậy? Hay chẳng có phần nào giống vậy? Và cái ghớm đó là do gì mà nhận thức ghớm? Chắc rằng đó là những định kiến hay những tư tưởng định kiến mà ra. Ghớm là một từ diễn tả thái độ hay kinh nghiệm cảm xúc? Dù nó là gì đi nữa thì cũng có cái như màng che, như lớp bụi. Hát bội hát cải lương thật là hay. Hồi nhỏ Thiên Đồng hay coi hát bội, có một vỡ diễn để lại kỹ niệm sâu sắc. Lớp diễn hình như là Đổng Kim Lân cứu chúa. Diễn viên diễn hay đến độ tiền thưởng kẹp trong quạt giấy liệng lên sân khấu rào rào. Đổng Kim Lân chạy giặc vừa kháng cự và bị thương...lòi ruột (nhưng thuật ra không có miếng ruột nào, chỉ là điệu bộ ước lệ), chạy thật khổ sở... thì bổng có một cụ bà từ dưới hàng ghế đi xâm xâm lên sân khấu, tay cầm cây quạt xếp mà đuổi đánh "kẻ địch của Kim Lân": "Mồ tổ mày! Sao mày ác vậy?! Người ta gần chết mà mày không chừa hả! Mồ tổ cha mầy!!!" vừa nói cụ bà vừa sán tới tấp. Vậy là kẻ địch" phải tự la lên "Má, má ơi con đang diễn tuồng!" Cả rạp cười rần rần, diễn viên ôm bụng cười...rồi thì bà lão cũng "sực tỉnh" phì cười. Hậu đài nhanh chống tiển bà lão xuống sân khấu. Bà đi trong cái cười tũm tĩm. Chẳng biết bà vui hay quê? Đổng Kim Lân Lại lòi ruột chạy giặc, bà cụ lại ngồi coi hát run đùi. Bà cụ sống trong cảm xúc của vỡ diễn mới thấy thương sót Đổng Kim Lân hay bà cụ bị cảm giác của vỡ hát bội "lừa tình". Vậy thì "Ghớm" của Hung Nguyen nếu không là thực tế bản thân thì cũng là một cảm giác ảo bị lừa tình! Không biết nữa. Nhưng thật ra chúng ta (không trừ Thiên Đồng) vẫn như bà cụ, bị chi phối và đồng cộng hưởng trong một hay biết bao vỡ diễn nào đó. Có lúc nào ta thật sự là kháng giả không? HellKnight1a có phút giây nào thật sư là kháng giả cho cái vỡ kịch của mình không? Đâu là giây phút ""Má, má ơi con đang diễn tuồng!" của HellKnight1a? HellKnight1a viết: "1 thầy đã nói với em là chuyện tình duyên của em có liên quan đến kiếp trước hay duyên phận gì đó. " Vậy thì cái kiếp trước đó ta chính mắt thấy chưa? Hay chỉ là "1 thầy đã nói " Vậy thì tôi phải la lên rằng "Má, má ơi ông thầy đó đang diễn tuồng!" Vài lời gió thoảng. Thiên Đồng
  11. Ồ, có thể tôi lầm, cũng có thể bạn vẫn chưa hiểu ý tôi. Và cũng không có gì gọi là hình ảnh nghiêm trọng, bởi hình ảnh diễn giải của tôi chỉ muốn nói bản chất vấn đề chung, không riêng gì trường hợp của bạn. Có lối thoát nào cho vụ này chăng? Câu trả lời có hay không là bạn tự tìm ngay trong bạn. Có người hỏi: "Này anh cho tôi hỏi, Sài gòn ở đâu?" nhưng người ấy đứng ở ngã tư Hàng Xanh. Hay có người ở phố hàng Phèn mà hỏi rằng? "Này anh kia, Hà Nội ở đâu? Tôi đi đâu sẽ tới Hà Nội? Vậy tôi sẽ trả lời là Sài Gòn ở đâu? Hà Nội ở đâu? Vậy anh có thấy một lối thoát nào chưa? Đi tìm một mối nhân duyên nào khác hay không thì bạn tự hỏi niềm an lạc nó đến từ đâu và gốc của nó là ở chổ nào? Một người phụ nữ khác phải chăng sẽ là một liều thuốc giảm đau trong một liệu trình tinh thần bất ổn. Lối thoát nào đó cho vụ này? Tôi không biết con đường nào, nhưng nếu tôi biết nhiều con đường thì con đường nào phù hợp với anh? và nếu tôi chỉ biết một con đường thôi thì có chắc gì con đường đó phù hợp với anh? Con đường nào tới Sài Gòn? Con đường nào tới Hà Nội? Vài dòng gió thoảng. Thiên Đồng
  12. @ HellKnight1a, Tôi đố bạn tìm được trong hiện thực một hình ảnh như thế này: Một con chó cái cùng một con chó đực giao phối, nhưng con chó cái mỗm vẫn ngậm xương và nhai xương. Và câu trả ời của cho bạn là không bao giờ! Mà, bạn chỉ tìm thấy tất cả trường hợp hai con chó XXX với nhau và chúng chỉ XXX với nhau mà thôi. Nhưng ở đây, theo lời bạn kể thì bạn kể rằng người bạn gái của bạn XXX với một người khác và vửa XXX lại vừa gọi điện thoại cho bạn. vậy gì điều gì đang xảy ra? Chỉ có sự giải thích duy nhất rằng đó là bệnh trạng điên khùng chứa đựng sâu bên trong nó là sự rối loạn của vô thức bản năng! Đã là bản năng mà còn vô thức thì quá ư là u tối, nhưng lại thêm rối loạn...thì đủ để nói rằng bất minh! Đôi chó nó có được sự an lạc của loài chó là nó biết chuyên chú trong khi XXX. Nó rủ bỏ hoàn toàn cho cái chuyện đó và nó hoàn toàn là...chó. Nếu có có một con vừa XXX vừa gậm xương thì cái con gậm xương đó có vấn đề. Nó chẳng biết sống là gì, hưởng thụ là gì nếu không nói là chẳng bao giờ có sự an lạc. Nó khùng điên quá đổi! Như hình ảnh đó, một người vừa XXX với kẻ thứ 3 (mà là kẻ thứ 3 đấy!!) vừa gọi đi điện cho kẻ thứ 2, tức vừa nhai "cục xương điện thoại", thế thì điều gì xảy ra? trong đầu kẻ ấy phải chắc rằng chẳng có một điều gì gọi là tường minh! Và sự thể hiện rỏ ràng là điên khùng! Điên khùng ngập ngụa trong cái vô thức bản năng rối loạn! Còn bạn, bạn như thế nào? Hình ảnh tôi muốn diễn giải rằng là một con chó thứ 3 nhìn thấy 2 con đang XXX và con cái vừa gậm xương và nhai xương. Con thứ 3 đứng ngoài như thế nào? Hẳn nó muốn nhai đầu con đực kia hay cắn đuổi con đực kia đi, nó lại muốn nhai xương của con cái, trời ạ, nó cũng muốn XXX với con cái, rồi thì sao? Nó muốn sở hữu con cái. Nó muốn đồng hóa nỗi đau hay khoái cảm của con cái vào người nó nữa cơ chứ. Trời ạ! nó bệnh tưởng vô cùng! Ba con chó, cả thế giới chó điều xoay vòng điên loạn trong vô thức bản năng? Liệu rằng con người đang như thế? Hẳn là như vậy rồi! Và tiếc rằng chưa thấy có cặp chó nào vừa XXX vừa gậm xương! Đâu là lối thoát cho vụ này? Thiên Đồng
  13. Nếu bạn tin, hay bạn đặt một niềm tin vào ai, vào bất cứ điều gì thì chẳng khác nào một kẻ say uống thuốc độc. Sự hoang tưởng bắt đầu việc huyễn hoặc bản thân bằng sự tự huyễn hoặc và bằng sự huyễn hoặc của người khác hay của các hiện tượng khác. Bây giờ bạn lại gợi ý cho mọi người đóng góp vào cái "thùng rác con người" của bạn những huyễn hoặc, những rác rưởi cho tâm thức. Còn người con gái kia, thật sự bệnh hoạn và điên khùng. Một sinh vật chỉ sống dưới sự lôi kéo của tham dục, của vô thức bản năng. Và khi cái con người vô thức bản năng kia nổi loạn cùng dưới cái dục phát tác thì bạn lại bị lôi kéo, bị tự huyễn hoặc. Đâu là lối thoát cho vụ này?! Vài lời gió thoảng. Thiên Đồng
  14. Ai đó đang hoang tưởng.
  15. Chỉ có tưng tửng như ông Cho mới thấy lòng mình trong sạch. Khó lắm thay khi nói được như ông Cho: “Tui nghèo nhưng sạch”. Ông Cho quả thật là giầu để mà cho 45 triệu. Cái tuyệt vời là ông Cho không có cái để cho nhưng vẫn đã cho. Thiên Đồng cũng xin góp vào quỹ từ thiện ủng hộ Nhà Nho 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Thiên Đồng
  16. Tỳ bà Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm Trăng đan qua cành muôn tay êm Mây nhung pha màu thu trên trời Sương lam phơi màu thu muôn nơi Vàng sao nằm im trên hoa gầy Tương tư người xưa thôi qua đây Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề Hoa vừa đưa hương gây đê mê Cây đàn yêu đương làm bằng thơ Cây đàn yêu đương run trong mơ Hồn về trên môi kêu: em ơi Thuyền hồn không đi lên chơi vơi Tôi qua tìm nàng vay du dương Tôi mang lên lầu lên cung Thương Tôi không bao giờ thôi yêu nàng Tình tang tôi nghe như tình lang Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu Sao tôi không màng kêu: em yêu Trăng nay không nàng như trăng thiu Đêm nay không nàng như đêm hiu Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân Buồn sang cây tùng thăm đông quân Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. Mộng cầm ca Đây bát ngát và thơm như sữa lúa; Nhựa đương lên: sức mạnh của lòng thương; Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa; Đây dạ lan hương, đây đỉnh trầm hương; Đây bát ngát và thơm như sữa lúa; - Hồn dạ hương phơ phất ở trong sương. Không gian tơ - không gian tơ gợn sóng; âm thanh gì sắp sửa... Ngọc Kiều ơi! Hay hơi thở của hoa hồng mơ mộng? Hay buồn đêm rào rạt, - ứ muôn nơi? Không gian tơ - không gian tơ gợn sóng; Ngọc Kiều ơi! - Hồn đến bến xa khơi!... Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt, Ngọc Kiều ơi! - nầy khúc Lạc Mai Hoa. Suối tóc mát, nhúng trong vùng mộng tuyết: Ta đê mê, ta gảy điệu Tỳ Bà; Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt Còn đây em, nầy khúc Mộng Cầm Ca. Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc? Vú non non? Da dịu dịu, êm êm? Đâu hang báu cho người ta phải khóc? - Trên môi son, ta liếc lưỡi gươm mềm! Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc? - Lưới lông mi rờn rợn ánh tơ đêm! Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng Của gương hồ im lặng tợ bài thơ. Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng. Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ. Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng Của hồn thu đi lạc ở trong mơ... Người cho ta một thanh gươm rất sắc? Ô vung lên... cắt mạch nguyệt vàng xanh! Xẻ mạch trời, - mây xô sao, răng rắc! Phăng mạch đêm, - hương vỡ, ứa ngầm tinh! Người cho ta một thanh gươm rất sắc? - Ta điên rồ... múa giữa áng bình minh. Bích Khê
  17. Những người được người khác cho biết rằng có người âm theo, vậy xin hỏi những khổ chủ đó có tận mắt thấy được rỏ ràng người âm nào theo chưa? Tại sao cứ phải "nhìn" bằng đôi mắt người khác? Chừng nào tự mình nhìn thấy được có người âm nào theo mình thì bàn tiếp. Hoang tưởng hay tự mị hay bị người khác mị chính bởi do những suy nghĩ như thế này. Cái mất sờ sờ trước mắt! Cần sống tỉnh táo bằng đôi mắt mình đừng trong chờ vào đôi mắt người khác. Thiên Đồng
  18. @ Fox Hình ảnh cô gái đó đã có trước? Tức là đã nhìn thấy ở đâu rồi? Tiếp tục là tiếp tục gì? Tiếp tục mơ hay tiếp tục tìm người đó? Câu hỏi không rỏ ràng, diễn giải mơ hồ. Thiên Đồng
  19. DƯƠNG TRẠCH LOAN ĐẦU TỨ ĐẠI CỤC Cục Thứ Nhất – Đãng Khí Cục Đãng khí cục : Nhà ở mà xung quanh không có hộ cục , tám mặt bị gió thổi tất cả tán đãng , nhân vì Âm Phong rất nhiều không hàm chứa được sinh khí bao nhiêu nên còn gọi là Thái Âm Cục . “Dương Trạch Chỉ Nam” quyết viết : Nhất không tam bế thị hào gia , tam không nhất bế loạn như ma ; nhược thông bế lý cầu không pháp , lập địa trân châu mãn lộc xa . Tam không nhất bế , tức là chỉ một nhà ở mà ba mặt thụ phong , gọi là Nhà ở thuộc Cục thứ nhất Nhất Đãng Khí Cục . Thái Âm Hình Cục : 1. Sinh ra người lười biếng , được sao biết vậy . 2. Không có trách nhiệm , sợ việc , sợ làm phiền . 3 . Không can đảm . Thái Âm ( Đãng Khí Cục ) sinh nhiều tật bệnh về phổi thận . Bách Khí Cục ( Khí dồn nén ) sinh các bệnh gan , tim . Thận phổi thuộc dương ( Kim thủy là âm ) tính chất là thu tụ . Mà Đãng Khí Cục , khí không thu mà lại đãng , nên bất lợi cho thận phổi . Gan tim thuộc dương ( Mộc Hỏa là dương ) tính chất là tán phát . Gặp Bách Khí Cục không tán , phát mà lại áp bức , cho nên bất lợi gan tim . Đãng Khí Cục chủ trong nhà xuất kẻ du đãng , không muốn về nhà Đệ Nhị Cục – Bách Khí Cục Bách Khí Cục : Nhà ở bốn bên bị áp bức , như thú nhốt trong truồng , bốn mặt không có sinh khí hoặc rất ít sinh khí đi vào trong nhà , do đó mà dưỡng khí không đủ . Bách Khí Cục mức độ áp bức quá mạnh gọi là Thái Dương Cục . Bách Khí Cục sinh ra người tính thô bạo , Bách Khí Cục như tình trạng bị nhốt trong lồng , khí không lưu thông , sinh ra uất bí , nên sinh ra tính người thô bạo . Như thế trong nhà ngày tranh đêm cãi . Dễ phát các bệnh sốt nóng : Nguyên nhân vì Bách Khí Cục không khí không lưu thông , ẩm thấp nóng bức phát tán , đến không khí trầm uất nóng bức , tất nhiên sẽ phát sốt . Bách Khí Cục việc lưu thông không khí không đều , nên khó có được dưỡng khí nên dễ sinh bệnh gan , tim , chảy máu não . Đệ Tam Cục – Thừa Khí Cục Thừa Khí Cục : Nhà ở có tường bao bọc xung quanh , mở ra một cửa nạp khí . Thừa khí cục thao thiên thời gọi là Thiếu Dương Cục . “Dương Trạch Chỉ Nam .” : Nhất không tam bế , tức là ba mặt che gió , một mặt mở thu khí . Đó là cục chứa khí ( Tốt ) . Đệ Tứ Cục – Tụ Khí Cục Tụ Khí Cục : Nhà ở mà bốn mặt được bảo vệ , lại không phạm vào áp bức ( Bị đè nén ) , có khoảng không để khí trời và khí đất dung hợp tụ vào trước nhà , từ đó đi vào nhà và người trong nhà hấp thu được . Tụ khí cục còn gọi là thiếu âm cục . “Dương Trạch Chỉ Nam .” nói : Cái lý của sự đóng là phép tìm ở chỗ không , cái đó Phong Thủy Học gọi là phương pháp Tàng Phong Tụ Khí . Tức là nhà ở bốn mặt che gió mà lấy trung gian tụ khí . Thế Anh dịch
  20. Về mặt hình thức thì theo câu truyện thấy có vẽ hợp lý, nhưng về chiều sâu thì không mấy thuyết phục cho một lý do, bởi một lễ nghi với những nghi thức, định tiết của nó phải xuất từ một tư duy nhận thức có cơ sở từ một nền văn minh nào đó phản ánh thực tại nhận thức vũ trụ.Thiên Đồng
  21. Lọt trong khoản 2 tiếng đồng hồ đó là tốt.
  22. Nghiệp, hóa thân và quy y Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị Ngã chấp là nguyên nhân tạo ra thế giới khổ đau mà chúng ta đang sống. Chính vì thế khi bắt đầu tái sinh vào một cuộc sống mới chúng ta hoàn toàn không tự chủ, không tỉnh thức, do năng lực của vô minh chi phối. Cũng như vậy trong suốt cuộc sống của mình, chúng ta vẫn không có chút trí tuệ nào nên bị sức mạnh của nghiệp lôi cuốn. NGHIỆP Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia. Mặc dù không hề muốn nhưng những người tàn tật mù lòa đau ốm đang phải trải qua một cuộc sống vô cùng đau khổ, không có chút quyền lựa chọn, bởi vì họ đang nhận được nghiệp quả do chính họ đã gieo nhân (nghiệp nhân). Tuy nhiên các nghiệp nhân này có thể được chuyển hóa hoặc tiêu hủy trước khi trổ quả nhờ vào sự thực hành pháp. Vì thế bạn không nên hiểu lệch lạc rằng “nghiệp là cố định” để rồi nhắm mắt buông xuôi, bi quan yếm thế, buông đời mình cho dòng nghiệp cuốn lôi. Trên thực tế, nghiệp có thể được chuyển hóa, chỉ cần chúng ta khéo sử dụng trí tuệ của mình hướng đạo cho các hành động của thân, khẩu, ý một cách đúng đắn, thì mọi khổ đau sẽ được chấm dứt. Có rất nhiều giải pháp để tiêu trừ nghiệp xấu Có rất nhiều cách để chuyển hóa và tiêu hủy các nghiệp nhân, trước khi chúng kết thành nghiệp quả. Một điều quan trọng bạn cần biết: tuy hiện đời chúng ta đang thụ nhận nghiệp quả đã chín, là những khổ đau hay hạnh phúc từ những nghiệp nhân của các đời trước, song cũng chưa hẳn là quá muộn, vẫn còn có rất nhiều cách để chuyển hóa chúng. Giống như khi mắc một căn bệnh, sẽ dễ dàng điều trị hơn nếu bạn phát hiện ra từ sớm. Nếu chúng ta phát hiện ra căn bệnh quá muộn thì sẽ không còn hy vọng gì. Nghiệp cũng tương tự như vậy. Vì thế bạn phải quán sát và chuyển hóa nghiệp ngay từ hôm nay trở đi, thay vì chờ đợi đến ngày mai. Tôi nói như vậy bởi vì cuộc sống của chúng ta rất vô thường, không ai trong chúng ta có thể biết được chuyện gì sẽ xảy ra ngày mai. Cho nên, chúng ta cần bắt đầu thực hành pháp chuyển hóa những bất thiện nghiệp ngay từ giờ phút này. Rất đáng tiếc, từ bao nhiêu kiếp rồi, do màn vô minh che phủ, chúng ta đã gieo trồng vô số nghiệp nhân bất thiện, vì vậy chúng ta đang phải gánh chịu những nghiệp quả bất thiện. Bởi thế, chúng ta cần phải tu tập để thực sự chuyển hóa và tiêu trừ chúng. Thực hành giáo pháp trong cuộc sống thường nhật chính là cách chuyển hóa và tiêu trừ ác nghiệp hữu hiệu nhất. Tại sao chúng ta cần đến sự hướng đạo tâm linh Bạn không nên chờ đến khi các nghiệp xấu trổ quả. Có rất nhiều cách để chuyển hóa bất thiện nghiệp nên bạn không nhất thiết phải ngồi bất lực để gánh chịu những quả khổ. Bởi vậy, có được giáo pháp và sự hướng đạo tâm linh là vô cùng cần thiết. Ý nghĩa chính của con đường tâm linh là chuyển hóa và loại bỏ những nghiệp nhân bất thiện mà ta đã gieo trồng, để có thể chấm dứt khổ đau. Sự thực hành tâm linh sẽ không thể trợ giúp bất kỳ khía cạnh thế tục nào khác ngoài việc này. Trong cuộc sống, chúng ta nên biết vừa lòng với những vật chất thế tục. Hiện tại, chúng ta vẫn có thực phẩm để ăn, quần áo để mặc, nhà để ở, bởi thế chúng ta không nên tìm cầu những thứ thế tục từ sự thực hành tâm linh bởi con đường tâm linh chỉ nhằm vào việc chấm dứt khổ đau. Nếu có ai trong chúng ta muốn được khổ đau, người đó không cần thiết phải tìm kiếm và thực hành tâm linh. Họ chỉ cần ngồi yên, không cần làm gì cả và chắc chắn họ sẽ có khổ đau. Nhưng trên thực tế, không ai trong chúng ta lại thích đau khổ, nên chúng ta phải thực sự bắt tay vào việc thực hành tâm linh để tiêu trừ tất cả những bất thiện nghiệp mà chúng ta đã tích lũy. Để làm được việc này chúng ta cần phải trưởng dưỡng tuệ giác. Bạn không nhất thiết phải chịu khổ đau phiền não, vì vẫn còn các giải pháp để tiêu trừ nghiệp xấu. Vì thế, chúng ta cần biết tìm cầu giáo pháp và sự hướng đạo, và cũng vì thế mà tâm linh có vai trò vô cùng quan trọng. Trên thực tế tâm linh không có mục đích tối hậu nào khác ngoài điều này. Chúng ta, theo cách nào đó, đều tự hài lòng vì số phận mình khá may mắn. Ta thấy mình có thực phẩm để ăn, quần áo để mặc, nhà cửa để ở, v.v... tức là từ góc độ thế tục mà nói, chúng ta chẳng thấy tâm linh có gì đáng giá. Mục tiêu chính yếu của tâm linh là giúp bạn tiêu trừ những nghiệp xấu mà bạn đã gieo trồng. Con đường tu tập tâm linh chủ yếu tập trung vào điều này vì chẳng ai muốn rước lấy khổ đau phiền não. Nếu có ai trong số chúng ta thích đau khổ thì chúng ta không cần tu tập trưởng dưỡng tâm linh làm gì. Chúng ta có thể cứ việc ngồi lỳ một chỗ mà không cần phải làm gì. Song như thế, chắc chắn chúng ta sẽ chịu nhiều đau khổ. Do chúng ta không muốn đau khổ, chúng ta cần tu tập, thực hành để tiêu trừ các nghiệp tiêu cực mà mình đã và đang tích tụ. Và để tiêu trừ được chúng, chúng ta cần phải trưởng dưỡng trí tuệ của mình. Tâm của bạn nắm giữ toàn bộ trí tuệ của chân lý vũ trụ Vậy nghiệp đến từ đâu? Nó tồn tại như thế nào? Cái gì đã tạo nên nghiệp? Đây là những điều mà bạn cần hiểu biết với trí tuệ chân thật. Nhờ đó, bạn có thể tiêu trừ tất cả nghiệp bất thiện. Bởi vậy, tất cả điều bạn cần là phát triển trí tuệ. Trí tuệ không phải là thứ mà tôi có thể chỉ cho bạn, tuy thế tôi có thể chỉ cho bạn chỗ để tìm kiếm trí tuệ, trí tuệ nằm ở chính trong tâm của bạn. Trí tuệ không phải là thứ bạn có thể mua hay lấy trộm từ bên ngoài, nó chỉ có thể được tìm thấy ở bên trong chính bạn, bên trong tâm bạn, bên trong tim bạn. Tâm của bạn nắm giữ toàn bộ trí tuệ của chân lý vũ trụ. Khi bạn có thể thực chứng được trí tuệ này, bạn sẽ thấu suốt được bản chất của vạn pháp. Sự sáng tạo là một khía cạnh của tâm, ngã chấp là một khía cạnh của tâm, và trí tuệ cũng là một khía cạnh của tâm. Tâm chúng ta nắm giữ mọi thứ, bao gồm cả trí tuệ và vô minh. Chúng ta sống trong mê muội, bởi vì chúng ta đã không nhận ra bất kỳ thứ gì trên phương diện tâm linh. Theo phương diện này mà nói, chúng ta rất vô minh. Bởi chúng ta vô minh và lầm lẫn, nên chúng ta thấy tâm chúng ta có hai mặt: một mặt của trí tuệ và một mặt của vô minh. Nhưng về mặt tuyệt đối, bản chất chân thật của tâm chúng ta là thuần khiết thanh tịnh, không có vô minh trong đó, chỉ cần chúng ta đừng cho rằng tâm của chúng ta có hai mặt. Từ vô thủy cho đến nay chúng ta đã sống và tạo nghiệp dưới sự chi phối của ngã chấp. Vậy ngã chấp là gì? Nó thực sự là tâm mê lầm của bạn. Từ tâm vô minh này khởi sinh ái dục, từ ái dục phát sinh tất cả các loại cảm xúc, những cảm xúc này tác động toàn bộ đến hoạt động của thân và khẩu của bạn. Trí tuệ là Thượng sư bên trong của bạn Trí tuệ thực sự là bậc thầy “bên trong”, chỉ cho bạn thấy rõ tâm vô minh đang diễn tiến như thế nào. Bậc thầy bên ngoài là người giảng dạy giáo pháp và hướng đạo cho bạn trên con đường tâm linh, còn trí tuệ chính là bậc thầy bên trong của bạn, giúp cho bạn thấy rõ được chức năng của bản ngã. Khi nhận ra được điều này, bạn có thể hiểu được phương pháp về cắt bỏ ngã chấp hiệu quả hơn hàng trăm lần so với việc nương theo giáo pháp từ bậc thầy bên ngoài. Bởi vậy, chúng ta nói có bậc thầy bên trong, bậc thầy bên ngoài và bậc thầy bí mật. Một người khi đã nhận ra được toàn bộ sự thật về ngoại cảnh một cách đúng đắn, họ sẽ nhận thấy tâm của họ tràn đầy trí tuệ. Sau đó mọi khổ đau sẽ chấm dứt. Lúc này ngã chấp hay ái dục không còn ảnh hưởng chi phối, khiến họ tạo nên lầm lỗi nữa. Người này sẽ giải thoát khỏi mọi sự trói buộc. Bất kì những gì họ làm sau đó, họ sẽ làm với trí tuệ và tự do. Nếu bạn không muốn tái sinh, sự ra đi của bạn cũng là một sự giải thoát. Còn nếu bạn muốn tái sinh, sự tái sinh đó sẽ là một tái sinh tự chủ với tuệ giác. Bạn sẽ chứng ngộ được trí tuệ vĩ đại hay còn gọi là sự giác ngộ. Sự giải thoát này còn gọi là đại hỷ lạc hay Phật quả. Tâm là chủ thể tạo tác của vạn pháp Tuy nhiên, do vô minh, chúng ta thường không hiểu điều này. Khi chúng ta nghe đến từ “Thượng Đế”, “Phật” hay “Khodah”, chúng ta nghĩ rằng các Ngài đang tồn tại ở một nơi nào đó “bên ngoài”. Quan điểm, thói quen tìm kiếm mọi thứ bên ngoài sẽ khiến chúng ta rơi vào sự lầm lạc vô phương hướng. Nếu bạn nghĩ rằng Phật hay Thượng đế ở bên ngoài, bạn sẽ bơ vơ không nhận được sự trợ giúp nào. Bạn sẽ mong chờ một vị cứu tinh đến giải thoát cho bạn, nhưng rốt cuộc chẳng ai đến cả. Rồi bạn nhận ra mình đang ở trong tình trạng tuyệt vọng, khi bạn nhận ra điều này thì đã quá muộn. Bạn đã trở nên quá già hoặc sắp chấm dứt cuộc đời. Vì thế, đây không phải là cách tiếp cận đúng đắn với con đường tâm linh. Cách đúng đắn là nhận ra mọi thứ ở bên trong chính bạn. Nếu bạn nhận ra rằng tâm là chủ thể tạo tác của vạn pháp, thì cho dù bạn không giải thoát ngay bây giờ, về mặt tâm lý bạn cũng cảm thấy mọi thứ ở trong tầm tay của bạn. Điều này có nghĩa là một bầu không khí hỷ lạc của sự giải thoát đã sẵn có ở đó. Cho dù có thể bạn chưa thành tựu được trong sự thực hành nhưng bạn vẫn cảm nhận được một trạng thái tự do giải thoát. Đây là kinh nghiệm của tôi, tôi hy vọng bạn hiểu được. HỎI VÀ ĐÁP Câu hỏi: Kính bạch Pháp Vương, xin cho con hỏi làm sao chúng con có thể đảm bảo chắc chắn rằng chúng con đang trải nghiệm trực tiếp với Thượng sư bên trong chứ không phải chỉ là sự phóng chiếu của tâm? Trả lời: Tất nhiên, đó là một sự phóng chiếu của tâm. Chúng ta vẫn sẽ tiếp tục có những sự phóng chiếu cho tới khi đạt được giác ngộ, tuy nhiên Thượng sư bên trong là một cách phóng chiếu hoàn toàn khác. Ví dụ về mặt kinh nghiệm mà nói, bạn sẽ có một sự hiểu biết thấu suốt về sự hình thành của thế giới này, trước hết bạn sẽ biết điều đó. Tất nhiên, bạn cần phải thực hành theo sự hướng dẫn của Thượng sư bên ngoài. Nhưng nếu một sự hướng dẫn bạn có được từ trí tuệ của chính bạn lại đối lập với sự hướng dẫn của bậc thầy bên ngoài, thì điều này đáng nghi ngờ, bạn phải cẩn thận xem xét lại.. Còn nếu trí tuệ bên trong của bạn hướng dẫn những điều chính xác như bậc thầy bên ngoài đã dạy thì hãy yên tâm rằng bạn đang đi trên con đường đúng đắn. Câu hỏi: Kính bạch Pháp Vương, nếu không có trí tuệ đúng đắn thì sự mâu thuẫn giữa bậc Thầy bên trong và Ngã chấp sẽ phát sinh. Nếu bản Ngã có xu hướng sai khiến chúng ta làm môt điều gì đó trái ngược với bậc Thầy bên trong, dường như phần trí tuệ đó của tâm vượt ra khỏi cả bậc Thầy bên trong và Ngã chấp. Con hiểu như vậy đúng không? Trả lời: Tôi nghĩ rằng cách hiểu này cũng đúng, hay ít nhất cũng không hoàn toàn sai. Nhưng nó chẳng liên quan gì đến những điều tôi nói. Mặc dù nghe có vẻ đúng nhưng bạn đã quá xa rời sự thực hành. Đây là lý do tại sao chúng ta phải thiền định và đi tới những nơi thâm sơn để nhập thất. Chúng ta muốn suy nghĩ và quán chiếu điều này một cách kỹ lưỡng. Sự quán chiếu vô cùng quan trọng để phát sinh trí tuệ. Ví dụ, khi chúng ta đang nói về đề mục này, có thể chúng ta đạt được một phần trí tuệ, cũng có thể không đạt được gì. Bạn không thể cố gắng đẩy trí tuệ này vào tim của bạn, nó chỉ có thể thấm vào tâm của bạn thông qua sự thực hành. Đây là cách thức đúng đắn để trưởng dưỡng chính mình. Câu hỏi: Kính bạch Pháp Vương, có phải không có mối liên hệ nào giữa đời trước và đời này của Ngài? Trả lời: Không, bạn không thể nói rằng không có mối liên hệ giữa đời trước và đời nay của tôi. Sự liên hệ vẫn rõ ràng ở đó bởi vì bạn vẫn là bạn, vẫn chỉ là một mà thôi. Sự khác biệt duy nhất chỉ là thân tướng thay đổi. Giống như trong một vở kịch, bạn thay trang phục và đeo một chiếc mặt nạ. Sau đó bạn lại đổi trang phục khác và đeo một chiếc mặt nạ khác. Sự liên hệ giữa đời trước và đời sau cũng tương tự như vậy. Trong những đời trước, có thể bạn đã từng là một con chó hay một con chim, nhưng đời này sắc tướng đã thay đổi, bạn trở thành một con người. Đương nhiên, bạn không thể nhớ được do khoảng cách về thời gian, do vô minh và do nhiều thứ khác. Nhưng đối với những người có trí tuệ và sự tỉnh thức, họ có thể nhớ được rất nhiều chuyện. Có rất nhiều những người như vậy, thậm chí họ là những người bình thường, không hẳn là những bậc hóa thân tôn kính hay những vị thánh nhân, họ vẫn nhớ về các đời trước của mình rất rõ ràng. Có một số người có thể kể lại những sự việc về đời trước của họ dưới sự chứng thực của người khác. Như vậy đây chỉ là một câu hỏi về việc bạn có nhớ hay không mà thôi. Ví dụ trong trường hợp của tôi, tôi cũng chẳng nhớ sáng nay mình đã ăn gì, thì làm sao tôi nhớ chuyện đời trước? Nếu có sự tỉnh thức, thì ít nhất tôi cũng nhớ mình đã ăn gì sáng nay. Có rất nhiều người đã nói những điều tương tự như vậy nhưng với một thái độ bất cần. Họ nói: “Có sao đâu! Có thể tôi sẽ khổ đau trong đời sau nhưng điều đó chẳng hề hấn gì. Tôi sẽ không nhớ mà cũng chẳng thấy hối hận gì và bây giờ tôi đang thụ hưởng mọi thứ.” Nhưng đây không phải là một thái độ đúng đắn vì khi quả khổ chín, lúc đó sẽ trở nên quá muộn. Như những người tàn tật, mù lòa đang chịu đau khổ trong hiện tại. Đã quá muộn, họ không thể làm bất cứ điều gì để thay đổi tình trạng hiện tại bởi quả khổ của họ đã chín mùi. Họ không thể nói “Có sao đâu!” khi họ đang thực sự đau khổ. Người đang chịu khổ đau trong đời này chỉ là một với người gieo nhân của đời trước, đó chỉ là sự liên tục của cùng một dòng tâm thức. QUY Y “Quy y” và “Bồ đề tâm” là những thuật ngữ đặc trưng của đạo Phật. Sự thực hành đặc biệt về Quy y và Bồ đề tâm của Phật giáo là một điểm khởi đầu của con đường tâm linh. Bồ đề tâm là động lực cho con đường tâm linh của bạn. Để bắt đầu Quy y, chúng ta nên có một thái độ đúng đắn (chính kiến). Để Quy y chúng ta cần phải có trí tuệ xả ly từ bên trong. Trí tuệ hiểu biết về bản chất của luân hồi, của khổ đau, của hạnh phúc và của đời sống thường nhật là vô cùng quan trọng. Nếu bạn không hiểu gì về những điều này, thì cho dù bạn có thọ Tam Quy và Giới nguyện hay tự gọi mình là hành giả tâm linh, thiền giả hay Phật tử, điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì bạn không làm gì cả. Trí tuệ (chính kiến) rất quan trọng cho tất cả mọi việc, và đặc biệt quan trọng hơn nếu bạn muốn bước vào con đường tâm linh, bởi vì một người phải hiểu rõ toàn bộ những gì đang xảy ra trong cuộc đời của mình. Nếu bạn hiểu rõ về cuộc sống của mình, thì bạn sẽ nhậm vận hướng theo con đường tâm linh. Không có vấn đề gì dù bạn hiểu hay không hiểu về sự khác biệt giữa các tôn giáo như Đạo Phật, Thiên Chúa giáo, v.v.., bạn sẽ thực sự cảm thấy những sự thay đổi bên trong tâm của bạn. Nếu bạn đã biết một vài điều về một con đường tâm linh cụ thể, thì tất nhiên bạn sẽ cảm thấy một sự hấp dẫn đặc biệt hướng về con đường tâm linh đó. Thậm chí nếu bạn chẳng có khái niệm nào về con đường tâm linh thì bạn vẫn có những cảm nhận đặc biệt bên trong. Chúng ta có thể gọi những cảm thọ này là “sự xả ly”. Đây là sự xả ly bên trong. Bạn đang bắt đầu xả ly và đó là điều cần phải có. Sự xả ly này chính là điều chúng ta đang thiếu. Cảm thọ về sự xả ly sẽ thúc đẩy bạn quy y Nói một cách ngắn gọn, hiểu biết về toàn bộ cuộc sống sẽ làm nảy sinh một vài cảm nhận đặc biệt bên trong bạn, đó là sự xả ly. Bước kế tiếp là Quy y. Cảm nhận rõ ràng về sự xả ly sẽ thúc đẩy bạn thọ giới nguyện Quy y với một bậc thầy giác ngộ. Điều này sẽ xảy ra một cách tự nhiên bởi bạn sẽ nhận ra rằng mọi thứ trong cuộc đời của bạn và thế giới bên ngoài đều không phải là nơi nương tựa. Do đó, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn cần một nơi trú ẩn, một nơi nương tựa. Đây là bước kế tiếp hay sự cảm nhận tiếp theo trong dòng tâm của bạn. Nếu bạn không hiểu biết về những gì đang xảy ra trong cuộc sống thì toàn bộ bầu không khí hay mỗi ngày trong cuộc đời của bạn sẽ bị xô đẩy và trôi trượt trong dòng đời đau khổ. Và bạn sẽ bị chìm trong biển luân hồi, càng ngày càng đắm sâu hơn mà không hề nhận ra được tình cảnh của mình. Đây là đặc điểm của khổ đau. Khi bạn có trí tuệ nhận ra điều này thì chính là lúc bạn muốn thoát khỏi biển khổ luân hồi, bạn sẽ tìm nơi nương tựa Quy y. Có thể bạn không biết gì về sự khác biệt giữa các con đường tâm linh hay sự khác biệt giữa các trường phái tôn giáo nhưng bạn chắc chắn sẽ biết rằng bạn cần phải tìm kiếm một nơi nương tựa đáng tin cậy. Đó là cảm thọ chân thật về sự xả ly. Xả ly không có nghĩa là bạn chạy trốn khỏi gia đình, xã hội Xả ly là một thuật ngữ phổ thông được sử dụng trong mọi tôn giáo, tất cả các bậc thánh nhân đều đã đi qua con đường xả ly và nhờ thế các Ngài đã đạt được giác ngộ. Họ nhận ra được toàn bộ cuộc sống của mình không có nơi nương tựa đáng tin cậy trong kiếp luân hồi, bởi vậy họ tìm kiếm môt con đường tâm linh, một chỗ nương tựa vững chãi. Đây là tiến trình mà chúng ta gọi là sự xả ly. Tất cả các hành giả Yogi, các bậc Thầy, các vị Thánh và các vị tu sĩ đều đạt được giác ngộ sau khi đã xả ly. Tuy nhiên, sự xả ly không có nghĩa là chạy trốn khỏi gia đình và xã hội bởi nếu đó là sự xả ly thì tất cả chúng ta đều có thể làm được; tất cả chúng ta đều giải thoát và sẽ chẳng còn ai sót lại trong cõi luân hồi. Giác ngộ là điều duy nhất chúng ta có thể nương tựa. Bạn có thể suy xét kỹ lưỡng xem điều này có đúng hay không, có gì đáng tin cậy hơn sự giác ngộ hay không. Chúng ta có đủ trí tuệ để tự suy xét về những gì chúng ta được nghe. Bây giờ chúng ta nghĩ rằng bạn bè hay cha mẹ có thể là chỗ dựa. Cha mẹ thì nghĩ rằng con cái có thể là nơi nương tựa hoặc bạn có thể nghĩ rằng: “Ít nhất tôi có thể nương tựa vào chính mình”. Song nếu chúng ta tư duy, suy xét sâu xa hơn, theo kinh nghiệm cá nhân tôi, chúng ta không thể tìm thấy bất cứ thứ gì hay một ai để hoàn toàn nương tựa trên thế gian này. Thậm chí bạn cũng không thể nương tựa vào chính bạn ngay lúc này. Ví dụ, sáng nay tôi đã nói rằng sáng mai tôi sẽ đi Zurich nhưng bây giờ tôi lại nghĩ tôi phải đi lúc 10 giờ. Vì thế, tôi cũng thể tin vào quyết định của chính mình. Quyết định này lẽ ra phải là điều tôi có thể tin, nhưng bây giờ nó không còn đáng tin nữa. Tất cả những gì xuất hiện trong tâm bạn như phiền não, yêu thương, tâm chí thành, lòng quyết tâm v.v... đều không đáng tin. Đây là những đặc điểm của cuộc sống. Chẳng hạn như sáng nay tôi rất vui nhưng giờ thì tôi không vui. Điều này có nghĩa là gì? Như vậy nghĩa là niềm vui của sáng nay cũng hoàn toàn không đáng tin. Tôi có thể nghĩ tôi hạnh phúc nhưng cảm nhận về hạnh phúc sẽ không kéo dài mãi mãi; nhưng chỉ vài giờ sau đó tôi có thể rơi vào tình cảnh vô cùng đau khổ. Bởi thế không có gì đáng tin cậy trên thế giới này. Đây là bản chất thật hay đặc tính của khổ đau, tuy nhiên chẳng có gì phải lo lắng về điều này. Nếu bạn lo lắng về điều này sẽ chỉ thêm đau khổ mà thôi. Thay vì ngồi lo lắng bạn nên tìm một giải pháp để thoát khỏi khổ đau. Giải pháp đó, theo kinh nghiệm của cá nhân tôi và cũng dựa vào các học thuyết và giáo pháp của các bậc giác ngộ. Giác ngộ ở trong tâm của bạn và tiến trình này được gọi là “Quy y” Giác ngộ là điều thực sự bạn có thể đạt được, bởi đó là bản chất tự nhiên của bạn. Giác ngộ là nét đẹp tự nhiên, tuyệt hảo, bền vững và có thể nương tựa. Nhưng hiện tại chúng ta đang ngụy tạo rất nhiều. Do quá nhiều sự phóng chiếu ngụy tạo, bản chất tâm của chúng ta không còn hiện diện một cách tự nhiên nữa, bởi vậy chúng ta không còn định tĩnh và an bình. Vẻ đẹp tự nhiên của chính bạn không còn ở đó, nó bị che lấp dưới bao nhiêu tầng lớp của sự ngụy tạo. Vì thế chúng ta không nên ngụy tạo. Sau khi dứt trừ và thanh lọc sự phóng chiếu ngụy tạo, bạn sẽ nhận ra sự giác ngộ ở bên trong tâm của bạn, và tiến trình này được gọi là “Quy y”. Quy y trong đạo Phật gồm: Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng (Quy y Tam Bảo). Thực chất ý nghĩa của việc Quy y là nương tựa vào giác ngộ, bởi vì bạn đang tìm kiếm thứ gì đó đáng tin cậy, và đó chính là giác ngộ. Khi bạn hiểu rằng giác ngộ là thứ đáng tin cậy duy nhất, bạn hoàn toàn mong mỏi đạt được nó, bạn sẽ có một bức tranh về cái gọi là giác ngộ. Đây là thời điểm bạn cần thận trọng. Một số người có thể nghĩ rằng sự giác ngộ giống như pha lê hay một luồng ánh sáng lớn có thể chiếu khắp toàn bộ thế giới. Điều này không đúng. Một số người, đặc biệt là những Phật tử, họ tưởng ra hình ảnh của Đức Phật khi họ nghĩ về giác ngộ. Một số khác lại tưởng ra một người với bộ râu tóc dài và ngồi bất động. Mỗi loại hình ảnh phóng tưởng khác nhau và họ bám chấp vào những gì họ tưởng tượng ra. Đây không phải là một cách tiếp cận đúng đắn. Khi bạn ở giai đoạn này, bạn phải thực sự thận trọng, vì đây chính là giai đoạn quyết định. Bởi vì trong giai đoạn này, bạn có thể bước vào con đường giác ngộ, nhưng nếu trong giai đoạn này bạn lại có một hình ảnh sai lệch về giác ngộ thì bạn có thể bị lạc lối. Bởi vậy bạn phải thực sự thấy rõ giác ngộ là đại trí tuệ. Sự giác ngộ không có hình tướng, ánh sáng, mùi vị hay màu sắc. Nó không là gì cả và chính bản thân sự thấy biết là giác ngộ. Quy y Phật, bạn nên hiểu Phật chính là giác ngộ Trong thuật ngữ của Đạo Phật chúng ta nói về Phật, Pháp, Tăng. Phật là đối tượng Quy y đầu tiên. Khi bạn thọ giới nguyện Quy y Phật, bạn nên hiểu rằng Phật chính là Giác ngộ. Khi nói về Đức Phật, hầu hết mọi người đều có hiểu sai lệch. Họ chỉ nghĩ rằng danh từ Phật là nói đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã chuyển bánh xe Pháp, giảng dạy triết lí Phật Pháp ở Ấn Độ. Thực ra, chúng ta không chỉ Quy y Đức Phật Thích Ca mà chúng ta còn Quy y tâm giác ngộ của mình. Đây là tinh túy của mười phương chư Phật, tinh túy của tất cả Bồ tát thánh hiền, tinh túy của vạn pháp và tinh túy của chính bạn. Và chúng ta gọi đó là Phật, đây là thuật ngữ của Phật Pháp. Toàn bộ giáo pháp được giảng dạy từ Đức Phật Thích Ca, người đã thực sự đạt được giác ngộ từ hơn 2.500 năm về trước. Bởi thế hồng danh của Đức Phật rất đặc biệt trong thuật ngữ của chúng ta, và đó lí do tại sao chúng ta sử dụng thuật ngữ này. Giáo Pháp thực sự là tiến trình hiểu biết của giác ngộ Khi nói về việc Quy y Pháp, bạn không nên chỉ nghĩ về các học thuyết, kinh điển hay giáo lý. Khi mọi người nghe thuật ngữ “Dharma” (Pháp Bảo), họ luôn luôn tưởng đến hình ảnh của sự tụng niệm ngồi nhắm mắt trước một bàn thờ. Nhưng điều này không hoàn toàn như vậy, mặc dù nó có thể là một phần của Pháp Bảo. Khi tôi còn nhỏ, mỗi khi nhắc đến thuật ngữ Dharma (Pháp Bảo) tôi luôn luôn tưởng đến hình ảnh một cuốn kinh ở trong tâm. Nhưng sau đó, khi nhận ra được ý nghĩa chân thật, tôi tự cười mình. Hình ảnh Pháp Bảo như một quyển kinh không mang đến ý nghĩa gì. Dĩ nhiên đọc kinh sách cũng có thể giúp cho bạn hiểu biết thêm nhiều điều, cho nên chúng ta cũng cần phải tôn kính kinh điển và giáo pháp. Nhưng tất cả kinh điển đều được in bằng giấy mực nên không thể giúp đỡ và bảo vệ bạn. Đây chỉ là một phần của đối tượng Pháp Bảo mà chúng ta Quy y. Pháp Bảo chân thật nhất là toàn bộ tiến trình của trí tuệ giác ngộ. Chúng ta Quy y nương tựa vào tiến trình hay con đường này. Tăng Bảo có nghĩa là tâm của bạn tập trung hoàn toàn vào con đường tâm linh Đối tượng thứ ba của Quy y là Tăng Bảo. Khi tâm chúng ta tràn đầy ước nguyện chân thành tha thiết được thực hành con đường tâm linh để chứng ngộ bản chất tâm chân thật của chính mình (sự giác ngộ), ước nguyện đó được gọi là Tăng. Nói một cách khác, thời điểm này bạn có thể bạn nói chính mình là Tăng (khoảng khắc tâm hành giả tha thiết chân thành muốn thực hành Pháp là thời điểm tâm hoàn toàn thanh tịnh và hòa hợp nên mới được gọi là Tăng - chú ý đây chỉ là phần lý, không giống với phần sự: Tăng phải là người xuất gia, thọ giới, đắp y, sống đời phạm hạnh). Về lý mà nói, Tăng có nghĩa là tâm của hành giả tập trung trọn vẹn vào con đường tâm linh, nên lúc đó hành giả là Tăng, không quan trọng việc hành giả đang thực hành theo pháp môn nào. Việc hiểu kỹ về ý nghĩa cả hai phần sự và lý của Quy y Tam Bảo trong giáo pháp của Đạo Phật là vô cùng quan trọng trước khi Quy y. Tôi luôn luôn nói rằng danh hiệu của Tam Bảo là của Đạo Phật, nhưng ý nghĩa về sự và lý của ba ngôi này có thể được thực hành và được thấu hiểu ngay cả với những người không phải là Phật tử. Bởi vì ý nghĩa căn bản của Tam Bảo là “sự giác ngộ”: tịnh quang phải được tìm thấy ở trong chính bạn. Đây là điều mà mọi người nên trân trọng, bởi đó là bản chất của vũ trụ. Cũng là cái mà tất cả mọi người đều có. Ngay cả mọi loài, cho đến muỗi mòng, cũng có. Đây là lý do tại sao tôi gọi đó là chân lý của vũ trụ, không quan trọng gì nếu bạn tin hay không tin. Hầu hết chúng ta chưa đạt được giác ngộ bởi vì do vô minh, chúng ta đã không cảm nhận và không hiểu được điều này. Tất nhiên, loài muỗi hoàn toàn vô minh, còn chúng ta (loài người dường như rất thông minh và sáng suốt) nhưng cũng rất vô minh trong phương diện này. Thậm chí nếu bạn không tin vào bất cứ điều gì, thì đó cũng vẫn là một quy luật thiên nhiên muôn đời như vậy. Không có con đường nào ra ngoài quy luật đó. Điều này không có nghĩa là chúng ta ép buộc những người không tin phải tin theo. Không, tôi không muốn nói như thế. Chúng ta không thể ép buộc bất kỳ ai. Quy y là bước đầu hướng tới giác ngộ Giả sử thần kinh tôi có vấn đề bất ổn và tôi không thể phân biệt được mình đang đứng ngoài trời hay trong nhà, mặc dù chúng ta đang ở bên trong. Song tôi lại thấy như mình đang ở bên ngoài. Và rồi tôi cố thuyết phục rằng chúng ta đang ở ngoài. Có thể bạn rất tốt bụng nên đã không tranh cãi với tôi. Bạn có thể nói, “Ồ không sao, Ngài nói chúng ta đang ở bên ngoài, không có vấn đề gì cả, hãy để Ngài như vậy.” Rõ ràng chúng ta đang ở bên trong, song các tri kiến của tôi cứ cho rằng tôi đang ở bên ngoài. Cho dù tôi có cố sức tranh cãi mình đang ở bên ngoài thì sự thật tôi vẫn đang ở trong nhà. Đây chỉ là một ví dụ. Khi nào bạn vẫn còn đang ở trong thế giới này, chân lý vũ trụ vẫn trải khắp như hư không và bạn không thể từ chối nó. Nó vẫn ở đó. Đó là ý nghĩa điều tôi nói. Cho nên Quy y là bước đầu tiên hướng đến giác ngộ. nguồn: http://drukpavietnam.org
  23. KIM TỰ THÁP AI CẬP Bài 1: Tín Ngưỡng Vãng Sinh ở người Ai Cập Cổ Đại Bài 1: TÍN NGƯỠNG VÃNG SINH Ở NGƯỜI AI CẬP CỔ ĐẠI Biên khảo: Đức Chính Sống và chết là một vấn đề trọng đại của kiếp người. Hầu như tất cả các tôn giáo ra đời cũng vì do đó. Tín ngưỡng của Ai Cập cổ đại không thoát ra khỏi quy luật tâm thức tất yếu của loài người, tức trả lời câu hỏi: “Sau khi chết con người đi về đâu và sẽ ra sao?”, và hẳn nhiên nó gắn liền với nơi gửi thân xác của các Pharaohs sau khi băng hà: Kim Tự Tháp. Cho nên không thể không hiểu về nền văn hóa tín ngưỡng này khi đi lần mò vào những bí ẩn cửa Kim Tự Tháp. Tín ngưỡng, hay cao hơn là một tôn giáo, là sản phẩm tâm thức suy tưởng của con người về cuộc sống trong trạng thái hướng về siêu nhiên. Nhưng sự trầm tư suy tưởng đó không thoát rời khỏi thực tế cuộc sống đang diễn ra trước mắt. Khi con người đứng trước một ngọn núi hung vĩ, trong tâm thức thấy mình nhỏ bé và yếu ớt trước sự vĩ đại của thiên nhiên, đã suy tưởng đến vị sơn thần đầy quyền phép. Không có ngọn núi đó không có vị sơn thần, tương tự người dân sống vùng hải đảo không núi non chẳng hề có sơn thần trong tâm thức mà thay vào đó là hải thần. Người Ai Cập cũng vậy. Họ sống trong một bối cảnh tự nhiên hàng năm con sông Nil cứ dâng lên tràn ngập các cánh đồng. Tự nhiên có những trùng hợp của nó: thời điểm con nước sông Nil tràn bờ chính là lúc sao Sirius bắt đầu xuất hiện trên bầu trời Ai Cập. Kinh nghiệm tồn tích cho người Ai Cập cổ đại biết cứ đến lúc sao Sirius mọc ngay trước Mặt trời ló dạng là vào mùa lũ lụt. Nên họ sao này là Sao sông Nil hoặc gán cho vị thần Isis (gọi là Sao Isis). Việc thờ cúng sao Sirius được hình thành vào một thời điểm nhất định trong năm, tương tự như vùng Á Đông tế Nam giao vậy. Từ thời cổ đại người Ai Cập đã xây dựng ngôi đền Isis-Hathor ở Denderah. Tại ngôi đền này có ngôi tượng thần Isis, hướng về phía sao Sirius sẽ mọc lần đầu tiên trong năm, ngôi sao sẽ xuất hiện ngay điểm ngắm hòn ngọc đính trên tượng thần. Hàng năm các tu sĩ Ai Cập sẽ ngắm vào hòn ngọc đó chờ sự ló lên của sao Sirius ngay vị trí này và loan báo cho mọi thần dân biết. Thần Isis, hay thần sao Sirius, là nữ thần sáng tạo chủ về sự phồn vinh và tình mẫu tử. Trong Tử Thư Ai Cập, thần Isis được ghi chép “Là nữ thần đã sinh ra Trời và Đất; Thần thấu hiểu cho cô nhi quả phụ, ban công lí cho người nghèo, và che chở kẻ yếu”. Cuộc sống sau khi chết sẽ trải qua nhiều giai đoạn cam go chép trong các kinh thư về cái chết và họ cầu mong nữ thần Osis che chở cho họ. Kinh thư về cái chết có thể kể đến là: - Tử Thư Ai Cập: phiên bản cổ nhất cuốn sách này có niên đại vào khoảng những năm 1580-1350 trước Công nguyên, tập hợp lại từ hai bộ Quan Quách Thư, là sách chép lạo các bản văn khắc chạm trên quan quách các Pharaohs (năm 2000 trước Công nguyên) và Kim Tự Tháp Thư, các văn bia chạm trên vách Kim Tự Tháp (khoảng năm 2600-2300 trước Công nguyên). Trong sách ghi lại các kinh, thần chú và những chỉ dẫn cho người quá cố đến cuộc sống khác sau khi chết. Trông sách cũng nói về các thử thách đối với người chết trước sự phán xét của thần Phán xét Thoth. Một trong những thử thách là cân trái tim người chết với một cọng lông hồng. Nếu người chết càng nhiều tội lỗi thì sẽ càng nặng hơn cọng lông. Nếu tội lỗi quá nhiều quỷ Ammit sẽ ăn mất quả tim bất chính đó. Trái tim là nơi chứa đựng tâm linh nên khi đó linh hồn sẽ bị lạc lỏng trầm luân. Còn nếu là tâm hồn chân chính sẽ được thần Anubis phết tẩm hương thơm để sống cuộc sống vĩnh hằng. Tục ướp xác (tẩm hương thơm bảo quản xác chết) từ tín ngưỡng này mà ra đời. Để tránh điều đó, Tử Thư chỉ dẫn những cách tổ chức lễ nghi cúng tế và an táng người chết, cùng các thần chú bảo vệ vong linh. Các chỉ dẫn này được minh họa rất nhiều hình ảnh, đó chính là nét đặc sắc chung của cổ thư Ai Cập.nguồn: http://khanhhoathuynga.wordpress.com - Quan Quách Thư (coffin texts): hay còn gọi là Sách Hai Con Đường (The Book of Two Ways): hồi sinh và lên trời. Quan Quách Thư là những bản khắc trên quan quách có từ thời các Thời vương quốc cổ (năm 2500-2100 trước Công nguyên), phát triển mạnh vào thời vương quốc thứ hai (năm 1975-1640 trước Công nguyên) cùng với việc xây dựng rầm rộ các Kim Tự Tháp vào thời đó. Chủ yếu là những câu thần chú bảo vệ các vong linh. Bộ các bản khắc trên quan quách cổ nhất được tìm thấy ở ốc đảo Dakhla, có niên đại vào thời vương quốc cổ; bản ở Saqqara thuộc triều đại thứ 8; còn bản tìm thấy ở vùng châu thổ Aswan thuộc triều đại thứ 12. - Kim Tự Tháp thư (Pyramid Texts): là những bức chạm chữ cổ Ai Cập và hình ảnh minh họa trên vách nội thất các Kim Tự Tháp. Dĩ nhiên niên đại của nó cũng là niên đại của Kim Tự Tháp, bộ cổ nhất có từ thời vương quốc cổ (năm 2500-2100 trước Công nguyên). Những bản khắc trên vách này miêu tả cuộc sống sau cái chết của con người dưới góc nhìn của người Ai Cập thời đó. Nội dung đáng chú ‎í là chủ đề “Mở cánh cửa kép của Thiên đường” Người qua đời phải biết nương theo những vì tinh tú, như những nấc thang, để lên đó. Cùng với cách thức để mở cánh cửa Thiên đường, nơi họ sẽ sống mãi mãi. Cách bố cục của những kinh sách này có nét hao hao ở các bộ kinh Vệ Đà của Ấn Độ. Kinh Vệ Đà cũng có nhiều bộ, có bộ nặng về các thần chú (Sâma Véda tức Sa-ma Vệ-đà 沙摩吠陀; Hán dịch “Ca Vịnh Minh Luận”), có bộ nặng về các nghi lễ cúng tế (Yajur Véda tức Dạ-nhu Vệ-đà 夜柔吠陀; Hán dịch “Tế Tự Minh Luận”), … Tuy nhiên bộ kinh Vệ Đà có niên đại trễ hơn nhiều (vài trăm năm, thậm chí cả ngàn năm). 1.- Từ tín ngưỡng vãng sanh … Người Ai Cập cổ đại tin hai điều: có sự hồi sinh sau khi chết một thời gian và một cuộc sống khác trên thượng giới. Cái chết đối với họ chỉ là một sự gián đoạn tạm thời của sự sống chứ không là sự chấm dứt mãi mãi. Nếu chỉ là tạm thời tức có lúc phải hồi sinh. Khi hồi sinh đòi hỏi trước tiên thân xác phải còn nguyên vẹn: tục ướp xác ra đời và gắn liền với kiến trúc Kim Tự Tháp. Xuất phát từ quan niệm tín ngưỡng nên kỹ thuật ướp xác không thoát rời khỏi các lễ nghi tôn giáo về tang ma. Và như đã nói ở trên, ướp xác nghi thức thừa nhận người đã khuất có tâm hồn thánh thiện của thần Anubis, tức được thừa nhận một cuộc sống mới vĩnh hằng. Một nghi thức tang ma tiến hành đồng thời với các công đoạn ướp xác kéo dài 70 ngày. Trước khi tiến hành ướp xác các tu sĩ sẽ làm một số lễ nghi tôn giáo suốt 7 ngày. Sau đó, các cơ quan nội tạng được lấy ra khỏi cơ thể, riêng não lấy ra vào đường lỗ mũi. Phần còn lại của thân xác được làm khô trong hỗn hợp muối natron. Khi đã hoàn thành việc ướp xác, thi hài sẽ được quấn trong các lớp vải và phết các chất thơm, rồi đặt vào trong chiếc quan tài mang hình người. Nội tạng lấy ra trong cơ thể không bỏ đi mà cất giữ trong bốn chiếc tiểu (canopic jars) làm bằng đất nung hay bằng đá đục. Bốn chiếc bình này có nắp chạm hình đầu người, đầu khỉ, đầu chim ưng và đầu chó rừng. Đó là 4 con trai của thần Horus có nhiệm vụ bảo vệ linh hồn người chết. Tiểu đựng nội tạng xác ướp Quan tài hình người Chiếc quan tài đó lại được đặt trong một cái quách bằng gỗ hay bằng đá có khắc chạm những câu phù chú như đã nói ở phần Quan Quách Thư. Quách đựng quan tài bên trong Cũng cần nói thêm khi quấn vải cho xác ướp xong người ta còn đeo thêm cho xác ướp một chiếc mặt nạ. Theo phong tục Ai Cập, chiếc mặt nạ này phải chạm giống khuôn mặt của người đã qua đời. Họ cho rằng chiếc mặt nạ này làm linh hồn người chết thêm vững mạnh khiến ma quỷ phải sợ hãi tránh xa. Mặt nạ xác ướp Khi thực hiện nghi thức ướp xác, vị tu sĩ phải đeo mặt nạ thần đầu chó rừng Anubis (con của thần Orisis; vị thần bảo hộ người chết và mang người chết về bên kia thế giới). Vị tu sĩ sẽ đọc những đoạn kinh nói về sự phán xét nơi bên kia thế giới, kể cả việc thần Anubis tẩm hương thơm cho vong linh người ngay thẳng. Tiếp đến là việc bọc vải và tẩm hương vào xác ướp. Khi việc xác ướp hoàn tất, vị tu sĩ sẽ đọc những đoạn kinh nói về các vị thần trên trời nương theo tinh tú di chuyển như thế nào và hướng dẫn vong linh người chết theo đó mà lên trời. Đường di chuyển đó trọng tâm noi theo thần Mặt trời Ra vào ban ngày, và thần Isis (tức sao Sirius) vào ban đêm. Pharaohs được người Ai Cập cổ đại tin là hóa thân của một vị thần, tương tự như Đạt Lai Lạt Ma ở Tây Tạng hay Nữ Thần sống Kumari ở Nepal. Với vị thế tâm linh đó, lễ tẩn liệm một vị pharaoh phải do tu sĩ Ai Cập cao cấp nhất cử hành. 2.- … đến cấu trúc Kim Tự Tháp. Kim Tự Tháp vừa là lăng mộ vừa là nơi thờ một vị pharaoh. Xin nhắc lại; theo tín ngưỡng Ai Cập cổ đại, mỗi vị pharaoh là hóa thân của một vị thần, nên Kim Tự Tháp có cấu trúc như một đền thờ. Đền thờ ở Ai Cập tuân thủ theo giới luật Maat, nếu không thì thần linh không ngự trị trong ngôi đền nữa vì đền thờ là trung tâm của vũ trụ và là nơi giao tiếp với thần linh. Giới luật này còn quy định ngôi đền Ai Cập phải có 2 khu: khu ngoài dành cho tín đồ và các tu sĩ cấp thấp; khu trong chỉ có các vị tu sĩ cao cấp mới được vào. Đặc biệt phòng trong cùng chỉ có vị giáo chủ và pharaoh mới được phép. Chính nơi phòng trong cùng đó chứa đựng nhiều thư tịch bí truyền và tượng thần linh. Con đường dẫn vào các khu là những hành lang (galaries) chạm đầy hình ảnh và có các pho tượng dọc hai bên. Thường ở hành lang Kim Tự Tháp không có tượng thần nhưng có nhiều hình khắc mô tả cuộc sống sau cái chết cùng các kinh văn liên quan (nhất là ở các gianphòng bên trong Kim Tự Tháp). Nó như là kim chỉ nam để các pharaoh không lạc lối khi tìm đường về trời. Nội thất Kim Tự Tháp cũng theo mô thức đó, cũng có tượng nhân sư phía trước như nhiều khu đền (tiêu biểu là đền Luxor ở Thebes). Tuy nhiên hình thái tổng quan bên ngoài không giống đền thờ như chúng ta thấy. Xây dựng thành hình chóp bốn mặt tam giác ắt phải có một í nghĩa nhưng đến nay chưa có lời giải đáp thỏa đáng vì sao. Khu ngoài Kim Tự Tháp chính là gian sảnh đã mô tả trong hình vẽ ở “Lời Nói Đầu”, và thay cho phòng trong cùng của đền thờ là nơi để xác ướp của pharaoh. Bên dưới nữa thường có một gian ngầm, có Kim Tự Tháp gian ngầm đó được đào sâu đến tầng đá móng của Trái Đất. Theo các nhà nghiên cứu gian ngầm dùng để chứa các báu vật mang theo cho các vị pharaohs sử dụng. Nhiều Kim Tự Tháp có bố trí cả những gian quàng thu hài hoàng hậu và phi tần nằm một bên phòng quàn xác ướp pharaoh. Kim Tự Tháp thường có hai đường ống thông chỉa thằng lên phương bắc bầu trời (bắc thiên cầu). Một đường ống đi vào phòng của hoàng hậu nằm ở dưới và một đường ống đi vào phòng quàn xác ướp Pharaoh nằm ở trên. Bắc thiên cầu là nơi hội tụ chòm sao Bắc Đẩu mà người Ai Cập gọi là những vì sao bất tử bởi nó luôn luôn xuất hiện chứ không lặn đi như một số tinh tú khác. Đường ống hướng đến chòm Bắc Đẩu luôn xuất phát từ phòng quàn xác ướp Pharaoh, người Ai Cập tin rằng đó là những bậc cầu thang đưa vị Pharaoh băng hà lên trời. Nơi thần linh ngự chính là vùng cực bắc thiên cầu mà người Trung Hoa gọi đó là Tam Viên. Tuy nhiên đây chỉ là những kiến thức sơ đẳng về Kim Tự Tháp. Cho đến ngày nay loại kiến trúc này vẫn còn tồn đọng nhiều ẩn số làm các nhà khoa học nát óc. nguồn: http://khanhhoathuynga.wordpress.com/ (còn tiếp)
  24. KIM TỰ THÁP AI CẬP BÀI 2 :Các Kim Tự Tháp ở Ai Cập Biên khảo: Đức Chính G.- Thung lũng các vì vua: Là nơi suốt 500 năm làm nơi an táng các pharaohs và quý‎ tộc quyền thế từ triều đại thứ 18 đến triều đại thứ 20 (thời vương quốc mới). Có nghĩa là thời đại Kim Tự Tháp đã chấm dứt. Thung lũng này nằm ở bờ tây sông Nil, tâm là vùng mộ địa Theban và băng chéo qua Thebes (nay gọi là Luxor). Từ cuối thế kỷ 18, nơi này trở thành tâm điểm thu hút các nhà khảo cổ học và Ai Cập học khắp thế giới. Nó càng gây ồn ào trong giới học giả hơn khi khám phá ra ngôi mộ của Tutankhamun. Đến năm 1979, khu này được công nhận Di Sản văn Hóa Thế Giới. Ở đây đã phát hiện khoảng 60 ngôi mộ, niên đại cao nhất là mộ của Thutmose I và sau cùng là mộ của Ramesses X (cũng có thể là XI). Thung lũng chia làm 2 vùng Đông và Tây; được tham quan nhiều nhất là vùng phía Đông vì tại đây phát hiện đa số các ngôi mộ của những pharaohs thời Vương quốc mới. Cũng nói thêm cuốn Tử Thư (cuốn kinh có niên đại thấp nhất) được phát hiện tại Thung lũng này. Hầu hết các ngôi mộ đều khoét vào trong đá vôi theo một mô hình chung khá giống Kim Tự Tháp: có ba hành lang, một tiền phòng và một phòng quàn xác ướp (người Việt hay gọi là tẩm). Chính yếu tố này cho thấy tín ngưỡng Kim Tự Tháp bị thay thế không phải vì có thay đổi về quan điểm tôn giáo, mà chủ yếu do hoàn cảnh kinh tế xã hội thời này có nhiều bất ổn. Lúc ấy quyền lực bị phân tán[1] và cuối cùng kết thúc vương quốc Ai Cập bằng sự đô hộ của người Hy Lạp và La Mã (thời La-Hy). Thời gian xây dựng mỗi ngôi mộ cũng ngắn đi rất nhiều (lâu nhất là 6 năm) và cũng khởi đầu từ lúc một vị tân pharaoh đăng quang. Qua triều đại thứ 21 và thời kỳ chuyển tiếp thứ 3, nhiều ngôi mộ nơi này bị cướp phá và xác ướp bị di chuyển đi nơi khác. 1.- Thám hiểm Thung lũng các vì vua: việc thám hiểm khu vực này được bắt đầu từ phong trào săn tìm đồ cổ, sau đó giới khoa học mới vào cuộc và nghiên cứu hướng bảo tồn. Trước thế kỷ 19 con đường đi từ Châu Âu đến Thung lũng rất khó khăn và tốn kém, chỉ có những người hết sức táo bạo mới đủ dũng khí thực hiện. Dữ liệu có ghi chép vào năm 1726 có một người tên Claude Sicard đến đây, nhưng những ghi chép còn mù mờ nên chẳng rõ đúng là Thung lũng các vì vua hay chỉ là khu Kim Tự Tháp Memphis. Mãi đến năm 1747, Sicard cùng với Richard Pococke được thừa nhận đã đến Thung lũng này nhờ công bố tấm bản đồ khu vực. Năm 1799, đoàn thám hiểm Napoléon hoàn chỉnh tấm bản đồ này và vẽ các sơ đồ những ngôi mộ nhưng chỉ là vùng phía Tây ít di chỉ. Suốt thế kỷ 19, các đoàn thám hiểm Châu Âu không ngừng nghiên cứu vùng này. Đầu thế kỷ này, Belzoni, làm việc cho công ty Henry Salt, phát hiện ra nhiều ngôi mộ; năm 1816 tìm ra mộ Seti I và năm sau là ngôi mộ mang ký‎ hiệu KV17. Năm 1827, John Gardiner Wilkinson được cho là người đã vẽ lối vào các ngôi mộ mã hóa từ KV1 đến KV21 (dù trên các bản đồ của ông ghi chú đến 28 ngôi mộ). Công trình này được công bố năm 1830 với nhan đề The Topography of Thebes and General Survey of Egypt (Địa Hình vùng Thebes và Quan Trắc Tổng Thể Ai Cập). Năm 1829, Champollion đích thân thăm viếng Thung lũng cùng với Ippolitio Rosellini. Chuyến đi này kéo dài hai tháng để nghiên cứu các ngôi một đã bị khai mở (chỉ thực hiện với 16 ngôi mộ). Giá trị của chuyến đi này là xác định chủ nhân từng ngôi mộ và mô tả lại những nghiên cứu hiện vật. Tại ngôi mộ mã số KV17 hai người đã lấy đi một bức vách có hình trang trí mà hiện nay đang trưng bày tại viện Bảo tàng Louvre, Paris. Trong 1845 – 1846 Thung lũng được thám hiểm bởi đoàn Carl Richard Lepsius, họ nghiên cứu 25 ngôi mộ ở phía Đông và 4 ở phía Tây. Nửa thế kỷ 18 còn lại có rất nhiều nhóm tìm đến Thung lũng này với mục đích tìm cổ vật hơn là nghiên cứu; chẳng hạn như nhóm Eugéne Lefébre năm 1883, Jules Balliet và George Bénédite năm 1888, Victor Loret từ năm 1898 đến năm 1899, …. Nạn săn tìm này cũng góp phần hiểu biết thêm về ngôi mộ mã số KV9 và KV6. Riêng Loret đã góp thêm vào danh sách 16 ngôi mộ mới và thám hiểm nhiều ngôi mộ lúc ấy còn trong màn bí ẩn. Đến khi Gaston Maspero được tái bổ nhiệm làm Giám đốc Cơ quan Cổ vật Ai Cập (Egyptian Antiquities Service), tính chất thám hiểm vùng Thung lũng có diễn biến mới. Maspero bổ nhiệm Howard Carter làm chánh thanh tra vùng Thượng Ai Cập, và chàng trai trẻ này phát hiện thêm nhiều ngôi mộ mới cùng thám hiểm nhiều ngôi mộ khác, trong đó có mộ mang mã số KV42 và KV20. Qua thế kỷ 20, một người Mỹ Theodore Davis tên là được cấp phép khai quật khu vực Thung lũng. Đoàn của ông ta (chủ yếu do Edward R. Ayrton chỉ huy) tìm thêm được nhiều ngôi mộ mới (vừa của hoàng tộc, vừa không thuộc hoàng tộc), quan trọng nhất là các ngôi mộ mã số KV43, KV46 và KV57. Năm 1907 đoàn này phát hiện thêm mộ KV55, có lẽ thuộc thời kỳ Amarna. Sau khi tìm ra ngội mộ của dòng họ Tutankhamun (KV61), đoàn này tuyên bố cả Thung lũng đã được khai quật hết rồi. Đó là tuyên bố sai lầm vì Howard Carter nối tiếp khám phá thêm mộ khác của dòng họ Tutankhamun (KV62) vào tháng 11 năm 1922. Cuối thế kỷ 20, Dự Án Lập Bản Đồ vùng Thaben (Theban Mapping Project) phát hiện thêm quy mô của ngôi mộ KV55, ngôi mộ này từ đó được coi là ngôi mộ bề thế nhất từng được phát hiện và có thể là nơi an táng các con trai của Ramesses II. Nơi này rồi nơi khác trong khu vực phía Động và phía Tây, đoàn còn tìm ra nhiều ngôi mộ mới. Năm thứ nhât của thế kỷ 21 được đánh dấu bởi các dấu vết nhiều ngôi mộ nhờ công của cơ quan Dự Án Lập Bản Đồ vùng Thaben (Theban Mapping Project). Ngày 08 tháng 02 năm 2006, các nhà khảo cổ người Mỹ đã phát lộ một ngôi mộ thuộc kỷ nguyên pharaoh (KV63). Đây là một ngôi mộ pharaoh của dòng họ Tutankhamun thuộc triều đại thứ 18; trong đó 5 xác ướp còn nguyên vẹn nằm trong quách. Bên cạnh còn nguyên các mặt nạ xác ướp và các bình đựng phủ tạng còn nguyên dấu niêm của các pharaohs. 2.- Trang trí và di vật trong các ngôi mộ: Hình trang trí trong các ngôi mộ hết sức đa dạng, chủ yếu là các kinh thư tôn giáo khắc trên vách hầm mộ và quách đựng xác ướp (chúng được tập hợp lại thành cuốn Tử Thư). Phong cách này không khác với truyền thống Kim Tự Tháp. Dưới đây là một vài bức hình: Ba vị thần này có liên quan đến việc dẫn dắt người chết qua thế giới mới. Đây không thuần túy là hình vẽ minh họa mà là một thứ chữ cổ của Ai Cập. Việc giải mã chúng có khá nhiều điều lý‎ thú sẽ nói đến ở phần sau. Ngoài ra còn thấy có những cái vò đựng nội tạng của xác ướp (lối ướp xác của Ai Cập moi hết não và phủ tạng ra, chúng đựng trong các vò kê gần quách đựng xác ướp) Mặt nạ xác ướp không hề thiếu theo nghi lễ của Ai Cập cổ đại Cùng với tượng vị Pharaoh chủ nhân ngôi mộ và hoàng hậu (nếu có). 3.- Các ngôi mộ Pharaohs nổi tiếng ở Thung lũng các vì vua: - Mộ Ramesses III: ngôi mộ của ông có biệt danh “Lăng Hạc Cầm Tử” do bên mộ có hai bức tượng thần trông giống người đang chơi đàn hạc (harp). Dọc hành lang chính có 10 gian phòng cất đồ tế tự cho vị vua này. - Mộ Ramesses IV: mộ có hành lang bằng đá trắng dẫn thẳng xuống phòng quàn xác ướp. Nóc gian phòng này có hình ảnh nữ thần Nut. Nắp quách bằng đá granit hồng trang trí hình thần Isis và Nephthys, là hai vị hộ thần canh giữ xác ướp theo tín ngưỡng Ai Cập cổ đại. - Mộ Ramesses IX: có hai cầu thang dẫn xuống ngôi mộ đều trang trí hình vị Pharaoh này đang cầu nguyện trước dĩa biểu tượng Mặt trời, hai bên vua là 2 vị thần Isis và Nephthys theo bảo vệ. Mộ có ba hành lang đều dẫn đến tiền phòng của nơi quàn xác. - Mộ Ramesses VI: vốn do Ramesses V. Mộ có 4 phòng, phòng thứ 4 có dựng thêm cột quàn xác ướp Ramesses VI. Trong mộ chạm nhiều kinh thư tôn giáo, phòng thứ tư khắc Tử thư vào các cột cùng cảnh các nữ thần trên thiên giới. - Mộ Merneptah: lối xuống dốc đứng theo phong cách tiêu biểu của triều đại thứ 19. Lối vào có hình hai vị thần Isis và Nephthys đang cầu nguyện trước Dĩa Mặt Trời. Hành lang có chạm kinh thư tôn giáo. Nắp quách làm bằng đá granit hồng chạm hình pharaoh Merneptah theo hình dáng thần Osiris. - Mộ Seti I: là mộ dài nhất hiện tìm thấy (100m). Trong mộ có 11 phòng, chạm đầy kinh thư và hình ảnh thần linh. Phòng hậu có chạm hình Nghi Thức Khai Miệng (giống nghi thức phạn hàm của người Việt). Đây là một nghi thức quan trọng giúp người quá cổ không phải đói khát khi đi qua thế giới bên kia. - Mộ Tuthmose III: mộ nằm mút phía Tây Thung lũng và là mộ có niên đại cổ nhất ở nơi này. Phòng quàn xác ướp hình bầu dục có nhiều hình ảnh hơi khác lạ so với truyền thống. Ngoài ra còn có hai phòng nhỏ trang trí hình ảnh các tinh tú. - Mộ Amenhotep II: cầu thang đi xuống khá dốc và một hành lang dẫn thẳng đến phòng quàn. Trong phòng quàn, một bên tường có xác ướp của Tuthmosis IV, Amenhotep II và Seti II; bên mặt tường kia có 9 xác ướp khác chưa xác định được thân thế. ***** Di sản Ai Cập này vẫn còn và chúng là đối tượng gây hao tốn rất nhiều giấy mực. Có lẽ trên thế giới Kim Tự Tháp là công trình nhân tạo gây nhiều tranh cãi nhất. Không chỉ chúng là bài toán đố về mặt kiến thức xây dựng, mà bên trong còn hàm chứa một nền văn minh hiện đang bị phai mờ. Giải mã chúng biết đâu sẽ giúp hé mở câu hỏi nguồn gốc các nền văn minh nhân loại khác. Và loài người biết đâu chẳng tìm được câu trả lời chung về nguồn gốc của mình. (còn tiếp).