-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Tặng ThanhTrang 8 chữ vàng "Kiên trì - nhiệt tình - khiêm tốn - đảm đang" và 8 chữ ngọc "thông minh - nghĩa tình - tham vọng - cầu tiến". Càng ngày trình độ luận của ThanhTrang càng lên tay. Còn LacTuong thật ra cũng chỉ lẹt đẹt thôi, lại lười luyện, lại tẩu hỏa nữa. Hic
-
Gửi ThanhTrang mong các bạn giải đáp giúp mình liệu đến khi nào thì mình có người yêu? Theo quẻ TỬ TIỂU CÁT, "Cái chết của con Thiên Nga", e rằng không được như ý của Thanhtrang. ThanhTrang hửu tình nhưng người ta không có ý. Hic Hóa giải là...vẫn giữ ở mức tình bạn.
-
ủa, dậy à! Lạc Tướng nhầm thiệt rồi. Lạc Tướng trở thành Lạc tương rồi. hic. mà Lạc tương cũng ngon chứ bộ! Sư tỷ Laviedt sáng suốt thiệt. Mai theo dõi tiếp. hihi
-
Họ Tên: Thiên Sứ Mạng: Âm Nam Sinh: ngày Kỷ mùi 5 tháng Quý Dậu 8 năm Kỷ Sửu 2 giờ Thìn 5 Mệnh: Trường Lưu Thủy Cục : Mộc 3 1. Cung MỆNH: Bệnh 3 Tị - Thương Tiểu Cát "Niềm vui héo úa" Mộc lâm bệnh, bị đốt trong Hỏa tị, nhưng trường sinh ở mệnh. Cuộc đời như cây úa tàn, gian nan sinh tồn, vươn lên lao lực cuối cùng được hồi sinh như phép màu nhưng vẫn là gian nan. Tiểu cát: Dương Mộc, mộc lớn khô nước, tướng cao ráo, hơi gân guốc, hơi lộ cốt. Thích văn chương sách vở, thơ phú. Thương: Âm mộc, củi tươi, người trọng tình cảm, hướng nội. Hay lo nghĩ xa sôi, hay nghi ngờ. 2. Cung PHỤ : Tử 13 Thìn - Sinh Xích Khẩu "Bụi cây rào sắt" Kim lâm tử, thìn thổ sinh vượng khắc mộc Sinh. Không hạp phụ mẫu, ở gần có bất đồng. đi xa mà được lợi. 3. Cung PHÚC : Mộ 23 Mão - Hưu Tốc Hỷ " Phúc muộn" Hỏa lâm mộ, được sinh bởi hưu mão. Hưởng phúc muộn mằng. Lợi cho thọ mạng, tử tôn, thê, hậu vận an nhiên. 4. Cung ĐIỀN : Tuyệt 33 Dần - Khai Lưu Niên " Nước động ao hồ" Lưỡng Thủy lâm tuyệt hưu ở dần, lâm trường sinh ở mệnh. Suốt đời lao khổ vì tài sản hậu vận mới an nhiên tự tại. Có bất động sản, nhưng thuộc loại khá. Chẳng phải lớn lao sung túc. 5. Cung Quan : Thai 43 Sửu - Kinh Đại An "Sấm rền đại mạc" Thổ lâm thai, Vượng ở sữu sinh cho Kinh, nhưng hưu ở mệnh. Quan quyền vô vị, nhưng tạo được sự nghiệp vững vàng, vang danh trong giới. Tự thân tự lực, cô độc như sấm vang giữa sa mạc không ai nghe. Kinh: thầy, Đại an: đất đai. Thầy phong thủy hoặc hợp việc kinh doanh nhà đất mà kết phát. 6. Cung Nô : Dưỡng 53 Tí - Tử Vô Vong "Kẻ dưới vô dụng" Thổ lâm Dưỡng hưu ở kim tù ở Tí, Kẻ dưới không giúp được việc lớn, bạn bè không hiểu được sự nghiệp, vợ con không thể trợ giúp. 7. Cung Di : Trường Sinh 63 Hợi - Cảnh Tiểu Cát. "Tha phương được thực" Mộc lâm trường sinh, hợi phù trợ, sinh Hỏa vượng tướng. Đi xa được lợi. Lập nghiệp phương xa. Có thể xuất ngoại du lịch hoặc vì công việc. 8. Cung Tật: Mộc Dục 73 Tuất - Đỗ Xích Khẩu "Tinh thần bất định" Kim lâm mộc dục thổ sinh, hỏa hưu, Kim hưu ở mệnh. Bệnh liên quan đến đầu, thần kinh (nhứt đầu?), cũng nên chú ý đến mạch máu và tim. 9. Cung Tài: Quan Đới 83 Dậu - Thương Tốc Hỷ "Sầu lo dư dật" Hỏa lâm quan đới, Mộc sinh, khắc kim, hưu ở mệnh. Bương chải ở phương xa mà được tài lộc, đủ, nhưng lo dư dật, vì nghĩ chuyện xa xôi. 37-38 tuổi tài lộc kết phát mạnh, sự nghiệp đi lên. 11. Cung Tử: Lâm Quan 93 Thân - Sinh Lưu Niên "Lau lách bên sông" Thủy lâm lâm quan sinh mộc bại ở thân, phụ trợ bởi mệnh. Con cái khôn lanh, hay cãi cha mẹ. Có từ 3-4 con, 3 đứa khá, một đứa gian nan hoặc chết từ khi mới sinh. 12. Cung Thê: Vượng - Mùi - Hưu Đại An " Nội tướng nội trướng" Thổ lâm Vượng, lâm mùi khắc Thủy, hưu ở mệnh. Vợ có tính bảo thủ, thích quản lý, nắm quyền, nhưng thiếu óc mạo hiểm nên chỉ quản lý gia đình. Gia trưởng. 13 Cung Thân đồng cung Quan Hậu vận từ 43 tuổi trở đi vững vàng trong sự nghiệp. Những ý này mang tính đại cương. Rất mong ý kiến của Sư phụ Thiên Sứ.
-
Đây là một ý, một thể nghiệm nhằm phát triển môn Lac Việt Đôn Toán. Nếu tốt được phần nào thì hay phần đó. Mong Sư phụ thiên Sứ chỉ giáo thêm và các đồng môn khác cùng tham cứu. Họ Tên: Thiên Sứ Mạng: Âm Nam Sinh: ngày Kỷ mùi 5 tháng Quý Dậu 8 năm Kỷ Sửu 2 giờ Thìn 5 Mệnh: Trường Lưu Thủy Cục : Mộc 3 1. Cung MỆNH: Bệnh 3 Tị - Thương Tiểu Cát "Niềm vui héo úa" 2. Cung PHỤ : Tử 13 Thìn - Sinh Xích Khẩu "Bụi cây rào sắt" 3. Cung PHÚC : Mộ 23 Mão - Hưu Tốc Hỷ " Phúc muộn" 4. Cung ĐIỀN : Tuyệt 33 Dần - Khai Lưu Niên " Nước động ao hồ" 5. Cung Quan : Thai 43 Sửu - Kinh Đại An "Sấm rền đại mạc" 6. Cung Nô : Dưỡng 53 Tí - Tử Vô Vong "Kẻ dưới vô dụng" 7. Cung Di : Trường Sinh 63 Hợi - Cảnh Tiểu Cát. "Tha phương được thực" 8. Cung Tật: Mộc Dục 73 Tuất - Đỗ Xích Khẩu "Tinh thần bất định" 9. Cung Tài: Quan Đới 83 Dậu - Thương Tốc Hỷ "Sầu lo dư dật" 11. Cung Tử: Lâm Quan 93 Thân - Sinh Lưu Niên "Lau lách bên sông" 12. Cung Thê: Vượng - Mùi - Hưu Đại An " Nội tướng nội trướng" 13 Cung Thân đồng cung Quan
-
Bây giờ là 10h37 ở Tp HCM, trời đang mưa tầm tả đươc gẩn nửa giờ. ở Đồng Nai trời nắng. Vậy Các vùng miền Nam không mưa,có nắng đẹp.Laviedt vô vọng /thổ khắc hưu /thủy cho thấy khả năng sẽ không có mưa, dông lớn vào ngày này nhưng có thể có mưa, dông nhỏ nhanh chóng chấm dứt "hưu". trời âm u, khí hậu mát dịu không có nắng gay gắt khả năng xảy ra mưa ở những vùng đất ngoại ô, hẻo lánh "vô vọng" hoặc diễn ra vào những giờ "hưu" như chiều tối, khua, hoặc giữa trưa "noon".ThanhTrang Ngày 1/5/2008 DL, có gió nhẹ và mưa rào cuối hôm 21g00 đến 23g00, giông sấm vào chiều từ 15g00 đến 19g00 nhưng không mưa. Ban ngày trời đẹp, du lịch thuận tiện. Nhiệt độ thấp hơn bình thường một ít, có khí lạnh.Mong rằng đúng để hôm đó đi chơi vui vẽ. hihi :P :P LacTuong Các dự báo đều sai. Hic hic
-
gợi ý cho bạn 2710 đổi cái avatar khác đi. Nhìn thấy u ám quá. Không tốt. Thường ngày nếu có trang điểm thì trang điểm nhẹ và sáng cho thấy tươi trẻ chút.
-
Nhờ các đồng môn LVDT đoán tính cách và cuộc đời của Nam Mạng này xem sao: Sinh: 25/8/1955 DL truy ra AL là 8/7/1955 lúc 13h40 Yêu cầu: thử vận dụng Lạc Việt Độn Toán để đoán vận-mạng. Với tinh thần cầu học, LacTuong cảm ơn trước.
-
Hôm nay Lactuong đi khám bệnh. Siêu âm thì được kết quả là tất cả đều bình thường. Bác sĩ cũng ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng thì họ cũng cho ra một kết quả và kê toa. Hỏi: LacTuong có bệnh không? Nếu có thì đau ở vị trí nào trên cơ thể? Thật sự thì đau ở phủ tạng nào? Bệnh gì? Nhờ các đồng môn ra tay xủi quẻ. :P
-
Thứ Hai, 28/04/2008, 07:18 (GMT+7) Gặp gỡ đầu tuần: Sẽ dập tắt "sốt" gạo trong một vài ngày tới Ông Trang Hiếu Dũng (vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn): Các biện pháp điều tiết sẽ sớm có tác dụng Nhìn vào yếu tố cung cầu, chúng tôi thấy tình hình vẫn bình thường. VN hoàn toàn không thiếu gạo tính đến thời điểm hiện tại. Tất nhiên, khi đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), VN sẽ chịu ảnh hưởng của giá cả thế giới. Và giá tăng thời gian gần đây chủ yếu là kỳ vọng vào mức giá mới "ăn theo" giá thế giới tăng. Nhưng Chính phủ đã yêu cầu tạm dừng xuất khẩu nên giá trong nước và giá thế giới chưa thể liên thông trực tiếp. Chính phủ cũng như Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã nhìn trước được tình hình và đã có giải pháp bình ổn dài hạn. Chính phủ yêu cầu tạm thời không ký hợp đồng mới để đảm bảo an ninh lương thực trong nước cũng như tránh thiệt thòi khi doanh nghiệp VN ký bán gạo với giá thấp. Điều này cũng để giữ giá gạo trong nước không tăng. Với tất cả yếu tố về cung cầu, theo tôi, tình hình hiện nay vẫn hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Để đối phó với tâm lý khan hiếm cục bộ, với lượng thóc còn dồi dào trong dân, các biện pháp điều tiết sẽ sớm có tác dụng. C.V.Kình ghi * GS.TS Võ Tòng Xuân: Chính sách về lúa gạo không nên làm như với xăng dầu Khi giá lúa gạo có dấu hiệu tăng, bọn đầu cơ bắt đầu tích trữ chờ giá cao khiến xảy ra tình trạng khan hiếm ảo. Từ đó người dân ở thành thị tưởng thiếu gạo ăn nên chạy đi mua. Và như thế, doanh nghiệp tha hồ làm giá khiến giá gạo càng bị đẩy lên cao. Chính sách về lúa gạo không nên làm như với xăng dầu. Với xăng dầu, doanh nghiệp có bao nhiêu lít với giá cũ Nhà nước có thể không biết, để cho họ bán theo giá mới hết. Nhưng với lúa gạo thì các địa phương nắm rất rõ. Tỉnh nào cũng biết mình có bao nhiêu diện tích trồng lúa, sản lượng bao nhiêu trong từng thời điểm nhất định. Do đó lúc này trước hết phải có một lệnh cấm đầu cơ tích trữ và đưa ra những biện pháp xử lý nặng đối với doanh nghiệp, cá nhân tích trữ. Sau đó tiến hành kiểm tra một số công ty lương thực, nếu vi phạm sẽ xử lý nghiêm. Vĩ mô hơn, Nhà nước cần nối lại việc xuất khẩu gạo, vừa hạn chế nạn đầu cơ, vừa góp phần bình ổn giá gạo trong nước. Minh Giảng ghi Công điện của Thủ tướng Chính phủ:Xử lý nghiêm việc đầu cơ lúa, gạo Ngày 27-4, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công điện nêu rõ: sản lượng lương thực của nước ta năm 2008 hoàn toàn có khả năng bảo đảm đủ cho tiêu dùng trong nước và dành một phần cho xuất khẩu. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các công ty kinh doanh lương thực tiếp tục mua lúa, gạo theo kế hoạch và theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm tiêu dùng và xuất khẩu; cung ứng gạo ổn định cho các khu vực trong nước, không để xảy ra tình trạng khan hiếm cục bộ. Bộ Công thương và Hiệp hội Lương thực VN điều hành việc xuất khẩu gạo, không để xảy ra tình trạng mất cân đối lương thực trong nước và bảo đảm lợi ích của nông dân. Thủ tướng chỉ thị: nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân không có chức năng kinh doanh lương thực mua vét đầu cơ lúa gạo; các trường hợp vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm. Tại cuộc giao ban trực tuyến với các bộ ngành và tám UBND các tỉnh thành ngày 27-4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đặc biệt lưu ý chỉ đạo Chủ tịch UBND TP.HCM Lê Hoàng Quân về vấn đề giá lúa gạo đang "sốt" cao, khan hiếm giả. Cụ thể, TP.HCM phải thực hiện hai nhiệm vụ khẩn cấp nhằm tháo gỡ tình hình: thông tin đầy đủ tới nhân dân và doanh nghiệp rằng VN không thiếu lúa gạo mà còn dư thừa để xuất khẩu; thứ hai là TP.HCM phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống tình trạng đầu cơ, buôn lậu lúa gạo vì hiện giá gạo của VN vẫn thấp hơn so với bình quân các nước xung quanh. Tuy có những khó khăn nhất định nhưng chắc chắn không thể để đồng bào dù ở nơi nào phải thiếu gạo, đói ăn... TP.HCM: không có chuyện thiếu gạo Chiều 27-4, Phó chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thị Hồng cho biết đã có công văn khẩn gửi đến UBND tất cả các quận huyện về việc triển khai bình ổn thị trường do giá gạo tăng đột biến. "UBND TP khẳng định với người dân là sẽ không có chuyện thiếu gạo, nên rất cần sự bình tâm của bà con, không nên đổ xô mua gạo tích trữ, tránh làm lợi cho những người đầu cơ, đầu nậu làm giá giá gạo" - bà Hồng nhấn mạnh. Ngay trong chiều 27-4, bà Hồng khẳng định có khoảng 2.000 tấn gạo được tung ra thị trường thông qua các hệ thống kinh doanh thương mại trên khắp địa bàn TP để kịp thời bình ổn thị trường. Các lực lượng kiểm tra liên ngành, chi cục QLTT các quận huyện đã được yêu cầu đẩy mạnh kiểm tra, kiểm soát tình trạng đầu cơ, thu gom, tăng giá bán gạo ngay trong sáng 27-4. Chiều 27-4, ông Nguyễn Ngọc Hòa - tổng giám đốc Saigon Co-op - cho biết sau cuộc họp khẩn với UBND TP trong buổi sáng cùng ngày, tất cả các siêu thị trong Saigon Co-op đã được "bơm" gạo để cung ứng cho người tiêu dùng bằng lượng gạo dự trữ sẵn có. Song song đó, Công ty Lương thực thực phẩm TP.HCM và Công ty TNHH Vinh Phát cũng đã đồng ý "rót" cho Saigon Co-op lượng gạo ban đầu khoảng 2.000 tấn để tiếp tục duy trì lượng cung cần thiết cho người dân TP trong thời gian tới. Trả lời Tuổi Trẻ về việc vì sao vẫn duy trì định mức bán 10kg gạo/người/lần mua, ông Hòa khẳng định "để tránh tình trạng đầu cơ” và "nếu tình hình thị trường bớt căng thẳng, chúng tôi sẽ không áp dụng định mức này nữa và bán gạo như bình thường". Chiều 27-4, theo điều động của Tổng công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2), một thành viên của đơn vị này tại Tiền Giang đã vận chuyển 50 tấn gạo tới TP.HCM để cung cấp cho hệ thống siêu thị Co-op Mart. Ông Trương Thanh Phong - tổng giám đốc Vinafood 2 - cho biết trong ngày 28-4 đơn vị này sẽ làm việc với UBND TP về việc cung ứng gạo cho TP.HCM. Đối với các tỉnh trong khu vực, theo ông Phong, nếu lãnh đạo địa phương liên hệ và thông báo nhu cầu, Hiệp hội Lương thực VN và Vinafood 2 sẽ điều động doanh nghiệp thành viên đưa hàng đến cung ứng ngay. Q.Thiện - N.Bình - V.Nghi - Đ.Phúc - Website Chính phủ ĐÌNH PHÚC thực hiện
-
Phải chăng đây là phép bói mu rùa? Có thể là người Việt đã dùng sách vở (văn tự ghi trên mu rùa) của Văn minh Lạc Việt mà tính chuyện xây dựng, kiến trúc? Phải chăng ý nói về phong thủy Lạc Việt?
-
Thông tin trên đài truyền hình HTV7 vào khoản 23h45, một viên chức nhà nước và một vài vị nữa khẳng định Việt Nam không hề thiếu gạo. Những thông tin trên thị tường có xu hướng bất lợi cho giá gạo là những thông tin giả nhằm nâng giá gạo, nhằm trục lợi do những kẻ đầu cơ bày ra.
-
Câu hỏi: Cả nước có mưa rào và dông trong ngày 1/ 5 - 2008 không? Ngày Đinh Dậu 22 tháng Bính thìn Năm Mậu Tý 2008 Giờ tân Hợi Quẻ cảm ứng KINH TIỂU CÁT Ngày 1/5/2008 DL, có gió nhẹ và mưa rào cuối hôm 21g00 đến 23g00, giông sấm vào chiều từ 15g00 đến 19g00 nhưng không mưa. Ban ngày trời đẹp, du lịch thuận tiện. Nhiệt độ thấp hơn bình thường một ít, có khí lạnh. Mong rằng đúng để hôm đó đi chơi vui vẽ. hihi :P :P LacTuong
-
Lên đồng, thường là mượn đạo tạo đời và buôn thần bán thánh mà thôi. Nhắn Phoenix, bài trích đưa lên có đoạn "hồi ký Phạm Duy"...Xin hỏi có phải là nhạc sĩ Phạm Duy không? Nếu đúng con người này thì tôi kiến nghị với Phoenix là nên tẩy chay. Vì con người này không đáng tin và không đáng trọng. Từ Á sang Âu, Mỹ ai ai cũng biết nhân cách và đạo đức con người này thấp hơn cả một người bình thường và vô danh. Nếu ý kiến này có gì gây sốc, Ban quản trị có thể xóa bài. Cảm ơn. Lạc Dân.
-
Hoang tưởng và sai lầm quá lớn. Miễn bàn!
-
Cái chuyện "Linh tinh tình phuộc" này thì ngày xưa LacTuong cũng đã đọc trong một cuốn...lâu quá không nhớ rỏ tựa của một thư viện, nay tìm lại thì không thấy. Sách nói về toàn phong tục này ở từng vùng của miền Bắc. Sách viết rằng có những nơi tổ chức lễ "tắt đèn", nghĩa là sau khi lễ tế vừa xong, cả đình làng đều tắt đèn tối thui, thanh niên trai gái, mụ cô, ông chú...đều có cả, vậy là ai vớ được ai thì "tình phuộc" tại chổ hay ở đâu đó. Cũng có khi chàng trai bắt phải mụ góa, ông già chộp phải gái tơ. Sau buổi ấy nếu cô nào có thai thì làng không bắt vạ mà còn được làng cho tiền nuôi. Có nơi "tình phuộc" diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, trên ruộng dưới đồng, trong lùm trong bụi. Người cho rằng lúc ấy là lúc thiên, phù sinh mùa màng tươi tốt. Con sinh ra diệp này là con trời. Cũng có nơi kết hợp việc tổ chức các trò chơi dân gian (dân thường là gian lắm!Hihi)có trò "bắt cá trong chum". Nghĩa là một nam một nữ cùng bắt cá. Có điều, không bắt theo bình thường. Quy định là người nữ vòng tay sau lưng người nam,tay còn lại thì bắt cá trạch. Người nam thì tay cũng bắt cá, tay kia cũng vòng sau lưng nữ nhưng bàn tay vòng ra phía trước và bóp...hihi. Vừa bắt vừa bóp. Có khi mê bóp mà quên bắt. Còn người nữ thì...hihi bắt cũng hong xong. hihi Sau lại, các tục này ở từng địa phương bị bỏ dần đến mất hẳn. Người sau cho tục ấy là xấu hổ nên có ai hỏi đến đều chối phăng là không có. Nay lục lọi lại quá khứ thấy cũng thú vị cho văn hóa phồn thực của dân tộc, nhưng chớ mong rằng sẽ phục hồi vì nó cũng thuộc một thứ hũ lậu, ẩn chứa một quan niệm ngay thơ ấu trĩ
-
QUẺ CẢM ỨNG TRONG LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN Lạc Việt Độn Toán (LVDT) là môn học tiên tri mới mẽ, được phục dựng lại ,bởi sư phụ Thiên sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh, từ những "mãnh vỡ" tri thức của nền văn hiến Lạc Việt còn sót lại rải rác và không hoàn chỉ trong mạch ngầm văn hiến Việt Nam. Chỉ với 48 quẻ, LVDT mang tính chất của một môn tiên tri nguyên thủy, đơn giản, nhưng có tính bao quát rất cao và sâu, phản ánh những trạng thái tồn tại khác nhau của thực tại mà sợi dây liên kết giúp người vận dụng môn tiên tri này là sự "Cảm Ứng". Khi tâm trạng người đoán quẻ nổi lên mối quan tâm về những điều muốn tiên tri ở một thời điểm xác định, trong một hoàn cảnh xác định thì đó gọi là "Cảm". Khi hoàn cảnh "đáp lời" lại bằng những sự vật hiện tượng mang tính chất bất ngờ, kỳ lạ, quái dị...thì đấy gọi là "Ứng", dân gian gọi là "Điềm". Trong hoàn cảnh đó, người đoán bắt kịp cái gọi là "điềm" để lập nên một quẻ thì đó gọi là tượng bốc. Phương pháp lập quẻ cảm ứng (tượng bốc) trong LVDT cũng giống như ở các môn tiên tri khác như chu dịch, Mai Hoa, Thái Ất...nhưng chỉ khác nhau về việc quy về tượng quẻ. Sự cảm ứng là điểm gặp nhau giữa các môn tiên tri, cũng là sự mặt thuận lợi, ưu điểm của LVDT. (chưa hết)
-
Mùa hè năm nay có nóng khác thường không? Hè này nhiệt độ không quá cao. (Lưu niên) Nắng đẹp thường hay có mưa rào. (kinh) Du lịch cứ đi về vùng biển. Muốn lạnh thì lên vùng núi cao. LacTuong :lol:
-
Ngày Quí Tị tháng Bính thìn năm Mậu Tí giờ Thìn Cảm quẻ KINH XÍCH KHẨU Câu 1: Dịch tả ở Việt Nam sẽ diến tiến thế nào? Tình hình dịch tả sẽ diễn tiến ở mức báo động trong tháng 3 này, kéo dài đến hết tháng 3, giảm nhiều ở tháng tư và bị khống chế ở tháng 5 AL. Tuy diễn tiến của dịch bệnh diễn ra khá phức tạp và lang rộng, nhưng trong năm may dịch tả không ở mức độ cực nguy hiểm. Xu hướng dịch tả sẽ phát triển và lan tỏa ở các tỉnh phía Tây và Tây Bắc của Bắc Bộ. Mức độ lan tỏa nhanh và rộng. Câu 2: Bao giờ dịch tả có thể chấm dứt? KHAI TIỂU CÁT Dịch tả có thể tái phát trở lại vào tháng 8 AL, và bị khống chế, chấm dứt vào tháng 9. Tháng 10,11 không còn lo ngại nữa. Câu 3: Sẽ có bao nhiêu người phải thiệt mạng trong đợt dịch năm nay? HƯU VÔ VONG Nhìn chung, tình hình dịch gây chấn động, nhưng thiệt hại nhân mạng không nhiều, có thể tổng kết số co tử vong trong vòng 1-10 trường hợp. Nhưng khả năng ở con số 01. LacTuong :lol:
-
Tục ăn trầu xưa & nay 11:51' 29/08/2005 (GMT+7) Tục ăn trầu đã đến với dân gian ta từ thời vua Hùng dựng nước, được lưu lại qua một câu chuyện tình không vui của đôi anh em cùng huyết thống và cô thôn nữ hiền lành. Một thắm thiết muộn màng, nhưng từ đây mãi mãi bên nhau, với “trầu xanh, vôi đỏ, cau vàng” trong sự tích trầu cau. Đôi ta sang một con đò Nhìn quanh vắng khách trao cho miếng trầu Miếng trầu là đầu câu chuyện Với tổ tiên ta, miếng trầu đã trở thành một nghi lễ thân mật để mở đầu một giao tế, một dịch vụ. Phong tục nước Việt ta xưa, miếng trầu luôn đi đôi với lời chào: Tiện đây ăn một miếng trầu Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là Quí nhau mời trầu, còn ghét nhau thì "cau sáu bổ ra thành mười". Đặc biệt, xưa kia, "miếng trầu là đầu câu chuyện" giao duyên giữa đôi trai gái: Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh... Lân la điếu thuốc miếng trầu Đường ăn ở dễ chiều lòng bạn lứa Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời. Mời trầu mà không ăn thì trách móc nhau rằng "chiếu trải không ngồi": Đi đâu cho đổ mồ hôi Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn. Thưa rằng bác mẹ tôi răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người. Khi đã quen biết nhau, trai gái mượn miếng trầu để tỏ tình: Từ ngày ăn phải miếng trầu Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu. Một thương, hai nhớ, ba sầu Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi. "Có trầu, có vỏ, không vôi" thì làm sao cho môi đỏ được, khác chi "có chăn, có chiếu không người nằm chung". Cho anh một miếng trầu vàng Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm. Yêu nhau chẳng lấy được nhau Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già. ]Cho anh một miếng trầu vàng Chỉ có "ba đồng một mớ trầu cay" nhưng không vì thế mà trầu bị rẻ rúng, ngước lại: "miếng trầu nên dâu nhà người". Ngày nay ít ai ăn trầu nữa, nhưng theo phong tục khi gả chồng, ăn hỏi xong thì gia đình mang cau trầu sang biếu hàng xóm, bà con nội ngoại để báo hỷ. Miếng trầu, quả cau ngày nay trở thành tục lệ, tình tự dân tộc. Trầu cau là "đầu câu chuyện", là biểu tượng cho sự tôn kính, thường dùng trong các lễ hội, khi quan hôn tang tế... nên têm trầu cũng đòi hỏi phải có mỹ thuật. Lễ cưới phải có trầu têm cánh phượng, có cau vỏ trổ hoa... Ăn trầu thì mở trầu ra Một là "thuốc độc" hai là mặn vôi. Đó là tính thận trọng của các cụ ta xưa trước tập tục bỏm bẻm nhai trầu. Người được mời trầu, trước khi ăn đều mở ra coi. Xem vôi nồng nhiều ít. Còn "thuốc độc" thì... có lẽ cũng chỉ nói cho vui vậy thôi chứ trầu cau cũng là một ràng buộc đáng yêu: Đôi ta sang một con đò Nhìn quanh vắng khách trao cho miếng trầu Trầu cau nên thuốc, nhưng cũng dễ chuốc bệnh Ăn trầu với cau đưa tới ung thư Theo kinh nghiệm dân gian trầu có nhiều công dụng trị bệnh. Lá trầu hơ nóng, đắp lên rốn có thể trị được đau bụng, no hơi, ợ chua và sôi bụng. Vò nát lá trầu, bọc trong túi vải, nhúng nước sôi dùng nước này đánh gió rất tốt, trừ cảm mạo, ho thời tiết. Nấu lá trầu làm nước tắm có thể trị được ghẻ ngứa, rôm sẩy... Ngậm nước lá trầu trong miệng có thể làm giảm nguy cơ viêm răng lợi, nhờ hóa chất polyphenol tiêu diệt được vi khuẩn. Lá trầu không có chứa những thành phần giúp làm sạch da khi pha vào cùng với nước tắm. Lá trầu không có tác dụng khử trùng rất tốt, giúp cho cơ thể trở nên mát mẻ, sảng khoái. Có trầu thì phải có cau. Cau có vài chất tannin và alkaloid. Theo Đông y, cau có tính thông đại trường, hạ khí, được các cụ dùng để trị chướng khí, tả hạ, sát trùng. Uống hạt cau để trừ giun sán. Vỏ cau lợi tiểu... Nhai trầu cho thấy các cụ của ta xưa rất ít bị hư răng. Nhưng ăn trầu cũng có vài rủi ro. Vôi có thể làm phỏng niêm mạc miệng; nước trầu cay nồng khiến lệch lạc vị giác; tuyến nước bọt, niêm mạc miệng và cuống họng liên tục bị kích thích có thể gây ra các chứng ung thư. Tháng 8.2003, tổ chức y tế Liên Hiệp Quốc đã công bố kết quả nghiên cứu: ăn trầu vẫn đang thịnh hành ở một số quốc gia Đông Nam Á và một vài nơi khác. Đặc biệt, giới trẻ một vài nơi lại "tập tễnh" nhai trầu. Báo cáo xác định: ăn trầu với cau đưa tới ung thư miệng, cuống họng. Hàng năm trên thế giới có 390.000 trường hợp ung thư miệng thì đến 228.000 ca xảy ra ở Đông Nam Á. Riêng ở VN, nghiên cứu của nhóm bác sĩ bệnh viện Ung bướu TP.HCM, đưa ra tại hội thảo Phòng chống ung thư, cho thấy tỷ lệ nữ ăn trầu mắc bệnh ung thư nướu răng khá cao (chiếm 62% số bệnh nhân nữ). Điều đó chứng tỏ thói quen ăn trầu có thể là tác nhân liên quan đến tỷ lệ này. Đây cũng là điểm khác biệt làm tăng tỷ lệ nữ giới bị ung thư nướu răng ở nước ta, cũng như các nước châu Á nói chung so với các nước phương Tây. V.T
-
NGƯỜI XƯA NHẮN GÌ QUA CÂU TỤC NGỮ: "Gái thương chồng đương đông buổi chợ..." 11:26' 24/05/2007 (GMT+7) "Gái thương chồng đương đông buổi chợ; trai thương vợ nắng quái chiều hôm" là một câu tục ngữ (TN) ý vị. Vậy mà mãi tới giờ, giới nghiên cứu ở ta vẫn chưa nhất trí được với nhau về cái nghĩa đích thực của câu trên. Tại sao lại xảy ra tình trạng đó? Và làm thế nào để trả lời thoả đáng cho câu hỏi: người xưa muốn nhắn gửi gì cho con cháu qua câu tục ngữ ấy? Trước khi trả lời mấy câu hỏi đó, có lẽ chúng ta nên cùng nhau đọc lại lời diễn giải từng được trích dẫn nhiều nhất ở ta: lời diễn giải của sách Kể chuyện thành ngữ tục ngữ do GS Hoàng Văn Hành cùng các cộng sự biên soạn khá công phu và đã được in đi in lại nhiều lần kể từ ngày ra mắt tới nay. Theo sách trên, người xưa muốn nhắn gửi cho hậu thế ba điều: (1) "Phản ánh sự chênh lệch, bất bình đẵng trong quan hệ yêu thương vợ chồng. Tình cảm người phụ nữ bao giờ cũng đậm đà, đầy đặn, mặn mà như buổi chợ đương đông, bởi ngoài lí do giới tính ra, người phụ nữ còn chịu sự ràng buộc của tam tòng tứ đức. Ngược lại, tình thương yêu của người con trai đối với vợ thường nhạt nhẽo, thoáng qua, ví như nắng quái chiều hôm le lói một lát rồi tắt ngấm khi mặt trời lặn; (2) Phản ánh mức độ khác nhau trong tình yêu vợ chồng. Người con gái luôn luôn thương yêu chồng bằng tình yêu đậm đà, mặn mà, đầy đặn khác nào đương đông buổi chợ. Còn tình cảm của người con trai chỉ đôi lúc nhưng mãnh liệt như cái nắng quái chiều hôm vậy. Nắng quái chiều hôm tuy ngắn ngủi nhưng sức nóng, sức cháy bỏng của ánh nắng xiên khoai này thật là ghê gớm; (3) Nói về tính chất biểu hiện tình thương vợ chồng. Khi đã thương yêu chồng, tình cảm của người con gái được thể hiện ra bằng sự hoạt bát, vui nhộn như đương đông buổi chợ. Và người chồng chẳng khó khăn gì trong việc tìm hiểu tình cảm của vợ đối với mình. Ngược lại, chàng trai thâm trầm hơn trong tình yêu. Thậm chí, có khi tình yêu thương của chàng được thể hiện cả bằng sự cáu gắt, khắt khe, nghiệt ngã như nắng quái chiều hôm". Tiếc thay, lời diễn giải ấy đã không được đông đảo bạn đọc đồng tình lắm vì họ cho rằng nó để lộ hai điểm cần tránh khi diễn giải TN. Thứ nhất, nó quá thiên về miêu tả, một điều hết sức xa lạ đối với TN, vì TN, như ai nấy đều biết, là thể loại sáng tác dân gian chỉ quen đưa ra những nhận định súc tích (như Chó treo; mèo đậy – Vàng gió; đỏ mưa – Nhà gỗ xoan; quan ông nghè, v.v và v.v.) hoặc những lời khuyên nhủ cô đọng (như Chị ngã em nâng – Ăn đấu trả bồ – Ra đường hỏi già; về nhà hỏi trẻ: Yêu trẻ trẻ đến nhà; kính già già để tuổi cho – Ăn cây nào rào cây ấy, v.v. và v.v.), chứ rất ngại đi sâu vào những miêu tả chi li. Thứ hai, có lẽ các tác giả đã nhầm khi coi câu TN này như một câu so sánh (tức Gái thương chồng NHƯ đương đông buổi chợ; trai thương vợ NHƯ nắng quái chiều hôm), mặc dù trong câu chẳng hề có một từ NHƯ nào và cũng chẳng hề có một dấu hiệu hình thức nào đòi hỏi phải diễn giải như thế cả. Lối diễn giải nhầm lẫn đó, đến lượt mình, còn đẩy người diễn giải tới chỗ phải mắc thêm một sơ suất nữa: buộc họ phải xử lý hai ngữ đọan "đương đông buổi chợ" và "nắng quái chiều hôm" như là bổ ngữ chỉ phương thức/bổ ngữ chỉ mức độ cho vị từ thương. Do đã lỡ xử lý thế rồi, nên họ đành phải gán cho những ngữ ấy nhiều ý nghĩa mà mấy ngữ này vốn không có và cũng khó lòng có được trong bất cứ ngôn cảnh nào. Sự khiên cưỡng lộ liễu ấy như thầm nhắc chúng ta: chớ có đi tiếp trên con đường các tác giả ấy đã đi. Nghĩa là đừng nên coi câu TN trên như là câu so sánh, mà nên xử lý nó như là câu tỉnh lược, một dạng câu còn thông dụng hơn câu so sánh gấp hàng trăm lần. Nếu xử lý như thế thì câu có thể được viết lại như sau: "Gái thương chồng [thì phải hành xử ra sao để bày tỏ được tấm lòng yêu thương ấy ngay cả lúc] đương đông buổi chợ ; trai thương vợ [thì phải hành xử ra sao để bày tỏ được tấm lòng chính mình ngay cả lúc] nắng quái chiều hôm". Đến lúc này thì việc cần làm chỉ còn là đi tìm những biểu thức ngôn từ [linguistic expression] súc tích nhưng có thể diễn đạt thoả đáng cho những phần bị tỉnh lược vừa nêu. Vì đề tài mà câu TN đề cập là tình thương yêu vợ chồng nên biểu thức thích hợp hơn cả có lẽ là : NÊN HẾT LÒNG VỚI CHỒNG / NÊN HẾT LÒNG VỚI VỢ. Bây giờ, ta hãy thử điền hai biểu thức ấy vào những phần đã tỉnh lược rồi kiểm định xem câu có ổn không. Kết quả thu được khá khả quan : "Đã thương chồng thì người vợ nào cũng NÊN HẾT LÒNG VÌ CHỒNG ngay cả khi đang buôn may bán đắt ; đã thương vợ thì người chồng nào cũng NÊN HẾT LÒNG VÌ VỢ ngay cả khi đang phải khổ sở với cái nóng quái ác lúc chiều hôm". Đó chắc hẳn là điều mà người xưa muốn nhắn gửi cho con cháu. Nói khác đi, ông cha chúng ta muốn khuyên chúng ta rằng: đã yêu nhau thực lòng thì hãy hết lòng vì nhau ngay cả trong những tình thế khó mà tỏ bày được tấm lòng yêu thương kia. N.Đ.D
-
Bữa cơm gia đình, nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam17:59' 13/08/2007 (GMT+7) Bữa cơm gia đình Việt Nam thường có 3 món, được chế biến với nhiều vị, đủ chất, rất cân bằng âm dương, vừa ngon vừa lành… Chính vì vậy mà rất nhiều người thích ăn cơm thường ở nhà như thế, bữa ăn làm người ta rất dễ chịu vì hợp khẩu vị và không "nặng bụng" như khi đi ăn tiệc. Văn hoá gia đình đã đóng góp vai trò hết sức quan trọng trong văn hoá Việt Nam, tạo nên những nét độc đáo của văn hoá Việt Nam, đặc biệt trong phong tục, thường gọi là gia lễ, gia phong, cũng như trong cuộc sống như văn hoá giao tiếp, văn hoá ăn uống... Tại Nam Bộ suốt thời chế độ thuộc địa Pháp, chịu ảnh hưởng rất nhiều văn hoá Pháp, xuất hiện cơm đĩa, song vẫn có “cơm phần” hay “cơm gà-men”, nấu cơm tháng, đưa tới tận nhà, thường có 3 món: canh, kho, xào như những bữa cơm gia đình. Cấu trúc bữa cơm ít nhất gồm 3 món: món thứ nhất là mặn tức các loại kho: như thịt, cá, tôm, đậu, củ… Món thứ hai là xào hay luộc với đủ loại từ rau, củ, quả với thịt, cá, trứng… Món thứ 3 là canh, đủ loại từ rau, quả củ với cá, thịt, đậu… Với cấu trúc món ăn như thế, thường xắt thành miếng nhỏ, vừa mặn như kho hay nhạt như canh hoặc xào, thuận lợi cho việc ăn tập thể hơn là cá nhân riêng rẽ, rất khó chia thành phần riêng (rations). Món ăn lại ít thịt, chủ yếu là rau và cơm, nên thường người ta nói bữa cơm Việt Nam là “cơm rau” hay “cơm canh”. Đặc biệt món canh rất độc đáo, hầu như trên thế giới chỉ có người Việt Nam có cách ăn canh chan vào cơm. Thường các nước Tàu Tây có món súp hay nấu ăn riêng, hay bỏ một thức ăn nào đó vào súp hay cháo. Bữa cơm Việt Nam còn không thể thiếu các loại mắm nước hay cái hay dưa, cà. “Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương!” Món ăn như thế nhiều vị, nhiều chất; rất cân bằng âm dương, vừa ngon vừa lành, ít gây tật bệnh… Chính vì vậy mà khi ăn cơm thường gia đình như thế, người ta rất dễ chịu, không nặng bụng như khi đi ăn cơm nhà hàng hay ăn tiệc. Bữa cơm gia đình Việt Nam còn rất ấm cúng, trò truyện thân mật. Mọi người mời nhau, nhường nhịn nhau. "Học ăn, học nói, học gói, học mở". "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng!". Ăn uống cũng là bài học, là nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc! Hầu như những tinh hoa của văn hoá ăn uống Việt Nam vẫn còn ở trong các gia đình, bởi chỉ sau 1975, mới nở rộ những món ăn Việt Nam trong những nhà hàng lớn hay những tiệc cưới. Việt Nam không có truyền thống làm nhà hàng. Tại Việt Nam trước đây các nhà hàng hầu hết đều là nhà hàng Tàu hay Tây và hầu hết các đầu bếp tại nhà hàng trước cũng như bây giờ vẫn được đào tạo theo kiểu đầu bếp Tây, Tàu, Nhật… Trong thời đại công nghiệp hiện nay, ai lúc nào cũng vội vã, bận rộn và có thời khoá biểu riêng, tiệc tùng thường xuyên được mời. Trong gia đình các thành viên ít khi gặp nhau, chứ đừng nói hàng ngày lại có dịp ăn cơm gia đình như trước nữa. Nhiều gia đình lớn đã mất đi cái nếp nhà. Những cô gái trẻ không còn thích chuyện nữ công gia chánh. Tại học đường cũng không quan tâm đến dạy nữ công gia chánh như trước nữa. Có nguy cơ nhiều món ăn độc đáo trong gia đình bị thất truyền. Dù rồi đây Việt Nam sẽ chuyển sang công nghiệp hoá, song dân số phần đông một thời gian dài nữa vẫn sống ở nông thôn và dĩ nhiên nền văn minh nông nghiệp lúa nước này vẫn còn tồn tại, văn hoá gia đình vẫn còn chỗ đứng. Ngay từ bây giờ chúng ta cần phải có kế hoạch sưu tầm những món ăn từ những gia đình có truyền thống lâu đời về nghệ thuật ăn uống. Nếu được, nên xây dựng một web sites 3.000 món ăn Truyền thống Việt Nam. Những quê hương nổi tiếng như Kinh Bắc, Thăng Long – Hà Nội, Ninh Bình, Nghệ An, Huế, Quảng Nam, Biên Hoà, Bình Dương, Gia Định, Mỹ Tho, Gò Công, Sa Đéc, Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá… đều có những món ăn độc đáo, đặc sắc của Việt Nam. Cần giữ gìn bữa ăn gia đình như giữ một nét văn hóa quý báu của đời sống. (Nguồn VOV)
-
Tuyệt thế Bảo kiếm 08/06/2006 Từ là từ phu tướng, bảo kiếm sắc phong lên đàng. (Dạ cổ hoài lang) Đứng ở vị trí “bách khí chi vương” (vua của các loại binh khí), kiếm được coi là một trong những loại vũ khí lâu đời nhất trên thế giới. Kiếm thuật luôn có một vai trò quan trọng trong hệ thống những bài học của các võ phái. Trong 18 ban võ nghệ, kiếm đứng ở hàng quan trọng nhất. Lịch sử của kiếm thuật được gắn với những thanh tuyệt thế bảo kiếm... Bảo kiếm và anh hùng Bảo kiếm nếu không nằm trong tay anh hùng thì bất quá cũng chỉ là một thanh kiếm sắc mà thôi. Bảo kiếm giúp anh hùng có những chiến công muôn thủa. Anh hùng tạo tên tuổi cho bảo kiếm lưu danh ngàn đời. Trong Sử ký Tư Mã Thiên, phần Hạng Võ bản kỷ có viết về quá trình Hạng Võ luyện kiếm. Luyện mãi không xong, chú Hạng Võ là Hạng Lương quát mắng, Hạng Võ quẳng kiếm xuống nói rằng: “Kiếm chỉ đánh lại một người, không bõ học. Tôi muốn học cái địch lại vạn người”. Câu nói thể hiện khí phách và tham vọng lớn lao của Hạng Võ. Sau này Sở Bá vương Hạng Võ đã một tay gây dựng cơ đồ, đạp đổ nhà Tần trở thành một mẫu anh hùng đầy sức mạnh và quyền biến trong thời loạn. Thời Xuân Thu, ở Trung Hoa có một tầng lớp gọi là kiếm sĩ, mà nổi tiếng thời đó phải kể đến một cô gái gọi là Xử nữ. Truyện còn ghi lại khi Việt vương Câu Tiễn phải nằm gai nếm mật muốn cầm quân dẹp tan nước Ngô để báo thù cái nhục bị Ngô vương Phù Sai đánh bại ở Cối Kê; mọi việc đã gần hoàn tất nhưng Câu Tiễn còn lo bởi quân đội nước Ngô tinh nhuệ hơn quân đội nước Việt rất nhiều, đặc biệt là về kiếm thuật. Phạm Lãi đã tiến cử một cô gái ở Nam Lâm mà người đời sau gọi là Xử nữ đến để dạy quân lính nhà vua. Xử nữ vốn cả đời sống trong rừng rậm nhưng kiếm thuật vi diệu không cùng. Câu Tiễn sai lính cầm trăm ngọn kích đâm Xử nữ mà chỉ cần một cái khoát tay, cô gái đã gạt được toàn bộ vũ khí. Phạm Lãi hỏi thì cô gái nói rằng cô học kiếm thuật từ một con vượn trắng tên là Viên Công. Cô gái dạy quân đội Việt vương một năm rồi cáo từ xin trở về quê. Phạm Lãi có cho người đến tìm nhưng cô gái như bóng hạc mây ngàn đã chẳng còn dấu vết. Người ta cho rằng cô gái là thần tiên được trời sai xuống giúp nước Việt thắng nước Ngô. Điều đặc biệt ở Xử nữ đó là cô không dùng kiếm mà chỉ cần dùng một thanh trúc cũng đủ đánh bại những kiếm khách bậc nhất đương thời. Kiếm pháp mà cô truyền lại cho quân Việt sau này được đặt tên là Việt nữ chi kiếm (Theo Viên công Việt nữ truyện). Thanh kiếm Chúc Lâu là thanh kiếm đã cướp đi sinh mạng của hai người anh hùng kiệt xuất của hai nước Ngô và Việt. Khi tướng quốc nước Ngô là Ngũ Tử Tư cảnh báo Phù Sai về mối hoạ nước Việt, Phù Sai lúc đó đã bị sắc đẹp khuynh thành của Tây Thi cùng những mưu mẹo của hai mưu thần nước Việt là Phạm Lãi và Văn Chủng làm cho mê muội nên đã ban cho Ngũ Tử Tư thanh Chúc Lâu, bắt Ngũ Tử Tư dùng thanh kiếm này mà tự vẫn. Quân đội nước Việt sau này đúng như dự đoán của Ngũ Tử Tư đã tràn sang quét sạch nước Ngô. Phạm Lãi sớm biết được bản chất của Câu Tiễn nên sau khi thành công bỏ đi Ngũ Hồ. Ông còn viết thư để lại cho người bạn là Văn Chủng: “Vua Việt dáng môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không được, nếu ngài không đi, tất có tai vạ”. Quả nhiên sau đó Việt vương Câu Tiễn vì gen ghét tài năng xuất chúng của Văn Chủng và sợ ông cướp ngôi nên đã trao cho Văn Chủng thanh Chúc Lâu kiếm. Văn Chủng tự hiểu ý, cay đắng cầm bảo kiếm đâm cổ mà tự sát. Thích khách nổi tiếng Kinh Kha sử dụng thanh Tụ Lý kiếm. Đây là thanh kiếm nhỏ nhưng cực sắc được cuộn vào trong bản đồ dâng lên cho Tần Thuỷ Hoàng. Tuy nhiên khi giáp mặt, giở bản đồ ra cầm lấy kiếm đâm hôn quân, Tần Thuỷ Hoàng thấy ánh thép sắc lạnh đã kịp tránh. Sau mồi hồi trấn tĩnh Tần Thuỷ Hoàng đã rút trường kiếm chém đứt chân Kinh Kha khiến cuộc mưu sát không thành. Đến thời Tam Quốc, Khổng Minh Gia Cát Lượng khi xoã tóc làm đạo sĩ cũng dùng thanh Phục ma thất tinh kiếm để gọi gió Đông Nam giúp Chu Du đánh trận Xích Bích hình thành nên thế cục Tam Quốc chân vạc Nguỵ, Thục, Ngô. Tương truyền thanh kiếm này là loại kiếm có 7 lỗ đục theo phương vị của 7 ngôi sao. Thục Chủ là Lưu Bị sau khi lên ngôi vương vào năm Chương Võ cũng đã sai lấy thép ở núi Kim Ngưu mà đúc thành 8 thanh bảo kiếm gọi là Chương Võ bát kiếm vì trên mỗi thanh kiếm đều có chữ Chương Võ. Nghệ nhân rèn kiếm Để có được một thanh kiếm tốt đòi hỏi người rèn kiếm phải biết chọn sắt tốt, tỉ mỉ và tài năng trong việc đúc kiếm. Ngoài ra chỉ có mùa xuân và mùa thu là thích hợp cho lúc rèn kiếm, vì theo quan niệm của những nghệ nhân rèn kiếm thì mùa đông âm khí quá nặng, mùa hạ là thời gian khí quỷ độc tích tụ (quỷ nguyệt). Âu Dã Tử được coi là ông tổ của nghề rèn kiếm và là người rèn kiếm nổi tiếng nhất lịch sử Trung Hoa. Một lần ngao du, ông đã thấy mạch nước Long Tuyền trên núi Tần Khê, Triết Giang có ánh sắc kim khí. Biết nơi đây có quặng sắt quý, ông đã cho xẻ núi và lấy được một mảnh thiết anh (sắt tốt). Được Sở vương giúp đỡ, ông đã dồn hết tinh lực và luyện nên bộ ba thanh bảo kiếm có tên Long Tuyền, Thái A, Công Bố. Thái A bảo kiếm có nước kiếm sắc ngọt, chém sắt như bùn (tước thiết như nê) sau này rơi về tay Tần Thuỷ Hoàng Đế. Tần vương sau khi nhất thống thiên hạ đã cho cắm thanh kiếm báu này trên núi Trâu Tịch để tế cáo trời đất và được coi như một bảo vật trấn quốc. Thanh Long Tuyền kiếm dài ba thước sắc thì được đem dâng cho Sở Vương. Sau này những thanh kiếm qua lăng kính văn học đều được gọi là Long Tuyền kiếm và cụm từ “tay vung ba thước Long Tuyền kiếm” đã trở thành một khẩu ngữ quen thuộc. Tiết Chúc, một người rất giỏi về kiếm học khi được nhìn thấy ba thanh kiếm này đã phải thốt lên: “màu sắc đẹp như hoa phù dung mới nở, sáng rực như sao băng”. Cũng một tay Âu Dã Tử đã đúc thành năm thanh bảo kiếm có tên Trạm Lư, Thuần Quân, Thắng Tà, Ngư Trường, Cự Khuyết dâng cho Việt vương Doãn Thường. Vua Hạp Lư nước Ngô thấy vậy bắt vua Việt cống tiến ba thanh Trạm Lư, Thắng Tà và Ngư Trường cho mình. Hiện nay ở Phúc Kiến vẫn còn một chiếc ao tên là Âu Dã tương truyền đó là nơi Âu Dã Tử đã rèn nên bộ bảo kiếm trên. Thanh Ngư Trường, Hạp Lư giao cho Chuyên Chư đâm chết Ngô Vương Liêu và trở thành vua nước Ngô. Sau đó cho rằng thanh Ngư Trường đem lại điềm xấu, Hạp Lư đem bỏ cất thanh kiếm này vào hòm kín. Khi Hạp Lư qua đời, người con là Phù Sai đã đem thanh Ngư Trường kiếm táng cùng với cha mình. Thanh kiếm Trạm Lư thì bị rơi xuống nước và cuối cùng rơi vào tay Sở Chiêu vương. Vua Tần sau đó đòi vua Sở dâng thanh Trạm Lư cho mình, Sở vương không nghe và thế là chiến tranh giữa hai nước nổ ra. Tuy nhiên bộ đôi kiếm thư hùng nổi tiếng nhất Trung Hoa và cũng có nguồn gốc ly kỳ nhất thì phải là đôi song kiếm Can Tương-Mạc Gia. Theo Ngô Việt Xuân Thu thì Can Tương là một người luyện kiếm tài danh người nước Ngô thời Xuân Thu. Sau ba mươi ngày lội suối trèo non, Can Tương đã tìm ra được một quặng sắt vô cùng quý giá và ông đã cho dựng lò luyện kiếm. Luyện trăm ngày mà quặng sắt chẳng chịu chảy ra. Vợ ông là Mạc Gia thấy thế hỏi, Can Tương trả lời: “Kim loại này phải có nhân khí mới tan được”. Nghe vậy Mạc Gia tắm gội sạch sẽ, rồi nhảy vào lò luyện kiếm. Kim loại tan ra. Can Tương nhờ đó mà rèn được hai thanh bảo kiếm. Ông đặt tên bộ kiếm thư hùng kiếm này là Can Tương và Mạc Gia. Vua Hạp Lư đòi ông phải dâng kiếm báu, ông đưa thanh Can Tương. Nhưng Hạp Lư sau đó đòi nốt thanh Mạc Gia. Ông khóc ròng vì coi thanh kiếm này như vợ mình. Khi quân lính đến, bỗng thanh Mạc Gia biến thành con rồng xanh cõng Can Tương bay vụt lên trời. Khi nước Ngô bị tiêu diệt, thanh Mạc Gia biến mất. Sau đó 600 năm, tể tướng nước Tần là Trương Hoa bỗng thấy ở huyện Phong Thành có ánh kiếm quang rực rỡ, sai một nhà địa lý giỏi bậc nhất thời đó là Lôi Hoàn đến Phong Thành tìm hiểu nguyên nhân. Lần theo mạch đất, Lôi Hoàn tìm được một hộp đá, bên trong là hai thanh bảo kiếm ghi chữ Can Tương và Mạc Gia. Lôi Hoàn giấu đi thanh Can Tương, chỉ dâng lại thanh Mạc Gia cho Trương Hoa mà thôi. Một hôm khi hai người đi thuyền trên sông, bỗng hai thanh kiếm đeo trên người bị tuột ra rơi xuống sông. Trương Hoa vội cho thợ lặn xuống tìm kiếm báu. Lặn qua tầng nước, thợ lặn sợ mất vía khi thấy dưới lòng sông có đôi rồng đang vểnh râu nhìn mình. Hai thanh bảo kiếm Can Tương và Mạc Gia từ đó coi như bị mất tích. Ngay ở thời hiện đại, khi mà kiếm đã có trở thành một loại vũ khí thô sơ nếu so với súng đạn thì những nghệ nhân rèn kiếm vẫn luôn được coi trọng. Trần Thiên Dương là nghệ nhân rèn kiếm nổi tiếng hiện sống ở Đài Loan. Ông nổi tiếng vì những nguyên tắc “không bán kiếm cho kẻ có lai lịch bất minh”, “không bán kiếm cho kẻ rởm đời, hãnh tiến”, “không bán kiếm cho kẻ hung hăng”. Trong lần tranh cử tổng thống Đài Loan năm 1996, cả bốn ứng cử viên tổng thống đều đến nhà ông mua kiếm để làm vật tượng trưng bảo vệ công lý. Số phận của những thanh bảo kiếm Những thanh bảo kiếm cũng gắn liền với những thăng trầm và biến thiên của lịch sử. Có những thanh bảo kiếm đã biến mất nhưng có những thanh kiếm lưu lạc đi khắp nơi và tạo thành những truyền thuyết khác. Tương truyền thanh Long Tuyền kiếm sau này đã lọt vào tay của Cao Biền, khi sang cai trị nước ta ông đã mang theo và tìm long mạch để chôn. Tại địa giới của hai nước Ngô-Việt thời Xuân Thu, rất nhiều thanh kiếm đã được các nhà khảo cổ tìm thấy như kiếm của Hạp Lư, của Phù Sai ở Tương Dương, Hồ Bắc và thanh Cô phát nhàn phản kiếm của thái tử nước Ngô. Năm 1965 tại Giang Lăng, người ta đào được thanh kiếm Việt vương chân câu trên đó có khắc tám chữ: Việt vương Câu Tiễn tự tác dụng kiếm (Kiếm của Việt vương Câu Tiễn tự làm ra để sử dụng). Ngoài kiếm người ta còn thấy một thanh mâu cũng đề chữ: Ngô vương Phù Sai tự tác dụng tạc. Tại Lã Vọng Sơn tỉnh Hồ Bắc, người ta đã tìm thấy thanh Trạm Lư. Các nhà khoa học thấy rằng thanh kiếm này đã được mạ crom (hợp chất chống gỉ) và theo kiểm tra phóng xạ thì thanh Trạm Lư có 9 nguyên tố hoá học khác nhau. Sau hơn hai ngàn năm, thanh Trạm Lư vẫn sáng bóng và sắc như nước. Một thanh kiếm khác cũng được tìm thấy ở khu khảo cổ này là thanh kiếm Tê Lợi (tương truyền là do vợ của Can Tương là Mạc Gia đúc thành). Soi phóng xạ thanh Tê Lợi, người ta thấy trong thanh kiếm này còn có chất wolfram, một chất hiếm mà cho đến mãi sau này người châu Âu mới tìm ra. Những thanh bảo kiếm đã trở thành một phần của lịch sử võ học Trung Hoa, và đâu đó qua từng thanh kiếm ta cũng thấy được phần nào lịch sử bể dâu của một thời tạo thành số phận của mỗi thanh bảo kiếm. (Tham khảo từ Sử ký Tư Mã Thiên, Đông Chu liệt quốc, Ngô Việt Xuân Thu, Bách khoa toàn thư Encarta phần sword, Internet) Khổng Minh Gia Cát Lượng và Phục ma thất tinh kiếm Kiếm pháp Thiếu Lâm Kiếm pháp Võ Đang Hoàng Tùng (Theo Kiến Thức Ngày Nay 566)
-
CHÂU BÁ THÔNG: TRĂM NĂM CÒN VỊ THÀNH NIÊN 07/06/2006 Bảy mươi mới bước vào đời Tám mươi ta mới sang chơi láng liềng Tuổi mình còn vị thành niên Hà cớ gì phải buồn phiền như ri? (Thơ Trần Văn Chánh) Mỗi khi đọc câu thơ tự trào dí dỏm của người bạn gởi tặng tôi từ vùng Bắc Ninh xa lắc, lúc cả hai tấp tễnh bước vào ngưỡng ngũ tuần, tôi lại nhớ đến Lão ngoan đồng Châu Bá Thông. Ở vào lứa tuổi mà Khổng Tử bảo là “tri thiên mệnh”, đã đủ dày dặn kinh nghiệm để hiểu được mệnh trời, ấy vậy mà vẫn thấy mình là kẻ “vị thành niên”! Cuộc sống vẫn luôn mênh mông đối với những người hồn nhiên lạc quan, luôn mang trong mình cái “xích tử chi tâm” của Lão ngoan đồng. Khổng Tử bảo: “Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ” (Ba mươi tuổi thì ý chí đã kiên định, bốn mươi tuổi thì không còn ngờ, năm mươi tuổi thì hiểu mệnh trời, sáu mươi tuổi thì tai thuận, bảy mươi tuổi thì có thể làm theo lòng ham thích của tâm mà không còn sợ vượt quá khuôn phép nữa - Luận ngữ - Vi chính II, 4). Cho nên “bảy mươi mới bước vào đời”! Lúc này đã có quyền “tòng tâm sở dục, bất du củ” rồi. Ở cái tuổi “sang chơi láng giềng” thì người hàng xóm lọm khọm là láng giềng đã đành, thậm chí cái chết cũng là kẻ láng giềng. Lúc đó thì làm kẻ “sang chơi láng giềng” theo thể điệu “Être-pour-la-mort” (hữu thể hướng tử) của Heidegger! Đối với nhà thơ Nguyễn Công Trứ với cái chơi: “Tân nương dục vấn tân lang kỷ, ngũ thập niên tiền nhị thập tam” (tạm dịch: Người đẹp muốn hỏi tuổi ta. Năm mươi năm trước mới hăm ba chứ gì!), ở cái tuổi bảy mươi ba, nghĩa là mới “vào đời” được ba năm, thì dĩ nhiên những đào nương xuân xanh hơ hớ trong tiếng ca và sênh phách luôn là kẻ láng giềng của vị Doanh điền sứ tài ba và “chịu chơi” nhất trong nền văn học Việt Nam này. Cụ Nguyễn Công Trứ tựa như nhân vật Alexis Zorba của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazanzaki, luôn thấy mình ở lứa tuổi đôi mươi, yêu mê đắm, sống say sưa, làm việc hết mình để tận hưởng hết cái thanh sắc của trần gian cho đến lúc nhắm mắt. Cái tố chất “chịu chơi” của Alexis Zorba hoặc của Uy Viễn tướng công dù hiếm, nhưng vẫn còn có thể tìm thấy ở một đôi người, chứ cái tố chất hồn nhiên như đứa trẻ con chơi đùa giữa đời của Châu Bá Thông thì chỉ có thể tìm thấy trong chính Lão ngoan đồng! Nếu chọn trong tất cả tác phẩm Kim Dung một nhân vật được mọi tầng lớp độc giả yêu thích, kể cả trẻ con thì có lẽ đó chính là Châu Bá Thông. Một nhân vật suốt đời chỉ biết chơi đùa, luôn tìm cách trốn tránh mọi trách nhiệm trong đời mà lại được độc giả yêu mến, điều đó mới là lạ lùng. Người ta nói “lên ba thì cười, lên mười thì mắng”, có nghĩa cùng một câu nói, nếu ở miệng đứa bé lên ba nói ra thì thấy ngộ nghĩnh đáng yêu, còn ở miệng đứa bé lên mười thì lại thấy hỗn xược vô lễ. Cái “thực” không đổi khác mà lại sinh ra hai tâm trạng yêu ghét, bởi vì câu nói của đứa bé lên ba hoàn toàn xuất phát từ trạng thái hồn nhiên vô tâm. Mà trên đời, những gì xuất phát từ cái tâm hồn nhiên đều dễ dàng tiếp cận và cảm động được lòng người một cách đằm thắm sâu xa. Châu Bá Thông được độc giả yêu mến bởi ông luôn là “đứa bé lên ba” đó. Sau khi vô tình gây nên mối tình oan nghiệt tại cung điện Đoàn Nam đế, Châu Bá Thông lại suốt đời chạy trốn Anh Cô, không phải vì ông là kẻ bội bạc vô tình mà chỉ vì không muốn mang trách nhiệm với cõi đời, nghĩa là không có khái niệm “làm người lớn”. Thân ở trong cõi đời, nhưng tâm lại hoàn toàn không muốn vướng bận những luỵ phiền của cõi nhân gian. Con người khi sinh ra là một đứa bé hồn nhiên, rồi lớn lên vượt qua giai đoạn ấu thơ để vào đời, và từng bước khám phá ra những điều huyền ẩn. Nhưng chính trong cái quá trình khám phá để “trưởng thành” ấy, con người dần đánh mất đi cái tâm hồn nhiên mà Thượng đế đã phú bẩm cho từ thuở ban đầu. Cái “xích tử chi tâm” dần bị chai sạn bởi những nghiệt ngã của cuộc sống. Con người, để tồn tại và để cạnh tranh vượt lên cao hơn người khác bằng mọi thủ đoạn mưu ma chước quỷ, cứ ngày càng xa dần vườn địa đàng của tuổi thơ. Cái tâm hồn nhiên kia bị tập nhiễm quá nhiều điều thô bỉ, đê tiện cùng những thói quen dối trá lọc lừa, mà chỉ khi có cơ duyên thoát khỏi những hệ luỵ ấy, con người mới có thể sực tỉnh để chợt hiểu ra những trò nhảm nhí mà mình cứ mê mải múa may trên sân khấu đời. Bộ sách của Mạnh Tử gồm mấy vạn lời, suy cho cùng cũng chỉ là nỗ lực giúp con người khôi phục lại cái tâm hồn nhiên đó mà thôi. “Đại nhân giả bất thất kỳ xích tử chi tâm” (Bậc đại nhân không đánh mất đi tấm lòng con trẻ - Mạnh Tử, Ly Lâu hạ). Châu Bá Thông chính là bậc đại nhân “bất thất kỳ xích tử chi tâm” đó. Hầu hết những cao thủ võ lâm đều xem võ học là phương tiện để thỏa mãn tham vọng bành trướng uy quyền, và khoáng trương cái tôi. Chỉ có Châu Bá Thông xem võ học là mục đích tự thân. Thích học võ, vui học võ, say mê học võ. Hễ gặp ai có những tuyệt kỹ lạ lùng, như Dương Quá hoặc Kim luân Pháp vương là Châu Bá Thông sẵn sàng bái làm sư phụ để xin học. Như một đứa bé ham mê những đồ chơi lạ. Và chỉ có cái tâm hồn nhiên của trẻ thơ mới có thể sáng tạo ra những điều kỳ diệu từ những cái tưởng chừng như rất đỗi tầm thường. Cậu hoàng tử bé trong tác phẩm Le petit Prince của Saint-Exupéry luôn ngạc nhiên trước những cái trò bận rộn lăng xăng kỳ lạ của người lớn. Mà chỉ có những đứa bé hồn nhiên mới thấy hết được cái vẻ trịnh trọng điên đảo của người lớn. Ông Bùi Giáng có lẽ cũng đã dùng cái tâm trẻ thơ để chuyển ngữ tác phẩm thành “Hoàng tử bé” bằng một ngôn ngữ vô cùng hồn nhiên thơ mộng, khác hẳn với những cuốn sách dịch cà rỡn khác của ông. Châu Bá Thông cũng chính là cậu “Hoàng tử bé” đáng yêu kia. Tô Đông Pha hỏi “Tạo vật hà như đồng tử hý!” (tạo vật sao lại giống như đứa bé chơi đùa đến vậy!). Tạo hoá với đại lực lượng, đại ý chí mà lại biết chơi đùa cũng chỉ vì có cái tâm hồn nhiên của trẻ thơ. Châu Bá Thông suốt đời chỉ biết chơi đùa chỉ vì cái tâm đó. Chỉ vì một lời thách thức vớ vẩn mà Châu Bá Thông phải vượt mấy ngàn dặm từ Trung nguyên cho đến vùng hoang mạc xa xôi để tìm một lá cờ, giống như những đứa trẻ chơi trò cút bắt. Châu Bá Thông chính là “đồng tử hý” vậy. Nhờ cái tâm hài nhi ưa đùa bỡn mà Châu Bá Thông không hề thù hận ai, kể cả Hoàng Dược Sư là người đã đánh gãy chân ông và bắt giam ông trên đảo hằng chục năm. Ngồi trong thạch động, không có bạn chơi thì tự mình chơi với mình bằng cách dùng hai tay đánh với nhau. Kết quả là ông sáng tạo ra môn tuyệt kỹ độc đáo nhất võ lâm: “Song thủ hỗ bác”. Hai tay vừa hỗ tương vừa công kích lẫn nhau, tạo thành uy lực vô lượng, như hai đối cực âm và dương cùng vận hành trong vòng tròn thái cực. Để học được môn võ công kỳ diệu này thì bài học vỡ lòng là phải dùng hai tay để vẽ cùng lúc một vòng tròn và một hình vuông. Mới nghe thì tưởng chừng như đơn giản, nhưng không ai học được. Cái công phu “phân tâm nhị dụng” (chia lòng ra làm hai để ứng dụng vào hai việc khác nhau) đó chỉ có hai người là Quách Tĩnh và Tiểu Long Nữ tiếp thu nổi. Quách Tĩnh học được là nhờ cái tâm đôn hậu chân chất, Tiểu Long Nữ học được là nhờ cái tâm hư tĩnh như mặt nước hồ thu, không hề vướng bụi trần. Châu Bá Thông vai vế ngang với Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư lại nài nỉ được kết giao huynh đệ với Quách Tĩnh, là kẻ lẽ ra phải kêu mình bằng sư thúc tổ. Về sau ông lại kết giao với Dương Quá thuộc hạng con cháu của Quách Tĩnh nữa. Tôi chỉ tiếc một điều, có lẽ tại Lão ngoan đồng “kỵ” phái nữ sau “sự cố Anh Cô”, nếu không thì có lẽ ông đã kết nghĩa huynh muội với cô bé Quách Tương rồi. Hai tâm khoáng đạt như vậy mà không có cơ duyên để kết nghĩa thì quả là điều uổng phí của trần gian. Phật giáo chủ trương tất cả chúng sinh đều bình đẳng trước Tam bảo, thì mọi khách giang hồ đều bình đẳng trước cái tâm của Châu Bá Thông. Cuối cùng thì cuộc trốn chạy Anh Cô cũng phải chấm dứt, cùng với cái chết trong cơn sám hối của Cừu Thiên Nhận. Châu Bá Thông và Anh Cô về sống chung, làm người láng giềng với Đoàn Nam đế. “Tám mươi ta mới sang chơi láng giềng”. Nhưng dẫu cho đến lúc đó, tôi vẫn cho rằng Châu Bá Thông vẫn là kẻ “vị thành niên”. Mọi người chúng ta ai cũng đã có lần có được cái tâm Châu Bá Thông, rồi lại đánh mẩt đi. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là dường như không ai muốn tìm lại cái tâm đó, có lẽ sợ bị mang tiếng là “trẻ con”! Chúng ta say sưa xác lập những giá trị, rồi luôn tìm mọi cách để chiếm đoạt những giá trị do chính chúng ta dựng nên, trong cái “thế giới người lớn” đầy những lễ nghi phiền toái cùng những dối trá lọc lừa. Chính trong tiến trình xây dựng và chiếm đoạt các giá trị đã làm nảy sinh biết bao xung đột, hận thù. Rồi chúng ta lại vắt óc tìm mọi cách hoà giải, cũng bằng kiểu cách khệnh khạng của “người lớn”, mà có khi nào chịu hiểu rằng chính cái kiểu cách khệnh khạng đó lại là mầm móng đẻ ra thêm các xung đột khác! Thiên Sơn mộc trong Nam hoa kinh của Trang Tử chép: “Thuyền lớn vượt sông, có con đò nhỏ không người trôi đến chạm vào, thì dù là người có bụng hẹp hòi cũng không giận. Nhưng nếu trên đò có người, tất thuyền lớn sẽ hô hoán lên. Nếu gọi một hai lần mà không nghe ắt sẽ gọi lần thứ ba, rồi buông lời thoá mạ theo ngay. Lúc trước không giận mà bây giờ giận, vì lúc trước là chiếc đò không (hư) mà bây giờ là đò có người (thực). Người ta nếu biết làm mình trở thành chiếc đò không để trôi giữa đời, thì ai mà hại được? (Nhân năng hư kỷ dĩ du thế, kỳ thục năng hại chi? )” Châu Bá Thông chính là “con đò không” đó để rong chơi trong cõi giang hồ, đã biết “hư kỷ dĩ du giang hồ!”. Cái tâm “hư kỷ” của Châu Bá Thông là cái tâm tự nhiên, vượt trên cả chữ “năng”. Ông không cần tập “năng hư kỷ” mà tự nhiên đã là “hư kỷ” rồi. Có người hỏi thiền sư Triệu Châu: “Con chó có Phật tính không?”. Ông đáp “Vô!”. Tâm Châu Bá Thông cũng chính là chữ “Vô” đó. Cái tâm hài nhi của Châu Bá Thông là điều mà mọi tôn giáo và triết học chân chính đều nỗ lực muốn tìm lại. Hình ảnh ngây thơ của Chúa Hài Đồng hay nụ cười hồn nhiên của đức Phật Di Lặc luôn nhắc nhở ta về cái tâm Châu Bá Thông mà ta vô tình đánh mất. Và sẽ vô cùng hạnh phúc cho ai, ở những năm tháng cuối đời, tìm được cái tâm Châu Bá Thông ngay giây phút cận kề với cõi không hư. Huỳnh Ngọc Chiến (Theo Kiến Thức Ngày Nay 566) [/i]
-
đoán cho ThanhTrang ngày tân Mão 16 t. Bính Thìn năm Mậu Tí giờ Mùi Cảm quẻ Hưu Xích Khẩu Việc mất dây cáp là do ThanhTrang lơ là hay đảng trí mà ra. Việc này làm TT bực mình không ít nên có ý nghĩ là "bó tay" (hưu). Thử tìm xem ở hướng bắc, trong góc khuất hay kẹt cửa thì sẽ gặp. Chiều nay 16/3 al 18h00 tìm thử? Quẻ độn Sinh Tiểu Cát Cái dây cáp này nhìn bề ngoài thì thấy còn tốt (Tiểu Cát)nhưng bên trong thì cũng gần hết xài được (Sinh), lúc thì nối được lúc lại không. Cho nên phải thay đổi cái mới thôi. Ngày mai sẽ bỏ. Ngày mốt sẽ ra chợ mua (Xích Khẩu). LacTuong :lol: