Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Vua bếp Mỹ quảng bá hương vị Việt 07.10.2012 08:09 Đó là tâm sự của Christine Hà, người vừa đoạt giải nhất cuộc thi Vua đầu bếp Mỹ 2012. >>>Đầu bếp mù gốc Việt 'rung chuyển' Masterchef >>>Cô gái mù gốc Việt thành Vua đầu bếp Mỹ >>>Bố cô gái mù không biết con là Vua đầu bếp Sau khi Christine Hà đoạt giải nhất cuộc thi Vua đầu bếp Mỹ (MasterChef US), chúng tôi đã thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn với cô. Song hành cùng kế hoạch viết sách ẩm thực, Christine còn dự định tiếp tục quảng bá ẩm thực Việt để người nước ngoài biết nhiều món khác của Việt Nam hơn. - Cô có thể chia sẻ về quá trình học nấu ăn của mình? Hầu hết là do tôi tự học. Tôi bắt đầu tìm hiểu về cách thức chế biến và nấu ăn hồi năm 19 tuổi, khi còn đang đi học. Mẹ tôi mất từ năm tôi 14 tuổi. Thật đáng tiếc là bà ra đi quá sớm nên tôi chưa kịp học gì ở bà về các món ăn Việt Nam. Tôi nhớ những món mà mình thường ăn khi mới lớn. Vì thế, tôi chọn mua sách ẩm thực Việt Nam để tự học. - Cô cảm nhận thế nào về ẩm thực Việt Nam? Tôi yêu thích hương vị của các món ăn Việt Nam. Chỉ cần nguyên liệu đơn giản và không tốn nhiều chi phí nhưng ẩm thực Việt Nam vẫn hòa quyện hương vị độc đáo và ngon. Việt Nam có rất nhiều món ngon khác chứ không chỉ giới hạn trong những gì mà người Mỹ biết như phở, bún thịt nướng, bánh mì thịt. Christine Hà ăn mừng chiến thắng tại cuộc thi năm nay. - Trong tương lai, cô dự định phát triển sự nghiệp như thế nào? Tôi muốn tiếp tục viết sách về nấu ăn. Ngoài ra, nếu có người hợp tác và đầu tư, tôi muốn mở một cửa hàng kem và nhà hàng chuyên cung cấp các món ăn cùng thức uống có chất lượng cao. - Thông qua đó, cô sẽ quảng bá ẩm thực Việt Nam chứ? Ban đầu, đơn thuần chỉ là tôi muốn học hỏi nấu ăn nhưng nay thì tôi có thể góp phần quảng bá ẩm thực Việt. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc về điều đó. Christine Hà trong cuộc thi... Văn chương và ẩm thực Christine Hà, 39 tuổi, có tên tiếng Việt đầy đủ là Hà Huyền Trân. Cô được sinh ra và lớn lên tại Mỹ sau khi cha mẹ cô sang nước này định cư vào năm 1975. Ban đầu, gia đình cô sinh sống tại thành phố Lakewood thuộc bang California, sau chuyển đến thành phố Houston, Texas. Sinh trưởng tại Mỹ nhưng Christine Hà vẫn có thể giao tiếp tốt bằng tiếng Việt. Bất hạnh đến với cô vào năm 1999 khi cô mất thị lực một mắt vì chứng rối loạn khả năng tự miễn dịch, gây tổn hại hệ thống thần kinh thị lực. Dù điều kiện thị lực kém, Christine Hà vẫn tốt nghiệp cử nhân quản trị kinh doanh của ĐH Texas. Thế nhưng, vì thị lực yếu nên cô không thể làm việc trong chuyên ngành mình đã học. Sau đó, cô lấy bằng thạc sĩ về tiểu thuyết của ĐH Houston rồi làm việc trong ngành này. Đến năm 2007, mắt còn lại của Christine Hà cũng bị tổn thương vì chứng bệnh trên. Thị lực giảm sút trầm trọng, mọi thứ đều mờ ảo dù chưa mù hoàn toàn, nên cô bị xem là khiếm thị theo tiêu chuẩn của Mỹ. Không chỉ đạt thành công rực rỡ tại cuộc thi MasterChef US mùa thứ 3, cô còn để lại dấu ấn nhất định trong ngành văn học. Cô từng đoạt giải biên tập thơ của chuyên trang The Scissor Tale Review. Hiện tại, Christine Hà đang làm công việc biên tập tiểu thuyết hư cấu Gulf Coast thuộc ĐH Houston. Bên cạnh đó, cô còn có nhiều đóng góp khác ở một số tạp chí, chuyên trang văn chương. Christine Hà từng tâm sự rằng cô muốn nỗ lực khám phá cả văn chương lẫn ẩm thực, vì cả hai đều mang đậm tính nghệ thuật. Khi tự giới thiệu về mình trên The Scissor Tale Review, cô cho biết: “Hai điều tôi thích nhất trên thế giới này là ẩm thực và những câu chuyện”. Christine Hà còn tâm niệm rằng nấu ăn là cách để thể hiện tình cảm, sự quan tâm của bản thân đối với những người xung quanh. Quả thực, cô đã thể hiện sự chăm chút đến từng chi tiết trong suốt quá trình thi tài nấu ăn tại giải MasterChef US dù gặp nhiều khó khăn về thị lực. Ngoài ra, theo Christine Hà, văn chương và ẩm thực còn giúp kết nối những người xa lạ đến từ các nền văn hóa khác nhau. Có lẽ sự cảm nhận này cùng nỗ lực không ngừng đã giúp cô thành công như hôm nay. Thành công bằng tất cả đam mê và sự tự tin. TN
  2. “Tìm quê hương” của vua Lý Nam Đế 07/10/2012 3:15 Gần 15 thế kỷ sau khi Lý Nam Đế lên ngôi, trở thành người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế, một hội thảo được tổ chức để xác định quê hương của ông. Chùa Hương Ấp, thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, Phổ Yên, Thái Nguyên (nơi Lý Nam Đế tu hành thời nhỏ) “Nếu như công lao và sự nghiệp của vua Lý Nam Đế hết sức to lớn - mở ra thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc, thì có một khoảng trống lớn trong tiểu sử của ông vẫn chưa được lấp đầy trong suốt gần 15 thế kỷ qua”, GS-NGND Đinh Xuân Lâm đề dẫn hội thảo về vấn đề quê hương Lý Nam Đế. Hội thảo do Hội Khoa học lịch sử tổ chức hôm qua 6.10 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Một trong những lý do khiến quê hương vua Lý Nam Đế còn chưa rõ ràng là các sách sử của Trung Quốc và Việt Nam đều không khẳng định chính xác hoặc đề cập chung chung như “Thái Bình nhân”. “Từ điều này có người cho rằng Lý Nam Đế quê ở Thái Bình ngày nay. Có nhà nghiên cứu lại cho rằng đó phải là Thái Bình dưới thời thuộc Đường rồi khoanh vùng chứng minh nó phải thuộc Hà Tây. Ý kiến thứ ba cho rằng Thái Bình là tên ấp thuộc châu Giã Năng xưa, thuộc Thái Nguyên ngày nay”, PGS-TS Nguyễn Phương Chi, Viện Sử học nói. Thậm chí, có nhóm tác giả trong cuốn Thái Bình với sự nghiệp dựng nước Vạn Xuân còn công bố một truyền thuyết mà theo họ tuy không có văn bản nhưng phổ cập tại Thái Bình. Theo đó, Lý Bí được sinh ra tại chùa Hưng Quốc (Thái Bình). Tuy nhiên, một nghiên cứu điền dã của Viện Sử học cho thấy tại vùng có chùa Hưng Quốc không hề có truyền thuyết như trên. “Chúng tôi đều nhận được câu trả lời nhân dân chúng tôi không dám nhận đây là đất sinh ra vua Lý Nam Đế. Một cụ còn thay mặt địa phương nói đại ý địa phương không có truyền thuyết chùa Hưng Quốc là nơi sinh ra vua Lý Nam Đế”, PGS-TS Nguyễn Minh Tường, Viện Sử học loại bỏ giả thuyết quê Lý Nam Đế tại Thái Bình. Cũng từ nghiên cứu điền dã kết hợp văn bia, ngọc phả, theo ông Tường, quê hương của Lý Nam Đế phải ở Thái Nguyên. Chẳng hạn, một ngọc phả ghi Lý Nam Đế tu tại chùa Hương Ấp (Thái Nguyên - NV) đến năm 13 tuổi thì theo Phổ Tổ thiền sư về tu hành tại chùa Giang Xá thuộc Hoài Đức, Hà Nội. Ông Tường cũng liên hệ với việc vua về “huyện Thái Bình” để phất cờ khởi nghĩa. Theo đó, muốn phát động một cuộc khởi nghĩa thì phải hội được 2 điều kiện quan trọng đầu tiên là “nghĩa binh” và “lương thực”. Căn cứ vào đó, đất Thái Bình cổ ứng với Hoài Đức, Hà Nội đáp ứng tốt điều kiện hơn quê hương tại Thái Nguyên hiện nay. “Sử cũ đã nhầm khi nghĩ rằng nơi vua Lý Nam Đế lựa chọn để khởi nghĩa là quê hương của người”, ông Tường nói. Một thực tế thú vị, theo GS-NGND Đinh Xuân Lâm, là trước khi các nhà khoa học xác định được quê hương của vua Lý Nam Đế thì dân hai vùng Tiên Phong (Phổ Yên, Thái Nguyên) và Giang Xá (Hoài Đức, Hà Nội) đã tự nguyện đi lại thăm viếng lẫn nhau từ hơn 10 năm qua. Họ cũng mặc nhiên thừa nhận nơi có chùa Hương Ấp - Thái Nguyên - là quê hương của vua Lý Nam Đế. Nhân dân làng Giang Xá (nơi thờ Lý Nam Đế làm thành hoàng), về mặt tâm linh đã thừa nhận Thái Nguyên là quê hương của vị thần Thành hoàng làng mình. “Chúng tôi cho rằng đã đến lúc cần phải “trả” vua Lý Nam Đế về với quê hương đích thực của người là thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, H.Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”, PGS-TS Nguyễn Minh Tường nói. “Chúng tôi vẫn thừa nhận đất tỉnh Thái Bình hiện nay có nhiều di tích lịch sử gắn với vua Lý Nam Đế, nhưng đó chỉ là những di tích liên quan tới những cuộc chiến sự dưới thời Tiền Lý. Nhân dân các xã có đình, đền thờ Lý Nam Đế ở Thái Bình từ xưa đến nay, chưa bao giờ tự nhận là quê hương của người”. “Trong một tương lai gần, chúng tôi xin trân trọng đề nghị nhà nước ta cùng các cơ quan hữu quan cần xây dựng một ngôi đền thời đức vua Lý Nam Đế trên đất quê hương của người: thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, H.Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”, ông Tường nêu ý kiến. Trinh Nguyễn Đã tìm ra quê gốc của vua Lý Nam Đế? 07/10/2012, 04:20 (GMT+7) (HNM) - Sáng 6-10, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội), Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND huyện Phổ Yên, Thái Nguyên đã tổ chức hội thảo "Một số vấn đề về vương triều tiền Lý và quê gốc của vua Lý Nam Đế". Ảnh: Báo Thái nguyên Công lao và sự nghiệp của vua Lý Nam Đế đã khá rõ ràng, tuy nhiên, cho tới nay sử sách vẫn không cho biết quê hương cụ thể của vị anh hùng dân tộc họ Lý ở đâu. Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, giới sử học đã quan tâm nghiên cứu nhưng chưa có sự thống nhất cao. Trước nay có 3 thuyết về quê hương của vua Lý Nam Đế, gồm Quốc Oai (Hà Nội), Thái Thụy (Thái Bình), Phổ Yên (Thái Nguyên). Dựa trên cơ sở tư liệu điền dã thực địa ở các vùng: xã Tiên Phong - huyện Phổ Yên và huyện Thái Thụy, kết hợp với thần tích, truyền thuyết… còn lưu giữ tại các xã Giang Xá, Lưu Xá (huyện Hoài Đức), 27 tham luận tại hội thảo đưa ra nhận định vua Lý Nam Đế có quê gốc ở thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên ngày nay. Vũ Hoa http://www.baothaing...e-202701-3.html
  3. Sơn nữ Việt xưa mặc gì? Cách đây khoảng 1 thế kỷ, sơn nữ đã đi vào nhiếp ảnh, trên những con tem của người Pháp với vẻ đẹp mộc mạc và trang phục hết sức đặc trưng cho đồng bào mình. Cuộc sống quá gần gũi với thiên nhiên và thậm chí có phần hoang sơ đã giúp cho các sơn nữ giữ được vẻ hồn nhiên, trong trẻo, mộc mạc rất đáng yêu của người phụ nữ. Ngoài ra, cũng với óc sáng tạo phong phú và những nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên, họ đã sáng tạo nên những trang phục và trang sức độc đáo trở thành một trong những "tín hiệu" giúp người ta nhận diện về dân tộc mà họ là thành viên. Chẳng hạn, thiếu nữ Lô Lô ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, họ phân biệt mình với các dân tộc khác bởi mái tóc dài quấn ngang đầu cùng với những chiếc khăn sặc sỡ, tua vải; phụ nữ Mường lại đội đầu lên đầu một chiếc khăn làm từ mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa và mang nhiều trang sức như: vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích... Cùng Đất Việt chiêm ngưỡng những hình ảnh đẹp, mộc mạc của sơn nữ cách đây 1 thế kỷ: Thiếu nữ Mán xuống chợ. Thiếu nưc Mán hay còn gọi là người Dao, sinh sống ở hầu khắp các tỉnh miền núi phía Bắc với rất nhiều nhóm khác nhau: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).... ... Họ mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần và màu sắc của các trang phục này rất sặc sỡ. Thường thiếu nữ Dao không theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chảy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm. Phụ nữ Lô Lô để tóc dài quấn ngang đầu. Bên cạnh đó họ còn dùng khăn quấn thành nhiều lớp trên đầu hoặc đội. Khăn cũng được trang trí các mô típ hoa văn và các tua vải màu sắc sặc sỡ. Họ cư trú chủ yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang), Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai). Thiếu nữ Mường trong trang phục khăn đội đầu hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân Thiếu nữ Mèo hay còn gọi là H Mông e ấp trong trang phục truyền thống. Một thiếu nữ Mường trong gia đình giàu có ở Bảo Hà. Sơn nữ ở biên giới giáp TQ. Thiếu nữ Thượng căng tràn sức sống với phần thân trên để trần và bên dưới mặc váy. Người Thượng là tên gọi cung cho những nhóm sắc tộc thiểu số sinh sống trên cao nguyên miền Trung, như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông... Nguồn:www.hoaphuongdo.vn
  4. khá phá hình khắc trên phiến đá cổ đại Hà Giang - Việt Nam Các nhà khoa học tìm thấy những hình khắc cổ trên đá ở huyện Xín Mần, Hà Giang. Họ cho rằng, đây là những hình khắc được tạo tác qua nhiều thời kỳ, niên đại. >> Di sản vô giá trên cao nguyên Đồng Văn Nghiên cứu những hình khắc thú vị này một lần nữa cho thấy, Hà Giang - tỉnh miền núi biên giới cực bắc của Tổ quốc là một vùng đất cổ, có bề dày lịch sử, diện mạo văn hoá mang sắc thái riêng, độc đáo. Không cùng niên đại với các hình khắc cổ khác Ở Việt Nam những dấu tích nghệ thuật tạo hình thời tiền sử tìm thấy khá ít. Trước đây, tại hang Đồng Nội tỉnh Hoà Bình, các nhà khảo cổ Pháp đã tìm thấy trên vách hang những hình khắc mang tính ước lệ về động vật và khuôn mặt người. Theo một số nhà nghiên cứu, đó là những tác phẩm tạo hình sớm nhất ở nước ta hiện nay, thuộc giai đoạn sớm của thời đại đá mới, có tuổi cách nay gần 10.000 năm. Khi so sánh, kỹ thuật đục khắc ở Xín Mần thuần thục và tiến bộ hơn do vậy không thể xếp tương tương với Đồng Nội mà phải muộn hơn. Năm 1925, học giả người Pháp V. Goloubew đã phát hiện được bãi đá cổ Sapa ở tỉnh Lào Cai. Sau này, các nhà khoa học đã nhận định khu chạm khắc cổ này có nhiều niên đại khác nhau từ thời Đông Sơn đến thế kỷ 18 và cả những niên đại mới đây nữa. Khi so sánh nghệ thuật cổ Xín Mần với Nghệ thuật khắc trên bãi đá cổ Sapa thấy có một số điểm gần gũi trong phong cách tạo hình và mô tip đề tài thể hiện. Đó là những vạch khắc song song, hồi văn hình tròn, các lỗ vũm, biểu tượng sinh dục nữ… Điều này cho thấy giữa chủ nhân bãi đá cổ Xín Mần và Sapa có mối liên hệ với nhau. Tuy nhiên giữa chúng cũng có những điểm khác nhau như ở Xín Mần không có những nét khắc uốn lượn phóng túng mang tính sơ đồ, hoặc hoạ tiết hoa văn hình dăm cối đá, hoặc những ô hình vuông khắc chìm như ở Sapa. Ở Sapa chưa tìm thấy những vòng tròn đồng tâm bên trong có nhiều lỗ khoét, hoặc đồ án hình bàn chân người. Chính những khác biệt trên là cơ sở để thấy những hình khắc ở Xín Mần cổ xưa hơn hình khắc Sapa. Cần có phương án bảo vệ, nghiên cứu Mặc dù chưa xác định được chính xác chủ nhân các hình khắc, nhưng có thể thấy là chế độ mẫu hệ còn giữ vai trò quan trọng trong nhóm tộc người sáng tạo các hình khắc cổ Xín Mần, điều này thể hiện rất rõ qua biểu tượng sinh thực khí của nữ giới. Ngoài ra, các hình khắc không được tạo tác cùng thời, bằng chứng là có những hình khắc vẽ chồng lên nhau hoặc đan xen nhau. (Vết khắc hình bàn chân người) Do còn nhiều hạn chế về điều kiện làm việc, việc điều tra khảo sát nghiên cứu khu vực bãi đá cổ Xín Mần chưa được tiến hành trên diện rộng. Hy vọng trong thời gian tới sẽ có nhiều cơ quan chức năng, nhà nghiên cứu dành công sức, trí lực để khám phá và nghiên cứu khu bãi đá cổ Xín Mần. Qua đó có thể làm rõ được nghệ thuật tạo hình cổ ở Việt Nam. Di tích bãi đá cổ thuộc địa phận thôn Nấm Dẩn, xã Nấm Dẩn, nằm cách suối Nậm Khoòng 50m. Các tảng đã có bề mặt khá bằng phẳng, với hơn 80 hình chạm khắc và kích cỡ khác nhau. Dựa vào phương pháp phân loại hình thức các nhà khoa học tạm chia thành nhóm: họa tiết; hình hồi văn hình vuông và hình tròn; vạch đục khắc song song; những biểu tượng sinh thực khí; nhóm hình bàn chân người; nhóm hình người; và nhóm chưa xác định được hình dáng và ý nghĩa cụ thể. Để tạo những hình khắc này, người xưa đã sử dụng kỹ thuật đục khắc còn rất thô sơ, dùng búa, đục trực tiếp trên bề mặt tảng đá. Những rãnh đục này thường có mặt cắt hình lòng máng, bề rộng miệng khoảng từ 1cm-2cm, sâu từ 0,7cm-1cm. Các hình khắc có thể được phác họa trước, đặc biệt là những hình tròn. http://bocau.net/blog/
  5. Lăng mộ cổ hình lổ khóa ở Nhật Bản Kofun (cổ phần, mộ cổ) là những lăng mộ được xây cho những người thuộc tầng lớp thống trị ở Nhật Bản từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7. Thời kỳ Kofun được đặt tên theo loại lăng mộ đặc biệt này. Những ngôi mộ chỉ được dùng trong các lễ tang của những người giàu có vào thời kỳ đó. Các ngôi mộ bao gồm những tảng đá lớn tạo thành quan tài. Một số ngôi mộ còn có đường hào đào xung quanh. Các lăng mộ cổ có nhiều hình dạng khác nhau, trong đó hình tròn và hình vuông là đơn giản nhất. Một loại đặc biệt hơn là loại mộ hình lỗ khóa (zenpo koen fun), với hình vuông ở phía trước và tròn ở phía sau. Rất nhiều ngôi mộ như thế là những ngọn đồi tự nhiên được đẽo gọt để có hình dáng cuối cùng như mong muốn. Các ngôi mộ có kích thước khác nhau từ vài mét đến hơn 400 mét chiều dài. Vào cuối thời kỳ Kofun, loại quan tài chôn cất đặc biệt làm bằng những tảng đá lớn, lúc đầu chỉ giành cho những nhân vật quan trọng nhất trong xã hội, đã được sử dụng rộng rãi hơn. Ngôi mộ lớn nhất của thời kỳ này có thể là những ngôi mộ của các quý tộc địa phương như Hoàng đế Ojin và Hoàng đế Nintoku. Các ngôi mộ này còn được phân loại theo việc lối vào các quan tài bằng đá là thẳng đứng (tate-ana) hay nằm ngang (yoko-ana). Mộ Daisenryo, lăng mộ của Hoàng đế Nintoku, Osaka, thế kỷ 5 Ngôi kofun lâu đời nhất ở Nhật Bản có thể là ngôi kofun của Hokenoyama ở Sakurai, Nara, được xây dựng vào thế kỷ 3. Tại quận Makimuku thuộc Sakurai, những ngôi kofun hình lỗ khóa (kofun Hashihaka, kofun Shibuya Mukaiyama) được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 4. Xu hướng xây dựng các kofun hình lỗ khóa trước tiên lan từ Yamato sang Kawachi (nơi có những kofun khổng lồ như kofun Daisen của Hoàng đế Nintoku) và sau đó ra cả nước (trừ vùng Tohoku) trong thế kỷ 5. Vào cuối thế kỷ 5, những kofun hình lỗ khóa cũng được xây dựng ở vương quốc Gaya trên bán đảo Triều Tiên. Nhiều học giả Triều Tiên muốn phủ nhận điều này, nhưng hầu hết phải thừa nhận rằng sự có mặt của những thiết kế kiểu Nhật Bản có một không hai là bằng chứng không thể chối cãi của dòng chảy văn hóa từ Nhật Bản sang Triều Tiên trong thời kỳ này. Kofun hình nón Noge-Ōtsuka, Tokyo, đầu thế kỷ 5 Sự lan rộng của các kofun hình lỗ khóa được lấy làm bằng chứng cho sự mở rộng của triều đình Yamato trong giai đoạn này. Tuy nhiên, cũng có những học giả phản biện rằng đó chỉ đơn thuần là sự lan tỏa của văn hóa chứ không liên quan nhiều đến các yếu tố chính trị. Ngoài ra, việc kofun hình lỗ khóa ở Gaya là được xây cho một lãnh chúa địa phương chịu ảnh hưởng của văn hóa Nhật Bản hay cho một quý tộc Nhật Bản di cư đến Triều Tiên vẫn còn là điều gây tranh cãi. Kofun hình lỗ khóa biến mất vào cuối thế kỷ 6, có thể do sự cải cách sâu rộng xảy ra ở triều đình Yamato, những tài liệu Nihonshoki cho biết đạo Phật đã xuất hiện ở Nhật Bản trong giai đoạn này. Hai kofun lớn cuối cùng là kofun Imashirozuka (chiều dài 190m) ở Osaka mà các học giả hiện đại cho rằng là lăng mộ của Hoàng đế Keitai và kofun Iwatoyama (chiều dài 135m) ở Fukuoka mà theo sách Fudoki Chikugo là lăng mộ của Iwai, một triều thần cao cấp của Keitai. nguồn: Thiên Đồng sưu tầm từ internet
  6. Lăng mộ cổ hình lổ khóa ở Nhật Bản A comparison between Nintoku’s kofun, the Great Pyramid in Giza, and the Mausoleum of the first Qin Emperor of China (From the Sakai City Museum) The largest burial mound in the world The Kofun Period (250-538 CE) was the third period of human history in Japan, following the Jomon (14,000-400 BCE) and Yayoi (400 BCE-250 CE) Periods. During this time, colossal tomb-mounds called kofun were constructed for Japanese nobles, members of the imperial family, and powerful members of the central government, thus giving the period its name. While several styles of kofun existed, the most impressive consisted of a terraced cone abutted by a long trapezoidal platform, giving these tombs the aerial profile of a traditional keyhole. The largest kofun, or tumulus, is Daisen-ryo, built in the early 5th century for Emperor Nintoku, the 16th emperor of Japan. Nintoku’s expansive keyhole tomb lies in what is now Sakai City in the southern part of Osaka Prefecture. Covering an area of 32 hectares (79 acres), Daisen-ryo is the largest burial mound in the world, estimated to have taken 16 years and 6.8 million man-days of labor to complete, and is said to contain a greater volume of material than the Great Pyramid of Giza. At 486 m (1594 ft) in length, the mound is in fact twice as long as the base of the Great Pyramid, though at 35 m (115 ft) tall, it is only about one-quarter the height. The tumulus is surrounded by three moats, the soil from which was used to build the mound itself. When it was constructed, the kofun’s three-tiered slopes were covered with stone and grass, with small terracotta figures, called haniwa, lining each terrace, while platforms for religious ceremonies called tsukuridashi were built on either side of the narrowest part of the tomb. In an attempt to reduce erosion and weather damage, natural forestation has been allowed to take place on the tomb over the last century, and now the kofun’s entire 2.7-km (1.7 mile) perimeter is surrounded by a dense forest breached at only a single point, where visitors may approach no further than the near end of a bridge placed across the second moat. The ancient emperor’s tomb is announced by a single small torii gate standing at the terminus of a carefully-raked gravel path, beyond which the burial mound peeks out in the guise of a forested hillside. The only view visitors can get of the kofun Nobody is supposed to have crossed the inner moat since a typhoon in 1872 damaged the front of the tumulus, leading to the discovery of a large stone coffin, glass tableware, and gold and copper swords and armor. The Boston Museum of Arts still holds artifacts said to have been excavated from the site. However, the rear conical mound has never been opened, and given certain inconsistencies in the historical record, historians are skeptical as to whether its occupant is actually Emperor Nintoku and not some other ancient ruler. At its height, kofun tradition spread across all of western Honshu, Kyushu, and Shikoku, even approaching the site of modern-day Tokyo, with prominent examples still in existence in Nara and Miyazaki Prefectures. However, the sixth century saw a gradual decline in kofun construction, and by the seventh century the growing influence of Buddhism over the Yamato court led to the abandonment of large mounds honoring the dead, with rulers electing instead to construct opulent cities and temples to express their authority. Daisen-ryo is surrounded by a total of twelve subordinate tombs, both large and small, some of which lie directly across the street within the bounds of Daisen Park. To look at them now, many of these ancient monuments are no more than a wide bump in the ground or an ill-kempt marshy island, and without their descriptive plaques, a visitor might not even know they were there. Aerial image of Daisen-ryo, clearly illustrating the keyhole shape Daisen Park also houses the Sakai City Museum, where visitors can find a reasonable collection of local artifacts, including haniwa and pottery excavated from nearby tumuli, in addition to a variety of displays illustrating the region’s development into a prosperous port city in the Middle Ages. The park and kofun are both a 10-minute walk west of Mozu station on the JR Hanwa line (32 minutes from Osaka if you catch the airport express and change at Mikunigaoka, ¥360). Museum entrance is a reasonable ¥200. Daisen-ryo is not to be visited for the view. There is, in essence, nothing to be seen, and the tomb is now most prominently used as a perimeter around which to jog. But the sense of being in the presence of something so old, illustrating both the indelible longevity of power and the humility impressed upon it by time, resonates with a depth beyond anything that can be captured by the eyes. http://www.thekanert.com/writing/japan-travel/nintoku-s-tomb/
  7. Chữ Lễ xưa và nay Ta thường thấy câu “Tiên học lễ hậu học văn” được nêu ở các trường học như là một tôn chỉ giáo dục trong nhà trường. Khi đọc về Nho giáo, có thể thấy thầy Khổng Tử là người được Nho gia tôn là “Chí Thánh” hay “Vạn Thế Sư Biếu”, nghĩa là người thầy của mọi thế hệ. Ông là người luôn nêu cao tinh thần Châu Lễ như mục tiêu tôn chỉ tư tưởng học thuyết của ông. Ngày nay, còn đề cao những chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, Trung, Hiếu, Trí, Tín, Nhân, Dũng… như những phạm trù về đạo đức phong kiến của Nho giáo. Vậy ý nghĩa của chữ Lễ là gì? Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường nói đến lễ phép, lễ nghi, tức là biết xử sự, tôn trọng nhau như người biết phép tắc, có văn hóa, có đạo đức truyền thống. Chính trên cơ sở này mà nhà trường thường nêu câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, nghĩa là đến trường học trước tiên là học làm người, sau đó mới học chữ, học kiến thức, học nghề để mưu sinh về sau. Trong tác phẩm Cổ học tinh hoa có đoạn viết rằng: “Công Minh Tuyên đến học thầy Tăng Tử (người học trò thành đạt của Khổng Tử). Ở nhà thầy ba năm mà ít mấy khi đọc sách. Thầy Tăng Tử hỏi: “Ngươi đến đây đã ba năm nhưng ta ít khi thấy người đọc sách và bàn thảo văn chương như các anh em là tại sao?”. Công Minh Tuyên đáp: “Thưa thầy, con vẫn chăm học ở thầy. Thầy lúc nào cũng hiếu thuận với song thân. Thầy ứng tiếp bạn bè cung kính ung dung, rất có lễ độ, kẻ dở người hay ai đều bị thuyết phục. Ở triều đình đối với kẻ dưới bề trên đều nghiêm nghị như nhau, trong lòng nhân từ, không có ý hại ai. Đây là ba điều con mãi đang học nhưng chưa làm tốt được…”. Câu chuyện có ý nói rằng, đi học trước tiên là học làm người và người thầy không chỉ là người truyền đạt kiến thức, mà còn là tấm gương nhân cách, gương mẫu về đạo đức để học trò noi theo. Khổng Tử và Mạnh Tử cũng đặt vị trí người thầy còn cao hơn bậc cha mẹ, vì cha mẹ sinh ra ta, còn người thầy giáo dục ta nên người. Khổng Tử ra đời vào thời kỳ nhà Châu bắt đầu suy vong, các chư hầu thôn tính lẫn nhau, không còn tôn trọng Châu Lễ. Ngậm ngùi tiếc nuối thời cực thịnh thái bình 400 năm trước của nhà Châu, Khổng Tử đề xướng khôi phục Châu Lễ và chính vì thế mà về tư tưởng chính trị, người đời lên án Khổng Tử đã bảo vệ cho chế độ nô lệ phong kiến. Châu Lễ ngày xưa chính là vũ trụ quan về trời đất, con người và thiên nhiên, là tư tưởng quan điểm chính trị, là hiến pháp và luật pháp quốc gia. Từ tư tưởng này, người đời xây dựng nên luân lý và mối quan hệ xã hội, quy tắc hành xử của con người với nhau trong hệ thống giai tầng xã hội qua các chữ Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ… Sau đó, Khổng Tử và các học trò của ông kế thừa và chọn lọc lại thành hệ thống tư tưởng triết học, đạo đức xã hội, đạo đức con người mà các thế hệ cần phải tu dưỡng noi theo. Khi Khổng Tử chu du các nước, thuyết phục họ trở lại theo Châu Lễ thì chẳng ai nghe, vì lúc bấy giờ nhà Châu đã suy tàn, các chư hầu lớn đều muốn tự mình làm thiên tử. Sau khi thất bại trên đường quan lộ, Khổng Tử chỉ còn cách mở trường dạy học. Ông đem đạo lý trị quốc và luân lý xã hội phổ biến và truyền lại cho đời sau. Đến thời Mạnh Tử, vai trò vua và dân được đánh giá lại qua câu “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, về tư tưởng chính trị còn tiến bộ hơn. Và mẫu người đại trượng phu đã thay cho mẫu người quân tử, gần gũi và thiết thực hơn. Những đóng góp về quan điểm giáo dục và đạo đức con người của Khổng Tử, Mạnh Tử cho đến nay vẫn được người đời xem như là cốt lõi của của tư tưởng Nho giáo (dù Nho giáo và tư tưởng của Khổng Tử và Mạnh Tử có khác). Đến nhà Hán (Hán Võ Đế), thừa tướng Đổng Trọng Thư muốn củng cố chế độ quân chủ chuyên chính và chế độ gia tộc, đã đem tư tưởng Khổng - Mạnh diễn dịch lại thành mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, gọi là “tam cương” và tinh thần Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín gọi là “ngũ thường” để phục vụ cho việc củng cố Hán Triều, đặt tư tưởng Nho giáo theo ý tưởng mới này thành nền tảng tư tưởng chính thống. Ông đã biến Nho giáo thành công cụ của giai cấp thống trị. Chính từ đó, những nhà Nho sau khi đỗ đạt thì được làm quan, trở thành công cụ của giai tầng thống trị. Tiếc là đại đa số người thành đạt đó đều bị biến chất, phản bội lại tinh thần đạo đức Khổng - Mạnh. Chỉ có những nhà Nho bị thi rớt hay không chịu làm quan mới giữ được phần nhân cách, đạo đức Khổng - Mạnh và họ trở thành thầy đồ sống trong các tầng lớp nhân dân, giữ gìn được tinh thần, tư tưởng khí tiết Khổng - Mạnh, thế nên người đời luôn tôn kính các đồ nho. Thật ra, chữ Lễ trong “Tiên học lễ hậu học văn” không chỉ là lễ phép, lễ nghi, mà cũng không rộng mênh mông như chữ Lễ của Châu Công (Châu Lễ). Nó là quy phạm, tư tưởng, hành vi của con người đối với mọi mối quan hệ xã hội và thiên nhiên, nhằm bảo vệ quyền con người và trật tự cộng đồng xã hội, giữ gìn sự phát triển hài hòa của xã hội và thiên nhiên, giúp cho quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân và tập thể cũng tồn tại và phát triển, làm cơ sở hình thành một xã hội văn minh, hạnh phúc. Ngày nay, các thầy cô giải thích và thực hành như thế nào về tinh thần “Tiên học lễ hậu học văn” cho học sinh? Mấy tháng trước đây có hai sự kiện đăng trên hai tờ báo khác nhau khiến chúng ta phải giật mình. “Tại một trường trung học cơ sở tỉnh Bình Phước, một giáo viên bị chém trọng thương. Kẻ gây án khai rằng có một em học sinh trường này không mặc đồng phục nên bị thầy nhắc nhở. Em này về thuật lại với người yêu. Anh này nghe xong cảm thấy bị “xúc phạm” nên điện thoại nhờ người anh (thủ phạm) ra chợ mua cây rựa đến trường chém ông thầy nào dám xúc phạm đến người yêu. Anh không biết người nào, nên chém nhầm thầy này…”. “Tại tỉnh Bình Thuận, hai công ty làm ăn rồi tranh chấp nhau. Giám đốc Công ty A dẫn người đến nhà giám đốc Công ty B đập phá… Một ông hàng xóm đến can. Ông giám đốc Công ty A cho xe tông ông hàng xóm ngã xuống, còn lùi xe cán đi cán lại thân thể ông ta, gây thương tật đến 80%. Sau đó giám đốc Công ty A bảo rằng ông ta lầm tưởng là đồng bọn của giám đốc Công ty B và tông xe chỉ nhằm hù dọa mà thôi, không cố ý giết người ấy”. Hai sự kiện trên thật ra không phải là lần đầu xảy ra trong xã hội. Tính chất tàn bạo và xem thường mạng sống con người phải chăng đã thành hiện tượng phổ biến? Nó đã phản ánh rằng cái học làm người không còn nữa, mà đã bị sự tranh giành hơn thua bất chấp lễ nghĩa, bất chấp đạo đức chẳng qua là cuộc sống vật chất mà thôi. Tại sao người ta có thể chém người không thù oán dễ dàng như ném một chiếc chén xuống đất cho nát vụn! Một sự suy đồi về đạo đức đến mức không thể chấp nhận được! Nhớ lại cách đây mấy năm, khi gặp lại một người bạn hiện sống ở nước ngoài, tôi nói về sự đổi mới của nước ta một cách tự hào. Thế nhưng anh ta trả lời một cách mỉa mai rằng: “Nhờ đổi mới tư duy, cuộc sống người dân Việt Nam đã tốt hơn, nhưng đạo đức xã hội lại băng hoại, tham nhũng lan tràn khắp mọi lĩnh vực, mọi cấp”. Tôi nghẹn họng, đứng lên từ giã và không bao giờ muốn gặp lại anh ta nữa. Sự thật là đổi mới có làm cho cuộc sống chúng ta tốt lên, nhưng vấn đề đạo đức xã hội, nhân cách đạo đức con người thì bị lu mờ và biến dạng dần. Ôi, chữ Lễ của chúng ta còn không và nếu còn thì ở đâu? Theo PHAN CHÁNH DƯỠNG Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần Xuân ************ HIỂU THÊM VỀ CHỮ LỄ Đoàn Ngọc Thành Khi bàn về nhân cách, người ta thường nói “đức là gốc, tài là ngọn”. Xét ở góc độ nào đó, khi mọi người cùng hiểu và giữ được chữ “lễ” thì chính là giữ được cái gốc vậy! Vậy lễ là gì mà người xưa dạy “Tiên học lễ, hậu học văn”? Đây là lời cửa miệng của bất kỳ ai từng bước chân đến trường nhưng hình như không phải ai cũng hiểu được đủ đầy ý nghĩa chữ “lễ” trong lời nói ấy. Phần đông nhiều người hiểu “lễ” ở đây có nghĩa là lễ nghĩa, lễ phép, là sự kính trọng người lớn chứ chưa thấy nhắc đến nét nghĩa chính. Thực ra, người xưa không chỉ dạy người có học biết thưa gởi kính trình, biết tôn kính các bậc trưởng thượng mà sâu xa hơn đó chính là dạy phàm là người phải biết tuân thủ các phép tắc, biết chấp hành các kỷ cương-trật tự-bổn phận để sống sao cho hợp với lẽ trời đất, xã hội, gia đình, bè bạn … Suy ngẫm mới thấy các cụ giỏi thật, chỉ vài chữ mà ý tứ thật cao diệu. Người hiểu lễ, với trời đất thì biết tôn trọng các qui luật tự nhiên, với xã hội thì biết tôn trọng pháp luật, với gia đình thì biết đoàn kết thương yêu, với bạn bè thì biết gần gũi thân ái… Khi người người đều giữ được lễ thì trên dưới phân minh, trật tự được sắp xếp, kỷ cương được tôn trọng, lẽ tự nhiên cuộc sống thật chan hòa, bình yên và hạnh phúc. Đó chẳng phải là cái gốc mà con người cần phải giữ trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với gia đình là gì! Ngày nay, trong cuộc sống thường nhật chúng ta thấy đầy rẫy kẻ lường gạt, dối trá đang hiện hữu trên cõi đời này. Hàng ngày chúng ta nghe nhắc nhiều đến kẻ bất lương, vô trách nhiệm, thậm chí có cả những kẻ thủ ác vẫn tồn tại quanh ta. Tất cả những con người ấy đều thiếu lễ, không có lễ và chưa hiểu được chữ lễ. Bởi không có ý thức về lễ nên lên rừng người ta làm lâm tặc, xuống biển người ta làm hải tặc, lên trời người ta làm không tặc, khi về phố người ta vượt đèn đỏ, ra xa lộ người ta lái xe lạng lách để gây tai họa cho người khác. Bởi thiếu lễ nên mặc dù giữ trọng trách người ta vẫn có thể trở thành kẻ cắp công quĩ, rút ruột công trình quốc gia để đánh bạc hay làm giàu bất chính. Công dân thiếu lễ thường vi phạm phép nước. Công chức thiếu lễ thường hoạnh họe người dân. Cán bộ nhà nước mà không giữ được lễ thì đó là tai họa của nước nhà. Kẻ thiếu lễ dễ dàng bán mình, không giữ được mình và thế là trở thành người phạm tội. Chơi với người vô lễ ta thấy bất an. Gia đình thiếu lễ dễ bất hòa. Xã hội có nhiều người không biết lễ tất bất ổn. Chữ lễ quan trọng là vậy mà sao ít người quan tâm, ít người để ý, ít người học tập và rèn luyện để giữ cho được chữ lễ? Vì sao trong xã hội hiện đại mang tiếng là văn minh, có văn hóa mà người ta lợi dụng các phương tiện hiện đại để nói xấu nhau, chửi bới nhau, nhiếc móc nhau? Người ta lợi dụng blog để hại nhau, lợi dụng các xa lộ thông tin để đưa chuyện phòng the cần giấu kín, người ta quan tâm việc rèn luyện con cái thành tài hơn thành người… tất cả đều do thiếu lễ mà ra cả. Có phải đã đến lúc chúng ta cần đặt lại vị trí chữ lễ cho thật đúng?
  8. trời cũng là nghiệp, nghiệp cũng là trời đấy.
  9. Có lẽ người viết đoạn này đã có sự nhầm lẫn giữa phạm trù Lễ với những phạm trù khác? Người biết lễ, giữ lễ, thực hành lễ...chưa chắc là người tốt hay là kẻ xấu, chưa thể khẳng định là thiện hay ác. Lê Ngọa Triều là bạo chúa nhưng mỗi ngày ông cũng phải giữ lễ với bầy tôi, bầy tôi phải giữ lễ với ông.Nguyễn Ánh thù Nguyễn Huệ, lấy xương kẻ thù làm bô tiểu, nhưng ông vẫn giữ lễ với bầy tôi, lễ trị với muôn dân. Các chính khách vẫn tay bắt mặt mừng với nhau, mời ngồi hỷ hả, nhưng họ vẫn đối đầu quyết liệt. Vì vậy, thiện ác, tốt xấu, hư ngoan...thuộc vấn đề khác. Vài hàng lạm bàn, đệ tử xin Sư Phụ chỉ dạy thêm. Thiên Đồng
  10. Mày để cho nó một chút Xưa, có một anh học trò nghèo rất thông minh, thuê một căn nhà ở trọ trong phố. Đối diện với nhà anh là nhà một bà cụ chuyên nghề quay tơ, có một cô con gái út rất nết na thùy mị, chăm việc bếp núc. Bà cụ thường đe bọn thanh niên hàng xóm: - Có già ở đây, bọn bây đừng hòng léng phéng đến con út. Một ngày kia. Lúc bà cụ đang quay tơ, cô út nấu ăn dưới bếp, anh học trò cầm một cái chén nhỏ xíu sang nhà bà cụ: - Thưa bác, hôm nay cháu nấu ăn quên mua nước mắm, bác cho cháu xin một muỗng. Thấy anh học trò ăn nói dễ thương nên bà cụ cũng dễ dãi: - Ừ con cứ xuống bếp nói con út đưa cho. Anh học trò đi xuống bếp, giấu cái chén tỉnh bơ: - Cô út, bác nói cô cho tôi... nắm tay cô một chút. Cô út sợ quá la toáng lên: - Má ơi! Anh này ảnh kêu... - Thì mày để cho nó một chút. Có mất cái gì đâu! Cô Út đành đứng im cho anh nắm tay. 3 bữa sau, anh học trò lại sang: - Thưa bác, cho con xin một củ hành nhỏ. - Con cứ xuống bếp nói con Út đưa cho. Anh ta lại xuống bếp: - Cô Út, bác nói cô cho tui hun cô một cái. Cô Út la lớn: - Má ơi! Anh này ảnh đòi... - Thì mày cứ để cho nó một chút... Cô Út đành để cho anh ta hun. Cứ thế khi thì hạt tiêu, trái ớt, khi thì muỗng muối, hạt đường, cô Út cứ đành phải “cho một chút...". Một thời gian sau, anh ta đã được ở... rể nhà bà cụ. Thi ngũ quả Là người cưỡi đầu cưỡi cổ thiên hạ, chúa Trịnh tha hồ bày ra những trò du hí để được chơi bời thỏa thích. Một trong những thú chơi đó là trò thi “mâm ngũ quả” hàng năm vào dịp rằm trung thu. Nhà chúa đặt giải thưởng cho ai có được mâm ngũ quả đẹp nhất, quí nhất, ngon lành nhất và lạ nhất. Các gia đình quyền quí và giàu có trong thành Thăng Long đua nhau sắm những mâm ngũ quả cực kỳ đắt tiền để mong đoạt giải, khoe sang với thiên hạ. Trạng Quỳnh thấy thiên hạ náo nức dự thi, cũng tuyên bố với mọi người: - Năm nay tôi sẽ dự thi cho mà coi! Tôi đã trượt kỳ thi Hội, nhưng nhất định thi ngũ quả thì tôi sẽ chiếm giải, cho thiên hạ lác mắt một phen! Trong khi ai nấy đều kỳ công sắm những thứ trái cây quí nhất trong nước như đào mận Lạng Sơn, hồng Hạc Trì, nhãn lồng Sơn Nam (Hưng Yên), vải thiều Hải Dương, cam Nghệ An... thì Trạng Quỳnh lại mang thi bằng một bức tranh thiếu nữ khỏa thân. Chúa và bà chính cung cùng xem bức tranh lạ lùng và chất vấn: - Bức tranh này mà trạng dám bảo là mâm ngũ quả ư? Trạng Quỳnh gật gù mỉm cười: - Chúa thượng không nhận ra mâm ngũ quả thật sao? Này nhé: (Chỉ vào đầu thiếu nữ) đây không phải là một trái bưởi đẹp vào bậc nhất hay sao? (Lại chỉ vào đôi mắt) Đây không phải một chùm gồm hai quả nhãn lồng Sơn Nam hay sao? (Lại chỉ vào bộ ngực trần nõn nà) Đây không phải là một cặp đào tơ Lạng Sơn thứ thượng thặng hay sao? (Chỉ vào đôi bàn tay búp măng) Còn đây chẳng phải hai trái phật thủ cực quí hay sao? (Rồi chỉ vào chỗ hấp dẫn nhất mà nhà Chúa nãy giờ cứ nhìn chằm chằm vào đó) Còn đây không phải là một múi mít thơm ngon nhất trần đời hay sao? Vừa nghe trạng giảng giải, nhà chúa vừa say mắt ngắm đủ “ngũ quả” và ngài cứ nuốt nước miếng ừng ực, lòng ngài rạo rực, y như thể ngài bị 5 thứ quả kỳ diệu kia hớp mất hồn vía. Bà chính cung đứng bên cạnh đưa mắt lườm ngài mấy lần, ngài cũng thây kệ. Đoạn ngài phán: - Giá mâm ngũ quả của khanh mà là thật thì ta chấm giải nhất cho khanh, không còn phải đắn đo gì nữa! Quỳnh can ngay: - Ấy, khải chúa thượng! Sở dĩ mâm ngũ quả này được thần chọn dự thi là vì nó không bao giờ tàn úa lạt phai. Chứ nếu nó là thật thì bất quá chúa thượng chỉ thích nó được 2 ngày là cùng! Chúa chợt nhớ lại những thứ “ngũ quả” mà ngài đã được nếm và nếm rồi thì chán, ngài liền so chúng với người thiếu nữ mơn mởn xuân xanh trong tranh và quả thật ngài cảm thấy nàng thiếu nữ này có sức hấp dẫn hơn hẳn. Nàng nằm phơi tấm thân nõn nường ở đó, nhưng ngay cả chúa nữa cũng không tài nào chiếm đoạt nổi nàng, mà chỉ có thể chiêm ngưỡng bằng mắt để tưởng tượng và mơ ước mà thôi! Chúa cả cười, vỗ đùi kêu lên: - Ta chịu khanh nói chí lý! Chí lý! Ý chúa là ý Trời, năm ấy mâm ngũ quả của Trạng Quỳnh chiếm giải nhất. Bàn dân thiên hạ biết chuyện đều bái phục trí tuệ siêu quần của trạng và lấy làm xấu hổ cho cái đầu óc bã đậu thô thiển của mình. Trạng Lợn xem bói Chung Nhi đến kinh, mở một ngôi hàng xem bói. Thế nào lại gặp hai ông bạn đồng hành khi trước vào nhờ xem một quẻ. Ba người gặp nhau vui mừng khôn xiết. Hai người bạn kia liền bảo Chung Nhi gieo cho một quẻ xem phận rồng mây phen này thế nào. Chung Nhi khấn khứa, xem quẻ rồi đoán: - Trong quẻ này Thánh dạy: “Quần long vô chủ” tất kỳ thi năm nay hoãn. Thì ra mấy hôm trước, có hai vị quan đến xem bói nói chuyện riêng với nhau để lộ ra. Chung Nhi nghe lỏm được nên mới dám đoán già như thế. Hai người bạn, tuy biết tài Chung Nhi nhưng trong lòng thì chưa tin lắm, còn những người xem bói khác thì hoàn toàn bảo lão thầy bói nói láo. Khi sắp đến kỳ thi, quả nhiên có giấy niêm yết báo hoãn. Ai nấy giật mình, cho Chung Nhi là bậc tiên tri. Từ đó tiếng đồn gần xa, khắp kinh kỳ rủ nhau đến xem bói đông nghìn nghịt... Một hôm, quan Thượng thư bộ Binh lạc mất con thiên lý mã. Quan tiếc lắm, vì là con ngựa rất quý. Nghe đồn có thầy bói giỏi, quan sai cho gọi Chung Nhi vào dinh. Nằm trong dinh quan Thượng, được cung phụng đầy đủ mọi thứ, nhưng Chung Nhi lo lắm, ăn không ngon, ngủ không yên giấc, trằn trọc suốt đêm, bụng luôn nghĩ đến chuyện mất ngựa. Bất giác Chung Nhi nhớ đến mấy câu trong “Tam tự kinh” học hồi còn nhỏ, liền ngâm to lên cho khuây khỏa: “Mã ngưu dương, thử lục súc, nhân sở tự...”. Chẳng dè tên lính hầu trong dinh đúng là tên trộm ngựa. Khi mới nghe tin quan Thượng mời Chung Nhi vào, hắn đã lo, nên ngày đêm lai vãng gần đó để nghe ngóng. Đêm hôm ấy, hắn chui xuống gầm giường Chung Nhi nằm, xem động tĩnh ra sao, đương hồi hộp đợi chờ, bỗng nghe thấy Chung Nhi đọc vanh vách nào là “mã” với “tự”. “Mã” là ngựa, còn “tự” thì đúng là tên hắn. Hắn sợ quá, cho là Chung Nhi đã hô đích danh mình rồi, bèn lóp ngóp bò ra khỏi gầm giường, vừa vái vừa kêu, xin khai hết sự thật, nhưng xin Chung Nhi đừng nói rõ tên với quan Thượng. Chung Nhi được thể, thét bảo: - Ừ, mày lấy trộm ngựa ngày nào, giờ nào, bây giờ giấu ngựa ở đâu? Muốn sống khai ra ngay, không tao hô lên tất cả đến đây thì khó mà cứu vãn đó! Tên ăn trộm khai hết đầu đuôi. Hôm sau, Chung Nhi vào hầu quan Thượng, giả cách khấn khứa gieo quẻ, rồi cứ lời tên kẻ trộm khai mà nói ra vanh vách. Quan cho người đến tận nơi, quả thấy ngựa quý, mừng lắm, thưởng cho Chung Nhi rất nhiều vàng bạc. Từ đó, tiếng tăm Chung Nhi càng lừng lẫy, ai ai cũng gọi chàng là Trạng.. bói!!!
  11. Trái Đất và Hệ Mặt Trời http-~~-//www.youtube.com/watch?v=X117NjA-PLQ
  12. Bí ẩn 1 Henri Poincare (1854-1912), nhà vật lý học và toán học người Pháp, một trong những nhà toán học lớn nhất thế kỷ 19. Giả thuyết Poincaré do ông đưa ra năm 1904 là một trong những thách thức lớn nhất của toán học thế kỷ 20 Lấy một quả bóng (hoặc một vật hình cầu), vẽ trên đó một đường cong khép kín không có điểm cắt nhau, sau đó cắt quả bóng theo đường vừa vẽ: bạn sẽ nhận được hai mảnh bóng vỡ. Làm lại như vậy với một cái phao (hay một vật hình xuyến): lần này bạn không được hai mảnh phao vỡ mà chỉ được có một. Trong hình học topo, người ta gọi quả bóng đối lập với cái phao, là một về mặt liên thông đơn giản. Một điều rất dễ chứng minh là trong không gian 3 chiều, mọi bề mặt liên thông đơn giản hữu hạn và không có biên đều là bề mặt của một vật hình cầu. Vào năm 1904, nhà toán học Pháp Henri Poincaré đặt ra câu hỏi: Liệu tính chất này của các vật hình cầu có còn đúng trong không gian bốn chiều. Điều kỳ lạ là các nhà hình học topo đã chứng minh được rằng điều này đúng trong những không gian lớn hơn hoặc bằng 5 chiều, nhưng chưa ai chứng minh được tính chất này vẫn đúng trong không gian bốn chiều. Bí ẩn 2 N = NP? Alan Turing (1912-1954), nhà toán học người Anh Vấn đề P chống lại NP Với quyển từ điển trong tay, liệu bạn thấy tra nghĩa của từ “thằn lắn” dễ hơn, hay tìm một từ phổ thông để diễn tả “loài bò sát có bốn chân, da có vảy ánh kim, thường ở bờ bụi” dễ hơn? Câu trả lời hầu như chắc chắn là tra nghĩa thì dễ hơn tìm từ. Những các nhà toán học lại không chắc chắn như thế. Nhà toán học Canada Stephen Cook là người đầu tiên, vào năm 1971, đặt ra câu hỏi này một cách “toán học”. Sử dụng ngôn ngữ lôgic của tin học, ông đã định nghĩa một cách chính xác tập hợp những vấn đề mà người ta thẩm tra kết quả dễ hơn (gọi là tập hợp P), và tập hợp những vấn đề mà người ta dễ tìm ra hơn (gọi là tập hợp NP). Liệu hai tập hợp này có trùng nhau không? Các nhà lôgic học khẳng định P # NP. Như mọi người, họ tin rằng có những vấn đề rất khó tìm ra lời giải, nhưng lại dễ thẩm tra kết quả. Nó giống như việc tìm ra số chia của 13717421 là việc rất phức tạp, nhưng rất dễ kiểm tra rằng 3607 x 3808 = 13717421. Đó chính là nền tảng của phần lớn các loại mật mã: rất khó giải mã, nhưng lại dễ kiểm tra mã có đúng không. Tuy nhiên, cũng lại chưa có ai chứng minh được điều đó. “Nếu P=NP, mọi giả thuyết của chúng ta đến nay là sai” – Stephen Cook báo trước. “Một mặt, điều này sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề tin học ứng dụng trong công nghiệp; nhưng mặt khác lại sẽ phá hủy sự bảo mật của toàn bộ các giao dịch tài chính thực hiện qua Internet”. Mọi ngân hàng đều hoảng sợ trước vấn đề lôgic nhỏ bé và cơ bản này! Bí ẩn 3 Các phương trình của Yang-Mills Các nhà toán học luôn chậm chân hơn các nhà vật lý. Nếu như từ lâu, các nhà vật lý đã sử dụng các phương trình của Yang-Mills trong các máy gia tốc hạt trên toàn thế giới, thì các ông bạn toán học của họ vẫn không thể xác định chính xác số nghiệm của các phương trình này. Được xác lập vào những năm 50 bởi các nhà vật lý Mỹ Chen Nin Yang và Robert Mills, các phương trình này đã biểu diễn mối quan hệ mật thiết giữa vật lý về hạt cơ bản với hình học của các không gian sợi. Nó cũng cho thấy sự thống nhất của hình học với phần trung tâm của thể giới lượng tử, gồm tương tác tác yếu, mạnh và tương tác điện từ. Nhưng hiện nay, mới chỉ có các nhà vật lý sử dụng chúng… Bí ẩn 4 Giả thuyết Hodge Euclide sẽ không thể hiểu được gì về hình học hiện đại. Trong thế kỷ XX, các đường thẳng và đường tròn đã bị thay thế bởi các khái niệm đại số, khái quát và hiệu quả hơn. Khoa học của các hình khối và không gian đang dần dần đi tới hình học của “tính đồng đẳng”. Chúng ta đã có những tiến bộ đáng kinh ngạc trong việc phân loại các thực thể toán học, nhưng việc mở rộng các khái niệm đã dẫn đến hậu quả là bản chất hình học dần dần biến mất trong toán học. Vào năm 1950, nhà toán học người Anh William Hodge cho rằng trong một số dạng không gian, các thành phần của tính đồng đẳng sẽ tìm lại bản chất hình học của chúng… William Hodge (1903-1975), nhà toán học người Anh Bí ẩn 5 Giả thuyết Riemann 2, 3, 5, 7, …, 1999, …, những số nguyên tố, tức những số chỉ có thể chia hết cho 1 và chính nó, giữ vai trò trung tâm trong số học. Dù sự phân chia các số này dường như không theo một quy tắc nào, nhưng nó liên kết chặt chẽ với một hàm số do thiên tài Thụy Sĩ Leonard Euler đưa ra vào thế kỷ XVIII. Đến năm 1850, Bernard Riemann đưa ra ý tưởng các giá trị không phù hợp với hàm số Euler được sắp xếp theo thứ tự. Giả thuyết của nhà toán học người Đức này chính là một trong 23 vấn đề mà Hilbert đã đưa ra cách đây 100 năm. Giả thuyết trên đã được rất nhiều nhà toán học lao vào giải quyết từ 150 năm nay. Họ đã kiểm tra tính đúng đắn của nó trong 1.500.000.000 giá trị đầu tiên, nhưng … vẫn không sao chứng minh được. “Đối với nhiều nhà toán học, đây là vấn đề quan trọng nhất của toán học cơ bản” – Enrico Bombieri, giáo sư trường Đại học Princeton, cho biết. và theo David Hilbert, đây cũng là một vấn đề quan trọng đặt ra cho nhân loại. Bí ẩn 6 Bernhard Riemann (1826-1866) nhà toán học Đức. Giả thuyết Riemann do ông đưa ra năm 1850 là một bài toán có vai trò cực kỳ quan trọng đến cả lý thuyết số lẫn toán học hiện đại Các phương trình của Navier-Stokes Chúng mô tả hình dạng của sóng, xoáy lốc không khí, chuyển động của khí quyển và cả hình thái của các thiên hà trong thời điểm nguyên thủy của vũ trụ. Chúng được Henri Navier và George Stokes đưa ra cách đây 150 năm. Chúng chỉ là sự áp dụng các định luật về chuyển động của Newton vào chất lỏng và chất khí. Tuy nhiên, những phương trình của Navier-Stokes đến nay vẫn là một điều bí ẩn của toán học: người ta vẫn chưa thể giải hay xác định chính xác số nghiệm của phương trình này. “Thậm chí người ta không thể biết là phương trình này có nghiệm hay không” – nhà toán học người Mỹ Charles Fefferman nhấn mạnh – “Điều đó cho thấy hiểu biết của chúng ta về các phương trình này còn hết sức ít ỏi”. Bí ẩn 7 Giả thuyết của Birch và Swinnerton-Dyer Những số nguyên nào là nghiệm của phương trình x^2 + y^2 = z^2 ? có những nghiệm hiển nhiên, như 3^2 + 4^2 = 5^2. Và cách đây hơn 2300 năm, Euclide đã chứng minh rằng phương trình này có vô số nghiệm. hiển nhiên vấn đề sẽ không đơn giản như thế nếu các hệ số và số mũ của phương trình này phức tạp hơn… Người ta cũng biết từ 30 năm nay rằng không có phương pháp chung nào cho phép tìm ra số các nghiệm nguyên của các phương trình dạng này. Tuy nhiên, đối với nhóm phương trình quan trọng nhất có đồ thị là các đường cong êlip loại 1, các nhà toán học người Anh Bryan Birch và Peter Swinnerton-Dyer từ đầu những năm 60 đã đưa ra giả thuyết là số nghiệm của phương trình phụ thuộc vào một hàm số f: nếu hàm số f triệt tiêu tại giá trị bằng 1 (nghĩa là nếu f(1)= 0), phương trình có vô số nghiệm. nếu không, số nghiệm là hữu hạn. Giả thuyết nói như thế, các nhà toán học cũng nghĩ vậy, nhưng đến giờ chưa ai chứng minh được…
  13. @TraBi Chau xin hỏi, nếu xét về huyền không thì sẽ cố định theo vận rồi, còn xét theo bát trạch thì hướng nhà không được sẽ chữa bởi bếp, bàn thờ thì dễ hơn mình có thể xoay được; nếu mà khi bố chaú xuống mà thay đổi lại bếp thì rất khó, vì hướng đông bắc bố cháu sẽ không được hướng nên phải xoay bếp thì gần như phải làm lại bếp và quan trọng là nhà cháu bếp và nhà vệ sinh cố định rồi, nhà vệ sinh và bếp tầng 2 và có hạ cốt sẵn cho nhà vệ sinh, nếu chuyển bếp ra đó thì ko biết để nhà vệ sinh chỗ nào.iết Biết vậy cũng hay rồi. - cháu xin hỏi: có người cho rằng cháu là chủ bởi sau cháu sẽ là trụ cột về kinh tế, còn bố là khách đến ở thôi, làm cho cháu tốt cũng là bố sẽ tốt, điều này đúng ko ạ. Thì bây giờ là trụ cột, sau này làm ăn thất bát thì hết là trụ cột thì lại ông cha lo kinh tế thì cha là trụ cột. Hết con trụ cột rồi cha trụ cột, rồi con trụ cột...xoay vòng vòng cho chống mặt chơi. Phong thủy mà tính trụ cột xoay vòng vòng vậy sao?! - thứ 2 là: vẫn xét cháu là chủ, bố là khách -> sau đó sẽ tìm phương án là bếp quay hướng tây còn bàn thờ thì quay đông nam ( phúc đức của bố cháu), tức cháu quản dương trạch còn bố quản về thờ cúng, như vậy thì có đúng ko?? rất mong sự đóng góp ý kiến của mọi người! cháu cảm ơn Vậy thì cần gì ông cha là khách? mời đại ông người dưng nào làm khách, nó còn "khách" hơn! Phong thủy cũng có quan niệm cha con là khách sao trời?! Lại còn con thì quản dương trạch, cha thì quản thờ cúng. Hic!! Bộ xem như ông cha quá cố rồi sao? Thôi thì còn cái toa lét, mướn luôn osin quản, tính theo tuổi osin luôn cho rồi! Mà quản là quản làm sao? Phong thủy có chia trách nhiệm nữa sao? Thiên Đồng
  14. Ở In do, Malaysia vẫn còn giữ những nét văn hóa đặc sệt Việt cổ. Những hình ảnh nhà nông và những bao bì sản phẩm nông nghiệp ngày nay ở hai nước này ghi rõ dấu chỉ văn hóa Việt Nón lá và lúa nước Indo Nông dân Indo Nông dân Malaysia xôi gà Indo
  15. @ mitxuxi Em chào anh Thiên Đồng Hình như anh bỏ qua em mất rồi nên em hỏi lại cho chắc ạh :D Em là nữ, sinh ngày 11/7/1981 (âm lịch); chồng sinh 10/08/183 (âm lịch) Giờ bắt đầu hỏi: 15h 15phút ngày 20/08/2012 1. Lần trước anh có gieo quẻ giúp em là: tháng 5 hoặc tháng 6 âm em sẽ tìm được việc làm hơi hơi vừa ý. Tuy nhiên thực tế là tháng 5 em có được lên chức nhưng cơ bản đó không phải là nguyện vọng của em. Em vẫn muốn tìm việc làm mới gần nhà hoặc nhận việc về nhà để vừa làm vừa học. Anh lại giúp em lần nữa nhé, xem chừng nào em mới tìm được việc làm mới và công việc mới có thuận lợi không ạh? nhanh giữa tháng 9 âm, chậm tháng 11 âm là có việc, công việc không thuận lợi như mong muốn, vì đòi hỏi di chuyển nhiều hay xa. 2. Khi nào tụi em mới có chủ quyền trên đám đất mà tụi em đã mua ạh? còn lằn nhằn về thủ tục hay tiền bạc, cuối mùa xuân sau là nhanh, chậm thì cũng tháng 8 âm năm sau. Em hỏi xong lúc 15h 19 phút. @ TuongMinh Anh Thiên đồng kính mến, mong Anh xem giúp em mấy việc ạ! Nam tuổi dần1986 Giờ hỏi 20 giờ 57 ngày 20 tháng 8 năm 2012 dương lịch 1. Cuối năm trong công việc có gặp khó khăn trắc trở gì không ạ (ví dụ như bị xếp khiểng trách hay đồng nghiệp chơi xấu...)? Tính chất công việc có gây nguy hiểm đến bản thân không ? Có khó khăn nhưng không trắc trở, nói chung là không có gì nguy hiểm vẫn bình an vô sự. 2. Sau này em có mấy cái bằng hả anh, hiện giờ là hai cái bằng trung cấp rùi? Tương lai có học nâng cao lên nữa khôg anh ? Sẽ học nâng cao nữa, ít là 1 bằng, nhiều là 3 bằng. 3. Em đang định mua tủ kem về mở quán kem bán không biết buôn bán có thuận lợi không anh? Lúc đầu thì không thuận lợi, từ 5-8 tháng trở lên thì tốt. Em cảm ơn Anh nhiều lắm Em cảm ơn anh rất nhiều. Chúc anh thật nhiều sức khỏe! @Pham man Chào bác Thiên Đồng, Cháu là nữ sinh năm 1980 Giờ hỏi là 6:31AM ngày 21 tháng 8 năm 2012 1. Cháu sắp sinh con đến nơi, mà ngày 22 tháng 9 (lúc này vẫn chưa sinh), vẫn phải đi thi theo yêu cầu và qui định của cơ quan, đã lên danh sách cách đây 2 tháng, Cháu không biết cháu có thi nổi không và đạt chuẩn theo yêu cầu không hả bác? (Cháu li vì các tỉnh khác người ta thi rồi, có tỉnh không ai đạt, có tỉnh chỉ đạt 4 người thôi) Sẽ vừa đủ chuẩn đạt kỳ thi. 2. Con trai đầu cháu mạng Thủy (2008), sức khỏe yếu lắm, bệnh hoài. Khi nào và làm thế nào thì sức khỏe bé tốt hơn? gia đình cháu rất quan tâm đến bé. Nên phát quan cây cỏ ở sân nhà, sau nhà có nước đọng nên làm thông thoáng đi, lu hủ tù nước đổ bỏ đi. Don nhà gọn lại, quét vôi lại, đồ hư cũ không xài bỏ đi. 3. Cháu định 2014 xây nhà (chồng cháu sinh 1981), được không bác? xây trên đất cháu đã mua hay xây ở đất khác ạ? Năm nay và năm sau không có tuổi xây nhà, nên mượn tuổi cha hay anh có tuổi xây. Cám ơn bác đã dành thời gian cho cháu. @yeongie Chào bác Thiên Đồng ạ:) Mong bác xem giùm cháu ạ. Cháu là nữ, sinh ngày 5/12/1992(dương lịch) Giờ hỏi là 11:59, ngày 21/8/2012 Câu 1: Cháu sắp sửa đi học ở nước ngoài,chuyến đi này của cháu sẽ suôn sẻ và mang lại cho cháu nhiều điều tốt chứ ạ Sẽ có nhiều kỷ niệm đẹp để kể lại. Câu 2: Cháu đang tính kinh doanh,nhỏ thôi,ko đầu tư nhiều, có được không ạ? Quá khả năng tuy là nhỏ, vẫn được. Câu 3: năm nay cháu có thể có thể có ng yêu ko ạ? Yêu gì sớm thế? Không được yêu!...sang năm 2013 thì yêu! Cháu cám ơn nhiều ạ. @lullu Chào anh Thiên Đồng, mong anh xem giúp em. Giờ diễn đàn là: 23 Th08 2012 03:18 PM Em là nam , tuổi Tân Dậu (1981) Câu 1 : Số em từ giờ về sau có vất vả không ? Sẽ vấn vả nhưng đủ khả năng chống chọi. Câu 2: Vợ chồng em có trọn đời bên nhau không? (Em hỏi vậy là có ông thầy kia bảo là 1 trong 2 người sẽ có người ngoại tình :( ) Thầy nào bảo thì không biết, nhưng Thiên Đồng đảm bảo là hai người cùng sống chung đến "đầu bạc răng lưa thưa" luôn! Câu 3 : Em sẽ có mấy đứa con , trai gái đầy đủ không ? trai gái đủ cả, ít 3 đứa, nhìu 5 đứa. Em cảm ơn anh rất nhiều. Chúc anh thật nhiều sức khỏe! @ Hoàng Yến Chào chú .. Chào Yến Cháu sinh 14/T5/1984 nữ Giờ hỏi là 01:08 sáng ngày 24/8/2012 Câu hỏi đầu tiên là gia đình cháu lộn xộn mấy tháng nay , mọi chuyện có trở lại Bình thường dc vài ngày nay,vậy gia đình đã ổn chưa hay vẫn còn sẽ xảy ra chuyện khác nữa . Sẽ ổn thôi. Câu hỏi 2 : cháu định sang năm làm ăn kinh doanh,mọi việc có tốt và Thuận lợi phát triển k. Tháng mấy thì cháu bắt đầu CV mới dc ah ? Công việc này hoãn lại tí, coi chừng hao tài, nhưng sang năm thì khởi sự nên tháng 4 âm. Câu hỏi 3 : cháu định mua xe , cháu có thực hiện dc suôn sẻ và có ảnh hưởng đến Nội Bộ gia đình k ? Cứ mua, chẳng liên quan gì cả. Xe phân khối lớn hay mã lực to đây. Cháu cảm ơn . @milulan Em chào anh Thiên Đồng. Em là nữ Canh Ngọ. Em muốn nhờ anh xem giúp cho em một quẻ. Em hỏi vào lúc 10:14AM ngày 24/8/2012 Em muốn nhờ anh xem giúp em xem chuyện làm ăn lần này có tốt không ạh? Không tốt lắm. Coi chừng mất bạn hàng nha. Gia đình em định tháng sau sẽ mở hàng thì mở vào ngày 8/8 âm có được không ạh? Lấy tuổi mẹ em là Tân Hợi để mở hàng thì có tốt không ạh? Giờ trả lời thì trể, nhưng 8/8 đúng ngày tốt. Liệu nhà em có phải đi vay nhiều thế này có trả được không ah? Vay được nhiều để trả. Tuổi em với tuổi bố em là Canh Tý thì làm ăn với nhau có hợp không ạh? Hợp nhưng đến năm sau mới thấy khá. Em cảm ơn anh nhiều. Chúc anh có một sức khỏe tốt. @thutrangnt 13h54' Ngày 24/8/2012 Cháu chào bác Thiên Đồng, Cháu là Nguyễn Thị Thu Trang, sinh ngày dương 2/1/1991 nhằm âm lịch 17/11/1990. Đây là lá số của cháu : http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 Cháu cảm ơn bác vì bác đã xem cho cháu chờ đến tháng 7 âm sẽ có việc, đúng là vừa rồi, ngày hôm nay, đã có công ty gọi điện thoại phỏng vấn cháu. Cháu có 2 câu hỏi muốn hỏi bác như sau, mong bác có thể hồi âm sớm cho cháu được không ạ : 1. Sáng mai 9h (25/8/2012) : Cháu có một công ty phỏng vấn (Công ty này ở quê, cháu hiện tại cũng đang ở quê). Ngày mai có thành công không ạ? Công ty này được nhưng không làm 2. 7h30 Ngày 27/8/2012 có 1 công ty phỏng vấn cháu (Công ty này ở xa nhà, ở chỗ cháu học). Cháu mong muốn công việc này hơn, nhưng cũng khá lo lắng, liệu cháu có thành công phỏng vấn xin việc không ạ? công ty này thì được, làm ở đây đi. 3. Từ giờ đến cuối năm cháu có gì mới trong tình cảm không ạ? yêu sớm quá vậy? Tháng 11 âm hẳn yêu! Cháu cảm ơn bác nhiều. Chúc bác dồi dào sức khỏe, và gặp nhiều niềm vui. Cúm ơn Chúc mọi người may mắn Thiên Đồng
  16. Viết xong nhấn gì đó mà bài mất hết rồi Huhu Thôi Thiên Đồng xin nói ngắn gọn. Để hom khác viết lại. Đại ý: Mộ cổ Nhật Bản hình lổ khóa là sự cách điệu của Âm Dương, Bánh Chưng bánh Dày, Hà Đồ Lạc Thư. Đây là tri thức có nguồn gốc Lạc Việt. Hình thể mộ nhìn từ bao quát khuôn viên xây mộ đố phần mộ là hình ảnh của căp Âm Dương tương tự như đồ hình lò cò xủn khi lấy tròn vuông làm cặp, tức Âm Dương. Bánh Chưng Bánh Dày trên bàn thờ Việt Thiên Đồng
  17. Bộ vũ khí đồng hiếm có GiadinhNet - Trong bộ sưu tập đồ đồng cổ còn có chiếc muôi minh văn khắc 6 chữ cổ mà đến nay chưa ai đọc, dịch được. LTS: Đã có những cổ vật ngàn năm lưu dấu lịch sử đất Việt bị đưa ra nước ngoài để đổi lấy những món tiền lớn. Những cổ vật quý còn sót lại bây giờ là bởi những người say mê cổ vật, biết trân trọng, gìn giữ chút văn hóa xưa in dấu trên từng món đồ cổ. Đó là bộ khảm, tráp tải Việt thếp vàng đẹp nhất còn sót lại; là bộ vũ khí đồng Đông Sơn hiếm có; là bộ hoành phi "Lan Quế đằng phương" cổ xưa; là bộ gốm men lục quý hiếm trong đó có chiếc đài sen được cho là của Huyền Trân công chúa…Hơn 50 chiếc yểm tâm, hàng chục chiếc dao, lao bằng đồng từ thời kỳ Đông Sơn, những chiếc gương đồng cổ từ thời nhà Hán… là những cổ vật hiếm có hiện đang được tay chơi cổ vật Đặng Tiến Sơn gìn giữ. Trong bộ sưu tập đồ đồng cổ ấy, còn có chiếc muôi minh văn khắc 6 chữ cổ mà cho đến nay chưa ai đọc, dịch được. Chiếc lao đồng cổ đẹp nhất Những chiếc dao đồng cổ từ thời Đông Sơn còn sót lại đến ngày nay thường có họa tiết hình người hoặc hình chữ T, với những chấm tròn xung quanh. Hàng chục năm mải mê săn tìm cổ vật, anh Sơn đã kiếm được hơn ba chục chiếc dao, lao trong bộ vũ khí bằng đồng cổ. Theo đánh giá của nhiều người trong giới chơi cổ vật Hà Nội thì bộ sưu tập vũ khí đồng Đông Sơn này thuộc hàng hiếm có. Trong đó, đắt nhất và quý nhất phải kể đến chiếc lao dài chừng 40cm có họa tiết hình lá đề tinh xảo trên cả hai mặt. Chiếc lao quý này được vớt lên từ dòng sông Thao (Phú Thọ). Sở hữu được chiếc lao cổ, với anh Sơn như là một cơ duyên. "Mua chiếc lao này năm ngoái, tôi rất may mắn bởi suýt chút nữa thì lao đã di sang Trung Quốc. Ngày đó, một người Trung Quốc đã trả 32 triệu đồng để mua nhưng người chủ cổ vật không bán. Nghe có người quen mách, tôi phi luôn lên Lâm Thao (Phú Thọ) trả 35 triệu đồng, thế là mua được. Đó là một trong những chiếc lao đồng cổ đẹp nhất Việt Nam. Bây giờ, chiếc lao cổ ấy được người ta trả đến 50 triệu đồng nhưng tôi không bán", anh Sơn kể lại. Xếp hàng thứ hai là một con dao đồng có từ thời Đông Sơn, dài khoảng 25cm, có họa tiết là hình người đang sinh hoạt. Chiếc dao này cũng được tìm thấy ở dòng sông Thao. Những chiếc dao đồng cổ ấy phần lớn đều là "cổ vật vớt sông" được những người thợ thuyền chuyên đi hút cát trên dòng sông Thao tìm thấy. Cũng vì nằm nhiều nghìn năm dưới đáy sông nên những cổ vật này thường có màu men đồng, đặc trưng riêng mà dân chơi đồ cổ nhìn qua là biết nơi chúng được tìm thấy. "Men của đồ đồng cổ phụ thuộc vào thổ nhưỡng nơi nó được chôn, mỗi vùng sẽ có những màu khác nhau. Ví dụ như ở Hà Tây (cũ), cổ vật đồng sẽ có men màu sắt do bị ôxy hóa của nước; cổ vật được chôn ở những vùng núi cao sẽ tạo ra ô xít đồng có màu men xanh và thường bị mục thành bột, cầm trên tay sẽ nhẹ hơn", anh Sơn kể. Muôi minh văn và dòng chữ cổ bí hiểm Trong bộ sưu tập cổ vật đồng của anh Sơn còn có một món đồ bí hiểm mà đến nay vẫn chưa có lời giải đáp. Đó là chiếc muôi minh văn bằng đồng có hình dáng to, tròn, lòng muôi khá sâu. Điều đặc biệt là trên chiếc muôi đồng có khắc 6 chữ cổ. Hiện anh Sơn còn sở hữu hơn 100 chiếc xô đồng Đông Sơn cổ. Chỉ có 30% trong số ấy là còn lành lặn, còn lại đều đã sứt mẻ qua hàng trăm năm nằm dưới lòng đất. Chiếc xô đồng đắt giá nhất cũng được người ta tìm thấy ở xã Châu Can, huyện Phú Xuyên (Hà Nội) và được mua với giá 60 triệu đồng. Những chiếc xô đồng cổ này có họa tiết tinh xảo, những hình khắc cảnh sinh hoạt của người Đông Sơn hoặc những họa tiết O ngã, hàng rào, cọc rào và cả hình người cách điệu đội lông chim. Cổ vật chim đầu gậy hiếm có cũng được tìm thấy ở Mộ thuyền Châu Can. Đây là một thứ đồ quý hiếm và thiêng liêng, luôn là biểu tượng để dẫn đầu các đoàn quân xưa. Nhưng để có được món cổ vật độc đáo này, không phải là điều đơn giản. Anh Sơn nhớ lại: "Hồi mới đào được, có người ở Thanh Hóa trả 28 triệu đồng nhưng người ta không bán. Sau này, chim đầu gậy được hóa giá cho một thành viên trong đội thợ dò (chuyên săn đào cổ vật). Rồi tôi may mắn mua lại được của người này khi anh ta cần tiền xây nhà". Ngày ấy, anh Sơn chỉ phải bỏ 27 triệu đồng để mang được chim đầu gậy về nhà, còn bây giờ giá của nó đã là hơn 50 triệu đồng. Hiếm và quý trong các loại cổ vật bằng đồng còn là chuông ống Đông Sơn. "Gần 25 năm theo nghề đồ cổ mà tôi cũng chỉ thấy có 3 bộ đôi chuông ống Đông Sơn. Tôi may mắn có được một bộ", anh Sơn nói. Người săn lùng cổ vật Chủ nhân của những món cổ vật đồng hiếm có ấy, anh Đặng Tiến Sơn, vốn xuất thân từ nghề in bản đồ. Trong ngôi nhà rộng chừng 28m2 trên đường Âu Cơ ngồn ngộn hàng ngàn loại cổ vật. Từ những món cổ vật nhỏ xíu tới những món có kích thước lớn, giá trị vật chất có món lên đến hàng chục ngàn USD. Đồ cổ được bày la liệt khắp không gian trong căn phòng ăn, phòng ngủ. Anh Sơn vẫn nhớ như in cái ngày đầu tiên khiến cuộc đời anh gắn chặt với niềm đam mê cổ vật: "Đó là năm 1985, trong một lần ăn cỗ trên Hòa Bình ở nhà người anh họ, tôi thấy có nhiều đồ đồng, gốm, sành, sứ cũ nát, bị vỡ. Hỏi thì ông anh bảo đó đều là đồ cổ nhưng vì vỡ nát nên không bán được nữa. Trông chúng hay hay, nên tôi xin hẳn một ba lô vác về Hà Nội. Ai ngờ, số đồ tưởng như vứt đi ấy lại được một số họạ sỹ như Đào Hải Phong, Lê Thiết Cương... rất thích thú và hỏi mua. Từ bấy giờ, tôi bắt đầu đi lùng cổ vật ở những vùng sâu, vùng xa. Hết vào Nam ra Bắc, rồi sang tận Trung Quốc, Lào, Campuchia... để tìm những cổ vật. Có khi mỗi chuyến đi kéo dài hàng tháng trời". Bây giờ, sau bao năm săn lùng, anh Sơn có trong tay hàng nghìn cổ vật. Trong đó có những bộ đồ cổ có giá trị kinh tế lớn cũng như giá trị lịch sử lâu đời như bộ gương đồng khoảng 300 chiếc có chiều dài lịch sử trải dài suốt từ thời Hán đến thời Nguyễn; bộ xô đồng Đông Sơn khoảng hơn 100 chiếc; bệ đá hình rồng cuốn, cùng nhiều gạch lát từ thời nhà Lý, là một trong những cổ vật quý hiếm của Việt Nam. Bảo Vân
  18. Đệ Tử Kính Chúc Sư Phụ An Nhiên, Vui Khỏe và Văn Hiến Việt 5000 năm Vinh Hiển
  19. Múa rối nước - một sáng tạo độc đáo của người Việt Trình diễn múa rối nước. (Nguồn: Internet) Múa rối nước là loại hình nghệ thuật đặc sắc của văn hóa lúa nước. Do tính đặc sắc, nên từ nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã nhanh chóng trở thành nghệ thuật truyền thống, có thể sánh ngang với tuồng, chèo là những bộ môn nghệ thuật có vị trí cao trong nền sân khấu dân tộc. Múa rối có ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng múa rối nước thì chỉ duy nhất có ở Việt Nam. Nghệ thuật múa rối nước xuất hiện từ đời Lý (1010-1225). Chứng cứ bằng văn tự đầu tiên ghi chép về múa rối nước Việt Nam mà chúng ta đọc được là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, dựng năm 1121, trong đó có đoạn viết: "Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn. Phơi mai vân để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững, liếc mắt nhìn lên bờ, cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo, dạo nhạc thiều réo rắt. Cửa động mở ra thần tiên xuất hiện. Ðều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi phong, nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quý từng đàn ca múa, thú lành từng đội xênh xang." Múa rối nước là một sáng tạo độc đáo của cư dân vùng châu thổ sông Hồng, được manh nha từ công cuộc chế ngự, cải tạo nước. Rối nước thường được diễn vào những ngày nông nhàn, ngày xuân, trong các lễ hội. Thông qua các câu chuyện được nghệ sỹ rối nước thể hiện, người xem sẽ cảm nhận được sắc thái của hội làng, gửi gắm vào đó những mơ ước bình dị cho cuộc sống. Giữa thiên nhiên thơ mộng, khán giả có cơ hội chiêm ngưỡng một loại hình nghệ thuật trong đó có đất, nước, cây xanh, mây, gió, có lửa, có khói mờ vương tỏa, có cả mái đình với những hàng ngói đỏ. Thật sự là một sự hòa hợp độc đáo của nghệ thuật, thiên nhiên và con người. Trước khi chính thức trở thành nghệ thuật sân khấu, múa rối nước là hoạt động nằm trong các phường hội dân gian rải rác khắp thôn xóm, được "nuôi lớn" bằng nhiệt huyết của người dân. Ngâm bùn lội nước để làm nghệ thuật không phải là một công việc bình thường thích thú với mọi người. Nếu không phải là người sống ân tình với nước tới mức "Sống ngâm da, chết ngâm sương" như cư dân trồng lúa nước, thì khó có được sự truyền cảm nồng nhiệt vào hành động của nhân vật rối nước. Về sân khấu Yếu tố độc đáo của rối nước là sử dụng mặt nước làm sân khấu để con rối diễn trò, đóng kịch. Buồng trò rối nước (nhà rối hay thủy đình), được dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. (Nguồn: Internet) Tất cả buồng trò, sân khấu cùng trang bị cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã đúng là một đình làng thu nhỏ lại với những mái uốn cong lung linh phản chiếu trên mặt nước. Sân khấu rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò, nó chỉ thực sự hoàn chỉnh khi đã vào chương trình biểu diễn và cũng bắt đầu mất đi ngay khi chấm dứt tiết mục cuối cùng. Qua những tiết mục biểu diễn của nghệ thuật rối nước cổ truyền, những cảnh sinh hoạt bình thường về đời sống, tập tục tinh thần và vật chất truyền đời của người nông dân Việt Nam được thể hiện một cách rõ nét. Về con rối Quân rối nước chính là sản phẩm của nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian, vừa giàu tính hiện thực, vừa mộc mạc, đằm thắm, trữ tình. Hình thù của con rối thường tươi tắn, ngộ nghĩnh, tính hài và tính tượng trưng cao. Nhân vật tiêu biểu nhất là chú Tễu, thân hình tròn trĩnh, nụ cười hóm hỉnh lạc quan. (Nguồn: sgtt) Mở màn, chú Tễu xuất hiện vui vẻ, nghịch ngợm làm nhiệm vụ giáo đầu dẫn chuyện. Để làm được một con rối hoàn chỉnh, phải trải qua rất nhiều công đoạn từ đục cốt đến trang trí và rất nhiều công đoạn mà người nghệ nhân không thể bỏ qua. Quân rối càng hoàn hảo, càng giúp cho kỹ xảo điều khiển nâng cao, khả năng diễn đạt phong phú. Quân rối nước làm bằng gỗ tốt sẽ nặng và chìm và gỗ sung là chất liệu thông dụng để tạc con rối. Ở đây tài năng của nghệ nhân đã đem lại cho ta cái tươi mát, đôn hậu, hiền dịu, niềm lạc quan yêu đời, yêu thiên nhiên, con người qua cái bình dị đơn sơ được khuếch đại và nghệ thuật hóa. Quân rối nước dù tạc liền một khối gỗ hay chắp lại đều có hai phần gắn liền nhau đó là phần thân và phần đế. Phần thân là phần nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử động. Về kỹ thuật điểu khiển Kỹ thuật điều khiển trong múa rối nước rất được coi trọng, tạo nên hành động của quân rối nước trên sân khấu, đó chính là mấu chốt của nghệ thuật múa rối. (Nguồn: sgtt) Quân rối đẹp mới chỉ có giá trị về mặt điêu khắc. Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình, hành động làm trò đóng kịch của nó. Các nghệ nhân dân gian đã dựa vào kinh nghiệm và khả năng sáng tạo để làm ra nhiều kiểu máy rối nước phong phú và đa dạng. Máy điều khiển được giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, cống hiến cho người xem nhiều bất ngờ kỳ diệu. Nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò thao tác bằng cây sào hoặc giật con rối bằng hệ thống dây. Phương thức nhờ nước để con rối hoạt động, nhờ nước giấu đi bộ máy và cách điều khiển là sáng tạo tuyệt vời. Nước làm cho con rối sinh động, làm cho chúng tươi tắn. Nước đã tham gia cùng diễn với con rối như một nhận xét: "Nước cũng là một nhân vật của múa rối." Mặt nước êm ả với đàn vịt bơi, trở nên thơ mộng trong làn khói huyền ảo khi bầy tiên nữ giáng trần múa hát. Nhưng mặt nước cũng sôi động trong những trận chiến lửa, những con rồng vây vàng xuất hiện. Báo nước ngoài từng viết: "Con rối được điều khiển bằng sự khéo léo khó mà tưởng tượng. Con rối như có phép thuật điều khiển." Đấy chính là sự tài tình, là điều hấp dẫn và sáng tạo của nghệ thuật múa rối nước. Về âm nhạc Khởi thủy là biểu diễn trên sân khấu ngoài trời giữa ao hồ, nên rối nước cần âm thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi diễn. (Nguồn: sgtt) Các phường hội dân gian chuyên dùng bộ nhạc gõ dân tộc như trống cái, não bạt, mõ, pháo, tù và ốc. Âm nhạc rối nước mang tính đại náo của hội hè, có tác dụng kích động mạnh cả người diễn lẫn người xem. Vốn là một nghệ thuật lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt, rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Các nghệ nhân múa rối nước dựa theo tiết tấu nhạc mà điều khiển con rối lúc khoan thai, lúc sôi động, giúp gắn kết các tiết mục với nhau. Người Pháp gọi môn nghệ thuật múa rối nước với những con rối duyên dáng là "linh hồn của đồng ruộng Việt Nam" và đánh giá: "Với sáng tạo và khám phá, rối nước đáng được xếp vào những hình thức quan trọng nhất của sân khấu múa rối"./. Phượng Dung (TTXVN/VietNam+)
  20. Thể thao thời Ai Cập cổ đại Thật ngạc nhiên là những môn thể thao - giải trí của con người ngày nay lại xuất hiện từ trước đó rất lâu, trong cuộc sống thường ngày của người Ai Cập cổ đại. Những hình vẽ khắc trên đá trong các lăng mộ là bằng chứng cho thấy, họ đã tập luyện đấu vật, cử tạ, nhảy xa, bơi lội, chèo thuyền, bắn tên, câu cá, điền kinh và thậm chí cả bóng đá. Vua, hoàng tử, các quan thần đều khuyến khích người dân tham gia những môn thể thao, tạo mọi điều kiện cần thiết để họ cảm thấy hứng thú với chúng. Sử sách ghi chép lại đã cho thấy: từ hàng ngàn năm trước, người Ai Cập cổ đại đã đặt ra các quy tắc, luật lệ thống nhất cho mỗi trò chơi; có cả trọng tài, giải thưởng cho người chiến thắng. Cả người chiến thắng lẫn thua cuộc đều được nhiệt liệt hoan nghênh. Người chiến thắng được tung hô vì sự tỏa sáng của bản thân, còn người thua cuộc được chào đón vì tinh thần thể thao. Người Ai Cập cổ đại tại các vùng nông thôn đã chơi một trò chơi tương tự như Hockey ngày nay. Người chơi giữ cây cọ dài với phần đầu uốn cong như gậy khúc côn cầu. Quả bóng khúc côn cầu được làm bằng dây cói với hai miếng da hình bán nguyệt và được nhuộm màu. Bản vẽ phác họa của môn thể thao này được tìm thấy trên ngôi mộ Saqqara khoảng hơn 5.000 tuổi. Quả bóng được làm bằng da, nhồi với cỏ khô, dây cói và chỉ, sử dụng trong một trận đấu. Có 4 người tham gia chơi bóng và chia thành 2 đội. Mỗi đội sẽ ném 1 quả bóng tại cùng một thời gian. Người chơi có thể đỡ bóng bằng chân hoặc tay mình trong khi họ đang ngồi trên lưng của đồng đội. Người Ai Cập cổ đại đã phát minh ra nhiều môn thể thao, một số để giải trí nhưng cũng có vài môn phục vụ nhu cầu rèn luyện sức khỏe và làm cho thân hình trở nên cân đối hơn. Những hình ảnh này có từ năm 2000 TCN, đó là một bài thể dục với các động tác gập người về phía sau cho đến khi chạm bàn tay xuống đất, để lộ cơ thể linh hoạt. Đây cũng là một trong các bài tập phổ biến nhất hiện nay. Trò chơi ném lao của người Ai Cập cổ đại liên quan đến săn bắn. Các thợ săn/ người chơi sẽ bắt con mồi bằng cách ném lao, bất chấp tốc độ của con mồi như nào. Câu cá là một trong những trò giải trí được cả giới hoàng tộc, quan lại lẫn dân thường chọn lựa. Người Ai Cập cổ đại sử dụng nhiều loại cần câu, móc câu khác nhau để thực hiện thú vui “tao nhã” của mình. Boxing (đấm bốc) là môn thể thao được người dân Ai Cập xưa rất yêu thích, nó được thực hiện dưới dạng một cuộc thi có tổ chức, có sự theo dõi, đánh giá của hoàng tử và các Pharaoh. Bức tranh này mô tả hình ảnh hai vận động viên đang thi đấu, nó rất giống với hình ảnh môn quyền Anh của chúng ta ngày nay.
  21. Khai quật chữ viết "ngoằn ngoèo" từ 5.000 năm trước Có bao giờ bạn thắc mắc về ý nghĩa những kí hiệu ngoằn ngoèo, hình mũi tên và có khi là giống cả... giun dế của thời cổ đại chưa? Bạn biết không, trong khi tiếng nói đã có tuổi đời hàng trăm nghìn năm thì chữ viết chỉ mới ra đời từ vài nghìn năm trước thôi. Cách đây khoảng 5.000 năm tại vùng đồng bằng Lưỡng Hà (khu vực nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates, nay là nước Iraq), dân tộc Sumer đã sáng tạo ra hệ thống chữ viết đầu tiên của nhân loại. Sau đó, chữ viết lần lượt xuất hiện tại Ai Cập cổ đại. Đến khoảng năm 1.500 TCN, người Trung Quốc cũng bắt đầu sử dụng chữ viết. Chữ viết của người cổ đại trên chiếc bình gốm. Theo nhiều tài liệu, chữ viết bắt đầu xuất hiện khi con người chuyển từ đời sống săn bắn du mục sang định cư, tiến hành các hoạt động nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi. Việc phân chia ruộng đất cũng như ghi chép, đong đếm lượng sản phẩm làm ra yêu cầu con người phải biết lưu trữ thông tin một cách có hệ thống. Và câu trả lời cho vấn đề này chính là chữ viết. Trong báo cáo của nhiều nhà sử học, các quan tư tế tại Ur (một thành phố quan trọng trong nền văn minh Lưỡng Hà cổ) đã sử dụng các biểu đồ để theo dõi lượng hàng hoá xuất ra - nhập vào thành phố. Chữ hình nêm được ra đời trong nền văn minh Lưỡng Hà. Sau đó, các hình vẽ dần dần được quy ước thành các kí hiệu. Chẳng hạn, thay vì vẽ hình một con dê, người Sumer đã dùng các hình mũi tên nhọn để biểu thị hàng hoá. Do vậy, các nhà khảo cổ gọi chữ viết của người Lưỡng Hà là “chữ hình nêm”. Sau đó, hệ thống chữ viết này tiếp tục hoàn thiện, các kí hiệu bắt đầu biểu thị cho âm tiết. Một thời gian ngắn sau, người Ai Cập cổ đã phát triển một hệ thống chữ tượng hình độc lập với văn minh Lưỡng Hà. Chữ viết nhanh chóng được truyền bá khắp vùng Địa Trung Hải. Nhờ chữ viết, các hoạt động thương mại diễn ra mạnh mẽ, góp phần giúp công việc quản lý của chính quyền trở nên đơn giản hơn. Chữ viết đã góp phần quan trọng xây dựng nên những nền văn minh cổ đại. Cho đến bây giờ, các nhà khảo cổ vẫn chưa thể dịch hết thuật chữ tượng hình của người Ai Cập cổ đại. Người Trung Quốc và Maya cổ đại ở châu Mỹ cũng sáng tạo ra hệ thống chữ tượng hình riêng của họ. Bên cạnh đó, người Hy Lạp cổ đại lại phát triển bảng chữ cái tượng thanh với những kí tự như anpha, beta, gamma. Đây là tiền đề của bảng chữ cái A, B, C… thông dụng ngày nay. Kí tự cổ của người Maya khắc trên đá. Tuy vậy ở thời cổ đại, số lượng người biết chữ rất ít. Những người biết chữ thường là quý tộc và tăng lữ, hai giai cấp nắm những địa vị cao trong xã hội. Phải mãi đến thế kỉ 19 và 20, chữ viết mới trở nên phổ biến và thông dụng với hầu hết mọi người trên thế giới. Theo ước tính tổng thể, có khoảng 6.909 ngôn ngữ đang hiện hành trên toàn thế giới. Trong đó, tiếng Trung Quốc phổ thông được sử dụng nhiều nhất với khoảng 845 triệu người, sau đó là tiếng Tây Ban Nha với 329 triệu. Thật ngạc nhiên khi tiếng Anh, “ngôn ngữ kinh doanh chính thống” chỉ xếp thứ 3 với 328 triệu người. Hiện nay, tỉ lệ biết chữ vẫn là một thước đo phản ánh sự phát triển kinh tế - văn hoá của một quốc gia. Theo điều tra, cứ 5 người trên thế giới thì vẫn còn 1 người không biết chữ.
  22. Di tích lịch sử văn hóa Đình Sen xuống cấp trầm trọng (Dân trí) - Trưa vắng, bước chân vào khuôn viên di tích lịch sử này, chỉ nghe tiếng gió thổi lao xao trên những ngọn cây. Anh cán bộ văn hóa xã lặng lẽ mở cửa các căn phòng, như thể sợ làm phá tan cái không gian tĩnh lặng vốn có ở nơi đây. Không gian trống vắng của ngôi đình Nằm gần bên bờ sông Con và chợ Sen xưa nổi tiếng, đình Sen là di tích lịch sử thuộc làng Sen, ở xã Nghĩa Đồng, huyện Tân Kỳ (Nghệ An). Theo giáo sư Ninh Viết Giao trong cuốn “Tân Kỳ truyền thống và làng xã” thì đình Sen là ngôi đình lớn nhất, có ý nghĩa về mặt kiến trúc vào loại hiếm so với tất cả các đình làng ven sông Hiếu còn lưu giữ cho đến nay. Đình Sen xây dựng năm 1926 (Bính Dần), dân làng tự chặt gỗ, tự nung gạch ngói để xây nên ngôi đình này. Đây là nơi thường diễn ra các buổi sinh hoạt văn hóa làng xã đặc sắc của trong những ngày hội: hát đối dân ca, hò, ví…rồi những trò chơi như đánh vật, cờ người, tổ tôm… Trong những năm 1930 - 1931, đây là nơi làm lễ tổ chức thành lập Phủ ủy Qùy Châu để hưởng ứng mạnh mẽ cao trào cách mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tại Đình Sen đã có 7 đêm diễn thuyết, rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm kêu gọi quần chúng lao khổ vùng lên đấu tranh chống thực dân và phong kiến. Cán bộ văn hóa xã ôm những cột đình mà xót xa. Trước tình thế đó, lo sợ cao trào cách mạng diễn ra rộng, địch đã huy động nhiều lực lượng phá hoại phong trào. Chúng bắt ba đồng chí: Nguyễn Linh, Lê Thạch và Lê Nguyệt, là cán bộ ở miền xuôi lên xây dựng cơ sở cách mạng tại vùng này. Để bắt các đồng chí khai báo, chúng đã dùng các nhục hình để tra tấn dã man các đồng chí, nhưng chẳng ai hé một lời. Ngày 13/7/1931, địch giải ba đồng chí về Đình Sen để xử bắn, hòng uy hiếp tinh thần của người dân. Súng giặc nổ, máu đào của ba đồng chí kiên trung đã nhuộm đỏ đất làng Sen. Năm 1945, đây còn là địa điểm của quần chúng nhân dân tập hợp đi biểu tình cướp chính quyền trên toàn huyện. Không chỉ mang ý nghĩa to lớn về truyền thống văn hóa của địa phương. Di tích này còn ghi lại tinh thần đấu tranh cách mạng anh dũng, kiên cường của nhân dân Nghệ Tĩnh. Đền thờ chính điện vắng khói hương. Thế nhưng, trong những năm gần đây, khi đến với địa chỉ văn hóa này, nhiều người không khỏi chạnh lòng. Qua nhiều lần di dời do hoàn cảnh chiến tranh nên mái ngói vây cũ đã thay bằng ngói khác, những mảng tường của đình đã hằn vết rạn nứt và rêu bám phủ dày. Các văng kèo xà cột đang bị mối mọt ăn mòn dần, mùi ẩm mốc bay lên nồng nặc. Ngay cả tấm bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa, nay cũng đã hoen ố cùng thời gian. Trong khuôn viên di tích, cỏ mọc đầy sân nhưng cũng chẳng có người quét dọn. Khi chúng tôi viết bài báo này, chính quyền và nhân dân xã Nghĩa Đồng đang lên kế hoạch kêu gọi trùng tu và tôn tạo cụm di tích Đình Sen. Sở dĩ, một thời gian dài di tích văn hóa này bị lãng quên là do nguồn kinh phí quá hạn hẹp và một phần do còn vướng mắc về cơ chế quản lý các di tích văn hóa hiện nay. Điều quan trọng là việc trùng tu, tôn tạo di tích là việc làm cần sớm được tiến hành nhằm trả lại những giá trị vốn có của di tích lịch sử văn hóa này. Nguyễn Duy - Tiến Thành
  23. Chữa Cho Khỏi Nóng Một đứa trẻ sốt dữ lắm. Thầy lang cho uống thuốc nó lăn ra chết. Bố nó đến tận nhà thầy lang bắt đền. Thầy không tin, đến xem lại, sờ thằng bé rồi bảo: -Thế này mà còn trách tôi ư? Ông bảo tôi chữa cho nó khỏi nóng, bây giờ nó lạnh như thế này còn kêu gì nữa! Bóp Mồm Làng nọ có một anh hay nói dại. Chuyện không anh ta nói có, chuyện có anh ta nói không. Có một chị bị anh ta đặt điều nó những chuyện không hay, tức lắm mà không là gì được. Một hôm, trời mưa, đường đi bầy nhầy, thấy anh ta từ xa đi lại, chị ta túm váy chổ giữa háng rồi đi nghênh ngang ra dáng thách thức khi giáp mặt anh ta. Thấy vậy anh ta hỏi:-Tội tình chi mà bóp mồm hắn lại rứa? Chỉ chờ có vậy, chị ta đáp ngay: - Vì hắn hay nói dại! Sưu tầm
  24. @ Thiên Bồng, CBB Trời, vậy mà Thiên Bồng không biết vui mừng, vì chứng tỏ con mình biết "ứng xử tình huống linh hoạt", nói theo các cụ nhà ta là "dĩ bất biến ứng vạn biến", nói theo Phật pháp là "tùy duyên hóa độ", đừng tưởng con nít sanh ra chỉ để mình dạy nó, để mình quản lý nó. Hình ảnh con nít là hình ảnh pháp cao nhất của nhà Phật. Từ xưa đã cảnh báo trước rồi. Hình ảnh 6 thằng Lục tặc là 6 đứa con nít chọc rún, ngoáy mũi, chọt lét một ông Phật vừa là pháp ý, vừa là nghĩa thế gian. Hình ảnh Phật đảng sinh, trong hình thể hài nhi, bước chân 7 đóa sen vàng, hai tay chỉ thiên địa là hình ảnh của sự giác ngộ tối thượng. Thiên Đồng có làm bài thơ kể chuyện rằng: Giê Su thuyết giảng trong thành bổng Chúa dừng lại, hỏi rành giọng vang "Ai xứng vào nước Thiên Đàng?" những ông linh mục khẽ khàng bước lên các ông thầy tế xít bên Có đứa trẻ nít mình ên đứng nhìn Chúa liền bước đến lặng thinh bồng lên tay, Chúa thình lình phán ngay "Ai mà như đứa trẻ này sẽ được ân phước vào ngay Nước Trời." Các ông nghe rõ dứt lời Mồm lliền há hốc chơi vơi thất thần. Đứa trẻ Jesus là hình ảnh mà ngày nay gắn liền với lễ Noel, cũng là hình ảnh của ý nghĩa giác ngộ. Đứa trẻ, đó là tin mừng của thiên sứ nhà trời hay là thử thách của những Lục tặc : nhãn ( mắt), nhĩ (tai), tỷ (mũi) thiệt (lưỡi), thân, và ý bị kích động nổi lên hay không, thì điều đó là một pháp lớn cho mọi người gọi là người lớn hay cha mẹ. Vì vậy mà con khỉ Tôn Ngộ Không phải mệt mỏi 3 lần 7 lượt với tên nhóc con HỒng Hài Nhi mà không thể thắng đứa trẻ này được, phải nhờ đến Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng chính Bồ Tát cũng phải nhường cái tòa sen cao quý cho tên nhãi ranh kia làm đồ chơi (vì con nít thích đồ chơi mà!) thì mới bẫy hắn được. Chỉ bẩy hắn thôi chứ chưa thu phục được đâu nhé. Thu phục hắn là sau đó bởi 5 vòng Kim cô và pháp thí. Nên nhớ lại cái uy lực khủng khiếp của lửa Tam Muội mà tên Hỏa tặc Hồng Hài Nhi sử dụng thì trước khi khởi dụng, đứa trẻ đó phải vả vào mồm mình 3 cái thì mới khà lửa ra từ mồm! Theo thiển ý Thiên Đồng thì đó muốn nói đến nghiệp khẩu của con người, tức thiệt, cũng có sức hủy diệt ghê ghớm không nước nào dập tắt nổi, trừ nước phép của phật. Và khi muốn nổi sân lên thì phải tự đấm vào mồm mình 3 cái trước đã! Nghĩ cũng lạ, hình như có sự liên quan đến Lý học, khi thằng nhóc Hỏa tặc khẩu Hồng Hài Nhi dùng lửa Tam Muội, thì con số 3 ở thứ tự Tiên Thiên Bát quái là quái LY (Hỏa), ở Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ thì 3 là độ số cung dương mộc và quái Chấn mộc. Vì là trước tiên muốn phát hỏa thì phải đấm vào mồm 3 cái nên có thể coi sự khởi động này tạo nguyên liệu mộc nên 3 cái đấm mang ý nghĩa mộc ở Hậu thiên. Còn gả khỉ đá Tôn Hành Giả là hình ảnh biểu hiện cho cái Ý bất tịnh chiến đấu với cái Khẩu hỏa muôi sân si thì...chỉ nhờ đến Bồ Tát cho nước Tịnh Bình mới có thể yên hòa được. Cha mẹ đối với con cái như con khỉ đá Tôn Ngộ Không hay như Bồ Tát Quán Thế Âm đối với Hỏa tặc khẩu Hồng Hài Nhi thì tùy vào mỗi người hoặc tùy vào tình huống. Ghi thêm, ở Lạc Việt Độn Toán, quẻ Xích Khẩu dịch ra là cái miệng đỏ, hay mỏ đỏ...xem ra cũng mang màu sắc...máu lửa nơi từ cái miệng, cũng trùng hợp với hình ảnh Hỏa tặc khẩu Hồng Hài Nhi. Vả chăng tác phẩm Tây Du Ký có gốc rể liên quan đến văn hóa Việt? Vài lời lạm bàn. Hehe. Thiên Đồng
  25. Chuyện kể rằng ngày kia Phật Cồ Đàm đi đến địa phương nọ, nơi đây có vị đạo sư Bái hỏa giáo có hằng ngàn đệ tử theo, Phật mỗi lần đi hóa duyên thì luôn tránh những lúc ông này đang trong giờ thuyết giảng. Cồ Đàm cứ ở nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Đạo sư nọ biết ông Cồ Đàm đến, nhưng sự có mặt của Phật tuyệt đối không làm kinh động đến người dân, ông này bèn tìm đến Phật để chứng thực xem ông Cồ Đàm thế nào. Gặp Phật, ông chưa kịp hỏi thì Phật lấy hòn đá to, liệng xuống sông. Đạo sư ngạc nhiên chẳng hiểu gì, liền hỏi: - Thế nghĩa là thế nào? - Ông cầu nguyện cho hòn đá ấy nổi lên được không? - Phật hỏi. Bởi Phật biết đạo Bái hỏa giáo lấy cầu nguyện làm điều tối trọng. - Ông hãy cầu nguyện cho bờ sông bên kia dần cập sát bờ bên này để ông chỉ một lần bước qua thôi, có được không? - Không được. Đạo sư kia liền ngộ và nguyện đi theo Phật Cồ Đàm. Ông trở về dẹp bỏ hương đèn thờ tự xuống sông và thuyết phục tín đồ theo Phật để tìm chân lý và hằng ngàn tín đồ cũng theo ông mà theo Phật. Mọi tôn giáo, tín ngưỡng đều cầu nguyện. Cầu nguyện có hiệu quả gì hay không, tùy theo kinh nghiệm nghiệm chứng của mỗi người, nhưng đó chỉ là phương pháp trong vô vàng pháp hướng con người quay trở vào bên trong con người thật. Khoa học hẳn ngạc nhiên khi một bà chỉ cầu nguyện và ăn bánh thánh mà hết bệnh. Khoa học lại kinh ngạc khi một bà mẹ tự dùng dao ra mổ bụng mình để sinh con, vì biết mình không thể sinh thường vì nhà nghèo. Cảnh sát đến và đưa người phụ nữ ấy đi bệnh viện kịp thời. Khoa học bị chấn động bởi các phân tử kết tinh của nước rất xấu xí khi bằng một thực nghiệm trong thời gian ngắn, người ta nguyền rủa no1 "Tao ghét mày" ngược lại các phân tử kết tinh trở nên đẹp tươi khi nghe câu "Tôi yêu em". Các chén cơm cũng lâu thiu hơn hay mau thiu hơn khi nói các câu tương tự. Vậy đó là gì? Bản chất là năng lượng, nói theo Lý học là Khí! Quay vào bên trong, hướng tin thần vào bên trong để chuyển đổi năng lương hay nói cách khác, chuyển đổi khí như cách các phân tử nước bị tác động hay chất cơm bị tác động bởi năng lương của lời nói. Đó là chuyển đổi cơ bản nhất ở bên trong hướng đến hài hòa âm dương nội tại. Lý học Lạc Việt xác định rằng thể chất con người là âm, ngược lại khí chất là dương. Vì vậy khi cái khí chất bên trong được chuyển hóa, thanh tẩy thì con người sẽ hướng dần đến tinh thần và đưa tinh thần lên cao, làm phương tiện mở ra chân trời và chạm đến chân lý tuyệt đố tối hậu. Bằng nhiều phương pháp khác nhau, không chỉ là cầu nguyện mà việc chuyển hóa năng lượng được thực hiện. Tuy vậy cầu nguyện vẫn là một trong nhiều phương pháp phổ biến để cải tạo năng lượng. "Ai gỏ cửa, cửa sẽ mở" không cần phải là quốc gia nào có đạo Phật là quốc giáo, hay là nơi gốc của đạo phật hay là nơi có nhiều lễ nghi phật giáo thì con người mới có duyên tiếp xúc hay gặp được chân lý Phật giáo. Điều nghịch lý đã xảy ra từ hằng ngàn năm, rằng quê hương của Sakya Muni là Ấn Độ thì Phật giáo diệt vong tại đó, nhưng đạo Phật lại đâm chòi nở hoa ở ngoài ấn Độ và những nơi xa sôi.Chẳng phải là "tùy duyên", vì "tùy" là thuận theo hay vin vào và nói "duyên" thì còn sau nó cái "vô duyên". Thế thì còn có cái tham cầu, mà cầu nguyện còn có cái tham cầu trong sự cầu nguyện thì lập tức là tà ma đạo. Vọng tưởng, huyễn là ly giác, lập tức lọt vào ma đạo. Cầu nguyện là vô ích. Cho nên mới có câu..."vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng..." Vài dòng lạm bàn. Thiên Đồng