Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Trên thế giới này từ cổ chí kim, có triều đại nào duy nhất một danh xưng với một thể chế duy nhất kéo dài như thế không? Cho nên đây phải là một đế chế với nền văn minh văn hóa rực rỡ. Thiên Đồng
  2. @ Kim trương89 Con chào chú Thiên Đồng ! Con là nữ sinh 13.04.89 âm lịch hỏi lúc :9h35 sáng 25.10.2012 1.Con nhờ chú xem giúp con giữa 2 ngành "thời trang " và "dịch vụ ăn uống " con kinh doanh mảng nào thì tích cực hơn thưa chú ,vì cả 2 cái con đều phải mướn mặt bằng nên cũng phải tính toán kỹ để tiện việc chăm sóc con cái bệnh đau,cháu cũng muốn đi làm hành chánh cho khỏe nhưng con cháu dzị tật lại còn nhỏ kô thể gởi được ,chú xem giúp cháu với. Nên mở cửa hàng may mặc thời trang. 2.Thời gian cuối năm nay hay sang năm thì nên khai trương ạ! Nên mùa xuân năm sau tháng 2 âm. 3. Con có cho 1 người cô xem như ruột rà của mình mượn 1 số tiền cũng kha khá vào năm ngoái để lo việc đám cưới cho con trai,liệu con có thể lấy lại được kô ,vì hiện tại cũng có dấu hiệu con bị mất niềm tin ở cô ấy rồi ạ ! Đừng trong mong, họ chạy mất rồi. Nếu không thì phải đợi dài lâu, chưa đòi được. con cám ơn chú nhiều ạ ! @nang moi Em chào anh Thiên Đồng! Em đang rất lo lắng và tuyệt vọng, mong anh xem giúp em nhé. Nữ Giáp Tý (1984). Hỏi vào lúc 17h57 ngày 26 tháng 10 năm 2012 Hiện em đang bị đau mắt nặng, đã chữa chạy nhiều bệnh viện và thời gian kéo dài gần 1 tháng nay. Em rất lo lắng, sốt ruột không biết khi nào em có thể nhìn bình thường được vì bác sỹ nói bệnh khỏi nhanh hay chậm còn do cơ địa của từng người. Bây giờ em chỉ còn biết tìm câu trả lời đó qua anh thôi, anh giúp em nhé! Câu hỏi 1: Khi nào thì mắt em có thể nhìn và làm việc trên máy tính bình thường ạ Chớ lo, không sao đâu, ít nhất lấy lại cũng 70% thị giác, nhanh 2 tháng nữa chậm thì cuối tháng giêng năm sau thôi. Câu hỏi 2: Mắt em có bị giảm thị lực nhiều không ạ Có giảm nhưng không nhiều. Xem lại gan thử xem Mong anh giúp em! Chúc bình an Thiên Đồng
  3. Thống trị hay sự thống trị trong khoa học khác hoàn toàn với cái được nói đến, là tiêu chí khoa học. Nôm na là "sự thống trị của/trong khoa học" và "tiêu chí khoa học" là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
  4. Toà Thị chính: biểu tượng cho những giá trị của văn hóa Pháp Hà Vũ Trọng Toà Thị chính hay Toà Đốc lí chụp hồi đầu thế kỉ Nay là Uỷ ban Nhân dân Thành phố Toà Thị chính ở Paris (Hôtel de ville, Paris) (photo:wikipedia) Toà Thị chính (L’Hotel de Ville), nay là Trụ sở Uỷ ban Nhân dân Thành phố (toạ lạc tại số 86 Lê Thánh Tôn), khởi công từ 1898 nhưng mãi đến 1908 mới hoàn thành do lịch sử xây cất mất nhiều năm tranh cãi để đi đến quyết định. Hình mẫu kiến trúc của Toà Thị chính Sài gòn tiếp thu từ Toà Thị chính ở Paris (theo phong cách Phục Hưng). Nó được xây theo bản vẽ của nhà kiến trúc Fernand Gardès, còn việc trang trí nội thất rất đa dạng và cầu kì do nghệ nhân Ruffier đảm nhiệm. Toàn bộ mặt tiền 30 mét của Toà Thị chính Sài Gòn được xem là trích dẫn của hầu hết các iếu tố tạo thành phong cách kiến trúc của thời Đệ Tam Cộng hoà Pháp (1870-1914). Có thể nói, đối với du khách ngoại quốc ở Sài Gòn, đây là công trình thuộc địa được ưa chuộng và được chụp hình nhiều nhất do nằm ở kết điểm cảnh quan chính của thành phố cùng sự hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc và trang trí. Trước đây toà nhà mang nhiều phong cách này từng bị ví như một phụ nữ đeo quá nhiều đồ trang sức, nhưng giờ lại trở nên duyên dáng và đòi hỏi sự khám phá và quan sát kĩ hơn. Trên đầu hồi (pediment) của các tháp Toà Thị chính nổi bật với ba cụm điêu khắc phong cách cổ điển về ba hình tượng người nữ. Thực không dễ nhận dạng ra nguyên mẫu và tính biểu tượng của chúng. Nhưng dựa trên hệ thống hình tượng và đặc trưng của phần lớn các toà thị sảnh Pháp, ta có thể đoán rằng bộ ba này là hình tượng nhân cách hoá nữ tính về một Marianne hiện thân của nền Cộng hoà Pháp, biểu hiện cho những giá trị thường hằng gắn bó với công dân nền Cộng hoà: Tự do, Bình đẳng, Huynh đệ. Tên Marianne [Marie-Anne] là cái tên phổ thông và quen thuộc của tầng lớp lao động Pháp. Nhưng những giá trị thường hằng này từ cuộc Cách mạng Pháp lại được thực dân Pháp truyền bá với tư cách của một chủ thể áp đặt vào các thuộc địa nhằm để thuần hoá, hướng mọi phục vụ và quyền lợi về với “mẫu quốc”. Tất cả những giá trị biểu tượng này được trình bày trong công trình kiến trúc thuộc địa gần như không còn rõ nét, hoặc làm cho dịu xuống để phù hợp với khung cảnh của một Đông Dương được xem là đang “sống trong thanh bình”.
  5. Marianne của Bác ái Hình tượng nữ thần Marianne thu hút người xem, và được đặt ở trọng tâm dưới tháp chuông (campanile) và trên trán tường Toà Thị chính, rất có thể biểu tượng chính là cho tình Bác ái (Charity hay Huynh đệ/ Fraternity) nếu tương quan với hai cụm điêu khắc ở hai bên nó, trong khi tự thân lại bao gồm cả ba giá trị: Tự do-Bình đẳng-Bác ái. Marianne trong tư thế và trang phục Hilạp Phrygia gần giống với tượng nữ thần Chiến thắng Samothrace, tà áo bay linh động hài hoà với tất cả chi tiết nằm trong cụm điêu khắc. Marianne đội chiếc mũ biểu tượng t ự do (Phrygian bonnet của các nhà cách mạng – cũng là biểu tượng chính được mô tả trên toàn bề mặt toà nhà), làm nhớ đến hình tượng nữ thần Tự do đi đầu dẫn dắt nhân dân trong tranh của Delacroix. Thuộc tính về sự Bác ái thường mô tả hai đứa bé dìu hai con sư tử ách chung với nhau, mà đáng lẽ một con là cừu, nhưng biểu tượng này khó nhất quán. Tháp bên trái: Marianne của Tự do Marianne của Tự do cầm thanh gươm (biểu tượng sự cao quý) và tấm bia luật, với chim câu hoà bình đậu trên mũ Tự do Phrygia, một nhánh cọ biểu tượng chiến thắng. Khẩu đại bác và cây súng dưới chân nhắc đến cuộc Cách mạng Pháp. Marianne ngực trần như nữ thần Tự do trong tranh của Delacroix. Tháp bên phải: Marianne của Bình đẳng Marianne Bình đẳng, đội vành nguyệt quế, sau lưng là cụm olive tươi tốt, tay cầm cuộn sách có trục, bên dưới là cây tích trượng của thần Hermes (tượng trưng sự truyền tin, hướng dẫn và cứu chữa), dưới chân là đống lúa mì với cái liềm gặt. Có lẽ trình hiện ở đây Marianne như một hiện thân của sự nuôi dưỡng và giáo dục bình đẳng với mọi công dân. Mũ Tự do Phrygia, vành nguyệt quế, và nhà cách mạng
  6. Thiền Trong Truyện Tếu Lâm Việt Nam Thiên Đồng Ai thích thiền thì tìm đọc chuyện tiếu lâm của Việt Nam, đôi khi sẽ thấy vị thiền trong đó. Cái cười tiếu lâm và cái cười thiền chẳng khác. Có khác chăng là cái hình thức gây cười. Thiền ai nói không cười? Cười ha hả trong thiền chẳng phải bất kinh, cười tủm tỉm trong thiên đâu phải thanh tao...chỉ là cái cười thôi mà! Chuyện rằng có bốn ông quan cùng hẹn nhau ở một nhà, chè cháo rảnh rang bày cuộc nói dóc xem ai dóc nhất thiên hạ. Ông đầu khởi sư: - Nhà tôi có con trâu, mỗi lần liếm một phát hết mười mẫu ruộng. Ông thứ hai chơi xéo: - Nhà tôi có cái rọ to hơn năm bảy cột đình, bỏ con trâu vô còn rộng. Ông nhất bị chơi ngang, chờ ông ba mở tiếng. Ông ba thủng thỉnh nói: - Tui từng thấy có một cái cầu. cầu dài đến nỗi người bên đây cầu không thể thấy người bên kia. Tui có biết một nhà nọ, cha chết, thằng con trai bên kia cầu đi về cư tang cha, đi từ bên kia qua đến bên đây cầu thì đã mãng tang cha ba năm rồi. Ông tư lên tiếng: - Cái cầu đó xây bằng cái cây. Cây cao đến nỗi một con chim đẻ trứng trên ngọn, trứng rớt xuống, chạm tới đất thì trứng đã nở con, con đủ long cánh mà bay xa. Bốn ông còn chưa phân thì nghe tiếng thét lớn: - Lính đâu! Bắt bọn nói láo này lại giải lên quan trên! Cả bốn ông giật mình sợ khiếp tưởng quan trên tới nơi, liền ngoái lại xem ai cho rõ. Thì ra là tên lính lệ. Định buông lời thì tên lính đáp trước: -Da bẩm quan con nói dối ấy ạ. Lời bình: Đánh nó một cú.
  7. Cái sọt Ngày xửa ngày xưa, ở một làng kia có một gia đình nghèo khó. nhà có bốn người, hai vợ chồng, đứa con trai nhỏ và ông bố chồng già. Năm tháng ròng rã, ông bố phải làm lụm vất vả, giờ đây đã quá già yếu không còn làm được việc gì. Vì vậy ông phải hoàn toàn sống dựa vào con trai và nang dâu. Họ coi ông già là một gánh nặng. Ngày tháng trôi qua, ông già ngày càng trở thành mối lo ngại cho họ. Ông cụ cần được chăm sóc nhiều. Nhưng cả nàng dâu lẫn con đều không đỡ đần ông gì cả. Ông phải ăn những thức ăn thừa và mặc những thứ quần áo cũ rách nát. Ông lun bị đói và rét. Lắm khi đứa cháu trai quá xót xa ông nội phải chia phần thức ăn riêng của nó cho ông. Nhưng mỗi khi trong thấy, bố mẹ nó lại rầy la nó và cấm nó không được phun phí thức ăn ngon. Ông già rất đau khổ về cách cư xử của hai vợ chồng đứa con. Sự việc ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ông già càng than oán bao nhiêu thì nàng dâu và con trai ông càng khó chịu bấy nhiêu. cuối cùng chúng bí mật bàn mưu tính kế tống khứ ông già đi. Chúng định mang ông đến một nơi thật xa và bỏ ông ở đó. Người chồng cho biết hắn sẽ ra chợ mua một cái sọt bằng tre cứng cáp để bỏ ông vào đó mang đi. - Ta sẽ mang ông lão đến một nơi thật xa, khiến ông lão không còn lần ra đường về. Ta sẽ bỏ ông lão dưới gốc cây sát lề đường. Có thể có người cảm thấy xót thương mà đưa ông lão về nuôi - Người chồng bàn tính. - Nhưng còn đối với bà con hàng xóm thì sao? - Chẳng bao lâu họ sẽ biết ông cụ không còn ở đây nữa, khi họ hỏi chúng ta phải ăn nói với họ như thế nào? - thì cứ nói rằng ông cụ đòi đến vùng đất thánh, ở đấy ông cụ có thể sống yên ổn cho đến lúc chết - người chồng trả lời. Thế là họ sắp định âm mưu. Nhưng họ không biết rằng đứa con nghe lõm được câu truyện họ bàn tính với nhau. Ngay khi cha nó vừa đi chợ mua sọt, nó hỏi mẹ: - Mẹ ơi! Tại sao bố lại vứt bỏ ông đi? - Không! Không! Mẹ nó vội vàng trả lời - Chúng ta không định vứt bỏ ông đâu! Dĩ nhiên là chúng ta không làm thế. Con xem, ở đây chẳng có ai chăm sóc ông được chu đáo, vì cả cha con và mẹ đều tất bậc làm lụng suốt ngày. Do đó cha con định đưa ông nội đến một nơi ông được chăm nôm tử tế hơn thôi. - Chổ ấy là ở đâu vậy mẹ? Đứa con hỏi. - Ồ, xa lắm, xa lắm. Đó là một nơi con chẳng thể nào biết được. - Thế ai sẽ đến chăm sóc ông? - Con không phải lo. Có rất nhiều người hảo tâm sẽ chăm sóc ông. Người mẹ nói để đứa con yên tâm. Chiều tà, người chồng về mang theo một chiếc sọt lớn. không muốn cho hàng xóm biết chuyện mình làm, anh ta đợi đến tận đêm, khi trời tối mịt mới đặt ông bố vào cái sọt. - Con định làm gì thế này? Ông già hoảng hốt hỏi con. Con đặt ta vào trong cái sọt này mang đi đâu? - Thưa bố, bố biết đấy, hai vợ chồng nhà con chẳng thể chăm nôm bố được nữa. Vì vậy con định đưa bố lên miền đất thánh, ở đấy bố sẽ được mọi người đối xử tốt hơn. Người con đáp. Nhưng ông già không bị mắc lừa. Ông hiểu ngay vợ chồng thằng con định làm gì ông. - Đồ bất hiếu! -Ông quát- Thử nhẩm xem, bao nhiêu năm qua tao nuôi mầy cho đến ngày khôn lớn và bây giờ thì mầy trả nghĩa cho bố mầy như thế đấy! Ông bắt đầu hét to, chửi mắng con trai và nàng dâu. Con trai nỗi giận. Anh ta giật một cái, nâng phốc cái sọt lên lưng, xăm xăm đi ra khỏi nhà. Đứa cháu nhỏ im lặng theo dõi tất cả mọi việc xảy ra. Vừa khi cha nó sắp khuất dạng trong đêm tối, nó gọi to bảo cha: - Bố ơi! Bố ơi! Khi nào bố đem vứt ông xong, bố nhớ giữ cái sọt và mang nó về cẩn thận nhé! Bối rối trước câu nói của con, anh ta dừng bước, ngoảnh lại hỏi: - Để làm gì hả con? Đứa bé ngây thơ trả lời: - Nhà ta còn cần đến cái sọt to ấy để khi nào bố già con mang vất bố đi! Nghe đứa bé nói, chân anh ta đâm loạng choạng. Không biết làm sao, anh ta chẳng thể bước thêm một bước nào nữa. Thế là anh ta quay lại và đưa người bố già trở về nhà. Sưu tầm
  8. Nói vậy thôi chứ chú Vulong bận lắm không viết được đâu.
  9. Hình như đây là phát minh của chú VuLong, chứ trong cổ thư hình như không có ghi câu "Hình tụ thành khí" như thế này. Thiên Đồng
  10. Dấu ấn văn hóa Việt vẫn là cái gì đó rất xa xưa! (Vietnamnet)- 30 năm trở lại đây, dấu ấn văn hóa Việt để lại trong lòng thế giới vẫn là những cái gì đó đã tồn tại từ rất xa xưa – như một kiểu “di sản được thừa kế”. Phóng viên tiếp tục cuộc trò chuyện với đôi vợ chồng Sung Min Park (nghệ sĩ opera – Hàn Quốc) và Trang Trịnh (nghệ sĩ dương cầm Việt Nam). Lúc này Trang Trịnh chia sẻ nhiều hơn với kinh nghiệm của một nghệ sĩ trẻ tuổi có óc quan sát sắc sảo và đã lưu diễn nhiều nơi trên thế giới. Tại sao sự ảnh hưởng của văn hóa Hàn Quốc lên các quốc gia khu vực lại mạnh mẽ như vậy trong khoảng 10 năm gần đây? - Trang Trịnh: Xuất phát điểm của tất cả những điều này có lẽ là do ý thức dân tộc của họ trên bản đồ thế giới. Tôi không nhớ chính xác điều này, nhưng đã đọc ở đâu đó rằng “khi đánh giá về thang bậc các quốc gia, điều quan trọng nhất không phải là GDP mà về tầm ảnh hưởng của văn hóa”. Giới trẻ Việt đang "sính Hàn" vì sức mạnh văn hóa chứ không phải vì kinh tế Ở Châu Âu, trong thời kì phát triển cực thịnh, các đất nước muốn thể hiện về thứ bậc và tầm quan trọng quốc gia, họ đưa ra “World Fair” hay giờ được gọi là World Exhibition (Expo). Ở đây, những người tài năng nhất (không phải về tiền - mà là âm nhạc, hội họa, kiến trúc, khoa học…) sẽ tụ họp lại và đưa ra các sản phẩm của họ. Chẳng hạn như tháp Effel ở Paris - là một trong những tác phẩm của Expo năm 1889 hay National Gallery ở London. Họ muốn cho thế giới thấy đây là văn hóa, thành tựu của chúng tôi. Văn hoá quan trọng đến mức Áo và Đức đã phải tranh giành nhau xem Mozart là của nước nào. Họ biết để đánh giá một đất nước người ta không nhìn vào tiền, mà vào văn hóa. Hiện tại, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng luôn cạnh tranh tranh nhau về văn hóa. Âm nhạc đóng vai trò gì trong chiến lược cạnh tranh và gây ảnh hưởng này? - Trang Trịnh: Các tác phẩm của Shakespears có vị trí như thế nào trong văn học và kịch nghệ, thì nhạc cổ điển cũng có vị trí như vậy trong âm nhạc nói chung. Khi đất nước Hàn Quốc bắt đầu chiến dịch giáo dục đại chúng về âm nhạc cổ điển họ đã biết điều này. Họ nghĩ, bây giờ nếu mình làm thế thì 20 năm sau mình sẽ có một thế hệ nghệ sĩ, 20 năm sau nữa có thể cạnh tranh được với thế giới, giành lấy ngôi đầu bảng ở tất cả các cuộc thi. Bây giờ nhìn cuộc thi nào cũng thấy người Hàn Quốc, giải nhất, giải nhì, giải ba. Và như thế là họ đạt được mục đích. Kpop hiện cũng đang bành trướng và có vị trí. Trước đây người ta chỉ biết đến Pop của Âu Mỹ, nhưng giờ đây ngay cả Thụy Điển, Thụy Sĩ cũng có nhiều người thích Kpop. Chính vì thế khi nhìn vào, sẽ có cảm giác họ rất mạnh. Giới trẻ thì thấy “Hàn Quốc là một đất nước tuyệt vời!” – không phải vì các tập đoàn như Samsung hay Deawoo, mà vì họ thấy Wonder Girls, BoA, IU, Park Hyo Shin. Thể thao cũng tương tự như vậy. Tôi đã từng đọc về số lượng tiền người Nhật đầu tư cho thể thao - rất kinh khủng. Tại sao các nước phải dốc toàn lực và Olympic lại trở nên quan trọng đến thế? Vì đó cũng là một thước đo cho sự thành công của đất nước ấy. Khi Kim Yu Na, ngôi sao trượt băng nghệ thuật của Hàn Quốc được huy chương vàng Olympic 2010 , người Nhật đã cực kì tức giận vì họ đã đổ rất nhiều tiền cho môn trượt băng và trong nhiều năm trời, họ là nước thống trị bộ môn này, sau Nga, Mỹ. Tất cả các quốc gia đều tranh giành nhau ở vị trí quán quân, có được sức ảnh hưởng về văn hóa, thể thao và nghệ thuật. Là một nghệ sĩ muốn quảng bá âm nhạc cổ điển trong nước, chị đã có những kinh nghiệm gì trong làm việc với truyền thông? - Trang Trịnh: Khi tôi làm “Nhật kí dương cầm”, tôi cố gắng đấu tranh để được phát vào giờ vàng. Nếu đài truyền hình đến thu hình thì hầu như các tiết mục nhạc cổ điển chỉ được phát vào 12 giờ đêm. Nên cách duy nhất là truyền hình trực tiếp, và thật may mắn là đài truyền hình Hà Nội đã chấp nhận truyền hình trực tiếp đêm diễn này. Buổi biểu diễn đầu tiên mà làm trực tiếp sẽ có áp lực không nhỏ với nghệ sĩ. Họ không được chuẩn bị tinh thần mà sẽ phải chờ đếm ngược để ra sân khấu. Một điều đặc biệt nữa là sự xuất hiện của phiên bản truyền hình cho Nhật Ký Dương Cầm trên VTV6. Khi biết về “Nhật kí dương cầm”, chị Tạ Bích Loan và chị Thuỷ (đạo diễn tại VTV6) đã yêu cầu tôi đến trường quay và ghi hình trực tiếp. Về sau, chương trình được phát đi phát lại rất nhiều lần và toàn vào khung giờ tốt. Chính vì vậy, giới trẻ biết nhiều hơn đến “Nhật kí dương cầm”. Tôi cũng rất ngưỡng mộ cách chị Tạ Bích Loan thực hiện một số gameshow thảo luận của giới trẻ về kinh tế, văn hóa trên kênh. Nó hoàn toàn rất khác với các gameshow trên các chương trình truyền hình khác. Kênh truyền hình Arrirang rất nổi tiếng trong việc quảng bá văn hóa Hàn Quốc. Có không ít người Việt trẻ xem kênh truyền hình này. Anh có thể nói thêm điều gì đó về cách thức thực hiện nó? - Sung Min Park: Ở Hàn Quốc thì tôi không xem Arrirang, chỉ khi ra nước ngoài mới xem thôi. Nó là kênh truyền hình dành cho người nước ngoài và người Hàn Quốc sống ở nước ngoài. Nó có phụ đề tiếng Anh, cả KBSWorld nữa, có nhiều người Hàn sống ở nước ngoài xem các kênh này. Tôi ấn tượng về cách các kênh truyền hình biết khai thác các ngôi sao của Hàn Quốc và tạo nên những làn sóng văn hoá. Nghệ sĩ piano Trang Trịnh Trang Trịnh: Hàn Quốc họ biết cách tạo ra ngôi sao và biết cách sử dụng ngôi sao ấy để quảng bá có lợi cho quốc gia. Tại Hàn Quốc, chỉ cần họ có một ngôi sao thôi, họ sẽ biết cách sử dụng ngôi sao ấy để tác động đến rất đông những người khác. Từ thành công của Kim Yu Na, nhà nhà đã cho con đi học thể dục thể thao. Từ một thành phố Seoul không có sân tập chuyên nghiệp cho trượt băng nghệ thuật, giờ họ đã có, và có rất nhiều. Tôi và nhiều người khác học nhạc, vì Việt Nam có Đặng Thái Sơn. Nếu chúng ta biết cách nhân rộng và quảng bá sự thành công của chú ấy thì âm nhạc, nghệ thuật đã phổ cập được ở một mức độ khác hoàn toàn. Tôi từng nhắc đến vấn đề này trong bài viết “Giải mã cơn sốt văn hóa Hàn của teen Việt”. Gần đây mới có hiện tượng Ngô Bảo Châu, nhưng chủ yếu là do khai thác riêng lẻ của báo giới và tự thân đóng góp của ông, chứ cũng không có định hướng hoặc chiến lược nào. - Trang Trịnh: Việt Nam từng có một cầu thủ là vô địch thế giới bộ môn bóng đá nghệ thuật (football free style). Tất cả mọi người say mê bóng đá nghệ thuật trên thế giới đều biết anh ấy. Anh ấy xuất hiện trong các game online bóng đá và rất nổi tiếng. Nhưng ở Việt Nam không ai biết anh ấy là ai. Tại sao chúng ta có các ngôi sao thực sự nhưng lại không biết cách sử dụng để tạo hình mẫu về sự nghiệp cho mọi người đi theo? Giả dụ Hàn Quốc cần quảng bá về ẩm thực. Họ sẽ chọn một đầu bếp chuyên nghiệp làm ngôi sao. Ông/bà này sẽ làm ở một khách sạn vô cùng sang trọng trên thế giới, là một người nổi tiếng. Ông ấy sẽ là đại diện quốc gia, đi khắp nơi và dạy làm món ăn Hàn Quốc, nói về món ăn Hàn Quốc. Ca sĩ opera Sung Min Park và nghệ sĩ piano Trang Trịnh Như vậy, lại quay lại vai trò của thông tin, truyền hình, đúng không? - Trang Trịnh: Truyền hình, và báo chí. Nhưng nếu muốn vào sâu trong gia đình thì phải là truyền hình? - Trang Trịnh: Đúng vậy. Truyền hình là thông tin đến cả nước, thậm chí cả những người nông dân ít đọc, ít học và cả những người không biết chữ. Người Hàn Quốc nhìn Việt Nam như thế nào, về khía cạnh văn hóa? Anh có biết gì về văn hóa Việt Nam không? - Sung Min Park (Nghĩ rất lâu) Một xu hướng nào đó? Một cái tên? Một sản phẩm văn hóa chẳng hạn? - Sung Min Park: (Ngập ngừng) Áo dài, phở, vịnh Hạ Long, Hồ Chí Minh. Những người quan tâm đến lịch sử hoặc những người ở thời bố mẹ tôi sẽ biết nhiều hơn về Việt Nam, chủ yếu là từ thời chiến tranh. Còn hiện tại, tôi không biết gì nhiều về văn hóa của các bạn. Tôi mong là sẽ có những trung tâm văn hoá Việt Nam tại các quốc gia để quảng bá về văn hoá đặc sắc của các bạn. Cảm ơn anh và Trang! Hồ Hương Giang
  11. Hệ quả bất ngờ của một định lý toán học Trong khoảng chưa đầy 30 năm đầu của thế kỷ 20, Khoa học đã được chứng kiến ba chấn động lớn : Vào năm 1905 và 1915 Einstein công bố Thuyết tương đối. Năm 1926, những công trình hoàn chỉnh đầu tiên của Cơ học lượng tử ra đời, với một số nguyên lý cơ bản, được coi mở ra một con đường mới, làm biến đổi hình ảnh về Vũ trụ vốn có ở con người, một cuộc biến đổi còn triệt để hơn cả sự biến đổi mà cuộc cách mạng Copernic đã tạo ra. đặc biệt vang dội là Nguyên lý bất định do nhà vật lý người Đức W. Heisenberg trình bày trong năm 1927, cùng dịp với Đại hội Copenhague, đánh dấu sự thành lập chính thức Lý thuyết Lượng tử. Bốn năm sau, năm 1931, Nhà toán học người Áo Kurt Göđel công bố một định lý làm chấn động Thế giới Toán học, được đánh giá là kỳ lạ nhất và cũng là bí hiểm nhất trong Toán học. Định lý có nội dung như sau : Đối với các hệ thống Toán học hình thức hóa với một hệ tiên đề đủ mạnh, thì, một là, hệ thống đó không thể vừa là nhất quán, vừa là đầy đủ. Hai là, tính nhất quán của hệ tiên đề không thể được chứng minh bên trong hệ thống đó. Khác với hai lý thuyết Vật lý vừa nêu, định lý Toán học mang tên Kurt Gödel (hay còn gọi là định lý Bất toàn) không gây ra một không khí xôn xao sâu rộng như hai thuyết Vật lý cùng thời, và do đó rất ít người biết đến. Vì sao như vậy? Theo lý giải của nhiều học giả thì trước hết là người ta cho rằng, định lý Toán học chỉ có giá trị lý thuyết nhiều hơn. Nhưng có lẽ có một lý do khác mà không ít Nhà toán học không muốn đề cao tầm quan trọng của định lý, bỡi vì nhưng hệ quả Triết học của nó làm tiêu tan niềm xác tín đầy cao ngạo của họ đối với vai trò độc tôn của Toán học nói riêng và của Khoa học nới chung. Với định lý Bất toàn, thì dù Toán học, xưa nay, vẫn tự hào là một hệ thống lôgic nghiêm ngặt với một nền tảng vững chắc nhất, cũng phải chịu một qui luật “Có thể sai” như các Khoa học khác ! Những biến đổi cách mạng tư duy trong Vật lý học hiện đại xuất phát từ sự thật rằng, không thể hy vọng đứng bên trong Thế giới duy lý mà biết hết mọi thứ. Thế giới Tự nhiên quả thực có nhiều thứ lạ lùng hơn mọi điều mà trí tuệ duy lý của chúng ta có thể nắm bắt được. Suy rộng định lý Gödel, ta có thể hiểu là : Bất cứ một lý thuyết nào mà con người xây dựng nên, đều chỉ phản ảnh một tình huống nhất định của nhận thức. Từ bên trong một tình huống, không thể hiểu hết mọi chuyện trong tình huống đó, chỉ khi đứng ngoài tình huống đó thì may ra mới đạt tới một bức tranh sâu rộng hơn để có thể nhận ra toàn bộ mối quan hệ tạo nên cấu trúc bên trong của nó. Trong cuộc sống đời thường, ta thường nghe câu triết lý : “ người trong cuộc không sáng suốt bằng kẻ đứng ngoài cuộc”. Đó là một trải nghiệm xuyên thời gian của Thế thái nhân tình, nhưng lại có nguồn gốc từ bản thể của Tự nhiên như một hệ quả Triết học của định lý bất toàn. Hoặc nói cách khác, rằng : “Anh nói cho tôi biết người bạn thân thiết nhất của anh là người như thế nào, tôi sẽ nói cho anh biết, anh là người như thế nào”. Điều đó có nghĩa là, ta không bao giờ biết đầy đủ chính ta, nếu không đặt mình từ bên ngoài để nhìn lại mình. Nếu tham vọng của Nhà toán học vĩ đại Hilbert muốn xây dựng một nền tảng Toán học nhất quán và phi mâu thuẫn, bị Định lý Gödel làm cho sụp đổ, thì trong công cuộc phát triển Kinh tế Xã hội, ở thời điểm hiện tại, nếu chưa xác định một cách nhất quán mô hình của nền kinh tế đất nước, thì việc hoạch định những dự án, dựa trên cơ sở “tư duy duy lý”, với một tầm nhìn hàng nửa thế kỷ, là một sự lựa chọn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất bền vững. Những bài học phải trả giá đắt do dự báo sai về tầm nhìn phát triển, mà nhiều Quốc gia đã nếm trải, là một thực tế không thể không ghi nhớ. Nhiều Nhà khoa học, kể cả các Nhà vật lý, đã nhận rõ là cần vượt ra ngoài biên giới của mọi qui giản về tư duy duy lý để có thể nhận thức đầy đủ hơn về Thế giới, mà Trí tuệ không bao giờ có thể thấu hiểu hòan toàn. Trong một bài giảng của mình vào năm 1933, Einstein nói : “Nếu anh muốn biết phương pháp mà Nhà vật lý lý thuyết đã dùng, thi tôi cho anh một lời khuyên :Đừng nghe họ nói mà hãy xét những thành tựu của họ , Bỡi vì đối với một Nhà phát minh, kiến trúc của trí tưởng tượng xuất hiện một cách tự nhiên như nó phải thế, chứ không phải là sáng tạo của tư duy”. Cùng mạch suy nghĩ này, trong một bài báo Khoa học Giáo sư Toán học Phan Đình Diệu viết : “Để cho Khoa học cung cấp cho con người nhiều hiểu biết hơn về Thiên nhiên, về Vũ trụ, về cuộc sống. đã đến lúc mà Tư duy cơ giới với Tất định luận, chỉ với những phương pháp phân tích, suy luận duy lý và qui giản… không còn phù hợp nữa, mà cần được bổ sung những quan điểm tư duy mới, sử dụng những công cụ và phương pháp mới, vận dụng thêm những năng lực cảm thụ khác vốn có, trên cơ sở các quan điểm và phương pháp mới đó để cảm nhận và tìm hiểu các đối tượng nhận thức của mình. Mà đối tượng nhận thức của con người thì trước hết phải là những vấn đề của đời sống bình thường, thuộc kích cỡ con người”. Điều thú vị là định lý Gödel, ngoài động lực thúc đẩy một cuộc cách mạng tư duy về phương pháp luận khoa học, nó còn làm nảy sinh một nghịch lý về khái niệm “Mê tín” mới : Nhiều thế hệ các nhà khoa học mải mê trên con đường đi sâu mãi vào lòng vật chất của Thế giới , bằng tư duy qui giản, cắt vụn hiện thực, rồi xem cái mẩu được cắt ra đó là chính hiện thực, bằng những lời “đại ngôn”, làm không ít các Nhà khoa học và Triết học có lương tri phải lên tiếng, coi đó là sự “kiêu căng thái quá”. Và chính nó đã gây ra một ảo tưởng. rằng ngày nay mọi vấn đề của khoa học đời thường đều đã được giải quyết. Ảo tưởng đó đã trở thành niềm xác tín mang tính thần lực, mà người đời cũng xem nó là một thứ bệnh “Mê tín”. Hóa ra nhận thức cũng có sự đối xứng : “Mê tín Thần thánh” và “Mê tín Khoa học”. Mà mê tín nào thì cũng đã từng gây ra không ít đổ vỡ và bi kịch trần gian, Trong lúc cuộc cách mạng tư duy cuốn hút trí tuệ thời đại trên con đường tiếp cận chân lý của hiện thực bằng Chiến lược Hệ thống, thì Triết lý Giáo dục lại đi theo một tiến trình ngược lại : Sự chia nhỏ manh mún gọi là “chuyên sâu”, sự phân Ban, lao sâu vào những cuộc thử nghiệm chuyên biệt…, ngay tại cấp học gọi là Phổ thông, với ý tưởng đi tìm đỉnh cao Tri thức. Ở đây, đối tượng của giáo dục là Con người để Làm người, như một tổng thể của hiện thực, đã bị xóa mất. Edgar Morin Nhà triết học Giáo dục đã đặt Giáo dục trước những vấn đề thách thức trong một Thế giới toàn cầu hóa, mà sự hội nhập của các Quốc gia Dân tộc, là một tất yếu, trong đó, Ông nhắc lại câu nói của Nhà văn Mỹ Eliot, như một tiếng kêu : “Minh triết đâu rồi, chỉ còn lại Tri thức ! Tri thức đâu rồi, chỉ còn lại Thông tin ! “. Hình như nền Giáo dục của chúng ta đang cò ít hơn thế nữa. Nó kiến tạo những Trí thức và Thông tin bị băm vụn, dần trở thành những giáo điều ngấm vào nhận thức của hôm nay. Cuối cùng , cũng không thể không nhớ đến câu nói nổi tiếng của Nhà Giáo dục vĩ đại J. Rousseau : “Việc học tập đích thực của chúng ta là học tập về thân phận của Con người”. Edgar Morin, đang nói đến việc học tập thân phận Con người trong một Thế giới biến đổi chưa từng có như ngày hôm nay. Định lý Gödel ra đời, đến nửa thế kỷ sau, người ta mới thấy ý nghĩa to lớn của nó đối với Khoa học và Triết học. Từ sự hạn chế của các hệ lôgic của chính bản thân Toán học, người ta vỡ lẽ ra lý do khiếm khuyết và hạn chế trong các cấu trúc lôgic nhân tạo. Trong công nghệ tính toán, Computer với tư cách là một hệ lôgic cả phân cứng lẫn phần mềm, nó cũng chấp nhận sống chung với sự “bất toàn” như một phần cơ thể của chính nó : Đó là sự cố Treo máy, sự cố Virus, Chương trình tối ưu, mà bất kỳ ai sử dụng computer đều được nếm trải. Alan Turing, cha đẻ của máy tính điện tử hiện đại, với mô hình Toán học Máy Turing, từ những năm 1950, ông đã tiên đoán “Sự cố Treo máy" như một bài toán nổi tiếng mãi về sau này. Đồng thời cũng cho biết rằng, không thể khắc phục tuyệt đối bằng việc viết ra một chương trình có khả năng loại bỏ bất kỳ chủng virus nào. Gần đây nhất, G. Chaitin, Nhà Toán học thuộc IBM, đã chứng minh một hạn chế nữa, rằng không thể viết một chương trình tối ưu cho một mục tiêu định trước. Chỉ có thể viết một chương trình tốt hơn một chương trình đã có. Tất cả những hạn chế này đều có cơ sở lôgic là Định lý bất toàn Gödel. Một vấn đề cũng có sức thu hút trí tuệ trong Thế kỷ hai mươi mốt, đó là “Trí thông minh nhân tạo”, với câu hỏi nóng bỏng nhất : “Trong tương lai, chúng ta có thể chế tạo những Robot thông minh như con người hay không ?”. John Arrow, giáo sư Đại học Sussex (London), đã lấy tư tưởng của Định lý bất toàn viết nên tác phẩm, có tiêu đề Imposibihty (Bất khả), nêu lên luận đề Giới hạn của Khoa học và Khoa học về các Giới hạn, cũng đã lấy Định lý bất toàn Gödel làm cơ sở để trả lời câu hỏi nóng bỏng trên : Bộ não con người, với tư cách là một hệ lôgic, không bao giờ hiểu biết hết chính mình, thì cũng sẽ chẳng bao giờ chế tạo được “Bộ não” thông minh giống mình. Robot được trang bị “Bộ não nhân tạo”, dù thông minh đến đâu, thì cũng chỉ có thể “suy nghĩ” dựa trên một tập hợp hữu hạn các tiên đề (chương trình). Trong khi đó não con người có thể có nhưng phát kiến bất chợt : Những cảm nhận Trực giác xuất thần không dựa theo bất kỳ một hệ thống lý thuyết nào. “Khoa học về Giới hạn” mà Barrow nêu lên, không hạ thấp vai trò Khoa học, mà chính là để định hướng đi cho Khoa học, phát triển mà không xa rời bản chất của hiện thực. Như Nhà Vật lý Vũ trụ Stephen Hawking đã từng nói : “Khoa học Vật lý có thể hoàn thành sứ mệnh của mình mà không có câu trả lời cho một vài câu hỏi cơ bản nhất của Tự nhiên”, cũng là vì lý do hạn chế đó. Định lý Bất toàn Gödel là một trong những Định lý vĩ đại nhất được chứng minh trong Thế kỷ XX. Nhà Toán học người Mỹ William Denton tuyên bố: “Định lý Bất toàn Gödel xếp ngang hàng với thuyết Tương đối của Einstein và nguyên lý Bất định của Heisenberg ! “ nguồn:Einstein và nguyên lý Bất định của Heisenberg ! “ (Tổng hợp và bình luận – chungta.com)
  12. @Thohat Em chào anh Thiên đồng! Mong anh xem giúp em 1 quẻ: Em là Nữ Quý Hợi sinh ngày 30/11/1983 lúc 11h30, giờ hỏi quẻ: 15 giờ 05 phút ngày 19/10/2012 dương lịch. Câu 1: Trong năm tới công việc của e có gì phát triển hay thay đổi ko ah? Hiện tại e thấy cũng ổn định rồi. Công việc năm tới sẽ phát triển, tiếp tục tiến tơi, có thể thăng tiến vị trí cao hoặc chuyển đi nơi làm việc tốt hơn. Câu 2: Bạn trai e sau này là người e đã từng quen biết trước đây hay là người mới gặp hay do mai mối? Nếu cưới xin có gặp cản trở gì ko ah? E lấy chồng gần nhà hay xa nhà? người từng quen biết. Cươi xin có vài rắc rối nhỏ nhưng sẽ qua, lấy chồng xa. Câu 3: Sức khỏe gia đình em có tốt ko ah? Không gì phải lo. tốt cả. Em cám ơn anh nhiều! @nhanma Cháu rất Cám ơn bácThiên Đồng đã coi giúp, theo quẻ trước thì cháu phải làm xa nhà, và hiện giờ đúng là 0 xin được vào 2 chỗ kia, sắp tới cũng có vài nơi nữa nhưng cháu chưa ưng lắm. cháu xin 1 quẻ nữa mong bác xem giúp, cháu là nam, tuổi Đinh Mão sinh ngày 21/12/1987 (dl), xin quẻ lúc 9h45 AM ngày 20/10/2012 1. Thời gian tới cháu đi làm liệu có phải thay đổi nơi làm việc nhiều 0, hay ổn định 1 chỗ ah? Cháu dự tính thi tuyển viên chức và học thạc sĩ, liệu sắp tới có cơ hội thuận lợi nào 0? Không thay đổi gì cả, nguyên tại chổ. Cứ cố gắng phải dò hỏi thong tinh cho kỹ, sẽ không thuận lợi lắm. 2. Công việc “cạnh tranh khốc liệt” như bác xem ở quẻ trước liệu cháu có đủ khả năng để trụ vững 0? Vì mới ra trường công việc kinh nghiệm còn kém, lại giao tiếp quan hệ ít Sẽ trụ vững, đừng làm mất lòng tiểu nhân. 3. Liệu từ giở tới cuối năm và qua năm 2013 công việc có tốt lên, tiền lương thu nhập có khá 0? Chưa thấy tốt, ráng hẩm hiu tí nhá. Cháu xin cám ơn và mong tin bác! @hoainghi Cháu chào chú Thiên đồng! Mong chú xem giúp cháu 1 quẻ! Cháu là Nam Bính Dần 1986, hỏi lúc 14h21ngày 20/10/2012 dương lịch. Câu 1: Cuối năm nay ông bà già hứa cho vợ chồng cháu một khoảng tiền xây nhà và làm ăn( nếu thiếu cho mượn thêm ) nhưng không nói bao nhiêu theo chú đoán có không hay hứa suông? Nếu cho thì cho bao nhiêu,còn cho mượn thì bao nhiêu ? Hứa suông thôi. Nếu cho mươn thì con số 2 hay 3 thôi. Câu 2: Vợ chồng cháu định sinh bé thứ hai theo chú năm nào sinh thì thích hợp ( vợ cháu tuổi ngọ)? Bé này trai hay gái? nếu vợ sinh năm 1990 thì sinh năm 2015 rất tốt. Con giống cha. Câu 3: Con cái sau này có hiếu thảo thông minh học giỏi không chú? Quây phá tí nhưng ngoan. Cháu cám ơn chú nhiều lắm! Nhân dịp ngày Quốc Tế phụ Nữ 20\10, cháu xin chúc chú và gia đình sức khoẻ, hạnh phúc và thành công trong công việc ! @duyen Em chào anh Thiên Đồng, em có đăng bài mấy lần nhờ Anh tư vấn nhưng hình như Anh bỏ sót mất ạ. Em là Nam, sinh năm 1989. Hỏi lúc 14h36 20/10/2012. Xin a giúp e mấy câu hỏi sau ạ. 1. Sang năm 2013 gia đình e có bình yên không ạ? Có vài chuyên lục đục nhưng vẫn qua. 2. Vợ chồng em khi nào thì có con đầu lòng ạ? (chúng em cưới nhau hơn nữa năm rồi mà vẫn chưa có tin vui ạ, vợ em sinh năm 1992) nhanh năm 2013, chậm 2015 có con. 3. Sang năm e có tìm được công việc gì tốt không ạ? Vào tháng mấy sang năm ạ? sẽ có việc tốt, nhanh tháng 2 âm, chậm tháng 7 âm, 2013. Em mong tin anh nhiều. E kính chúc anh và gia đình sức khỏe, hạnh phúc Chúc mọi người may mắn vui vẻ Thiên Đồng
  13. @Lan Cao Nhà này ở thì rất dể bị bệnh, chủ yếu bệnh cảm mạo, bần thần, không tập trung, dễ bị kén ăn mất ngủ. Chủ yếu là đi nhiều ở không bao nhiêu. Dễ bị mất cấp hoặc gây lộn cãi vả. Có phải vậy không? Thiên Đồng
  14. Vũ Trụ Trong Mắt Ai, Bất Định, Bất Toàn, Tin Cậy và Tình Yêu Có phải chăng, phải bước qua Hệ quy chiếu Einstein, phải bước qua Hệ quy chiếu về các Chiều Không gian con bị xoắn, phải bước qua Hệ quy chiếu về Không Thời gian Đa chiều;... Phải bước qua Khoa học; phải phải bước sang Tôn giáo; phải bước vào Hệ quy chiếu Tâm Linh, Con người có thể tới gần được Chân lý? Minh Đạt Salisbury, ngày 9/7/2012. 1 "Thượng đế không thể chơi trò xúc sắc". Đó là câu nói bực tức của người khổng lồ Einstein. Ông đã nói vậy. Ông đã nói vậy, sau khi đã công bố nhiều thí nghiệm tưởng tượng. Ông đã nói vậy, sau nhiều cuộc khẩu chiến ồn ào. Ông đã nói vậy, khi ông không thể chiến thắng. Không chiến thắng, không chỉ vì đối thủ của ông, Niels Bohr, cũng là một người khổng lồ và rất kiên định. Mà không chiến thắng, vì: Nguyên lý Bất định, nó có sức mạnh của nó. Sức mạnh của nó không thua kém gì sức mạnh của Thuyết Tương đối, học thuyết của ông. Thuyết Tương đối của Einstein là một đỉnh núi Sáng tạo. Khi xuất hiện, nó đã triệt tiêu khái niệm Không Thời gian là tuyệt đối, một khái niệm đã thống lĩnh suốt ba trăm năm. Khi nó xuất hiện, nó tạo ra một làn sóng mới cho Khoa học, đặc biệt Vật lý nghiên cứu về Vũ trụ. Cho đến nay, nó vẫn đang tồn tại và đang tỏa sáng. Cho đến nay nó vẫn sừng sững như khi nó xuất hiện. Nhưng đã có một đỉnh núi sáng tạo khác, không kém hùng vĩ hơn, xuất hiện. Nguyên lý Bất định của Werner Heisenberg. Người ủng hộ nó nhiều nhất là Niels Bohr, một người gần như sáng lập nên Cơ học Lượng tử. Kể từ năm 1927, sự xuất hiện của Nguyên lý này đã làm cho Cơ học Lượng tử, ngành khoa học nghiên cứu về vi mô, có tầm vóc mới. Thực sự, sự xuất hiện này như một cuộc cách mạng, một sự bùng nổ. "Thượng đế không thể chơi trò xúc sắc". Cuộc cách mạng này, sự bùng nổ này không chỉ xảy ra trong Cơ học Lượng tử, trong Vật lý mà nó đã ảnh hưởng tới mọi ngành Khoa học và tới cả Triết học. Thượng đế đã tham gia vào trò chơi may rủi? Trước Einstein, Pierre Simon de Laplace, một Nhà Khoa học quý tộc, đã đưa ra một học thuyết có tên là Chủ nghĩa Tất định. Nếu biết trước trật tự của Vũ trụ tại một thời điểm nhất định, khoa học có thể tiên đoán được một cách chính xác trật tự của Vũ Trụ tại bất kỳ một thời điểm xác định khác. Học thuyết này, đương nhiên dựa trên các định luật của Cơ học Newton; đồng thời dựa trên giả thiết cơ bản: Vũ trụ là bất biến, Vũ trụ bị ràng buộc bởi những định luật xác định. Chủ nghĩa Tất định Laplace là sự phát triển tư tưởng, xác định khoa học có thể vươn tới những đỉnh cao. Thuyết Tương đối của Einstein, vứt bỏ khái niệm tuyệt đối của Không Thời gian, một khái niệm Tĩnh. Ý nghĩa Tương đối của nó không nằm trong việc phủ định sự Tất định của Vũ trụ. Thuyết Tương đối của Einstein, là tuyệt đối thừa nhận sự Tất định của Tự nhiên; là một lý thuyết xác định cho phép tiên đoán một cách chính xác các hiện tượng thiên văn, vũ trụ. Trong thực tế, sự chính xác trong các tiên đoán đã đạt tới mức kinh ngạc. Điển hình là tiên đoán vị trí của các ngôi sao ở gần Mặt trời trên bản đồ thiên văn trong các kỳ nhật thực, để từ đó xác định được chính xác độ lệch của tia sáng khi nó đi ngang qua gần Mặt Trời. Đương nhiên đó là Tất định. Einstein thừa nhận Laplace. Nguyên lý Bất định, hay còn gọi là Ngẫu nhiên, được phát biểu sau thí nghiệm điển hình bắn các chùm hạt electron qua hai khe hở, để tìm thấy sự Giao thoa. Nguyên lý khẳng định không thể xác định cùng lúc chính xác cả vị trí và tốc độ của các hạt thí nghiệm. Vị trí và tốc độ là hai yếu tố cơ bản nhất. Chỉ cần xác định hai yếu tố này là biết được về hạt đó. Nếu biết được hai yếu tố này, tại một thời đỉểm bất kỳ, là có thể xác định được vị trí và vận tốc, cho bất kỳ một thời điểm nào khác. Nhưng không thể xác định được hai yếu tố này! Không xác định được, không phải vì những phương trình toán học quá phức tạp, chưa có lời giải. Không xác định được, vì không thể mô tả được trạng thái của chúng. Trong thực nghiêm không xác định được, không phải vì trình độ công nghệ. Để đưa một chút ánh sáng, để làm rõ hơn vị trí và tốc độ của hạt electron, thì chính các hạt photon lại tác động vào vị trí và vận tốc của hạt electron. Đó là nghịch lý. Hai yếu tố này là không thể xác định được! Hai yếu tố này là Bất định, không thể là Tất định. Ngẫu nhiên đã được đưa vào trong Cơ học Lượng tử! Lâu đài Tất định xụp đổ. Laplace thoái vi. Những tiên đoán thiên tài của Einstein dù đã rất đúng, nhưng đã trở thành không phổ quát. Khoa học được xác định lại, có Tất định và có Bất định, có Tiền định và có Ngẫu nhiên. Ngọn núi sáng tạo thứ hai, Nguyên lý Bất định đang thể cùng tồn tại với Ngọn núi Sáng tạo thứ nhất Thuyết Tương đối. Nhưng cũng đã có khi, người ta tưởng rằng Einstein đã luôn đúng, Bohr và Heisenberg sai. Đó là vào năm 1998, khi Gerhard Rempe và các cộng sự tại Đại học Konstanz ở Đức đã báo cáo về thực hiện thí nghiệm nổi tiếng, thí nghiệm bắn hạt qua hai khe hở, bằng kỹ thuật laser. Bài báo đã viết: “Kết quả (của họ) chứng tỏ rằng lập luận của Bohr dựa trên một sự nhầm lẫn”. Bài báo cho biết là trong nhiều năm qua, các nhà vật lý đã không hề hay biết rằng có một lý thuyết quan trọng, đó là Thuyết Rối lượng tử (quantum entanglement). Hiện tượng không thấy dấu vết giao thoa thực ra là quy luật Rối lượng tử, một đặc trưng của thế giới lượng tử, chứ không phải là yếu tố Bất định. Nhưng rồi cho đến nay, đã không có những hoài nghi tiếp theo. Nguyên lý Bất định đã được kiểm nghiệm trong thực nghiệm, thực tế và trong lý thuyết tính toán một cách quá rõ ràng. Mới đây, trong Toán học có một khám phá mới về số Omega, đã tạo ra một cú sốc lớn. Nó cho thấy toán học không phải là một hệ thống xác định như người ta vẫn tưởng, mà hoá ra cũng chứa đựng tính ngẫu nhiên giống như trong Cơ học Lượng tử. Omega, là một con số do Gregory Chaitin tìm ra cách đây không lâu, dựa trên việc phát triển bài toán Sự cố Dừng (The Halting Problem) của Alan Turing. Sự Cố dừng được phát biểu như sau: "Không thể đoán trước được một chương trình computer liệu có thể bị dừng hoặc chạy vòng quanh mãi mãi hay không." Từ bài toán của Turing, Chaitin đã đặt vấn đề: "Hãy tính xác suất để một chương trình computer được chọn ngẫu nhiên trong số những chương trình có thể có sẽ bị dừng là bao nhiêu?" Chaitin gọi xác suất đó là Omega. Omega tồn tại, bởi vì trong thực tế, một chương trình có khả năng sẽ bị dừng, hoặc không. Theo Lý thuyết Xác suất, Omega là một số thực biến thiên trong khoảng giữa 0 và 1: 0 < Omega < 1. Nó không thể có giá trị khác, nó chỉ có thể từ 0 tới 1. Nhưng điều đáng buồn, là chúng ta sẽ không bao giờ biết Omega bằng bao nhiêu, vì theo Sự cố Dừng Máy tính của Turing, không thể đoán trước được. Đây là một hiện tượng chưa từng xẩy ra trong Toán học. Một số vô tỷ như số Pi (3,1416...) chẳng hạn; là một số thập phân vô hạn không tuần hoàn. Số Pi, sẽ có các chữ số xuất hiện không theo một quy luật nào cả, và dài vô hạn; nhưng vẫn là một số xác định. Bởi vì chúng ta có thể xác định được (tính được) bất kỳ số chữ số nào của nó, miễn là thời gian và sức lực cho phép. Nhưng Omega là một con số hoàn toàn khác: nó là một con số bất định, các chữ số của nó xuất hiện một cách ngẫu nhiên. Omega thực sự là một cú sốc. Omega là một số thực, mà số thực là nền tảng của Số học, Số học là nền tảng của Toán học; như vậy Tính Ngẫu nhiên (randomness) nằm trong nền tảng của Toán học. Suy rộng ra, Toán học là nền tảng của Khoa học, do đó Tính Ngẫu nhiên nằm trong nền tảng của toàn bộ Khoa học. Cho nên, không thể tồn tại một lý thuyết mang tính xác định của toàn Vũ trụ được, bởi vì Vũ trụ mang tính ngẫu nhiên hơn là xác định! 2 Thực sự, thì bài toán Sự cố Dừng của Turing và Số Thực Omega của Chaitin nó là một biểu hiện cụ thể của một đỉnh núi khác, nhiều hơn, so với đỉnh núi sáng tạo Nguyên lý Bất định. Với Nguyên lý Bất định nó chỉ liên quan đến tính Ngẫu nhiên. Sự cố Dừng và Số Thực Omega thể hiện nhiều hơn nữa, nhiều khía cạnh, nhiều chiều kích hơn nữa. Không thể xác định được. Đây là điều vô cùng quan trọng. Nó chứng tỏ rằng trong Toán học tồn tại những con số không thể tính được, không thể biết được; và như vậy Toán học không thể là một Hệ hoàn chỉnh. Đó là điều mà Đỉnh núi Sáng tạo: Định lý Bất toàn của Kurt Gödel đã nói đến. Trong thế kỷ hai mươi, Khoa học có ba Đỉnh núi Sáng tạo. Đỉnh thứ nhất chính là Thuyết Tương đối của Einstein, nó đẹp một cách Tao nhã. Nó cho một cái nhìn sống động hơn, lộng lẫy hơn về Không Thời gian, về Vũ trụ. Đỉnh núi thứ hai là Nguyên lý Bất định của Werner Heisenberg, nó đẹp một cách Lãng mạn. Nó tạo nên những cảm xúc Bất ngờ khi tìm hiểu về Tự nhiên, khi tìm hiểu về Vũ trụ. Làm sao mà lãng mạn được, khi mọi thứ là Tiền định. Làm sao mà lãng mạn được, khi biết trước được điều sẽ xảy ra. Lòng kiêu hãnh có thể sáng lên, khi mới tìm ra; nhưng khi nó đã xảy ra, thì có gì còn hấp dẫn, còn lãng mạn nữa, khi biết nó thuộc về Tất định. Đỉnh núi thứ ba đẹp một cách hoàn toàn khác. Nó đẹp Mạnh mẽ. Đó là Định lý Bất toàn của Kurt Gödel. Không như Thuyết Tương đối, dù chưa bao giờ được trao Giải Nobel nhưng nó nhanh chóng chiếm được niềm tin của giới Vật lý, đưa tên tuổi Einstein lên hàng đầu. Không như Nguyên lý Bất định, dù bị Einstein chống đối đến cùng, nhưng được Niels Bohr và rất nhiều Nhà Vật lý hàng đầu ủng hộ, đã nhanh chóng tạo nên những ảnh huởng lớn lao trong Cơ học Luợng tử và Vật lý nói chung. Trong khi đó, Định lý Bất toàn và bản thân Gödel chủ yếu chỉ được giới học thuật gần gũi biết đến. Trong một thời gian rất dài, Định lý không được phổ biến rộng rãi. Một vài nhân vật xuất chúng biết nó, nhận thấy tầm quan trọng của nó. Phần lớn các nhà toán học khác vẫn nuối tiếc lý tưởng của Chủ nghĩa Hình thức. Cũng giống như trong Vật lý, giống như Chủ nghĩa Tất định của Laplace, Chủ nghĩa Hình thức trong Toán học được David Hilbert chủ xướng; với tinh thần: "Chúng ta phải biết, chúng ta sẽ biết". Lấy công cụ là Logic và Lý thuyết Tập hợp, một Chương trình Hilbert đã được dựng lên, với dự định xây dựng một Hệ thống Siêu Toán học. Họ đã tưởng tượng ra rằng Hệ thống Siêu Toán học, là một hệ thống toán học tuyệt đối siêu hình, tuyệt đối thoát ly khỏi thế giới hiện thực, cho phép xác định tính đúng/sai của bất kỳ một mệnh đề Toán học nào và chứng minh tính phi mâu thuẫn của toàn bộ Toán học. Chủ nghĩa Hình thức đã gần như thống trị Toán học. Chủ nghĩa Hình thức đã khuynh đảo tư tưởng Toán học. Thói tự phụ thật là rất to, sức ỳ thật là rất lớn. Trong Khoa học đôi khi, tính Bảo thủ lớn hơn rất nhiều so với những gì người ta vẫn kỳ vọng vào tính Khách quan! Chính điều đó, đã làm cho Định lý Bất toàn của Gödel bị rất nhiều nhà toán học tảng lờ và ngấm ngầm chống đối. Nhưng cái gì phải đến, thì nó sẽ đến. Chủ nghĩa Hình thức đã dẫn đến nhận thức về bản chất của Toán học bị méo mó. Toán học bị đồng nhất với Logic hình thức, Logic thuần tuý suy diễn bằng ký hiệu, đã bất chấp ý nghĩa thực tế của các đối tượng toán học. Đồng thời hạ thấp vai trò thực dụng của toán học, dồn mọi nỗ lực vào việc tìm kiếm hệ thống Siêu Toán học hình thức. Toán học như bị mất đi sức mạnh của chính nó. Năm 1931, Định lý Bất toàn ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Nó đã đạp đổ Chủ thuyết: "Chúng ta phải biết, chúng ta sẽ biết". Nhưng thực sự, tại thời điểm đó và nhiều năm sau nó đã không gây sốc. Chỉ mới đây, Trong dịp lễ chào mừng thiên niên kỷ mới, tạp chí Time đã công bố danh sách 100 nhân vật vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Kurt Gödel được đưa vào danh sách đó như là Nhà Toán học vĩ đại nhất. Năm 1965, trong thư gửi ngài bộ trưởng ngoại giao Áo Bruno Kreysky (sau này làm thủ tướng), nhà kinh tế học người Áo Oskar Morgenstern viết: “Chẳng còn gì để nghi ngờ rằng Gödel là nhà logic vĩ đại nhất đang còn sống, thật vậy, những nhà tư tưởng xuất chúng như Hermann Weyl và John Von Neumann đều đã tuyên bố Gödel rứt khoát phải là nhà logic vĩ đại nhất kể từ Leibniz, hoặc thậm chí kể từ Aristotle. Nhưng dường như trong toàn bộ lịch sử của Đại học Vienna, không có tên tuổi của một gương mặt nào từng giảng dạy ở đó lại bị che khuất như tên tuổi của Gödel… Có lần Einstein nói với tôi rằng công trình nghiên cứu riêng của ông không còn có ý nghĩa nhiều đối với ông nữa, và rằng ông đến Viện nghiên cứu đơn giản chỉ để có đặc ân được đi bộ về nhà cùng với Gödel mà thôi”. Để cho mọi người có thể chiêm ngưỡng đỉnh núi sáng tạo thứ ba này, cũng cần phải nhắc đến công sức của những nhân vật lỗi lạc mà chủ yếu đều hoạt động trong lĩnh vực khoa học computer. Đầu tiên phải nhắc đến John von Newman, một nhà khoa học phi thường, một trong những ông tổ của khoa học computer tại Mỹ. Vốn là một cộng sự đắc lực trong Chương Trình Hilbert, khi biết Định Lý Gödel, Newman đã lập tức huỷ bỏ các bài giảng theo Chủ nghĩa Hình thức để thay thế bằng Định Lý Gödel. Cùng với những công trình của Alan Turing và Alonso Church, và sau này của Gregory Chaitin, giới khoa học computer càng ngày càng nhận thấy Định Lý Gödel có ý nghĩa lớn hơn rất nhiều so với trước đây người ta tưởng. Ý nghĩa ấy vượt ra khỏi phạm vi toán học, bao trùm lên hàng loạt ngành khoa học mũi nhọn trong xã hội hiện đại, đặc biệt là khoa học computer, và cuối cùng là ý nghĩa sâu xa về triết học nhận thức. Mọi ca tụng không mang đến sự hùng vĩ của một ngọn núi. Ngọn núi hùng vĩ là bởi tầm cao của nó. Sức mạnh và sự hùng vĩ của Đỉnh núi sáng tạo thứ ba, Định lý Bất toàn là ở bản thân Nội dung của Định lý! Định lý Bất toàn của Gödel được phát biểu bằng ngôn ngữ logic hình thức. Một ngôn ngữ rất khó hiểu đối với những người không chuyên ngành. Nó bao gồm hai Định lý. Cả hai đều chỉ ra rằng toán học về bản chất là bất toàn, là không đầy đủ; và nó luôn chứa đựng những mệnh đề không quyết định được (undecidable), tức những mệnh đề không thể chứng minh và cũng không thể bác bỏ. Định lý 1: Nếu một lý thuyết dựa trên một hệ tiên đề phi mâu thuẫn thì trong lý thuyết ấy luôn luôn tồn tại những mệnh đề không thể chứng minh cũng không thể bác bỏ. Định lý 2: Không tồn tại bất cứ một quy trình suy diễn nào cho phép chứng minh tính phi mâu thuẫn của một hệ tiên đề. Thật không dễ hiểu. Có phải vì vậy mà nó đã không gây sốc. Hãy xét mệnh đề sau, mệnh đề tự quy chiếu, mệnh đề nói về chính nó: "Mệnh đề này không có bất cứ một chứng minh nào!" Nếu mệnh đề này sai, suy ra phủ định của nó đúng, tức là nó có thể chứng minh được, nhưng kết luận này trái với nội dung của chính nó. Vậy buộc nó phải đúng, tức là không thể chứng minh được. Thực ra, vào khoảng 600 năm trước Công nguyên, Nhà thơ kiêm triết gia cổ Hy Lạp là Epimenides ở xứ Cretan cũng đã nêu lên một mệnh đề tương tự. Mệnh đề về một kẻ tự nói về mình: “Ta là kẻ nói dối!”. Mệnh đề khuyến cáo các nhà thông thái về cái vòng logic luẩn quẩn của những mệnh đề tự nói về mình. Mệnh đề này đã đi vào lịch sử triết học, ngôn ngữ học, logic học với tên gọi “Nghịch lý Cretan” hay “Nghịch lý Epimenides”. Toán học là hệ thống tự quy chiếu. Toán học đã dùng thuật toán để phán xét chính bản thân toán học! Hãy cảnh giác với điều này. Định lý 2 có thể nói rõ hơn như sau: Không thể kiểm tra tính Phi mâu thuẫn của một hệ thống A, nếu chỉ sử dụng những tiên đề của nó (hệ A). Bởi vì trong hệ A luôn tồn tại những mệnh đề không quyết định được. Muốn kiểm tra tính phi mâu thuẫn của hệ A, buộc phải đi ra ngoài hệ A để bổ sung thêm những tiên đề mới cho A. Khi đó ta có một hệ thống mới, gọi là hệ B. Trong hệ B, lại xuất hiện những mệnh đề mới không quyết định được. Quy trình đó cứ tiếp diễn mãi và rốt cuộc là chẳng bao giờ đi tới đích cuối cùng. Nó sẽ dẫn tới hệ C, hệ D,... Ý nghĩa Triết học của Định lý còn đẹp Mạnh mẽ hơn rất nhiều. Nhà khoa học quý tộc Lapalace đã thật quá lãng mạn để nghĩ rằng Vũ trụ là Tất định. Nhưng ở buổi bình minh của Khoa học, sau hàng trăm năm u tối của thời Trung cổ, với những Thánh chiến đẫm máu, với những dàn hỏa thiêu bạo tàn,... những Nicolas Copernic, những Galilei Galileo đã dũng cảm để nói rằng Trái đất vẫn quay, Vũ trụ không phải do Chúa tạo nên. Để đi đến nhận thức: Con người có thể nhận biết được sự Tất định của Vũ trụ. Thì đó đã là cả một bước dài của Sáng tạo, và thực sự là vô cùng Lãng mạn. (Không lãng mạn làm sao bước được qua Thời Trung cổ? Lãng mại để vượt lên, lãng mạn để thủ tiêu bảo thủ và tiêu cực. Vào thời điểm đó Chủ nghĩa Lãng mạn còn bành trướng cả trong lĩnh vực Văn chương và Hội họa,...) Nhưng rồi để nhận thức rằng: "Chúng ta phải biết, chúng ta sẽ biết." Như Hilbert, thì sự Lãng mạn đã chuyển sang Hình thức. Phải xây dựng lên một hệ thống Siêu Toán học, một hệ thống Toán học tuyệt đối siêu hình. Sự Hình thức đã quá đà, chuyển sang màu sắc Cực đoan. Làm sao có thể chứng minh được rằng: Vũ trụ này, Thế giới nhận thức này không chỉ Tất định mà còn nằm gọn trong các mệnh đề logic. Cực đoan và Ngớ ngẩn. Thế giới Nhận thức của Nhân loại, qua hàng ngàn năm, đã bao biến đổi và tiến hoá. Từ Cơ học của Newton, tới cơ học của Einstein, tới Cơ học Lượng tử, tới Lý thuyết Siêu Chuỗi,... Làm sao có thể khẳng định được Lý thuyết Siêu Chuỗi là lý thuyết của mọi lý thuyết. Làm sao có thể khẳng định Nhận thức của Nhân loại hôm nay là trọn vẹn rồi. Nếu Nhận thức của Nhân loại không tiến hoá nữa, thì đó là ngày của Nhân loại Tận thế. Thế giới chân lý có thể chứng minh được quá nhỏ so với thế giới chân lý có thể nhận thức được. Nhưng thế giới chân lý nhận thức được lại quá nhỏ bé so với thế giới hiện thực. Phải chăng sẽ luôn vậy? Đây chính là vẻ đẹp Mạnh mẽ của Đỉnh núi sáng tạo thứ ba: Định lý Bất toàn. Cái mạnh mẽ này, giống như câu chuyện về gót chân Achilles. Achilles con của Thetis, nữ thần biển, với vua Hy Lạp Peleus. Thetis là thần, nên bất tử. Vua Peleus là người trần nên cuộc sẽ kết thúc bằng một cái chết. Achilles cũng sẽ phải chết, không thể bất tử. Thetis không muốn điều đó. Khi sinh con, Thetis đã dốc ngược người cậu bé, hai ngón tay nắm giữ gót chân, rồi nhúng cả người cậu vào nước sông Styx. Achilles có mức mạnh vô song, cả người Achilles là mình đồng da sắt. Gươm, dáo và cung tên không thể làm gì được. Nhưng có một chỗ, một chỗ không phải là đồng, không phải là sắt, nơi gót chân. Đó là chỗ yếu nhất, vì tại đấy không được nhúng nước sông Styx. Achilles là chiến binh vĩ đại nhất của Hy Lạp trong trận chiến. Nhưng do mâu thuẫn với Agamemnon quanh việc giành một nữ tù binh, Achilles rời bỏ cuộc chiến. Khi quân Troia sắp đánh đuổi được quân Hi Lạp về nước, thì bạn thân của Achilles là Patroclus bị Hector giết chết. Achilles tức giận quay lại trận chiến trả thù cho Hector. Thành Troia thất thủ. Sau đó Achilles tiếp tục lập nhiều chiến công cho quân Hy Lạp. Achilles giết 7 người con của vua Priam, giết nữ hoàng Amazon Penthesilea. Nhưng cuối cùng do thái độ nhục mạ thần Apollo nên bị thần hướng mũi tên của Paris vào gót chân, nơi duy nhất trên cơ thể Achilles có thể bị tổn thương. Achilles gục xuống chết. Dù mình đồng da sắt, dù đã bất bại trong tất cả các cuộc chiến trước đó. Achilles đã chết bởi mũi tên của Paris. Achilles đã chết vì gót chân của mình. Achilles biết được điểm yếu gót chân của mình, Achilles sẽ mạnh hơn rất nhiều. Nhưng sẽ chỉ là mạnh nhất, khi biết rằng gót chân của mình, điểm yếu đó là đương nhiên tồn tại. Không thể nào, và không bao giờ có thể khắc phục được. Chỉ khi đó mới là mạnh mẽ nhất. Và chính Gödel đã nói: “Ý nghĩa của cuộc sống là ở chỗ biết phân biệt ước muốn với hiện thực”! Gödel đã nói về cái đẹp Mạnh mẽ (nhất). 3 Sự mạnh mẽ không bao giờ thủ tiêu sự lãng mạn. Không bao giờ là như vậy. Có mạnh mẽ, lãng mạn sẽ lớn hơn, cao hơn, sâu sắc hơn. Vũ trụ không Tất định, Vũ trụ có những điều không thể Hiểu. Nhận thức đó là mạnh mẽ. Nhận thức đó làm cho Vũ trụ đẹp hơn, hấp dẫn hơn và lãng mạn hơn. Đòi hỏi con đường Nhận thức đi tìm Chân lý phải có những cuộc cách mạng, phải có những bước nhảy. Phía trước có nhiều những dòng sông cần phải bước qua. Bước qua, phải bước qua những dòng sông, Thế giới Nhận thức có một tầm vóc mới, Thế giới Hiện thực và Chân lý có những tín hiệu mới. Bước qua, chuyển sang một hệ thống khác, đứng trên một hệ quy chiếu khác, thì có thể gần tới được những điều cần Hiểu, những điều cần Biết, có thể gần tới được Chân lý. Có phải chăng, phải bước qua Hệ quy chiếu Einstein, phải bước qua Hệ quy chiếu về các Chiều Không gian con bị xoắn, phải bước qua Hệ quy chiếu về Không Thời gian Đa chiều;... Phải bước qua Khoa học; phải phải bước sang Tôn giáo; phải bước vào Hệ quy chiếu Tâm Linh, Con người có thể tới gần được Chân lý? Tôi nhận thức được vẻ đẹp lãng mạn của Nguyên lý Bất định, tôi nhận thức được sức mạnh đẹp đẽ của Định lý Bất toàn là ở đây, là chính ở lằn ranh này! 4 Giống như một đồng tiền, cuộc sống của Nhân loại có hai mặt. Một mặt là Khoa học và Triết học. Một mặt là Tôn giáo. Hai mặt này không đối lập, không chống đối, nhưng không thể là như nhau. Cùng phục vụ Con người, những chúng rất khác nhau. Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Khoa học và Triết học nghiên cứu cái bên ngoài của Con người, là Vạn vật, là Vũ trụ, là quy luật Tự nhiên, là các quy luật Xã hội, là các quy luật Kinh tế,... Nó nghiên cứu chuyển động các vì sao, chuyển động các giải Ngân hà, tương tác giữa chúng,... Nó nghiên cứu về cấu tạo cơ bản của Vật chất, về nguyên tử, về các hạt, về các Lực trong Tự nhiên... Nó nghiên cứu về Con người, về Tâm lý, về Cơ chế hoạt động của các hệ thống trong cơ thể, về sự hoạt động của Não bộ, về cấu trúc của gen... Nó nghiên cứu về các mô hình tập thể: Chính phủ, Thể chế xã hội. Nó nghiên cứu về các quy luật phát triển Xã hội, các quy luật phát triển Kinh tế của Tập đoàn, của Quốc gia, của Khu vực, của toàn Thế giới,... Triết học cũng vậy, ngay cả Triết học Hiện sinh, một bước nhảy vĩ đại của lịch sử Triết học Thế giới: lấy Con người là Trung tâm của Vũ trụ, Con người là Chủ thể. Con người Chủ thể đó, cũng là sự phóng chiếu của Thực tại Vũ trụ vào Con người mà thôi. Tất cả, tất cả các ngành Khoa học và Triết học là tập trung nghiên cứu cái bên ngoài của Con người. Tôn giáo ngược lại. Tôn giáo thuộc về Tâm linh. Tông giáo không chỉ quan tâm cái bên ngoài. Tôn giáo là đi sâu vào cái bên trong. Tôn giáo đưa con người vào cái Tĩnh lặng sâu thẳm. Tôn giáo đưa con người tới sự Phúc lạc toàn phần và Vĩnh viễn. Đó chỉ có thể là con đường đi vào bên trong. Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Khoa học là logic, là phân tích, là lý luận, là chứng cứ. Cả Khoa học và Triết học đều dùng chung một phương pháp đó là Logic. Không logic Khoa học không thừa nhận. Logic là cơ sở của mọi Lý thuyết; có logic các phương trình mới xác định được nghiệm, ngay cả khi xác định Vô nghiệm. Không logic Triết học không thừa nhận. Phép Biện chứng được Georg Wilheim Friedrich Hegel tìm ra, như một bước nhảy vĩ đại trong lịch sử của Triết học. Không có phép Biện chứng, Triết học không có sức sống, không có màu sắc. Karl Marx lấy cái Biện chứng của Hegel ghép vào trong Duy vật. Khoa học và Triết học phải là logic. Tôn giáo thuộc về Tâm linh. Tôn giáo là chủ quan. Sự Chứng ngộ không thể nào khái quát được bằng công thức, bằng phương trinh, ngay cả bằng ngôn ngữ. Không thể, không bao giờ có thể giải thích và chứng minh được. Khoa học và Triết học vận hành bởi cái Đầu, bằng Bộ óc. Tôn giáo vận hành bởi Trái Tim, bằng Tình yêu. Trái tim và Tình yêu luôn có bước nhảy, nó không bao giờ tuần tự, nó luôn là nghịc lý, nó là Phi logic. Tôn giáo là Phi logic. Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Lý thuyết, mệnh đề, phương trình, toán tử, tích phân, đạo hàm, xấp xỉ, gần đúng,... có nghiệm hay vô nghiệm,... tất cả những điều này là quan trọng. Nhưng nó không phải là cuối cùng. Không phải là cuối cùng, dù đã rất logic. Điều cuối cùng phải là Thực nghiệm, phải là Thực tế. Phải có Thực nghiệm, phải có Thực tế kiểm tra Khoa học mới công nhận. Triết học là đi tìm Chân lý của thực tại, bằng con đường khách quan. Khoa học và Triết học là khách quan. Tôn giáo là chủ quan. Nó hoàn toàn là kinh nghiệm cá nhân, là chủ quan, là duy nhất theo một cách nào đó. Phật Gautama đạt Chứng ngộ không chỉ vì Ngài từ bỏ ngài vàng, quyền lực, giàu sang, cung tần mỹ nữ... Phật Gautama Chứng ngộ chỉ khi Ngài có sự từ bỏ lớn lao: từ bỏ tìm kiếm. Jesus Christ Chứng ngộ bằng Tình yêu vĩ đại. Tôn giáo là như vậy. Tôn giáo là Chủ quan. Mỗi một Con người đi tới Chân lý bằng con đường của mình. Khoa học và Triết học là trò chơi của Trí tuệ, nó đi tìm Chân lý để HIỂU. Tôn giáo không phải là như vậy. Tôn giáo đi sâu và bên trong của Con người. Tôn giáo hoà nhập cái bản thể của Con người vào cái Toàn thể của Vũ trụ. Tôn giáo là đi tìm Chân lý để BIẾT. Cái không biết, thì đi tìm để hiểu. Con người thông thuờng chỉ đi tìm để hiểu những điều không biết. Con người không thể trải nghiệm được chuyển động của các hạt cơ bản trong thế giới Hạ nguyên tử. Cũng như con người không thể trải nghiệm được chuyển động của các vì sao trong giải Ngân hà. Nhưng tất cả những điều đó, con người có thể hiểu qua Thuyết Tương đối, qua việc bắn các chùm hạt, qua việc giải các phương trình trong Lý thuyết Chuỗi... Cái đã biết thì không cần hiểu nữa. Trải nghiệm rồi, biết được mọi góc cạnh, biết được mọi chiều kích, biết được mọi cung bậc, biết được mọi màu sắc, biết được mọi hương vị,... biết Tất cả, không còn phân biệt, vậy thì đầu cần gì phải hiểu nữa! Hiểu và Biết khác nhau như vậy. Đó là sự khác nhau giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Không thể so sánh Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Nó là hai cấp độ khác nhau. Có thể so sánh những Galileo Galilie, Isaac Newton, Alber Einstein, Ernest Rutherford, Niels Bohr, James Chadwick, Werner Heisenberg, Kurt Gödel và Stephen Hawking,... Với những Aristote, Descartes, Kant, Hegel, Jean-Paul Sartre và Albert Camus,... Có thể so sánh họ với nhau. Nhưng không thể so sánh từng người họ, không thể so sánh toàn thể họ với Phật Gautama, với Jesus Christ,... Những Nhà Khoa học, những Nhà Triết học với Phật Gautama và Jusus Christ là hai cấp độ khác nhau. Không thể so sánh họ với Phật Gautama và Jusus Christ được. Không thể được. Không thể lấy ngôn ngữ của Khoa học, Triết học đi phân tích, đi chứng minh, đi giải thích,... Tôn giáo. Không nên, vì đó là không thể. Ngôn ngữ, mệnh đề, công thức, toán tử và phương trình làm sao có thể giải thích được cái Tĩnh lặng tuyệt đối? Là sao có thể phân tích được sự Chứng ngộ Linh thiêng? Phật Guatama đã nhiều lần im lặng. Ngài đã im lặng và không nói câu trả lời. Ngôn từ của Con người và những công cụ của Trí tuệ, những phương trình, những toán tử, những đạo hàm và những tích phân,... làm sao, làm sao có thể diễn tả được cái vô cùng của Vũ trụ. Làm sao có thể diễn tả được cấu trúc của Linh hồn... Phật Gautama đã im lặng. Xin đừng dùng logic, xin đừng dùng Lý thuyết Tập hợp, xin đừng dùng khái niệm Tập Mờ,... để giải thích. Mọi lý thuyết đều màu xám! David Hilbert, Pierre Simon de Laplace đã thực sự thoái vị rồi. Không Chứng minh được, nhưng có thể tìm thấy sự tương đồng giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Có thể ở những chiều kích khác nhau, có thể ở những tầng không gian khác nhau, nhưng Khoa học, Triết học và Tôn giáo đang thể cùng tồn tại trong Vũ trụ. Sẽ có những tương đồng, sẽ cùng được chi phối bởi một số những quy luật chung. Đó là điều có thể. 5 Phải bước qua, phải bước qua Khoa học, phải bước sang Tôn giáo bằng Tình yêu và Sự Tin cậy. Phải có Tình yêu, phải có Tình yêu con người mới có thể Biết được Chân lý bằng con đường Tôn giáo. Đó là điều kiện cần. Tin cậy là điều kiện đủ. Hãy bắt đầu với Tình yêu bằng sự ngợi ca của Johann Wolfgang von Goethe qua vần Thơ nổi tiếng: "Mọi lý thuyết đều màu xám, Chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi" Thực ra trước đó, hơn một ngàn năm trước, khi có người hỏi: "Ngài có thể cho tôi một lời nói, mà nó bao hàm toàn bộ những luật lệ?" Thánh Aurieliu Augustine, nhà triết học và thần học đầu tiên của Thiên chúa giáo, đã trả lời: "Tình yêu, nếu bạn đã Yêu thì bất kỹ điều gì bạn làm sẽ đúng hết!" Luật là sơ bộ, là nguyên thuỷ. Tình yêu là đỉnh cao tột đỉnh của mọi luật lệ và lề thói. Christ không phải tên của con người cụ thể nào cả, nó biểu tượng cho trạng thái tối thượng của tâm thức. Christ không phải là tiếng Do Thái hoặc Xiri, nó xuất phát từ tiếng Sanskrit. Jesus chỉ là người của những Christ. Christ là người thức tỉnh, nó tương đương với Phật. Prem Christ sẽ có nghĩa là tình yêu tối thượng, trạng thái tối thượng của Tâm thức. Đó chính là đóng góp to lớn của Jesus Christ cho tâm thức của loài người. Con người có thể tự do khỏi mọi phép tắc và luật lệ, và chỉ một phép tắc là đủ: Tình yêu. Jesus nói: "Thượng đế là Tình yêu". Các nhà nghiên cứu về Tôn giáo nói rằng có ba con đường dẫn tới Chân lý, đưa tới sự Chứng Ngộ. Đó là con đường Chứng kiến, con đường Phi lựa chọn và con đường của Tình yêu. Con đường Phi lựa chọn là con đường của Lão Tử. Hãy không có bất kỳ lựa chọn nào. Hãy bình thản chấp nhận mọi thứ, khi chúng đến cũng như khi chúng đi. Hãy không có bất kỳ nỗ lực nào, cho bất cứ một mục tiêu nào. Không có quá khứ. Không có tương lai. Ngay Bây giờ và ngay tại đây. Tận hưởng từng khoảng khắc với Tự nhiên. Phi lựa chọn, để hoà vào Tự nhiên, để đồng nhất với Vũ trụ. Đó là con đường của Lão tử. Con đường Chứng kiến là con đường của Phật Gautama. Từ bi, Từ bi và Từ bi để Vô ngã. Vô ngã, Vô ngã và Vô ngã để Chứng kiến. Chứng kiến thân vật lý, Chứng kiến Tâm trí và Chứng kiến Tối thượng. Chứng kiến Tối thượng là Nhận biết Tâm thức. Khi Nhận biết được Tâm thức, con người trở thành Người Tỉnh thức, trở thành Vị Phật. Cả hai con đường này, càng lên cao Tình yêu càng tràn đầy. Tình yêu không tràn đầy, là sao mà vô vi được, làm sao mà Phi lựa chọn được. Tình yêu không tràn đầy, làm sao mà Từ bi được, làm sao mà Vô ngã được, làm sao mà Chứng kiến được. Tại đỉnh cao nhất, con người hoà vào Tự nhiên, đồng nhất với Vũ trụ. Tại đỉnh cao nhất, không còn phân chia, không còn tách biệt, tất cả là thuần khiết. Tình yêu thuần khiết. Tình yêu thuần khiết tràn đầy, Hoa Từ bi bừng nở và tỏa hương. Con người bước vào Niết bàn, con người thành Phật, con người thành Thượng đế. Vâng tất cả là Tình yêu. 6 Điều thứ hai: Tin cậy. Đó là điều kiện đủ. Tình yêu là điều kiện cần, Tin cậy là điều kiện đủ, để con người có thể biết được Chân lý bằng con đường Tôn giáo. Cần lưu ý rằng Tin cậy rất khác, khác nhiều so với Tin tưởng, Đức tin và Sùng kính. Nhiều Phật tử Tin tưởng rằng có Niết bàn, vì đó là lời của Phật, lời của các bậc thầy. Có Niết bàn là điều đương nhiên, vì Phật nói có, vì Kinh sách nói có. Đó là điều không thể không có được, vì các Chư Phật đang trên đó. Đó chính là Tin tưởng. Có một chút mù quáng. Vì có một chút mù quáng nên đằng sau nó sẽ là Hoài nghi. Tin tưởng và Hoài nghi là cặp đối ngẫu nhị nguyên của nhau, luôn không tách rời. Trong Tin tưởng luôn có Hoài nghi, nó nằm ở bên trong sự Tin tưởng. Với Đức tin; một tin đồ không cần biết có Niết bàn hay không, Thiên đường hay không, bởi lẽ người đó luôn có Đức tin vào vị Giáo chủ của mình. Điều Giáo chủ nói là Chân lý. Giáo chủ nói có Niết bàn, Niết bàn đương nhiên có, không thể thay đổi. Trong Đức tin đó, có Tình yêu đấy, nhưng mù quáng ngập tràn. Đấy là sự khác nhau giữa Tin cậy với Tin tưởng và Đức tin. Với Sùng kính, kính trọng có đấy, nhưng sùng bái có đấy. Người Trung Hoa rất sùng kính. Thời cổ đại, thời cận đại và thời hiện đại họ sùng kính các lãnh tụ của mình. Họ sùng kính Khổng tử, bậc thày của họ, dạy họ cách để thành công, dạy họ "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Khổng tử đã dạy họ không phải vào trong mà đi ra ngoài. Đi ra ngoài để trị quốc, đi ra ngoài để bình thiên hạ. Đi ra ngoài để được lợi, được danh. Thế kỷ thứ hai mốt, trong phim ảnh của lục địa, của Hongkong, của Taiwan, đệ tử của Khổng giáo thuờng nói câu: "Cung kính không bằng tuân lệnh". Nó đã tồn tại ở cả ngoài phim ảnh, trong xã hội, như một tiểu tư tưởng. Đó chính là một kiểu của sùng kính. Tin cậy không phải là như vậy. Kinh sách viết, Phật dạy Niết bàn là nơi Con người đã buông bỏ được hết những vướng mắc cuộc đời; được hưởng hoàn toàn Phúc lạc. Người Phật tử Tin cậy vào điều đó. Họ tin vào điều đó. Khi nói với người khác, họ nói rằng: có lẽ Niết bàn là..., phải chăng Niết bàn là... Đó không phải là Hoài nghi. Họ không bao giờ khẳng định Niết bàn như thế nào, vì một điều đơn giản, họ chưa biết, họ chưa tới; nên họ nói vậy. Nhưng họ luôn tin về sự tồn tại. Đó là thái độ khách quan, đó là thái độ nghiêm túc, thái độ tự chủ. Nhưng họ có niềm tin về sự tồn tại. Đó là Tin cậy. Tin cậy là mãi mãi. Sự Tin cậy là luôn không tăng, luôn không giảm. Niết bàn không tới trong cuộc đời này, sự Tin cậy cũng không suy giảm; có một tia sáng loé lên, tưởng như Niết bàn ở trước mặt, sự Tin cật cũng không gia tăng. Trong quá khứ họ đã Tin cậy, nhưng điều đó không xảy ra, trong hiện tại họ vẫn Tin cậy, trong tương lai điều đó vẫn không xảy ra, không hề gì, không có suy giảm niềm tin, họ vẫn luôn Tin cật. Họ luôn Tin cậy là có sự tồn tại và nó đã chưa tới. Họ luôn sống khách quan, nghiêm túc và tự chủ; nên trong cuộc sống Tâm linh của họ Hoan hỷ và Phúc lạc đã nhiều lần đến với họ. Nên Niết bàn chưa tới là không sao. Niết bàn tới là một điều đẹp đẽ và linh thiêng; hoan hỷ đón chào. Khi Tin cậy Niết bàn tồn tại, họ đã có Niết bàn ở trong Trái tim rồi. Đó là phẩm chất của Tin cậy. Nhưng với người Tin tưởng thì khác đấy, lâu quá, phức tạp quá, gian khổ quá,... niềm hy vọng không thấy đâu, Niết bàn xa xôi qua, chắc chắn Hoài nghi sẽ tới. Người Đức tin, thì không chỉ Hoài nghi tới, mà thất vọng sẽ tới, và sẽ tới tràn trề. Người Sùng kính không thể là mãi mãi, vì họ đã đánh mất sự khách quan và tự chủ của bản thân mình. Niềm tin của người Sùng kính theo niềm tin của người được Sùng kính. Trong Tin cậy luôn có Tình yêu bền vững. Trong Đức tin có nhiều Tình yêu, vì quá Yêu, quá mê say mà tạo nên Đức tin. Nên trong Đức tin có Tình yêu đấy, nhưng cũng tràn đầy mù quáng. Đổ vỡ Thần tượng, đổ vỡ Đức tin là điều thường xảy ra. Khi đổ vỡ thì Tình yêu cũng hết, Tình yêu ra đi thì Thù hận kéo tới. Người Sùng kính có Tình yêu đấy, họ yêu niềm tin, họ yêu đối tượng, nhưng họ thiếu Yêu bản thể của mình. Cái gốc của tình yêu không có. Yêu bản thể mình, mới là cái gốc của mọi tình yêu. Sùng kính quá, họ quên mất yêu bản thân mình. Trong Tin tưởng rất thiếu Tình yêu, vì người ta Tin tưởng bằng cái đầu chứ người ta không Tin tưởng bằng Trái tim. Cái đầu, tư duy logic ra quyết định. Bởi vì lý do thế này, bởi vì các bậc thày đã chứng nghiệm điều đó, bởi vì lý do đưa tới thế kia,... Họ đã kiểm nghiệm nhiều thông tin, nhiều chứng cứ nên họ Tin tưởng. Dù chả có chứng cứ nào là của họ, nhưng họ vẫn Tin tưởng. Đó là điều thứ nhất, họ đã mất khách quan, mất tự chủ và họ đã thiếu nghiêm túc với Bản thân mình, họ đã chạy theo những lý lẽ, những biện luận. Điều thứ hai, to lớn hơn rất nhiều họ đã thiếu Tình yêu trong sự Tin tưởng đó; vì đơn giản nó bắt đầu đến từ cái đầu, chứ không phải đã đến từ Trái tim. Người Tin cậy họ khách quan, nghiêm túc và họ tự chủ; nhưng họ còn có Tình yêu vào niềm tin đó. Họ không đắm say, họ không si mê. Nhưng họ đã Yêu, yêu như tất cả những điều thân thiết và quen thuộc, dường như đã thường xuyên ở bên họ. Họ đã yêu như yêu dòng sông của tuổi thơ, như yêu ánh Bình minh phía chân trời của buổi sớm mai thuở cắp sách tới trường, như yêu về Tình bạn bè của mái trường xưa,... Và trên hết cả, họ đã yêu chính bản thể của họ nhiều nhất. Tình yêu bản thể tràn đầy, đã lan toả sang các đối tượng yêu khác. Đó là cách họ Yêu Chân lý. Biết nó chưa tới, sống với sự Tin cậy nó sẽ tới và Yêu cả khi nó chưa tới như sự thiếu vắng ngọt ngào. Họ Tin cậy vào Chân lý và họ Yêu Chân lý theo cách như vậy. Xin hãy luôn Tin cậy và Tinh yêu thuần khiết tràn đầy, để cùng nhau đi sâu vào bên trong bản thân mình, để bước trên con đường tới Chân lý. Xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những Tác giả và Dịch giả của các bài viết, bài nói mà chúng tôi đã sử dụng để làm tư liệu và cảm xúc để viết bài này; xin chân thành hồi hướng công đức nhỏ bé của mình tới Quý vi. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Chứng minh sư Bồ Tát Ma ha tát. http://www.daophatngaynay.com
  15. Để thì xấu. Chữ ký thì phải chú ý thoáng đạt mới tốt.Thiên Đồng
  16. Quên, nhiều quá nên sơ xuất. nhanh thì tháng 11 âm có người yêu, chậm tháng 2 năm 2013, cưới 2014. Chúc may mắn lần sau.Thiên Đồng
  17. Sẽ được như ý. Nên nói chuyện vui vẻ, hỏi về sở thích, gu sinh hoạt, gu giải trí, tự dưng sẽ dễ dàng được việc. Chúc thành công.Thiên Đồng
  18. ĐỊNH LÝ BẤT TOÀN (1) “Thầy Bói Xem Voi” How can a part know the whole? (Blaise Pascal) Posted on 05/06/2010 K hoa học đang đứng trước hàng loạt câu hỏi thách thức: -Liệu có thể có một “Lý thuyết về mọi thứ” của vật lý không? -Robots có thể thông minh như con người không? -Bản chất vật chất của tinh thần là gì? -Máy móc có thể thay thế con người trong dịch thuật không? -Giả thuyết Goldbach là một tiên đề hay một định lý? -Vũ trụ trước Big Bang là gì? -Tồn tại chăng một lý thuyết dự báo tương lai chính xác? Và rất nhiều câu hỏi khác nữa. Mỗi câu hỏi là một thách đố lớn chưa từng có – một “Chiếc Chén Thánh” (The Holy Grail)[1] của khoa học, mà câu trả lời thường dẫn tới sự chia rẽ quan điểm, một bên nói “có”, một bên “không”. Chưa bao giờ khoa học bị rơi vào tình trạng ngã ba đường như hiện nay. Dường như dự cảm được điều đó nên từ lâu Kurt Gödel đã lưu ý: “Ý nghĩa của cuộc sống là ở chỗ biết phân biệt Ước Muốn với Hiện Thực”[2]. Những ai biết rõ lịch sử toán học thế kỷ 20 đều hiểu ngay rằng Gödel ngụ ý nhắc nhở nhân loại không được phép quên bài học thất bại cay đắng của Chương trình Hilbert – một chương trình có tham vọng khám phá ra “Lý thuyết về mọi thứ” của toán học, tức là không hiểu nguyên lý giới hạn của nhận thức mà truyện ngụ ngôn “Thầy Bói Xem Voi” đã nói từ xa xưa. Thậm chí đến khi Gödel công bố Định lý bất toàn (Theorem of Incompleteness), khẳng định nguyên lý giới hạn của nhận thức dưới dạng toán học, vẫn có nhiều người không muốn thừa nhận nguyên lý này. Đó là lý do để nhiều nhà triết học khoa học Tây phương hiện nay thích nhắc lại tích “Thầy Bói Xem Voi”, như một gợi ý để từ đó đề cập tới Định lý bất toàn nói riêng và vấn đề giới hạn của nhận thức nói chung[3]. 1] “Thầy Bói Xem Voi”: “Thầy Bói Xem Voi” là một truyện ngụ ngôn bằng thơ nhan đề “The Blind Men and the Elephant” (Những anh mù và con Voi), hoặc “Six Men of Indostan” (Sáu anh chàng ở xứ Indostan[4]), của John Godfrey Saxe, một nhà thơ triết lý nổi tiếng người Mỹ thế kỷ 19. Nhưng thực ra tích “Thầy Bói Xem Voi” “đã được ghi chép từ xa xưa trong Kinh Đại Bát Niết Bàn 大般涅槃经 do ngài Đàm Vô Sấm 昙无谶 (Dharmaraksa), pháp sư người Ấn, dịch ra Hoa ngữ , đồng thời cũng đã được ghi chép trong Kinh Trường A Hàm của Phật Giáo”[5]. Thầy Bói Xem Voi (Sáu anh mù ở xứ Indostan) John Godfrey Saxe (1816 – 1887) Sáu anh mù ở xứ In-đốt-xtan nóng bỏng Rủ nhau đi xem Voi Vì rất ham hiểu biết Nên thi nhau quan sát Cho thoả nỗi khát mong Đầu tiên là anh Nhất Sờ tấm thân vừa rộng, Vừa cứng ráp, vừa thô Miệng oang oang tuyên bố: “Con Voi, ôi lạy Chúa! Giống bức tường y chang” Tiếp đến là anh Nhị, Sờ ngà Voi, nói lớn: “Tròn, nhọn, lại mịn trơn? Kỳ quan này rõ thấy, Rằng Voi như ngọn giáo, Đó mới thật là Voi!” Anh Tam bèn tiến đến Tay ôm vòi uốn éo, Ngẫm nghĩ và luận suy, Rồi tự tin anh nói: “Con Voi như tôi thấy Giống con rắn, con trăn” Đôi bàn tay anh Tứ Sờ vào chân, háo hức, “Kỳ lạ nhất của Voi, Như ta vừa nhận thấy, Một thân cây thẳng đứng, Mới giống hình con Voi!” Rồi đến phiên anh Ngũ, Sờ tai Voi, tuyên bố: “Mù nhất chính là ta, Nhưng nào ai dám cãi, Rằng Voi như quạt giấy, Phe phẩy, phẩy gió bay!”! Cuối cùng là anh Lục, Dò dẫm, anh vội túm Chỗ ve vẩy cái đuôi, Cảm nhận, thốt lên lời: “Voi như ta đã thấy Giống y chiếc dây thừng!” Thế là sáu anh mù Cãi vã nhau ỏm tỏi , Ai cũng cho mình giỏi, Anh nào cũng hung hăng. Mỗi anh đúng một phần, Nhưng đều sai tất cả! The Blind Men and the Elephant (Six Men of Indostan) John Godfrey Saxe (1816 – 1887) It was six men of Indostan To learning much inclined, Who went to see the Elephant Though all of them were blind That each by observation Might satisfy his mind. The First approached the Elephant And happening to fall Against his broad and sturdy side At once began to bawl: “God bless me! But the Elelephant Is very like a wall” The Second, feeling of the tusk, Cried, “Ho! What have we here So very round & smooth & sharp? To me ‘tis mighty clear This wonder of an Elephant Is very like a spear!” The Third approached the animal, And happening to take The squirming trunk within his hands, Thus boldly up and spake : “I see”, quoth he, “the Elephant Is very like a snake!” The Fourth reached out an eager hand, And felt about the knee. “What most this wondrous beast is like Is mighty plain”, quoth he; “ ‘Tis clear enough the Elephant Is very like a tree!” The Fifth who chanced to touch the ear, Said: “E’en the blindest man Can tell what this resembles most: Deny the fact who can, This marvel of an Elephant Is very like a fan!” The Sixth the sooner had begun About the beast to grope, Than, seizing on the swinging tail That fell within his scope , “I see”, qouth he, “the Elephant Is very like a rope!” And so these men of Indostan Disputed loud and long, Each in his own opinion Exceeding stiff and strong, Though each was partly in the right And all were in the wrong! Ý tưởng của John Saxe thật dễ hiểu: Nhận thức của con người vốn phiến diện và bị giới hạn – nhận thức dù tiến bộ đến mấy cũng chỉ đúng một phần chứ không bao giờ đầy đủ và hoàn thiện. Nhưng phỏng có ích gì khi nhắc lại triết lý giới hạn của nhận thức trong thời buổi khoa học đang tăng trưởng với tốc độ hàm mũ như hiện nay? Phải chăng đó là một nghịch lý? Sau đây sẽ là câu trả lời. 2] Nghịch lý lớn về nhận thức: Điều bất ngờ thú vị cần thông báo ngay với độc giả là tích “Thầy Bói Xem Voi” – một chuyện tưởng như đã “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” – lại đã và đang tái xuất hiện trên các diễn đàn khoa học tây phương hiện đại với một tầm vóc và bình diện mới! Thật vậy, dưới ánh sáng của những sự kiện khoa học trọng đại nhất trong thế kỷ 20, đặc biệt nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học computer trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang tái khám phá ra nguyên lý về bản chất giới hạn của nhận thức – một nguyên lý tự nhiên mà tích “Thầy Bói Xem Voi” đã nói từ lâu nhưng dần dần bị lãng quên! Nguyên lý này khẳng định rằng NHẬN THỨC, mặc dù mỗi ngày một tiến hoá, nhưng không bao giờ đạt tới chỗ BIẾT HẾT, BIẾT MỌI THỨ, BIẾT ĐẦY ĐỦ, BIẾT TẬN CÙNG … Tham vọng biết mọi thứ, xét cho cùng, là … “ngây thơ” – không hiểu hoặc không muốn hiểu một quy luật của nhận thức mà John Saxe đã trình bầy từ lâu dưới dạng thơ ngụ ngôn! Sự “ngây thơ” đó đáng được thông cảm: Khi khát vọng nhận thức bùng cháy mãnh liệt, con người có xu hướng muốn biết hết, biết tới tận cùng! Đó là một khát vọng chính đáng, tự nhiên theo bản năng, và nhờ đó con người mới khám phá hết bí mật này đến bí mật khác. Đó chính là động lực của tiến hoá. Nếu khát vọng đó đôi khi (hoặc nhiều khi) trở nên thái quá, chẳng qua con người sinh ra vốn bản chất đã hướng ngoại, thích quan sát các đối tượng khách thể bên ngoài hơn là quan sát chính chủ thể nhận thức. Trẻ em thể hiện rất rõ điều này. Một em bé 6 tháng sẽ tuyệt đối không có “ý thức về bản ngã”, nhưng đã có thể có những nhận thức nhất định về thế giới xung quanh. Ý thức hướng nội chỉ tới khi con người trưởng thành hơn. Quá trình trưởng thành về nhận thức của một đời người chính là tấm gương phản chiếu quá trình trưởng thành về nhận thức của toàn thể loài người. Đó chính là lý do để khoa học về nhận thức ra đời quá muộn màng: Trong khi các khoa học khác đã có tới hàng ngàn hoặc hàng trăm năm tuổi, khoa học về nhận thức dường như mới ra đời gần đây. Nói cách khác: Trong khi nền văn minh của nhân loại đã trưởng thành và già dặn qua hàng ngàn năm lịch sử, con người dường như vẫn còn quá ngây thơ trong việc tự hiểu biết mình. Nhưng hơn bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào khác, thế kỷ 20 đã làm cho con người bừng tỉnh: Song song với nhận thức hướng ngoại, con người đã đặc biệt quan tâm tới chính chủ thể nhận thức – nghiên cứu bản chất của nhận thức như nghiên cứu bất kỳ một đối tượng khách quan nào khác! Nhưng tại sao lại là thế kỷ 20, thay vì thế kỷ 19 hay 21? Đơn giản vì nhận thức đã phải trả giá rất đắt để hiểu được 3 bài học tưởng như không sao hiểu được trong thế kỷ 20: Thuyết Tương Đối của Einstein + Nguyên Lý Bất Định của Heisenberg + Bài học về cuộc khủng hoảng trầm trọng trong nền tảng Toán Học đầu thế kỷ 20. Thuyết Tương Đối phải mất vài năm rồi nhân loại mới hiểu. Nguyên Lý Bất Định cũng phải mất vài chục năm: Ra đời từ 1921 nhưng chưa bao giờ được nhà vật lý lớn nhất thế kỷ 20 là Einstein công nhận, ngay cả trước khi ông mất năm 1955. Nhưng sự trả giá cho bài học thứ ba còn đắt hơn rất nhiều: Phải mất gần một thế kỷ, tức là đến cuối thế kỷ 20, nhân loại mới bắt đầu hiểu được lý do thực sự của cuộc khủng hoảng Toán Học đầu thế kỷ này. Hơn bất kỳ một bài học nào khác, bài học thứ ba này để lộ giới hạn của nhận thức. Nếu chọn ngẫu nhiên 100 nhà khoa học và giáo dục để phỏng vấn, có lẽ 100% biết rõ bài học thứ nhất (Thuyết Tương Đối), 75% (hoặc 50%?) biết rõ bài học thứ hai (Nguyên Lý Bất Định), nhưng sẽ có bao nhiêu % biết rõ bài học thứ ba (cuộc khủng hoảng về nhận thức bản chất Toán Học)? Tôi ngờ rằng tỷ lệ này rất thấp, vì thông qua phương pháp giảng dạy môn Toán ở trường phổ thông hiện nay, tôi thấy người ta đã hiểu sai bản chất và ý nghĩa của Toán Học, từ đó suy ra rằng người ta không học được bài học nào từ cuộc khủng hoảng nói trên. Bằng chứng? Vâng, sẽ có bằng chứng, nhưng xin để dành cho bài viết kỳ sau. Bây giờ là lúc cần quay lại tích “Thầy Bói Xem Voi”, vì chính sự trả giá về nhận thức trong thế kỷ 20 đã làm cho nhân loại bừng tỉnh để “ngộ” ra triết lý sâu xa của truyện ngụ ngôn này: Nhận thức, bản thân nó chứa đựng một NGHỊCH LÝ LỚN – Khát vọng vô hạn về nhận thức mâu thuẫn với bản chất giới hạn của nhận thức! “Làm thế nào để một bộ phận có thể nhận thức được cái toàn thể?” (How can a part know the whole?), đó chính là nỗi băn khoăn từ thế kỷ 17 của Blaise Pascal – một trong những nhà khoa học và triết học sâu sắc nhất của mọi thời đại. Một người như Pascal có lẽ có thừa óc tưởng tượng và suy luận để hình dung ra cái tổng thể mà ông khao khát muốn biểt, nhưng dường như cái đầu triết học quá sâu sắc của ông lại khuyên ông nên thận trọng. Phải chăng vì thế mà ông băn khoăn? Trong thời đại của chúng ta, nỗi băn khoăn của Pascal vẫn mang tính thời sự. Thật vậy, dù khoa học tiến bộ đến mấy, kính viễn vọng có thể nhìn xa đến mấy, kính hiển vi điện tử có thể nhìn sâu đến mấy, cũng chẳng bao giờ nhìn thấy cái tổng thể. Khoa học chỉ suy đoán ra cái tổng thể dựa trên những quan sát bộ phận, rồi lại dùng những quan sát bộ phận để tái kiểm chứng cái mô hình tổng thể đã suy đoán. Dù cho suy đoán dựa trên những phương pháp toán học chính xác bậc nhất, nó vẫn chỉ là kết quả của suy đoán, và do đó nó luôn luôn bị thử thách nghiệt ngã bởi thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn là ông thầy chỉ ra lỗi trong các mô hình của con người, buộc con người phải sửa chữa mô hình của mình để phù hợp với hiện thực hơn. Nhưng dù sửa chữa phù hợp đến mấy đi chăng nữa thì cũng chỉ là phù hợp với hiện thực cục bộ có thể quan sát được, thay vì chính cái hiện thực tổng thể tồn tại khách quan, độc lập với mọi suy luận và quan sát của con người. Chẳng hạn có một thời, Mô Hình Vũ Trụ dựa trên Cơ Học Newton đã thống trị “tuyệt đối” trong tâm thức các nhà khoa học, đến nỗi Joseph Louis Lagrange, nhà toán học lỗi lạc người Pháp trong thế kỷ 18, đã phải thốt lên lời buồn phiền rằng “Newton đã tìm ra hết mọi bí mật rồi, chẳng còn gì lớn cho chúng ta làm nữa”. Nhưng may thay, Albert Einstein đã chứng minh rằng Lagrange sai! Một số học giả tây phương hiện đại cho rằng nhận thức là một hàm tăng theo thời gian, nhưng không tăng tới vô cùng, mà bị chặn trên bởi một tiệm cận ngang – một cái ngưỡng (threshold): Hàm nhận thức ngày càng tiệm cận tới cái ngưỡng đó nhưng không bao giờ chạm tới và vượt qua! Thậm chí một số còn cho rằng khoa học ngày nay đã tiến gần đến cái ngưỡng đó. Thời gian sẽ trả lời nhận định này đúng hay sai. Tuy nhiên, sự tồn tại của một cái ngưỡng là có thật, ít nhất điều này đã được chứng minh trong Toán Học và trong Khoa Học Computer: Đó là “Định Lý Bất Toàn” (Theorem of Incompleteness) của Kurt Godel và “Sự Cố Dừng” (The Halting Problem) của Alan Turing. Cái ngưỡng đó làm cho một số người nản lòng, thậm chí cảm thấy khó chịu, vì không thể chấp nhận một cái ngưỡng ngáng trở nhận thức. Xin nói ngay rằng những người đó đã hiểu lầm: Chính cái ngưỡng đó làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn, và khoa học sẽ đâm chồi nẩy lộc nhiều hơn, đơm hoa kết trái nhiều hơn! Thật vậy, vì nhận thức có giới hạn, nó không bao giờ đạt tới đích cuối cùng, vì thế khát vọng khám phá sẽ được nuôi dưỡng mãi mãi, niềm vui khám phá sẽ không bao giờ cạn, trí tưởng tượng của con người sẽ tha hồ bay bổng, … điều này làm nên một trong những ý nghĩa căn bản của cuộc sống. Immanuel Kant vĩ đại từng nói: “Mỗi câu trả lời lại đặt ra một câu hỏi mới”. Bạn nghĩ sao nếu chúng ta tìm ra một câu trả lời cho mọi thứ để rồi không còn gì đáng hỏi nữa? Cuộc sống khi đó sẽ ra sao? Nhưng chính vì không bao giờ có một câu trả lời cuối cùng nên con người tha hồ tưởng tượng để tìm câu trả lời cho những gì mình chưa biết. Nhà toán học kiêm triết học nổi tiếng Bertrand Russell đã an ủi những người lo xa: “Khoa học có thể tạo ra giới hạn đối với sự hiểu biết, nhưng không tạo ra giới hạn đối với trí tưởng tượng”[6]. Nói cách khác, Bà Mẹ Tự Nhiên (The Mother Nature) không bao giờ mở cánh cửa bí mật cuối cùng cho chúng ta, mà luôn để dành những bí mật tiếp theo cho chúng ta khám phá, nhằm nuôi dưỡng chúng ta không chỉ phần xác, mà cả phần hồn! Bí mật của Tự Nhiên giống như “Chiếc Hộp Trung Hoa” (Chinese Box) hoặc những con búp-bê Matryoshka của Nga – mỗi lần mở ra lại thấy một chiếc hộp bên trong (một con búp-bê bên trong). Mỗi chúng ta đều giống như một đứa trẻ tò mò, trông thấy chiếc hộp bên trong lại muốn mở ra xem, và lại thấy một chiếc hộp bên trong nữa. Albert Einstein chính là một đứa trẻ điển hình như thế, ông nói: “Cái đẹp nhất mà chúng ta có thể chiêm nghiệm chính là sự BÍ ẨN. Đó là ngọn nguồn của nghệ thuật và khoa học chân chính”[7]. Vậy thay vì chống đối nguyên lý giới hạn của nhận thức, chúng ta nên cảm ơn nó, vì nhờ nó chúng ta luôn sống với những khát vọng lãng mạn! Nhưng cần phải tỉnh táo, vì nếu tham vọng nhận thức trở thành vô chừng vô độ, bất chấp giới hạn thì đó lại là một vấn đề hoàn toàn khác! 3] Khi tham vọng trở nên vô chừng vô độ: Khi đó, nhận thức có nguy cơ rơi vào không tưởng, lầm đường lạc lối, thay vì tiến lên, nhận thức trở thành một cái vòng luẩn quẩn, hoặc thậm chí thụt lùi. Lịch sử đã từng chứng kiến phản ứng của những người nhìn xa trông rộng trước những kiểu tham vọng vô chừng vô độ như thế. Một trong những trường hợp đáng để cho chúng ta phải suy ngẫm nghiêm túc lại là Albert Einstein. Bạn nghĩ sao khi một người như Einstein – một người có khát vọng hiểu biết cháy bỏng hơn ai hết, một đứa trẻ từng say đắm Hình Học Euclid như một kỳ quan, một nhà vật lý cần toán học như chúng ta cần không khí và nước – đã có lúc phải thốt lên: “Tôi không tin vào Toán Học”[8]! Thoạt nghe, có vẻ như đó là một chuyện bịa đặt, nhưng than ôi, đó lại là một sự thật! Xin bạn hãy bình tâm tìm hiểu sự thật này, và tôi tin rằng bạn sẽ hết ngạc nhiên nếu biết rõ rằng ấy là lúc Einstein phản ứng với những thứ toán học sáo rỗng, hình thức chủ nghĩa, toán học siêu hình (meta-mathematics), toán học tách rời thực tiễn, toán học thuần tuý suy diễn logic mà không đếm xỉa đến ý nghĩa thực tế. Bạn sẽ dễ dàng thông cảm với Einstein nếu biết rõ rằng thứ toán học siêu hình đó đã ra đời từ một tham vọng vô chừng vô độ và không tưởng của một số nhà toán học cùng thời với ông. Những người này tin rằng tồn tại những chân lý logic hình thức tuyệt đối, độc lập với thế giới hiện thực xung quanh, và tin rằng với những phương pháp nghiên cứu đúng đắn, trước sau họ cũng sẽ tìm ra những chân lý tuyệt đối đó. Nhưng Einstein, với trực giác siêu việt, ngay từ đầu đã không tin họ, không tin vào tham vọng ngông cuồng của họ, không tin vào hệ thống toán học thuần lý bất chấp thực tiễn của họ, và lịch sử đã đứng về phía Einstein! Chẳng riêng Einstein, một vĩ nhân khác mà tài năng chẳng kém gì Einstein là Henri Poincaré, người được coi là Mozart của Toán Học, cũng chống đối quyết liệt thứ toán học sính hình thức đó. Nhưng than ôi! Sức ỳ của bộ não cũng “vĩ đại” chẳng kém gì sức sáng tạo của nó: Bất chấp những người như Einstein và Poincaré, tư tưởng sính hình thức trong giới toán học, và đặc biệt trong giới giảng dạy toán học, vẫn cứ tiếp tục sống dai dẳng cho đến tận hôm nay. Nếu đọc giả để ý quan sát, sẽ chẳng mấy khó khăn để nhận thấy bóng dáng những loại toán học này trong hệ thống giáo dục hiện nay. Đó là hậu quả tàn dư của thứ toán học hình thức mà Einstein và Poincaré chán ghét. Đó là lý do để nhiều học giả trên thế giới ngày nay phải lên tiếng cảnh báo: Hãy tỉnh táo để nhận thức nguyên lý giới hạn của nhận thức! Trong bối cảnh đó, tích “Thầy Bói Xem Voi” tất yếu mang ý nghĩa thời sự và được làm sống lại một cách sinh động dưới nhiều hình thức, điển hình là những “mô hình bất khả” (Impossible Models), hay những “cấu trúc phi lý” (Inconsistent Structures). 4] Mô Hình Bất Khả: Điển hình của những mô hình này là Tam Giác Penrose hoặc Bậc Thang Penrose của Sir Roger Penrose, một trong những nhà vật-lý-toán-học lớn nhất ngày nay. Ông có những đóng góp vô cùng đa dạng trong vật lý và toán học, đoạt rất nhiều giải thưởng danh giá bậc nhất về vật lý và toán. Cùng với Stephen Hawking, ông được coi là một trong những tác giả của Lý thuyết về hốc đen, như Wikipedia nhận định: “Công trình sâu sắc của ông về tính Tương Đối Tổng Quát đóng vai trò chủ yếu trong nhận thức của chúng ta về các hốc đen”. Nhưng khác với Stephen Hawking, ông không mấy tin tưởng vào khả năng “Hiểu được ý Chúa” của Einstein trước đây và của Hawking hiện nay. Bản thân những “mô hình bất khả” của ông đã nói lên điều đó. Ngắm kỹ hai mô hình trên, dễ nhận thấy chúng chỉ “khả dĩ” (possible) hoặc “hợp lý” (consistent) trong từng cục bộ (local part), nhưng “bất khả” (impossible) hoặc “phi lý” (inconsistent) trên tổng thể (the whole), đúng như triết lý của “Thầy Bói Xem Voi”: Mỗi anh đúng một phần, Nhưng đều sai tất cả! Tuy nhiên sẽ là bất công nếu gán cho các nhà khoa học công lao sáng tạo ra những “mô hình bất khả”. Chính các hoạ sĩ mới là những người đi tiên phong trong lĩnh vực này. Hãy ngắm bức tranh sau đây: Đó là cấu trúc “Cầu thang bất khả” (Impossible Staircase) cuả hoạ sĩ Thụy Điển Oscar Reutersvard (1915-2002) được vẽ từ nửa đầu thế kỷ 20! Với hàng trăm mô hình tương tự, Reutersvard được coi là cha đẻ của ngành “hội hoạ ảo ảnh” (Illusionary Art), và chính hội hoạ đó đã tạo cảm hứng cho Penrose sáng tạo ra những mô hình của mình. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, từ khi những nhà khoa học lớn như Penrose sử dụng các mô hình bất khả để nói lên nguyên lý bất khả trong việc nhận thức CÁI TOÀN BỘ, thì nguyên lý này mới được nhìn nhận một cách thực sự nghiêm túc, không chỉ dưới hình thức văn chương, nghệ thuật, hoặc triết học, mà ngay cả trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Điều này rất có lợi cho cuộc sống, vì nó hướng khoa học vào những công trình thực dụng hơn, thiết thực hơn. Sự chuyển hướng này bộc lộ rất rõ trong những Giải Nobel khoa học từ cuối thế kỷ 20 tới nay (trước đây thường dành cho những đề tài thuần tuý lý thuyết). Tóm lại, đã có một sự bừng tỉnh về nhận thức đối với triết lý “Thầy Bói Xem Voi”. Để cảm nhận được điều đó, bạn chỉ cần ngồi vào computer rồi gõ “impossible models”, hoặc “artistic illusions”, “inconsistent art”, v.v. bạn sẽ có hàng trăm, hàng nghìn mô hình “bất khả” kỳ lạ khác nhau, trong đó rất nhiều mô hình vừa được công bố chỉ vài ngày trước khi bài báo này đến tay bạn. Điều đó nói lên rằng chủ đề này nóng hổi đến chừng nào. Tuy nhiên, nếu bạn thật sự muốn biết các nhà khoa học và giáo dục ngày nay nghĩ gì về triết lý “Thầy Bói Xem Voi”, xin bạn hãy đọc ngay một cuốn “best-seller” của năm 1998: “What is Mathematics, Really?” (Thực ra Toán Học là gì?) cuả Reuben Hersh, một nhà toán học rất nổi tiếng ở Mỹ, trong đó tác giả đã dẫn nguyên văn truyện Sáu anh mù ở xứ Indostan để nói về một “giấc mơ vĩ đại” của các nhà toán học trong thế kỷ 20 – Giấc mơ tìm thấy “Con Voi Toán Học”! 5] Thay lời kết: Câu chuyện về giấc mơ tìm kiếm Con Voi Toán Học là một trong những chương có ý nghĩa nhất và quan trọng nhất trong lịch sử toán học – quan trọng đến nỗi nếu không biết gì về nó thì không những sẽ vô cùng thiệt thòi vì đã bỏ qua một trong những chương hay nhất, hấp dẫn nhất của lịch sử khoa học, mà còn có nguy cơ bị thiếu hụt một bài học vô giá về khoa học nhận thức và khoa học giáo dục. Sự thiếu hụt ấy sẽ dẫn tới hậu quả không hiểu rõ bản chất của toán học, và do đó sẽ áp dụng một phương pháp sai lầm trong giảng dạy toán học. Đó chính là điều Reuben Hersh muốn nói, và cũng là điều mà loạt bài viết về chủ đề “Thầy Bói Xem Voi” muốn nói. Quả thật là đang tồn tại tình trạng hiểu sai bản chất toán học, và đó là lý do căn bản dẫn tới tình trạng “dạy giả” và “học giả” tràn lan: Chưa bao giờ tình trạng học sinh không hiểu Toán, đối phó với Toán, chán Toán, sợ Toán, … ngày càng trở nên phổ biến như hiện nay. Công bằng mà nói, tình trạng này không chỉ xẩy ra tại Việt Nam, mà đã từng xẩy ra ở ngay tại một số quốc gia phát triển, khi những quốc gia này áp dụng một phương pháp dạy Toán mà họ tưởng là “mới”. Nhưng lịch sử giáo dục đã chứng minh rằng những phương pháp gọi là “mới” đó thực chất chỉ là sản phẩm của một tham vọng không tưởng – tham vọng tìm kiếm Con Voi Toán Học. Chính vì không tưởng nên nó đã đổ vỡ tan tành! Tại sao một tham vọng đã đổ vỡ mà vẫn còn ảnh hưởng đến nền giáo dục hôm nay? Đó là một ẩn số cần được trả lời, và sẽ được trả lời trong bài kỳ sau: “Con Voi Toán Học & Chiếc Chén Thánh của Chủ Nghĩa Hình Thức”. Sydney ngày 01 tháng 01 năm 2009 Phạm Việt Hưng [1] Nghĩa đen là chiếc chén Chúa Jesus dùng trong bữa tiệc ly với các môn đệ, trước ngày Chúa bị hành hình. Nhưng trong nền văn hoá Tây phương hiện đại, thuật ngữ này thường được dùng với ý bóng, ám chỉ một tham vọng rất lớn lao nhưng không dễ gì đạt được, thậm chí chỉ là một giấc mơ không tưởng và con người không bao giờ với tới. [2] Dẫn theo cuốn “Impossibility” của John Barrow. [3] Thí dụ như Reuben Hersh ở Mỹ và Michio Kaku ở Nhật Bản. [4] Indostan là một tên gọi cổ được sử dụng nhiều trong các thế kỷ 17, 18, 19, để gọi một vùng địa lý mà ngày nay ta gọi là Nam Á, bao gồm Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives, Bhutan và Nepal (những quốc gia nói chung có khí hậu nóng và chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ). [5] Trích bài của La Thiếu Bình, nhan đề “Ý nghĩa sâu xa của truyện Người Mù Sờ Voi”, Khoa Học & Tổ Quốc tháng 08-2009. [6] Nguyên văn: “Science may set limits to knowledge, but should not set limits to imagination” [7] Xem “Phương trình của Chúa” của Phạm Việt Hưng trên Khoa Học & Tổ Quốc, số 3+4/2005 [8] Nguyên văn: “I don’t believe in Mathematics”. Xem “Impossibility” của John Barrow. nguồn: http://viethungpham.wordpress.com
  19. Ðối thoại giữa đức Phật và gã chăn cừu "Gã chăn cừu: - Bữa ăn ta đã sẵn, ta đã vắt xong sữa cừu. Cửa chòi ta đã khóa, lửa ta đã nhóm. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được! Ðức Phật: - Ta không cần thức ăn và sữa uống. Gió là căn chòi của ta, lửa ta đã tắt. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được! Gã chăn cừu: - Ta có cừu, có bò cái, ta có những cánh đồng ông cha ta để lại, và một con bò đực ấp ủ những con bò cái. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được! Ðức Phật: - Ta không có bò đực, bò cái. Ta không có cánh đồng. Ta không có gì. Ta không sợ gì. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được! Gã chăn cừu: - Ta có một nàng chăn cừu dễ bảo và trung thành. Từ nhiều năm nay, nàng là vợ của ta, và ta sung sướng chơi đùa buổi tối với nàng. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được! Ðức Phật: - Ta có một tâm hồn dễ bảo và tự do. Từ nhiều năm nay ta rèn luyện nó và tập cho nó chơi đùa với ta. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!"
  20. Yêu công khai Hai mươi nhà sư và một ni cô tên Eshun học thiền với một thiền sư. Eshun rất đẹp dù là đầu của ni cô đã cạo và áo cà sa rất thường. Vài vị sư thầm yêu nàng. Một vị viết cho nàng một lá thư tỏ tình, xin được gặp riêng nàng. Eshun không trả lời. Ngày hôm sau thiền sư giảng bài cho cả lớp, và khi thầy giảng xong, Eshun đứng dậy. Nhìn người đã viết thơ tỏ tình cho mình, Eshun nói: “Nếu thực sự anh yêu tôi rất nhiều, hãy đến đây và ôm tôi.” Vâng lời Các buổi thuyết giảng của thiền sư Bankei thu hút không chỉ thiền sinh mà đủ mọi hạng người của mọi giáo phái. Thiền sư chẳng bao giờ nhắc đến kinh kệ hay dùng các lý luận khoa bảng, mà chỉ nói trực tiếp từ quả tim đến thẳng quả tim của người nghe. Một nhà sư của giáo phái Nichiren bực tức vì đám đông đến nghe thiền sư Bankei và vì một số tín đồ của nhà sư đã bỏ sư mà đi nghe Bankei giảng. Vị sư Nichiren tự ái, đi đến chùa, nhất định phải tranh luận với Bankei. “Ê, thiền sư!” vị sư Nichiren gọi. “Đợi một tí. Ai kính trọng ông sẽ vâng theo lởi ông, nhưng người như tôi không kính trọng ông. Ông có thể làm tôi vâng lời ông không?” “Đến bên cạnh tôi và tôi sẽ chỉ cho ông,” Bankei nói. Nhà sư Nichiren hãnh diện bước qua đám đông đến cạnh thiền sư. Bankei smiled. “Qua bên trái tôi.” Vị sư làm theo. “Không,” Bankei nói, “chúng ta nói chuyện dễ hơn nếu anh đứng bên phải. Bước qua đây.” Nhà sư hãnh diện bước sang bên phải. “Anh thấy không” Bankei nhận xét, “anh đang vâng lời tôi và tôi nghĩ rằng anh là một người rất hiền dịu. Bây giờ, anh ngồi xuống đây và nghe.” sưu tầm
  21. Thiên Đồng
  22. @Hânyuki Chữ ký 1A thì được nên chọn, sẽ khá tiền và thăng tiến. @trung hiếu 1810 Tính khuôn phép, nói năng sắc bén, nhưng chí khí uất, dễ bệnh phổi, hay lo. Không nên để nét gạch ngang tạo góc ở nét T đầu mà bo tròn góc lại. Làm cho có độ cong trơn hơn thì tốt. Thiên Đồng
  23. Thiên Đồng
  24. Chúc được như ý nhé.Thiên Đồng