Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. (tiếp theo) 2.7 Sân bay quốc tế thủ đô Bắc Kinh sắp hoàn tất do KTS hàng đầu về công nghệ cao thế giới người Anh là Norman Foster thiết kế, mang dáng dấp “rồng bay” (phi long). Ông là người mới đoạt giải kiến trúc Pritzker cao quí (tương đương giải Nobel ngành kiến trúc). Nó trông giống hai chữ Y ghép lại, thể hiện hình tượng hai chữ “nhân” (người). Một đầu là nơi đón đưa của các phương tiện vận chuyển trên mặt đất (xe lửa và xe hơi), còn đầu kia là để đón nhận máy bay đến từ các vùng trời khác nhau trên thế giới. 2.8 Trụ sở Truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV, do KTS thời danh người Hà Lan Rem Koolhaas, từng đoạt giải kiến trúc Pritzker năm 2000, thiết kế. Tháp truyền hình cao 230m gồm hai tháp gắn kết nhau ở phần đế dưới cũng như phần trên đỉnh bằng hai cánh hình chữ V sắp ngược nhau. Ông đã chọn giải pháp thực hiện một lớp vỏ bọc bằng kính bên ngoài, sử dụng vừa làm kệ sách vừa che chắn ánh nắng, đồng thời trang trí màu sắc vui tươi. 2.9 Và một công trình mang tầm tham vọng cao hơn: tòa nhà REN. Với thiết kế hình chữ "Nhân" (người) đặc biệt, toà nhà REN bao gồm hai toà nhà trong một. Tòa nhà thứ nhất, nhô lên từ mặt nước dành để vận động thân thể và làm một trung tâm văn hóa dưới nước. Tòa nhà thứ hai, mọc lên từ đất liền dành cho hoạt động tinh thần, khai sáng và dùng làm trung tâm hội nghị và bố trí các chỗ họp hành. Lên trên, hai toà nhà gộp lại thành một khách sạn có tới 1.000 phòng và tạo thành hình chữ "nhân" (tiếng Trung Quốc). Được biết REN sẽ có một mái vòm, nơi đó tạo ra một quảng trường để công chúng tụ tập và đây sẽ là khu vực chính của cuộc triển lãm trông ra sông HuangPu. Các kiến trúc sư đã thiết kế quảng trường này không bị mưa ướt nhưng ánh sáng mặt trời vẫn chiếu qua được từ phương Đông vào buổi sáng và từ phương Tây vào buổi chiều. Tóm lượt: REN - Peoples Building Địa điểm:Khu vực tổ chức triển lãm thế giới, Thượng Hải, Trung Quốc Thời điểm hoàn thành:2010 Giá trị đầu tư ước tính: €1,100m (một tỷ một trăm triệu euro) Quy mô: Tòa nhà REN : 50.000m² Các tòa nhà phụ: 500.000m² Tòa nhà REN được đề xuất làm khách sạn, trung tâm hội nghị và giải trí vào dịp Triển lãm thế giới World Expo tổ chức năm 2010 tại thành phố Thượng Hải. 2.10 Vài công trình kiến trúc tại Việt Nam: khách sạn 5 sao Lotus – Hoa sen của Tập đoàn Riviera (Nhật Bản). Với diện tích xây dựng khoảng 4,3 ha, ngay cạnh Trung tâm hội nghị Quốc gia ở xã Mễ Trì, dự án khách sạn Lotus có vốn đầu tư khoảng 500 triệu USD, với thiết kế gồm 550 phòng sang trọng và dự tính khi hoàn thành sẽ trở thành khách sạn lớn nhất Hà Nội. 2.11 Cao ốc Thuân Kiều Plaza. Một trong những cao ốc được hình thành sớm nhất của TP HCM, ở một nơi thuộc vị trí thuận lợi và năng động với sức đầu tư lớn. 2.12 Và những công trình Kiến trúc Hậu hiện đại khác… đi vào kiến trúc dân dụng một cách tự nhiên và vui nhộn. 3. Cái Nhìn Của Phong thủy Lạc Việt Hình Lý Khí: Mọi trào lưu nghệ thuật, trào lưu kiến trúc đều dựa trên một lý thuyết, một chủ nghĩa để làm mục đích thể hiện và cái này phủ định cái kia, cái sau phủ nhận cái trước. Riêng Phong thủy Lạc Việt, chỉ dựa trên một lý thuyết duy nhất là Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết thống nhất và bao trùm của người Việt, trường tồn với thời gian, làm kim chỉ Nam đánh giá tính tốt xấu của kiến trúc, xác định sự tương tác tích cực hay tiêu cực của kiến trúc cũng như môi trường lên đối tượng quán xét chủ yếu là con người. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành nếu được xem là một triết học định hướng tính sáng tạo và thẩm mỹ cho kiến trúc thì vẫn là một cơ sở lý thuyết định hướng thẩm mỹ có tính bao hàm cao, dĩ nhiên nó không phải là một lý thuyết triết lý nhằm làm phương thức thể hiện tư tưởng phản kháng lại thời cuộc hay môi trường mà nó là một phương thức triệt để nhằm một mục đích duy nhất suy xét sự thịnh suy của công trình kiến trúc, sự thành bại của đối tượng tồn tại và chịu sự tác động trực tiếp của kiến trúc đó, đối tượng đó là nhân sinh. Như vậy lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành mà phương thức ứng dụng của nó là Phong thủy mang một mục đích duy nhất rỏ ràng là phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của nhân sinh, nhắm thẳng đến tính chất duy nhất, quyết định lên nhân sinh là sự tốt xấu và thịnh suy như một tôn chỉ cho sự thể hiện. Nếu Kiến trúc Hiện đại phủ nhận sự gắn bó với môi trường, sẳn sàng tồn tại độc lập với môi trường thì Kiến trúc Hậu hiện đại đi ngược lại chiều hướng ấy, nó mang tính linh hoạt, thích hợp với mọi môi trường sẳn sàng hòa nhập và hài hòa với môi trường chịu sự tương tác của môi trường, đó là môi trường giới hạn địa lý cụ thể và môi trường văn minh văn hóa của một địa lý cụ thể. Phong thủy có phần như vậy, nhưng cũng khác, không khu biệt trong một môi trường mà thể hiện sự bao trùm của tính tương tác của vũ trụ lên vạn vật, vận dụng tính tương tác đó để xác định xu hướng tồn tại của kiến trúc tạo nên tính vững bền cho kiến trúc, vì vậy nó không phân biệt địa lý hay văn hóa, tiếng nói hay màu da và cũng không thể nói là nó hòa nhập hay thích hợp với môi trường trong khi mà chính bản thân Phong thủy đã thể hiện quy luật tương tác. Một cách rỏ ràng hơn rằng Phong Thủy không khu biệt do tính đặc trưng về văn hóa hay quan niệm kiến trúc của một cộng đồng hay một quốc gia, ngược lại chính bởi tính đặc trưng về kiến trúc của từng khu vực cộng đồng lại chứng minh cho sự tương tác trong phong thủy. Ví dụ, so sánh giữa 2 vùng, một ở cao nguyên Hoàng Thổ ở Trung Quốc, sống trong nhà hầm, đào trong lòng đất và một ở Hồ Nam sống trên nhà sàn thì sẽ thấy rỏ sự tương tác của con người với môi trường thiên nhiên rỏ ràng khác nhau. Phương pháp phong thủy chỉ quan tâm mối quan hệ tương tác giữa nhân sinh với kiến trúc và với môi trường xung quanh trải dài đến xa thẩm của vũ trụ để đi đến một hiệu quả của sự quán xét được gọi là vận mệnh. Điều nổi bật ở Kiến trúc Hậu hiện đại là tính biểu trưng, biểu tượng trong kiến trúc. Có thể chính bởi tính chất này mà Kiến trúc Hậu hiện đại mang lại sự tự do trong sáng tạo và là nguồn khơi gợi cho sự thể hiện các ý tượng sáng tạo vượt qua mọi rào chắn của những tiêu chuẩn, quy định của Kiến trúc truyền thống hay cổ điển và vượt qua mọi sự khác biệt về quan niệm kiến trúc theo từng văn hóa vùng miền để đi đến sự tự do thể hiện sức mạnh tư duy thông qua những hình tượng kiến trúc. Bởi vậy sự đa dạng đến nỗi phức tạp hay kỳ dị về hình thức trong các mô hình Kiến trú Hậu hiện đại là vô vàng. Chính bởi đặc điểm này mà sự quán xét của Phong thủy Lạc Việt lên các mô hình Kiến trúc Hậu hiện đại được thể hiện một cách linh hoạt, phong phú, ưu việt và giầu tính tưởng tượng phóng khoán để đi đến sự nhận định tốt xấu của công trình kiến trúc. Mỗi một kiểu mô hình kiến trúc được tạo ra đều mang tính hình tượng và ý nghĩa biểu trưng nhằm diễn tả ý tưởng chủ đạo, nội dung nhắm đến theo một hệ tư tưởng sẳn có, được gọi là phong cách và dừng lại ở đó với ý nghĩa biểu trưng được thỏa mãn, công năng sử dụng được giải quyết, yếu tố thẩm mỹ được công nhận theo một phạm trù, thì hơn nữa, chính tính mình tượng và biểu trưng đó lại là cơ sở cho sự suy xét tốt xấu thành bại cho mỗi kiến trúc cụ thể dựa trên một hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngủ Hành mà phương pháp vận dụng của nó là Hình Lý Khí. Có thể nói Hình Lý Khí là phương pháp quán xét hay đánh giá hoàn toàn phù hợp đối với kiến trúc Hậu hiện đại thông qua tính biểu trưng, tính hình tượng của mô hình kiến trúc nhằm tiên lượng sự tốt xấu của công trình trong sự tương quan đa chiều. 4. Vậy Hình Lý Khí là gì? Giả thích cho phạm trù này, nhất thiết phải quay về sự giải thích Khởi nguyên vũ trụ bằng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết thống nhất vũ trụ mà chủ nhân đích thực là giống nòi Rồng Tiên Bách Việt với nền văn hiến 5000 năm, một thời rực rỡ dãy phía Nam sông Dương Tử. Con người đang tồn tại trong thực tại Hậu Thiên so với thể bản nguyên của vũ trụ gọi là Thái Cực. Một trạng thái vô định của không không gian, không thời gian, không cực lớn cũng không cực nhỏ, nói nhanh cũng không nhanh nói chậm cũng không chậm, không có cái không để nói tới cái có, không sáng không tối, không có sự phân biệt nên không thể dùng mọi danh từ để nói về nó, chẳng có đối đãi, viên mãn trong giây 0 tuyệt đối. Và nếu trạng thái này vẫn giữ nguyên như thế thì không có con người và vạn vật tồn tại trong thế giới như ngày nay, vì vậy Thái Cực viên mãn trong trạng thái tuyệt đối đến một lúc nào đó đã xuất hiện một trạng thái đối đãi tương đối có sau so với nó. Cái đối đãi có sau gọi là Âm – ngay từ khởi nguyên vũ trụ và như vậy cái tuyệt đối – Thái Cực có trước sinh ra cái tương đối có sau thì Thái Cực trở thành Dương. Vậy là hai khí Âm Dương xuất hiện, khí Dương nhẹ trong thì bay lên, khí Âm nặng đục thì rớt xuống tụ lại thành hình. Vạn vật cứ tiếp nối trùng trùng duyên khởi. Phong thủy Lạc Việt Hình Lý Khí vận dụng nguyên lý cho rằng khí tụ thành hình, hình nào khí đó, có hình là có khí để xác định sự thịnh suy, thành bại của vạn vật. “Hình nào khí đó” được xác định như một định đề. Khi vật chất tụ thành hình với muôn ngàn hình tượng thì bản thân nó đã có khí. Theo như định nghĩa về Khí trong Phong thủy Lạc Việt của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh thì “Khí” là một dạng tồn tại của vật chất, được hình thành bởi sự tương tác của các vật thể và chịu sự chi phối bởi sự tồn tại của các vật thể, đồng thời tác động lên các vật thể ấy. Như vậy "khí" ở đây không phải là không khí, ánh sáng, gió, nước…và mọi vật khi có hình thì đã có khí. Cũng như trong Đông Y, khái niệm “khí” không chỉ đến huyết, dịch, hiệu điện thế nhân thể hay năng lượng tỏa ra thành nhiệt lượng cơ thể mà đó là phản ánh một thực tại tương tác tế vi, nếu là Tiểu vũ trụ con người thì ngay trong chính nó, nếu là Đại vũ trụ vô cùng tận thì trong chính sự tương tác của vũ trụ này. Có hình là có khí, không thể tách rời và “Lý” được xem như phát ngôn của chiều tương tác “Hình Khí” đưa đến một sự nhận định tốt xấu. Vì vậy Hình Lý Khí nếu được xem là tiêu chí duy nhất để đi đến sự nhận định mang tính vận mệnh thì chính tiêu chí đó tự phản ánh một quy luật khách quan vượt lên trên những tiêu chí mang tính duy thức hay chủ nghĩa nhất thời mà giá trị nhận định tính nghệ thuật hay tính hình tượng dựa trên kinh nghiệm luôn thay đổi theo chiều vận động của xã hội.
  2. PHONG THỦY LẠC VIỆT VỚI KIẾN TRÚC ĐƯƠNG ĐẠI Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương. Kiến trúc đương đại trên thế giới đã đi từ Kiến trúc Hiện đại sang phong cách Hậu hiện đại và nhờ vào kỷ thuật khoa học tiến bộ thì Phong cách Kỹ thuật công nghệ cao (Hitech) như một xu hướng mới nhưng chưa thật sự phổ biến. Dù thế nào đi nữa thì việc ứng dụng trong xây dựng đa phần hiện nay đều theo nếu không là phong cách Hậu hiện đại thì cũng là phong cách Hiện đại. Dựa trên những cơ sở hay điểm chung của các phong cách mà Phong thủy Lạc Việt nhận định và đánh giá sự tốt xấu hay thành bại của các công trình cụ thể theo phương pháp luận của phong thủy và trên cơ sở khoa học. Bài này chỉ xét trên vài nét đặc trưng của Kiến trúc Hậu hiện đại và Kiến trúc Hiện đại trên quan điểm của Phong thủy Lạc Việt. I KIẾN TRÚC HẬU HIỆN ĐẠI VÀ CÁI NHÌN HÌNH LÝ KHÍ 1.Từ Triết Lý Đến Kiến trúc Hậu Hiện Đại: Trong bối cảnh đầy biến động của thế giới vào giữa đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Hậu hiện đại (postmodernisme) xuất hiện như một mảnh lực của một cá nhân bị bó buột và rào chắn bởi những quy cách, định chế, nội quy…vực dậy nói lên tiến nói phá bỏ luật lệ. Những Heiddegger, Derrida, Foucault, Nietzsche .v.v. gióng lên hồi chuông khai tử cho sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Hiện đại và văn hóa Tây phương, đó là hồi chuông chống lại sự đồng nhất về văn hóa, tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, ủng hộ bảo nguyên tính đa dạng của từng nền văn hóa khác nhau, phản ứng lại uy quyền của lý tính, chống lại nền tảng, phê phán sự thống trị của lý tính, đẩy mạnh sự cách tân, phá cách và vượt qua chuẩn mực, vượt qua truyền thống. Từ lý tưởng triết học, chủ nghĩa hậu hiện đại đi vào thơ ca văn chương, hội họa, kiến trúc…như một phương thức hành động, sự bày tỏ thái độ rỏ ràng đối với thời cuộc. Và, nếu coi kiến trúc là một phương tiện thể hiện duy nhất và hữu hiệu cho sự thể hiện của mọi chủ nghĩa trong thời đại của sự phát triển vũ bão của kỷ thuật thế giới thì Kiến trúc Hậu hiện đại là một phương tiện phổ biến và đầy đủ sự đa dạng. Bắt đầu những thập niên 1950 cho đến thời hiện tại, tiếp nối trào lưu Kiến trúc hiện đại, Kiến trúc Hậu hiện đại hình thành thành một trào lưu mạnh mẽ và tầm ảnh hưởng lớn trong mọi thời đại kiến trúc. Để mở đầu cho thời kỳ Kiến trúc Hậu hiện đại, tác giả Charkes Jencks đã “khai tử” cho nền Kiến trúc Hiện đại bằng câu nói nổi tiếng như cắm một cây thập tự cáo chung: "Kiến trúc Hiện đại đã chết ở Saint Louis, Missouri ngày 15 tháng 7 năm 1972 vào hồi 15h32". Đó cũng là lời mở đầu cuốn sách "Ngôn ngữ của kiến trúc Hậu hiện đại" của chính ông. Cuốn sách này đã gây tiếng vang lớn trong giới kiến trúc và được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nó báo hiệu một trào lưu kiến trúc mới ra đời: Kiến trúc Hậu hiện đại. Nếu Kiến trúc Hiện đại chối bỏ những chi tiết trong kiến trúc được cho là rườm rà, phủ nhận truyền thống, không xem xét đến bối cảnh mà có thể đặt công trình ở bất kỳ môi trường nào, bất kỳ nước nào thì Kiến trúc Hậu hiện đại cho xuất hiện lại các chi tiết trang trí, phát triển thêm tính đa nghĩa của biểu tượng trong kiến trúc, chú ý đến mối quan hệ của kiến trúc đến môi trường, phát huy và hài hòa với tính bản địa của kiến trúc để tạo thành phong cách. Kiến trúc Hậu hiện đại đề cao tính biểu trưng lịch sử khi hòa trộn những nét thảm mỹ cổ điển với nét thẩm mỹ chủ đạo mang tính quốc tế nhằm đưa đến một cái nhìn chấp nhận và đầy cảm tưởng. Kiến trúc Hậu hiện đại mang tính linh hoạt, thích hợp với mọi môi trường văn hóa, sẳn sàng hòa nhập với tính bản địa để tạo sự hài hòa. Đặt biệt, kiến trúc hậu hiện đại vận dụng tối đa tính ẩn dụ và trừu tượng, đẩy mạnh tính biểu trưng dẫn đến sự tự do thể hiện trong hình thể kiến trúc và nhấn mạnh cách bố trí không gian kiến trúc, đề cao đến trật tự trong kiến trúc, đôi khi đưa đến sự dàn trải không gian, tạo cảm giác một không gian vô hạn, không rõ ràng, thậm chí nhập nhằng với nhau hay chú trọng thể hiện cấu trúc theo hình học sơ cấp và đơn giản nhất mà ở đó người ta dể tìm thấy những khái niệm cổ điển như trục chính hay tâm nhà. Và kiến trúc Hậu hiện đại, luôn khuếch đại tính biểu tượng, biểu trưng, thể hiện chủ nghĩa chiết trung mạnh mẽ và đa dạng một cách triệt để. 2.Những Kiến Trúc Hậu Hiện Đại Tiêu Biểu: 2.1 Tòa nhà Royal College of Physicians thiết kế bởi Denys Lasdun ở Regent Park được cho là công trình Kiến trúc Hậu hiện đại đầu tiên. 2.2 Được xem như là dấu son tiêu biểu cho Kiến trúc Hậu hiện đại, Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Sia - College of the Arts, được chọn thay mặt cho phong cách kiến trúc Hậu hiện đại, đề án này đã được giới thiệu tại triển lãm kiến trúc danh tiếng Biennale tại Venice (Ý) năm 2004 và hiện nay công trình được coi là niềm tự hào của Singapure. Lasalle tọa lạc trên con đường Joseph Menally chỉ có số 1 duy nhất tòa nhà Lasalle để bày tỏ lòng kính trọng vị hiệu trưởng đầu tiên Joseph Menally. Nhóm thiết kế học viện Lasalle là sự kết hợp giữa RSP Architects và Huger Dutton Associates (HDA). Tập đoàn Nhật Bản Takenaka phụ trách xây dựng - HDA từng tham gia cố vấn, thiết kế và xây dựng nhiều công trình nổi tiếng thế giới như Kim tự tháp tại Bảo tàng mỹ thuật Louvre - Paris. Với 6 block chính từ ý tưởng “tan vỡ” của một tảng băng trôi khổng lồ - Lasalle chỉ toàn bằng kính kết hợp với màu đen của nham thạch, xiêu vẹo, quặn vỡ nhưng được nối kết tuyệt vời bởi những cầu nối giữa 6 khối nhà. Khái niệm “Kiến trúc thân thiện” cũng được thể hiện bằng sự rộng mở của không gian, không có cổng trường, khách bộ hành có thể băng qua học xá để qua con đường sau lưng hay trước mặt Lasalle. 2.3 Bảo tàng Milwaukee - “Đôi cánh hải âu quyền năng”, nằm kề bên hồ Michigan, Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee với kiến trúc đặc trưng đã trở thành biểu tượng cho thành phố lớn nhất của tiểu bang Wisconsin. Đây là công trình hoàn chỉnh đầu tiên ở Mỹ và cũng là viện bảo tàng “đầu tay” của kiến trúc sư nổi tiếng người Tây Ban Nha Santiago Calatrava. Với công trình này, Calatrava đã chứng tỏ được “quyền năng” của kiến trúc, tạo một bước đột phá trong thiết kế kiểu dáng và công năng. Với tổng diện tích toàn bộ là 341.000m2, đây có thể được xem là tác phẩm đỉnh cao của loại hình kiến trúc động ảo, một phong cách Kiến trúc Hậu hiện đại do chính Calatrava khởi xướng từ cuối thế kỷ 20. Bảo tàng từng được tạp chí Condé Nast Traveler đánh giá là một trong những "kỳ quan mới của thế giới Chính thức mở cửa vào tháng 10-2001, trung bình mỗi ngày bảo tàng chào đón hơn 5.000 lượt du khách đến tham quan, cá biệt có những buổi triển lãm lớn, con số này có thể nhảy vọt lên đến 32.000 người ". Hàng loạt công trình qui mô lớn mang tính Hậu hiện đại được dựng lên tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc thể hiện sự dứt khoát hướng về cái mới của ngày mai. Những công trình này mang một thông điệp của ý chí vượt xa hơn phương Tây, do đó các công trình thường gắn liền với tên tuổi của các nhà thiết kế hàng đầu thế giới hiện nay. 2.5 Công trình mang dáng dấp của một chiếc tổ chim và thiết kế dựa trên ý tưởng bảo vệ môi trường sinh thái. Sân vận động do hãng Herzog & DeMeuron (Thuỵ Sĩ) từng giành giải thưởng Kiến trúc Pritzker danh tiếng, cộng tác với Arup Sport và nhóm kiến trúc Trung Quốc, thiết kế và thi công. Với kinh phí đầu tư 430 triệu USD, sân vận động có chiều dài 330, rộng 220m, cao 69,2m và được xây dựng trên tổng diện tích là 250.000 m2. 2.6 Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh của kiến trúc sư (KTS) Paul Andrieu, chuyên gia hàng đầu người Pháp, được chọn trong một cuộc thi quốc tế, công trình Kiến trúc Hậu hiện đại này xuất hiện giữa một Bắc Kinh cổ kính đã từng gây nhiều tranh luận sôi nổi. Được thể hiện là khối bán cầu bằng kính vĩ đại đặt trên một mặt nước vuông nằm ở vị trí trung tâm quảng trường Thiên An Môn. Hình tượng “bầu trời” (thiên) thể hiện qua vòm kính và nền vuông “mặt đất” (địa) là một diện tích mặt nước vuông rộng lớn muốn bật ý niệm “Trời tròn đất vuông” kinh điển. Cái độc đáo của công trình này là lối vào nằm dưới hồ nước, tạo cảm giác toàn khu phức hợp trình diễn nghệ thuật nằm dưới mặt đất. Ba cơ sở chính là nhà hát Kinh kịch trung tâm, phòng hòa nhạc và nhà hát kịch nói được bố trí nằm gọn trong khối “vỏ trứng”, không gian còn lại là nơi giao lưu nghệ thuật.
  3. "Cóc mở miệng" Câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam này có nội dung nói đến những chuyện hy hữu, bất khả kháng. Cả đời, hiếm khi ai nghe được tiếng cóc. Có đánh chết, cóc cũng im, không một tiếng kêu. Các cụ gọi là "gan cóc Tía". Nhưng với hình tượng Ông Khiết, nếu rút đồng tiền ra khỏi miệng cóc thì ta thấy ngay "Cóc mở miệng". Ngậm miệng ăn tiền...và..... Cóc mở miệng! Chính vì mối liên hệ chặt chẽ giữa hình tượng của Ông Khiết và những câu thành ngữ trong văn hóa dân gian Việt, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã tiến hành dùng con lắc cảm xạ kiểm tra và phát hiện ở miệng Ông Khiết, khi bỏ đồng tiền ra, có một hiệu ứng bức xạ rất mạnh. Hiện tượng này được nhà cảm xạ Dư Quang Châu - Trưởng ban cảm xạ Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người - dùng máy đo xác định: Ở các bộ phận khác nhau trên mình Ông Khiết, đèn báo không sáng toàn phần.... Trung bình có bẩy đơn vị đèn sáng..... Chỗ ít nhất chỉ có ba đơn vị đèn sáng...... Nhưng tại miệng Ông Khiết, đèn sang toàn phần, đã chứng tỏ có một bức xạ rất mạnh ở đây. Một hiện tượng cần lưu ý là: Nếu ta để đồng tiền trở lại vào miệng Ông Khiết thì hiện tượng bức xạ yếu hẳn. Hiện tượng "Cóc mở miệng" nói lên điều gì? Phải chăng những điều gần như không tưởng trở thành có thể? Trong thành ngữ dân gian Việt Nam có câu "Bao giờ cóc mọc râu". Một câu thành ngữ có tính ví von với hình tượng so sánh với những việc gần như không tưởng. Cóc thì chẳng bao giờ mọc râu cả, vậy thì những việc làm sẽ chẳng bao giờ thành công ví như chờ đến khi "cóc mọc râu" vậy. Nhưng kỳ lạ thay! Một lần nữa câu thành ngữ dân gian Việt này lại liên hệ rất cụ thể với hình tượng Ông Khiết: Bạn đọc hãy nhìn kỹ xem: Ở hai bên mép Ông Khiết có hai sơi râu thật..... " Cóc mọc râu" đúng cả nghĩa đen với hình tượng Ông Khiết. Phải chăng, chính hình tượng Ông Khiết muốn nhắc nhở hậu thế rằng: Những điều không tưởng vẫn có khả năng trở thành hiện thực?! Trong bài "Hòn Vọng Phu" của nhạc sĩ Lê Thương có câu: Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua.... Nhạc sĩ Lê Thương sáng tác bài hát nổi tiếng này của ông, khi mà tất cả các nhà nghiên cứu văn hóa sử Việt còn sống ngày nay chưa sinh ra ở trên đời..... Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, kể từ khi nền văn hiến huyền vĩ Việt sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, ông Khiết đã "Ngậm miệng ăn tiền". Đến nay, Ông Khiết đã mở miệng và thể hiện những điều mà trước đây gần như không tưởng - "Cóc mọc râu". Qua hình tượng Ông Khiết, đã xác định một nền văn hiến huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử - nền văn minh Khoa Đẩu - đã sở hữu một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ông Khiết và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ngay trên đầu ông Khiết, đã đội Âm Dương, cho chúng ta thấy hình tượng Ông Khiết có mối liên hệ chặt chẽ với thuyết Âm Dương Ngũ hành. Do đó hình tượng này phải là một sự lựa chọn liên quan mật thiết đến học thuyết này. Nếu chúng ta có thể cách điệu hóa hình tượng ông Khiết ba chân đầy huyền bí này thành hình kỷ hà thì sẽ có hình tam giác cho thân ông Khiết với đỉnh ở miệng Ông Khiết và một hình tam giác khác có đỉnh là chân sau ông Khiết. Và đây chính là biểu tượng của Do Thái giáo - một tôn giáo cổ xưa nhất của nhân loại và nay chính là lá cờ của quốc gia Isarael. Đồng thời đây cũng chính là biểu tượng của đồ hình Hậu Thiên Lạc Việt với sự kết hợp hai quái Đoài Tốn và Cấn Chấn thành đồ hình tam âm, tam Dương. Xin xem hình minh họa dưới đây: Không ai có thể phủ nhận sự liên quan giữa bát quái với Ngũ hành trong ứng dụng. Biểu tượng của ông Khiết liên quan đến Thuyết Âm Dương Ngũ hành là việc rất rõ ràng không cần phải bàn cãi, ít nhất với xoáy Âm Dương mà Ông Khiết mang trên đầu. Nhưng vấn đề cũng chưa dừng lại ở đấy, mà biểu tượng này còn liên quan mật thiết với những tri thức vũ trụ và xác định: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là sự tổng hợp của những tri thức vũ trụ, khi mà trên lưng Ông Khiết chính là hình tượng của chòm sao Đại Hùng Tinh - Chòm sao Thiên cực Bắc của bầu trời Thái Ất trong lý học Đông phương. Bạn đọc có thể so sánh hình dưới đây: Chòm sao Đại Hùng tinh trên bầu trời Thái Ất hiện nay (Chấm đen trên hình minh họa). So sánh với các chấm trên lưng ông Khiết...... Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng: Ông Khiết chính là biểu tượng hoàn hảo của nền văn minh Khoa Đẩu (Con ông Khiết chính là nòng nọc - Khoa Đẩu tự - văn tự chính thống của nền văn minh Lạc Việt), miêu tả một cách cô đọng nhất những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và một thực tại mà học thuyết này phản ánh: Đó chính là những quy luật vũ trụ tương tác với Địa cầu, mà chòm sao Thiên Cực Bắc chính là chòm sao định vị căn bản cho mọi sự vận động, tương tác đó. Nhưng vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, hình tượng Ông Khiết còn xác định rằng: La bàn chính là sản phẩm có từ lâu trong nền văn minh cổ nhân loại và không phải do người Trung Quốc phát minh. Biểu tượng Ông Khiết - Xác định la bàn là phát minh của người Việt cổ. Từ hàng ngàn năm nay, cả thế giới này vẫn ngộ nhận la bàn là phát minh của nền văn minh Hoa Hạ, cũng như cho rằng Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành của người Trung Hoa vậy. Có thể nói rằng trên hầu hết những website nghiên cứu đều thống nhất nói về điều này. Nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam Sử Lược "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem: "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem xứ Việt thường về nước." (quyển 1, trang 13). Còn theo sự khảo cứu của Châu Âu cho rằng la bàn từ dùng kim nam châm được các nhà hàng hải Trung Hoa dùng khoảng năm 1100 Tây lịch. Theo học giả Alexander Neckam viết trong sách Desutensilibus (Nói về các dụng cụ) thì các thủy thủ Anh,vào năm 1190, đã từng dùng la bàn cho những chuyến hải hành trên cách đại dương. Khoảng từ năm 1220 người Arập đã bắt đầu dùng la bàn và khoảng 1250 thì người Viking cũng đã biết dùng loại công cụ định hướng này một cách thường thức. Họ còn trưng ra nhưng cái gọi là "di vật khảo cổ" để xác định la bàn là phát minh của người Hoa Hạ: Chiếc thìa chỉ Nam - một di vật được coi là phát minh của người Hoa Hạ vào thế kỷ II BC. Thế giới theo thói quen nhận thức đó, mặc nhiên ngộ nhận sự phát minh La Bàn là của người Trung Quốc. Nhưng một bí ẩn còn chưa được giải thích, một câu hỏi còn đang bỏ lững, khi đặt cho câu hỏi rằng những công trình kim tự tháp của Ai Cập, Hy Lạp, Inca, Maya, Zoque ở Trung Mỹ, được xác định phương hướng để xây dựng hay các cấu trúc công năng của tháp cũng thể hiện khả năng, công dụng xác định được phương hướng, xác định được sao Cực Bắc, các hướng chính Bắc, chính Nam, chính Đông, chính Tây - với độ sai biệt siêu việt hơn độ sai biệt lý tưởng cho phép của xây dựng thời hiện đại - thì thời đó các nền văn minh hơn 5000 năm này họ xác định hướng bằng gì? Nếu cho rằng: Các nền văn minh cổ xưa đã dùng sao Thiên Cực Bắc để tìm hướng Bắc, thì chúng ta đều biết rằng: Hướng Bắc của chòm sao Thiên cực Bắc không hoàn toàn trùng khớp với phương Bắc của Địa cầu. Sự chính xác của các công trình kiến trúc nổi tiếng thời cổ đại, như Kim Tự Tháp Kim tự tháp Keop nổi tiếng của Ai Cập có đường chéo góc trùng khớp hoàn toàn với kinh tuyến Bắc Nam của địa cầu và là kinh tuyến đi qua đất liền dài nhất thế giới. Làm thế nào để họ xác định chính xác trục Bắc Nam mà xây nên Kim Tự tháp vĩ đại này? Cũng có ý kiến cho rằng: Người Ai Cập căn cứ vào sao Bắc Đẩu để xác định phương Bắc. Mới nghe thì có vẻ có lý và có nhiều ngươi đồng tình. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là trục Địa cầu nối kinh tuyến dài nhất theo hướng Bắc Nam, chứ không phải phương Bắc. Làm sao người Ai Cập biết trục Địa Cầu nằm đúng phương Bắc Nam mà nhìn sao Bắc Đẩu, nếu không có la bàn - hoặc một cái gì đó tương tự như vậy - để xác định phương hướng các vì sao trên bầu trời với một kiến thức thiên văn vượt trội . Điều này đã chứng tỏ qua vị trí các vì sao tương quan với các Kim Tự Tháp. Chúng ta xem lại hai tư liệu liên quan đến sự phát minh ra la bàn vốn được coi là của người Trung Hoa. 1 - Truyền thuyết ghi nhận trong trận đánh Hoàng Đế Xuy Vưu tại Trác Lộc (Trên 5000 năm cách ngày nay). Xuy Vưu làm phép khiến trời đất mù mịt. Một vị đại thần của Hoàng Đế phát minh ra cái xe chỉ nam và nhờ cái xe này, Hoàng Đế chỉ huy quân đội, phá tan đạo quân của Xuy Vưu. 2- Sứ giả Việt Thường đến kinh đô cống vua Nghiêu một con rùa lớn (3000 năm cách ngày nay), trên mai rủa có ghi việc trời đất mở mang bằng Khoa Đẩu tự. Vua Nghiêu sai tặng sứ Việt thường chiếc La bàn để định hướng về nước.Sau hai tư liệu trên thi không có một tác giả Trung Hoa nào tự giới thiệu là người phát minh ra la bàn. Chúng ta cũng biết rằng: Chính các nhà sử học Trung Quốc cũng cho rằng lịch sử văn minh Hoa Hạ chỉ rõ ràng trong khoảng thế kỷ thứ VIII BC. Huyền thoại thì không phải là cơ sở để tin cậy như một chứng cứ thuyết phục, nếu không giải thích được những vấn đề liên quan đến nó. Khoa phong thủy đã được chứng minh rằng: Nó thuộc về nên văn hiến Lạc Việt một thời huy hoàng bên bờ nam Dương Tử. Tất yếu cái la bàn là vật bất ly thân của môn này không thể ra đời trong văn minh Hán.Quí vị cũng cần quán xét một hiện tượng là: Ở đây, tôi cũng cần lưu ý thêm quý vị là: Sử Ký Tư Mã Thiên dành hẳn một truyện cho những thày chuyên coi ngày, tựa là "Nhật giả liệt truyện", nhưng lại không hể nhắc tới khoa Phong Thủy vốn được coi là xuất hiện từ thế kỷ thứ III BC - tức là trước cả Tư Mã Thiên hàng 100 năm - như tài liệu trên ghi nhận. Ông ta cũng không hề có một chữ nào nói đến sự ứng dụng khoa Phong thủy trong các công trình xây cất của triều đình Hán. Tất nhiên, ông cũng không hề xác nhận la bàn là do phát minh của văn minh Hoa Hạ. Những chứng cứ trên xác định việc phát minh la bàn không thuộc về văn minh Hán cổ. Cóc với đôn cố định. Hình tượng Cóc thật sự là bình dị và phổ thông như đã thấy, nhưng kết cấu lại đưa đến những sự trùng hợp mang tính tương đồng hay định hướng cho một sự suy nghiệm hợp lý giữa các hiện tượng liên quan. 1 - Ông Khiết được đặt trên đôn tròn có thể xoay các hướng tương làm cho miệng nhọn của hình tượng như một mũi tên chỉa về các phương tương tự mũi kim nam châm luôn xoay tít và chỉ hướng Bắc Nam khi đã ổn định. Do vậy, đôn đế thường được thiết kế tròn và bằng vật liệu không phải là kim loại, tương đồng với việc thiết kế vỏ la bàn bằng vật liệu không tạo sự nhiễm từ. 2 - Miệng Ông Khiết ngậm một đồng tiền tròn - theo quan điểm Lý học Đông Phương thì tượng tròn thuộc kim - Hình tượng này cho thấy tính hút kim loại - tiêu biểu là sắt - của La bàn. Những hình ảnh tiền bạc mà tượng cóc ngồi lên, cũng có thể tượng trưng cho tượng Kim, kim loại bị từ trường hút giữ. Như vậy tính từ lực được thể hiện qua hình tượng ẩn dụ mang tính thường thức phổ thông qua ý nghĩa cầu tài chiêu lộc. Nhưng đó là ẩn ngữ nhằm miêu tả một tri thức bị che lấp bởi hàng ngàn năm Hán hóa. Cấu trúc của miệng Ông Khiết hơi nghiêng chếch lên, nên khi ta chỉ cần cho đồng tiền vào đúng miệng là tự nó vào sâu tiếp trong miệng Ông Khiết, nói lên khi cho kim loại tới gần nam châm sẽ hút được nó. 3 - Lưng ông Khiết mang chòm sao Bắc Đẩu và nhìn lên trời, cho thấy ông nhìn về hướng Bắc..... 4 - Chân ông Khiết có nhiều đồng tiền nhỏ xung quanh, hình tượng thuộc kim một lần nữa được tái hiện, cho ta thấy nam châm có thể hút được kim loại từ rất nhiều chiều. Trong khi đế lại được chế tác hình tròn và bằng loại vật liệu khác và tách rời với ông khiết, muốn nói rằng, vỏ của la bàn phải được làm bằng loại vật liệu khác mang dáng dấp của hình tròn và không phải là kim loại, không phải là nam châm thì la bàn mới hoạt động được. 5 - Qua tác nghiệp đo xung khí bằng máy RFI của Nhà cảm xạ học Dư Quang Châu, cũng như sử dụng đo xung xạ bằng con lắc của nhà nghiên cứu lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho thấy rằng: Khi Ông Khiết ngậm đồng tiền, không tạo xung khí, trời đất giao thoa, nói lên trái đất vẫn chịu sự tưong tác của thiên văn. Khi rút đồng tiền ra, miệng Ông Khiết tạo ra một xung khí phát thẳng, có thể coi là chỉ dấu chiều từ trường trái đất Đương nhiên ông cha ta không muốn bị thất truyền, nên ngoài việc mang tính chiêu tài để lưu truyền, ông cha ta thêm chùm sao Đại Hùng tinh trong tranh dân gian Việt in hình của chòm sao trên lưng trong tượng ông Khiết. Trong buổi hội thảo về "Tính khoa học của phong thuỷ trong kiến trúc và xây dựng", nhà tổ chức đã trao tặng các đại biểu tượng Ông Khiết trên đế tròn. Đây cũng là biểu tượng và mong muốn phổ biến một hình tượng minh triết Việt đến với mọi người. Chúng tôi luôn tuân thủ nguyên tắc: Không sử dụng sử giải mã những biểu tượng, truyền thuyết làm bằng chứng khoa học để minh chứng cho Việt sử 5000 năm vắn hiến. Nhưng, chúng tôi vẫn trân trọng giới thiệu một cách nhìn về tính minh triết Việt qua di sản của tổ tiên Lạc Việt để lại. Ẩn truyền của ông cha ta khi nói: “Con cóc là cậu ông Trời” thật là ý nghĩa. Và một điều thú vị khác nữa là: Trong cuốn "Cội nguồn trăm họ" của giáo sư Bùi Văn Nguyên, tác giả cho rằng - Kinh Dương Vương tên húy là Nguyễn Minh Khiết. Như vậy, danh từ "Khiết" chính là thủy tổ khai sáng nền văn minh Lạc Việt - Nền văn minh Khao Đẩu một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử.. Achau
  4. Ông Khiết - Một biểu tương minh triết của văn minh Lạc Việt. Sự xác định phát minh ra la bàn thuộc về văn minh Việt cổ. Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Hướng dẫn: Thiên Sứ Biên soan: Achau Bổ sung: Thiên Đồng Trong hội thảo "Tính khoa học của Phong thủy", do Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương tổ chức tại Hanoi, ở khách sạn La Thành ngày 15 - 12 - 2009, Hoàng Triều Hải là một thành viên nghiên cứu và hiện là trưởng đại diện Văn Phòng Hanoi của Trung tâm đã giới thiệu "Ông Khiết" - một vật trấn yểm độc đáo của Phong Thủy Lạc Việt. Ông Khiết chính là một món quà tặng của Trung Tâm cho các vị khách quí tham dự hội thảo. Đây cũng chính là một biểu tượng đầy tính minh triết của nền văn Lạc Việt, một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử.... Ông Khiết - quà tặng của Trung tâm trong hội thảo. Ảnh: TTNCLHĐP Tính minh triết Việt qua biểu tượng Ông Khiết Có lẽ, hầu hết người Việt Nam khi bước vào đời, trước nhưng khó khăn của cuộc sống đầy bon chen, sát phạt, thì thường tự an ủi với câu thành ngữ rất phổ biến: "Ngậm miệng ăn tiền". Hoặc trước những bất công xã hội, những sự ức chế thì ông cha ta cũng thường nói: "Cóc cũng phải mở miệng". Hay trong đời thường, trước những khó khăn không thể vượt qua, người ta thường thách đố nhau: "Đợi đến cóc mọc râu" mới làm được việc đó. Đã từ lâu, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, đã phát hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa những câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam, những giá trị văn hóa phi vật thể của nền văn hiến Việt liên hệ đến hình tượng "Ông Khiết", qua những tác phẩm của ông: "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam", "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp"; "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt"…nhằm phục hồi hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc về nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ phía Nam Dương Tử. Có thể nói rằng: Trong suốt lịch sử trải gần 5000 năm đó, hình tượng "Ông Khiết" - cụ Cóc - luôn gắn bó với nền văn hóa truyền thống Việt. Chúng ta có thể nhận thấy ngày hình ảnh "Ông khiết" Việt trong nền văn hiến Việt qua những di sản khảo cổ từ hàng ngàn năm trước: Đây là những di vật khảo cổ của người Việt, đã làm thế giới phải ngạc nhiên và thú vị trước một nền văn minh và kỹ thuật phát triển thể hiện một đỉnh cao không những trong kỹ thuật đúc đồng mà ngay cả trong nghệ thuật khắc nổi và hình họa. Những chi tiết trên trống đồng phản ánh một hình thái xã hội với chiều sâu của nó, xác định một nền văn minh Văn Lang rực rỡ của Việt tộc. Một trong những chi tiết độc đáo, được đắp nổi trên tang trống Lạc Việt từ hàng ngàn năm trước là những những con vật bình dị, nhưng rất thân thuộc trong xã hội văn minh lúa nước, đó là hình ảnh con Cóc. Trống đồng Lạng Sơn, loại Heger II, trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn và hình tượng cóc - Ông Khiết. Tượng cóc trên trống đồng Đông Sơn Tượng cóc trên mặt trống Heger II Đã có nhiều học giả có những cách lý giải khác nhau về con Cóc trong các nghiên cứu khoa học. Có thuyết cho rằng Cóc là biểu hiện cho tình trạng thời tiết trong mùa màng, như “Cóc nghiến răng thì trời sẽ mưa”. Những hình ảnh Cóc trên trống đồng xuất hiện rất thường xuyên trong các di vật khảo cổ và người ta càng khó hiểu khi có những hình tượng Cóc giao hoan, không những giữa hai cá thể mà những ba cá thể (!). Nhiều học giả có ý kiến cho đó là biểu trưng cho tính ngưỡng phồn thực cổ xưa của văn hóa Việt!? Tượng 3 cóc giao phối. Không chỉ ở nhưng di vật khảo cổ xác định hình tượng Ông Khiết đã tồn tại từ lâu trong nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, mà hình tượng này còn tồn tại trong văn hóa truyền thống dân gian Việt Nam cho đến tận bây giờ. Những chuyện liên quan đến Cóc là nhân vật chính có thể kể ra đây là: Chuyện Trê Cóc, Cóc kiện trời, Thày đồ Cóc...Trong văn học dân gian Việt thì có thể nói ông Cóc có một vị trí đặc biệt được tôn trong: Con cóc là cậu ông trời. Ai mà đánh nó thì trời đánh cho Ông Trời - Thượng Đế - cai quản cả vũ trụ mà nhân loại phải kính trọng, nhưng cóc lại còn là "Câu ông Trời" thì đủ hiểu cóc có địa vị như thế nào! Không những thế, cóc còn là thầy dậy, là sự truyền đạt văn hóa và chỉ mình Cóc làm được chuyện này. Lão Oa độc giảng - Thày Đồ Cóc - Tranh dân gian làng Đông Hồ. Ông Trời chính là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, cóc là Cậu ông Trời và là độc quyền giảng dậy, truyền đạt văn hóa! Phải chăng con cóc là hình tượng muốn gợi mở một suy nghiệm liên quan đến những bí ẩn vũ trụ được ẩn chưa trong nền văn minh Khoa Đểu - đó là loại chữ hình con nòng nọc - con của cóc. Trong ca dao tục ngữ Việt, còn những câu thành ngữ liên quan đến ông Cóc và đặc biết là Ông Khiết - một biểu tượng cách điệu của con Cóc - một cách kỳ lạ, mà chúng tôi lần lượt trình bày với bạn đọc dưới đây: "Ngậm miệng ăn tiền". Một câu thành ngữ độc đáo của nền văn hóa dân gian Việt. Các nhà nghiên cứu, phê bình cho rằng câu thành ngữ này có một nội dung ích kỷ, thiếu tính đấu tranh, chỉ biết lợi cho mình....Nhưng kỳ lạ thay! Đây chính là biểu tượng của Ông Khiết: Hình tượng Ông Khiết - "Ngậm miệng ăn tiền". Thế gian này chẳng ai có thể ngậm miệng ăn tiền cả. Câu thành Ngữ Việt "Ngậm miệng ăn tiền" chỉ mang tính hình tượng, nhằm miêu tả một nội dung khác. Nhưng với hình tượng "Ông Khiết" thì đúng cả đến nghĩa đen. Các thày bà còn khuyên thân chủ mua Ông Khiết về để thờ và cứ phải" sáng quay ra, tối quay vào" để ông mang tiền về cho gia chủ. Hàng ngàn năm đã trôi qua - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, hình tượng Ông Khiết "ngậm miệng ăn tiền" vì có khả năng "mang tiền về cho thân chủ" - nên mãi mãi lưu truyền đến ngày nay - phải chăng đã hàm chứa sự gìn giữ những bí ẩn của nền văn minh Khoa Đẩu? Hình tượng Ông Khiết nguyên thủy thì đồng tiền trong miệng có thể tháo rời ra được. Nhưng ngày nay, để tiện vận chuyển và sản xuất, người ta đã hàn dính đồng tiền vào miệng Ông Khiết, hoặc đúc dính liền đồng tiền và mình Ông Khiết thành một khối. Tuy nhiên, vẫn còn có những nơi làm hình tượng này theo đúng truyền thống - họ không đúc liền đồng tiền vào miệng Ông Khiết. Và điều này lại liên quan một cách kỳ lạ đến câu thành ngữ "Cóc mở miệng". còn tiếp
  5. BÍ ẨN CỦA HÌNH TƯỢNG NGỰA CỤT ĐUÔI TRONG PHONG THỦY Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương Hình tượng ngựa trong nghệ thuật hội họa và điêu khắc là hình ảnh đẹp và hùng dũng, thể hiện sự mạnh mẽ, linh hoạt, năng động và tự do. Cũng hình tượng ngựa, nhưng lại trong cổ học Phong Thủy, hình tượng đó trở thành biểu tượng đầy năng lực, siêu nhiên và đôi khi mang yếu tố bí ẩn. Trong một chuyến du lịch tại Hoa Kỳ, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Tuấn Anh chợt phát hiện một chi tiết lạ và khá thú vị khi thấy một đôi tượng ngựa lớn được bố trí trấn ở hai bên hông cửa chính của một nhà hàng lớn và nổi tiếng PF CHANG 3 China Bistro, tại bang Bantimore. Trước cửa nhà hàng này có một đôi ngựa có dáng to lớn, mạnh mẽ, rất khí thế, nhưng lại có cái đuôi …ngắn và cụt. Điều này đã gây nên sự chú ý của nhà nghiên cứu Lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Ông đã chụp ảnh và đưa hiện tượng này vào trong lớp Phong Thủy Lạc Việt để nghiên cứu và tìm lời giải đáp bí ẩn này. Reduced: 71% of original size [ 898 x 674 ] - Click to view full image Nhà Nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh và toàn cảnh mặt tiền nhà hàng PF CHANG 3 China Bistro. Reduced: 85% of original size [ 748 x 999 ] - Click to view full image Tượng ngựa "cụt đuôi" Reduced: 71% of original size [ 898 x 674 ] - Click to view full image Cận cảnh cái đuôi cụt Với tư cách là một người thầy truyền đạt lại kiến thức Phong Thủy Lạc Việt, ông thường khuyến khích các học viên: "Để phục hồi những giá trị đích thực của Phong Thủy, phải tham khảo, tìm hiểu và sưu tầm tất cả những kiến thức liên quan đến phong thủy còn lưu truyền trong dân gian và hiệu chỉnh nó theo nguyên lý căn bản của Phong Thủy Lạc Việt". Người viết bài này, chỉ là một học viên mới theo học lớp Phong Thủy Lạc Việt, nhưng được thày Nguyễn Vũ Tuấn Anh giao trách nhiệm và hướng dẫn tìm hiểu hiện tượng này. Sau khi đã tham khảo nhiều ý kiến khác nhau với các anh chị em trong lớp Phong Thủy Lạc Việt, tôi đã sưu tầm tài liệu và viết về đề tài này với sự ủng hộ và khuyến khích của thày. Trên cơ sở những tư liệu và tri thức tiếp thu được từ Phong Thủy Lạc Việt, tôi nhận thấy rằng việc trấn yểm bằng vật khí trong Phong Thủy đều phải dựa trên một nguyên lý nào đó của sự tương tác với thực tại hoặc dựa trên ý nghĩa biểu trưng. Ví như muốn thăng quan tiến chức, người ta có thể dùng hình tượng “ Mã thượng phong hầu” (tượng một con khỉ trên lưng con ngựa) đặt vào bàn làm việc hay vị trí thích hợp thì sẽ được như ý. Lý do của việc dùng hình tượng này là chữ “hầu” nghĩa là khỉ cũng trùng âm với chữ “hầu” trong “vương hầu”. Cặp từ “ Phong hầu” có nghĩa là lên chức, tiến chức, còn chữ “Mã thượng” mang ý nghĩa là ngay lập tức. Do vậy hình tượng con khỉ ngồi trên lưng con ngựa là hình ảnh hàm ý cho câu “ Mả thượng phong hầu” thể hiện chủ ý cầu mong sự thăng quan tiến chức nhanh chóng. Trở lại câu chuyện ngựa cụt đuôi, tôi lần tìm mãi vẫn biệt vô âm tín cho ý nghĩa cái đuôi cụt. Có người cho rằng hình tượng ngựa cụt đuôi cũng tồn tại trong thời nhà Tần. Nhưng lần tìm trong các tư liệu cũng như hình ảnh về thời nhà Tần cũng không có được hình tượng ngựa cụt đuôi mà trái lại qua những dấu tích khai quật mộ Tần thủy Hoàng thì tất cả hình ảnh ngựa được thể hiện là ngựa chiến với chiếc đuôi còn nguyên vẹn và uy phong của tượng ngựa thật tráng kiện và hào hùng của những con ngựa chiến, khác hẳn với vẽ “dịu dàng” và nhã nhặn của ngựa cụt đuôi. Reduced: 76% of original size [ 837 x 673 ] - Click to view full image Tượng ngựa và chiến binh bằng đất nung thời Tần. Chợt nghĩ rằng có thể trong hội họa, hình ảnh ngựa cụt đuôi họa chăng cũng thể hiện ít nhất một đôi lần. Tôi liền đến hỏi một họa sĩ chuyên nghiệp trong nghệ thuật hội họa tranh Thủy Mặc thì một sự bất ngờ khác làm tôi lấy làm vô cùng thú vị ở câu đầu tiên ông nói ngay “ Không phải ngựa cụt đuôi mà đúng ra là ngựa…cột đuôi” (!). Hình ảnh này xuất hiện từ thời nhà Đường của Trung Quốc. Sự đính chính này càng làm thêm bất ngờ. Tôi hỏi vị họa sĩ ấy vì sao lại là “cột đuôi” và ý nghĩa ra sao thì ông cũng chỉ lắc đầu cũng không biết lý do. Dẫu vậy cũng là một chi tiết khá thú vị khi truy nguyên ý nghĩa của cái sự “cột đuôi ngựa”. Lần tìm mãi cuối cùng cũng được một chi tiết quan trọng, đó là một bức tranh vẽ cảnh "Quắc Quốc và Hàn Quốc Phu nhân cùng các cung nhân và thị nữ cưỡi ngựa đi chơi dã ngoại vào mùa xuân ở bên ngoài thành Trường An”. Hai bà này là hai bà chị ruột của Dương Quý Phi, và đồng thời cũng là Phi tần được Vua Đường Huyền Tông sủng ái. Trong bức tranh, tác giả của bức tranh thể hiện bao nhiêu người thì có bấy nhiêu ngựa, cả người lẫn ngựa đều phục sức và được trang sức hết sức sang trọng, nhìn vào đó người xem có thể mường tượng được phần nào nếp sinh hoạt cự kỳ xa hoa hưởng lạc của giới quý tộc thời Thịnh Đường. Cương ngựa thì bằng bạc hoặc vàng có nạm ngọc, yên ngựa thì được bọc gấm thục tố nhiều màu và thêu thùa cầu kỳ, bờm ngựa được thắt thành ba chùm có trang sức gọi là Tam-hoa, còn đuôi ngựa thì được tết thành bím chung với những sợi tơ óng ả nhiều màu, có khi được cột lại phía dưới như kiểu búi tó. Nguyên bản của tranh này do Lý Tư Huấn vẽ vào thời kỳ Thịnh Đường, về sau lại được vua Huy Tông nhà Tống vẽ lại (phiên bản của Tống Huy Tông hiện do Viện bảo tàng Liêu Ninh cất giữ). Reduced: 62% of original size [ 1024 x 539 ] - Click to view full image Quắc Quốc và Hàn Quốc phu nhân đi dã ngoại mùa xuân (Tranh của Tống Huy Tông [TK thứ 12] vẽ dựa theo tranh gốc của Lý Tư Huấn [TK thứ 8] – Viện bảo tàng tỉnh Liêu Ninh) Như vậy, từ chi tiết trên có thể hiểu hình ảnh ngựa cột đuôi, ngựa đuôi bím hoặc là ngựa đuôi tó là hình ảnh của sự giầu sang, phú quý xa hoa thịnh đạt. Sang giầu là tham vọng và ước mơ của con người cho nên hình tượng con ngựa cột đuôi là hình tượng thể hiện hoài vọng ước muốn may mắn, ước mơ phát phú phát quý được dùng trong phong thủy, có lẽ đã được xuất phát từ đây. Thử trở lại nhìn những tượng ngựa dùng làm vật phẩm may mắn trong phong thủy, dễ dàng tìm thấy đuôi ngựa không phải bị cụt mà được thể hiện thành một đoạn ngắn bó lại hoặc là một tó dài. Và có thể lâu dần trong quá trình sản xuất, người sản xuất cũng không biết tại sao phải tó lại nên từ từ vô tình làm teo đuôi hoặc ngắn cụt đuôi ngựa đi. Một số tượng gốm cổ tam sắc của thời nhà Đường cho thấy người cưỡi trên con ngựa cột đuôi là hình hảnh có thể là người quyền quý thượng lưu hay những người thuộc hàng trung lưu hay chí ít cũng là văn nhân thuộc giới văn sĩ. Một lẽ tất nhiên hoặc đồng bộ rằng dáng vẽ của con ngựa một cách tự nhiên trở nên mềm mại văn tao không còn thấy được nét võ dũng như hình ảnh ngựa truyền thống với đuôi dài bung xòe mạnh mẽ khí thế. Reduced: 85% of original size [ 750 x 1024 ] - Click to view full image Một số hình ảnh ngựa trong mộ Tần Thỉ Hoàng, vật phẩm may mắn và tượng ngựa men tam sắc (cổ vật) thời nhà Đường Nếu theo truyền thống, ngựa được thể hiện qua tranh tượng là hình tượng của sự dũng mảnh, tự do, hoang dại hay chiến thắng cho nên từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây với chiếc đuôi dài dũng mãnh, đi kèm với nó là hình ảnh người anh hùng hoặc chiến binh thì ngược lại một chiến binh cưỡi trên một con ngựa bị cụt đuôi hay cột đuôi thì đó lại là một hình ảnh phảm cảm và tuyệt nhiên không giá trị. Do vậy hình ảnh ngựa cột đuôi hay ngựa đuôi tó là hình ảnh của sự ước mơ sang giầu, phú quý bắt nguồn từ hình của lối sống xa hoa dư dật của các bật vua tôi, vương giả quan quyền, quý tộc của thời nhà "Đường đại thịnh vượng”, một trong các triều đại Trung Hoa cổ. Từ đây có thể thấy rằng việc dùng hình tương ngựa đuôi tó hay cột đuôi làm vật phẩm cầu may trong phong thủy hay dùng làm những vật khí hình tượng trấn yểm trong phong thủy từ trước tới nay là thể hiện mang tính biểu trưng hay ước lệ cho sự cầu mong, hoài mong sự may mắn trong cuộc sống, ước mong giầu sang, phát phú phát quý, tài lộc cường thịnh dồi dào và các vật khí tượng ngựa như là một phương tiện cầu tìm sự trợ giúp, khai thác hiệu ứng của hình tượng trong tương tác với thực tại của phong thủy. Tp HCM, ngày 27/8/2009 Thiên Đồng Tham Khảo: -Cẩm nang phong tục dân gian Ngũ Phúc Lâm Môn, tg Nguyễn Huy Cố, NXB Lao Động Xã Hội. -Phong Thủy trong bất động sản, tg Jo Incheol, NXB Tổng hợp TP HCM. -web vietsciennce.free.fr -web.google.com
  6. Điêu Tàn Sự Nghiệp – Tang Thương Gia Đình Achau - Nguyễn Mạnh Cường Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương Ghi chép lại từ một chuyến đi “Phong thủy cứu trợ” của Thiên Đồng và Achau tại Ban Mê Thuột, thượng tuần tháng Chạp năm Kỷ Sữu. Công ty sản xuất bia chai và nước suối tinh khiết hoạt động chưa đầy hai năm đã nợ nần, hàng hóa không tiêu thụ được, sản phẩm chất lượng kém do lỗi và yếu kém chuyên môn trong quy trình sản xuất, thế là vốn hàng trăm triệu bỏ ra mất trắng, sự nghiệp tiêu tan như làn khói bay. Nhưng điều mất mát đó không đau đớn bằng một mất mát người thân…Người vợ tự tử đã ra đi, bỏ lại hai đứa con gái, một 6 tuổi, một 2 tuổi với người cha, người chồng còn quá trẻ. Đó là câu chuyện của hơn nửa năm trước. *** “Anh Tuấn đó à? Anh khỏe không?” “Ừ, vẫn khỏe, em sao rồi?” “Vợ em mất rồi. Vợ em tự tử mất rồi anh ơi…” Tiếp đó là giọng đầu dây bên kia nghẹn lại. Tôi chợt sững người trước tin dữ… “Anh nói với Sư Phụ giúp em.” “Vài giờ nữa Sư Phụ lại đi Đà Nẳng, rồi ra Hà Nội, chắc lâu. Thôi vậy! Nếu Sư Phụ không có thời gian rảnh thì anh giúp em vậy. Nhưng để anh xin phép Sư Phụ trước đã.” “Dạ, anh cố gắng giúp em. Em rối trí quá rồi.” Tôi báo cho Sư Phụ tin dữ ấy, nhắc lại câu chuyện nửa năm trước, người này cũng nhờ sư phụ xuống xem Phong Thủy. Nhưng sư phụ lại không đi được. Đã giao cho Vothuong đến giúp. Nhưng gọi điện thoại cho anh ta thì không bắt máy. Cấu chuyện đã qua, nay nhắc lại, Sư Phụ chỉ biết thở dài. Tôi xin phép sư phụ Thiên Sứ thay thầy đi giúp người bạn đó. Sư Phụ bảo “Việc này nên hết sức cẩn thận, nếu có đi thì cũng phải có một người đi theo hổ trợ.” Vậy là tôi được phép và cơ duyên đưa đẩy thể nào ngay hôm đó, có anh Achau và anh Hatgaolang đến chơi. Tôi gợi ý cho hai người, anh Hatgaolang bận việc nên từ chối, còn anh Achau nhận lời ngay cho một chuyến “đi bụi”. Tôi hẹn với Achau đi vào tối chủ nhật 24/01/10, anh bảo lùi lại ngày khởi hành sang chủ nhật tuần sau. Nhưng ngay chiều hôm ấy anh Achau gọi lại đổi ý, chuyển đi ngay vào chủ nhật 24/01 như đã định. Thế là hai anh em khăn gói quả mướp đi trong đêm. 9 giờ tối chủ nhật khởi hành, 6 giờ sáng thứ hai thì tới nơi. Cảm nhận cái gió lạnh của vùng cao Ban Mê Thuộc bên ly café, sau khi đã lót dạ tô bún bò, để chờ khổ chủ đến, hai anh em vẫn nghĩ ngợi về cái phong thủy chưa biết đến. 7g thì anh M đến, tiều tụy hơn với gương mặt lộ thần sắc xám xanh biểu hiện sức khỏe thể chất yếu kém và tinh thần không mấy sáng hơn. Sau vài câu trao đổi, chúng tôi tống ba lên xe chạy về nhà M. Trước cổng vào, cây cỏ đã xác sơ tự lúc nào. Mở cánh cửa ra, khung cảnh điêu tàn bày ra trước mắt. “Đất của em đây, trước là nhà, sau là nhà xưởng.”, M nói. Ba người đi thẳng qua khoản sân rộng đến cánh cửa chắn ngang lưng chừng khu đất, tôi chợt giật mình, bèn nói với anh Achau: “Xuyên tâm sát rồi anh ơi, chắc chắn phía sau sẽ thông tuột!” Vừa dứt lời, M mở cánh cửa ra, trước mắt hiện ra ngay một con đường giữa mảnh đất dài hun hút thông tuột từ trước ra sau, kết thúc bằng hai cánh cổng sắt to lớn. Quang cảnh xuống cấp và điêu tàn càng rỏ ràng hơn với hai dãy công trình hai bên là nhà xưởng, khu sản xuất và bồn chứa bia chỉ còn lại trống trãi, xơ xác, tiêu điều, không khí của sự mục nát nặng nề khó tả xốn xang lòng người. Tiếp theo sau cánh cửa cổng cuối là một khoản đất trống khá rộng lớn, cuối mảnh đất ấy là con suối chảy ngang từ phía Bạch Hổ qua phía Thanh Long. Do địa thế vùng cao, cao thấp chập chùng nên khu đất nhà V cũng trong thế ấy, nghĩa là thế đất từ mặt đường vào tới cổng thấp dần, xuống dốc, trôi tuột đến tận cửa cổng sau chót và lại thấp xuống một lần nữa ở bãi đất sau cùng. Thế đất quá rỏ ràng cho sự thoái khí trầm trọng không giữ lại được chút nào cho hai dãy công trình nhà xưởng hai bên. Một thế xuyên tâm kiệt lực báo trước sự sụp đỗ một cơ nghiệp trong giai đoạn ngắn ngủi. Tiếc thay gia chủ lại không biết gì về kiến trúc hay phong thủy. V hỏi tôi có sửa lại để làm khu vực cho thuê phòng trọ được không. Tôi bảo được và lên phương án cải tạo theo phong thủy theo hướng chuyển khu vực nhà xưởng thành nơi cho thuê ở trọ. Một hồi suy tính, anh Achau đề nghị chuyển hướng tư vấn vì xét thấy trên thực tế khổ chủ không còn khả năng tài chánh để cải tạo theo phong thủy và nếu có cải tạo thì khả năng hoàn vốn rất nhiêu khê trong một thời gian dài. Anh đề nghị một giải pháp cấp thời, bỏ hẳn khu nhà xưởng phía sau bằng cách xây chận hẳn một bức tường chặn ngang khu đất với mục đích chỉ tụ khí phần trước mảnh đất nhằm cải tạo sức khỏe của bố con và cải tạo kinh tế tạm thời, bởi trên thực tế M cũng không còn tiền để tính đến những việc lớn hơn mặc dù ý nghĩ kinh doanh vẫn còn nung nấu. Vậy là phương án chận bức tường là khả thi nhất với chi phí thật thấp phù hợp với khả năng, song song đó là việc tư vấn chỉnh sửa trong nội thất nhà M đang ở với vợ và hai con từ trước đến nay. Vậy là giải pháp gọn nhẹ và trơn tru. Gần chiều, M đề nghị vào nhà mẹ của M tư vấn phong thủy cho cái nhà vừa xây xong. Ba anh em lại chở nhau trên một xe đến nhà mẹ M sau khi đã qua vài con dốc gập ghềnh khúc khuỷu. Sau việc tư vấn ở nhà M, tôi và anh Achau đi bộ ra đầu thôn nhâm nhi vài ly bia nghĩ ngợi. Anh Achau hỏi xét xem yếu tố nào của phong thủy dẫn đến việc người vợ tự tử không? Tôi võ đoán trả lời rằng “Có thể là hai yếu tố phạm nặng là giếng ở cung Khôn (Đông Nam) và trung cung bị xuyên tâm sát phần âm trạch do con mương thông dài đến cuối đất băng ngang trung cung. Vì cung Khôn và trung cung là tượng cho người nữ, người mẹ, nay bị phạm phương đào giếng và trung cung bị dương khí xâm hại, có thể đây là lý do chủ yếu nặng nhất”. Việc này đưa đến một suy nghĩ và quyết đinh nhanh chóng trong đầu Achau là nên khuyên bán mảnh đất đó đi, vì xét thấy rỏ ràng mảnh đất quá xấu về mặt phong thủy và có thể không tốt cho người con gái sau này. Vậy là anh em nhất trí. Trở lại nhà M sau vài ly bia, trời Ban Mê đã sập tối, cùng lúc ấy có mẹ của V ở nhà, anh Achau lại một phen dùng lời thuyết phục như một thuyết khách cho phương án chỉnh cho ở tạm và khi thấy ổn rồi thì bán. May thay cả mẹ M và khổ chủ đồng tình với ý ấy. Một buổi nhậu đơn sơ trong gió lạnh của Ban Mê trước giờ chia tay. Nhiều tâm sự và nhiều lời tư vấn sâu sắc của anh Achau về cuộc sống làm quên đi cái lạnh của những cơn gió thốc vùng cao. Có lẽ đây cũng là một duyên số cho cuộc hội ngộ muộn màng trong một hoàn cảnh không thể khác. Chúng tôi lại từ giả trong cái lạnh của đêm cao nguyên với nỗi niềm còn trĩu nặng về số phận và đời người. Tôi chợt nhớ lại cách đây hơn ba tháng, trong một chuyến đi công tác ở Ban Mê của Vothuong, tôi có nhắn Sư đệ này đến giúp đỡ M hòng gỡ gạt được gì không, Vothuong đồng ý, nhưng không hiểu sao các số điện thoại liên lạc đều không liên hệ được. Vothuong cũng đành buông câu “Chắc chưa tới duyên”. Cho đến khi tôi nhận được hung tin thì đã quá muộn. Sự mất mát lớn, cho dẫu là tài sản hay kim hoàn của thế gian thì không gì bằng một người thân. Một tài sản không bao giờ có lại được. Đêm cao nguyên cùng chuyến xe lao vút trong màn đêm bất tận… Cổng trước vào nhà Sân trong nhà bên màu xanh là nhà V... Từ trong nhìn ra cổng, chú cẩu giữ nhà. :P Cửa vào xưởng sản xuất Thông thẳng tuột! Cổng sau nhà Một góc sân Thiên Đồng và Achau vừa đi bụi vừa đi Phong Thủy cứu trợ :lol: Phân Tích Phong Thủy "Mảnh đất điêu tàn" Toàn khu đất có hình một lưỡi đao hoặc có thể nhìn ra là một con cá bị cụt phần đuôi. Khu đất bị thế xuyên tâm sát với con đường chạy gần như thẳng tuột ở giữa từ cửa trước thông ra cửa sau. Chính vì lý do này nên dương khí ở đây bị thoái hoàn toàn, không giữ lại được tí nào cho các công trình hai bên trái phải. Hơn nữa do địa hình Buôn Mê Thuộc là đồi núi chập chùng, đường đi lên đồi xuống dốc nên địa thế khu đất có thế xuống dốc dần so với điểm cao là mặt đường và nền nhà phía sau đến cửa cổng cuối thấp hơn so với mặt đường gần hơn 1,2m. mặt khác do địa lý vùng cao gió thổi rất mạnh và gió lộng nên khí dể bị tán đi, tản mác. Vì vậy thế "Xuyên Tâm Sát" của khu đất càng trở nên cực xấu khi dương khí bị thế đất thấp làm trôi tuột nhanh hơn cộng thêm đặc điểm khí hậu gió thổi mạnh thì lực phản khí hay tán khí càng mạnh. Vô khí. Thế bên trong thì thoái khí, còn bên ngoài cũng bị thoái khí mất.Từ trong khu đất nhìn ra, con đường trước khu đất thấp dần, trượt dốc từ trái qua phải, trong khi đó khu đất nhà hàng xóm bên tay Hổ có thế thất hơn tạo thành địa hình giống như một con hẽm, do vậy dương khí từ con đường đổ đến, chưa kịp đổ vào cổng của khu đất nhà Vinh thì đã thoái qua nhà hàng xóm. Đấy là phần dương trạch bị sát. Còn lại phần âm trạch vừa bị phạm phương và vừa bị sát không kém. Phương kiêng kị đào giếng là phương khôn thì nay lại có giếng ngay phương ấy. Một con mương, cũng là đường cống thoát nhước cho khu vực được đào thành một đường thông tuột giữa khu đất, xuyên qua trung cung cắt đứt trạch đất thải nước ra khu đất phía sau. Nghĩa là địa khí cũng một đường thông tuột trôi đi mất. Có thể tưởng tượng một con cá bị cắt phần thân đuôi, khí huyết và tinh tủy từ xương sống tuông ra chẳng giữ lại, nghĩa là sinh khí chẳng có gì. Khí mạch tiêu tán đến cạn kiệt đi hết không giữ lại được. Trung cung và phương Khôn đều là tượng thổ, đều tượng trưng cho người phụ nữ, nay bị phạm tất cả, đều là yếu tố nặng nề ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của nữ chủ nhân. Dương trạch và âm trạch đều bị phạm sát một cách khốc liệt tránh sao bại vong? Phía sau khu đất là một bãi đất cỏ rộng dài hơn 40m và cuối mảnh đất này là một con suối nhỏ chạy từ hướng Hổ sang hướng Long góp phần tạo thêm yếu tố xấu cho phong thủy khu đất nhà V. Yếu tố này cũng có thể gọi là “Thượng sơn hạ thủy” theo Loan Đầu. Dương khí trôi tuột ra sau đi trôi đi và tản đi càng nhanh hơn do dòng suối đưa đẩy. Xét theo Bát trạch, khu đất được hướng Phúc đức trạch theo Phong Thủy Lạc Việt, nhưng cũng không đỡ nỗi bởi thất bại về yếu tố dương trạch và Loan Đầu. Xét trên Lạc Việt Bát Tinh Biến Hóa thì cách của khu đất không bị thế “Nhị quỷ phù tang xa” (Hai quỷ kéo xe tang) nhưng Phần đất trước là Phục Vị Tả phù kim tinh, phần đất sau khu nhà xưởng là Họa Hại Lộc Tồn Tinh, nghĩa là đã phạm cách xấu theo kiểu “Hậu viên tàn họa”. Tuy vậy theo Thiên Đồng xét thấy thì khu này bị phạm thế tạm gọi là “Nhị Quỷ hầu Ma Đao”. Bởi theo Lạc Việt Bát Tinh Biến Hóa, con đường ở giữa ứng vào sao Phục Vị Tả Phù âm Kim đới Thủy tinh, dãy công trình bên Tay Long bị sao Họa Hại Lộc Tồn Tinh hãm chiếu, ẩn tàn tai họa bất ngờ, rủi ro rình rập, dãy công trình bên Tay Hổ bị cách Tuyệt Mạng Phá Quân kim tinh chủ quản hưng bại, tự ải. Con đường ở giữa khu đất hiển hiện ra như thanh Đại Ma Đao với tính sát khí nặng nề, theo nguyên lý “Hình Lý Khí”, hiển nhiên tính sát của thanh Đại Ma Đao này càng lớn không kém khi hai bên là hai Hung Tinh luôn hầu cận, vì vậy tính sát của thanh đao do Nhị Quỷ hầu cận càng trở nên nguy hiểm và kết cuộc là sự bại vong cho một cơ nghiệp chỉ tồn tại chưa đầy hai năm. Giải Pháp Phong Thủy Lạc Việt Đây là giải pháp được đưa ra dựa trên thực tế gia cảnh của gia chủ đang rất hạn chế và yếu kém về tài chánh, khả năng tái đầu tư là không có và do tính chất xấu của hiện trạng khu đất. Anh Achau đưa ra giải pháp chận bức tường ngăn, bỏ hẳn phần đất trước nhằm tụ khí cho nhanh giải quyết về mặt sức khỏe và ổn định công việc hoặc kinh tế cá nhân nếu có thể. Lợi dụng thế ấy Thiên Đồng cho cho hoán chuyển địa cuộc bằng một bức tường ở giữa ngay vị trí của vào khu nhà xưởng cùng với việc bịt hẳn cổng sau. Vậy là thế đất trở lại với tinh vận tốt do Phục Vị Tả Phù Kim tinh quản thủ tiên phong, khống chế Ác Tinh Họa Hại Lộc Tồn Mộc Tinh không cho gây tác hại, cùng với việc quản chuyễn cát tinh Thiên Y Cự Môn tinh yểm trấn và khống chế hậu đài của toàn khu nhà xưởng. Để kích hoạt tụ khí cho nhanh và hiệu quả, Thiên Đồng cùng khổ chủ ngay trong ngày thực hiện “Cẩu Ngọa Yếm Pháp” nhằm mau chống tụ địa khí thay cho phần dương khí tiêu tán. Phần trước cổng, bên tay Hổ cho xây một bức tường cao và dài ra gần đường nhằm đón khí của con đường dốc từ hướng Long chảy qua hướng Hổ vào khoản sân trước cổng nhà đất gia chủ để không bị thoái sang bên nhà hàng xóm. Đồng thời những cây mục nát tiêu đều trước cổng đều phải được dọn sạch để đón khí cát lành. Tuy vậy, điều đáng phải nghĩ tới là khi chặn tường bỏ hẳn phần đất sau thì chỉ còn xét yếu tố Bát trạch Lạc Việt ở phần đất trên như hình vẽ, lúc này Giếng sẽ rơi vào phương Càn, phương kiêng kị và sẽ hại chủ nhà về mặt sức khỏe, Quý nhân hay đau đầu. Do vậy giải pháp tình thế để tụ khí cải thiện tạm thời được đưa ra rồi sau đó phải bán toàn khu đất đi là rất hợp lý. Sau đó là việc chỉnh sửa bếp và cầu thang và một vài tiểu tiết trong nhà V, cái nhà cũng mang hình thể thiên thẹo lệch lạc bên ngoài và lệch tầng bên trong. Phàm những nhà thiên lệch, tâm tư tình cảm của gia chủ dễ khiến bất an, chưa kể đến chuyện khuyết cung hay thừa phương chênh lệch. Đó là những giải pháp tình thế chẳng thể nào khác hơn mà Thiên Đồng cùng Achau đưa ra theo quan điểm Phong Thủy Lạc Việt nhằm giải quyết cho một hoàn cảnh mà toàn phương thất bại. Chắc hẳn đây chưa phải là một giải pháp hoàn hảo , do vậy cũng nhằm trau dồi và học hỏi thêm nhiều điều quý báu, chúng mong các anh chị em quan tâm, yêu thích học thuật cùng các cao nhân trao đổi và chỉ dạy thêm. Kính bút, Achau - Thiên Đồng
  7. Cá Trê Là một loại cá phổ biến, chế biến được nhiều món ăn ngon, rất thông dụng cho mọi gia đình. Nếu đem cá trê làm sạch, cắt từng lát mỏng, lấy mủ cây dứa tẩm nướng nhiều lần cho các chín rồi ăn, mỗi lần ăn một con chừng 100g, ăn nhiều lần sẽ trị được bịnh hen suyễn. Cua Đồng Cua đồng dùng để nấu bún riêu, rang muối hay nấu canh chua… ăn đều ngon. Đem cua đồng đâm nát, hột đào sao vàng bỏ vỏ, tán nhuyễn. Hai thứ hòa lại cho uống, lát sau người bịnh sẽ ói mửa, chữa khỏi chứng bịnh trúng gió làm lưng co rút. Cua Biển Là một loại hải sản được nhiều người ưa thích, chế biến được nhiều món ăn phong phú. Khi bị bịnh bao tử, bạn có thể lấy một con cua biển cùng một nắm lá dứa gai đem đâm nhuyễn, vắt lấy nước uống, bịnh sẽ thuyên giảm dần dần. Thịt Cóc Có ít người biết ăn. Thật ra thịt cóc ăn ngọt và bổ hơn cả thịt ếch. Những em nhỏ bị bịnh tôm tích bụng to da bủn, hay bị bịnh còi xương ốm o chậm lớn, bạn hãy nấu cháo cóc, hoặc nướng cóc cho chúng ăn thường, sẽ thoát khỏi hai chứng bịnh trên. Gan Heo Là một món ăn cao cấp, được chế biến trong rất nhiều món ăn. Trong y học, nếu bạn lấy một miếng gan heo xắt lát, trét cức gà sáp lên, nướng cho chín. Đứa trẻ nào bị bịnh ban khỉ ốm o, rút ráy, cho ăn món nầy rất tốt. Đây là một toa thuốc chữa mẹo, do kinh nghiệm dân gian, rất có hiệu quả. Gan heo còn dùng để ăn bổ gan, theo cách chế biến sau đây: Gan heo xắt miếng chưng cách thủy với bông nách, hoặc lá cây lẻ bạn xắt nhuyễn, để thêm một chút đường phèn, một chút muối. Tim Heo Tim là một trong những thứ ngon ở con heo. Nếu bạn muốn vừa ăn ngon vừa trị được bịnh, xin làm theo cách nầy: lấy một trái tim heo xắt miếng vừa ăn, chưng cách thủy với bông nách, hoặc lá cây lẻ bạn xắt chỉ, để vô một ít đường phèn, ăn cái và uống cả nước sẽ trị được bịnh yếu tim. Cật Heo Đem một trái thận heo xắt miếng rồi cũng chưng như cách trên, ăn thường sẽ trị được bịnh đau thận. Thịt Rùa Rùa là một món ăn đặc sản đắc giá, có thể nấu được các món: rang muối, xé phay, nấu cà ri, xào lăn, nấu thuốc bắc… Ở đây, những người có bịnh tim lớn, nên ăn thịt rùa để trị bịnh bằng cách này: chọn con rùa yếm vàng, lấy dây tơ hồng quấn quanh nó, để con rùa vào một cái tô lớn, chế nước một trái dừa xiêm vào, đem chưng cách thủy, ăn ba con trong sáu tháng, bịnh sẽ thuyên giảm thấy rõ. Ốc Bươu Là loại ốc được sử dụng và chế biến ra thành nhiều món ăn nhứt. Khi thấy em nhỏ nào do bị bịnh ban trái mà mắt kéo mây, bạn hãy lấy một con ốc bươu đem nướng, khi nó chín há miệng ra, bạn chắt lấy nước trong vỏ nó, hòa với băng phiến, long não, lọc lấy nước trong nhỏ vào mắt, mây sẽ tan. Trứng Là một loại thực phẩm rất dễ ăn và ăn ngon. Trong trứng chứa nhiều sinh tố A và B rất cần thiết cho sự phát triển cơ thể của trẻ em. Túm lại là con nào cũng thành món thuốc hết.
  8. Thịt Cá Vịt Xiêm: Khi có người thân bị bệnh suy6e4n kinh niên, bạn hãy thử làm món ăn nầy cho người bệnh ăn nhiều lần sẽ có hiệu quả: 01 trái bưởi móc ruột 01 con vịt xiêm còn nhỏ làm cho sạch. Nhét con vịt xiêm vào trong vỏ trái bưởi, buộc lại, đem chưng cho rụt, ăn cả cái lẫn nước. Trùng Hổ Trông hình thù thấy sợ, nhưng nếu a biết ăn thì rất ngon. Ở Nhật và nhiều nước trên thế giới người ta phát triển ngành nuôi trùng và đưa thịt trùng vào công nghệ thực phẩm, đem trùng xay thành bột để làm bánh buýt - quy, bánh ngọt...Ở các vùng nông thôn Việt Nam, người dân biết bắt trung rồi lộng lại làm sạch như ruột gà, nấu canh bí xanh ăn rất ngọt ngon. Những người bị sốt rét kinh niên, nên bắt trung làm sạch, đem bằm chung với thịt nạc, nấu cháo, để tiêu cho cay, ăn nóng, ăn xong trùm mền cho xuất hản mồ hôi. Ăn được nhiều lần, bệnh sẽ bị xua tan. (Thảo nào có một độ, người ta đồn là các xe mì gõ, nước lèo được nấu bằng trùng, nhưng là trùng chỉ mới kinh khủng! Nếu là trùng đất thì thật là tốt biết bao...) Lươn Lươn là một loại đặc sản phổ biến rộng rãi. Từ con lươn, người ta có thể chế biến ra hàng chục món ăn ngon bổ khác nhau. Đây là toa thuốc có thịt lươn dùng để trị bệnh đau thận: 01 con lươn nửa kg được làm sạch. 01 nắm lá ngải cứu thái nhỏ. 01 nắm nếp lứt. 02 củ hành. Tất cả nấu nhừ, ăn lạt với cơm. Mỗi tháng ăn được 03 lần, rất bổ thận. (Cái này quý ông rất khoái!) Còn nữa
  9. @canhcut Cháu chào chú Thiên Đồng, nhờ chú xem giúp cháu với: Cháu là nữ sinh năm Canh Ngọ Giờ hỏi: 17giờ 43 phút, ngày 28 tháng 2 năm 2012 dương lịch - Cháu có cơ hội gặp lại người đó nữa ko? :( Có, sẽ bất ngờ lắm. - Bao giờ thì cháu xin được việc ạ? Tháng 4 hay 5 âm - Bố mẹ cháu bao giờ thì đòi được tiền nợ ạ? Nhanh tháng 4 chậm tháng 8 âm. Chúc chú sức khỏe và niềm vui Thiên Đồng
  10. @Ke Tham Lam Kính nhờ chú Thiên Đồng giúp con . Con là Nam, sinh năm Nhâm Thân, con hỏi lúc 17h05p ngày 28 tháng 2 năm 2012 Dương. Mong chú giải đáp cho con thắc mắc sau: 1. Gần đây con gặp nhiều rắc rối, mọi chuyện không theo ý mình. Nguyên nhân là do đâu thưa chú? Cũng chuyện tình cảm thôi mà. 2. Giải quyết việc này thế nào và khi nào thì ổn thỏa ạ? Qua hết tháng 3 âm. 3. Con muốn hỏi chú học kì này con có được học bổng không ạ? Không. Mấy hôm trước con có lập 1 topic riêng về việc khó khăn của mình, nhưng chắc chú bận quá nên chưa để ý tới. Vậy nếu chú trả lời ở đây rồi thì không cần vô topic kia nữa thưa chú. Con cám ơn và mong tin chú sớm ạ. Chúc chú sức khỏe. @lebakhanh Chào bác Thiên Đồng Anh cho em hỏi chút: Hỏi lúc 17h10 phút ngày 28/2/2012: Giới tính: Nam Tuổi: Nhâm Tuất (đây là lá số của em : http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 ) Câu hỏi 1 : Gia đạo của em năm nay như thế nào? có nhiều chuyện bất hòa nhỏ, nhưng cũng ổn thỏa, có tin vui từ phưng xa đến. Câu hỏi 2: Công việc của em năm nay có thuận lợi hay không? Không thuận lợi, nhưng vẫn đạt kết quả khả quan. Câu hỏi 3: Có thay đổi vị trí làm việc trong thời gian tới không? Tưởng có nhưng chưa. Em xin chân thành cảm ơn @Pham - Man Cám ơn bác Thiên Đồng đã trả lời cháu sớm như vậy. Nếu cháu có duyên được bác trả lời, mong bác hãy giúp cháu thêm 3 câu nữa. Nếu không được thì cũng không sao, vì cháu biết có nhiều người đang đợi bác trả lời. Câu hỏi lúc 17h 17 phút ngày 28 tháng 2 năm 2012 1. Cháu hiện đang có em bé được vài tuần (năm Nhâm Thìn), nhưng năm nay cháu tam tai, cháu chỉ muốn hỏi là cháu sinh bé có được mẹ tròn con vuông không? Sẽ tốt. Không đáng lo. Đứa này hợp tuổi, gia đình sẽ ổn thỏa. 2. Khi nào cháu có nhà riêng ạ? nhanh 2 năm, chậm 4 năm. 3. Vợ chồng cháu lấy nhau nhằm năm tam tai của chồng, nên 4 năm nay không ở gần nhau và cự cãi nhau hoài. Vợ chồng cháu có sống với nhau lâu dài không ạ? Sau này cháu có phụ thuộc chồng cháu không (về tài chính hoặc điều khác)? Đầu bạc trọc răng sâu lung lay. Có, chồng lo. Cám ơn bác đã đọc câu hỏi của cháu. Xin lượng thứ vì cháu đã làm phiền bác thêm lần này nữa. Chúc bác sinh nhật vui.
  11. @ pham-man Chào bác Thiên Đồng, Nhờ bác xem giúp cho cháu. Cháu (nữ) tuổi Canh Thân (1980) Hỏi vào ngày ngày 27 tháng 2 năm 2012 vào lúc 18h 05 phút Dương Lịch Câu hỏi 1: Sau này cháu nên về Cần Thơ sống, hay vẫn sống ở Kiên Giang? Sẽ về Cần thơ Câu hỏi 2: 10 năm nay chồng cháu (1981 Tân Dậu) (kể cả khi chưa lấy cháu và khi đã lấy cháu) làm ăn luôn thất bại, tiền bạc ra hết, nợ nần nhiều. Khi nào công việc chồng cháu khởi sắc hơn? Nhanh thì 2 năm chậm thì 7 năm nữa sẽ khá. Câu hỏi 3: Cháu hiện đang làm giáo viên, nhưng cũng làm bán thời gian việc khác. Thu nhập tạm đủ để sống từ công việc bán thời gian này. Sau này cháu có dạy học nữa không hay chuyển sang làm nghề khác? Sẽ chuyển sang buôn bán, kinh doanh hay nghề khác. Nên sinh đức Nhâm thìn và (hay) quý tị 2013 sẽ tốt Cám ơn bác đã dành thời gian cho cháu. Cám ơn bác rất nhiều. @Zingme Thưa chú, cháu xin hỏi 1 điều thôi, rất mong nhận đc hồi đáp của chú ạ. Tuổi: Kỷ Tị - Giờ hỏi : 18h 22p ngày 27/2/2012 ( DL) Câu hỏi: Dự định vào chiều ngày 1/3/2012 ( DL) tới gia đình cháu sẽ có cuộc gặp gỡ. Xin cho cháu hỏi: Kết quả như thế nào? Có tốt đẹp hay ko? Lúc đầu có hơi khó khăn, nhưng sau sẽ ổn thỏa êm xuôi. Cháu xin cảm ơn chú ! @hmtt Chào anh Thiên Đồng Anh cho em hỏi chút: Hỏi lúc 10h22 phút ngày 28/2/2012: Em tuổi Quý Hợi (đây là lá số của em : http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 ) Câu hỏi 1 : Em có mua cổ phiếu của Công ty phát hành cuối năm 2011, hiện nay cổ phiếu đã giao dịch trên sàn chứng khoán với giá bằng giá gốc. Vậy em có nên bán để lấy lại vốn không hay là chờ thêm 1 thời gian nữa để nó lên chút đỉnh rồi bán để kiếm thêm chút lời? Nếu mà chờ cho cổ phiếu lên để bán thì thời điểm bán khoảng tháng mấy? Nên bán ra, không chờ, trong vòng 8 ngày có thể giá lên chút. Giữ lại sau này khó bán. Câu hỏi 2: Liệu năm nay em có tích cóp đủ tiền để làm nhà không? Cái này khó. qua tháng 6 âm ổn thì được, không thì huề luôn Câu hỏi 3: Đường công danh của chồng em sau này có tốt không? Rất ổn, tuy chuyển biến chậm nhưng là thành đạt. Trong vòng từ 8 đến 10 năm. Em xin cảm ơn @Mrtata Cảm ơn bác Thiên Đồng nhiều ạ. Về việc hùn vốn thì hiện đã hùn hạp và đang triển khai rồi ạ. Nhưng người quản lý chính là cháu và em sinh 91, anh sinh năm 1978 chủ yếu hỗ trợ bước đầu thôi ạ. Về việc sinh con thì năm nay chắc ko kịp vì cháu chưa cưới vợ:) Không biết năm Tỵ cháu cưới thì sinh con năm Tỵ, Ngọ có tạm được ko ạ:) Chọn vợ đi rồi tính. Hì, phiền bác thêm chút nữa ạ:)
  12. TÂM LINH KHÔNG TÔN GIÁO Hỏi và đáp Hỏi: Chúng ta đều là con người và dường như tất cả chúng ta đều có cố chấp. Chúng ta sinh ra là như vậy. Vậy, mục đích được sinh ra với tất cả những cố chấp đó là gì? Chúng ta là một phần của tự nhiên nhưng trong chừng mực nào đó chúng ta lại có những cố chấp này. Tôi hiểu rằng tốt hơn là không có cố chấp nhưng tại sao chúng ta lại có những cố chấp đó? Thưa Ngài vấn đề này là như thế nào? Trả lời: Đây là một câu hỏi thú vị. Chúng ta được sinh ra như vậy... Tôi không biết lý do tại sao! Ha! Ha! Ha! Đó là những điều chúng ta phải nghiên cứu. Bạn có nghĩ như vậy không? Tôi thực sự không biết tại sao lại như vậy, nhưng chúng ta có xu hướng đó. Tôi đoán đó là xu hướng hoặc thiên hướng được phát triển qua nhiều thế kỷ và nhiều thế hệ kể từ vô thủy luân hồi tới tận ngày nay. Do vậy, chúng ta có thiên hướng và xu hướng mãnh liệt đó. Tôi cho rằng đó là lí do tại sao điều đó gần như xuất hiện đồng thời. Đó là lý do chúng ta có thuộc tính đó. Tuy nhiên, hiện nay thực sự có cơ hội để hiểu biết về điều đó. Đó là lí do tại sao chúng ta phải làm việc siêng năng. Thật không dễ dàng gì. Trên lý thuyết thì có vẻ dễ dàng nhưng trên thực tế thì lại không. Điều đó khó lý giải vì nó đã tồn tại từ bao đời nay. Hỏi: Nếu như chúng ta va đầu vào một cánh cửa thì lập tức chúng ta nổi giận. Điều này có tự nhiên không? Tôi cho rằng việc cảm thấy tức giận vào thời điểm đó là chuyện tự nhiên. Trả lời: Đúng, theo quan điểm của chúng ta thì điều đó tự nhiên. Theo quan điểm của chúng ta, điều đó rất tự nhiên...ha, ha, ha! Điều đó tự nhiên nhưng không phải là tự nhiên, bạn có hiểu không? Đừng hiểu sai điều đó... bất kể khi nào bạn trở nên tức giận với những điều này, thì theo quan điểm của tự nhiên, điều đó không tự nhiên. Nhưng theo quan điểm tương đối của chúng ta thì điều đó là tự nhiên. Đó là những điều tôi muốn nói. Hỏi: Nhiều người trong số chúng ta đang vật lộn với tâm linh. Có những phương thức nào tốt nhất để nhận thấy một số hoạt động không tốt của chúng ta trên thế giới được dừng lại? Chẳng hạn, chúng ta có nên cấm săn bắn, cấm vũ khí hạt nhân và cấm chiến tranh. Chúng ta cần cấm đến mức độ nào? Trả lời: Tôi không cấm điều gì cả! Ha, ha, ha! Nhưng vào thời điểm hiện tại việc cấm săn bắn, hoặc cấm điều này hay điều kia là một ý tưởng rất hay. Điều này rất tốt, nhưng nó sẽ không có ích gì! Nó không bao giờ là điều cốt yếu bởi vì mọi người cần có tri thức thực sự. Họ cần tìm ra cái đích trong chính bản thân họ, tôi sẽ nói đó là tâm linh. Có thể tôi đang nghĩ vị kỷ, nhưng họ phải ngăn cấm tất cả những điều này trong bản thân họ thông qua sự hiểu biết. Nếu không, tôi không biết cần phải cấm điều này hay điều kia đến mức nào. Tôi không thể trả lời được câu hỏi này nhưng dẫu sao việc phát triển tâm linh là phương thức cấm có hiệu quả nhất! “Việc cấm có hiệu quả” là sự giải thoát cho chính bạn và tạo cho bạn sự tự do. Đó là vấn đề. Lấy ví dụ như, một khi chúng ta hoàn toàn giải phóng bản thân thì bạn sẽ không đi săn. Bạn sẽ không làm điều gì tiêu cực. Bạn sẽ thành tựu giác ngộ như Đức Phật. Đức Phật không làm những điều vô nghĩa này bởi Ngài không có nhu cầu. Việc cấm đoán là bởi vì những hành động vô nghĩa như vậy bị tạo ra từ cạm bẫy vô minh. Hỏi: Ngài có cho rằng khả năng thực hành tâm linh của chúng ta và việc vô chấp phụ thuộc vào đời sống trong quá khứ hay nghiệp không? Bởi vì dường như một số người thấy việc thực hành và cư xử theo cách này dễ dàng hơn? Điều đó có đúng không? Trả lời: Điều này phụ thuộc rất nhiều vào sự chuẩnbị mà bạn đã làm trong đời trước hay là trong thời gian trước đây của đời này. Những người thấy rất dễ dàng thực hành tâm linh nhất định đã có sự chuẩn bị trước đó. Dẫu sao, tất cả chúng ta đều đang trải qua quá trình chuẩn bị đó. Một số người phải đỉnh lễ hàng trăm, hàng triệu lần, và phải làm điều này hoặc điều kia. Tuy nhiên, nếu như bạn không hướng đến một mục đích nào, vậy thì thực hành tâm linh có ý nghĩa gì? Ngay lúc này, có thể có người sẽ hỏi: “Thực hành tâm linh có ý nghĩa gì? Phải đỉnh lễ để làm gì? Việc cúng dường mandala để làm gì? Thiền định hoặc trì tụng để làm gì”? Nhưng bạn có một mục đích - đó là để hiểu rằng chẳng có gì cần phải hiểu! Ha, ha! Vậy đấy! Hỏi: Hầu hết những người thực hành tâm linh đều có sự chấp thủ với các bậc Thầy. Ngài có thể chỉ dạy về vấn đề đó theo một cách tích cực không? Trả lời: A!. Đó là một câu hỏi khó! Ha, ha, ha! Đây là một câu hỏi phức tạp nhất. Tôi đang cố gắng tìm ra một câu trả lời đơn giản. Thành thực mà nói, tôi không có chấp thủ với Thầy của mình. Đó là sự thật. Đó là lý do tại sao tôi không hiểu được tại sao các học trò của tôi lại có sự chấp thủ chặt chẽ với tôi đến vậy; bởi vì tôi không trải nghiệm theo cách đó. Khi tôi gặp bậc Thầy, ngay lập tức bậc Thầy chuyển hóa thành Đại thủ ấn (Mahamudra), Đại toàn thiện (Dzogchen) và con đườngTrung đạo (Madyamika). Vậy, không có điều khiến tôi chấp thủ. Bởi vậy, thật khó hiểu tại sao và bằng cách nào mọi người lại chấp thủ. Tôi chỉ có thể đoán được lý do những người thực hành khác lại chấp thủ bởi vì có thể đối với họ thì bậc Thầy giống như một người bạn đồng hành. Đồng thời cũng có bậc Thầy được coi là người làm tất cả mọi điều để hoàn thành tâm nguyện của những người khác. Thật tội nghiệp! Bậc Thầy đó phải trở thành người cha, người bạn, đồng nghiệp... mọi thứ! Tội nghiệp, bậc Thầy đó phải làm nhiều điều.Khi bạn dịch thuật ngữ “Guru”, có nghĩa là một người gánh nhiều trách nhiệm năng nề trên vai. Tôi nghĩ điều này là sự thật; bậc Thầy có nhiều thứ để đảm trách. Thực sự thì giờ phút bạn gặp bậc Thầy, bậc Thầy cần thực sự được coi là Trung đạo (Madyamika), là Đại toàn thiện (Dzogchen). bậc Thầy không nên được coi là một con người. Khoảnh khắc mà bạn thấy hình ảnh con người của bậc Thầy đó là lúc bạn chấp thủ – Bạn không phải nói thêm gì nữa. Đó chính là chấp thủ và tôi nói rằng đó không phải cách hoàn toàn phù hợp để tiếp cận với bậc Thầy. Đó là lý do tại sao trong Mật Thừa (Tantrayana) hay Kim cương thừa (Thừa bí mật) chúng ta luôn nói rằng bậc Thầy cần được coi là Kim Cương Trì (Vajradhara), Phật A Di Đà (Amitabha) hay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Có rất nhiều cách để diễn đạt vấn đề này. Điều này thực sự có nghĩa là bậc Thầy cần được coi như lý Trung đạo (Madyamika) hay Đại Toàn Thiện (Dzogchen). Tuy nhiên, ngay lúc này chúng ta rất khó để hiểu được lý Trung đạo (Madyamika), Đại Toàn Thiện (Dzogchen) hay Đại Thủ ấn (Mahamudra) là gì. Vậy, tạm thời các bạn sẽ được giới thiệu về bậc Thầy là Kim Cương Trì (Vajradhara), một Đức Phật có màu xanh dương, ngài có hình dạng và màu sắc riêng. Điều này không có nghĩa là bậc Thầy phải có màu xanh da trời, với một vương miện lạ, cầm trong tay những vật lạ và những gì tương tự như thế. Tôi không tin các bậcThầy có màu xanh da trời, màu trắng hay màu đỏ (giống như Đức Phật A Di Đà (Amitabha). Tôi không biết là tại sao chúng ta lại thích bậc Thầy có màu đỏ hoặc màu xanh da trời, nhưng đó là phương tiện thiện xảo để dẫn bạn đến với Đại thủ ấn (Mahamudra), đến ý tưởng rằng bậc Thầy là Đại thủ ấn. Đó là cách đúng đắn để tiếp cận bậc Thầy. Đừng bao giờ coi bậc thày là một con người. Chắc chắn là như vậy! Dĩ nhiên, hiện tại thì chúng ta chưa ý thức ngay được điều đó, vì vậy, chúng ta vật lộn với suy nghĩ bậc Thầy là một con người. Nếu bạn đã trải qua điều đó, thì trên đây là vài lời khuyên: bậc Thầy có hình tướng của con người nhưng thực sự chỉ để giúp bạn giác ngộ.Rốt cuộc đó là toàn bộ vấn đề. Tôi hi vọng rằng điều này sẽ giúp một vài người trong số các bạn nhận ra và thực sự tiến bộ để trưởng dưỡng chính bạn và cuộc sống của bạn. Phật, Pháp, hay tâm linh thực ra là quá trình phát triển lối sống của con người, từ đời này sang đời khác. Đó là điều chủ yếu mà bạn phải hiểu. Bạn đừng bao giờ quan trọng hóa tâm linh, tôn giáo, Trung đạo, thực hành tâm linh hay bậc Thầy. Các đệ tử đừng bao giờ quan trọng hóa! Các bạn nên cố gắng bình thường một cách tối đa trong mọi thời điểm. Đó là những gì mà tôi luôn muốn nói. Đôi khi có nhiều người bảo tôi rằng: “Ngài là người rất đặc biệt. Ngài rất vĩ đại, hay thế này thế khác!”. Lạy Phật, tôi không muốn nghe điều đó! Làm ơn đừng nói như vậy! Tôi muốn các bạn nói rằng: “Ngài là người rất bình thường”. Điều đó rất tốt. Tôi thích là người bình thường. Bạn nên có thái độ bình thường đối với mọi việc. Điều này rất quan trọng. Qua việc coi mọi chuyện là bình thường, bạn sẽ có khả năng phát triển lối sống, cuộc sống hàng ngày của bản thân, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng trong vòng quay sinh tồn của bạn. Đó là những điều tôi mong muốn từ tận đáy lòng mình. Sau khi nghe bài giảng của tôi, hoặc bạn có thể gọi là gì cũng được, sẽ có những điều đọng lại trong tâm trí khi bạn trở về nhà. Điều này rất quan trọng. Tôi cho rằng điều này sẽ hỗ trợ cho sự tiến bộ hàng ngày trong cuộc sống của bạn và giúp các bạn tìm ra cách sống trong nhân gian. Đó là mong nguyện của tôi và tôi đề nghị các bạn hãy giành thời gian suy nghĩ tường tận về những gì tôi đã nói. Nhất định điều đó sẽ có ích cho bạn. Nếu điều đó không giúp ích gì thì ít nhất nó cũng không gây hại. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Cảm ơn các bạn rất nhiều. Hẹn gặp lại các bạn, nếu như tôi vẫn còn trên thế gian này. Mọi thứ không bền vững, chẳng có gì là vĩnh cửu. Có thể chúng ta sẽ gặp lại nhau nhưng không quan trọng là các bạn gặp tôi bao nhiêu lần, điểm cốt yếu là hãy suy ngẫm. Nếu bạn suy ngẫm về chủ đề này, thì việc gặp gỡ và nghe tôi nói chỉ duy nhất một lần cũng đủ cho toàn bộ cuộc sống của bạn rồi. Các bạn không nhất thiết phải gặp lại tôi đâu. Chỉ cần nói chào tạm biệt là đủ rồi! Điều đó không quan trọng vì giáo pháp ở đó, tôi luôn ở đó. Nếu giáo pháp và sự suy ngẫm đồng thời có mặt thì sẽ không có sự tách biệt. Nếu như bạn không suy ngẫm, thậm chí nếu như bạn ở với tôi, hoặc bạn đang ngồi trên nệm của tôi, hoặc tôi đến và ngồi lên nệm của bạn thì điều đó cũng không có nghĩa lý gì. Sẽ chẳng có nghĩa lý gì nếu sự suy ngẫm về giáo pháp không có mặt. Bởi vậy, nếu tôi đến và ngồi lên nệm của bạn thì điều đó chỉ là chuyện rắc rối! Bạn có thể nói: “A, thật đáng khinh, nhầm chỗ rồi!”. Vậy việc luôn yêu cầu người khác ngồi lên nệm của bạn mọi lúc có ý nghĩa gì? Đó là sự rắc rối! Điều thực tế là bạn thực sự phải biết suy ngẫm và tư duy kỹ lưỡng về những điều này. Nếu làm được điều đó, bạn sẽ đi đến đích của tâm linh. Nguồn: Sprituality without Religion,The Dragon, December 2005 Issue
  13. UY NGHI GIỚI HẠNH TRONG PHẬT PHÁP Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị “Tâm nguyện lớn nhất của tôi là tất cả mọi người sống trong hòa hợp tương thân tương ái”. Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn! Đấng Pháp Vương Drukpa tôn quý, Ngài là chủ hết thảy Đạo sư, Mang phúc lợi nhiêu ích hữu tình. Dưới gót sen cao quý quang vinh, Dốc lòng thành con nguyện quy kính! Đức Long Thọ Bồ Tát dạy rằng: “Giới luật, giống như căn bản của thế và xuất thế, là nền tảng của hết thảy trí tuệ”. Do các hành giả tha thiết thỉnh cầu nên Pháp Vương đã tùy căn duyên viết ra các chương luật uy nghi giới hạnh khai, giá, trì, phạm dễ hành trì dưới đây cho những Phật tử phúc duyên hy hữu theo giáo pháp của Ngài. Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách, bao gồm bảy loại giới nguyện biệt giải thoát, dẫn dắt chúng ta trên nhiều đạo lộ khác nhau để đạt đến giải thoát. Giới nguyện tinh túy nhất là: 1 Phải từ bỏ việc làm hại người khác, ý muốn làm tổn hại người khác bởi vì chúng dẫn tới những ác hạnh, đây là pháp thực hành của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Pháp tu tập này là nền tảng của tất cả các thừa. 2 Luôn học cách giúp đỡ mọi người và không ngừng tu tập, trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm tôn quý vì pháp tu trì chính này là con đường chung của Đại thừa. Đây là cốt tủy để thực hành thành công bất kỳ một Pháp nào và tiêu trừ si ám trên con đường đạo. Điều tối quan trọng là thiện nam tín nữ, từ trẻ đến già, những người đã phát nguyện thực hành Phật Pháp và được tạo nguồn cảm hứng từ chính niệm, phải tinh tiến thực hành hai pháp trên và không được sao nhãng bởi những hoạt động trần tục ích kỷ và vô nghĩa. Điều trọng yếu để tu tập tối thượng đạo đầy ý nghĩa nhiệm màu là phải có động cơ thanh tịnh và hành động chân chính. 3 Dựa trên nền tảng sự hiểu biết chân thực của mình, bạn phải bày tỏ sự thân thiện, tình yêu thương và sự tôn kính lên Bậc Thầy - người dìu dắt hướng đạo mang lại cho cuộc đời bạn trở nên đầy ý vị giải thoát, và đối với Phật tử, Tăng đoàn là những thiện tri thức đã ủng hộ, nâng đỡ bạn tu tập thực hành Phật Pháp. Thượng sư tôn quý, người khai thị tự tính tâm cho bạn thông qua con đường đạo giải thoát thông thường và siêu việt trong truyền thống Kim Cương Thừa, Ngài chính là Dharmakaya (Pháp thân) hiện thân trong hình tướng loài người để hướng đạo dẫn dắt chúng ta tới bến bờ giải thoát. Ngài đã dìu dắt hướng đạo chúng ta theo chính đạo, Ngài từ bi hơn tất cả chư Phật và Bồ Tát. Do đó, điều tối quan trọng cần thấu hiểu rằng, bạn phải luôn nhu hòa nhẫn nhục theo ‘ba cách’ để Ngài hoan hỷ, đó là thực hành tâm linh, thân phụng sự và cúng dường phẩm vật với chí tâm bất thoái. Đây là tinh yếu của tu tập Kim Cương Thừa. 4 Những hành giả thiện nam, tín nữ thường trú ở Trung Tâm nên thường xuyên tham gia tu tập thực hành vào buổi sáng và buổi tối, tụng kinh và các thiện hạnh hàng ngày; thiện hạnh tu tập Nyungnay (Bát Quan Trai Giới) được thực hiện vào những ngày rằm và mùng một, mùng tám hàng tháng. 5 Đặc biệt là lễ cúng Ganachakra nên được cử hành vào buổi sáng mùng 10 với pháp thực hành GuruYoga và vào tối ngày 25 với pháp thực hành Dakini. 6 Nói chung, bạn nên chí thành tha thiết, xả thân hành trì với bất kỳ một phương pháp tu chuyển hóa tâm thức nào, cụ thể là bốn pháp tu mở đầu cho tới khi chứng đạt Giác Ngộ. Nếu nghĩ rằng, chỉ thực hành một vài lần bốn pháp tu mở đầu là đủ thì thực sự là ngộ nhận và sai lầm. 7 Những Pháp hữu tri thức nên yêu thương cảm thông, tận tâm chia xẻ và tương thân tương ái. Những tập khí xấu phải được từ bỏ như: Cố chấp vào những tà kiến, buông lung nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói ác khẩu, nói thêu dệt. 8 Mọi gốc rễ của lầm lỗi là do khẩu nghiệp tạo nên. Do vậy, điều quan trọng phải chính niệm, kiểm soát được khẩu nghiệp trước công chúng. 9 Sự quá thân cận gần gũi với người khác có thể làm kích động ngọn lửa ái kết và hận thù. Bởi vậy, duy trì khoảng cách đúng mực ngay từ ban đầu là rất quan trọng. 10 Cho dù bạn tham gia vào những hoạt động tâm linh hay thế tục thì trước tiên bạn phải soi xét kỹ lưỡng, tường tận động cơ của mình. Ngay cả khi động cơ đó không phải quá tồi nhưng bạn phải xét xem hành động đó có mang lại lợi ích cho người khác hay không. Bạn nên giác tỉnh rằng, việc tham gia vào bất cứ hoạt động nào mà không có sự quán chiếu, suy xét là dấu hiệu của thiếu hiểu biết và si mê. 11 Đừng nên cô phụ tự tính của chính mình với sự ngã mạn dựa trên một chút kiến thức thiển cận. Thay vào đó, bạn nên tri ân phụng sự Đạo sư- người đã soi rọi con đường chính đạo và phụng sự cả những Pháp hữu của mình. Sau khi đã phụng sự được một chút cho Phật Pháp, Tôn Sư, Bằng hữu, Giáo thọ…bạn không nên khoe khoang về những gì bạn đã làm mà nên tùy hỷ khiêm cung. 12 Những người vốn thiếu trí tuệ và trình độ giáo dục hạn chế thì không nên tự ti và mất niềm tin, mà hãy nhiệt thành tham gia vào thiền định hay nhiều những thiện hạnh khác để trưởng dưỡng việc thực hành tâm linh của mình, tuy nhiên phải nhớ rằng, luôn tuân thủ mà không được vi phạm giáo huấn của Căn bản Thượng sư. Nếu những hoạt động như vậy không làm người khác an vui thì thật là đáng tiếc. 13 Khi thấy những Pháp hữu khác có trình độ cao hơn, bạn nên tùy hỷ chứ không được ghen tị. Thậm chí ngay cả khi bạn không có ý muốn ca ngợi người bạn đó một cách cởi mở, thì bạn cũng nên giữ yên lặng và không nên phê bình chỉ trích, điều này là rất quan trọng. 14 Trong mọi hoàn cảnh, bạn nên luôn hồi quang tự kỷ, khắc kỷ khoan tha, trau dồi giới hạnh, hoàn thiện thân tâm. Chính cái ý nghĩ chỉ trích người khác là ngọn lửa để thiêu trụi công đức của chính bạn. Vì vậy hãy từ bỏ nó. 15 Khen mình, chê người là nhân của động cơ chấp thủ bè đẳng và thù hận, nó là trở ngại đối với mục đích chí hướng của Bậc giác ngộ và hoàn toàn trái ngược với việc tu tập chính Pháp. Vì vậy, hãy từ bỏ những cách nói như vậy. 16 Nếu một người nào đó buông lung phóng dật trong lời nói thì tốt hơn hết bạn không nên phê bình chỉ trích gì, nếu không thể thực hành tâm linh thì bạn hãy trở lại nơi ở và ngủ một giấc thật sâu. 17 Hãy luôn hồi quang phản chiếu chính mình và tham gia vào các hoạt động Phật Pháp. Tư tưởng bạn không nên bị chi phối bởi “Tám Món Bận Tâm Thế Tục” và buông lung trong sự lừa dối, xảo trá, ngộ nhận… Đây là điều tối quan trọng. 18 Ngoại trừ những người mà nội chứng của họ về ý niệm Đại từ, Đại bi và Bồ Đề Tâm đã được tán thán bởi một đạo sư phẩm hạnh thì Pháp nhũ của các Ngài thực sự đem lại giải thoát an lạc cho chúng sinh, còn những Giảng Sư chỉ giảng pháp dựa trên sự hiểu biết hạn hẹp theo nghĩa đen thì không những hoàn toàn tổn hại cho chính họ mà còn làm cho những người khác si mê lầm lạc. Một việc làm như thế sẽ gây tổn hại nhiều hơn lợi lạc. Bởi vậy không cần thiết phải vội vàng để có được địa vị hay danh hiệu Khenpo hay Lama. 19 Tóm lại, trong bất cứ sự tu tập Phật Pháp nào nên hướng tới mục đích là trau dồi trưởng dưỡng tâm mình. Việc thực hành Pháp với mục đích để có được danh tiếng và sự tôn trọng không phải là việc thực hành chính Pháp mà chỉ dẫn đến quả báo đọa lạc tam đồ. Vì vậy, việc hiểu được chính tà và thực hành chính đạo một cách đúng đắn là đạo của Bậc Hiền Trí. 20 Những Phật tử thiện nam tín nữ đang phụng sự ở Trung Tâm nên chắp táp với động cơ thanh tịnh, với tín tâm chí thành dâng hiến, sự chứng minh của Tam Muội Gia Giới cùng với tâm hỷ lạc. 21 Trong trường hợp thân tâm đau ốm bệnh tật, thì nên đi chữa bệnh hoặc về nhà tĩnh dưỡng nghỉ ngơi. 22 Gây ra sự bất an và hiểu lầm giữa những Pháp hữu, Phật tử và Tăng Đoàn, từ trẻ đến già thông qua những lời phù phiếm buông lung thêu dệt, đơn giản chỉ bởi những tâm nguyện của mình chưa được viên mãn, sẽ tích lũy vô số ác nghiệp. Do đó, phải tinh tiến nỗ lực từ bỏ những ác hạnh như vậy. 23 Thịt, rượu, thuốc lá, thuốc phiện…không những trái với mục đích giải thoát của Phật Pháp mà còn như một lưỡi kiếm sắc cắt vụn cơ thể của bạn. Bởi vậy, những ai biết trân trọng sự quý giá của thân người hãy nên tự kiềm thúc thân tâm và hạn chế sử dụng chúng. 24 Ngay cả khi bạn chưa thể hoàn toàn bỏ được chúng thì hãy nỗ lực cố gắng không sử dụng chúng trước những hình ảnh, biểu tượng của Phật, Pháp, Tăng, trong những chốn thực hành tâm linh, thiền thất v.v… 25 Tóm lại, những người khoác tăng phục sau khi đã nghe và suy ngẫm về giới luật thì nên trì giữ, cố gắng nỗ lực từ bỏ những hành động phi Pháp; không được tự cao tự đại và phải luôn tàm quý khiêm cung, không nên tranh giành địa vị và danh tiếng. 26 Những hành giả đạo Phật nên từ bỏ mười bất thiện nghiệp và hãy luôn cố gắng kiểm soát ‘tam nghiệp’ (thân, khẩu, ý) trong mọi thời khắc để cuộc sống vô thường ngắn ngủi này đầy ý nghĩa. Mặc dù, sự hiểu biết tâm linh còn chưa tỏ tường rốt ráo, tuy nhiên, tôi là người đã xa lìa tất cả bất tịnh nhiễm ô của ‘Tám Món Bận Tâm Thế Tục’, xin viết phẩm uy nghi giới hạnh này vì lợi ích của những hành giả có thiện nguyện cao quý thực hành Phật Pháp. Vua Pháp Dawoe Shonnu (Đức Gampopa) đã dạy: “Mặc dù nhiều người có hình tướng là những hành giả Pháp với tư tưởng thanh tịnh thực hành Pháp nhưng cũng có những hành giả còn bị chi phối bởi ác hạnh của ‘Tám Món Bận Tâm Thế Tục’, đó là nhân của địa ngục”. Cầu nguyện cho những thiện duyên hành giả đã thể nhập vào cửa giải thoát, sẽ được nâng đỡ bởi những tư tưởng thiện hạnh cao quý, xua tan đi những tà kiến phi Pháp! Cầu nguyện cho họ thấy được chân giải thoát Pháp! Để viên mãn lời thỉnh cầu tha thiết của Pháp hữu Drukpa Lama Nawang, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII đã rủ lòng từ bi viết phẩm uy nghi giới hạnh này xuất phát từ dòng tâm thức của Ngài vào ngày 15 tháng 9 năm 2000. Nguồn: IDP Website: drukpa.com
  14. Lại xét về mặt kiến trúc của phương án 02 này người thì người có óc tư duy thường thức một chút sẽ thấy rằng cửa cổng và cửa nhà của PA 02 nhỏ hơn PA 01, nếu về mặt tiện ích, thường thức hay cấp bách như nguy cơ cứu hỏa không thôi thì cửa cổng, cửa nhà quá bé cũng là nguy cơ không an toàn cho con người trong nhưng trường hợp khẩn thiết đó. Về mặt hài hòa tổng thể thì cửa quá bé cho một tương quan nhà lớn như vậy, hợp lý chăng? Một cửa cổng, cửa chính, cửa mặt tiền lớn bao cũng hợp lý về kiến trúc và tốt theo quan niệm phong thủy. Đẹp chưa phải là tốt, và dân gian cũng thường bảo "tốt gỗ hơn tốt nước sơn", dân thường cũng hay nói "vợ đẹp chưa phải là vợ tốt"...nếu anh và kts tìm hiểu thêm Lý học thì sẽ nâng tầm thẩm mỹ để đạt đỉnh mong muốn. Thiên Đồng
  15. Phương án 2 phạm phải cách "tiền táo hậu phòng tán gia bại sản". Cổ thư nói như vậy, tuy nhiên tùy vào mức độ và các yếu tố khác, tuy nhiên đại ý vẫn là nếu bố trí như vậy thì không những không tiền mà sức khỏe có nguy cơ bệnh hoạn. Nếu các người như Hatgaolang, Phạm Cương hay Hahung vẫn thực hành Phong thủy Lạc Việt hay vẫn còn dùng một yếu tố chuyên môn nào đó của Phong Thủy Lạc Việt thì họ đều từ chối phương án 2. Còn nếu các vị ấy chấp nhận phương án 2 như một phương án hoàn hảo và hài hòa giữa phong thủy và kiến trúc thì tôi không bàn đến và pqhong có thể lấy đó làm phương phán tối ưu cuối cùng và thực hiện để kiểm nghiệm tính hiệu quả của phương án. Đành rằng phương án 01 chỉ không đạt yêu cầu là thông sáng ở phong ngủ, tuy nhiên vẫn có cách khác, vd như đề nghị của nick HungNguyen. Nhưng về tổng thể, cấu trúc tổng thể của phương án 01đảm bảo mọi công năng, tiện ích về kiến trúc nhưng quan trọng hơn là đã đảm bảo tốt về yếu tố phong thủy toàn thể. Tuy nhiên cần nói rằng không có gì gọi là hoàn hảo theo ý muốn con người. Việc thiếu sáng ở phòng ngủ là hiển nhiên và tôi nhắc lại là có thể cải thiện tiểu tiết này. Tuy vậy có những giải pháp phong thủy vẫn đảm bảo tốt cho sức khỏe người ở trong căn phòng đó. Và một căn phòng đủ sáng hay dư thừa sáng cũng chưa phải là tốt xét theo tiêu chí của Phong thủy Lạc Việt. Vể phương án 02, có thể theo Kts thì đây là phương án hoàn hảo và khoa học. Nhưng hãy xét kỷ lại, một WC đê giữa nhà thì đã hợp lý chưa? Một không gian sinh hoạt công cộng chăng? Và nếu nói về phong thủy thì đây là một yếu tốt cực xấu! Xú uế nhập trung! Về mặt thường thức thì người thường vẫn nhận ra điều cơ bản này! Nhà xí giữa nhà! Kiến trúc "đạt đỉnh" đó sao? Không thể tưởng được!!! Tôi đã từng chứng kiến nhiều kiến trúc gọi "đưa thiên nhiên vào nhà", "phong cách hiện đại", " phong cách đượng đại"...nhưng nhà xây xong thì bỏ hoan thoe đúng nghĩa của từ bỏ hoang này. Nếu anh là người biết chuyện và không tiếc tiền thì cứ đến Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương mà hỏi sự tư vấn của sư phụ Thiên Sứ Thiên Đồng
  16. @alexbk Nhờ anh Thiên Đồng tư vấn giúp em với Tuổi Kỷ Tỵ Hỏi vào ngày 27 tháng 2 năm 2012 lúc 5:31PM Câu hỏi 01: Liệu em có tiến xa được với ngành đang học không ạ? Được, nhưng nhiều gian nan thử thách, nhanh thì năm 27 tuổi, chậm thì năm 36 tuổi mới gọi là phát triển trong ngành. Câu hỏi 02: Em nên ở lại Hà Nội hay đi xa làm việc(Em định vào TPHCM sinh sống ở trong đó)? Nên đi. Câu hỏi 03: Chuyện tình cảm của em năn nay có tiến triển gì ko ạ:D Chậm nhưng vẫn tiến triển tốt, có nhiều chuyện hơi nhì nhằn. Cảm ơn anh Thiên Đồng trước nha:D! Thiên Đồng
  17. Thiên Đồng cảm Sư Phụ Thiên Sứ, cô Wild đã có lời chúc Sư Phụ và Cô an lạc và tấn tài. đồng cảm ơn các anh Thanhphuc, anh Hatgaolang, anh Nhidiasinh chúc các anh may mắn, thành công, phát tài. đồng cảm ơn các anh chị em Phucnd, Túy Lão, Vusonganh, TranLong07, Thiên Bồng, Lũy Tre, Lan Anh, Tuyết Minh, Tuấn Dương, PhamHung, Cóc Vàng, Baosky, Longphibaccai, chúc mọi người phát triển, phát đạt và may mắn. Thiên Đồng
  18. Tài Năng Tuyệt Vời http-~~-//www.youtube.com/watch?v=m03Lwjo1KNM
  19. @ Mrtata Kính chào bác Thiên Đồng Kính mong bác xem giúp cháu ạ Tuổi gì: Cháu Tuổi Ất Sửu ( 1985, lá số đây ạ: http://www.lyhocdong...=screen&size=2) Hỏi vào ngày 27 tháng 03năm 2012 , vào lúc 15h 47 phút (bao nhiêu phút) dương lịch. Câu hỏi 01: Cháu đang hùn vốn kinh doanh ( với 2 người nữa, 1 người sinh năm 78 và 1 người 91 ạ), không biết công việc kinh doanh có thuận lợi không ạ? Sẽ thuận lợi, nếu không hợp tác với người sinh năm 1978, và không hùn hạp 3 người. Kiên hùn 3 người. Hợp với người 1991. Câu hỏi 02: Con đường công danh của cháu có gì khởi sắc trong tương lai không ạ? ( Cháu học TC Ngân hàng, ra làm NH 4 năm và nghỉ từ năm trước, nhà đang bắt quay lại làm NH) Nhiều chông gai, thăng trầm nhưng cũng sẽ ổn ở khoản 35 hay 38. Câu hỏi 03: Người yêu cháu hiện tại sinh năm 1989, thấy tính tình xung khắc lắm nhưng chắc sẽ kết hôn, khi nào thì thuận lợi ạ? Xung khắc là chuyện thường tình, quan trọng là 2 người có chia sẻ đắng cay ngọt bùi nhau không? Sinh con ra hóa giải được hết. Sinh đứa nhâm thìn 2012 và đinh dậu 2017 là tốt. Cháu xin chân thành cảm ơn chú ạ. Thiên Đồng
  20. Phản biện xã hội và lối sống "tiểu xảo" Tác giả: Trần Anh Tuấn Nếu như trên thế giới, người ta coi bậc trí thức sinh ra để nghiên cứu, sáng tạo và phản biện xã hội thì tại Việt Nam, hình như phần nhiều các trí thức chỉ bắt đầu học cách phản biện khi thôi làm quan chức. Vì cơ chế này không khuyến khích họ đánh đổi giữa những ham muốn cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đương nhiên, một xã hội chậm phát triển là một xã hội thiếu nhiều ... cơ sở cho sự phát triển. Trong đó, không thể không nhắc tới "phản biện xã hội". Thậm chí đây còn là một tiền đề tối quan trọng trong việc mãi dẫm chân dưới vũng lầy hay cất cánh bay lên. Vì sao phản biện vẫn là khái niệm xa xỉ? Bài viết này xin mạo muội nêu lên một giả thuyết, lý giải tại sao ở nhiều quốc gia, từ lâu "phản biện xã hội" là một phần không thể thiếu trong cuộc sống thì tại Việt Nam, nó vẫn là một khái niệm xa xỉ của đa số trí thức, đừng nói là nhân dân. Hãy bắt đầu từ câu chuyện văn hóa. Có đứa bé 5 tuổi nhất định đòi cha nó phải giữ lời hứa từ tuần trước, là chủ nhật này đưa cả gia đình đi chơi Thảo cầm viên. Oái oăm thay, người bố lại coi việc tụ tập, bù khú với bạn bè trong ngày nghỉ quan trọng hơn là giữ lời với con trẻ. Thế là ông mắng "Im ngay! Để tao nói mẹ mày ra chợ mua đền cho món đồ chơi!". Nó vẫn không chịu. A! Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư!... Thế là thằng bé bị nọc ra tặng cho mấy con lươn vào mông đít. Lần này nó xin tha rối rít để tránh bị ăn thêm đòn chứ chẳng còn chút ý kiến ý cò gì về việc đi sở thú nữa, và thấy mong muốn ấy là một sai lầm khiến phải mang vạ vào thân. Văn hóa ứng xử tại Việt Nam cơ bản là thế. Người trẻ buộc phải nghe người già, kẻ dưới tự nguyện với người trên, mặc nhiên coi những phát biểu của bậc đi trước là "chân lý". Thế mới có chuyện cả nghìn năm nay, chúng ta coi đạo Nho là khuôn vàng thước ngọc mà chẳng thèm để ý đến những tì vết dù là nho nhỏ trong cái hệ thống ấy. Cho mãi tới thời đại ngày nay mới mang máng nhận ra sự bất hợp lý, ví như quan điểm ủng hộ chế độ độc tài (Vua là con trời), cổ súy cho cách học tầm chương trích cú, hay khuyến khích lối ứng xử mang nặng tính bất bình đẳng giới (trọng nam khinh nữ), v...v... Trở lại với câu chuyện trên, giả sử đây là trường hợp xảy ra tại một quốc gia phương Tây, chắc chắn người hạ roi xuống đứa trẻ sẽ phải lo sốt vó, vì biết đâu chừng, thằng nhóc lại nhấc điện thoại lên nhờ cảnh sát can thiệp vào hành động trấn áp vô lý của người sinh ra nó. Lối sống "tiểu xảo" hay "con đường ứng xử"? Câu chuyện về văn hóa lại kéo theo câu chuyện về giáo dục. Một nền học mà cái "danh" nhiều hơn cái thực, đã khiến cho nhà trường đôi khi lại trở thành cha mẹ của các bậc phụ huynh có con em từ lớp Chồi tới bậc tiểu học. Để khi xin được cho chúng nó vào trường rồi thì lại muốn "con của tớ là đứa học giỏi nhất nhì lớp". Mà trong muôn ngàn cách lấy thành tích học tập thì việc ngoan ngoãn nghe lời giáo viên vẫn là một "tiểu xảo" phổ biến. Lâu dần, "tiểu xảo" ấy mặc nhiên được chấp nhận như là một dạng của thiết chế. - thầy đã nói thì cấm có sai! Thế là tiếng nói độc lập của cá nhân khi còn trẻ lại bị vùi thêm một lớp sóng nữa. Được biết, sự hình thành một nhân cách phụ thuộc rất nhiều vào quá trình "xã hội hóa" của cá nhân giai đoạn còn nhỏ tuổi. Ở Thụy Điển, người ta coi đây là "thời kỳ vàng của cuộc đời". Tại Nhật Bản, học sinh đến trường tưởng chơi nhiều mà hóa ra lại học chất lượng. Từ mỗi trò nghịch ngợm mà các em tự xây dựng tư duy và cách tiếp nhận kiến thức cho riêng mình để không trở thành bản sao của ai hết,... Do vậy, hình thành hay không hình thành tư duy phản biện cũng manh nha từ lứa tuổi này. Văn hóa Việt Nam, giáo dục Việt Nam góp phần tạo nên xã hội Việt Nam. Một xã hội mà "câu chuyện cơ chế" luôn là một đề tài nóng hổi. Trong nhiều trường hợp, đường lối của Nhà nước (có thể) đúng đắn nhưng cấp thi hành lại thực hiện ngả nghiêng. Bởi họ không có hay không dám cất lên tiếng nói phản biện công khai nên chỉ dám "bày tỏ ý kiến" thông qua việc chui qua những lỗ hổng của cơ chế để làm lợi cho bản thân. Câu khẩu hiệu: "Phê bình, tự phê bình" chúng ta nghe đã quá quen, song thử hỏi có mấy tổ chức hay cá nhân làm tốt? Bởi nền văn hóa và kinh nghiệm trong môi trường giáo dục trước đó đã cho họ những "con đường" ứng xử rồi. Nếu như trên thế giới, người ta coi bậc trí thức sinh ra để nghiên cứu, sáng tạo và phản biện xã hội thì tại Việt Nam, hình như phần nhiều các trí thức chỉ bắt đầu học cách phản biện khi thôi làm quan chức. Vì cơ chế này không khuyến khích họ đánh đổi giữa những ham muốn cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đương nhiên, một xã hội muốn phát triển phải cần rất nhiều yếu tố, song không thể không có sự song hành của "phản biện xã hội". Khi nào để điều đó không còn là một khái niệm xa xỉ tại Việt Nam? Như trên vừa nói, với nền văn hóa ấy, với đặc điểm giáo dục ấy, với cơ chế ấy... tôi nghĩ là còn lâu lắm. Nhưng vẫn mong nhận xét trên chỉ là võ đoán. http://tuanvietnam.v...oi-song-tieu-xa Phản biện xã hội: Ai? Tác giả: Nguyễn Phương Bài đã được xuất bản.: 23/02/2012 05:00 GMT+7 Chính thói quen chấp nhận mặc nhiên thiếu vắng hoài nghi trong khoa học đã kìm hãm sự phát triển của nước nhà? Đó cũng chính là lý do tại sao sinh ra nghịch lý là các kỹ sư Hai Lúa ... sáng chế ra máy nọ máy kia để giảm bớt cực nhọc cho nông dân. Còn các "đề tài khoa học" của viện nghiên cứu tốn không biết bao nhiêu cơm của nhân dân thì chỉ đẻ ra... đề tài để nghiên cứu. Nhiều kiểu trí thức? Trong một dịp công tác, người viết bài này có may mắn được làm việc cùng gần 100 "đại trí thức" của nước nhà... Về mặt hình thức, đối với tôi và đối với xã hội Việt Nam hiện tại, những người này mặc nhiên được coi là đại trí thức vì hầu hết họ là GS, TS,... đến từ các trường đại học và học viện trên khắp cả nước. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau thế nào là "trí thức", nhưng tôi mặc nhiên coi họ là trí thức để khỏi cần định nghĩa lại từ này. Do đặc thù công việc, tại nơi làm việc, nguồn thông tin duy nhất là VTV, không có bất cứ phương tiện thông tin nào khác. Mọi chuyện trôi đi êm ả, mỗi nhóm một chuyên ngành, tưởng chừng chẳng còn việc gì khác là làm ra "sản phẩm tri thức" đến hạn thì nộp là xong, hết giờ làm việc thì đi thả bộ,.... Vào giờ giải lao, chủ đề các câu chuyện phần nhiều xoay quanh những chuyện đại loại như con (ôtô) của mình mấy chấm, hiện nay Việt Nam có bao nhiêu con Rolls-Royce Phantom và ai đang sở hữu chúng,... hay cô ca sỹ X đang có xì-can-đan vì vừa bị các paparazzi tóm được "lộ hàng",... Tôi thì chẳng biết mô tê gì về ôtô và không thích đọc báo nên ngồi nghe như vịt nghe sấm. Có vị thì khoe mình dạy thêm mỗi tháng được gần hai chục vé. Tối đến thì các trí thức trẻ túm lại đánh phỏm (chơi bài). Tôi hiểu không phải chỉ có những vị có mặt ở đây như vậy. Nhưng bỗng một hôm, vụ việc ở Tiên Lãng làm xáo động cái cộng đồng nhỏ này. Đúng giờ ăn trưa hôm ấy, khi thấy VTV trong bản tin trưa đầu tiên đưa tin Đoàn Văn Vươn "dùng vũ khí chống người thi hành công vụ...", một số người trong phòng ăn mặt đỏ lự, không biết vì men hay vì tức giận, nói oang oang: "Mấy thằng chống người thi hành công vụ này phải cho chung thân là ít!" Những người khác bình tĩnh thì lẳng lặng tiếp tục bữa trưa. Một ông khác tóc bạc thấy chướng tai quá bèn nói qua vai: "Chưa biết đúng sai thế nào sao các vị đã đòi trị tội người ta?" Sau đó, những kẻ "tội phạm" kia còn được các vị mang ra bàn tán trong giờ giải lao hay đi thả bộ. Một ông dạy Sử còn mạnh dạn nhận xét: "Dân Hải Phòng là đầu gấu lắm. Lần này thì phải trị cho nó chừa đi." Vẫn là thói vơ đũa cả nắm!? Tôi cứ lẩn thẩn tự hỏi không hiểu làm sao mà các vị ấy vội vàng thế? Thái độ này ông bà ta gọi là hồ đồ? Thật phúc đức cho nhân dân là mấy đại trí thức này không nắm giữ cương vị cầm cân nảy mực. Từ lúc nghe các vị ấy phán như thế, tự nhiên tôi thấy buồn buồn và cứ hình dung họ là những bộ complet biết đi và phía trong những bộ cánh phẳng phiu ấy là những cái dạ dày lổn nhổn thức ăn và những cốc bia chưa kịp tiêu hóa, hệt như Người vô hình của Herbert George Wells. Trí thức với những đặc thù của mình phải một tầng lớp đi tiên phong trong hoạt động phản biện xã hội. Ảnh minh họa Sự thiếu vắng tư duy phân tích Từ xưa, ông bà ta đã dạy: "Khi nghe thì phải nghe bằng cả hai tai". Như thế, tiền nhân đã dạy chúng ta tư duy phân tích và tư duy phê phán để tránh hồ đồ. Lời dạy đó cho đến nay vẫn là một chân lý. Thói quen mặc nhiên chấp nhận thông tin một chiều làm biến dạng trí tuệ con người và chỉ thích hợp với những thân phận nô bộc, sản phẩm của giáo dục ngu dân của chế độ thực dân phong kiến? Thói quen ấy thể hiện tình trạng thiếu vắng tư duy phân tích và tư duy phê phán. Người nghe chẳng bao giờ tự hỏi: "Có đúng thế không?" và "Tại sao?" Thiếu vắng những câu tự vấn như thế sẽ dẫn đến ngộ nhận - ngộ nhận về thế giới khách quan và cả về bản thân mình. Họ nhìn thế giới khách quan qua lăng kính không đổi của mình là bộ não đã hóa thạch. Họ tự nhốt mình vào cái giếng kiến thức và tin rằng bên ngoài không còn gì để biết thêm hay học thêm nữa, trên đầu họ bầu trời cũng chỉ còn bằng cái nia, cả bồ chữ của thiên hạ trong đây cả rồi. Chính thói quen chấp nhận mặc nhiên thiếu vắng hoài nghi trong khoa học đã kìm hãm sự phát triển của nước nhà? Đó cũng chính là lý do tại sao sinh ra nghịch lý là các kỹ sư Hai Lúa... sáng chế ra máy nọ máy kia để giảm bớt cực nhọc cho nông dân. Còn các "đề tài khoa học" của viện nghiên cứu tốn không biết bao nhiêu cơm của nhân dân thì chỉ đẻ ra... đề tài để nghiên cứu. Là những "nhà" khoa học mà họ tư duy như thế thì nền khoa học nước nhà vẫn loay hoay nghiên cứu để tái phát minh ra cái bánh xe là điều tất yếu. Tuy trong thiên hạ họ là những người có nhiều chữ nhưng có vẻ ít... nghĩa. Trí thức "nửa mùa"? "Phản biện xã hội" là cụm từ nghe có vẻ hiện đại. Thực ra, ông bà ta từ xa xưa đã dạy: "Thấy ngang tai trái mắt thì phải lên tiếng." Như thế còn cao hơn cả phản biện, người bình thường còn làm vậy, huống hồ trí thức. Một khi ai cũng mũ ni che tai, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại, chỉ co lại một cách ích kỷ để bảo vệ lợi ích riêng, người ngay ắt càng sợ kẻ gian, nhắm mắt hoặc quay đi khi trông thấy kẻ gian móc túi người khác... thì cái ác sẽ lên ngôi. Như vậy, ông bà mình thực hành phản biện xã hội từ lâu rồi, không nhất thiết chỉ có trí thức mới phản biện xã hội. Có những anh lái xe ôm nhận thức về xã hội còn cao hơn một số người có bằng cấp cao. Sản phẩm tri thức không chỉ là những phát minh sáng chế, những công thức toán học, hóa học, những con robot, những giống cây mới.... Phản biện xã hội cũng là sản phẩm tri thức đích thực nhưng tất nhiên không phải chỉ là sản phẩm và trách nhiệm của riêng trí thức. Song, trí thức với những đặc thù của mình phải một tầng lớp đi tiên phong trong hoạt động này. Không lên tiếng đóng góp cho xã hội tiến bộ thì đó chỉ là Trí thức nửa mùa [1]. Xin dẫn một ví dụ, nghệ sỹ Ai Weiwei, ngoài những sản phẩm nghệ thuật nổi tiếng, ông không ngừng tiếng mạnh mẽ về nạn tham nhũng dẫn đến cái chết oan uổng cho bao nhiêu học sinh ở Tứ Xuyên, Trung Quốc do xây trường học vật liệu kém chất lượng. Tôi không dám nhận mình là trí thức. Sinh thời, cha tôi có lần mắng: "Trí thức gì ngữ các anh; vừa hèn, vừa dốt!" Từ đó, cứ ai gọi tôi là một... trí thức thì tôi lại nghĩ người ấy đang quở mắng mình. --------- [1] Về trí thức Nga, NXB Tri Thức, Hanoi, 2009
  21. Sách cổ bằng vàng giá hơn 2 tỷ đồng Sau nhiều lượt đấu giá, cuốn sách bằng vàng được nhà sưu tầm cổ vật Cao Xuân Trường mang về Việt Nam với giá 72.750 euro, tương đương hơn 2 tỷ đồng. Đây là cuốn sách do vua Thiệu Trị (vị vua thứ ba thời nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847) tặng cho bà phi Vũ Thị Viên khi bà được phong từ thứ hạng Lương Tần lên Lương Phi (1846). Cuốn sách bằng bạc được dát vàng kích thước 14 x 23 cm, có 5 tờ, 10 trang, nặng gần 2 kg, với 186 chữ Hán nói về thân thế cũng như sự nghiệp của bà phi này. Bìa sách được chạm trổ hình rồng, bên trong là chữ Hán nói về tiết hạnh cũng như các đức tính của bà phi Vũ Thị Viên. Nhà sưu tầm cổ vật Cao Xuân Trường cho biết, lần đầu tiên được cầm trên tay cuốn sách vàng, anh hồi hộp, tay run bần bật vì xúc động. Ảnh: Hà Đan. Trong căn nhà số 31 Bà Triệu (Hà Nội) chứa đầy cổ vật với những bộ bình cổ thời Khang Hy, tủ gỗ từ thế kỷ 19, đôi bình phong cẩn vàng bạc của vua Bảo Đại..., nhà sưu tầm cổ vật Cao Xuân Trường cho biết, cuốn sách vàng là món đồ anh quý nhất. Anh nhớ lại, năm 2002, lần đầu tiên anh được nghe nói về cuốn sách quý qua lời một người bạn Việt kiều Pháp. "Nghe tin có cuốn sách như vậy, tôi rất xúc động, chỉ mong được tận mắt nhìn thấy, sờ vào từng trang sách", anh Trường bày tỏ. Nhưng phải đến những năm 2004 - 2006, niềm ao ước này của người đàn ông mê cổ vật mới thực hiện được. Anh chia sẻ, đôi tay cầm sách run bần bật vì quá xúc động khi được cầm món cổ vật có một không hai. Từ lúc đó cho đến tận khi đấu giá được món đồ quý này vào năm 2011, anh mới chỉ được một lần chạm tay vào cuốn sách. Nhà sưu tầm cổ vật Cao Xuân Trường kể, để mang được cuốn sách về Việt Nam, anh phải đi đi về về từ Canada sang Pháp không dưới 10 lần. Ban đầu, dò la và biết, cuốn sách vàng đang được một tướng viễn chinh Pháp trong cuộc chiến tranh Việt Nam lưu giữ, anh đã lặn lội đến tận nhà riêng và thuyết phục người này bán. Dù vậy, mỗi lần đề cập chuyện mua bán, anh đều bị người Pháp kia từ chối. Cơ duyên đến với Cao Xuân Trường vào khoảng tháng 10/2010, trong một lần đến Pháp, anh biết được thông tin khối vàng nói trên được đưa ra bán đấu giá. "Vượt mặt" cả người Tây, Trung Quốc và một vị khách bí mật trả giá qua điện thoại và ít ai biết, phải bán cả một căn nhà tại Canada, Cao Xuân Trường mới đem được quyển sách vàng về Việt Nam. Ngày cuốn sách về Việt nam là cuối tháng 3 năm 2011. Bìa sách được chạm trổ hình rồng tinh xảo. Các trang kết nối với nhau bằng 4 chiếc khuyên cũng được đúc từ vàng pha bạc. Ảnh: Hà Đan. Anh kể lại, mức khởi điểm trong buổi đấu giá là 30.000 euro, tương đương hơn 830 triệu đồng (tỷ giá hiện tại). Ngay sau đó, một vị khách Tây trả 45.000 euro (khoảng 1,2 tỷ đồng). Người Trung Quốc chốt giá 55.000 euro (hơn 1,5 tỷ đồng). Một khách bí mật định giá 70.000 euro (trên 1,9 tỷ đồng) qua điện thoại. Cuối cùng, Cao Xuân Trường là người thắng cuộc, với mức giá cho cuốn sách là 72.750 euro (hơn 2 tỷ đồng). Theo Cao Xuân Trường, có giá trị vật chất lớn, nhưng không thể sánh với giá trị tinh thần. Anh bày tỏ, bán một căn nhà, có thể mua lại căn khác, nhưng nếu không mua được cuốn sách trong buổi đấu giá tại Pháp, thì cơ hội để đem được về Việt Nam gần như rất khó. Nhà sưu tầm cổ vật này cũng cho hay, anh không có ý định bán cuốn sách vàng cho người khác. Cũng có khả năng, anh sẽ hiến tặng cuốn sách trên cho một bảo tàng tại Việt Nam để báu vật mãi mãi trong nước. Trên An ninh thế giới tháng 6/2011, Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn- nguyên Giám đốc Bảo tàng mỹ thuật Cung đình Huế cho biết, cuốn sách nói trên là sách phong duy nhất bằng bạc mạ vàng vẫn tồn tại. Ở Việt Nam và hải ngoại, chỉ còn trông thấy một số sách bằng đồng (đồng sách), và thể sách (sách bằng lụa). Hà Đan
  22. Cứ cố gắn báo công an thôi chứ biết sao bây giờ? Quan trọng là tài liệu mất thì phiền cho việc học.
  23. @ Hồ Tây Quẻ nầy thì bỏa là nên đi báo công an và hỏi người xung quanh xem có ai khả nghi, dáng dấp thế nào. Lấy láp tóp không mà không lấy xe là không chuyên rồi, người quen hay hàng xóm để ý từ lâu canh chừng vắng mặt là ra tay. Thiên Đồng
  24. Gà trống đẻ trứng ở Nghệ An Hiện tượng là một con gà trống đẻ ra một quả trứng nhỏ tại xã Quỳnh Mỹ,(huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) đang làm xôn xao ở một miền quê. Câu chuyện gà trống đẻ trứng, ban đầu mới nghe qua đã khiến nhiều người không khỏi hiếu kỳ và nghi ngờ về hiện tượng này. Bởi bao đời nay, chỉ có gà mái đẻ trứng và hiếm khi thấy gà trống thực hiện “nhiệm vụ” đó. Nhưng sự thật, chuyện gà trống đẻ trứng tại nhà chị Nguyễn Thị Nhung, ở xóm 7, xã Quỳnh Mỹ là một hiện tượng lạ có thật. Chị Nhung kể, ngày 19/2, như ngày bình thường dậy cho gà ăn lúc sáng sớm. Nhìn vào chuồng thấy con gà trống không chịu dậy mà đi vào ổ rơm nằm. Lúc đầu cứ nghĩ là con gà bị bệnh, nên vào bắt con gà lên thì thấy một quả trứng to bằng ngón tay, màu đục trắng, ở dưới bụng con gà trống vừa nằm. Quá lạ kỳ, chị Nhung gọi nhiều người hàng xóm đến xem và ai cũng bảo đó chính là trứng gà trống đẻ. Đây là một hiện tượng hiếm thấy, nhưng không phải không có ở vùng nông thôn tại Nghệ An. Chú gà trống cân nặng hơn 1,3kg, đẻ ra quả trứng có một đầu to và nhỏ, dài khoảng hơn 2cm và có màu trắng đục không có lòng đỏ. Lý giải của các cụ cao niên trong làng cho rằng, hiện tượng gà trống đẻ trứng là một điềm may mắn, tốt lành đầu năm. VietNamNet đã có cuộc trao đổi với một chuyên gia đầu ngành về hiện tượng này. Theo giải thích của TS. Phùng Đức Tiến, Giám đốc TT Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương (Từ Liêm, Hà Nội) thì hiện tượng này không có gì kỳ lạ. Chị Nguyễn Thị Nhung cầm trên tay chú gà trống đẻ ra quả trứng, tạo ra một hiện tượng lạ ở vùng quê Nghệ An. “Thực tế đây là những con gà lưỡng tính, nhưng bản chất vẫn là gà mái, tuy nhiên do có những dị thường trong cơ quan sinh dục nên nó có mào, và hình dáng giống như gà trống”, ông Tiến khẳng định. Ông Tiến cũng cho biết thêm, tỉ lệ những con gà mái trong hình dạng gà trống rất rất hiếm, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong đàn giống, khoảng vài ngàn con mới có một con. Trước một số ý kiến cho rằng nguyên nhân của trường hợp này có thể là do con gà có 2 bộ phận sinh dục, hoặc có sự biến đổi chất bất thường trong cơ thể, khiến lượng canxi dư thừa, tạo thành trứng, TS Phùng Đức Tiến đã lên tiếng phủ nhận. Ông Tiến cho rằng sự biến đổi chất có ảnh hưởng, nhưng không lớn, do đó không thể tạo thành trứng được. Quốc Huy – Thuý Hạnh
  25. Chân lý hay chính đạo thì không cần phải rao giảng, quảng cáo, tự khen hay mồi chài và không cần phải lôi kéo theo, ép buộc theo, thuyết phục theo. Tiếc thay đạo lý nhỏ nhoi này đã không được nhận ra. Thiên Đồng