-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Gửi gaugau, trả lời này chắc là hơi trể. ngày Ất tị 9 tháng nhâm thân năm kỷ sửu giờ dậu. Thương Đại An bạn của gau gau là nữ mà trọng sự nghiệp quá ta? vậy thì chịu thương chịu khó trong vòng 3 năm nữa sẽ được như ý. cơ hội sẽ đến, sẽ đạt được vị trí hay địa vị như mong muốn. Năm nay vẫn còn lận đận, thành quả không những thu được mà còn hao tán. Ráng chờ sang năm đỡ hơn. Thiên Đồng
-
Thiên Đồng vẫn chưa vào được lớp học.(PTLV2) .... Vừa pót bài này xong,Thiên Đồng kiểm tra lại thì đã được vào lớp. Xin chân thành cảm ơn Ban Quản Trị.
-
Ây chà lại nhầm nữa rồi. nhắn quyngoc83 Thôi nói lại, chọn tháng đại lợi là tháng 11 âm -ngày thành thôn là 6/11 âm là 21/12/09 dương, 7g30 đến 9g30. -ngày ăn hỏi 10/10 âm là ngày 26/11/09 dương. Hay chọn hỏi và cưới luôn trong tháng 10 âm? Thiên Đồng
-
Đồng quên cái " ngày cùng tháng tận", vậy thì tháng 12 chỉ còn 1 ngày duy nhất là hoàn toàn không phạm là 6/11 âm Nếu theo anh Linh Trang thì tháng này gần như không còn ngày nào tốt cả, vì Đồng đã tra hết những ngày kị rồi. Có khi sách này nói trùng tang trùng phục, sách khách lại nói không. Có khi trừ hết các ngày của tháng còn lại vài ba ngày trong tháng là không phạm gì, nhưng tra trang xem ngày ở trang chủ thì vẫn là ngày Hắc đạo, trang khác lại nói là ngày tốt. Có khi là ngày hoàn toàn không phạm gì, khi đã loại suy các ngày kị, thì tra trên máy hay trên các sách cũng ra một đống, một lô một lốc sao xấu. Cho nên chấp quá cũng không được. Nhắn Meocon Vậy thì nói lại, Theo ý kiến của anh Linh Trang thì bỏ ngày cùng tháng tận là 29/11 âm. Vậy chỉ còn ngày 6/11 âm là Làm lễ thành hôn. Hoặc dời sang tháng 10 âm? Hoặc ăn hỏi trong tháng 10 âm rồi cưới ngày 6/11 âm?
-
Bản đồ “đường lưỡi bò” trên biển Đông: Đường yêu sách phi lý của Trung Quốc 18/08/2009 0:34 nguồn:www.thanhnien.com.vn/news Đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc trên biển Đông * Một yêu sách không có giá trị pháp lý quốc tế *Một việc làm không phù hợp với xu thế của khu vực Ngày 7.5 vừa qua, cùng với công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc phản đối việc Việt Nam nộp Báo cáo về Ranh giới ngoài thềm lục địa của mình cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc theo quy định của Công ước Luật biển 1982, Trung Quốc đã gửi kèm một sơ đồ trên đó thể hiện đường yêu sách 9 đoạn của mình trên biển Đông. Theo lời văn công hàm thì “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển nam Trung Hoa (tức biển Đông - TN) và các vùng nước kế cận, và có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất đáy biển ở đó (xem sơ đồ kèm theo)”. Ngày 8.5.2009, phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã có Công hàm số 86/HC-2009 gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc bác bỏ công hàm và sơ đồ nói trên. Cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã trả lời phỏng vấn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và coi đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc thể hiện trên sơ đồ là “không có giá trị vì không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn”. Trong bài này tác giả sẽ không trình bày về vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà chỉ đi sâu phân tích về đường yêu sách 9 đoạn được Trung Quốc nêu ra trong sơ đồ kèm theo công hàm nói trên. Sự hình thành và tồn tại của một đường yêu sách khó hiểu Lễ chào cờ của chiến sĩ Trường Sa - ảnh: T.T Đường “lưỡi bò”, “chữ U” hay “đứt đoạn”... đều là cách gọi khác nhau mà các học giả trên thế giới dùng để chỉ yêu sách của Trung Quốc đối với 80% diện tích của biển Đông, được vẽ sát vào bờ của các quốc gia ven biển Đông như Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines. Đường yêu sách này ban đầu có 11 đoạn, do chính quyền Trung Quốc (Quốc dân đảng) vẽ ra vào năm 1947 và sau đó được CHND Trung Hoa tiếp tục sử dụng nhưng có sửa đổi (bỏ bớt 2 đoạn trong vịnh Bắc Bộ nên chỉ còn lại 9 đoạn). Công hàm ngày 7.5.2009 có lẽ là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua, thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về ý nghĩa pháp lý quốc tế của đường yêu sách 9 đoạn và cũng là lần đầu tiên mà Trung Quốc chính thức công bố sơ đồ đường yêu sách này với thế giới. Trước đó, mặc dù đường yêu sách này đã được thể hiện nhiều lần trên bản đồ Trung Quốc, nhưng CHND Trung Hoa chưa bao giờ có một tuyên bố chính thức nào về ý nghĩa pháp lý quốc tế cũng như quốc gia của đường đứt đoạn này. Thậm chí trong những văn bản pháp lý quan trọng của CHND Trung Hoa về các vùng biển (như: các Tuyên bố về Lãnh hải 1958, về Lãnh hải và vùng tiếp giáp 1992, về Đường cơ sở 1996 và về vùng Đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 1998...) thì đường yêu sách này cũng không hề được nhắc đến. Sớm hơn CHND Trung Hoa một chút, năm 1993, trong bản “Giải thích chính sách biển nam Trung Hoa” do Viện Hành pháp Đài Loan thông qua thì vùng nước nằm bên trong đường đứt đoạn được coi như “vùng nước lịch sử” của Đài Loan. Như vậy, quan điểm của Đài Loan về đường đứt đoạn khác với quan điểm của CHND Trung Hoa. Trong khi Đài Loan coi vùng nước ở trong đường đứt đoạn mà mình yêu sách có quy chế nội thủy (tức là đòi hỏi có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ) thì, theo công hàm ngày 7.5.2009, CHND Trung Hoa lại phủ nhận việc Trung Quốc có chủ quyền đối với vùng nước này, chỉ đòi hỏi “quyền chủ quyền và quyền tài phán” tức là đòi hỏi một vùng biển có quy chế pháp lý tương tự với quy chế của vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật biển 1982. Đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc trên biển Đông Trước khi Nhà nước Trung Quốc xác định quy chế pháp lý của con đường này, thì tại nhiều hội thảo quốc tế (ví dụ như “Hội thảo về khống chế xung đột tiềm tàng ở biển Đông” diễn ra hằng năm từ 1991 đến nay tại Indonesia) các học giả Trung Quốc lại có những giải thích khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau, về giá trị pháp lý quốc tế của đường đứt đoạn. Nhưng còn có một điều khác cũng rất quan trọng mà tất cả các học giả và kể cả Nhà nước Trung Quốc cho đến nay không thể trả lời được là: vậy thì làm sao xác định được tọa độ cũng như vị trí chính xác của từng đoạn cũng như của toàn bộ 9 đoạn của đường yêu sách này. Chẳng hề có một văn bản nào (dù là chính thức hay không chính thức) quy định hoặc giải thích về việc đó. Theo Phan Thạch Anh, một học giả Trung Quốc có uy tín, thì điều này “để lại khả năng đưa ra những điều chỉnh cần thiết trong tương lai” (Pan Shiying, bài đăng trong tạp chí Economic Information & Agency, July 1996). Có lẽ không cần bình luận gì thêm vì sao một yêu sách được cho là “đã có lịch sử hơn nửa thế kỷ” mà lại không được các nước trong khu vực tính đến và không ai tôn trọng trên thực tế. Đường đứt đoạn này không thể là yêu sách nghiêm túc của một quốc gia đối với một vùng biển rộng lớn vì nó không có một nội dung pháp lý rõ ràng, thậm chí là mâu thuẫn, và không thể xác định được vị trí của nó trên thực địa. Một yêu sách không có giá trị pháp lý quốc tế Lập luận đầu tiên và được sử dụng nhiều nhất của các học giả Trung Quốc khi giải thích về đường đứt đoạn được vẽ trên bản đồ biển Đông là yêu sách này phải được xem xét dưới góc độ của “luật pháp quốc tế đương đại” (tức là luật pháp quốc tế vào thời điểm mà nó được vẽ ra), chứ không thể sử dụng Công ước Luật biển 1982 để xem xét giá trị pháp lý của nó (“người cũ biện pháp cũ, người mới quy định mới”, câu của Trương Thiệu Trung trong bài đăng trên báo mạng Nhân Dân (Trung Quốc) ngày 2.4.2009). Chúng ta sẽ xem xét đường yêu sách của Trung Quốc theo cách này. Vào thời điểm mà đường đứt đoạn được vẽ ra (1947) những quy định của Luật biển quốc tế còn tồn tại dưới dạng những quy phạm tập quán, theo đó lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ có chiều rộng 3 hải lý tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất. Ngoài phạm vi lãnh hải là biển cả hay còn gọi là vùng biển quốc tế, nơi mà mọi quốc gia đều có thể thực hiện quyền tự do biển cả. Cho đến năm 1958 các chính quyền khác nhau của Trung Quốc (triều đình nhà Thanh, Cộng hòa Trung Hoa và cả CHND Trung Hoa) đều công nhận hoặc không công khai phản đối chiều rộng của lãnh hải là 3 hải lý (xem Hungdah Chiu, “China and the question of Territorial Sea” International Trade Law Journal, số 1975 - 6). Như vậy, ngay cả theo luật pháp quốc tế đương đại thì một đường đòi hỏi không rõ ràng đối với một vùng biển rộng lớn như vậy không thể nào được coi là hợp pháp. Tiến sĩ Djalal, một chuyên gia luật biển nổi tiếng người Indonesia đã viết: “Không thể chấp nhận được rằng vào năm 1947, khi luật quốc tế nói chung chỉ ghi nhận lãnh hải 3 hải lý, Trung Quốc lại có thể yêu sách toàn bộ biển Đông” (Djatal, H.Shouthe China Sea Island Disputes, The Raffes Bulletin of Zoology, Supplement No.8/2000). Vậy đối với yêu sách về một đường xác định phạm vi “quyền chủ quyền và quyền tài phán” trên biển Đông như công hàm ngày 7.5.2009 của Trung Quốc nêu ra thì sao? Câu trả lời cũng sẽ là tương tự như trên. Vì vào thời điểm này các quốc gia ven biển không có quyền mở rộng các quyền liên quan đến chủ quyền ra ngoài phạm vi lãnh hải của mình. Cũng cần nhấn mạnh là Luật biển quốc tế thời kỳ này hoàn toàn không điều chỉnh “đáy biển và lòng đất dưới đáy biển” ngoài phạm vi lãnh hải, vì vậy Trung Quốc càng không thể đòi hỏi quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với một vùng biển rộng lớn nằm trong đường đứt đoạn. Lập luận thứ hai được các học giả Trung Quốc sử dụng để giải thích về đường đứt đoạn là: do đường này được vẽ ra từ 1947, nên Trung Quốc có thể đòi hỏi đối với vùng biển nằm trong đường này một “danh nghĩa lịch sử” nào đó hoặc, như yêu sách của chính quyền Đài Loan, coi đây là “vùng nước lịch sử”. Theo Phan Thạch Anh cũng như hai học giả Đài Loan Lý Tấn Minh và Lý Đức Hu (Li Jinming &?Li Dexia, The dotted line on the Chinese map of the SCS, Ocean Development & International Law, 2003) thì do con đường này đã tồn tại hơn nửa thế kỷ và không quốc gia nào phản đối nên đã tạo ra một danh nghĩa lịch sử cho Trung Quốc. Cần phải nhắc lại rằng, tại Hội nghị Luật biển của Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 các quốc gia đã không nhất trí được việc đưa vào Công ước Luật biển 1982 những quy định cũng như định nghĩa về vùng nước lịch sử. Tuy vậy, từ những tranh luận tại hội nghị, có thể rút ra những tiêu chí để một vùng nước có thể được xem xét danh nghĩa lịch sử gồm: Yêu sách phải công khai; quốc gia yêu sách phải thực hiện quyền lực nhà nước một cách hiệu quả, liên tục và hòa bình trong một thời gian dài; yêu sách phải được các quốc gia liên quan công nhận. Dù rằng luật pháp cũng như thực tiễn quốc tế từ cổ chí kim chưa bao giờ công nhận “danh nghĩa lịch sử” hoặc quy chế “vùng nước lịch sử” đối với vùng biển rộng lớn như yêu sách của Trung Quốc, nhưng cứ thử xem xét một cách khách quan liệu Trung Quốc có thể đáp ứng được những tiêu chí nêu trên hay không. Thứ nhất, rất dễ thấy là tất cả các hoạt động hàng hải, dầu khí và nghề cá... của các quốc gia trong và ngoài khu vực biển Đông đều không hề vấp phải bất kỳ sự ngăn cản nào từ phía Trung Quốc ít nhất là cho mãi đến tận những năm 1990 của thế kỷ trước. Do vậy cũng là dễ hiểu khi mọi người đều nghi ngờ về việc Trung Quốc có thể đáp ứng được tiêu chí thực hiện chủ quyền thực sự một cách liên tục và hòa bình trong một khoảng thời gian dài từ sau năm 1947. Thứ hai, các quốc gia trong khu vực đều không thừa nhận cái gọi là “các quyền lịch sử của Trung Quốc”. Trái lại, họ đều đã đưa ra những quy định của mình về các vùng biển và cùng nhau ký kết các hiệp định phân định các vùng biển chồng lấn cũng như các thỏa thuận hợp tác khác trong biển Đông bất chấp sự phản đối của Trung Quốc... Đó là chưa nói đến những tranh chấp về chủ quyền đối với các quần đảo trên biển Đông. Đường 9 khúc đứt đoạn được Trung Quốc thể hiện trong sơ đồ đính kèm công hàm ngày 7.5.2009 cũng không thể mang lại cho Trung Quốc quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển nằm phía trong đường này theo quy chế của Vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Công ước Luật biển 1982. Vì bản chất tiến bộ của Công ước Luật biển 1982 là sự công nhận và mở rộng quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển được bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên gắn liền với lãnh thổ của mình. Một con đường không rõ ràng nằm cách xa lục địa Trung Quốc hàng ngàn cây số liệu có thể đáp ứng quy định của Công ước Luật biển 1982. Trong một tài liệu nghiên cứu về các tranh chấp trên biển Đông, Brice M.Claget, một luật sư người Mỹ đã nhận định: “Yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền “lịch sử” và quyền đối với hầu hết biển Đông và/hoặc đối với đáy biển và lòng đất của nó là trái với sự phát triển toàn diện của luật biển quốc tế hiện đại và không thể coi là một vấn đề luật pháp nghiêm chỉnh” (“Competing Claims of Vietnam and China in the Vanguard Bank and Blue Dragon areas of the SCS” Journal Oil and Gas Law & Taxation Review, vol. 13 issue 10 Oct, 1995 và vol. 13 issue 11 Nov. 1995). Như vậy, xét theo luật pháp quốc tế hiện đại cũng như luật pháp quốc tế cổ điển thì yêu sách đường đứt đoạn 9 khúc của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở khoa học, không có giá trị pháp lý quốc tế và không ai có thể chấp nhận được. Một việc làm không phù hợp với xu thế của khu vực Người ta có thể hiểu được vì sao mà Trung Quốc trong nhiều năm đã in các bản đồ có thể hiện đường đứt đoạn 9 khúc, nhưng lại không công bố chính thức yêu sách của mình trên biển Đông theo con đường này. Ngoài những lý do đã phân tích ở trên thì có lẽ sự thận trọng của Trung Quốc xuất phát từ sự cân nhắc đến tác động của việc đưa ra yêu sách này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến hình ảnh về một đất nước Trung Quốc đối với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Liệu hình ảnh mà nhân dân Trung Quốc đã dày công xây dựng về một đất nước Trung Quốc yêu chuộng hòa bình, hữu nghị và hợp tác có còn được nguyên vẹn trong con mắt của nhân dân các nước láng giềng sau khi Trung Quốc chính thức đưa ra yêu sách đối với 80% diện tích của biển Đông? Liệu việc làm này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sự đánh giá của các nước ASEAN đối với những chính sách và việc làm phù hợp với tinh thần của Tuyên bố về ứng xử trên biển Đông (DOC) trước đó của Trung Quốc? Với vị trí địa chính trị, cấu tạo tự nhiên và hoạt động kinh tế - xã hội liên kết giữa các quốc gia, biển Đông là ngôi nhà chung của các quốc gia trong khu vực. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã có nhiều cố gắng để duy trì hòa bình, ổn định và phát triển hợp tác quốc tế trên biển Đông. Việc công khai đưa ra yêu sách về đường đứt đoạn vào lúc này chỉ làm cho tình hình trên biển Đông thêm phức tạp, đi ngược lại xu thế và nỗ lực của các nước trong khu vực cũng như cộng đồng quốc tế muốn tìm kiếm một giải pháp ổn định lâu dài cho những tranh chấp biển Đông. Các vấn đề trên biển Đông cần được các nước trong khu vực, trên tinh thần tôn trọng chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, tìm ra một giải pháp công bằng mà các bên có thể chấp nhận được. Quốc Pháp
-
Đừng có lo. Có Si Phọ! :rolleyes:
-
Chọn tháng đại lợi 12 âm 2009: -10/12 âm nhằm CN 24/01/2010 dương lịch, bỏ trầu, bỏ rượu hay ăn hỏi. -24/12 âm nhằm CN 7/2/2010 DL, lễ bái thành hôn 11g30 đến 13g30
-
Đồng đã nói rồi, không sợ xung sát gì cả. Cứ sinh đứa Tân Mão thì gia đình sẽ khá. Tứ Xung hóa thành Tứ Phúc là có cơ sở dựa trên lý thuyết Luận Tuổi Lạc Việt của Sư Phụ Thiên Sứ. Năm nay có tuổi làm nhà, nhưng phải xem tiến độ thi công. Có job, nhưng nhanh thì 2 năm sau mới được như ý hay thành bại như ý.
-
gửi meocon275 tháng 11 âm là đại lợi: Tháng này chỉ có 2 ngày hoàn toàn tốt. -ngày 6/11 tức là 21/12/09 dương lịch. Ăn hỏi. -29/11 âm tức là 13/01/2010 dương lịch. Lể thành hôn trong khoản 9g30 đến 11g30. Nữ không kị tam tai gì cả. và tuệt đối không chọn tháng 8 âm làm lễ cưới, vì cưới tháng này sẽ hại cha mẹ chồng cha mẹ vợ. Thiên Đồng
-
Khen thay cho người yên của bạn không tin tử vi mà vẫn tiến tới hôn nhân với bạn. Đấy là phúc cho bạn ở hiện tiền. Đáng thương thay cho những người thân của bạn "không thấy mà tin", lại "nghe lời sàm của các thầy mà tin". Ấy là tội - nghiệp. Tựu chung có cái tin mà hại người, có cái không tin mà tốt cho người, hay ngược lại. Ở đây, Lý học không giải quyết mọi vấn đề trên cảm tính hay niềm tin mà dựa trên một hệ thống lý thuyết nhất quán và hoàn chỉnh. Hệ thống lý thuyết đó có tính khách quan, tính hệ thống, tính quy luật, có thể giải thích mọi sự vật hiện tượng liên quan đến nó và có khả năng tiên tri. Đó là lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Tin hay không hiệu quả nó vẫn vậy. Và từ lý thuyết này đi đến một kết luận rất đơn giản mang đầy sự tự do, tính nhân bản và đem lại hạnh phúc cho nhân loại là: Yêu nhau thì cứ lấy nhau Chẳng cần xem tuổi sách Tàu sách Tây Sinh con thì phải hỏi thầy Tuổi con kị hợp...việc này chớ khinh Chúc hạnh phúc
-
Hữu tâm tức quái đạo Vô tâm tức chân đạo tam dịch: Có tâm nghĩa là sai đạo không tâm mới là chân chính đạo. Trích "Tuyệt quán luận" của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Các pháp đều không ngoài lý Âm Dương. Ai đạt được trạng thái Thái cực mới gọi là Đạo.
-
gửi xuquang, theo quẻ Kinh Tốc Hỷ thì là đã có hỷ tín rồi mà hả? Đợi lâu gì đâu? (5/7/kỷ sữu g. dậu) Thiên Đồng
-
Sự thật về thuật phong thủy? Đỗ Hoàng Giang Tạp chí Hà Nội Ngàn năm số 33, 34, 36,37 nguồn: chungta.com Khổ lắm, nói mãi, nhàm tai... nhưng có vẻ như chẳng mấy ai biết rõ cái bí mật này, mà có biết vẫn... dị đoan mới lạ! Ví dụ ngay ông bạn thân tôi vốn sùng tín, để xây một căn nhà 4 tầng đã chạy đôn đáo lựa thợ, chọn vật liệu, nhờ người giám sát quá trình thi công và đương nhiên không. thể thiếu một thầy địa siêu đẳng cúng vái thổ thần quản lý khu vực, chọn ngày giờ khởi móng, đổ trần xong lại còn hàn cả long mạch và yểm bùa chú bốn phương trừ tà... Tưởng rằng cẩn trọng đến thế không chút sơ sảy nào, nhưng nhà chưa hoàn thành thì bố mát, năm tiếp theo phải vướng kiện tụng liên miên, năm tiếp nữa con thi trượt Đại học, rồi đến sức khỏe bệnh tật mọc ra ầm ầm chẳng biết kêu ai vì đã xem phong thủy địa lý kỹ lắm rồi kia mà? Bà chị tôi cải tạo, lên tầng hai lợp tôn mỗi căn nhà cấp 4 cơ quan chia cho, cũng tất tả ngược xuôi từ Diễn sang Hà Đông nhờ thầy kén ngày giờ tốt, xem tuổi cả mẹ lẫn con, vậy mà mái chưa lợp xong đã thấy đơn hàng xóm gửi đến tận cơ quan khiếu nại chỉ vì lấn chiếm khoảng không tập thể! Cô bạn tôi thì khác, mua được mảnh đất ở Định Công bèn tức tốc xây ngay, khốn nỗi xem nhiều thầy quá mỗi người nói một phách, không biết tin theo ai, bèn chọn bừa một ngày dương và ngày âm có tống số đẹp nhất đào móng, xây ào ào thế mà mọi việc cũng ổn cả, chẳng làm sao? Chuyện cậu tôi lại càng vô thưởng vô phạt khánh thành ngôi biệt thự kiểu Pháp tại khu xóm Chùa xong, chỉ được hưởng thụ mỗi hai tuần đã phải ngậm ngùi khăn gói quay lại căn hộ lắp ghép cũ, vì có ông Tây thuê dài hạn nhà mới mất rồi, chẳng kịp biết ở tốt hay xấu nữa. Hình như đã thành thông lệ, hễ cứ chọn đất xây nhà xong tốt đẹp thì không sao, còn gặp biến cố trục trặc, mất mát thua thiệt gì là người ta đổ riệt tại phong thủy rồi ân hận vì không nhờ thầy địa lý giúp đến nơi đến chốn hoặc hậu đãi thầy chưa cẩn thận... Kể qua vài câu chuyện mới thấy địa lý phong thủy vốn là một vấn đề tạo nên tâm lý và tác động rất lớn đến đời sống của con người từ xưa tới nay. Bất cứ một nền văn hóa nào cũng tìm được chỗ đứng thích hợp trong quá trình phát triển của xã hội. Những tri thức cổ do người xưa để lại không chỉ bắt nguồn và tồn tại ở trong phạm vi vùng miền, khu vực mà còn tạo ảnh hưởng nhất định, lan truyền tương tác, du nhập mở rộng đến phạm vi châu lục. Phương Đông chúng ta giáp với một số nước nằm trên ngưỡng cửa lục địa Á - Âu nên cũng có đôi nét tương đồng về quan niệm phong thủy. Ví dụ Hy Lạp cổ đại có cuốn sách Bàn về gió, nước và hoàn cảnh cuốn sách này đưa ra một số quy định về quan hệ, tác động lẫn nhau giữa con người, xã hội và hoàn cảnh sống như: bệnh tật của cư dân thành thị thường liên quan tới vị trí nhà ở và hướng gió, nguồn nước và chất lượng nước quyết định tới sức khỏe con người, cư dân ở vùng nóng bức ẩm thấp sẽ sinh lười nhác không thích những hoạt động mạnh mẽ, cư dân ở vùng mưa nhiều khí hậu biến đổi thì cần cù, dũng cảm, nóng nảy, cư dân vùng khô cằn hình thể gày yếu, tính tình cố chấp. Một cuốn sách nữa thời Hy Lạp cổ có tên là Hồng Hải lại trình bày và phân tích mối quan hệ giữa con người và các dòng sông, nhưng tất cả các cuốn sách này đều có chung một đặc điểm là hoàn toàn không mang màu sắc mê tín, chỉ thuần chất khoa học. Cũng như vậy, người Ai Cập cổ đại cũng nghiên cứu một loạt những kỹ thuật đặc biệt khi xây dựng Kim tự tháp: tất cả các tháp đều nằm theo hướng từ trường Bắc - Nam của trái đất, tháp xây bằng đá hoa cương, có tính năng nạp điện, hấp thụ và bảo tồn tia vũ trụ, vỏ ngoài tháp xây bằng đá vôi có khả năng ngăn sự khuếch tán các tia năng lượng từ trong lòng tháp vì vậy nó bảo tồn các xác ướp được lâu dài. Những thí nghiệm hiện đại cho thấy: hoa quả để trong Kim tự tháp sau nửa tháng vẫn tươi nguyên, những người bị bệnh ngoài da hay thần kinh suy nhược đều điều trị rất hiệu quả trong tháp. Còn ở Châu Á, các nhà khoa học cho rằng các nước gần nhau về địa lý nên chịu ảnh hưởng và tiếp thu thuật phong thủy của nhau gồm có nhóm nước Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên. Tại Nhật, sau thời đại cải cách đã có cuốn Tác đình ký, đây là cuốn sách chỉ dẫn con người ta cách điều chỉnh dòng nước chảy sao cho mang lợi cho cư dân sống quanh đó nhất, đồng thời cũng giới thiệu cách trồng cây và loại cây giúp tránh bệnh tật ốm đau. Ngoài ra cũng có cuốn Cổ sự ký nói về cách bày biện, bố trí nội thất trong nhà và giữ thần trông bếp. Tại Trung Quốc, thuật phong thủy thịnh hành lâu đời nhất và có ảnh hưởng quyết định đến những trường phái địa lý, phong thuỷ khác ở các nước láng giềng, trong đó có nước ta, thông qua những bộ sách kinh điển đồ sộ như: Thất lược, Văn hiến thông khảo, Sùng văn tổng mục, Bạn thư ngẫu ký, Tứ khố toàn thư tổng mục, Bát trạch... Có thể nói, phong thủy liên quan chặt chẽ đến Nho giáo. Các sách phong thủy đều dẫn luận điểm của các bậc tổ sư đạo Nho như Khổng Tử, Chu Hy, Trình Di và đưa ra nguyên lý tam tài: Thiên - Địa - Nhân trong đó Địa là quan trọng nhất vì như cuốn Phong thủy khuyết danh viết: Trong ba đạo thì đạo đất là quan trọng hơn cả. Những gì đẹp đẽ ở trời đều do bởi đất. Phàm những gì phụ thuộc vào trời đều có gốc rễ ở đất. Thuật phong thủy Trung Hoa còn coi trọng Tam cương (khí mạch, minh đường, thủy khẩu) và Ngũ thường (long, huyệt, sa, thủy, hưởng): Đặc biệt là phong thủy rất tôn trọng trật tự đẳng cấp giống như ở triều đình phong kiến. Phong thủy chỉ phát huy được tác đụng nhờ vào thầy phong thủy. Đặc trưng của các thầy phong thủy chính là những người không may mắn trên khoa trường vì gần như tất cả những thầy địa đều là những kẻ thi trượt, thất chí lấy phong thủy làm nghề nghiệp kiếm sống và quảng bá tài năng của bản thân trên một khía cạnh khác của kiến thức. Nước ta cũng chịu ảnh hưởng Nho giáo từ ngàn năm trước, nên những lý thuyết về địa lý phong thủy chủ yếu do du nhập vào rồi phát triển thêm dựa trên thuật phong thủy Trung Hoa, điều này rất dễ nhận thấy qua chuyện dã sử về thầy địa lý Cao Biền. Dân ta cũng được biết đến những nhân vật tinh thông địa lý thuần Việt nhất là Tả Ao, người gốc Hà Tĩnh, mà những kiến thức của ông đã được tập hợp thành bộ sách cùng tên rất nổi tiếng trong dân gian. Vậy rút cuộc phong thủy là tôn giáo hay mê tín? Hãy xét những đặc điểm chính của phong thủy rồi ta có thể đưa ra kết luận. Đó là: Tính chất phổ biến rộng rãi. Kể từ hơn 2500 năm trước cho đến thế kỷ XXI phong thủy không những vẫn tồn tại cùng xã hội mà còn lan rộng tới mọi vùng miền và các tầng lớp xã hội, thậm chí nó còn hòa trộn vào tập tục địa phương một số nơi để hóa thân thành phong tục văn hóa cổ truyền. Tính chất thần bí, nửa công khai: Không chỉ vì lý thuyết rối rắm phức tạp, mờ ảo của nó mà các thầy địa lý còn thêu dệt nhiều tích ly kỳ, lồng vào các nhân vật lịch sử hoặc dã sử rồi ra sức thổi phồng lên thành truyền thuyết về linh thiêng liêng, định mệnh của thuật phong thủy. Tính chất vòng vo, rắc rối: Người ta vẫn đồn câu: ba năm tướng địa, mười năm điểm huyệt, như thế phải mất 13 năm mới xác định được nơi đất phát, còn tiếp theo có phát không phải đợi số! Hơn nữa, lý luận phong thủy không có hệ thống chặt chẽ và không thống nhất nữa các trường phái, tiêu chuẩn chính xác là do mồm các thầy phán xét. Tính chất lừa bịp: Đã là thầy địa thì phải tán tụng phong thủy lên mây xanh mới có cửa kiếm ăn. Nhưng nếu tính ý ra thì hiểu ngay chẳng qua là thủ đoạn bán mộc - bán giáo của các thầy thôi: mộc tết không gì đâm thủng và giáo sắc đâm đâu cũng thủng, vậy mộc ấy bị giáo ấy đâm thì sao? Can cớ gì thầy không tự cứu lấy mình trước? Tính chất bảo thủ giả hiệu: Các thầy địa thường khắng định mình nắm giữ những kiến thức, kinh nghiệm bí truyền, gia truyền không thể tiết lộ cho ai, chỉ mình hành sự để giữ thiên cơ! (thực ra thầy sợ nói ra mất bản quyền kiếm ăn). Nhưng sau lại thu nạp đệ tử để truyền lại mong sao có người nối nghiệp rồi tôn vinh tên tuổi mình? Tính chất thực dụng: Thầy phong thủy tự đánh giá mình khi hành nghề cũng giống như thầy giáo hay thầy lang đều bán kiến thức để kiếm sống. Nhưng xét về bản chất thì không hề giống nhau bởi không gì có thể so sánh với tri thức và tính mạng con người, trong khi đó thầy phong thủy chỉ cốt sao cho thỏa mãn cái muốn của gia chủ về tài lộc, địa vị, tương lai nhằm kiếm khoản hậu tạ. Các thầy địa trong xã hội bây giờ hầu hết căn cứ vào tiền thù lao để định tướng địa, tiền càng nhiều thì xem càng kỹ, còn kết quả cụ thể thì đương nhiên phải đợi số rồi! Từ xưa đến giờ, nhiều thầy phong thủy luôn tự vỗ ngực rằng chỉ giúp dân cầu phúc, nhưng khi vào cuộc rồi vẫn căn cứ vào nhu cầu ý muốn của gia chủ để tính giá cao thấp. Nói đúng ra thì họ coi đó là một nghề kiếm cơm, làm giàu bằng phương pháp thôi miên hóa những khổ chủ cả tin, ít hiểu biết thông qua những kiến thức cổ mù mờ, khẩu ngữ bí ẩn, dụng cụ thô sơ nội dung nhuốm màu hoang đường. Thuật phong thủy tuân theo một số nguyên tắc chính yếu cùng những nhu cầu kiên thức không giản đơn chút nào. Một số người cho rằng chỉ cần quen biết vài thầy phong thủy chuyện trò dăm cuộc, ghi chép đôi điều cốt lõi coi như đã hiểu về tướng địa! Nhưng đó chỉ là những thầy thấp tay, lòe bịp kiểu chợ búa thôi chứ muốn khẳng định mình là thấy địa trứ danh, có mác hiệu xịn cần phải đọc nhiều loại sách, kể cả sách quý hiếm, tư liệu, lịch sử, truyền thuyết kinh điển. Như cuốn cẩm nang Phong thủy giảng nghĩa giới thiệu: Bước đầu học địa lý, phải phân biệt âm dương, tam hợp, song sơn, ngũ hành, sinh vượng, tứ tuyệt rồi sau đến bát quái, long mạch, núi, địa hình... rồi tất cả những điều ấy đem ra thực hành cho cả người sống và người chết. Sau khi nhập môn xong, các thầy địa thực tập lại phải hiểu được những khái niệm thông thường nhất của nghề như Khí (một loại vật chất trìu tượng phát sinh từ tinh thần, tồn tại ở mọi nơi và không ngừng vận động biến hóa mà thuật phong thủy coi đó là yếu tố gốc của vạn vật), Tứ tượng (gồm Thái dương, Thái âm, Thiếu dương. Thiếu âm vận dụng vào địa hình xem tốt xấu, lành dữ), Bát quái (sinh ra từ thuyết âm dương, quy định ứng vào các vùng đất khác nhau để xác định phương vị), Hình thế đất (chủ yếu dùng để quan sát núi gồm có 5 thế rồng của 5 hướng, rồi lại căn cứ vào hình đáng, tư thế chia thành 9 rồng như rồng quay đầu, rồng bay, rồng nằm...). Các thầy địa từ xưa khi hành nghề có rất nhiều dụng cụ đầu tiên phải nói đến la bàn, trên đó có đủ các thông tin cần thiết để phán. Tiếp theo là những biện pháp cứu vãn những điểm hung họa sắp hoặc đang xảy ra để biến hung thành cát như: Dùng mai thạch trân trạch thần - dùng gương soi trấn sơn binh. Các thầy còn sử dụng bùa chú yểm, vẽ lên cây, đeo vào người, treo trước nhà hoặc chôn xuống đất gọi là bùa Ngũ nhạc, bùa trấn tứ phương, bùa tam giáo cứu trạch... những bùa này vẽ bằng màu son lên miếng gỗ có kích thước quy định và treo theo ngày giờ. Các thầy cũng viết chữ lên tảng đá hoặc chôn yểm hình nhân, súc vật bằng gỗ, đất hay chiếu gương soi để trấn hưng (giờ đây nhiều nhà thành thị cũng đua nhau treo miếng gương bát giác lên cửa ra vào để trừ tà)! Thật ra tất cả những vật dụng này chỉ mang tính an ủi tâm lý chứ không thể ngăn chặn được điều gì. Ví như chỉ một chữ thiện hoặc phúc viết lên miếng gỗ mà có thể trừ được tà ma, đuổi bệnh tật, mang lại phúc lành thì tại sao mỗi chúng ta và cả thầy phong thủy nữa cứ đeo dăm bảy cái bùa trong người hoặc treo yểm từ trong buồng, giữa nhà ra vườn để mãi mãi được yên ổn giống như tiêm vac-xin phòng bệnh vậy? Nếu như hiểu rằng càng đeo nhiều bùa chú càng tết thì tội gì không đeo thay đồng hồ, dây chuyền, nhét vào ví để tiền lúc nào cũng vào như nước, mọi bệnh tật kể cả cúm gà, HIV, ung thư đều phải chào thua? Liệu có thầy địa nào dám chắc là dùng bùa chú đảm bảo không bị đạo chích đào tường phá két sắt không bị chập điện, hỏa hoạn và thậm chí động đất thì nhà chúng ta vẫn trơ trơ cùng tuế nguyệt? Và nếu thế những thầy phong thủy phải chung sức mở hắn nhiều tổ hợp sản xuất bùa cho toàn dân thì mới đủ đáp ứng nhu cầu! Có lẽ tập đoàn những thầy địa cũng đang có ý định ấy chăng? Ngoài bùa chú ra, các thầy phong thủy dùng một số đồ nghề khác nữa như Thổ khuê (gậy căn cứ vào bóng nắng xác định phương hướng), Thổ quy (dụng cụ đo bóng nắng để phân định bốn mùa), những dụng cụ này ít nhiều mang tính khoa học ứng dụng. Bên cạnh đó, còn có Kim chỉ nam (một dụng cụ giống như cái môi múc canh xoay tròn tự do trên mặt bàn tròn, cán môi chỉ hướng nam trên mặt bàn khắc thiên chi, bàn đồng tâm chồng lên nhau: bàn tròn gọi là thiên bàn tượng trưng cho trời, bàn vuông gọi là địa bàn tượng trưng cho đất. Giữa thiên bàn vẽ chùm sao Bắc Đẩu, ngoài cùng có 28 sao và 12 chữ số. Địa bàn có ba tầng vẽ thập can và thập nhị chi cùng 28 sao). Khi hành sự trên thực địa, các thầy còn dùng cả thước đo đó là một dụng cụ bằng kim loại dài khoảng 1m, chỗ tay cầm giống như hai tai kéo khi gập lại còn khi mở ra sẽ xoay thành góc 90 độ, thực chất đó cũng là thanh sắt từ hoạt động theo nguyên tắc kim chỉ nam. Mỗi thầy phong thủy đều có một bí quyết riêng không ai giống ai để khẳng định mình giỏi hơn hết thảy, chính vì vậy trên cùng một dụng cụ nhưng các thầy có thể phán hoàn toàn khác nhau và ai cũng cho là mình đúng còn các thầy khác sai tuốt! Nhưng dù sai hay đúng cũng không thể còn đất dụng võ nữa. Lấy ví dụ như cách tìm long mạch chẳng hạn. Long mạch trong thuật phong thủy vốn là một phạm trù hết sức phức tạp về lý thuyết và càng mông lung trên thực tế. Muốn tìm được long mạch phải xác đính được vị trí núi tổ. vì tổ sơn là căn nguyên của cát hung. Tìm được tổ sơn rồi lại phải phân định long mạch xấu hay tốt. Phân tích xong cuối cùng phải tính đếm xem có dùng được không bởi có những long mạch dài xa trên ngàn dặm, loại tương đối cũng vài ba dặm! Ngày xưa chuyện đơn giản vì đất quê ta mênh mông. dân cư thưa thớt chọn chỗ nào cũng ổn, nhưng bây giờ thì khác, nếu long mạch ở giữa đường cao tốc hay trong khu công nghiệp hoặc trúng vào khu vườn cây xuất khấu thì đố thầy địa nào dám cuốc đất lên mà yểm long mạch? Hơn nữa, cách xem cát địa còn phải phụ thuộc vào ngộ tính trời cho từng thầy, tức là mắt phải thấu thị xuyên qua mấy mét đất thì mới chọn đúng chỗ, mà muốn có đôi mắt thần kỳ ấy ngoài khả năng thiên bẩm ra thì không hiểu phải mất bao lâu thầy địa mới luyện được tuyệt chiêu ấy? Thời buổi bây giờ thị lực ai cũng suy giảm vì thiết bị điện tử, chắc là các thầy phong thủy dù muốn cũng không thể trông chờ vào những dược phẩm thông thường như Tobicom hay Rhoto để có ngộ tính cao siêu được! Tất cả sách vở, kiến thức phương pháp, bí quyết về phong thủy của các thầy địa tóm lại chỉ nhằm đến một mục đích cuối cùng là chọn đất, nhà ở cho người sống (dương trạch) và chọn đất mộ huyệt cho người chết (âm trạch). Nhưng cơ sở của việc chọn lựa này có thể tin được không? Trước hết, thuật phong thủy cho rằng có hai loại khí ảnh hưởng đến nhà ở là nạp khí và sắc khí Nạp khí là những loại khí dẫn đến nhà ở từ các phương hướng khác nhau. Sắc khí là loại khí tự bốc lên mang tính lành dữ từ nhà đất ở cả hai loại khí này đều được xác định trên cơ sở vô hình và không rõ ràng vì chẳng ai nhìn thấy, mọi tốt xấu đều do ý thầy địa phán quyết. Các thầy còn nói rằng trên nóc nhà thường có khí nhiều màu sắc với ý nghĩa khác nhau, nào là: tía phát tài, trắng mất của, đen phạm pháp, xanh cờ bạc. Dù thế đi nữa mà bây giờ mời thầy địa cao tay nhất đến xem trên nóc nhà chung cư 23 tầng có khí màu gì và ý nghĩa với ai thì chắc hẳn các thầy phải treo ấn chào thua! Từ xưa đến nay trong lĩnh vực xây dựng, tất cả mọi người đều mong muốn tìm được miếng đất đẹp đẽ vừa đảm bảo kiến trúc bền vững vừa có thể sống tốt. Về nguyên tắc chung thì các triết gia cổ đều chung ý kiến là nhà ở phải hòa hợp với thiên nhiên, kề núi sông, đất đai màu mỡ và móng nhà không lún. Những điều này đều thực tế' có lý và thuật phong thủy cũng nêu ra những kiêng kị về khí, mạch của tướng địa như: không làm nhà trên sườn núi hoặc dưới thung lũng (tránh lũ quét hoặc sét đánh), nhà không được làm trên giếng cũ (để phòng ẩm thấp và khí độc), nhà không làm ở ngã ba đường (có thể nguy hiểm vì phương tiện giao thông)... Thuật phong thủy cũng có một số nhận định về cây trồng có lợi cho sức khỏe và sản xuất của cư dân nhưng lại kèm theo một loạt điểm báo vô căn cứ: cây cối bao quanh nhà thanh nhàn hạnh phúc, cây thùy dương trước cửa chết treo xà nhà, độc thụ chặn cổng mẹ góa con côi. trúc mộc quấn quýt đủ ăn nhiều lộc, cây hòe trước cửa vinh hoa phú quý... Nguồn nước quanh nhà cũng chia làm 6 loại cát hung và đều có ảnh hưởng đến gia chủ như: nước chảy uốn khúc đẹp gia cảnh phát đạt, nước hướng thẳng vào nhà mất người, ao to trước cửa không thọ, ao to sau nhà chết yểu... những điếu này không thể giải thích được nhưng thực tế thì lạc hậu vì thời nay ao cũng đang biến mất dần, đến cống rãnh cũng bị lấp đi xây nhà cho thuê thì ảnh hưởng của nước chỉ phụ thuộc vào mỗi nhà máy nước sạch và cùng lắm là thùng lọc gia đình mà thôi. Về vấn đề nhà ở thì người xưa xây nhà rất hoành tráng (nếu so sánh với hiện nay): sân có tường rào, trong cổng có đình, tiếp đến sảnh lớn, bên trái là hiên, sau là buồng ngủ, bên phải là nhà học. Phòng ở còn chia làm 5 hình dáng theo tính chất ngũ hành, rồi kích thước nhà ở có quy định để tránh điềm dữ... những điều này cũng không ai lý giải được tại sao, có lẽ chỉ dựa vào kinh nghiệm phỏng đoán. Còn thời buổi bây giờ đất ở nông thôn cũng không nhiều để xây nhà thoải mái như vậy vì người đẻ đất không đẻ, thậm chí tại thành phố nơi tấc đất tấc vàng, sân chung tập thể cũng bị lấn chiếm làm của riêng thì ai dại gì bỏ phí từng cm2? phong thủy cũng cho rằng nhà ở tết nhất hình vuông, tường bao tết nhất hình tròn và cửa rất được coi trọng vì nó là khí khẩu (đường dẫn khí ra vào), cửa nên mở theo hướng dân gian ca tụng là Nam hoặc Đông - Nam thì rất thoáng mát nhưng dân mình còn sáng tạo cả nhà hình ống, nhà mỏng dính, nhà hình thang có cần gì đến phong thủy đâu? Nội thất trong nhà và các đồ dùng như giường, bếp, tủ đều phải đặt hướng tốt nhất nói vậy những gia đình ngũ đại đồng đường đến chỗ ngủ trên sàn còn thiếu nói gì đến xoay thường chọn hướng! Chỉ những nhà riêng 5 - 6 tầng diện tích mênh mông mới có điều kiện thực hành và bày đặt nội thất theo phong thủy và như vậy phong thủy chỉ có ý nghĩa với người giàu. Qua phần đương trạch, thử bàn đến âm trạch. Người xưa cho rằng dương sao âm vậy nên nơi an táng tổ tiên ông bà cha mẹ cũng phải đàng hoàng, đẹp đẽ trước hết là chứng minh chữ hiếu, sau rồi ước muốn các cụ phù hộ cho hậu bối ăn nên làm ra, công thành danh toại. Chính vì tính thiêng liêng và tác dụng dài lâu này nên thuật phong thủy coi trọng âm trạch hơn đương trạch. Quan niệm chôn cất cũng là biểu hiện của nghi lễ nên mộ còn nhiều tên gọi khác nhau và thường do các pháp sư hay táng sư chủ trì nghi lễ. Gọi là phần mộ vì nó liên quan cả đến địa điểm chôn cất nữa. Phần mộ nguy nga và chuẩn mực nhất thuộc về các đế vương với những đặc điểm: diện tích rộng, trang trí bằng các hình điêu khắc đá như các động vật thiêng, binh lính hầu. Chỗ xây cất tốn kém nhất là tẩm, đây chính là nơi sinh hoạt của người chết ở ngay trong mộ. Trong khu mộ trồng cả cây, dựng bia đá, khắc tiểu sử công lao của người mất. Cứ như thế theo định chế cao thấp mà các đối tượng thấp hơn sẽ có mộ nhỏ hơn, những đồ tuỳ táng ít và không qúy, cuộc sống dưới âm nếu có cũng bình thường, còn đối với dân thì càng xoàng xĩnh và chỉ có các thầy phong thủy địa phương đứng ra chịu trách nhiệm tìm đất, chọn ngày giờ làm lễ, hướng dẫn gia chủ cách chôn cất sao cho có lợi nhất. Nhưng nếu áp dụng những hủ tục này vào xã hội bây giờ hẳn ta sẽ phát hiện nhiều điểm không ổn. Thời trước còn chế độ phong kiến nên hình thức gia trưởng thống trị trong tư tưởng từng gia đình, khi đặt hướng mộ chỉ chủ yếu có lợi cho người đứng đầu gia đình hoặc trưởng tộc, chủ đất. Ngày nay mọi quan hệ đều bình đẳng, dân chủ và ai cũng muốn phấn đấu vươn lên trong xã hội, vậy nếu chỉ chọn hướng có lợi cho một người chủ hộ khẩu thì liệu có ích kỷ quá không? Còn muốn đặt hướng tốt cho cả nhà thì có khi phải xoay mộ theo cả 8 hướng mới đáp ứng cho tất cả mọi người được! Điều kiện sống và thực lực vốn có của gia chủ sẽ quyết định việc đặt mộ theo hướng. Ví như ở nông thôn còn nghĩa địa làng hoặc nhà nào có đất riêng thì có thể đặt mộ theo hướng mình thích được (thậm chí các cụ còn cẩn thận lo trước cho mình cỗ áo gỗ tốt và xây trước sinh phần theo tuổi), còn ở những nghĩa trang quy hoạch thống nhất thì sao tự xoay mộ theo hướng vô nguyên tắc được? Hơn nữa, hiện nay phương pháp điện táng đang được đánh giá là văn minh và vệ sinh môi trường thì sau khi áp dụng phương thức này cần gì đến hướng đặt bình tro, chỉ cần một chỗ trên chùa là đủ. Ngày xưa lạc hậu, sự sống chết do tự nhiên (vẫn gọi là số phận), còn ngày nay người ta chọn giờ mổ đẻ ra con quý tử và thậm chí chọn ngày giờ đẹp để rút ống thở ra cho cụ quy tiên! Vậy còn đâu là tính tự nhiên nữa, hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con người chi phối kết quả. Nếu thế, tại sao ta không chọn giải pháp tôn trọng ý muốn của mình hơn là tung hô trí tưởng tượng của thầy phong thủy để đỡ phải tốn tiền oan? Nội dung gốc gác của phong thủy là một loại tri thức người ta dùng để lựa chọn và xử lý hoàn cảnh ăn ở của phần dương trạch (nhà ở cung điện, chùa chiền, bếp...) và phần âm trạch (lăng, mộ, huyệt táng...) nhằm mục đích thỏa mãn tâm lý và sinh lý của con người tránh cái xấu, lấy cái lành. Nếu nhìn trên khía cạnh khoa học, thì phong thủy chính là quan hệ tự nhiên vốn có giữa từ trường trái đất, địa tầng và sức khỏe sinh lý con người. Từ xưa phong thủy có hai trường phái Hình (dựa vào thế đất) và Khí (dùng âm dương bát quái suy ra lành dữ) cho nên hạt nhân cơ bản của phong thủy là nguồn sinh khí một khái niệm vô cùng rối rắm phức tạp bao gồm những quy định về long mạch, huyệt vị, dòng chảy, phương hướng... vì vậy phong thủy là quan niệm duy lý lưu truyền hàng ngàn năm, ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống hiện tại, trở thành một tín ngưỡng vô hình và là tục lệ ám ảnh xã hội mà không sao giải thích rõ ràng được. Cũng cần nói thêm, không chỉ ở riêng nước ta, các dân tộc trên bán đảo Ban Căng cũng từng đề cao yếu tố gió - nước tác động đến con người qua những nghiên cứu của Hipocrát Olimpia, Acrantit... rồi người Ai Cập cổ đại đã xây Kim tự tháp bằng đá theo hướng từ trường để nạp điện, hấp thụ các tia vũ trụ bảo quản xác ướp và hầu hết các nước Đông Á khác đều thịnh hành thuật phong thủy nhu Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Myanmar... Thông qua rất nhiều điều nghiên xã hội sâu rộng, người ta có thể xác định được nguyên nhân phát sinh quan niệm phong thủy chính là vì con người nhận thấy sự nhỏ bé bất lực của mình trước thiên nhiên bao la bí ẩn, trở nên sùng bái thiên nhiên, tìm mọi cách để tương thích. hòa thuần cùng môi trường sống. Bởi vậy, người ta tôn sùng Trời (nơi quy định số phận sống chết sướng khổ của con người), Đất (nơi người ta phải sống phụ thuộc cả cuộc đời no đói lành dữ), Núi (nơi được coi là chỗ trú ngu của thần thánh). Gió (được coi là sự biểu hiện tính khí hơi thở của Trời), Nước (là nguồn gốc thủy tổ của mọi sinh vật có thể đem lại hạnh phúc hay tai họa khôn lường), Rồng (là linh vật giỏi biến hóa có thể tạo ra mây mưa, quản lý nước gồm chín loại rồng: quay đầu rồng biển, rồng sa, rồng động, rồng bay, rồng nằm, rồng ẩn, rồng lên mây, rồng tự bầy) và nơi tập trung khi mạch tốt nhất của đất được gọi là long huyệt), cuối cùng con người ta tôn thờ linh hồn của người đã chết, coi linh hồn bất diệt và chi phối đến người sống cho nên phải chọn đất lành cho người chết ngụ cư và phù hộ người sống. Vậy xét cho cùng, bản chất của phong thủy là gì? Đó chính là khái niệm xoay quanh gió và nước. Về khí, các triết gia cổ đại cho rằng khí tồn tại ở mọi nơi, cấu tạo nên vạn vật và khí không ngừng vận động biên hóa quyết định đến họa phúc của con người cho nên khí là gốc của vạn vật có đất là có khí người ta sinh ra từ khí và trở về khí, người sống do khí ngưng tụ lại, người chết phải cần nơi tụ khí vì thế rất nên coi trọng phần mộ tốt để nuôi khí, sinh khí. Gió cũng được chia làm 8 loại (bát phong), mỗi loại gió cách nhau chừng hai, ba tháng: gió đông bắc nóng, gió đông ào ào, gió đông nam hun đốt, gió nam rất to gió tây nam rét buốt, gió tây heo may, gió tây bắc rất độc, gió bắc lạnh lẽo. Thông qua cách xem gió (phong giác), từng loại gió gắn với hậu quả: nghèo túng, khốn khổ, tan vỡ, tuyệt diệt chết yểu, không con... Về nước, quan trọng nhất là nguồn mạch, còn gọi là thảy khẩu, nơi nước đổ vào, chảy ra. Nơi nước chảy đi là địa hộ (cửa đất) bởi thế nước sinh ra của cải, bảo tồn đời sống. Cần phải phân biệt được hai loại nước lành (nguồn nước phải vươn xa, quanh co uốn khúc, quay vòng lại. chứa mạch ngầm) và nước xấu (réo ào ào xông tới ầm ầm hoặc có mùi thối). Có tám thần nước (chia ra làm nhiệm vụ theo các dòng sông, biển lớn): thần Lạc thủy là Mật Phi, thần Trường giang là Giang Phi, thần Tương giang là Tương Quân, thần Đống hải là Ngụ Hổ, thần Nam hải là Hồ Dư, thần Tây hải là Yêm Từ, thần Bắc hải là Huyền Minh và thần cai quản các hồ, suối, ao, giếng... nhìn chung là rất phức tạp phiền toái... Rõ ràng là quan điểm gió - nước của người xưa nặng về mê tín dị đoan, xây dựng theo trí tưởng tượng để tự an ủi về những hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt và tai hại mà tri thức thời ấy không thể giải thích nổi. Giờ đây, nếu nhìn nhận và phân tích thuật phong thủy theo quan điểm khoa học hiện đại, thì đúng là trên mặt đất có những vùng từ trường và địa trường phân bố hoàn toàn khác nhau. Mới đây nhất là cách giải thích những tác động, ảnh hưởng của tia đất ở những khu vực đang được quy hoạch, thi công xây dựng và một vài điểm nóng về tai nạn giao thông ví dụ như Pháp Vân - Cầu Giẽ như một số phóng sự báo chí đã đưa tin. Trên cơ sở nhận thức duy vật biện chứng, con người ta hoàn toàn có thế làm chủ phương pháp áp dụng phong thủy vào việc chọn đất, xây nhà ở. Ngày trước, theo đúng nghiêm luật ra, một công trình kiến trúc hoàn thiện phải hài hòa với thiên nhiên để "nhận khí thiêng của sông núi, tinh hoa của nhật nguyệt", nhằm rèn luyện tinh thần, ý chí, tình cảm dưỡng khí của đất trời và bồi bổ tố chất cho cơ thể (vì lý do hồi ấy chưa điều chế được các loại vitamin tổng hợp)... tất nhiên phải tuân thủ vô số các điều kiện phiền nhiễu như chuẩn bị văn khấn, đồng hồ mặt trời, la bàn, thước đo và phải thuộc lòng ngũ hành, tam hợp, tứ cục, sinh khắc... để chọn cho được long mạch - vấn đề quyết định sự thành bại của thuật tướng địa. Nhưng cuối cùng, sự tài giỏi chính xác của thầy vẫn lại phụ thuộc vào ngộ tính thiên bẩm và các loại bùa chú treo, dán, chôn, yểm... tóm lại xem được chỗ đất làm nhà rất phức tạp, vã mồ hôi trôi tiền của, vô phúc gặp phải thầy địa rởm, dốt thì tai họa càng nặng nề. Tuy nhiên, một số điều kiêng kỵ của phong thủy xem ra cũng khoa học như: Nhà ở không được làm ở cửa ngõ ra vào trên sườn núi hoặc thung lũng tránh lũ quét và sét đánh. Nhà ở không được làm trên giếng cũ vì đất dễ lún gây đổ nhà hoặc rỉ nước mạch mang khí chất độc hay ẩm ướt dễ bị phong thấp. Nhà ở tránh con đường đâm thẳng vào mặt tiền để tránh các phương tiện tốc độ cao hoặc đêm tối lao vào gây tai nạn. Nhà ở không làm nơi ngõ cụt vì ra vào không thuận tiện, hỏa hoạn khó thoát thân. Nhà ở cạnh đền miếu xét về tâm lý cũng không ổn vì vắng vẻ quá tạo hình ảnh cô liêu xa cách cộng đồng, đông đúc quá thì không lúc nào được yên tĩnh... Cây cối quanh nhà cũng có ảnh hưởng nhất định ví dụ cây to tuy cho bóng mát nhưng mùa mưa sẽ dẫn sét, điện vào nhà và rễ cây sẽ làm móng nhà yếu đi. Trong kết cấu nhà ở cái cửa có vai trò rất quan trọng vì nó là bộ mặt, yết hầu, khẩu khí (đường dẫn khí) của toàn thể kiến trúc. Về yếu tố Thủy tất nhiên nơi ở phải có nguồn nước trong sạch và dồi dào để phục vụ các nhu cầu đời sống khác như chăn nuôi, trồng trọt tưới tiêu. Về yếu tố Phong, nếu nhà chật hẹp, không khí lưu thông kém sẽ sinh ra ẩm thấp, bệnh tật vì sâu bọ, vi trùng, nhưng nếu gió lồng lộng suốt ngày tứ phía thì dễ cảm mạo, phong hàn, tai biến não. Người đang sống đã vậy, người đã chết cũng phải tham khảo một số địa thế đất xấu không được mai táng như nơi có đá tảng lổn nhổn, nước xiết đầu ghềnh, nơi đất cụt vô cảm, núi trọc cô đơn, miếu chùa hoang, vùng đất tù đọng núi đồi tản mạn, phong thủy buồn thảm, đất bẩn hẹp và nước ứ tù hãm... chưa biết lợi hại thế nào nhưng trước hết để tạo thuận tiện cho người thân thăm viếng mộ, tỏ lòng thành kính, tình cảm tốt đẹp với tiền nhân đã khuất điều này không có gì sai trái và đã thành phong tục của các dân tộc phương Đông từ bao đời nay. Dẫu sao, đã là một tồn tại xã hội thì vẫn có những đặc trưng lạc hậu nhất định, càng ngày phong thủy càng không phù hợp với đời sống công nghiệp và trở thành công cụ trong tay những thầy địa lý ỡm ờ chuyên đi lừa bịp thiên hạ kiếm tiền. Nào là xoay tại vị trí xalông, giường ngủ cho hợp chủ mệnh giá 1 triệu, chặt bỏ những tác động ám địa, hãm chủ như cành cây chĩa vào nhà giá 2 triệu, chỉnh lại hướng bàn thờ để phát tài giá 3 triệu, đặt mộ đúng hướng, chọn đất tốt để phát số thì giá 5 triệu và hơn nữa... Nhưng tại sao các gia chủ và cả các thầy địa không tự đặt ra một câu hỏi đơn giản rồi tự tìm giải đáp xem: Tại sao các thầy siêu giỏi thế mà không tự đặt, chỉnh, sửa cho mình trở thành tỷ phú, vương giả để khỏi hành nghề này, kiếm tiền vất vả lại còn mang tiếng? Thực tế phát triển khách quan còn đang đẩy nhanh thuật phong thủy địa lý vào chân tường ví như chuyện xây nhà ở cho hàng ngàn hộ dân trong một chung cư cao mấy chục tầng thì đương nhiên vấn đề khảo sát địa tầng, chống lún tránh động đất, phòng cháy vô cùng quan trọng và các kỹ sư thiết kế trên máy đồ họa ba chiều cùng các nhà thăm đò địa tầng có thể giải quyết ổn thỏa mà không cần nhờ đến thầy nào cả. Ngoài ra, các nghĩa trang đều có quy hoạch hàng lối, đài hóa thân trở nên phổ biến và vệ sinh môi trường hơn, vì vậy thủ tục chọn hướng mộ tốt xấu, thế đất phát vượng... trở thành khái niệm phù phiếm của những ai lắm tiền, nhiều đất vì phú quý sinh lễ nghĩa mà thôi. Khái quát lại thuật phong thủy là một hiện tượng văn hóa xã hội tồn tại khá dai dẳng, nếu phân tích kỹ gạt bỏ những thủ pháp, nghi lễ, hình thức mê tín bảo thủ câu nệ thì vẫn còn những kinh nghiệm dân gian đáng học hỏi phục vụ cho việc xây dựng nhà ở thuần túy. Tuy nhiên, với trình độ của khoa học kỹ thuật hiện đại thì thuật phong thủy cũng đáng xếp vào kho lưu trữ để ghi nhớ công sức tìm tòi sáng tạo của các bậc tiền nhân suốt quãng dài lịch sử nhằm phục vụ cuộc sống tốt đẹp yên lành hơn cho con người. Và tất nhiên, phong thủy không phải và không thể là một bộ môn bí hiểm thần kỳ, càng không phải là loại tri thức cao siêu chỉ được chân truyền riêng cho các thầy địa lý như họ đã và đang khuếch khoác bịp bợm để kiếm sống, đó chỉ đơn giản là phương cách để chúng ta tự quyết định lựa chọn ngôi nhà ấm cúng của mình an toàn hơn, tốt hơn và hạnh phúc hơn.
-
Ngày xuân tìm hiểu về phong thủy Cử Đúp Pháp luật “Phong thủy” , một loại hình tín ngưỡng ở Trung Quốc cổ đại. Cho rằng hình thể, hướng gió, dòng chảy xung quanh nhà ở hoặc mồ mả, có thể đem họa, phúc người ở hoặc cho linh hồn người chết. Có người khác lại quan niệm rằng: “Phong thủy, chỉ địa thế, phương hướng đất nhà ở hoặc phần đất mộ nơi chôn cất người chết. Thời xa xưa, người Trung Hoa đã căn cứ vào đó để đoán chuyện lành dữ, tốt xấu của đời sống con người và vạn vật. Mới đây, trường Đại học Đông Nam Trung Quốc vừa xuất bản quyển sách “Nguồn gốc Phong Thủy”, giáo sư Phan Cốc Tây trong lời tựa cuốn sách đã viết: “Nội dung chính của phong thủy là một loại học vấn mà người ta dùng để xử lý và chọn lựa hoàn cảnh ăn ở, cung thất, chùa chiền, lăng mộ, thôn xóm... lăng mộ thì gọi là âm trạch. Phong thuỷ và hoàn cảnh ăn ở, ảnh hưởng chủ yếu trên ba mặt: Một, sự lựa chọn địa điểm tức tìm một địa hình thỏa mãn cả hai mặt tâm lý và sinh lý; hai, xử lý về mặt hình thái trong cách bố trí, bao gồm lợi dụng và cải tạo hoàn cảnh thiên nhiên, hướng nhà, vị trí, cao thấp to nhỏ, cửa ra vào, đường đi, nguồn cấp nước, thoát nước.., nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý tránh cái dữ, lấy cái lành cho con người. Học Viện Dân tộc Trung Nguyên - Trung Quốc cũng có xuất bản cuốn “Tìm hiểu sự lành dữ trong Phong thuỷ nhà ở” tác giả trong "Lời nói đầu" viết rằng: "Trong vốn kiến thức lâu đời của Trung Quốc, có một môn học gọi là Kham D, thông thường gọi là Phong thuỷ. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của tác giả, thì cái gọi là Phong thuỷ, nói theo ngôn ngữ hiện đại là "khoa học và mối quan hệ giữa từ trường trái đất và con người". Về nội dung, môn Phong thuỷ gồm hai phần, phần một là xem xét hình thái của núi, phần hai là xem xét phương và lý khí. Còn một tác giả Trung Quốc khác trong tạp chí “Tri thức Văn Sử” số ra tháng 3 năm 1988 đã viết: “Cái gọi là Phong thuỷ, là tên thường gọi của thuật xem đất. Theo tập tục truyền thống của Trung quốc, mỗi khi xây cất đều phải xem địa hình có được Phong thuỷ hay không, sau đó mới chọn địa điểm thích hợp, tránh đất dữ . Học giả Rosk Kowski - giảng viên khoa Địa lý Trường Đại học New Zealand là một chuyên gia về nghiên cứu Phong thuỷ, ông có tác phẩm “Mối quan hệ Phong thuỷ giữa Văn hóa, thiên nhiên Triều Tiên” . Những năm gần đây, ông xoay qua nghiên cứu về Phong thuỷ Trung Quốc, trong bài đăng trên tạp chí "Nghiên cứu lịch sử khoa học tư nhiên" tháng năm 1989, ông viết : "Phong thủy là một hệ thống đánh giá cảnh quan nhằm tìm một địa điểm tốt lành cho công trình kiến trúc. Phong thuỷ là nghệ thuật lựa chọn địa điểm và bố cục địa lý của người Trung Quốc cổ đại, không thể căn cứ vào khái niệm của phương Tây mà nói một cách đơn giản rằng là mê tín hay khoa học... Phong thuỷ Trung Quốc được xây dựng trên ba cơ sở: (1) Địa điểm này có lẽ cho xây nhà hoặc xây phần mộ so với các địa điểm khác. (2) Địa điểm tốt lành chỉ có thể căn cứ vào những nguyên tắc Phong thuỷ thông qua việc khảo sát địa điểm ấy mà lựa chọn. (3) Một khi đã có một địa điểm như thế, thì tổ tiên và con cháu sống hoặc mai táng ở địa điểm ấy sẽ được hưởng một sự tốt lành do địa điểm ấy mang lại". Ngày nay, người nghiên cứu về Phong thuỷ, ở Trung quốc cũng như ở các nước, rất ít. Các tài liệu đã dẫn ở trên có thể đại diện cho các quan điểm chủ yếu về Phong thủy ở Trung Quốc và các nước. Trong thực tiễn có 3 trường phái về Phong thuỷ, người thì cho là mê tín, người thì bảo đó là học vấn, người thì nói đó là hệ thống đánh giá cảnh quan... Tuy vậy, nếu đứng trên phương diện khoa học ta có thể thấy rằng : Phong thuỷ là một hiện tượng văn hoá, một loại thuật số chọn lành tránh dữ, đã được một dân tộc lưu truyền rộng rãi hàng ngàn năm nay, một loại học vấn về hoàn cảnh và liên quan đến con người, một tổng hợp về lý luận và thực tiễn. Phong thủy có thể chia làm hai phần lớn: âm trạch và dương trạch. Dương trạch là nơi người sống hoạt động, âm trạch là mộ huyệt của người chết. Lí luận về Phong thuỷ các trường phái hình thế và trường phái lí khí. Phái hình thế nặng về hình thế sông núi mà luận về lành dữ. Phái lí khí lại nặng về âm dương, bát quái đế luận lành dữ. Hạt nhân của Phong thuỷ là “sinh khí”. Khái niệm của nó vô cùng phức tạp, đề cập đến long mạch, minh đường, huyệt vị, dòng chảy, phương hướng . Trong phong thuỷ có rất nhiều điều kiêng cữ rất cẩn thận với thời gian, phương hướng, địa điểm. Học thuyết về âm trạch mang đậm màu sắc mê tín, đầu độc dân chúng rất nặng. Lý luận về nương trạch và thực tiễn, có tính hợp lý hơn, có thể biến sự mê tín thành thần kỳ. Việc nghiên cứu Phong thuỷ ở giai đoạn đầu, cần phải đi sâu thêm. Phong thuỷ mà người ta thường gọi trên thực tế bao gồm hai ý. Có khi chi địa hình tốt, phong cảnh tốt. Khi đi chơi trên sông, người ta thường khen : "Phong thuỷ đẹp". Có khi, Phong thuỷ là để chỉ thuật phong thuỷ, tức là lý luận và thực tiễn Phong thuỷ. Phong thuỷ khác với thuật Phong thuỷ. Phong thuỷ tồn tại khách quan. Thuật Phong thuỷ là hoạt động chủ quan của con người tác động vào nó. Bản thế của Phong thuỳ là thiên nhiên, bản thế của thuật Phong thuỷ là con người. Vì thói quen, mọi người thường nhầm lẫn giữa Phong thuỷ với thuật Phong thuỷ. Có điều chú ý xem người ta khi bàn về Phong thuỷ là nói khách quan hay chủ quan, để hiểu người ta nói theo nghĩa nào Phong thuỷ là một thuật ngữ đã được xác định. Quách Phác đời nhà Tấn là người đầu tiên giải thích về quy luật Phong thủy: "Táng (cải táng - chôn) là đón sinh khí. Khi gặp phong (gió) tất tán, gặp nước ngăn lại tất dưỡng, vì vậy gọi là Phong thuỷ. "Vậy đón là đón thế nào? Tụ như thế nào? Thế nào là phong, thế nào là thuỷ?" Quách Phác lại không nói rõ ... Theo kiến thức khoa học thì phong (gió) là hiện tượng không khí chuyển động. Thuỷ là dòng nước. Khí, tức là nơi địa khí (khí đất) . Sinh khí/ tức là địa khí có sinh cư (sức sống). Đón sinh khí là tìm kiếm hoặc lợi dụng địa khí có sinh cư. Phong thuỷ là môn thuật số đón nhận sinh khí của trời đất. Phạm Nghi Tân, người đời nhà thanh, có chú giải tác phẩm "Táng kinh" của Quách Phác như sau: "Không có nước thì gió đến mà khí tán, có nước thì khí dưỡng mà không có gió, do vậy hai chữ Phong thuỷ là quan trọng nhất trong môn Địa học, mà trong đó đất mà có nước là tốt nhất, Đất mà tàng phong (có gió ẩn nấp) thì kém hơn . Như vậy là, nói vấn đề then chốt của xem đất là vì có nước mà tụ khí nếu không có nước, hễ gió thổi là khí tan đi. Chỉ cần có nước, khí sẽ tụ lại. Đất mà có nước là tốt nhất ... Các thầy Phong thuỷ xưa nay bao giờ cũng bắt đầu tìm long mạch, long mạch là khí của đất khí do nước dẫn mà đến, khí do nước cản mà bị ngăn lại, khí tụ lại, không có gió làm tan ra. Có sinh khí, người chôn ở đó sẽ có phúc ấm cho con cháu mai sau. Ngày xưa, dân gian quan niệm Âm - Dương xem con người và môi trường là một. Đó là nhà ở, chỗ làm việc núi đồi sông suối, quả đất và không gian. Nếu bạn hiểu được chút ít về Phong thuỷ thì bạn có thể gìn giữ được sự quân bình bên trong, để được may mắn và cải thiện đời sống của mình. Bởi lẽ môn Phong thuỷ tìm kiếm và tạo ra một môi trường sống, hài hoà, người sinh sống có được sức khoỏe dồi dào. Nó sắp xếp, bố trí, trang hoàng nhà cửa hài hòa giữa con người với thiên nhiên để có được đời sống tốt hơn. Phản hồi của đọc giả Bài viết chưa thể hiện rõ quan điểm khoa học Trần Quang Đại (22/2/2009) Tôi cho rằng, tác giả là người đọc nhiều sách, tham khảo nhiều nguồn tư liệu về phong thủy, song chưa nắm được bản chất vấn đề. Vì vậy, đọc xong bài báo, người đọc không thu nhận được điều gì bổ ích. Rốt cuộc, tác giả không hề đưa ra được bất cứ một kết luận nào: Phong thủy là gì? Bản chất của phong thủy? Phong thủy theo quan niệm của văn hóa, triết học cổ đại Trung Hoa và Việt Nam? Phong thủy xét theo quan điểm của khoa học hiện đại? Chúng ta nên ứng xử như thế nào đối với quan niệm Phong Thủy? Khi tác giả nói "phong thủy xét theo quan điểm khoa học hiện đại" nhưng kì lạ thay, vẫn sử dụng các thuật ngữ, quan niệm của người xưa??? Ví dụ, trong bài viết, tác giả vẫn nhắc đến quan niệm của người xưa về phong thủy liên quan đến việc chôn cất người chết. Xét theo quan điểm khoa học hiện đại, quan niệm tìm vị trí chôn cất người chết để tạo nên sự may mắn, thuận lợi cho cuộc sống là hết sức sai lầm. - Thứ nhất, việc chôn cất người chết phải được quy hoạch một cách khoa học, để tránh lãng phí đất đai và ô nhiễm môi trường. - Thứ hai, vì số lượng người chết cứ nhiều lên, trong khi quỹ đất là hằng số, nên các nước đang khuyến khích các hình thức khác như hỏa táng... - Thứ ba, cách đây hàng trăm năm, để tiết kiệm đất, người Nhật đã tổ chức nghĩa địa tầng, nghĩa là chôn chồng lên nhau. Hình thức này cũng đang được áp dụng ở Singapore... Hai nước này đều đang rất phát triển, tại sao nước ta cứ chăm chú vào phong thủy, chọn vụ trí chôn cất, giờ chôn cất... lại cứ sa sút, giẫm chân tại chỗ... Phong thủy, xét cho cùng, chỉ có giá trị tham khảo, không nên dẫn những thông tin có về huyền bí rồi làm nhiễu loạn nhận thức nhân dân vốn đang rất mê tín... Con người, với trí tuệ và ý chí, sức mạnh của mình mới là nhân tố quyết định đem lại hạnh phúc, thịnh vượng. Triều Nguyễn có lẽ là triều đại chú trọng nhất về phong thủy, phần mộ, nhưng chính triều đại này là phản động, bạc nhược nhất, dâng non sông cho giặc, làm tay sai cho Pháp và kéo lùi sự phát triển của lịch sử. Vậy PHONG THỦY phỏng có giá trị gì??? Thực ra, nếu như tác giả có một nghiên cứu thuyết phục với những lý lẽ và bằng chứng xác đáng về vai trò, tác động của phong thủy đối với cuộc sống con người thì rất đáng quý. Nhưng tiếc thay, toàn bộ bài viết là những thông tin chắp vá, theo kiểu "nghe hơi nồi chõ". Nguồn:chungta.com
-
Những con lắc Ai Cập khác nhau (4) Tháng 3 2007 03:21 (DQC) Ở phần này, chúng tôi đề cập đến các kiểu con lắc mà nếu chỉ căn cứ vào hình thể của chúng thì thoạt đầu đều tương tự nhau. Chúng là những bản sao của bùa Ouadj. 1. CON LẮC AI CẬP BẰNG GỖ VÀ CHÌ Nguyên mẫu của con lắc Ai Cập là làm bằng sành. De Bélizal và Morel nghĩ ra cách làm con lắc bằng gỗ, và cho thêm chì để cho trọng lượng bằng với con lắc mẫu. Từ đó, con lắc này đã được các nhà sản xuất sao chép với nhiều mẫu mã khác nhau. Con lắc Ai Cập có thể bằng gỗ thiết mộc, gỗ mun hay gỗ hoàng dương đổ thêm chì. Ba kiểu này tương đương nhau. Một nhà Cảm xạ học ở Bordeaux (nay đã mất), bà Barrès, đã cho sản xuất các con lắc Ai Cập từ 3 loại gỗ này. Lý tính của con lắc không nằm trong các tính năng đặc biệt của các loại gỗ này. Vấn đề là những thay đổi về mặt kỹ thuật và kinh tế. Mỗi lần thấy một nghệ nhân sáng chế ra một kiểu con lắc mới lạ là bà tính toán lại để làm sao con lắc đó tương tự được với các tiêu chuẩn được De Bélizal và Morel đặt ra. 2. CON LẮC BẰNG SÀNH (GRÈS) Được Jean de la Foret đưa ra, ông là một người thừa kế khác của Chauméry và De Bélizal. Nó cũng gần giống với các đặc tính và các khả năng của loại con lắc đã được mô tả ở trên. 3. NHỮNG CON LẮC AI CẬP BẰNG CHẤT HỖN HỢP Được tạo ra vào những năm 80, các con lắc này mang một số đặc tính của con lắc mẫu của Ai Cập. Chúng tôi nghĩ rằng bảng phân tích này có sự sai lệch về mặt tâm lý của vấn đề. Một số nhà thực nghiệm say mê sinh thái học và thiên nhiên không chấp nhận rằng con lắc được làm bằng một chất liệu hỗn hợp lại có thể cho ra được một kết quả chính xác. Một số người khác, thích nghiên cứu cái mới lạ của các điều huyền bí. Số người còn lại giữ quan điểm khách quan hơn. 4. CÁC CON LẮC AI CẬP BẰNG GỖ KHÔNG NHẬN THÊM CHÌ: Giống như con lắc bằng chất hỗn hợp, tất cả những con lắc bằng gỗ không đổ thêm chì đều tương tự với con lắc mẫu của Ai Cập về mặt hình dáng, còn kích thước thì hoàn toàn khác biệt với con lắc Ai Cập và theo các nhà sản xuất, tất cả những con lắc Ai Cập bằng gỗ không chì, không nhất thiết mang hình dáng như nhau. Chúng cũng khác nhau về trọng lượng tùy theo từng loại gỗ được dùng để chế tạo. 5. CON LẮC AI CẬP BẰNG NÉPHRITE Về nguyên tắc, đây là loại con lắc tốt nhất. Bùa Ouadj được De Bélizal và Chaumery tìm được làm bằng sành, bằng felspath xanh lá cây… con lắc bằng néphrite (amphibole), thường được gọi là ngọc thạch, gần giống nhất với mô tả trong Tử Thư và tốt hơn mẫu lắc được Chaumery và De Bélizal sử dụng. Khi làm một quả lắc trên đá không dễ dàng như trên gỗ. Giữa hai con lắc bằng néphrite thoạt nhìn giống nhau lại có những khác biệt lớn hơn là hai con lắc cùng loại làm bằng gỗ. Để đạt được điều đó, từ nhiều năm trước, người ta đã thử nghiệm trên nhiều mẫu lắc với nhiều hình dạng và nhiều loại chất liệu khác nhau và thấy rằng con lắc bằng gỗ hoặc bằng sành và nhất là bằng inox thì chuyển động nhanh hơn và sự thu nhận bức xạ cũng nhạy hơn. Ngoài ra có một con lắc, không nhiều, như con lắc được làm bằng sừng trâu không phát hiện được các hiệu năng so với một con lắc bằng gỗ. Phần lớn trong số chúng tương đương với một con lắc Ai Cập bằng gỗ hoặc bằng sành. Kiểu con lắc Ai Cập loại bùa duy nhất được mang trong người để bảo vệ sức khoẻ. Nguồn: camxahoc.com
-
Con mắt của Horus (3) Thứ tư, 28 Tháng 2 2007 18:54 - Cảm xạ Ai Cập (DQC) Lịch sử của con lắc Ai Cập là lịch sử của việc tái phát hiện chiếc bùa vốn được gọi tên là cột trụ Ouadj mà trong quyển TỬ THƯ (Livre des Morts) đã mô tả như là một vật hướng dẫn và bảo vệ người chết trong suốt chặng đường đau khổ của họ Người Ai Cập cổ đã giao cho bùa Ouadj trách nhiệm hướng dẫn và bảo vệ cái chết của họ và họ cho rằng người sống cũng có thể sử dụng các bùa này một cách hữu hiệu trong cuộc sống hàng ngày để tự hướng dẫn và bảo vệ mình. Theo truyền thuyết Ai Cập, chiếc bùa này ngoài tên gọi là cột trụ Ouadj còn đồng thời được gọi là: -Nữ thần Ouadj (nữ thần đầu rắn). -Búp hoa sen. -Mắt vành trăng của Horus. -Chữ tượng hình Ai Cập cổ đọc là “a” “à” và có nghĩa là: lớn. -Mắt xanh của Horus… Người Ai Cập chế tạo hai loại bùa Ouadj: -Bùa bằng búp sen tươi. -Bùa bằng các vật liệu khác nhau mà ta đã tìm thấy trong các lăng mộ. Chính xác là các bùa này được tìm thấy trên thân thể của các xác ướp. Các bùa bằng búp sen tươi đã không còn để đến được với chúng ta. Ngược lại, các bùa Ouadj bằng đá, bằng sành, bằng đồng thau… là các cổ vật Ai Cập khá thông dụng, một ngày nọ, một trong các bùa này lọt vào tay của các ông De Bélizal và Morel. Theo Tử Thư, bùa Ouadj phải được làm bằngfelspath xanh, nhưng các nhà Ai Cập học đã tìm được các loại bằng gỗ, bằng nhiều loại đá khác nhau và bằng gốm. Điểm quan trọng: Vật này vốn rất quý cho người chết, thì naylại được người sống sử dụng làm con lắc? Thoạt nhìn ta có thể nghĩ rằng một luận cứ như thếthật là quái dị. Con lắc vào thời đó đúng ra được nhiều sử gia xem như là một công cụ tương đối hiện đại trong Cảm xạ học. Thực tế vào thế kỷ 18, quả lắc mới bắt đầu xuất hiện trong các tác phẩm về thuật bói quẻ (rhabdomancie - tên cũ của Cảm xạ học) được dùng như một dụng cụ thay thế cho đũa sử dụng trong việc dò tìmmạch nước ngầm. Thật ra vào thời đó, việc khám phá ra các mạch nước ngầm là ứng dụng duy nhất và là sở trường của ngành Cảm xạ. Ngoài ra, con lắc cũng được dùng như một công cụ của thuật chiêu hồn. Một khác biệt duy nhất là thay vì gán cho các giải đáp của con lắc bằng giả thuyết sóng, người xưa lại gán cho nó khi là một thiên thần, lúc thì là một ác quỷ, khi thì là linh hồn của một người chết, lúc là một vị thần linh. Do hình thể của quả lắc đặc biệt phù hợp cho việc dò tìm mạch nước ngầm nên chúng ta chỉ có thể đoán rằng bùa Ouadj cũng được người Ai Cập cổ dùng với công dụng ấy. Các tên gọi của nó cũng khá đa dạng trong Tử Thư: mắt của Osiris, mắt của Atoum, mắt của Ré… Mắt vành trăng của 3 vị thần Osiris, Atoum, Ré có liên hệ rất gần với thuật bói toán. Nhưng tại sao lá bùa được gọi là mắt nếu nó không được sử dụng để nhìn hay đúng hơn là để chỉ sự hiểu biết? Phải chăng người Ai Cập cổ cho rằng sử dụng trụ cột Ouadj thì có khả năng tác động từ xa ? Một lần nữa, truyền thuyết Ai Cập đã cho chúng ta một lời giải đáp có khả năng gần đúng. “Khi người ta âm mưu lật đổ Ra thì cha của nó là Noun đã cho nó lời khuyên sau đây ”Ré, con của ta, con đã khôn lớn như cha, con hãy ngự trị ngai vàng; sự lo sợ của con là đã trễ, nếu như con mắt của con lúc đó mới nhìn thấy những kẻ mưu phản”. Ré nghe theo lời dạy này và đã phóng con mắt của nó dưới dạng nữ thần Hatbor đi khắp địa cầu để tàn phá”.Điều này không mảy may làm thay đổi giả thuyết của chúng ta, vì ta có đủ lý do để nghĩrằng Ouadjet cũng tương tự như Sekmeth - một hoá thân của Hathor. Như vậy theo truyền thuyết Ai Cập con mắt xanh của Ra tự nó có khả năng tác động từ xa. Do vậy, khắp nơi người ta nghĩ rằng De Bélizal Morel thực tế đã tái khám phá một công cụ thần diệu của Ai Cập, đó là con lắc mặc dù các giải thích về nguyên tắc hoạt động của nó mà họ đưa ra cũng không đáng tin. Cũng thế, có thể người Ai Cập cổ đã sử dụng công cụ này, giống như các nhà Cảm xạ học ngày nay đang sử dụng như là một dụng cụ kèm với các lời cầu nguyện. Cuối cùng, không thể nghi ngờ rằng con lắc Ai Cập có được các tính năng của nó là do hình của nó mà ra. Cũng giống như trong vài năm nay người ta thường đề cập đến một con lắc với sóng hình thể. Tất nhiên, các hình thể không phát ra các sóng hiểu theo nghĩa của các nhà vật lý học, nhưng chúng được tạo hóa phú cho những tính năng kỳ lạ. Cúng ta không cần phải chứng minh các tính năng của hình thể vì chúng đã được con người sử dụng từ nhiều thế kỷ qua.
-
Con Chó ở lại giữ nhà. Rồng Khỉ sang năm xuất ra...hải ngoài. :o Thiên Đồng
-
Búp hoa sen hay con lắc Ai Cập (2) 28/2/2007 18:50 (DQC) Tài liệu này nhằm hướng dẫn bạn sử dụng con lắc Ai Cập một cách hoàn hảo. Chúng tôi hy vọng các bạn sẽ khám phá ra khả năng kỳ lạ của con lắc và biến nó trở thành một công cụ có ích cho đời sống của bạn. Bạn sẽ chọn lựa được một con lắc vừa ý nhất trong số các mẫu con lắc Ai Cập tùy theo mục tiêu sử dụng của bạn Ngoài ra, chúng tôi cũng giúp bạn phát triển các năng khiếu cá nhân và hướng dẫn thực hành chữa trị từ xa. Tóm lại, chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn những kỹ thuật sử dụng con lắc Ai Cập. Các Cảm xạ viên sẽ học thực hành trên các vật chứng như nước hay chất liệu khác, để giúp cho sự tìm kiếm hữu hiệu hơn. Thật vậy, khi nói đến vấn đề liên quan đến các cuộc tìm kiếm thì các kỹ thuật của cảm xạ hầu như đều giống nhau cho dù là bạn sử dụng bất kỳ loại con lắc nào. Những năm gần đây, chúng tôi lần lượt xuất bản nhiều tác phẩm giới thiệu về bộ môn Năng lượng Cảm xạ và tài liệu này cũng không ngoài mục đích đó. Ngoài ra chúng tôi hy vọng những kiến thức mà chúng tôi giới thiệu ở đây sẽ làm phong phú hơn cho khu vườn cảm nước nhà. BÚP HOA SEN HAY CON LẮC AI CẬP Mọi người đều biết con lắc Ai Cập với hình dáng búp hoa sen đã có mặt gần như là trên khắp thế giới. Nó là một trong các công cụ Cảm xạ được trang bị từ khi có sự hiện diện các loại hình quả lắc khác. Ngoài việc biết được hình dáng của nó ra bạn cũng cần biết được:1. Cách chọn lựa con lắc Ai Cập thích hợp. 2. Cách sử dụng thuần thục công cụ này. Tài liệu này chủ yếu xoay quanh hai đề tài trên, mặc dầu không phải chỉ có một con lắc Ai Cập mà còn có hàng chục loại con lắc khác nhau. Tất cả đều có những ưu và khuyết điểm của nó. Trước khi tìm hiểu kỹ về con lắc Ai Cập chúng ta cần lướt qua lai lịch của nó. nguồn: camxahoc.com
-
Gửi Như Thông, ngày Kỷ hợi 3 tháng nhâm thân năm kỷ sửu giờ dậu Cảnh Đại An Có thể là đi được 2 người thôi, năm nay chưa đi được. Phải đợi nhanh là năm sau tháng 3 âm, chậm là mùa xuân năm Tân Mão. Nhưng 3 người đó tuổi gì vậy Như Thông? Thiên Đồng.
-
Lần này Đồng hong được ăn bánh kem roài! Hic. Hong chịu tham gia. Hic
-
Vậy thì sinh đứa Giáp Ngọ 2014.
-
Canh Dần hay Tân Mão đều tốt. Nhà này từ năm ngoái đến năm nay kinh tế không được khá. Chồng thường đi công tác xa hay thường xa nhà. Thiên đồng
-
EINSTEIN CÓ THỂ DẠY TRUNG QUỐC VÀ CẢ CHÚNG TA ĐIỀU GÌ? Vừa đọc tác phẩm của Walter Isaacson về Albert Einstein (Einstein: His Life and Universe) tôi vừa nghĩ về nước Trung Hoa. Không, nước này không hề được nhắc tới trong cuốn sách, nhưng cách lí giải mới, cách lí giải kích thích tư duy của độc giả về cuộc đời hoạt động khoa học của Einstein giúp ta xem xét hai vấn đề liên quan đến Trung Quốc mà hiện đang được thảo luận một cách sôi nổi. Thứ nhất, cuộc đời của Einstein cho ta thấy sức sáng tạo có liên quan như thế nào với tự do. Hay có thể đặt vấn đề theo một cách khác: Trung Quốc có thể trở thành cường quốc khoa học như Mĩ hay không? Thế kỉ XXI có thể trở thành “kỉ nguyên Trung Quốc” như nhiều người dự đoán hay không nếu chính quyền tiếp tục kiểm soát chặt chẽ đời sống chính trị, kiểm duyệt Google đồng thời với việc xây dựng nền kinh tế thị trường? Và thứ hai, với chế độ tự do của mình hiện nay, chúng ta có thể cạnh tranh được với Trung Quốc hay không, nếu thanh niên Trung Quốc tích cực học toán và các môn khoa học tự nhiên khác, trong khi thanh niên Mĩ không còn hứng thú với các môn khoa học này nữa? Lại xin đặt vấn đề theo một cách khác: nếu Einstein sống vào thời nay và nếu ông cũng được dạy các môn khoa học chính xác như người ta đang dạy tại nhiều trường học ngày hôm nay thì ông sẽ trở thành người như thế nào? Ông sẽ trở thành một nhà quản lí một quĩ nào đó tại Wall Street hay là người phát minh ra lí thuyết tương đối và được nhận giải Nobel vật lí? Theo quan điểm của Isaacson thì tiểu sử của Einstein là minh chứng rõ ràng về mối liên hệ mật thiết giữa sáng tạo và tự do. “Ước mong giải thoát khỏi áp bức và được sống ở nơi có thể tự do suy nghĩ, tự do thể hiện bản thân mình là tư tưởng chủ đạo của lịch sử một trăm năm qua nói chung và cuộc đời Einstein nói riêng. Trong những năm 1890, khi còn ở tuổi vị thành niên, Einstein đã chạy trốn chủ nghĩa giáo điều trong trường học và chế độ độc tài ở Đức để đến sống ở Italy và Thuỵ Sĩ. Sau này ông lại chạy trốn chủ nghĩa Hitler và đến sống ở Mĩ. Tại Mĩ, Einstein tiếp tục chống lại chủ nghĩa McCarthy và chủ nghĩa Stalin vì ông tin rằng chỉ có tự do tư tưởng mới có thể đào luyện được năng khiếu sáng tạo và trí tưởng tượng của con người”, Isaacson phát biểu như vậy trong một cuộc phỏng vấn. Chỉ cần nhắc đến những thành quả khoa học chủ yếu của Einstein – Thuyết tương đối hẹp, thuyết tương đối rộng, thuyết lượng tử - là thấy rõ ngay rằng “tất cả đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, của tự do tư tưởng, sẵn sàng vứt bỏ tất cả những quan niệm cổ hủ đã được mọi người thừa nhận”, Isaacson nói. “Einstein cho rằng sức sáng tạo sẽ nở hoa kết trái một cách mạnh mẽ ở những xã hội tự do. Nếu nước ta có lợi thế nào đó so với Trung Quốc thì đấy chính là việc chúng ta khuyến khích các nhà tư tưởng-phá cách, khuyến khích trí tưởng tượng của họ và không có ý định cản trở việc tự do thể hiện của họ.” Bằng trái tim, tôi cảm thấy Isaacson hoàn toàn có lí; nhưng lí trí lại mách: không được coi thường lời phát biểu của Bill Gates khi ông đến thăm Trung Quốc. Bill Gates khẳng định rằng việc phổ biến máy điện toán, internet và nền giáo dục sẽ đưa Trung Quốc trở thành không chỉ một thị trường tiêu thụ vĩ đại các chương trình điện toán mà “còn là một trong những người tạo ra thị trường đó. Công việc sáng tạo đang bước đi bằng những đôi hài bảy dặm tại đây.” Chế độ chuyên chế ở Trung Quốc có trở thành rào cản của tiến bộ hay không? Chỉ thời gian mới trả lời được mà thôi. Chúng ta còn phải tính đến một ý kiến nữa của Isaacson: Einstein nhìn thấy trong các khoa học tự nhiên và các công thức cái đẹp và sự khoái cảm sáng tạo. Nếu trường học của chúng ta biết cách truyền cho các em học sinh cảm giác đó thì chúng ta cũng có thể đào tạo ra những Einstein mới và không phải lấy làm lo là hiện nay trong các khoa vật lí, toán học và các ngành kĩ thuật khác chỉ toàn sinh viên Trung Quốc, đến nỗi có khi người ta còn giảng bài bằng tiếng Hoa nữa. “Einstein có khả năng tư duy bằng hình ảnh”, Isaacson giải thích. “Ngay từ năm mười sáu tuổi, khi nhìn vào phương trình Maxwell ông đã tưởng tượng mình đang phóng đi song song với luồng ánh sáng và cố tìm cách đuổi kịp nó. Ông đã hiểu rằng các phương trình đó mở ra một điều bí ẩn đáng ngạc nhiên của vũ trụ. Nhờ khả năng biến những khái niệm trừu tượng thành hình ảnh nhìn thấy được và thái độ sáng tạo đối với khoa học mà Einstein nhận thức được những điều mà các nhà vật lí lí thuyết không nhìn ra: khi bạn đuổi theo ánh sáng thì sóng vẫn chuyển động với vận tốc như thế nhưng đối với bạn thời gian đã ngừng trôi. Đấy là một cú đột phá mà các nhà khoa học được đào tạo tốt hơn không thể làm được bởi vì họ không có khả năng tư duy bằng hình ảnh.” Nếu chúng ta muốn các cháu học sinh ham mê các môn khoa học tự nhiên thì chúng ta không được biến các môn học đó thành những môn học chán ngắt và đầy đe doạ. “Cần phải nhắc nhở trẻ em rằng phương trình toán học hay công thức khoa học chỉ là nét bút của Chúa để Người thể hiện một trong những điều kì diệu của tự nhiên. Phải thấy trong đó những nét đẹp y như trong các tác phẩm hội hoạ, văn chương hay thi ca vậy”, ông Isaacson cho biết. Tôi thích nhất câu châm ngôn sau đây của Einstein: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức”. Một xã hội cố tình ngăn chặn trí tượng tượng khó có thể sinh ra được những người như Einstein, dù có bao nhiêu người có học vấn thì cũng vậy mà thôi. Tương tự như vậy, nếu xã hội không biết cách giảng dạy các môn khoa học tự nhiên một cách sáng tạo thì dù có tự do đến mức nào, nó cũng chẳng thể đào tạo được những người như Einstein. Nói chung, khi gấp cuốn sách lại tôi bỗng có cảm giác: Nếu Einstein còn sống đến ngày hôm nay thì ông sẽ bắt cả Mĩ lẫn Trung Quốc phải thi lại. Thomas L. Friedman - Phạm Minh Ngọc dịch nguồn: dongtac.net
-
Thiên Đồng ủng hộ 100.000 đồng.
-
Nên giải bằng cách sinh thêm đứa Tân Mão nữa cho đủ tứ xung để thành Tứ Phúc. Gia đình sẽ rất khá, nếu chồng làm quan thì sẽ là quan to. Bây giờ thì phải ráng cải thiện tinh thần thôi, vì tuổi con xung tuổi cha mẹ một tí. Nhưng chắc là gần đây giadinh sửa nhà hay cất nhà gì phải không? Thiên Đồng