Thiên Đồng

Hội viên
  • Số nội dung

    6.278
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    75

Everything posted by Thiên Đồng

  1. Dấu ấn vãn hóa Việt trong Kinh Thi Hà Văn Thuỳ Kinh Thi trên ống tre Nguồn: chinapage.com Kinh Thi là tuyển tập những bài dân ca và ca dao đẹp nhất, hay nhất xuất hiện trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VI TCN trở về trước trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Theo Tý Mã Thiên viết trong Sử ký thì ban ðầu có tới 3000 bài, Khổng tử san ðịnh ðã bỏ ði 9 phần 10, chỉ giữ lại có 311 bài. Ðấy là tác phẩm vãn học cổ ðiển có ảnh hưởng sâu rộng ðến tâm hồn và trí tuệ phýõng Ðông, quan trọng ðến mức Khổng tử nói bất học thi vô dĩ ngôn! (Không học Thi biết gì mà nói). Thời nhà Tần nó cũng bị ðốt nhýng sau ðó ðýợc khôi phục và xếp vào Ngũ kinh. Hàng nghìn năm nay, kinh Thi mặc nhiên được coi nhý sản phẩm ðặc hữu của Hán tộc, không có ai nghi ngờ hay bàn cãi. Vì vậy, ba chục nãm trước, khi học giả Lương Kim Ðịnh cho rằng Kinh Thi là quyển kinh ðiển của Việt tộc (1) ðã gây nên sự phản ứng của không ít người. Dễ hiểu thôi, thay ðổi một thói quen từng hằn vào cân não hàng nghìn nãm ðâu phải là việc một sớm một chiều! Ðiều dễ nhận ra là kinh Thi ðã bị Hán nho rối Tống nho ðánh tráo một cách trõ trẽn: Những sáng tác dân gian sinh ra nõi ruộng lúa nýõng dâu bị biến thành sản phẩm cung ðình, một thứ vãn chýõng xu phụ chuyên ca tụng ông vua này ông vua khác cùng bà hậu phi nào ðó! Chính ở ðây, tầng lớp Hán nho ðã ãn cắp tác quyền của dân gian trao cho výõng triều. Ðiều này dễ thấy. Còn cách ðánh tráo, ãn cắp tác quyền khác tinh vi hõn thì khó nhận ra. Khó về học thuật và càng khó hõn trong tâm lý: ðứng trýớc nền vãn hóa khổng lồ của ngýời láng giềng phýõng bắc, chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé ði, ðến mức chỉ còn là cậu học trò ngu ngõ trước ông thầy vĩ ðại! Tâm lý ấy khiến chúng ta hèn ði, không dám nghĩ ðến cái ðiều bị coi là hoang týởng thậm chí phạm thýợng: kinh Thi là quyển kinh ðiển của Việt tộc! Ðể phân ðịnh ðiều này, ta phải xét từ cội nguồn: Tìm về lịch sử hình thành kinh Thi. Vào thập niên 70 của thế kỷ trước tồn tại 2 giả thuyết về cội nguồn dân tộc Việt. Một cho rằng, tổ tiên ngýời Việt từ cao nguyên Thiên Sõn di cý vào ðất Trung Hoa sau ðó bị người Hán chèn ép nên tràn xuống Việt Nam tiêu diệt ngýời bản ðịa, lập ra nýớc Vãn Lang. Giả thuyết thứ hai cho rằng tổ tiên ngýời Việt ðã từ Mã Lai ði lên. Ngày nay, với những thành tựu mới nhất của di truyền học, lần ðầu tiên chúng ta có bản viết chính xác về tiền sử Ðông Á: Ngýời hiện ðại Homo Sapiens ðã từ châu Phi lên Trung Ðông rồi từ ðây theo bờ biển Nam Á ðến Việt Nam khoảng 60-70000 nãm trýớc. Dừng lại ðây trong khoảng 10.000 nãm, hai ðại chủng Mongoloid và Australoid hoà huyết tạo ra những chủng lai. Những chủng ngýời này sinh sôi nảy nở lan khắp lục ðịa, hải ðảo Ðông Nam Á rồi sang châu Úc. Khoảng 40.000 nãm trýớc, khi bãng hà tan, ngýời từ Ðông Nam Á ði lên phía bắc, chiếm lĩnh lục ðịa Trung Hoa rồi sau ðó výợt qua eo Bering tới châu Mỹ. Cho ðến thiên niên kỷ thứ IV TCN, ngýời Ðông Nam Á mà sau này sử sách gọi là Bách Việt sống khắp duyên hải Ðông Á với nhân số chiếm khoảng 54% nhân loại. Trong ðó ngýời Lạc Việt có khoảng 15-20% và giữ vai trò lãnh ðạo về xã hội và ngôn ngữ. Ngýời Bách Việt Ðông Nam Á kiến tạo nền vãn minh nông nghiệp tiến bộ nhất thế giới: Nghề trồng lúa phát triển với giống lúa ðýợc tuyển chọn tốt, biết cày bằng trâu bò, ðắp bờ giữ nýớc. Nghề chãn nuôi gia súc trở thành nghề sản xuất chính, biết nuôi tằm dệt lụa. Nghề ðúc ðồng ra ðời. Khoa thiên vãn quan sát týợng trời týợng ðất dự báo thời tiết ở trình ðộ cao. Kiến thức âm dýõng ngũ hành, dịch số ðýợc tích luỹ. Từ kết nút ðể ghi nhớ ðã có chữ Khoa ðẩu. Là cộng ðồng nông nghiệp nên sinh hoạt vãn hoá phát triển với ca dao, dân ca, ðồng dao, nhạc múa, trái gái luyến ái tự nhiên theo tục dã hợp… Cũng trong khoảng thời gian trên, có phần chắc là muộn hõn, một số nhóm ngýời Mongoloid từ Ðông Nam Á ði lên miền ðồng cỏ phía Tây Bắc Trung Hoa, sinh sống bằng du mục, tách biệt với khối dân cý còn lại. Khoảng 2600 nãm TCN, những bộ lạc du mục thiểu số này výợt Hoàng Hà chiếm ðất của dân Bách Việt nông nghiệp, lập ra thời ðại Hoàng Ðế. (2) Tuy chiến thắng về quân sự nhýng do số ngýời ít và vãn hoá kém phát triển nên kẻ chiến thắng bị ðồng hoá cả về di truyền cả về vãn hoá. Ngýời Mongoloid vốn có nýớc da sáng hõn ngýời Australod lại sống ở phía bắc từ lâu nên nýớc da càng trắng hõn. Vì vậy kẻ thống trị gọi ngýời bản ðịa là lê dân – dân ðen - ðể phân biệt. Vào ðất Bách Việt, ngýời Hán Mông Cổ choáng ngợp trýớc số dân ðông ðúc và kinh tế sung túc nên lập tức bỏ nghề du mục, chuyển sang làm quan, làm công nghiệp, nhà buôn - những công việc ðặc quyền của kẻ thống trị. Không lâu sau, chỉ một vài trãm nãm, toàn bộ ngýời Hán Mông Cổ xuống Trung Nguyên bị hoà huyết với dân ðen bản ðịa thành chủng ngýời mới, khoa học gọi là Mongoloid phýõng Nam hay nhóm loại hình Ðông Nam Á. Trong quá trình hoà huyết thì vãn hoá cũng hoà ðồng: Trýớc hết là tiếng nói. Lớp con lai dùng trộn trạo từ vựng của bố của mẹ. Với thời gian, hai hệ tiếng nói bổ sung cho nhau, hoà vào nhau tạo nên tiếng nói chung phong phú của lớp dân mới. Tuy nhiên, tiếng nói của một vùng, một quốc gia bao giờ cũng theo cách nói của trung tâm, của thủ ðô. Ngýời Hán Mông tập trung ở ðô thị nên trong khi học thêm từ vựng Việt thì họ cố giữ cách nói - vãn phạm truyền thống Hán. Dần dần toàn bộ dân cý chuyển sang dùng cách nói thống nhất nhý các ðô thị, kết quả là trong giao tiếp cùng nói theo cách của ngýời Hán. Ðồng thời trong quá trình chung sống, các phong tục tập quán của hai tộc ngýời ban ðầu cũng hoà vào nhau. Ngýời Hán Mông Cổ bỏ vật tổ truyền thống của mình là con cọp trắng ðể chuyển sang thờ vật tổ của dân bách Việt là con cá sấu ðýợc thần hoá thành con rồng. Ngýời Hán Mông Cổ cũng nhận những ông tổ xa xýa của ngýời Việt là Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông làm tổ của mình (3) Ðiều này không có gì sai trái mà hợp lý vì do hoà huyết nên về huyết thống, những thế hệ ngýời Hán từ sau Hoàng Ðế nhý Ðế Cốc, Ðế Chí ðều là con cháu của Thần Nông. Họ có toàn quyền nhận tổ tiên cũng nhý vãn hoá nông nghiệp làm của mình, bình ðẳng với những ngýời Bách Việt mới thuộc chủng Mongoloid phýõng Nam. Từ lịch sử ðó, chúng ta thử tìm hiểu hoàn cảnh ra ðời của kinh Thi. Từ thời vua Vũ nhà Hạ (2205-1783 TCN), các nước chý hầu dâng cống vật cho thiên tử thì trong phýõng vật, có cả những câu ca của dân quê nõi thôn dã. Thiên tử xem những câu ca ấy ðể hiểu thuần phong mỹ tục trong thiên hạ, ðể ðánh giá sự cai trị của vua chý hầu. Cái lễ cống tồn tại dài dài mãi sau này nhýng việc cống những câu ca nõi thôn cùng xóm vắng chỉ tồn tại ðến thời nhà Chu (1134-247 TCN). Nhýng thử hỏi thiên hạ Trung Hoa thời Xuân Thu là ai? Lúc này ðã 2000 nãm qua ði từ trận Trác Lộc Hoàng Ðế chiến Si Výu. Trong cýõng thổ nhà Chu rộng khoảng 115.000 km2 với 15 tiểu quốc, hai chủng tộc chính ban ðầu là Hán Mông Cổ và Bách Việt ðã hoà huyết thành chủng mới Mongoloid phýõng Nam. Cùng với máu huyết, giữa ngýời Việt và ngýời Hán cũng có sự hoà ðồng về vãn hoá. Trong cộng ðồng Hán tộc mới này, lực lýợng ðông ðảo nhất là lê dân, là dân ðen tức những ngýời gốc Tam Miêu. Chính do số ðông áp ðảo, chính xuất phát từ nền vãn hoá cao hõn nên những ngýời gốc Bách Việt giữ vai trò chủ ðạo trong nền vãn hoá. Ðặc ðiểm nổi bật của dân Miêu Việt là sống hồn nhiên vui vẻ, ýa ca múa, khá thoải mái trong chuyện luyến ái gái trai. Kinh Thý ghi nhận, khi vì bất bình mà ngýời Miêu Việt nổi dậy, dẹp không ðýợc, vua Thuấn phải sai ông Quỳ dùng ca múa phủ dụ mới yên. Từ kinh nghiệm trên, các ông vua hiền thời cổ ở Trung Quốc ðã phần nào dựa vào những lời ca cất lên nõi thôn cùng xóm vắng mà biết nguyện vọng của dân ðể kịp thời ðiều chỉnh chính sách của mình. Chính những lời ca dân dã ấy ðýợc thu thập lýu giữ trong tàng thý của nhà vua. Và từ những thý tịch trong cung vua nhà Chu, Khổng tử (551- 479 TCN) ðã ðem ra san ðịnh thành kinh Thi. Những nguyên nhân trên ðã tạo nên tinh thần nông nghiệp Việt tộc bàng bạc trong kinh Thi ngay từ bài ðầu tiên và quan trọng nhất: Quan thý. Quan quan thư cưu Tại hà tri châu Yểu ðiệu thục nữ Quân tử hảo cầu. Bài ca là hình ảnh một bãi nổi trên sông với những loài chim nýớc cặp ðôi cùng ngýời trai ngýời gái tình tự phản ánh cuộc sống hồn nhiên của dân cý nông nghiệp miền sông nýớc. Hảo cầu là từ ða nghĩa. Tản Ðà dịch là tốt ðôi vợ chồng nhýng theo Kim Ðịnh, một bản Latinh lại dịch là giao cấu (copulary). Dịch nhý vậy mới phản ánh ðúng cái thần câu ca: quan hệ tính giao tự nhiên nhý vậy chỉ có ở vãn hóa phồn thực của Viêm Việt nông nghiệp. Dịch nhý Tản Ðà là dịch theo quan ðiểm thanh giáo mà Hán nho rồi Tống nho áp ðặt ðể xuyên tạc kinh Thi. Một bài khác cũng mang cái phong vị trữ tình nhý vậy, bài Hán Quảng: Trên bờ sông Hán ai õi, Có cô con gái khó ai mõ màng Mênh mông sông Hán sông Giang Lặn sang chẳng được, bè sang khó lòng. Sông Hán là chi lýu của sông Dýõng Tử, miền ðất châu Kinh, châu Dýõng, châu Hoài... ðịa bàn cý trú lâu ðời của ngýời Bách Việt, một bằng chứng cho thấy ngýời Việt là chủ nhân những câu ca trên. Một bài khác Thảo trùng: ngýời con gái lên núi hái rau, nhìn thấy châu chấu theo nhau bay nhảy liền mong týởng ðến chồng trở về: Diệc ký kiến chỉ, diệc ký cấu chỉ, ngã tâm ðắc di. Tản Ðà dịch: bao giờ cho thấy mặt chàng, Cho ta vui vẻ nở nang tấm lòng. Dịch vậy là quá khéo, bởi chữ cấu có nghĩa là giao hoan. Nở nang tấm lòng vừa có nghĩa vui mừng lại có nghĩa thai nghén sinh nở! Bài Dã hữu tử huân (con nai chết trên ðồng) có câu: Có cô con gái xuân tình, Cậu giai tốt ðẹp dỗ dành muốn ve Phần ðầu của kinh Thi xuất hiện từ thời Ðông Chu (770-221 BC) Nguồn: blueprint-magazine.de Cũng là bằng chứng của lối sống phồn thực Viêm Việt. Cuộc sống phồn thực luyến ái tự nhiên là ðặc ðiểm của vãn hóa Việt tộc. Ta thấy ðiều này trong sinh hoạt hội mùa xuân: ðến hội xuân, tất cả trai gái làng này ðến hát ðối với trai gái làng bên cạnh (là hai bộ lạc). Trai chýa vợ gái chýa chồng xem mặt nhau rồi chọn lựa trong lúc hát hò. Tan ðám hát, họ chia nhau từng ðôi, tặng nhau kỷ vật rồi dẫn nhau vào những lùm cây bãi cỏ giao hoan, gọi là dã hợp. Không ai chê bai ngãn cản việc này. Những ðứa trẻ sinh ra trong cuộc hôn phối tự nhiên ấy là ðiềm may. Chỉ khi các thánh hiền phýõng Bắc xuất hiện mới coi là xýớng ca vô loại, chê là dâm bôn, ra sức cấm ðoán rồi vỗ ngực ca ngợi công việc ấy của mình là cải hóa phong tục của man di! Nếu trong cuộc ðời thực, Hán nho, Tống nho tiếp tay cho výõng triều phong kiến xóa bỏ vãn hóa Việt tộc thì trên phýõng diện chữ nghĩa, họ cũng một mặt ãn cắp tác quyền những dân ca và ca dao Việt trao cho vua chúa, mặt khác chú giải Thi theo hýớng có lợi cho výõng triều, cổ xúy chủ nghĩa thanh giáo. Kim Ðịnh phát hiện ra mýu ðồ này nhýng có lẽ ông ðã quá lời khi nói : "Có thể xẩy ra những cuộc tráo trộn do chính Viêm tộc làm ra: nó ở tại ðem vào những bài ca của dân gian một ít lời ðể lái một bài thõ phýõng Nam ra vẻ của phýõng Bắc, hoặc ðể nguyên cả một bài hay một chuỗi bài nhý Châu Nam, Thiệu Nam mà ðặt vào vùng núi Kỳ ở Thiểm Tây ðể cho ngýời phýõng Bắc dễ chấp nhận." (VLTN 135) Có lẽ không phải vậy. Ngýời dân quê hồn hậu không nghĩ rằng những câu ca nõi ðồng nội của mình sẽ thành kinh ðiển nên phải tự sửa mình ði cho vừa khẩu vị kẻ xâm chiếm thống trị. Họ chỉ tự nhiên nhi nhiên hát lên lời hát của lòng mình mà vì nó hay nên výõng triều không thể bỏ phải lýợm lặt ðem về. Nhýng rồi việc biên tập, nhuận sắc, chú giải diễn ra, nội dung nhiều bài thay ðổi ðồng thời tác quyền bị chuyển cho ngýời khác. Việc làm này của Hán nho là có ý thức. Tuy nhiên, cái việc vụng trộm ấy cũng không hoàn toàn vô tang mà ðã ðể lại dấu vết. Không những không thể xóa hết tinh thần Viêm Việt bàng bạc trong khắp tập kinh mà ở nhiều bài còn lộ rõ dấu vết trong cách ðặt câu, trong cú pháp. Ta biết, so với tiếng Việt, cú pháp chữ Hán nói ngýợc: Việt nói trong lòng là trung tâm thì Hán nói tâm trung. Nhýng trong kinh Thi, có hiện týợng rất lạ là nhiều câu vẫn giữ cấu trúc ngữ pháp Việt: Túc túc thỏ ta, thi vu trung lâm (Thỏ ta: Lưới thỏ mà cãng giữa rừng.) Ðúng ra giữa rừng viết theo cú pháp chữ Hán phải là lâm trung mà ở ðây lại là trung lâm. Hay Hýớc lãng tiếu ngạo, trung tâm thị niệu (Chung phong: Cũng là bỡn cợt mà thôi, chỉ thêm ðau ruột cho người xót thương). Có thể kể ra nhiều nữa: - Hồ vi hồ trung lộ (Thức vi: trong sýõng) - Trung tâm rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy) - Trung tâm hữu vi (Cốc phong: trong lòng bãn khoãn) - Di vu trung cốc (Cát ðàm: trong hang) - Trung tâm dao dao (thử ly: trong lòng nao nao) - Tại bỉ trung hà (Bách châu: giữa dòng sông) - Trung cấu chi ngôn (Týờng hữu từ: lời nói trong buồng kín ) Những "hòn sạn" chữ nghĩa kia nói lên ðiều gì? Phải chãng là sự vô tình? Phải chãng là những ngýời biên tập, san ðịnh, chú giải vì "dốt" nên không thấy cái "sai" ấy? Mấy nghìn nãm nay chýa ai giải thích ðiều này. Trong bài Dẫn nhập in ở ðầu cuốn kinh Thi, ông Trần Vãn Chánh nhận xét: "Trong kinh Thi, chữ "trung" (ở trong, ở giữa) thýờng ðặt sau danh từ, thay vì ngýợc lại, so với vãn ngôn các ðời Hán, Ðýờng... về sau". (4) Ông cho rằng ðó là một trong những nguyên tắc, những mô hình cấu trúc cần nhận biết khi ðọc Thi. Ðiều này ðã hẳn nhýng nó cũng gợi lên thắc mắc: vì sao lại có hiện týợng khác thýờng ðó? Và vì sao qua hàng nghìn nãm phấn ðấu xa ðồng quỹ, thý ðồng vãn, qua biết bao lần nhuận sắc, chú giải, những ðại nho của muôn ðời không sửa chữa, không lýợm ði những "hạt sạn"? Ðúng là chữ nghĩa thời kinh Thi chýa ổn ðịnh và có khác thời Hán thời Ðýờng. Nhýng thử hỏi, nguyên nhân của sự không ổn ðịnh ấy là gì? Theo thiển ý, ở chính trong lịch sử hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. Ngôn ngữ thời kinh Thi nằm trên ðýờng chuyển hóa từ cách nói của ngýời Việt sang cách nói của ngýời Hán. Cách nói của ngýời Hán cuối cùng ðã thắng nhýng trong ca dao, dân ca vẫn tồn tại cách nói Việt phản ánh tý duy Việt. Khi ca dao dân ca của ngýời Việt ðýợc ðýa vào kinh ðiển, ngýời san ðịnh tuy ðã nhuận sắc sửa ðổi nhýng không thể sửa chữa tất cả vì buộc phải tôn trọng vần ðiệu của thõ. Trong 2700 bài thõ bị loại bỏ, ai biết có bao nhiêu bài của Việt tộc? Những bài còn lại là những bài không thể bỏ. Những cấu trúc ngữ pháp không bình thýờng trong các bài ðó cũng là không thể sửa ðổi! Cái không thể sửa ðổi ðã trở thành những "hòn sạn" trong ngôn ngữ của Thi. Nhýng chính những "hòn sạn" týởng nhý ngẫu nhiên này lại là những hóa thạch ngôn ngữ chứng minh về sự ðóng góp của tiếng Việt vào kinh Thi, vào ngôn ngữ Trung Hoa! Không chỉ trong Thi, cách nói Việt này cũng ðể lại dấu ấn trong một số tên gọi: Nữ Oa, Thần Nông, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn, Ðế Chí rồi Ðế Minh, Ðế Lai... Cách nói ðó không thể phủ nhận ðýợc là cách nói Việt. Có lẽ cũng do những nguyên nhân lịch sử bất khả kháng mà ngýời ta không thể sửa thành Nông Thần, Nghiêu ðế... theo cách nói của ngýời Hán! Nói nhý ông Kim Ðịnh Kinh thi là quyển kinh ðiển của Việt tộc e rằng quá lời. Bởi lẽ không hiểu những bài bị loại bỏ ra sao, còn cãn cứ vào những bài hiện có, ta thấy trong ðó nhiều bài mang ðặc tính chung của con ngýời, cái chất uy-manh chả của riêng ai, thật khó tách bạch. Trong ðó bên cạnh những bài ðậm sắc thái Việt lại có những bài mang tố chất Hán tộc nhý bài Thạc nhân: Ngýời ðâu dong dỏng nhý ai, Trong mặc áo gấm phủ ngoài áo lông. Ấy ngýời con gái họ Khỗng, Em ông thái tử cưới sang vua Vệ hầu. Còn như bề giýợng là ðâu? Có Ðàm công với Hình hầu hai vua. Từ phục sức ðến nhân thân cho thấy ðó là ngýời ðàn bà quý tộc. Nhân vật này không phải ðối týợng của vãn chýõng dân gian. Nhiều khả nãng ðây là sản phẩm của nhà thõ cung ðình nào ðó mýợn phong cách dân gian làm thõ phục vụ výõng quyền. Không phải trong tầng lớp výõng giả không có ngýời Việt nhýng ngýời ðàn bà này ðích thực là ngýời Hán: Tay ai nhý cái cỏ gianh non, Da như mỡ ðọng, cổ như con nhậy dài, Hạt bầu thời như thể rãng ai, Ðầu trãn mà lại mày ngài thêm xinh... Tay, da, ðầu có thể là cái ðẹp chung của ngýời Hán ngýời Việt nhýng rõ ràng, cái rãng: hạt bầu nhý thể... cũng nhý ðầu trãn (Tản Ðà giảng con trãn nhý con ve mà bé) là vẻ ðẹp theo chuẩn mực thẩm mỹ Hán tộc. Thời ấy, vẻ ðẹp của ngýời Việt là nhuộm rãng ðen, xãm mình. Trong Sở từ, ðau vì thân phận dòng Việt của mình, Khuất Nguyên than: rãng ðen mình trổ dọc ngang! Nhýng ðiều thú vị là, ngay ở ðây cũng hiển lộ yếu tố vãn hoá Việt: mày ngài! Trồng dâu nuôi tằm là bản nghệ của dân nông nghiệp phýõng Nam. Do chãm chút con tằm từ ãn một ãn hai ðến ra né, chọn giống, cho ngài ðẻ… mà ngýời nuôi tằm nhận ra vẻ ðẹp kỳ diệu của cặp râu con ngài. Sự so sánh tuyệt vời nảy sinh: râu con ngài ðýợc ví với lông mày con gái. Thành ngữ mày ngài ra ðời! Ðấy là sản phẩm của vãn hoá nông nghiệp Bách Việt. Khi ðýa nghề tằm tang từ Vãn hoá Hoà Bình lên Trung Nguyên, ngýời Việt cũng ðýa luôn thành ngữ mày ngài lên quê hýõng mới. Thành ngữ này, nhý những từ vựng khác, nhập tịch ngôn ngữ Trung Hoa rồi một cách vô thức phát lộ trong câu ca dao mang nhiều sắc thái Hoa tộc nhất. Ðiều này là ví dụ tuyệt vời chứng tỏ sự ðóng góp của vãn hoá Bách Việt vào vãn hoá Trung Hoa. Nhý vậy, có lẽ sẽ công bằng hõn khi nói rằng, kinh Thi là ðứa con lai giữa hai nền vãn hóa Hán và Việt mà trong ðó phần hồn phần cốt là vãn hóa của Bách Việt nông nghiệp. Sài Gòn, 6/2006 Copyright @ DCVonline 2006
  2. Đài Loan và cội nguồn Bách Việt Nguyễn Đức Hiệp Năm 2000, một sự kiện lịch sử xảy ra ở ven bờ Thái Bình Dương. Sự kiện đó không phải là Thế vận hội 2000 ở Sydney mà thế giới chú ý đến trong vài tuần, mà là một diễn biến ít người để ý đến. Một sự kiện sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến chính trị và có thể làm thay đổi cách nhìn với thế giới bên ngoài của nhiều nước trong vùng. Sự kiện đó là kết quả bầu cử ở hòn đảo Đài Loan nhỏ bé. ứng cử viên Trần Thuỷ Biển (Chen Shui-bian) của đảng Dân chủ Tiến bộ (Democratic Progressive Party) đã thắng Quốc dân đảng và trở thành tổng thống Đài Loan, một sự thay đổi chính quyền không đổ máu, không bạo động lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc. Lịch sử của Trung Quốc ?. Thực ra trong tâm của vị tân tổng thống thì hướng đi của chính sách mà ông đã theo đuổi từ nhiều năm trước, mà đại đa số dân đã đồng ý, thì hòn đảo này với dân số hơn 20 triệu sẽ không còn là bộ phận của Trung Quốc nữa. Nó sẽ là một quốc gia khác đứng ngoài quỹ đạo của dân tộc Trung Hoa, nó không còn dính gì trực tiếp đến Trung Quốc hay lịch sử Trung Quốc nữa, cũng như Hoa Kỳ hơn 200 trăm năm trước đây đã cắt rìa khỏi nước Anh để tạo riêng vận mệnh lịch sử của mình. Phản ứng của Trung Quốc thật dữ dội và giận dữ, báo chí Trung Quốc dùng những lời lẽ nặng nề chưa từng thấy với một cá nhân, không kém những từ ngữ dùng trong cách mạng văn hoá với các kẻ thù giai cấp và đế quốc xưa kia trong thập niên 1960. Mấy tuần trước ngày bầu cư, hải quân Trung Quốc đã tập trận bắn tên lữa ở eo biển Đài Loan. Trên đất liền, Trung quốc dàn tên lữa hướng về Đài Loan đe dọa tinh thần dân chúng, đặt áp lực với chủ ý sẽ làm cử tri run sợ chiến tranh mà phảI bầu cho ứng cử viên Quốc dân đảng !. Oái ăm thay, Quốc dân đảng là kẻ thù trước đây của đảng cộng sản Trung Quốc. Lúc này thì cả hai lại cùng chính sách, cùng quan điểm rút từ một nền tảng tư tưởng trung ương tập quyền Đại Hán truyền thống lâu đời. Điều gì đã gây ra sự cố động đất như vậy ?. Ngoài sự kiện ông Trần Thuỷ Biển (Chen Shui-bian) là một người Đài Loan bản sứ chính cống, không phải từ lục địa đi đến khi Quốc dân đảng thua bỏ chạy sang, thì tư tưởng và hoài bảo của ông, đại diện cho hoài bảo của đa số người Đài Loan bản sứ, chính là điều mà Trung Quốc sợ hải hơn hết. Thật sự thì không phải mà đột nhiên có sự tự phát, xuất hiện một tư tưởng tự chủ như vậy, mà nó đã có một lịch sử khá lâu dài. Tư tưởng ấy đã bị đè nén, thay thế bởi một tư tưởng khác từ bên ngoài ép đặt trên văn hoá, tư tưởng của dân tộc Đài Loan trong nhiều năm qua. Tôi đặc biệt chú ý đến lịch sử Đài Loan và hoài bảo của người dân khi tôi viếng Đài Loan trong một dịp dự hội nghị Khoa học về môi trường khí quyển ở thành phố Đaì Trung (Taitung), do hai Viện Hàn lâm khoa học Đài Loan và Hàn lâm Khoa học Úc tổ chức vào tháng 6/2000. Trước đây tôi chỉ có để ý và nghiên cứu chút ít về người bản sứ thổ dân sống ở Đaì Loan trước khi người Hoa từ lục địa di dân sang. Bài này có mục đích tìm hiểu những diễn biến về sự thay đổi trong xã hội, văn hoá và tư tưởng của người dân Đài Loan trong vòng 20 năm nay. Nó gợi lại trong lịch sử và trong tiềm thức của người Việt những gì tương tự mà dân tộc Việt Nam đã trãi qua cách đây hơn 1,000 năm. (1) Cách mạng văn hoá hay tuyên ngôn độc lập? Buổi lễ nhậm chức tổng thống ngày 20/5/200 ở Đài Bắc được tổ chức trong vườn sân trước các bậc thềm của dinh Tổng thống, một kiến trúc thời Minh Trị xây trước đây làm dinh cho viên toàn quyền của Nhật khi họ còn cai trị Đài Loan. Dinh này cũng biểu trưng quyền lực của Quốc dân đảng trong bao năm trước đây khi họ nắm quyền hơn nữa thế kỷ. Những sự kiện xảy ra ở buổi lễ mang đầy những biểu tượng đáng kể, mà một nhà nghiên cứu ở Viện Xã hội học, thuộc Hàn lâm Trung hoa (Academia Sinica) ở Đài bắc đã viết lại như sau trên diễn đàn điện tử thảo luận về Đông Nam Á (Southeast Asia Discussion List, SEASIA-L) (1). Buổi lễ bắt đầu 9:50 sáng, mọi người quan khách trong và ngoài nước tưởng sẽ nghe bài quốc ca Cộng hoà Trung quốc (Republic of China) đầu tiên, nhưng tất cả đều ngạc nhiên khi một nhóm nhạc sĩ thổ dân của bộ lạc Bunum bản sứ (thuộc tộc Austronesian) đứng lên hát bài ca dân tộc truyền thống “Báo tin vui”. Sau đó là các phần trình diễn của các bộ lạc bản sứ Austronesian khác ,tiếp theo là bài hát dân ca của người Hakka (Hẹ hay Khách trú) và dân ca người Holo. Chỉ khi tổng thống Trần Thuỷ Biển và phó tổng thống bà Annette Lu bước ra từ dinh Tổng thống thì bài quốc ca mới được hát sau cùng. Người hát quốc ca không khác hơn là cô ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan (và Trung quốc) Chang Hui-mei, gốc người thổ dân bộ lạc Puyma. Cô có nhiều thính giả không những ở Đài Loan mà còn rất được ái mộ ở Trung quốc lục địa. Trước kia không bao giờ có sự có mặt của văn hoá địa phương trong những nghi lễ trịnh trọng. Nay thì ngay cả bài quốc ca cũng xuống hàng thứ yếu. Sự phá vỡ nghi thức này rất có ý nghĩa. Nó có chủ đích cho thấy là chính phủ mới từ đây về sau sẽ theo đuổi chính sách đứng trên quan điểm của người địa phương (Hoklo, Hakka, Austronesian) chứ không như chính phủ Quốc dân đảng trước kia đứng trên quan điểm trọng Hán. Hiểu được hậu ý của chính phủ Trần Thuỷ Biển, Trung quốc đã giận dữ, ngay cả Amei cũng không thoát khỏi sự tức giận ấy. Sau khi cô tham dự và hát bài quốc ca Đài Loan (Cộng hòa Trung quốc) ở lễ nhậm chức của tổng thống Trần Thuỷ Biển , chính phủ Trung quốc ra lệnh tẩy chay Amei, đài truyền hình, truyền thanh từ ngày đó không được trình chiếu, phát hành các bài hát của ca sĩ Amei. Báo chí cấm đề cập đến cô, ngay cả các biểu ngữ quảng cáo không được đăng các hình ảnh ca sĩ Amei. Ở Bắc Kinh và Thượng Hải, hình Amei trên các bảng quảng cáo nước ngọt Sprite của công ty Coca-Cola đã bị bôi xoá đi. Tuy vậy các đĩa CD của cô, người ta vẫn còn có thể tìm thấy được ở một số các cửa hàng nếu chịu khó truy lùng. Wu Bai, một ca sĩ nam nổi tiếng ở Đài Loan và Trung quốc, cũng chịu chung một số phận, khi ông hát và ủng hộ Trần Thuỷ Biển. Bài diễn văn của Trần Thuỷ Biển rất ít đề cập đến sự quan hệ với Trung quốc (một vấn đề thời sự nóng bỏng lúc đó), mà hầu hết là về lịch sử và văn hoá Đài Loan, về cải tổ chính trị và chính sách đối nội. Trần Thuỷ Biển nói đến Đài Loan 40 lần, Cộng hoà Trung quốc (ROC) 9 lần, Trung quốc chỉ 1 lần nhưng Formosa (tên cũ của đảo Đài Loan) 2 lần và 4 lần nhấn mạnh nói lớn “Đài Loan đứng lên !”. Đài Loan thực sự đã đứng dậy về văn hoá và chính trị. Trần Thủy Biển nêu lên những sự áp bức, xâm lược bởi đế quốc mà cả hai dân chúng ở Trung quốc và Đài Loan đã là nạn nhân chịu dựng trong thế kỷ 20. Thật sự Đài Loan còn khổ sở nặng hơn dưới chế độ thực dân Nhật. Những kinh nghiệm lịch sử tương tự như thế đáng ra đã mang lại sự thông cảm và hiểu nhau giữa hai dân tộc ở hai bên của eo biển Đài Loan, và từ đó đặt nền tảng cho sự theo đuổi thiết lập tự do, dân chủ và nhân quyền cùng với nhau. Tuy nhiên, do sự phân ly lâu dài trong lịch sử, hai vùng đã phát triển theo hai hướng khác nhau đi đến sự khác biệt tột độ về nhiều phương diện từ hệ thống chính trị đến văn hoá và phong cách sống. Điều này đã cản trở sự thông cảm và thiết lập tình hữu nghị giữa hai nước. Bài diễn văn này là một tuyên bố chính trị quan trọng. Ông phân biệt rõ sự khác biệt giữa lịch sử Trung quốc và lịch sử Đài Loan. Đài Loan đã trãi qua thời kỳ bị Nhật đô hộ lâu dài và đã có lịch sử riêng chứ không phải chỉ có lịch sử mới đây tách ra khỏi Trung quốc bắt đầu từ 1949, với nhãn quan của người Hán đặt trọng tâm vào cuộc nội chiến quốc-cộng. Ông nói là cách đây 400 năm, Đài Loan được gọi là Formosa, hòn đảo xinh đẹp, nay Đài Loan còn là một hòn đảo có một nền dân chủ trưởng thành và thanh tao. Ông cho rằng lịch sử Đài Loan tiếp diễn cách đây 400 năm từ di sản của thổ dân Austronesian, cư dân đầu tiên, chứ không phải xuất phát từ 5,000 năm của lịch sử Trung quốc. Ông là vị Tổng thống Đài Loan đầu tiên đã đặt trọng tâm của vũ trụ quan vào lịch sử đảo và vào di sản Austronesian. Ông đặc biệt nói về văn hoá địa phương, các tổ chức của cộng đồng, phi chính phủ đã được thành lập để phát triển, bảo tồn lịch sử, văn hoá ở mọi địa phương, làng xã. Tất cả đó là một phần của văn hoá Đài Loan. Đài Loan là một xã hội đa văn hoá, trong đó mọi người dân mở rộng chấp nhận sự đa dạng và giao lưu với nhau giữa các người Austronesian, Hoklo, Hakka và người Hoa ở lục địa sang. Ông nói về văn hoá Hoa kiều và đặt cộng đồng người Hoa ở Đài Loan giống như cộng đồng người Hoa trên thế giới như ở Singapore, Sydney hay San Francisco trong môi trường đa văn hoá, chứ không phải người Hoa giữa dân số của một nước Trung quốc thống nhất. Ông nhấn mạnh đến cuộc sống “văn hoá” thường ngày của người dân bình thường và nóI về bản thân ông xuất thân là con của một tá điền trong một gia đình nghèo và đã vươn lên để trở thành tổng thống của một nước được tín nhiệm của dân Formosa, những người con của Đài Loan như ông. Tinh thần từ bài diễn văn giống như tinh thần của một bản tuyên bố độc lập hơn là của một bài diễn văn nhậm chức bình thường. (2) Các dân tộc ở Đài Loan Vì đâu mà ông Trần Thuỷ Biển đã “tuyên bố độc lập” như vậy?. Bài ông nói đã phản ảnh được những gì sâu sa xảy ra trong tư tưởng ở xã hội Đài Loan trong nhiều năm vừa qua ở nhiều lãnh vực. Một hiện tượng xã hội đáng chú ý gần đây là một số vấn đề nghiên cứu trong phạm vi khoa học có liên hệ đến các dân tộc ở Đài Loan đã lan ra khỏi phạm vi hạn hẹp và trở thành một đề tài nóng bỏng trong xã hội mà trước đây ít có thể xảy ra. Giáo sư Lâm Mã Lý, nhà di truyền học ở bệnh viện Mckay Memorial ở Đài Bắc, đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu về nguồn gốc di truyền của các bộ tộc thổ dân sống lâu đời từ thời tiền sử ở Đài Loan. Một đề tài hầu như lúc đó không ai ở Đài Loan để ý Sau khi công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học vào năm 2000 (2), bà đã nhận được rất nhiều thư, điện thư từ các người “Đài Loan” không phải thổ dân (Mân Nam và Hakka) muốn tìm hiểu thêm về nguồn gốc của họ, họ không cho rằng họ có nguồn gốc từ người Hán. Giáo sư Lâm Mã Lý từ đó chuyển trọng tâm nghiên cứu của bà sang người Minnam (Mân Nam) và Hakka. Sau hơn một năm nghiên cứu di truyền trên hệ thống miễn nhiễm (Human Leucocyte Antigen, HLA) ở nhiễm sắc thể 6 (chromosome 6) qua máu của các dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ hoạt động quốc tế về HLA (International Histocompatibility Workshop) ở Nhật năm 1998, giáo sư Lâm Mã Lý đã công bố kết quả (3) về sự liên hệ và khoảng cách của các nhóm dân trên sơ đồ cây di truyền. Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng mongoloid Nam Á, khác sa với người Hán thuộc chủng mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân tộc Mân Việt (Min Yueh) chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư từ phương Bắc. Trong cuộc phỏng vấn trên báo Taipei Times (Đài Bắc thời báo) (4), có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà đã gây chú ý và bàn luận rất nhiều là vì nó đã thách thức chủ nghĩa Hán trung tâm cho rằng người Hán và văn minh Hán Hoa là cội nguồn của tất cả mà ra, và do đó đã rơi vào cuộc tranh luận chính trị về sự thống nhất với Trung quốc. Bà trả lời là bà cũng biết trước là kết quả nghiên cứu di truyền sẽ khơi động sự bàn luận tranh cãi, nhưng bà cũng nói rằng kết luận của nghiên cứu cũng không phải là gì mới lạ vì trước đây hai nhà nhân chủng học nổi tiếng đã công bố lâu rồi về dân tộc và văn minh của người Mân Việt, Hakka và Bách Việt. Kết quả của bà chỉ chứng minh một cách khoa học thêm mà thôi. Cả hai công trình nghiên cứu này đã được biết từ lâu trước khi có chủ đề bàn luận về thống nhất hay độc lập ở Đài Loan. Đó là công trình nghiên cứu của Lin Hui Shaing, “The Ethnology of China”, xuất bản năm 1937 và W. Meacham, “Origins and development of the Yueh coastal neolithic: A microcosm of cultural change on the mainland of East Asia”, công bố vào năm 1981. Cả hai đã đi đến cùng kết luận về nguồn gốc của dân Bách Việt. Cũng trong cuộc phỏng vấn này, có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà có mục đích chính trị không, vì hiện nay có rất nhiều người đã dùng nghiên cứu của bà trong chính trường. Bà nói rằng mọi người nên hiểu biết về nguồn gốc của mình. Và bà chỉ muốn tìm ra nguồn gốc của người địa phương sống lâu đời ở Đài Loan. Bà không hiểu tại sao người Mỹ gốc Phi lại có thể đi tìm được nguồn gốc của họ, mà người Đài Loan lại không có thể nói được “Chúng ta là người Mân Việt cổ xưa”. Bà muốn rằng người Đài Loan nên xem mình là người địa phương Mân Việt chứ không phải Hán từ bắc Trung quốc. Bà nói : “Bài nghiên cứu của tôi đơn giản là chỉ để hiểu biết về nguồn gốc. Tôi không biết gì về chính trị và không thuộc tổ chức chính trị nào”. Để có một cái nhìn tổng quát về tình hình Đài Loan và hiểu thêm về các dân tộc và văn hóa ở hòn đảo này, chúng ta phải bắt đầu từ các dữ kiện lịch sử và dân tộc học mà tôi cố gắng tóm lược như sau. Bộ tộc Austronesian Những người bản sứ thuộc dòng ngôn ngữ Austronesian là những dân đã sống lâu đời ở Đài Loan từ trước thế kỷ 17 khi các người ngoại quốc, như Hoà Lan, Tây Ban Nha và sau này từ Trung quốc bắt đầu đến chiếm đóng và định cư. Ngôn ngữ của các bộ tộc bản sứ cũng rất đa dạng và khác nhau, nhưng tất cả đều thuộc họ ngôn ngữ Austronesian, cùng họ với ngôn ngữ Phi Luật Tân, Indonesia, Mã Lai và ở nhiều đảo khác trong Thái Bình Dương. Hiện nay người thổ dân Austronesian chỉ còn có khoảng dưới 2% dân số Đài Loan và gồm các bộ tộc sau (theo thứ tự dân số) : Amis (130,000), Paiwan (60,000), Tayal (50,000), Bunun (38,000), Taroko (30,000), Puyuma (8,000), Rukai (8,000), Tsu (6,000), Yami (4,000), Saisiat (4,000), Thao (250). Một số bộ tộc khác ở đồng bằng và bờ biển trước đây đã biến mất, qua sự đồng hoá trong cộng đồng các người Hoklo, Hakka di dân từ Trung quốc trong các thế kỷ trước. Ngôn ngữ của các bộ tộc này chỉ còn giữ lại trong các tự điển và bài viết về họ của người Hoà Lan, Nhật và Đài Loan sau này, và một số từ còn sót lại trong tiếng Hoklo. Trong suốt lịch sử từ 1624, khi người Hoà Lan đến chiếm, cho đến thời kỳ thuộc nhà Thanh, rồi thuộc Nhật Bản và gần đây dưới chế độ Quốc dân đảng, người thổ dân thường bị phân biệt, chèn ép trong xã hội. Có lúc họ đã nổi dậy, như năm 1930, một bộ lạc đã nổi lên chống Nhật nhưng họ đã bị đàn áp đẫm máu. Đất đai của họ đã bị lấn chiếm và mất dần (cách đây không lâu, có nơi đất của họ đã được dùng để chôn các chất thải nguyên tử nguy hiểm). Năm 1984, Liên minh thổ dân Đài Loan đã được thành lập bởi một số trí thức và các lãnh đạo các bộ tộc để bảo vệ quyền lợi và văn hoá thổ dân. Họ đã tranh đấu trong nhiều năm cùng với đảng Dân chủ tiến bộ đối lập chống lại các chính sách văn hóa và bất công của chính quyền. Ngày nay, quyền lợi và văn hoá thổ dân đã được khuyến khích phát triển nhất là từ khi chính phủ Trần Thuỷ Biển nắm quyền từ năm 2000. Như các người Austronesian khác ở Đông Nam Á (Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương), các bộ tộc thổ dân đều có tục ăn trầu và xâm mình. Đặc biệt người Atayal còn xâm hình rất nhiều lên mặt. Theo truyền thuyết của họ, lúc khởi thủy chỉ có hai anh em. Vì muốn sinh sản con người, người em gái đã xâm hình lên mặt để che dấu gạt anh và sinh sản con cháu. Người Rukai, trong lễ hội xuân, còn có phong tục chơi đu xích đu. Người con gái đu xích đu, trong khi người con trai đẩy và bắt lấy. Trò chơi ở lệ hội xuân này tương tự như trò chơi của lễ hội người Việt và chúng có nguồn gốc phồn thực. Vì là thiểu số, hiện nay văn hoá người thổ dân có nguy cơ biến mất khi đa số thanh niên cố gắng hoà nhập vào xã hội Đài Loan. Trước đây vì bị phân biệt, nên đa số đã cố gắng dấu đi đặc tính thổ dân để hoà nhập. Ngày nay với chính sách bảo vệ và phát triển văn hoá bản sứ trong giáo dục, chính trị và kinh tế, họ đã có mặt ở mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội Đài Loan và hảnh diện là người có gốc tích thổ dân, dân cư đầu tiên của nước Đài Loan. Cuối năm 2001, ở Đài Trung, nơi có nhiều thổ dân thuộc các bộ tộc khác nhau, đã có tổ chức lễ hội về văn hóa Austronesian, với sự hiện diện của nhiều học giả thế giới đến dự hội nghị nghiên cứu Austronesian tổ chức cùng thời gian. Chang Hui-mei (Amei), ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan, là một người gốc thổ dân bộ lạc Puyuma bản sứ đã trình diễn nhiều bài dân ca Austronesian khai mạc liên hoan văn hoá này. Viện hàn lâm Academia Sinica cũng đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và con người Austronesian. Cùng với “Hiệp hội nghiên cứu tiền sử ấn và Thái Bình dương”, Academia Sinica đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về người Austronesian, như ở Đài Trung và Đài bắc vừa rồi. Nguồn gốc người Austronesian ở Đài Loan Có nhiều giả thuyết (9) về nguồn gốc của người Austronesian trên đảo Đài Loan: (a) họ là hậu duệ của người từ đảo Ryukyu ở nam Nhật Bản đến cách đây hơn 2,000 năm (:rolleyes: họ là những người Mã Lai đi từ các đảo phương Nam lên © họ là hậu duệ của các dân tộc từ đất liền vùng Quế châu (Miao, Thai,..) gần biên giới hiện nay giữa Trung quốc và Việt Nam. Những người này cũng là tổ tiên của người “Việt” (yueh) ở Quảng Đông hiện nay. Các địa điểm khảo cổ thời kỳ đá mới ở Tapenkeng (gần Đài Bắc) và Fengpitou (gần Cao Hùng) cho thấy các vật tìm thấy (rìu, tên đá, đồ gốm với trang trí hình thừng..) thuộc vào một nền văn hoá thời đại đá mới cách đây khoảng hơn 5,000 năm. Các nền văn hoá này có liên hệ với các di chỉ văn hoá ở đất liền phía nam Trung quốc và bắc Việt Nam. Các gốm ở các di chỉ văn hoá trên cũng có sự liên hệ với các gốm tìm thấy ở các di chỉ ở Phi Luật Tân và ở Sa Huỳnh. Điều này cho thấy giả thuyết thứ hai và ba ở trên về nguồn gốc của dân Austronesian có thể là có cơ sở. Tuy khảo cổ học cho ta thấy sự liên hệ ở thời kỳđá mới giữa cư dân đảo Đài Loan và đất liền, nhưng về phương diện ngôn ngữ hiện nay ta không còn tìm được cư dân nào còn lại trên đất liền ở nam Trung quốc và bắc Việt Nam dùng tiếng nói thuộc họ ngôn ngữ Austronesian. Nhà khảo cổ P. Bellwood cho rằng xưa kia ngôn ngữ Austronesian có thể đã được dùng bởi các bộ tộc ở nam Trung quốc nhưng đã bị biến mất khi người Hán tràn xuống phía nam. Vết tích của ngôn ngữ Austronesian có thể tìm được ở tiếng Mân Nam (Hoklo). Nhà ngôn ngữ học Benedict cho rằng họ ngôn ngữ Austronesian và ngôn ngữ Thai-Kadai (hiện vẫn còn ở nam Trung quốc và bắc Việt nam) có liên hệ và cùng chung một gốc. Gần đây một số các nhà ngôn ngữ học cũng cho thấy có sự liên hệ giữa ngôn ngữ Austronesian và Austroasiatics (như Mon-Khmer, Việt-Mường). Họ gọi gốc chung của hai họ ngôn ngữ này là Austric và dùng phương pháp ngôn ngữ học để cấu tạo lại các từ gốc tiền-Austric. Ngoài phương diện ngôn ngữ, ta cũng thấy có sự liên hệ trong lịch sử của các dân tộc nói các thứ tiếng trên ở nam Trung quốc và Việt Nam. Từ các dữ kiện ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ, nhà ngôn ngữ học R. Blust và khảo cổ học P. Bellwood đã cho rằng, bắt nguồn từ Vân Nam, nơi xuất phát nhiều sắc tộc nói nhiều loại ngôn ngữ khác nhau, và nhiều di chỉ văn hóa, người Austronesian xuống đến bờ biển rồi từ đó qua Đài Loan. Họ sau này, cũng như nhiều sắc tộ khác, bị Hán hóa, chỉ để lại vàI dấu vết ngôn ngữ trong các dân ở nam Trung quốc hiện nay. Tuy vậy, qua sự nghiên cứu về các từ cổ Trung hoa về các sản phẩm canh nông như kê, lúa gạo, nhà ngôn ngữ L. Sagart (10) cho rằng nguồn gốc của người Austronesian là ở phía bắc sông Dương Tử. Những từ này có liên hệ đến các từ gốc Austronesian. Thuyết của ông đặt cơ sở là các di chỉ trồng lúa cổ nhất tìm được hiện nay là dọc phía nam sông Dương Tử như Hemudu, Caoxieshan (tỉnh Triết Giang) cách đây khoảng 6,500 năm và Pentoushan (Hồ Nam) cách đây khoảng 8,000 năm. Trái với hai thuyết trên là thuyết của Meacham, Terrel và Soldheim (11) cho rằng người Austronesian chính là bắt nguồn từ các đảo trong khu vực tam giác bắc Phi Luật Tân, Indonesia đến tây New Guinea (vùng Wallacea). Họ tỏa ra các hướng khác nhau: bắc đến Đài Loan và các đảo nam Nhật bản (Ryukyu), tây đến bờ biển Việt nam, đông về Melanesia và các đảo ở Thái bình dương (Polynesia). Meacham cho rằng hiện nay khó có thể xác định là nguồn gốc người Austronesian ở nam Trung quốc qua ngôn ngữ học và khảo cổ học. Sự định tuổi về sự phát xuất các họ ngôn ngữ qua ngôn ngữ học như Blust đã làm là không chính xác và di chỉ khảo cổ ở Đài Loan chưa đủ để kết luận là người Austronesian từ nam Trung quốc đến Đài Loan. Soldheim cho rằng thật sự người Austronesian đi đến bờ biển Trung quốc, Đài Loan từ phương nam (Phi Luật Tân) và họ cũng đến bờ biển Việt Nam như ở Sa Huỳnh. Khi kỷ thuật di truyền được bắt đầu sử dụng vào địa hạt nhân chủng học, một số các nghiên cứu về di truyền dùng các mẫu DNA và mitochondria DNA từ các bộ tộc Austronesian và các dân cư ở bắc, nam Trung quốc, các đảo ở Đông Nam Á và Thái Bình dương cho thấy có sự liên hệ rất nhiều giữa người Austronesian ở Đài Loan và các dân ở Phi Luật Tân và các cư dân tộc phía nam Trung quốc nhiều hơn ở bắc Trung quốc (9). Tuy vậy điều này chưa cho phép ta khẳng định hướng di dân đi từ hướng nào. Nguồn gốc của người Austronesian vẫn còn là đề tài tranh luận của các nhà nghiên cứu. Thuyết “Từ Đài Loan” về nguồn gốc Austronesian ở Thái Bình Dương Năm 1984, nhà khảo cổ học Peter Bellwood, trong chương trình nghiên cứu phối hợp với ngôn ngữ học đã cho rằng các người Polynesian ở các đảo Thái Bình Dương như Tonga, Fiji, Tahiti, Tân Tây Lan, đảo Easter... có nguồn gốc từ Đài Loan. Họ di cư từ Đài Loan chỉ cách đây hơn 3,000 năm và nhanh chóng toả ra khắp những nơi trên. Thuyết này được phổ thông hoá nôm na là thuyết “tàu tốc hành từ Đài Loan” (“express train from Taiwan”). Ông Bellwood (13) cho rằng người Austronesian là những người trồng lúa, với kỷ thuật canh nông, từ nam Trung quốc đã qua Đài Loan và xuống các đảo phía nam. Từ đó họ đi về phương đông đến hầu như hết tất cả các đảo ở Thái bình dương. Họ đã thay thế các dân hái lượm địa phương cư ngụ trước đó ở các đảo Đông Nam Á. Bellwood cũng dựa vào nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học R. Blust để đưa ra thuyết của ông. Blust đã xếp loại tất cả các ngôn ngữ Austronesian, khoảng 1,200 loại, thành 10 nhóm chính. Các ngôn ngữ của các bộ tộc Austronesian ở Đài Loan rất khác nhau và chia ra thành chín nhóm khác nhau. Trong khi các ngôn ngữ Austronesian khác ở Đông nam Á và Thái Bình dương nằm vào chung một nhóm. Vì thế Blust cho rằng các ngôn ngữ ở Đài Loan là thuộc loại xưa nhất, và các ngôn ngữ Austronesian khác bắt nguồn từ Đài Loan. Bằng chứng khảo cổ học là các loại gốm gọi là gốm Lapita được tìm thấy khắp các đảo ở Thái Bình dương, từ quần đảo Bismark, đảo Vanuatu, Caledonia đến Fiji, Tonga, Samoa. Những người Lapita này chính là tổ tiên của những người Polynesia nói tiếng Austronesian ở Thái Bình dương hiện nay. Bellwood cho rằng người Lapita phát xuất từ Đài Loan. Vấn đề người Lapita từ đâu đến không đơn giản và đã có nhiều nhà nghiên cứu tranh luận. Nhà nhân chủng học Terrel cho rằng thật sự tổ tiên người Lapita là từ Melanesia hơn là từ người Austronesian từ Đài Loan hay Phi Luật Tân đến. Đồ gốm Lapita cổ nhất là được tìm thấy ở quần đảo Bismark, xứ sở của người Melanesia, hơn gốm tìm được ở Phi Luật Tân, mặc dầu chúng có liên hệ đến gốm Lapita. Theo ông Terrel, văn hóa người Lapita là sự tổng hợp văn hóa của người Austronesian đến trong nhiều đợt và của người Melanesia bản sứ. Thuyết của ông Terrel còn được gọi nôm na là “thuyết bờ rối” (“entagled bank hypothesis”) Thuyết “tàu tốc hành” của Bellwood, Blust và thuyết “bờ rối” của Terrel là hai mô hình nổi bật khác nhau nhất. Các nhà nghiên cứu đã chia ra hai trường phái dựa vào hai mô hình khác nhau trên. Thuyết “tàu tốc hành” của Bellwood và Blust được nhiều người chấp nhận trong một thời gian lâu trong các năm 1980 và đầu thập niên 1990. Khi các nhà di truyền học nhảy vào cuộc tranh luận, lúc đầu đã có các nghiên cứu di truyền mtDNA với các kết quả đầu tiên có vẻ là thuyết Bellwood và Blust đúng. Nhưng sau này, các kết quả di truyền ở nhiểm sắc thể Y và mitochondria mtDNA cho thấy giả thuyết trên của Bellwood là không hoàn toàn đúng. Di truyền ở nhiểm sắc thể Y cho thấy người Polynesia có rất ít sư đa dạng, chứng tỏ họ xuất thân từ một số ít người đàn ông. Mặc dầu ở mtDNA và nhiểm sắc thể Y, có các vết tích và sự liên hệ một ít qua các điểm (marker) với những người Austronesian và người ở nam Trung quốc và Đông Nam Á. Nhưng sự liên hệ di truyền nhiều nhất là với các người Melanesian ở New Guinea và Austronesian ở Wallacia gần New Guinea (11)(12). Thuyết Bellwood đúng một phần nhưng mô hình Terrel có cơ sở hơn. Vì thế ông Oppenheimer (11) đã gọi nguồn gốc và di dân của người Polynesia đến Thái Bình dương là “con tàu chậm” (“slow boat”) (:lol: Người Hoklo (福佬) “Hoklo”, từ cổ xưa gốc địa phương nay được dùng để chỉ chung giống người dân tộc và ngôn ngữ vùng Phúc Kiến thay vì dùng từ Phúc Kiến như trước đây thường xử dụng để chỉ người từ tỉnh địa phương Phúc Kiến trong một nước Trung quốc rộng lớn. Các từ thường dùng khác như Hokkien, Minnan (Mân Nam), Min (Mân), hay Đài Loan cũng đã được dùng để chỉ dân tộc này. Nay thì từ “Hoklo” bản địa có khuynh hướng được dùng nhiều (nhất là trong giới hàn lâm nghiên cứu) vì nó thống nhất cho một giống dân trong dân tộc học, không mang màu sắc chính trị, thích hợp hơn là dùng danh từ về vị trí địa lý của một tỉnh. Người Hoklo không những cư trú ở Phúc Kiến mà còn có mặt ở nhiều nơi như Hải Nam, Đài Loan và ở nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á do truyền thống đi biển của họ. Ở Đài Loan, hiện nay 70% dân số là người Hoklo. Ngôn ngữ người Hoklo có nguồn gốc cổ xưa ở Nam Trung quốc. Theo nhà ngôn ngữ học Norman và Mei Tsu Lin (5)(6) thì tiếng Hoklo (Mân), Hakka và Quảng Đông có cùng nguồn gốc. Chúng xuất phát từ các bộ tộc bách Việt phi Hán sống ở phía Nam sông Dương Tử. Những ngôn ngữ này có các thành phần gốc Thái cổ, Austronesian và Austroasiatic ở tầng ngôn ngữ dưới tầng pha trộn với tiếng Hán ở trên. Thành phần Austronesian và Thai (Austro-Thai) có trội hơn thành phần Austroasiatics, nhưng cả ba đều có hiện diện trong các ngôn ngữ này. Họ ngôn ngữ Austroasiatics, như ta biết, gồm có các ngôn ngữ Mon-Khmer, Việt, Munda. Điều này cho thấy là các tộc người nói tiếng Austroasiatics đã có mặt ở nam Trung quốc từ lâu đời, trước thời kỳ nhà Tần\- Hán (6). Hiện nay trong ngôn ngữ Mân Nam Hoklo, ta vẫn còn tìm thấy có các sự liên hệ với ngôn ngữ Việt thuộc họ Austroasiatics qua các từ gốc (6). Một vài thí dụ về các từ Hoklo với các từ trong tiếng Việt như vat[bat4] - Việt : biết, Bahnar : băt. gnial[kian2] - Việt : con, Khmer : koun. daam[tam5] - Việt : đẫm (ướt). daanggi[tang5ki1] - Việt : đồng (lên), Proto-Mân : dung, , Mon : dong. doh[toh4] - Việt : đâu (ở). và một số từ có nguồn gốc austroasiatics-austronesian (theo thuyết Austric) như dehh[teh4]\- Việt : đè, Proto-Malay : tedes. qiul [giu2] - Việt : giật (kéo), Quảng Đông : jau1, proto-Malay : guyud lut[lut4] - Việt : lột, Hakka : lôụt, Quảng Đông : led1, Indonesian : lucut, Malay : luchut, Hawai Polysnesian : lu. lerng[leng7] - Việt : lõng, proto-Malay : luan. Ngoài ra, theo tôi một số các từ Hoklo sau đây cũng có gốc chung (cognates) với các từ Việt. bou[po*1] - Việt : bố (cha) voul[bo*2] - Việt : bu (vợ) za[cha1] - Việt : ta (người), Proto-Malay : tau, cau. dẫn tới từ Hoklo, zabou nghĩa là người đàn ông và zavoul nghĩa là người đàn bà. Ngoài sự liên hệ về ngôn ngữ giữa người Hoklo (Mân Việt) và người Việt, trong lịch sử, ta cũng được biết là tổ tiên của nhà Trần, một triều đại rực rỡ đượm văn hoá Việt ở Việt Nam, đã đi từ Phúc Kiến (Mân) theo đường biển đến định cư ở Việt Nam vào thế kỷ 13. Họ sống về nghề đánh cá dọc theo bờ biển nam Trung quốc. Người Hoklo ở Đài Loan sau bao thế kỷ chung sống và hợp chủng với nhiều bộ tộc bản sứ ở vùng thấp và đồng bằng đã dẫn đến sự biến mất của một số các bộ tộc. Qua quá trình giao lưu này, một số ngôn từ Austronesian đã được thu nhận và ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan có nét địa phương khác với ngon ngữ Hoklo ở tỉnh Phúc Kiến trong lục địa. Ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan nay được gọi là Đài ngữ. © Người Hẹ hay Khách trú (Hakka) (客家). Từ “Hakka” chữ Hán có nghĩa là “khách trú”, do người Quảng Đông dùng để chỉ các người di dân xuống địa phận vùng bắc Quảng Đông và nam Phúc Kiến hiện nay. Thật sự người Hakka đã có mặt từ ngàn năm trước ở vùng phía nam sông Dương Tử, chủ yếu ở khu vực nam tỉnh Giang Tây, giáp giới với Phúc Kiến. Vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử họ đã di dân xuống Quảng Đông. Hiện nay chúng ta không rõ lịch sử và khi nào từ này đã được dùng, chỉ biết là người Quảng Đông đã đối xử phân biệt với họ, cho họ là dân phi Hán thuộc một loại dân tộc mọi man di, như các tộc Thái, Choang (Zhuang) hay Mèo (Miao)\, ở miền núi hoang dã di dân vào ở các khu vực Hán. Thật sự thì cả người Quảng Đông cũng không phải nòi Hán, nhưng vì bị Hán hoá quá lâu, nên trong cộng đồng của họ đã không còn gìn giữ lại được trong trí nhớ di sản chung là trước kia họ thuộc chủng phi Hán. Vì bị coi như người ngoài đến lấn chiếm, và bị đối xử phân biệt nên một số người Hakka đã cũng tự cho họ là người Hán từ bắc Trung quốc đi xuống. Quyển sách cổ điển nói về nguồn gốc của người Hakka là của giáo sư Lo Hiong Lim, xuất bản năm 1933 (“An introduction to the study of the Hakkas: its ethnic, historical and cultural aspects”). Ông chủ yếu dựa vào gia phả cho rằng người Hakka là từ bắc Trung Quốc đã di dân xuống phương nam qua nhiều đợt vì quê hương của họ đã bị các rợ phương bắc xâm lăng. Ngày nay thì nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ, ngôn ngữ học và di truyền học đã cho thấy là thuyết của ông Lo không đúng. Ngay cả tư liệu gia phả cũng không chính xác và có nhiều sai lầm. Nhà ngôn ngữ học J. Norman cho rằng tiếng Hakka, Mân (Min) và Quảng Đông “Việt” (Yue) có cùng một nguồn trong lịch sử, đã hiện diện ở Nam Trung quốc từ trước thời Hán, mà ông gọi chung là tiếng cổ nam Trung quốc (Old southern Chinese) (5). Nhà ngôn ngữ học Laurent Sagart trong một nghiên cứu mới đây (2002) về nguồn gốc tiếng Hakka, đã cho thấy là ngôn ngữ này có nguồn gốc ở phía nam Trung quốc, với lớp tầng cổ nhất thuộc họ ngôn ngữ Mèo - Dao (Miao-Yao), hay còn gọi là Hmong-Mien (4). Ngôn ngữ Hakka cũng rất gần với ngôn ngữ của người Gan (Cám) cư ngụ dọc lưu vực sông Cám giang. Hiện nay ở vài khu vực các tỉnh Giang Tây (Jianxi), Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, người She, thuộc họ ngôn ngữ Hmong-Mien vẫn còn hiện diện. Ông Sagart cho rằng chính họ là tổ tiên của người Hakka và Gan, sau này đã bị Hán hoá dần từ thời Tống. Trước đây, nhà ngôn ngữ học Haudricourt cũng đã cho rằng tiếng Quảng Đông và Hakka có nguồn gốc từ tiếng Thái và Mèo-Dao, sau khi trãi qua các quá trình Hán hoá lâu dài trong lịch sử (7). Giáo sư Fong Hok Ka, trong sách nghiên cứu về người Hakka xuất bản ở Trung quốc năm 1994 (“Investigating in depth about the origin of Hakka”), đã dùng các tư liệu lịch sử và khảo cổ tìm được ở các vùng của người Hakka trước đây cư ngụ. Ông cho thấy đã có một nền văn minh rất cao hiện diện trước lâu khi thời kỳ nhà Tần đánh chiếm các dân tộc phương Nam. Từ đó (221BC) bắt đầu có quá trình Hán hoá cho đến các giai đoạn sau thời Bắc triều - Nam triều (589AD), khi nhóm tiền\-Hakka (proto-Hakka) bắt đầu được thành lập và phát triển. Nói chung các công trình nghiên cứu của ông Norman, Sagart và Fong là có cơ sở hơn hết về nguồn gốc con người và ngôn ngữ Hakka. Sau người Hoklo, người Hakka bắt đầu di dân vào đảo Đài Loan vào khoảng thế kỷ 18, chủ yếu là dưới triều Thanh. Hiện nay, dân số người Hakka có khoảng 3 triệu, tức khoảng 15% dân số Đài Loan, đứng hàng thứ 2 sau dân Hoklo. (3) Vài nét về lịch sử hiện đại Đài Loan (a) Đài Loan đã có người thổ dân Austronesian sinh sống từ lâu đời. Tài liệu xưa nhất ở Trung quốc đề cập đến Đài Loan là vào năm 230 AD, nói về một số người chạy loạn từ bờ biển Phúc Kiến, Quảng Đông đến trú ngụ tại đảo. Một tài liệu địa lý khác ở thế kỷ thứ 3 có nói về các bộ tộc sống trên đảo (9). Họ có phong tục và cách sống rất khác nhau, chứ không phải thuần nhất. Từ cuối thế kỷ 16 đến năm 1624, chỉ có một số rất ít người từ lục địa sang sinh sống dọc theo bờ biển phía bắc. Chủ yếu họ sống ngoài vòng kiểm soát của triều đình Trung quốc. Trong đó không ít là sống theo nghề cướp biển. Thỉnh thoảng chỉ có một số người bị đắm tàu trôi dạt vào đảo. Họa hoằn lắm là có các thương thuyền của người Bồ Đào Nha, Hòa Lan và các nước tạt qua trên đường hàng hải buôn bán với Nhật và Trung quốc. Người Bồ Đào Nha gọi đảo này là Formosa (“hòn đảo đẹp”). Thổ dân Austronesian trên đảo cũng có tiếng là hung dữ, nhất là ở phía sâu trong đảo. Thêm nữa vì không có cảng hay thành phố mà chỉ có các làng mạc thưa thớt dọc biển, nên không ai để ý đến. Với sự cạnh tranh càng ngày càng gia tăng của các nước Tây phương trong thị trường thương mại hàng hải với Nhật và Trung quốc. Người Hoà Lan đầu tiên chiếm các đảo nhỏ ở eo biển Đài Loan như quần đảo Pescadores và bắt đầu từ năm 1624 đến lập các cơ sở ở bờ biển phía Tây Đài Loan. Người Tây ban Nha cũng đến phía bắc đảo để chiếm đóng và lập các căn cứ làm thuộc địa từ năm 1626. Người thổ dân bị lấn chiếm và không chống trả nổi. Chiến tranh giữa Hoà Lan và Tây Ban Nha diễn ra liên tục trên đảo. Trong thời gian này, người Hoa từ lục địa cũng bắt đầu di dân sang ở một vài nơi phía Tây và Nam trên đảo. Năm 1642, cuối cùng người Tây Ban Nha đã bị người Hoà Lan đánh bại, các cơ sở, đồn thiết bị ở phía bắc đảo đã rơi vào tay người Hoà Lan. Formosa trở thành thuộc địa và là cơ sở thương mại có lợi nhuận lớn thứ nhì sau Nhật bản của công ty Đông ấn Hoà Lan. Trong lúc đó người Hoa từ lục địa tiếp tục di dân qua đảo Formosa lập nghiệp ở dọc bờ biển hẻo lánh phía Tây. Người thổ dân nay chịu 2 sức ép của làn sóng xâm nhập. Từ Đài Loan, Công ty Đông ấn xuất khẩu đường, các sản phẩm từ nai thú rừng, và là trạm chuyển tiếp cho đồ sứ Trung quốc. Các bộ lạc ở vùng thấp và đồng bằng bị cạnh tranh sinh sống và bị đẩy lùi từ sự phát triển nông nghiệp lớn dần của các người di dân từ lục địa sang. Dĩ nhiên lâu dần sự việc cũng đã dẫn đến sự đụng độ không tránh khỏi giữa người di dân Hoa lục với người Hoà Lan. Nhà Minh bắt đầu gởi người và chiến thuyền đến để can thiệp. Chiến tranh xảy ra khốc liệt trong nhiều năm. Sau cùng vào năm 1662, người Hoà Lan vì giới hạn nhân lực và thực lực đã bị tướng nhà Minh Koxinga (Jeng Cheng Gung) đánh bại. Đây là lần đầu tiên Trung quốc thiết lập sự cai trị ở đảo Đài Loan. Khi nhà Minh bị mất nước vào năm 1683, người Mãn Châu thiết lập triều nhà Thanh ở Trung quốc. Tàn quân của nhà Minh đã phải lánh nạn ở bờ biển phía Nam gần Đài Loan. Một số cũng đi xa hơn nữa về phương Nam đến Việt Nam và được chúa Nguyễn cho phép định cư ở các vùng đất mới, như miền Nam phía vùng đồng bằng sông cửu Long và Hà Tiên. Ở Trung quốc, một số hội kín “phản Thanh phục Minh” như Thiên Địa hội được thành lập. Vùng bờ biển Trung quốc và Đài Loan trở thành nơi cứ địa của Thiên địa hội. Lâu ngày tàn quân và Thiên địa hội đã dần dần trở thành cướp biển quấy phá hàng hải thương mại nhà Thanh ở eo biển Đài Loan. Sau một thời gian, nhà Thanh tuy dẹp được cướp biển, nhưng ở Đài Loan họ chỉ kiểm soát được một vài nơi có người Hoa định cư dọc bờ biển. Còn lại đa số là ngoài vòng kiểm soát. Nhà Thanh vì thế chỉ xem Đài Loan là một vùng biên giới để giử an ninh, không coi đó là nơi quan trọng và cần thiết. Nhà Thanh dùng chính sách “chia rẽ và cai trị” rất hiệu nghiệm. Họ dùng người bản sứ Austronesian để đàn áp các cuộc nổi loạn thường xảy ra của người Hoa di dân vẫn còn thần phục nhà Minh. Năm 1895, nhà Thanh thua trận trong chiến tranh với Nhật. Một trong những điều kiện thương thuyết là Nhật đòi nhà Thanh phải nhường lại Đài Loan. Vì không coi là nơi quan trọng thuộc lãnh thổ Trung quốc, nhà Thanh đã đồng ý với Hoà ước Shimonoseki kết thúc cuộc chiến tranh Trung-Nhật. Đài Loan trở thành thuộc địa, trực thuộc Nhật từ năm 1895 đến 1945. Trong 50 năm dưới chế độ thực dân Nhật, Đài Loan đã trãi qua một sự thay đổi khá sâu rộng trong các địa hạt văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị. Tiếng Nhật và văn hoá Nhật được áp dụng trong toàn xã hội. Văn hoá bản sứ Hoa, Hoklo và Austronesian không đươc phát triển. Họ cai trị Đài Loan rất chặt chẻ. Ngay cả vào sâu trong nội địa, vùng núi rừng để chế ngự các bộ tộc Austronesian miền núi, để đặt họ vào vòng kiểm soát của người Nhật. Kỷ nghệ được phát triển khai thác tận lực tài nguyên thiên nhiên như thuỷ điện, nhôm, hoá học.... Đài Loan sau này đóng góp nhiều vào bộ máy chiến tranh của Nhật trong thế chiến thứ hai. Dưới sự cai trị của Nhật, một cuộc nổi dậy lớn nhất chống Nhật, do một bộ tộc người Austronesian lảnh đạo, đã xảy ra vào năm 1930. Để trả thù, chính quyền Nhật đã đàn áp, giết và bắt đi hầu hết các người của bộ tộc Austronesian này trong cuộc nổi loạn trên. Trong lịch sử Đài Loan, ngay cả Quốc dân đảng đã đề cao biến cố nổi dậy quan trọng này của các “đồng bào dân tộc”. Trong thế chiến thứ hai, Trung quốc đánh nhau với Nhật ở mặt trận châu Á, Thái bình dương và vì thế đứng về phía Đồng minh chống lại trục phát xít Đức-Nhật-Ý. Trong hội nghị của ba cường quốc đồng minh (Mỹ, Anh, và Trung quốc) về mặt trận Thái Bình dương ở Cairo vào năm 1943, Đồng minh đã đồng ý là sẽ giao Đài Loan cho Trung quốc (Quốc dân đảng) khi Nhật bị bại trận sau chiến tranh. (:lol: Biến cố 28/2 - Thảm sát ở Đài Bắc và khắp Đài Loan Cuối năm 1945, sau khi Nhật đã đầu hàng đồng minh, chính phủ Trung quốc của Quốc dân đảng gởi người và quân đội đến Đài Loan để giải giới và thiết lập chính quyền mới trên đảo. Họ đến từ lục địa nhưng nắm hết quyền trong chính phủ, quân đội. Từ sự cách biệt gần 100 năm trong lịch sữ trong thời kỳ lệ thuộc Nhật và trước đó trong thời nhà Thanh, lối sống xã hội của người Đài Loan bản sứ đã khác nhiều với tập tục suy nghĩ nếp sống của những người tràn qua từ đất liền. Điều này bắt đầu dẫn tới những bất đồng và căng thẳng, nhất là sự hối lộ, tham nhũng, vơ vét, áp bức dân địa phương của chính quyền Quốc dân đảng trong các năm đầu khi họ vừa đến Đài Loan. Người dân bản sứ không quen về tệ nạn tham nhũng, vơ vét khi còn dưới thời Nhật cai trị, nên rất ta oán. Họ đã biểu tình phản đối bắt đầu từ Đài Bắc rồi lan ra khắp Đài Loan. Quốc dân đảng đã phản ứng lại bằng cách dạy dân địa phương một bài học, như một số tướng và nhân vật quốc dân đảng đã tuyên bố . Trong ngày 28/2/1947, quân đội đã nổ súng vào đoàn biểu tình và mở chiến dịch càn quét tấn công vào các dân bản sứ, hậu quả thật khốc liệt, hơn 20,000 người đã bị thảm sát. Thiết quân luật đã được ban hành và áp dụng trên toàn lãnh thổ. Biến cố này là một bản lề quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Đài Loan. Năm 1949, chính phủ Quốc dân đảng ở Trung quốc sau khi bị thua trận trong cuộc nội chiến đã phải chạy ra đảo Đài Loan củng cố. Thiết quân luật được áp dụng chặc chẽ hơn, viện cớ tình trạng chiến tranh với đảng cộng sản ở Trung quốc lục địa. Thiết quân luật chỉ chấm dứt sau này vào năm 1987. Biến cố ngày 22/8/1947 có ảnh hưởng sâu rộng và đã nằm sâu trong tiềm thức của dân Đài Loan. Mặc dù nó đã bị các chính phủ Quốc dân đảng che đậy và cấm được bàn hay đề cập đến từ lúc đó cho đến cuối thập niên 1980s, nhiều trí thức bản sứ và ngay cả một số trong Quốc dân đảng ly khai đã đặt lại vấn đề và từ đó thành lập đảng Dân chủ Tiến bộ đối lập với chính quyền. Năm 1972, Đài Loan đã lỡ một cơ hội trở thành một nước độc lập gia nhập vào Liên Hiệp quốc. Trong thời điểm này Mỹ đang hoà hoãn với Trung hoa lục địa (Cộng hoà nhân dân Trung quốc). Liên hiệp quốc cũng vừa công nhận chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung quốc (PRC) đại diện cho Trung quốc ở Liên hiệp quốc, thay thế chính phủ Cộng hoà Trung quốc (ROC) của Quốc dân đảng ở Đài Loan. Đài Loan lúc đó có thể từ bỏ chính sách là mình có chủ quyền ở Trung hoa lục địa và là thực thể đại diện cho tất cả mọi người dân Trung hoa. Thay vào đó, Đài Loan nên tuyên bố độc lập xin vào Liên Hiệp quốc với tư cách một nước mới. Đây cũng là hành động mà Mỹ khuyên Đài Loan nên theo trong cơ hội này lúc Mỹ thương lượng với Trung quốc, nhưng chính phủ Đài Loan đã từ chối và tiếp tục theo đuổi đòi chủ quyền cho cả Trung hoa lục địa. Đây là một sai lầm chiến lược lớn mà sau này Đài Loan hối hận. Nhiều người đã đặt lại vấn đề là tại sao lại không có hai hoặc ba nước nói tiếng Hoa trong Liên Hiệp Quốc, cũng như Liên Sô trước đây đã có Ukraine và Bylorussia hiện diện trong tổ chức này. Chính sách sau này của chính phủ Quốc dân đảng Đài Loan là cố gắng thiết lập được quan hệ ngoại giao với mọi nước (đa số là các nước nhỏ ở Trung Mỹ và Thái Bình dương) và xin được vào các tổ chức quốc tế như Y tế thế giới (WHO), văn hoá (UNESCO), thương mại (WTO).. Từ lúc đảng Dân chủ tiến bộ đối lập được thành lập, đấu tranh về đường lối giữa Quốc Dân Đảng và đảng Dân chủ diễn ra rất gay gắt trong suốt thập niên 1980s. Đến cuối thập niên 1990s thì người địa phương Đài Loan đã thực sự thắng lợi, với bản sắc Đài Loan được đặt là nền tảng cho mọi chính sách đối ngoại và đối nội. Ngay cả Quốc Dân đảng đã chọn người địa phương Đài Loan, ông Lý Đăng Huy, là vị tổng thống với chính sách mới ở giai đoạn cuối cùng trước khi đảng Dân chủ lên nắm quyền năm 2000, mở đầu cho một kỷ nguyên và một thế kỷ mới. (3) Sự hình thành và phát huy văn hoá truyền thống bản địa của các dân tộc ở Đài Loan Tôi đến Đài Trung (dọc bờ biển hướng Tây, cách Đài Bắc 150km phía Nam) vào tháng 6 năm 2000, một tháng sau khi ông Trần Thuỷ Biển nhậm chức tổng thống. Trung quốc vẫn còn dàn hoả tiển hướng về Đài Loan ngăn cách qua một eo biển nhỏ hẹp. Dân chúng tuy vậy rất bình tỉnh, tự tin và không còn sợ hải như trước đây. Mặc dầu thị trường chứng khoáng chưa hồi phục đến mức bình thường như hồi trước lúc khủng hoảng, hoạt động kinh tế đã trở lại như trước, các trung tâm thương mại rất náo nhiệt trừ các trung tâm của các công ty Nhật có rất nhiều ở Đài Loan, như Daimaru,.. thì vẫn vắng khách như xưa vì giá rất cao. Thành phố Đài Trung là thành phố lớn mà dân Hoklo hầu như chiếm gần hết, với một số ít còn lại là người các dân tộc thổ dân Austronesian. Thành phần dân ở Đài Loan gồm khoảng 15% là người Hakka (khách trú), 70% là người Phúc Kiến, 2% là người bản sứ thổ dân và 13% là người từ các vùng ở Trung Hoa lục điạ đến gần đây. Mặc dầu không phải là đa số, nhưng người từ Trung Hoa lục địa đã chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong chính phủ, quân đội. Các hoạt động kinh tế phần lớn nằm trong tay họ, trong số đó có một số công ty có sự liên hệ rất mật thiết với Quốc dân đảng. Ngay Quốc dân đảng cũng có những công ty riêng rất lớn với nguồn tài chánh và lợi nhuận khổng lồ. Tình trạng trên kéo dài trong hơn 40 năm, cho đến khi bắc đầu từ năm 1988, đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP) đối lập được thành lập. Đảng Dân chủ tiến bộ đòi hỏi có sự công bằng và đấu tranh dành lại quyền chính trị với khuynh hướng độc lập, từ bỏ là đại diện Trung quốc để lấy lại Hoa lục của chính thể Đài Loan từ khi Quốc dân đảng thua chạy qua tá túc ở Đài Loan. Mặc dầu có nhiều khó khăn và trở ngại do chính phủ Quốc dân đảng lập ra, dần dần tiếng nói của các dân bản sứ đã được thể hiện. Trong những năm cuối của thập niên 1980 và đầu 1990, sự đối lập của đảng Dân chủ Tiến bộ và Quốc dân đảng về khuynh hướng và chính sách không những gay gắt trên chính trường (nhiều khi đưa đến xô xát bạo động trong quốc hội, các nơi diễn thuyết công cộng giữa hai phe mà chúng ta thường thấy trên truyền hình) mà còn được thể hiện ở dân chúng tuỳ theo dân thuộc thành phần nào, bản sứ hay không bản sứ. Năm 1996, ông Trần Thuỷ Biển được bầu làm thị trưởng thành phố Đài Bắc. Trong thời gian làm thị trưởng, ông đã đổi tên đại lộ trước dinh tổng thống từ “Đại lộ Tưởng Giới Thạch muôn năm” thành “Đường Ketagalan”. Ketagalan là tên một bộ lạc thổ dân Austronesian cư ngụ vùng xung quanh Đài Bắc đã bị tuyệt chủng từ lâu sau khi họ đã bị đồng hoá vào xã hội Đài Loan. Mặc dù không phải là người thổ dân, nhưng ông Trần Thuỷ Biển đã tích cực ủng hộ và phát triển quyền lợi và văn hoá thổ dân khắp Đài Bắc. Quan trọng hơn, ông đã lập ra một viện bảo tàng giữa một công viên lớn trong trung tâm thành phố tưởng niệm biến cố ngày 28/2/1947. Công viên được đổi tên là công viên hoà bình 282. Tôi có ghé thăm công viên và viện bảo tàng trong dịp viếng Đài Bắc năm 2000. Thật là cảm động khi thấy những hình ảnh, thơ từ, áo của các nạn nhân mang những lổ đạn, sách, báo chí, chứng từ, nói lên sự bất nhẫn qua hình ảnh của quân đội Tưởng Giới Thạch bắn giết hơn 20,000 người... Viện bảo tàng mang một biểu tượng với dòng chữ to “confused identity leads to tragedy - Taiwan has to know its past tragic event in 22/8/1947” (không rõ cá tính chúng ta là ai sẽ dẫn đến thảm kịch - Đài Loan phải biết quá khứ lịch sử của biến cố ngày 22/8/1997”. Dĩ nhiên viện bảo tàng đã bị chính phủ Quốc dân đảng lúc bấy giờ rất chống đối và lên án. Nhưng cũng từ lúc ấy, đa số người Đài Loan bản sứ (Hakka và Hoklo) đã bắt đầu nhận ra, ý thức được quyền độc lập và tự hào về sự khác biệt của văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ của họ với văn hoá quan thoại của Quốc dân đảng và của Trung Hoa lục địa. Ngay cả trong Quốc dân đảng, nhiều người (nhất là các đảng viên gốc người bản sứ), đã đòi hỏi phải có cải tổ, thay đổi chính sách để thể hiện được nguyện vọng của dân một cách thực tế và áp dụng được trong tình hình mới. Nó phải thích với khuynh hướng và trào lưu dân chủ mà quần chúng đòi hỏi. Lý Đăng Huy, vị tổng thống Quốc dân đảng cuối cùng trước khi Trần Thuỷ Biện lên thay, là người gốc bản sứ, đã có những chính sách cởi mở. Chính ông cũng có những hoài bảo độc lập giống như đảng Dân chủ Tiến bộ. Điều này đã làm cho chính quyền Trung quốc rất tức giận và hằng học, làm nhiều khó khăn cho ông Lý Đăng Huy, ngay cả khi ông không còn trong chính trường và là một công dân bình thường như hiện nay. Thí dụ như khi ông dự định đi đến viếng các nước như Anh, Mỹ, và gần đây Nhật với tư cách cá nhân riêng tư, chính quyền Trung quốc cũng đã gây sức ép đến các nước sở tại để không cho ông thi thực nhập cảnh (visa). Ai nói là thù sẽ phai đi theo thời gian ?. Để có thể phân biệt và tạo ra được sự khác nhau về xã hội, văn hoá giữa Đài Loan và Trung quốc, Đài Loan từ Lý Đăng Huy đến Trần Thuỷ Biển đã khuyến khích phát triển và quảng bá rộng rãi văn hoá của những dân tộc thổ dân trong văn hoá Đài Loan. Ý thức về sự quan trọng của nền văn hoá thổ dân có nguồn gốc Mã Lai (Malayo-Indonesian) vào sự đóng góp chung với các văn hoá Hakka và Phúc Kiến để tạo dựng lên một nền văn hoá khác biệt với văn hoá Hán Trung Hoa. Điều này đã được nhận diện và chấp nhận là một yếu tố quan trọng bật nhất đặt nền tảng cho sự thành hình một đặc tính (identity) mới ở Đài Loan. Thêm nữa mặc dầu Đài Loan đã có thời gian ngắn chỉ khoảng hơn 80 năm là một phần của Nhật Bản, trong thời kỳ Nhật cai trị. Nhưng ảnh hưởng văn hoá Nhật đã có thể hiện một phần trong văn hoá và con người Đài Loan. Đài Loan và Nhật hiện nay có quan hệ kinh tế và văn hóa khá sâu rộng. Đặc tính riêng biệt là điều kiện tiên quyết cho sự khởi đầu thành lập một quốc gia của một quần thể với một văn hoá riêng. Quá trình văn hoá, tư tưởng như nói trên xảy ra ở Đài Loan trong sự tiến đến tạo thành một nước có bản sắc riêng cũng mang mán tựa như quá trình mà người Việt đã trãi qua trong thời kỳ Bắc thuộc. Trong quá trình này, nguy cơ văn hoá bản sứ có thể bị Hán hoá và tiêu diệt, trước khi có sự độc lập trong thế kỷ thứ 10 là rất cao, nếu không nhờ có văn hóa làng xã thuần Việt ở nông thôn được giữ vững. Sau bao nhiêu năm dưới các chính phủ Quốc dân đảng, ngôn ngữ Hakka, Hoklo và các thổ ngữ bị cấm dùng trong nền giáo dục và các công sở, thay thế bởi ngôn ngữ chính thức Quan thoại (mandarin). Trước đây, một số trí thức Hakka và Hoklo đã cố gắng giữ gìn tiếng nói của họ bằng nhiều phương tiện. Một trong những phương tiện là sáng tạo ra chữ viết mới dùng chữ Hán tạo ra loại chữ gọi là Koa-a-chheh (歌仔冊) vào thế kỷ 17 dưới thời kỳ thuộc nhà Thanh. Cấu tạo loại chữ này cũng tương tự một phần như chữ Nôm (Việt Nam), hoặc dùng chữ âm chữ Hán để chỉ chử địa phương hoặc dùng nghĩa chữ Hán cho âm địa phương. Tuy nhiên nó chưa được thống nhất tiêu chuẩn và có sự tuỳ tiện của người viết. Đến cuối thế kỷ 19, thì loại chữ viết này biến mất dần. Đầu thế kỷ 20, chữ cái Latin cũng đã dùng để thể hiện tiếng nói địa phương (tương tự như chữ quốc ngữ sau này ở Việt nam). Nhưng hệ thống chữ này, gọi là Poe-oe-ji (白話字), đã không thành công , một phần là do chính sách của Quốc dân đảng. Chính sách của Quốc dân đảng là phát triển chính thức chữ Hán Quan thoại để nó trở thành phổ thông trong đời sống xã hội, chính trị. Chữ mới này có thể gây nguy cơ phổ biến cho văn hoá địa phương đe doạ sự độc tôn của Hán văn cổ điển mà Quốc dân đảng xây dựng khi đến Đài Loan (8). Vì thế chính quyền Quốc dân đảng đã ngăn cấm loại chữ mới này. Vì chính sách ngôn ngữ và văn hóa độc tôn trọng Hán của chính phủ Quốc dân đảng trước đây, rất nhiều thanh niên thuộc các thế hệ mới gần đây đã quên đi tiếng cha mẹ của họ. Chính sách này được thể hiện qua sự cấm dùng tiếng địa phương ở các nơi công cộng, công sở, hay giảm thiểu tối đa tiếng địa phương trên truyền thanh và truyền hình. Không những thế, trường học nào để học sinh nói tiếng địa phương, không phải Quan thoại bị phạt tiền. Ông Trần Thuỷ Biển (và trước đó ông Lý Đăng Huy) hiện nay đã có chính sách cho phép các ngôn ngữ điạ phương được dùng và dạy trong môi trường đa văn hoá ở xã hội Đài Loan. Bảo tồn và phát triển các loại văn hoá bản sứ đều được khuyến khích. Ở Đài Bắc, Cao Hùng và nhiều nơi khác, các trung tâm văn hoá Hakka, Hoklo, thổ dân đã được thành lập. Tháng 4/2001, ông Trần Thuỷ Biển cũng đã chính thức khai mạc mở viện bảo tàng văn hoá và lịch sử Hakka lớn nhất Đài Loan ở thành phố Meinung, thuộc quận Cao Hùng. Trong nội các chính phủ, ông thành lập Uỷ Ban văn hoá Hakka, với hy vọng sẽ biến Đaì Loan thành trung tâm nghiên cứu về văn hóa Hakka cao cấp nhất trên thế giới. Từ giữa thập niên 1980s cho đến nay, song song với sự thành lập phong trào dân chủ và đảng đối lập Dân chủ tiến bộ, có phong trào Taibun (Đài Văn) phổ biến văn học bản sứ Taigi (Đài ngữ). Mục đích của phong trào Đài Văn là phát triển văn học Đài Loan dùng ngôn ngữ, và chữ viết địa phương trong các địa hạt giáo dục, xã hội, để chống lại quan điểm là chỉ có văn học Hán văn viết về Trung quốc là có văn hoá cao được quý trọng. Còn văn học viết về Đài Loan chỉ là văn hoá “xóm làng “ ở địa hạt nhỏ bé trong văn học rộng lớn Trung quốc. Quan điểm coi nhẹ, đánh giá thấp văn hoá địa phương từ trước đến nay của chính quyền Quốc dân đảng và của đa số các nhà trí thức Hán học quan thoại cổ điển từ lục địa đi qua, đè nặng vào lối suy nghĩ tâm linh của họ, đã bị chỉ trích. Phong trào Đài Văn ngược lại lấy văn học, những gì liên quan hay viết đến Đài Loan bản sứ làm sự hảnh diện chứ không phải là một sự hổ thẹn “xóm làng”. Phong trào Đài Văn một phần đã thành công trong sự gơi dậy niềm tin và phát triển văn hóa, cũng như ngôn ngữ Đài Loan bản địa (Hoklo). Nhưng sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa chữ viết đã chưa thực hiện được. Lý do chính là vì có nhiều hệ thống chữ (dùng từ Hán để phát âm, tương tự như chữ Koa-a-chheh trước đây) được sáng chế khác nhau. Ngay cả khi một trong các loại chữ này, như chữ Ganbun (諺文) chẵng hạn, được nhiều người dùng hơn, thì vấn đề kỷ thuật trên máy tính và phần mềm xử lý để tạo ra chữ Ganbun đã gặp khó khăn. Vì hiện nay chỉ có chữ Hán là có sẵn và phổ thông trên thị trường máy tính mà thôi. Do đó hiện nay chỉ có chữ Hán Đài ngữ và Latin Đài ngữ (Peh-oe-ji) là được dùng nhiều nhất trong phong trào Đài văn. Nói tóm lại, có thể cho rằng tình trạng của các dân tộc Hakka, Hoklo (“Mân Việt” ở Đài Loan cũng giống như tình hình ở Giao châu trước khi Ngô Quyền dành độc lập cho Lạc Việt. Dân tộc Lạc Việt đã cố gắng giữ gìn văn hóa trong gần 1,000 năm Hán thuộc mà không bị Hán hóa. Nhưng tình hình ở thế kỷ 21 có khác nhiều về không gian thế giới, do đó tình trạng của họ có khó khăn nhiều hơn và có thể không có nhiều hy vọng trên con đường tiến đến độc lập như chúng ta thuở trước. Tuy vậy không ai có thể đoán trước được những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Đối với Việt Nam, những gì sẽ xảy ra ở Đài Loan đều có ảnh hưởng ít nhiều về phương diện kinh tế và chính trị. Quan trọng hơn, nó còn chứa nhiều ý nghĩa đáng cho ta suy nghĩ về chính mình trong lãnh vực tư tưởng.
  3. Đà Nẵng: Đổ xô đi mót gỗ sau bão Thứ bảy, 03 Tháng mười 2009, 18:02 GMT+7 - Nhiều người dân thành phố Đà Nẵng mấy ngày nay đã đi dọc các bãi biển đường Phạm Văn Đồng và đường Nguyễn Tất Thành để mót củi và gỗ do sóng biển đánh dạt vào bờ sau bão số 9. (gỗ ở rừng đầu nguồn chảy về. Đây là số lượng gỗ rất lơn mà bọn lâm tặc chất chứa ở rừng đầu nguồn) Trong hàng trăm đống rác trên các bãi bãi biển này có lẫn rất nhiều cành cây và cả những khúc gỗ rất lớn phải dùng xe cần cẩu để đưa lên. Rất nhiều gỗ đã được người dân thu gom, chất thành từng đống chuẩn bị chuyển về nhà. Một người mót gỗ cho biết: có đủ các loại gỗ trên rừng bị bão cuốn, dạt vào bờ, nhưng do sóng đánh tróc hết vỏ ngoài nên khó xác định là loại gỗ gì. Duy nhất chỉ có gỗ thông dầu được nhận ra bởi mùi đặc trưng của nó. Một số người dân đưa cả cưa ra cưa gỗ vàbán tại chỗ. Giá cả căn cứ theo đường kính và độ dài của cây gỗ. Một cây dài khoảng 3m, đường kính cỡ 30cm được bán với giá 600 -700 ngàn đồng. Trong lúc đó, mặc dù bão đã tan 3 ngày, nhưng trên các đường phố Đà Nẵng vẫn còn tồn đọng nhiều đống rác cao. Dù được các cán bộ và người dân chung tay dọn dẹp, các công nhân của Công ty môi trường đô thị Đà Nẵng làm việc cật lực… nhưng do thiếu phương tiện để vận chuyển nên tình trạng rác ứ đọng là không thể tránh khỏi. Trên đường phố lúc này, có những đống lấn ra gần một nửa đường đi, gây cản trở giao thông. Sau đây là một số hình ảnh phóng viên VnMedia ghi lại được trong ngày 2/10: Rất nhiều gỗ đang chờ được vận chuyển về nhà Có những khúc gỗ to phải nhờ đến cần cẩu mới chờ đi được
  4. Thôi, Thiên Đồng chứ đâu phải là giang hồ hảo hảo đâu mà gọi dị? Nghe ớn quá! Quẻ Lạc Việc hay quẻ Dịch hay quẻ gì gì thì cũng mang nghĩa bao hàm. Ví dụ nói đứa đó "tồ" quá. Vậy là nói lóng. Vậy là một quẻ "tồ". Người nghe bắt đầu giải quẻ, "tồ" là lẩn thẩn, ngu đần, ngu ngơ, khờ khạo, vô ý, vụn về...Vậy là tùy theo trường hợp mà chọ một hay nhiều trong các ý đó. Nghĩa quẻ Lạc Việt Độn Toán chỉ ghi vậy nhiều khi trong trường hợp cụ thể chiêm nghiệm lại thấy quẻ có tính bao hàm rất lớn. Ví dụ, quẻ Xích Khẩu nếu cách đây 150 năm thì chỉ là ngựa, xe ngựa là hết mức để chỉ nghĩa phương tiện vận chuyển đi lại, nhưng nay thời hiện đại thì lại có xe máy, xe hơi, xe lửa, máy bay... Xích khẩu cách đây 150 trở về trước nếu nói nghề gì thì chỉ quá lắm là nghề thuyết khách, thầy đồ, thông dịch, lái buôn...nhưng nay thì năm 2009 của thế kỷ XXI thì còn có thể luận là nghề nóng "hot" là MC, người dẫn chương trình, PR, tiếp thị đại chúng...hoặc là là nghề..."nhậu thuê". Nói chung là phải tưởng tượng bay bỏng một tí. Ví dụ có một ngày người ngoài hành tinh đến hỏi quẻ, hỏi "các vị thử đoán coi chúng tôi làm nghề gì?". Lấy quẻ Đỗ Xích Khẩu thì có thể đoán là "Các vị là những người làm nghể...giao dịch, giao tiếp liên hành tinh mà trái đất chúng tôi gọi là đại sứ thiện chí". Lúc đó LVDT sẽ nổi danh...liên hành tinh luôn. Hehehe :rolleyes:
  5. gửi nothing, ngày quý mùi 17 tháng quý dậu năm kỷ sữu, giờ tỵ Cháu vừa mới interview vòng 1 ở 1 công ty, không biết có cơ hội tiếp không? Chiếm quẻ Hưu Đại An, cho nữ mậu Ngọ Thiên Hà Thủy. Luận: Hưu vượng tướng, nghĩa quẻ là im lặng thoái lui, chờ thời... nhanh thì tháng 9 âm chậm thì tháng giêng năm sau có việc. Đoán là tháng Giêng năm sau được việc. Cuộc phỏng vấn này có thể là không xong. Công việc tương lai phù hợp khả năng nhưng phải nhiều vất vả. Chúc thành công. Thiên Đồng
  6. 5 Nguyên Tắc Phong Thủy Lớn Để Bạn Được Thăng Chức Làm người ai cũng mong cho sự nghiệp của mình thuận buồm xuôi gió, vậy mà có những lúc tâm nguyện với sự thực vẫn trái chiều nhau. Nếu có thể xem xét để tìm xem có nguyên nhân từ Phong Thủy nơi làm việc hay không? Nay xin tổng kết thành 5 vấn đề lớn về Phong Thủy Trận của nơi làm việc cung cấp cho các bạn, mong rằng các bạn có thể dựa vào đó mà tăng gia thêm Sự Nghiệp Vận. Đương nhiên là các bạn trước hết phải hết sức nỗ lực làm việc, khi đó tất có hy vọng thăng chức tăng lương! A. Phong Thủy Để Có Quý Nhân Tương Trợ: Phong Thủy Học khẳng định sau lưng bạn có chỗ như núi để tựa, đại biểu cho bạn có quý nhân giúp đỡ, cho nên tại chỗ bạn ngồi nơi phòng làm việc nhất thiết sau lưng cần có tường để dựa. Nếu như sau lưng của bạn có cửa ra vào hoặc chỗ đặt máy in ấn, các đồng sự thường xuyên qua lại in in ấn ấn, nó sẽ tạo ra sự quấy rầy cho bạn, trong vô hình sẽ làm mất đi năng lực hỗ trợ của quý nhân. Để hóa giải trong trường hợp này bạn nên sử dụng một ghế nhồi có lưng tựa cao, hoặc thêm một cái bình phong, để tăng cường thêm hiệu lực. Nếu tình huống có thể cho phép, bạn nên dùng thêm một vài phương pháp hóa giải sau. Tại sau mặt ngoài của ghế ngồi (Tức mặt ngoài) dán một mảnh giấy vàng, ý là tượng trưng cho Sơn, có tác dụng ngăn cách. Cũng có thể dùng 8 viên đá đặt tại (Gắn lên cũng được) sau ghế, như thế cũng tức là có sơn, có chỗ để dựa.    B. Vật Phẩm Phong Thủy Bố Trí Trợ Giúp Theo Tuổi: Tuổi con Giáp là một nhân tố ảnh hưởng trong yếu đến vận số sự nghiệp của bạn, 12 con Giáp có thể căn cứ chia ra theo Ngũ Hành gồm bốn tổ hợp riêng biệt, khi được sắp đặt bày đúng vị trí nơi phòng làm việc sẽ có được lợi ích, giúp chp quan vận thêm hanh thông. Các con Giáp thuộc Thủy gồm Tý, Thân, Thìn ứng với các con vật bằng kim loại hoặc màu trắng xám, trắng bạc, phát huy công hiệu “Kim sinh Thủy”. Thuộc Hỏa gồm Dần Ngọ Tuất nên dùng các con vật bằng gỗ để trợ vượng cho Hỏa, dùng các màu xanh lá cây, phối hợp thêm với các chậu cây cảnh nhỏ cũng là sự lựa chọn không sai. Còn như Hợi Mão Mùi thuộc Mộc, do “Thủy sinh Môc” nên dùng các con vật màu đen, hoặc phối thêm các loại cây thủy sinh. Còn lại Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim mà “Thổ vượng Kim”, chop nên bày các cón vật màu vàng, cà phê, mận chất liệu bằng đất đá.    C. Phong Thủy Để Xúc Tiến Nhân Duyên Không nên hiểu đơn thuần nhân duyên là chuyện tình yêu nam nữ. Nhân Duyên là cơ hội gặp gỡ giao tiếp nói chung. Điều này trong thăng tiến quan vận cực kỳ quan trọng. Nhiều khi chỉ là cuộc gặp rất tình cờ mà cơ hội lại thênh thang mời bạn tiến bước. Có khi chỉ vì lỡ mất một cuộc hẹn mà bạn đành ôm hận suốt đời. Tại nơi làm việc, trước khi bày các vật phẩm, cần lưu ý, vốn là nam nữ có vị trí vượng không giống nhau. Người nữ thì lấy góc bên trái treo những sợi dây màu đỏ được bện kết thành các hình cát tường không đầu không cuối gọi là Vô Cực Tơ (Sợi tơ không cùng) hoặc đặt giá để tài liệu, nó sẽ tăng cường cho nhân duyên của bạn. Đồng sự cùng làm việc tự nhiên vui vẻ, công tác cũng tự nhiên xứng tâm vừa ý, mà như thế tất nhiên Sếp của bạn sẽ vô cùng hài lòng. Còn như người nam, nên tại góc phải của phòng bố trí những viên thủy tinh, hoặc lợn hoặc chó, có khả năng trợ giúp cho sự nghiệp. (Sẽ có bài viết riêng về các vật phẩm hỗ trợ nhân duyên)    D. Vận Khí Phong Thủy Của Số Điện Thoại: Số cuối cùng của điện thoại có ảnh hưởng nhất định đối với Vận Khí Sự Nghiệp. Các số bất lợi như 2, 3, 5. Số 2 dễ dẫn đến tính chậm chạp trong công việc, như sinh ra bệnh tật, yếu mệt. Số 3 dễ đưa bạn vào chuyện thị phi, dễ bị công ty sa thải. Số 5 dễ đưa đến sự cố bất ngờ, bao gồm trong nhà đột nhiên có vấn đề, làm cho bạn phải nghỉ việc ở cơ quan. Vì thế nếu bạn có đuối của số điện thoại nội bộ, để bàn, cầm tay là các số này thì nên cẩn thậnđề phòng. Phương pháp hóa giải nếu như là số 3bạn dùng “Giấy Đỏ” dán nơi điện thoại bề bàn hoặc cầm tay, cứ 9 ngày đổi bỏ một lần. Còn như có số 2 và 5 tất dùng Giấy Trắng dán điện thoại, mỗi tháng thay một lần. Còn như đuôi số là các số 1, 4, 6, 8, 9 là các số tương đối tốt theo Huyền Không Tử Bạch. Số 1 – 4 là Văn Xương, 6 là thăng chức, 8 là Tài Tinh Đắc Lệnh (Từ năm 2004 – 2023), số 9 là Hỷ Khánh Tinh lại đang là sao Sinh Khí rất có tương lai. (Sẽ có bài viết thêm về số điện thoại).    E. Phong Thủy Để Kiềm Chế Tính Nóng Nảy Mát tính hiện nay là vật không thể thiếu trong văn phòng làm việc của mỗi cá nhân. Thậm chí nó còn được luôn luôn mang theo bên mình (Laptop). Máy Tính được xếp vào Kim Tính trong Ngũ Hành, nếu như trong một phòng làm việc có quá nhiều máy tính, dễ làm cho người ta trở nên nóng nảy, suy nghĩ rối loạn, không có cách gì tập trung vào công việc được. Phương Pháp hóa giải lại rất đơn giản, các bạn nên đặt một cái chén thủy tinh trong suốt hoặc màu trắng, trong đó đổ 6/10 nước. Đó là vì lấy Thủy để tiết giảm Kim Tính, làm cho đầu óc con người trở lên trong sáng, giảm bớt nóng này, hạ nhiệt các ý nghĩ thái quá, các bạn cũng có thể dùng luôn đồ chén cốc uống nước, mỗi lần uống rót độ 6/10 là ổn. (Sẽ có bài viết riêng về Phong Thủy chó Máy Vi Tính). A Tư Tiểu Khang (Tổng Hợp). Vô Thường Phái Phong Thủy và Chương Trọng Sơn Thuật Huyền Không Phong Thủy Phái Vô Thường gắn liền với Tên Tuổi Chương Trọng Sơn và Họ Chương nhà ông. Ông họ Chương, tự là Trọng Sơn, hiệu là Vô Tâm Đạo Nhân, chỗ ở là “Thiên Mặc Am” , người Vô Tích Giang Tô. Trong khoảng từ đời Gia Khánh đến Đạo Quang nhà Thanh, Huyền Không có tất cả 6 phái lớn, gọi là Huyền Không Lục Đại Phái: Vô Thường Phái, Điền Nam Phái, Tô Châu Phái, Thượng Ngu Phái, Tương Sở Phái, Quảng Đông Phái. Vô Thường Phái cũng đứng ngang hàng trong các phái. Phái này nguồn gốc từ Vô Tích, phát triển khắp Thường Châu! Cho người bên ngoài thường gọi là Vô Thường Phái. Vô Thường Phái lấy sự biến đổi vô thường làm sáng chỉ của phái, Chương Công ( Trọng Sơn) chính là tông sư khai sáng môn phái! Chương Trọng Sơn là người cự phách của Huyền Không Địa Lý sau Tưởng Đại Hồng, Vũ Tiến Lý đã ca ngợi “Độc ngữ chân thuyên, thục thôi sinh khắc chế hóa chi dụng, cát hung tiêu trưởng chi lý, Thần minh kỳ đạo vu đại giang nam bắc tam thập niên – Tức là : Một câu là rõ ràng, đã nhuần nhuyễn cách dùng sinh khắc chế hóa, tốt xấu tiêu trưởng cũng rõ lý, là bậc Thần Minh suốt hai bờ nam bắc Trường Giang 30 năm”. Sách ông viết gồm “Biện Chính Trực Giải”, “Lâm Huyệt Chỉ Nam”, “Thiên Nguyên Ngũ Ca Giản Nghĩa”, “Tâm Nhãn Yếu Chỉ”, “Huyền Không Yếu Chỉ” . Trở thành người kế tiếp sau Tưởng Đại Hồng thành một lãnh tụ của Huyền Không. Trải qua đời con đời cháu các thế hệ vẫn tiếp nối. Học trò có : Đồng Hương Trần Liễu Ngu Trường Châu Kha Viễn Phong Kim Quỹ Tiền Kinh Sơn Ngô Huyện Từ Gia Cốc Hồ Châu Trần Đào Sinh Kim Quỹ Đaò Khang Cát. Đến đầu đời Dân Quốc, hay có người là truyền nhân của Vô Thường Phái hành thuật bí mật trong đời, cầu được thật không dễ. Sách do Chương Trọng Sơn viết công khai không nhiều, con cháu môn sinh cũng không viết sách lưu truyền. Hầu như chỉ có vài cuốn như sau : 1. “Âm Dương Nhị Trạch Lục Nghiệm” : là viết năm Gia Khánh thứ 8 Quý Dậu ( 1813) năm 1874 Thẩm Trúc Nhưng và Hồ Bá An, dùng rất nhiều vàng đưa cho hậu nhân của Chương Trọng Sơn đề mượn đọc, rồi trong một đêm chép bằng tay mà về. Về sau họ bổ chú, cải thành “Trạch Đoán” đưa vào “Thẩm Thị Huyền Không Học”, nhưng cũng chỉ đưa 54 ví dụ về Âm Trạch, 17 ví dụ về Dương Trạch mà thôi. Đàm Dưỡng Ngô trong “Đại Huyền Không Thực Nghiệm” có đưa vào cuốn “Lâm Huyệt Chỉ Nam”, đầu có lời Tự của Trương Trọng Sơn, họ Đàm do có liên hệ với thầy Dương Cửu Như truyền thụ, toàn bộ sách có 200 hình, chỉ trích 30 hình; “Đại Huyền Không Lộ Tú” trong có “Nhị Trạch Huyền Cơ” hai di cảo, cũng là của Dương Cửu Như trao cho. Duyệt qua nội dung hai họ Thẩm và Đàm đều là dùng các tư liệu bị tiết lộ, chỉ là các cái đầu đề, mà toàn bộ đều là trích dẫn từ tư liệu của họ Chương vậy. 2. “Địa Lý Biện Chính Chân Giải” : Hoàn thành vào giữa xuân năm Đạo Quang nguyên niên Tân tỵ (1821) hoặc sớm hơn. 3.”Huyền Không Bí Chỉ Phê Chú” : Hoàn Thành vào năm Đạo Quang thứ 3 Quý Mùi (1823) , sau đưa vào “Tâm Nhãn Yếu Chỉ”. 4.”Tâm Nhãn Yếu Chỉ” : Theo sách Chương Trọng Sơn tự thuật lại : “Tôi vào mùa đông năm Đinh Hợi đời Đạo Quang đến chơi Ngô Môn”, có thể cuốn này hoàn thành tại Đạo Quang thứ 7 (1827) đến khoảng Đạo Quang 16 Bính Thân ( 1836). theo sự hoàn thành“Tâm Nhãn Yếu Chỉ” của tác giả thì thấy, Chương Trọng Sơn về già tập chung vào viết sách, và cuối cùng cuốn “Tâm Nhãn Yếu Chỉ” đã trở thành đại biểu cho ông. Sách gồm ba cuốn : Cuốn 1 là họ Chương tự thu thập, cuốn hai là Tôn Trúc Điền viết, cuốn ba là Thẩm Vũ Bình đọc. Sau này Trọng Sơn có chú thêm : “Thiên Nguyên Ngũ Ca Xiển Nghĩa” 5 cuốn, “Huyền Không Bí Chỉ Phê Chú” cùng “Bảo Mộ Lương Quy” một thiên. Trọng Sơn từng nói “Nhãn lấy hình tượng mà nói, gốc vậy. Tâm lấy lấy Lý mà nói, là dụng vậy.”. “Nhãn” chỉ mắt thịt thấy được cái gì thì đó hình Loan Đầu “Hình Thế”, “Tâm” là chỉ cái không thấy được, tất phải dùng tính toán trong lòng để mà thấy cái Lý Khí vô hình ( Phương vị, Tinh Quái). “Tâm Nhãn Yêu Chỉ” tức tại chỗ làm rõ Loan Đầu và Lý Khí là hai bộ phận liên quan mật thiết quan trọng. Xan Hà Đạo Nhân Diêu Đình Loan nói : “Loan Đầu là thể, Lý Khí là dụng. Toàn bộ Loan Đầu do chân tay người, ngũ quan từ đó mà thành hình; Lý Khí như có tai mắt, tất có đức tính thông sáng. Cho nên Loan Đầu Lý Khí khuyết một đều không được. Nếu mà Loan Đầu không kiêm Lý Khí, là có tai mà tai không thông, có mắt mà mắt không sáng. Khô khan vô dụng như cái cây héo úa; Nếu chỉ nói Lý Khí không cầu Loan Đầu , tất muốn thông mà không có chỗ đề thông, muốn sáng mà làm sao để sáng. Nếu chỉ là lời nói kỹ xảo, mà cuối cùng cũng không có kết quả gì , thì làm sao mà giúp đỡ đây !”( Lời tự “Âm trạch Tập Yếu” năm 1744) . Huyền Không Địa Lý nói Nhân Hình Cầu Lý, Nhân Khí Sát Hình, Nhân Tinh Đo Tượng, Lấy Tượng Biết Sao. Các Minh Sư thời xưa như Dương Quân Tùng, Ngô Cảnh Loan, Liêu Kim tinh, Hoàng Diệu Ứng, Mục Giảng Sư, Lưu Bá Ôn, Tưởng Đại Hồng ai chẳng không thông Loan Đầu với Lý Khí. Chương Trọng Sơn là người nổi bật, là đệ nhất Minh Sư vùng Giang Chiết, đương nhiên là phải thông hai Pháp : Hình và Khí. Thế Anh Tổng Hợp. Bái Gặp Truyền Nhân Phong Thủy Của Tưởng Đại Hồng Tôi có dịp đến tại thành phố Đài Nam – Đài Loan. Thật may mắn được bái thăm truyền nhân đời 83 của Phong Thủy Tưởng Phái, pháp hiệu là Pháp Hinh Cư Sĩ, nói chuyện rất vui, được biết rằng Địa Lý Biện Chính không phải là đầy đủ của lý luận của Tưởng Đại Hồng về Phong Thủy. Căn cứ theo lời ông nói bốn cột trụ lớn của Lý Khí Phong Thủy của Tưởng Công gồm : Ai Tinh ( Chia làm 24 Sơn Ai Tinh Đại Quái và 64 Quái tiểu quái Ai Tinh ), Thiên Tinh ( Vận dụng thất chính tứ dư chọn ngày, cách Cục bố Cục), Quan Thần ( Bát Quan Quan Thần và 12 Quan Quan Thần), Quái Khí ( 14 Quái Khí), thiếu một không thành. Buổi gặp đó tôi thu hoạch khá nhiều ! Sách Của Pháp Hinh Cư Sĩ Có Cuốn : "Bí Truyền Tam Nguyên Dương Trạch Đại Thành" là xuất sắc ! Khám Phá Quái Lý Của Phái Bát Trạch Phong Thủy Trong thuật Kham Dư Địa Lý của Trung Quốc, đối với sự kết hợp tốt xấu của nhà ở, lý luận của phái Bát Trạch có chỗ đứng rất quan trọng, các tác phẩm kinh điển của môn phái này như “Dương Trạch Tam Yếu” , “Bát Trạch Chu Thư” , “Bát Trạch Minh Kính” ( “Bát Trạch Minh Kính” được dịch giả Thái Kim Oanh dịch ở Việt Nam với cái tên là “Bát Trạch Minh Cảnh” ) do các tác giả thời xưa viết vẫn được lưu hành rộng rãi và đều được các nhà nghiên cứu hiện nay lấy nó làm căn cứ. Phái Bát Trạch tương truyền do một vị cao tăng đời nhà Đường có Pháp Hiệu là Đường Nhất Hạnh tổng hợp sáng tạo ra. Lý luận căn bản của nó là lấy Dịch Lý Tiên Thiên Hà Đồ làm lý luận căn bản, lấy phương vị Hậu Thiên Bát Quái làm ứng dụng. Ngoài ra nó còn phảng phất một số tri thức của phái Phong Thủy Mũ Đen trong Phật Giáo Tây Tạng Mật tông.Bát Trạch phái được các thuật sĩ hành nghề trong dân gian ứng dụng rất nhiều, nó phân ra làm hai loại trạch ( Nhà hoặc Mồ mả) : Đông tứ trạch và Tây tứ trạch rồi phối theo người mà phán định tốt xấu. Càn Khôn Cấn Đoài là Tây tứ trạch, Khảm Ly Chấn Tốn là Đông tứ trạch. Tọa sơn lập hướng là Tây tứ trạch thì dùng bốn phương vị Tây làm cát để kê đặt bếp, mở cửa, dùng cho người ở, còn bốn phương vị Đông thì là hung, không thể mở cửa, làm bếp, người ở càng không nên. Đông tứ trạch cũng suy như thế. Cần nhắc lại một lần nữa nguyên tắc chủ yếu là lấy phương vị hậu thiên bát quái để đoán định, tuy nhiên thực tế là Lý Luận Bát Trạch lại xuất phát từ Tiên Thiên Bát Quái. Nó dựa trên quy luật của sự âm dương phối hợp, giao cấu, sinh thành.......... Bát Trạch phái lý luận xuất phát từ Tiên Thiên Hà Đồ Bát Quái, nhưng ứng dụng vào phương vị Hậu thiên bát quái. Nó rất có Dịch lý! Có thể nói trong Phong Thủy Học thì ứng dụng ở tầng 1 là dùng Bát Trạch Pháp. Tầng thứ hai là dùng Tam Nguyên long Tam Nguyên Quái để tiến hành. Tầng thứ 3 là dùng thuyết Nguyên Vận, Linh Chính, Giao cấu cùng Long Sơn Hướng Thủy phối hợp để làm. Mỗi bước tiến qua một tầng lại ẩn chứa nhiều điều bí mật. Ở tầng thứ 2 và 3 thường là mật truyền , thế nhân biết được rất ít. Bát Trạch phái là một học phái phong thủy rất cổ lưu truyền rất rộng rãi, là tầng thứ nhất khi tác pháp. Thông thường khi truyền pháp trong Bát Trạch thường truyền kỹ thuật mà không truyền nguyên lý khiến cho người học sinh ra nghi ngờ, vu cho là ngụy pháp. Hiện nay xã hội thật giả lẫn lộn, cỏ lúa cùng mọc , cho nên tôi mạnh dạn chia sẻ bí mật nguyên lý của Bát Trạch Phái cho mọi người được rõ . Trước hết trợ duyên cho các học giả có thêm niềm tin và kiến thức tiếp tục nghiên cứu sâu thêm về Bát Trạch Phái ( Còn rất nhiều bí mật xung quanh các pháp ứng dụng của Bát Trạch ). Thứ nữa chiêu tuyết án oan nghìn năm “Ngụy Pháp” cho Tổ Sư Đường Nhất Hạnh của phái Bát Trạch. Thế Anh. Chú Thích : Ngụy Pháp là từ được “Thẩm Thị Huyền Không Học” dùng để chỉ lý luận Bát Trạch của Đường Nhất Hạnh thiền sư. Phong Thủy Văn Xương Tốt Tất Đỗ Đạt 文昌及第好風水 Người đọc sách ở Trung Hoa, phảm muốn đỗ đạt, không thể không tính mệnh cầu văn xương, đeo khôi tinh trên người, không được ăn thịt bò. Bái Văn Xương Quân, cầu Văn Xương Vị, chiếm văn xương phòng, sửa Văn Xương phương thật nhiều cách. - Dưới đây tác giả xin giới thiệu qua về Văn Xương Thần, cùng làm thế nào để Cầu Văn Xương Vị, sửa Văn Xương Vị, gia tăng thêm Văn Xương Khí, cùng các biện pháp Phong Thủy để bố trí phòng đọc sách, nghiên cứu sáng tạo theo tiêu chuẩn Văn Xương. 1. Thần Văn Xương Thần Văn Xương, đương nhiên phải là Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử, từ triều nhà Đường về trước, phàm là người đọc sách đều bái Khổng Phu Tử là Văn Xương Thần. Mà Hàn Dũ là đại học giả mà cũng thân đến lễ bái tại Khổng Miếu gọi là Phúc Đức Chính Thần, cho nên Hàn Dũ được người đọc sách đời sau cung kính lập “Xương Lê Từ” để thờ phụng. Đến Tống Triều, lại có Chu Hy là người tập thành Phái Lý Học ( Tống Nho), nguyên vì sự khoa cử thi thố mà đem Tứ Thư Ngũ Kinh ( Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh Tử; Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu) giảng giải thuyết trình. Bởi lẽ các kiến giải của Chu Hy là chính xác cho nên người đọc sách thời đó không thể không tôn ông là Văn Xương Thần tức “Chu Văn Công”. Nguyên là Hoàng Đế sợ các nhà bái “Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu tử” rồi học thức nâng cao từ đó sẽ phê bình triều đình, liền ban quy định người thường không được tự mình xây “Khổng Miếu”, cho nên dân gian chỉ được tự mình tế bái 5 vị Văn Xương Thần sau : - Khôi Tinh. - Trương Á Tử. - Tiên ông Lã Động Tân. - Quan Công. - Chu Y Nhân. 2. Tế Bái Văn Xương Thần Thế Nào. Dân gian tùy thời mà đến tế bái năm vị Văn Xương hoặc Tiên Sư Khổng Tử. Người Nhật Bản vào thời nhà Đường do đọc và học tập theo “Văn Võ Điển Chương Chế Độ” của Trung Hoa cũng tế bái Khổng Tử làm Thần Văn Xương, đến tận ngày nay mỗi khi thi cử người Nhật cũng đến thắp hương tại Khổng Miếu. Đặc biệt tại các kỳ thi Đại Học, những người tham dự thường lấy các miếng gỗ hình dáng đẹp viết nguyện vọng của mình, rồi treo ở một hoặc hai bên Đại Thành Điện, sau khi thi xong thì đến để quyên góp tiền cho Miếu. Tác giả thường mỗi năm mới ( Khoảng từ mùng 1 – 5 tết ), đều đến tế bái tại Khổng Miếu. Đương nhiên đến ngày 28 tháng 9 là ngày Tết Thầy Cô (Ở Trung Quốc) có thể đem con nhỏ đến bái lạy, lại mua cho cháu một tờ giấy đỏ “Hộ Thân Hương Hỏa”, Đài Bắc cũng như Nhật Bản vào các ngày lễ Khổng Miếu đều có bán Giấy này. Mua một tờ rồi đem vào Đại thành Điện làm lễ, lại thỉnh Khổng phu Tử bảo hộ phù trì cho tương lai con cái “ Học Vấn Có Thành Tựu”, cầm tờ giấy xông trên khói hương ( Qua Lửa). Tờ giấy này có thể bỏ vào túi mang theo người hoặc kẹp vào sách học. Đối với trẻ nhỏ tờ “Khổng Tử Hương Hỏa” lúc bình thường treo tại bàn học hoặc giá sách, trên tường, đến khi thi cử, nên mang trong người vào phòng thi. Ngoài ra khi đến Khổng Miếu nhớ mua một cây bút chì mang vào tế bái ( Bút máy, bút nguyên tử, bút lông cũng được) sau này đi thi nhớ mang cây bút này theo tất trúng. 3. Tìm Văn Xương Phòng. Văn Xương có Văn Xương của mỗi người, Văn Xương của Nhà, Lưu Niên Văn Xương, trong Phong Thủy thường nói về Văn Xương nhà ở và Văn Xương lưu niên. Văn Xương nhà ở tức dùng phép “Tử Bạch Cửu Tinh” đề bài bố, tìm cho được phương vị có 1 – 4. Nhất Bạch là một cát tinh nửa là Văn Xương, nửa là Thăng Quan; Mà Tứ Lục thì hoàn toàn là Văn Xương. Trong sách “Dương Trạch Tập Đại Thành” của Địa Lý Đại Sư đời nhà Thanh là Xan Hà Đạo Nhân rất đề cao cặp 1 – 4 là Văn Xương Tinh, xin đưa một đoạn như sau : “Phàm làm phòng đọc sách, nên tại phương nhất bạch tứ lục của bản trạch mà đặt. Trong khoảng không gian 1 – 4 lại nên mở cửa, lối đi tại phương 1 – 4 . Lưu niên thấy 1 – 4 bay đến phương ấy, cửa ấy, đường ấy là 1 – 4 đồng cung, hoặc là hoàn cung phục vị, tất chủ phát đẹp đẽ.” Phàm nhà ở khu vực nơi có sao Nhất Bạch hoặc Tứ Lục tốt nhất là đặt phòng đọc sách, mà Tứ Lục hoàn toàn là Văn Xương tuyệt đối không được đặt nhà vệ sinh, nếu không sẽ làm ô nhiễm Văn Xương. Như nhà là Tọa Bắc triều nam, tất Tứ Lục Văn Xương phương tại Đông Bắc , nếu như đã chót đặt nhà vệ sinh, thì nên ở bên ngoài cửa nhà vệ sinh treo một xâu hoặc một đóa hoa lụa để an phủ Văn Xương Thần, cũng là để Thần Văn xương không thấy mùi xú uế mà chạy mất. Hy vọng Thần Văn Xương lưu lại trên đóa hoa đó, từ đó có thể tùy thời mà giúp cho lớn nhỏ trong nhà học tập thi cử đỗ đạt. Nếu như căn cứ bản trạch mà phương vị Nhất Bạch đã làm nhà vệ sinh hoặc bếp thì không thể đặt bàn đọc sách học tập được, lúc đó chỉ còn căn cứ theo lưu niên Nhất Bạch Tứ Lục để tìm chỗ đọc sách mà thôi. 4. Bố Cục Cho Phòng Đọc Sách: Cần tránh không quay mặt vào tường đọc sách. Phòng học nên sáng sủa lợi lộc. Trên bàn học đặt vật cát tường. Bàn học nghế ngồi nên là gỗ thiên nhiên. Dưới gầm bàn nên đặt một tấm gỗ , thảm hoặc đệm. 5. Các Vật Cát Tường Dùng Khi Đi Thi: Cuống Rốn Trẻ nhỏ sau khi sinh mấy ngày, sẽ rụng cuống rốn, nếu như giữ gìn được, đến lúc đi thi cử, mang trong mình vào phòng thi, tất tâm thần an định. Bởi vốn dĩ bà mẹ và đứa trẻ liên thông với nhau qua cuống rốn, cho nên làm thế có tác dụng tâm lý rất lớn, cũng có thể coi như đây là một tập tục dân gian, song có một điều kỳ lạ là mỗi khi con nhỏ gặp nguy cấp thường hay khóc gọi mẹ ! Có sự liên quan gì ở đây không !? Lá Quế Hoa Mỗi khi đi thi đem theo một cành hoa quế tất như gặp được quý nhân giúp đỡ, sở dĩ có tục này vì người xưa thường nói người đi thi đỗ là bẻ được cành quế trên cung trăng ( rất khó khăn). Nếu như sau nhà có trồng Hoa Quế tất như có được quý nhân thường đến - có Quý Khí. Lá Bưởi Lúc đi thi mang trên người mấy nhành lá bưởi, giống như được tổ tiên phù trì mà thi đỗ. Trong nhà hoặc trước mộ có trồng bưởi, đều là có ý “Giúp Đỡ Cháu Con” vậy. Thế Anh Tổng Hợp. Phép Trừu Hào Hoán Tượng Của Huyền Không Đại Quái 玄空大卦之抽爻換象 Địa Lôi Phục hào 1 nhất dương sinh ở Hạ Chí , Thiên Phong Cấu hào 1 nhất âm sinh Đông Chí . Đó là ví dụ về Trừu Hào Hoán Tượng điển hình ! Như thế chúng ta xử lý Huyền Không 64 Quái thế nào thì gọi là Trừu Hào Hoán Tượng ? Trong vòng 360 độ có môn phái lấy tám phương vị mà dùng , có môn phái lấy 24 phương vị mà dùng , Huyền Không Đại Quái dùng 64 phương vị , riêng tôi thường sử dụng vào các trường hợp sau , dùng một hào trong 6 hào ngoài biên ! Đó gọi là Trừu Hào Hoán Tượng ! Trong phép rút hào có nhiều phương pháp xử lý tình huống khác nhau ! Ví dụ : Lúc rút hào sơ lại xuất hiện hình tượng oa hoặc đột ! Đột là quản nhân đinh , oa là quản tiền tài , mà cùng lúc , không thể nói là đơn giản , cần xem lại xem Thiên Quái Hào và Địa Quái Hào nếu là Thập Hợp , Sinh Thành , Tương Đồng , Hợp Ngũ là Cát . Lập Hướng đường tuyến la kinh đè lên hào nào thì đó là hào dụng , là động , không dụng là tĩnh . Động tất âm biến dương , âm biến dương . 64 quái , mỗi quái đều có thời vận của nó , như quẻ Di là vận 3 , đang dùng hào sơ , nhị , tam , tứ , ngũ và thượng hào thì biến vận . Sơ hào biến quẻ Bác 6 , Nhị hào biến Quẻ Tổn 9 , Tam Hào biến Bí 8 , Tứ Hào biến Quẻ Phệ 6 ; Ngũ Hào biến quẻ Ích 9 , Thượng Hào biến quẻ Phục 8 . Như lập hướng tại giữa 2 hào , tất biến vận bất đồng , Như đang dùng là vượng địa , tính toán như thế nào đến lúc vận suy , thì cần biến hào nào để được Tam Nguyên Bất Bại Cục . Chung Nghĩa Minh Đại Sư giảng – đây là khẩu quyết nghìn năm không truyền Thế Anh Lược Dịch ! blog.timnhanh.com
  7. Quả là người tài đất Việt ở đâu cũng có. Biết ra thì có rất nhiều Dị Nhân.
  8. Gửi muội Séo Chỉa, Trùi, cái tên gì giống dân tộc tày hay Nùng vậy? Chắc Đồng tự lấy thêm cái tên là "Lủng Chỉa" của người tày cho hợp luôn. Mà sao Séo Chỉa này mới xuất hiện đây, chưa bao hỏi Thiên Đông cách luận quẻ mà xưng muội thì cũng ngại hén! Giải quẻ mà theo bi nhiu đó nghĩa thôi thì coi như bóbột.canh. Bây giờ chỉ luận nghĩa quẻ Kinh Tiểu thư, ủa mà lộn, Tiểu Cát. Tiểu cát thuộc Mộc, chủ về giấy tờ, cũng hợp về báo chí, là người con gái có duyên, là thủ tục hành chính, cũng có thể là người thứ 3 vì là độ số 3-8... Kinh là người trên, sếp lớn, chủ sự bất ngờ, giật gân, scandale, quyết định tức thì... Vậy thì nghĩa quẻ cho ra 3 ý nghĩa: 1. Chuyện nhầm tên trên báo là có chủ ý của sếp đưa ra một chỉ thị bất ngờ, nhằm để phù hợp với mục đích gì đó trong cong việc mang tính hình thức hay hành chánh. 2. Chuyện nhầm tên trên báo là do một người nữ thay đổi có chủ ý. 3. Chuyện nhầm tên trên báo là do người thứ ba thay đổi, nhưng cũng do ý của cấp trên. Còn lại là việc loại suy theo hoàn cảnh thực tế công việc của Muội SéoChỉa. Huynh Lủng Chĩa.
  9. Nhà này nếu Chồng là Giáp dần thì không hợp. Chồng là Kỷ mùi, thì hợp Nếu là không thể thay đổi chỉnh sử được và là chung cư thì...bán quách đi cho xong. Mua nhà khác hợp thì mới sướng hơn.
  10. Chúc Mừng Sinh Nhật Phạm Thái Hòa, ngày càng đẹp trai! :D :(
  11. Những kiêng kỵ trong phong thủy của người Đài Loan nguồn www.archi.vn Người Đài Loan hiện nay vẫn rất chú ý đến sự kiêng kỵ khi thiết kế nơi làm việc và bố trí nội thất. Theo quan niệm phong thủy xưa cần nên tránh một số điểm sau: Kiêng kị khi bố trí văn phòng Kiêng đặt văn phòng ở cuối hành lang trung tâm vì sát khí của tòa nhà đó sẽ gây ảnh hưởng không tốt đối với người trong văn phòng. Nếu ở vào vị trí bất lợi nay, có thể hóa giải nó bằng cách dùng màn chắn lại như vậy có thể khiến cho sát khí chuyển hướng không trực tiếp truyền vào văn phòng. Bàn làm việc của giám đốc phải đặt vào vị trí phù hợp với tuổi của người đó. Kích thước của bàn cũng cần phù hợp để đem lại sự cát lợi. Một số công ty người ta còn cố định chân bàn xuống sàn nhằm để cho vận may không mất đi. Kiêng kỵ khi bố trí nội thất Người Đài Loan hiện nay khi bố trí nội thất, bày biện đồ đạc trong phòng, đặc biệt là giường ngủ, rất chú ý tới quan niệm phong thủy. Cách bài trí theo quan niệm phong thủy do xuất phát từ quan niệm muốn cho con người sống trong nhà bình an, vui vẻ, luôn gặp may mắn và hấp thu được nhiều tinh túy của đất trời. Người ta kiêng kê giường ngủ thẳng hàng với hai cửa đi vì cho kê như thế, giường sẽ là một vật cản ngăn chặn dòng không khí, khiến khí không lưu thông mà sẽ lẩn quẩn trong nhà. Kiêng đặt giường đối diện với tấm gương lớn dễ gây ảnh hưởng đến tinh thần, tạo cảm giác khó chịu. Phòng vệ sinh là nơi nước vào nhà và thoát đi nên nó tượng trưng cho sự chi tiêu, thu nhập của chủ nhà, bởi vậy phải đặt càng xa cửa chính càng tốt. Điều đó có nghĩa việc chi tiêu của chủ nhà sẽ hợp lý, có cân nhắc. Nếu phòng vệ sinh đối diện với cửa ra vào, phải treo một bức mành để không nhìn thấy cửa trực tiếp. Bếp và phòng ăn là nơi tượng trưng cho của cải vì thế không nên bố trí gần cửa ra vào vì như vậy sẽ mất hết tiền bạc và hao tổn sức khỏe. Kiêng bức tường sát phòng ngủ dùng làm chỗ thờ vì mắc tội bất kính, sẽ không được tổ tiên phù hộ. Kiêng đặt bàn thờ trên cao, dưới để rác hoặc đặt thùng rác, không những phạm tội bất kính mà còn mang họa. Kiêng xà ngang đè đầu, ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần. Nơi làm việc phải xoay mặt ra cửa chính hoặc chếch với cửa chính, kiêng quay lưng ra cửa dễ làm hiệu suất công việc sút kém, phát sinh bệnh tâm thần. Kiêng dùng làm buồng ngủ có góc nhọn, không theo quy tắc nào vì vợ chồng lấy nhau lâu sẽ không có con. Kiêng giường nằm bằng kim loại vì khó có con. Kiêng đặt gương chiếu vào giường vì không ngủ ngon. Kiêng nhà vệ sinh bẩn thỉu, hôi thối vì hôn nhân dễ biến đổi theo chiều hướng xấu. Kiêng để cạnh bàn thu tiền có rãnh nước, không lợi vì để của ra đi. Kiêng phòng ngủ đối diện với buồng tắm, dễ sinh chán chường. Kiêng kỵ hoa đặt ở bàn thờ thần tài, không có sức sống, làm ăn sẽ giảm sút. Kiêng các phòng thông cống đến tận cùng, vì dễ có nhiều sự phát sinh. Kiêng kỵ nhà tắm bẩn, không phát tài. Kiêng kỵ những thứ như đồ chơi, chuông gió quá nhiều, không có lợi cho tình cảm. Kiêng buồng vệ sinh đặt gần buồng ngủ lõm vào, sẽ bất lợi cho chủ nhà. Kiêng bày biện trong phòng ngủ nhiều thứ đẹp, dễ gây mê muội. Kiêng phòng ngủ ẩm thấp, không có không khí lưu thông, trai gái dễ bị bệnh ác tính, khó kết lương duyên. Kiêng phòng ngủ ẩm thấp, không có không khí lưu thông, trai gái dễ bị bệnh ác tính, khó kết lương duyên. Phòng ngủ của nam nữ chưa kết hôn, tránh dùng nhiều vật sắc nhọn sẽ bị ảnh hưởng xấu của góc nhọn gây ra dễ xung nhau, tình cảm xấu.Kiêng để cửa sổ quá thấp hoặc điều hòa nhiệt độ thổi thẳng vào người trong buồng ngủ sợ sinh hoạt bất lợi khó sinh đẻ. Kiêng cửa thông các buồng nối liền nhau sẽ sinh chuyện ngoại tình, lăng nhăng, khó bình yên. Kiêng làm tủ lõm vào tường ở đầu giường, ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần. Kiêng các vật trang trí như chim ưng, cú mèo sẽ bất lợi cho phụ nữ có mang. Kiêng trang trí đổ cổ, đặc biệt mặt nạ dùng trong nghi thức tôn giáo vì rất không lành với phụ nữ mang thai, trẻ em, người ốm. Kiêng kỵ nóc nhà đặt hình bát quái. Xưa bát quái thường dùng làm phù chú, đuổi tà ma nên phải đặt chính xác phương vị. Vị trí bát quái sai sẽ bất lợi. Kiêng treo bảo kiếm lâu dài vì bảo kiếm ngày xưa phải vấy máu người do chém giết thì mới tốt, dùng để trừ tà ma. Đó là hung khí, treo lâu ngày trong nhà không lành. Kiêng treo quần áo lót không sạch trên ban công vì quần áo lót sẽ đè vận thế nhà, không vươn lên được. Kiêng đặt những thứ tạp nham lên bàn thờ Phật, sẽ mắc tội bất kín và gặp tai họa. Kiêng đặt bàn thờ đối diện với nhà vệ sinh vì mắc tội bất kính, sẽ gặp rủi ro. Kiêng thay quần áo hoặc phơi quần áo trước bàn thờ vì như vậy là bất kính, không hay. Kiêng cửa nhà bếp đối diện với nhà vệ sinh, không lành. Kiêng bàn thờ thần tài có nước dò rỉ từ mái nhà xuống, làm ăn sẽ không may, thất tài. Kiêng bốn góc nhà bị lệch hoặc thiếu góc, hình nhà kiểu chữ thập, đại hung, tuyệt đối tránh. Kiêng cửa nhà, cửa buồng nối liền nhau chĩa thẳng vào cầu than điện, không lành. Kiêng có góc cột quá nhiều trong các buồng vì dễ làm tâm thần mất ổn định, không yên tĩnh, kỵ nhất là vợ chồng mới cưới hoặc học sinh chuẩn bị thi cử. Kiêng nhà ở nhỏ mà làm hình tròn hoặc hình vòng cung vì trong nhà sẽ không yên lành. Kiêng cửa buồng tân hôn có ao bẩn hoặc cây khô, không có lợi cho tình cảm, nhất là vợ chồng mới cưới. Kiêng buồng vệ sinh đặt ở tận cùng hành lang, đại hung. Kiêng để chậu cây cảnh héo úa, xơ xác dễ làm vận chuyển khí xấu. Phòng họp hoặc chỗ ngồi của lãnh đạo không nên mở cửa sau lưng, không dựa vào đâu nên sẽ có quyết định sai hoặc do dự không có quyết định. Kiêng nhà vệ sinh sát nhà bếp vì sợ vận nhà sẽ lùi. Kiêng văn phòng làm việc sát với nhà vệ sinh vì sẽ trở ngại cho sự phát triển. Kiêng trong nhà có nhiều đèn thạch anh, dễ gây căng thẳng thần kinh. Kiêng phòng ở có các tiêu bản động vật, nhất là các động vật lớn nếu không sẽ gặp ngang trái, không lành. Cửa được coi như miệng của ngôi nhà, do đó người ta rất coi trọng việc đặt cửa, để tiếp thiên khí, đón lành, tránh dữ. Cửa đón được vượng khí của đất trời mới mang lại vượng khí cho gia chủ. Cửa phụ phải nhỏ hơn cửa chính, nếu cửa hậu lớn hơn cửa chính, khí thoát đi nhiều hơn khí vào nhà, sẽ có sự suy giảm về sức khỏe và thất thoát về tài chính. Góc nhà phải chạy theo hình bát giác để khí lưu thông tốt và các góc lỗi được xem là kém may mắn thì phải đặt gương vào chỗ đó để khí lưu chuyển dễ dàng. Cầu thang không được chạy thẳng ra hướng cửa chính vì người ta cho rằng làm như vậy sẽ làm thất thoát tiền bạc và vượng khí trong ngôi nhà.
  12. Bây giờ là ngày đinh sửu 11 tháng quý dậu năm kỷ sửu 12h50. Đây là lần thứ 3, Thiên Đồng bất chợt lấy quẻ đều trùng lặp quẻ Thương Đại An. Như vậy theo như dự đó trước là từ khơi xa, sẽ đi vào và chuyển hướng lên Tây Bắc rồi dần tản mác tản phía Bắc, nhưng phải đánh một vòng cong đi qua dãy miền Trung. Vẫn hy vọng là ảnh hưởng thiệt hại về bão là không cao và không nặng nề. Tetpy chắc vác đất cát chống bảo oải luôn hén? LeDien chắc cho công nhân nghỉ khỏe hay đi tải cát lấy tiền vậy? Vusonganh chắc nhàn hơn, ngồi trông bảo và bình lựng? Thiên Đồng.
  13. Gửi Cleq, Nên tắt quạt và tránh nơi kim loại khi đo la bàn. Lần 1 đo la bàn ở trong cửa chính của nhà Lần hai đo la bàn ở giữa nhà. xem bao nhiêu độ. Trùng độ thì thôi. Lệc thì lấy độ ở trong nhà. Hướng hợp của bạn là Nam, Bắc Đông và Tây Nam theo Phong Thủy Lạc Việt. Thiên Đồng
  14. Bão mạnh cấp 12-13 vào Trung Trung Bộ 29/09/2009 0:56 Những thanh niên khỏe mạnh tại bãi thuyền Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) đang hợp sức kéo thuyền vào bờ - Trường Mầm non ở Quảng Trị vừa khánh thành đã bị tốc mái hoàn toàn sau lốc - Cây cối ngã đổ ở Quảng Ngãi - ảnh: Nguyễn Phúc - Hiển Cừ *Bão số 9 gần giống bão Xangsane * Học sinh các tỉnh có bão đi qua nghỉ học 2 ngày 29-30.9 * Xuất hiện thêm 2 áp thấp nhiệt đới ngoài khơi Thái Bình Dương Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn trung ương lúc 21 giờ 30 tối qua cho biết hồi 19 giờ hôm qua, vị trí tâm bão ở vào khoảng 16,0 độ vĩ bắc; 111,1 độ kinh đông, cách bờ biển Thừa Thiên-Huế - Quảng Nam khoảng 280 km về phía đông. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 13 (từ 134 - 149 km một giờ), giật cấp 14, cấp 15, ảnh hưởng trực tiếp đến vùng biển các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi và khu vực nam vịnh Bắc Bộ. Dự báo Dự báo trong 24 giờ tới, bão số 9 di chuyển theo hướng giữa tây và tây tây bắc, mỗi giờ đi được khoảng 10 - 15 km. Từ đêm qua, vùng gió mạnh trước bão ảnh hưởng trực tiếp đến các tỉnh từ Hà Tĩnh - Quảng Ngãi. Đến 19 giờ ngày 29.9, vị trí tâm bão ở vào khoảng 16,3 độ vĩ bắc, 108,1 độ kinh đông, trên đất liền các tỉnh từ Quảng Trị - Đà Nẵng. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 12 (từ 118 - 133 km một giờ), giật cấp 13, cấp 14. Tính từ tâm bão vùng gió mạnh nguy hiểm từ cấp 10 trở lên có bán kính khoảng 150 km, từ cấp 6 trở lên có bán kính khoảng 350 km. Trong khoảng 24 - 48 giờ tiếp theo, bão số 9 di chuyển theo hướng giữa tây và tây tây bắc, mỗi giờ đi được khoảng 10 - 15 km. Đến 19 giờ ngày 30.9, vị trí tâm bão ở vào khoảng 16,8 độ vĩ bắc, 105,3 độ kinh đông, trên khu vực Trung Lào. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 8 (từ 62 - 74 km một giờ), giật cấp 9. Tính từ tâm bão vùng gió mạnh nguy hiểm từ cấp 6 trở lên có bán kính khoảng 150 km. Trong khoảng 48 - 72 giờ tiếp theo, bão số 9 di chuyển theo hướng giữa tây và tây tây bắc, mỗi giờ đi được khoảng 10 km, tiếp tục đi sâu vào đất liền và suy yếu thành một vùng áp thấp trên khu vực đông bắc Thái Lan. Ảnh chụp vệ tinh cơn bão số 9 - nguồn: trung tâm dự báo KTTV T.Ư Do ảnh hưởng của bão, vùng biển phía tây khu vực bắc và giữa biển Đông (bao gồm cả vùng biển quần đảo Hoàng Sa) có gió mạnh cấp 11, cấp 12, vùng gần tâm bão đi qua cấp 13, giật cấp 14, cấp 15. Biển động dữ dội. Khu vực nam vịnh Bắc Bộ và vùng biển các tỉnh từ Quảng Trị - Quảng Ngãi có gió mạnh cấp 9, cấp 10, sau tăng lên cấp 11, cấp 12, vùng gần tâm bão đi qua cấp 13, giật cấp 14, cấp 15. Biển động dữ dội. Từ sáng sớm 29.9, ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Kom Tum gió sẽ mạnh dần lên cấp 6, cấp 7, sau tăng lên cấp 8, giật cấp 9, cấp 10. Các tỉnh từ Thanh Hóa - Bình Định và Tây Nguyên có mưa to đến rất to. Cần đề phòng lũ quét và sạt lở đất ở vùng núi, ngập úng ở vùng trũng. Vùng ven biển các tỉnh từ Thanh Hóa - Thừa Thiên-Huế cần đề phòng nước biển dâng cao kết hợp với thủy triều cao từ 3 – 5m. Ngoài ra, do ảnh hưởng kết hợp với gió mùa tây nam hoạt động mạnh, khu vực giữa và nam biển Đông, vùng biển các tỉnh Bình Thuận - Cà Mau có gió mạnh cấp 6, cấp 7, giật cấp 8. Biển động mạnh. Cơn bão mạnh nhất mùa mưa bão năm nay Ông Bùi Minh Tăng, Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương, cho biết đây là cơn bão mạnh nhất từ đầu mùa mưa bão năm nay. Hiện dự báo của các đài khí tượng thủy văn quốc tế không có sự khác biệt quá lớn. Các đài của Trung Quốc, Hàn Quốc nhận định bão sẽ đi hơi chếch lên phía Bắc, tâm bão đổ bộ vào giữa Quảng Bình và Quảng Trị. Đài của Mỹ dự báo bão đổ bộ vào Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng, trong khi đài của Nhật cho rằng tâm bão sẽ đi qua Thừa Thiên - Huế. Bộ đội biên phòng Quảng Nam giúp ngư dân đưa thuyền vào nơi trú ẩn hôm 28.9 ảnh: H.X.H Còn theo thạc sĩ Lê Thị Xuân Lan, Phó phòng dự báo Đài Khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ, bão số 9 hình thành ở vĩ độ cao hơn, nhưng gần giống như bão số 6/2006 (bão Xangsane) về đường đi, cường độ và thời gian. Bão Xangsane mạnh cấp 13, giật cấp 14, cấp 15, đổ bộ Trung Trung Bộ vào ngày 30.9.2006, trong đó mắt bão đi qua TP Đà Nẵng. Còn bão số 9 (cũng mạnh cấp 12, 13, giật cấp 14, 15) dự báo khoảng chiều và tối nay 29.9 vùng tâm bão sẽ đi vào địa phận các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Đáng lưu ý, nếu như bão Xangsane đi vào đất liền rồi tan nhanh, mưa ít, thì cơn bão số 9 này có thể vẫn còn có mưa ít nhất 2 ngày sau đó. Cũng theo ông Bùi Minh Tăng, trong khi bão số 9 đang hoành hoành trên biển Đông và dự báo bão sẽ đổ bộ vào các tỉnh miền Trung nước ta thì ở ngoài khơi Thái Bình Dương cùng lúc đang có hai áp thấp nhiệt đới hoạt động, lần lượt có vị trí tâm ở vào khoảng 9,5 độ bắc, 143 độ đông và 9 độ bắc, 155 độ đông. “Hai áp thấp nhiệt đới này đang di chuyển theo hướng tây và sẽ mạnh lên thành bão trong khoảng 1-2 ngày tới”, ông Tăng nói. Sáng qua 28.9, Phó thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải chủ trì cuộc họp của Ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương, bàn và chỉ đạo, đôn đốc triển khai các biện pháp đối phó với bão số 9. Thủ tướng Chính phủ có công điện khẩn yêu cầu các tỉnh, thành phố ven biển từ Thanh Hóa đến Quảng Ngãi và Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk cùng các bộ ngành liên quan khẩn trương triển khai các biện pháp phòng chống bão số 9. Riêng các tỉnh, thành phố Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Thủ tướng yêu cầu hoàn thành việc sơ tán dân trước 24 giờ ngày 28.9, chỉ đạo các cơ sở giáo dục cho học sinh nghỉ học trong 2 ngày 29 và 30.9. Thủ tướng yêu cầu thành lập Ban Chỉ đạo tiền phương, đặt tại TP Đà Nẵng, để trực tiếp chỉ đạo các địa phương triển khai những biện pháp cấp bách ứng phó với bão số 9. Quang Duẩn Hôm qua 28.9, Hãng hàng không quốc gia VN (VNA) cho biết, do ảnh hưởng trực tiếp của cơn bão số 9 đến khu vực biển miền Trung, VNA phải hủy các chuyến bay từ Hà Nội và TP.HCM tới Đà Nẵng, Huế từ trưa 28.9 đến hết 29.9. Ngoài ra, lịch khai thác tới một số sân bay miền Trung khác chịu ảnh hưởng của cơn bão cũng có khả năng bị điều chỉnh. Các chuyến bay trên đường trục giữa Hà Nội - TP.HCM và các chuyến bay quốc tế của VNA vẫn được khai thác như thường lệ. Dự kiến VNA sẽ bố trí lịch bay tăng chuyến giữa các điểm trên từ 30.9 để hỗ trợ hành khách sau khi cơn bão đi qua. (X.Toàn). Quang Duẩn - Mai Vọng nguồn: thanhnien.com.vn
  15. Vậy là đi tìm nguồn gốc thì lại phát hiện thêm huyền thoại khác. Huyền thoại này lại hay không kém. Nếu không biết huyền thoại này, lỡ mà có nhìn thấy tượng người cầm tháp, chân đạp Giao Long thì lại tưởng là thần hộ pháp trong truyện Phong Thần hay Tây Du. Cái này nên viết thành truyên tranh mà phổ biến cho thêm phong phú kho tàng truyện cổ Việt Nam.
  16. 4 giờ sáng nay, bão số 9 còn cách Hoàng Sa 600km www.nld.com.vn (NLĐO)- Hồi 4 giờ ngày 27-9, vị trí tâm bão số 9 ở vào khoảng 15,6 độ Vĩ Bắc; 117,5 độ Kinh Đông, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 600 km về phía Đông Đông Nam. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 9, cấp 10 (tức là từ 75 đến 102 km một giờ), giật cấp 11, cấp 12. Dự báo trong 24 giờ tới, bão số 9 di chuyển theo hướng giữa Tây và Tây Tây Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 20 - 25 km và còn tiếp tục mạnh thêm. Đến 4 giờ ngày 28-9, vị trí tâm bão ở vào khoảng 16,0 độ Vĩ Bắc, 112,6 độ Kinh Đông, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 120km về phía Đông Nam. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 12, cấp 13 (tức là từ 118 đến 149 km một giờ), giật cấp 14, cấp 15. Tính từ tâm bão, vùng gió mạnh nguy hiểm từ cấp 10 trở lên có bán kính khoảng 120 km, từ cấp 6 trở lên có bán kính khoảng 250 km. Trong khoảng 24 đến 48 giờ tiếp theo, bão số 9 di chuyển theo hướng giữa Tây và Tây Tây Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 15 km. Đến 4 giờ ngày 29-9, vị trí tâm bão ở vào khoảng 16,7 độ Vĩ Bắc, 109,5 độ Kinh Đông, cách bờ biển các tỉnh Quảng Trị - Đà Nẵng khoảng 180 km về phía Đông. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 12, cấp 13 (tức là từ 118 đến 149 km một giờ), giật cấp 14, cấp 15. Tính từ tâm bão, vùng gió mạnh nguy hiểm từ cấp 10 trở lên có bán kính khoảng 120 km, từ cấp 6 trở lên có bán kính khoảng 250 km. Trong khoảng 48 đến 72 giờ tiếp theo, bão số 9 di chuyển theo hướng giữa Tây và Tây Tây Bắc, mỗi giờ đi được khoảng 10 - 15 km. Đến 4 giờ ngày 30-9, vị trí tâm bão ở vào khoảng 17,4 độ Vĩ Bắc, 107,0 độ Kinh Đông, trên vùng bờ biển các tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Trị. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 11, cấp 12 (tức là từ 103 đến 133 km một giờ), giật cấp 13, cấp 14. Tính từ tâm bão, vùng gió mạnh nguy hiểm từ cấp 10 trở lên có bán kính khoảng 100 km, từ cấp 6 trở lên có bán kính khoảng 250 km. Theo Trung tâm Khí tượng Thủy văn Trung ương, do ảnh hưởng của bão, vùng biển Bắc và giữa biển Đông có gió mạnh cấp 9, cấp 10, sau tăng lên cấp 11, cấp 12, vùng gần tâm bão đi qua cấp 13, giật cấp 14, cấp 15. Biển động dữ dội. Từ chiều và tối nay (27-9), vùng biển quần đảo Hoàng Sa gió sẽ mạnh dần lên cấp 8, cấp 9, sau tăng lên cấp 10, cấp 11, vùng gần bão đi qua cấp 12, cấp 13, giật cấp 14, cấp 15. Biển động dữ dội. Ngoài ra do ảnh hưởng kết hợp với gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh, khu vực giữa và Nam biển Đông, vùng biển các tỉnh Bình Thuận – Cà Mau có gió mạnh cấp 6, cấp 7, giật cấp 8. Biển động mạnh. B.T.N
  17. Gửi Longrichman, Ngày giáp tuất (TL thủy) 8 tháng quý dậu (KP kim) năm kỷ sữu, giờ dậu chiếm quẻ cho nam Canh Thân mạng thạch lưu mộc. Nếu anh có rãnh thì đoán xem mình có lấy vợ năm nay hay năm sau không? vợ mình ở SG hay nơi nào xa? Đỗ Lưu Niên - Cảnh Tốc Hỷ Theo quẻ thì nhanh thì 1 tháng chậm 7 tháng sau. Nhưng sang năm thì rất xấu vì tam tai, bạn sẽ lấy vợ ở xa, tháng hai âm lịch năm sau có thể là thành hôn nhân. Quẻ này lấy khi Thiên Đồng đang hứng khởi nhưng đói bụng, thôi thì cảm ứng đoán là năm sau lấy, mặc dầu tam tai. Đúng sai xin hồi báo. Thiên Đồng
  18. Gửi Li Feng, ngày giáp tuất (TL thủy) 8 tháng quý dậu (KPkim) năm kỷ sữu giờ dậu. Hỏi 1 : Bão có tàn phá Biển Đông hay không ? Thương Đại An Gió sẽ mạnh dần lên từ cấp 5 đến cấp 8, giật cấp 9 cấp 10, từ vùng tâm bảo đi vào biển đông với tốc độ hoặc cường độ giảm dần. đánh thàn một vòng chuyển hướng lên phía Tây Bắc để lại một tận quét của bảo tạo thành áp thấp hay mưa giông, quét ngang khu vưc dãy đất miền Trung từ trước Đà Nẵng, Huế kéo dài tới Vinh, đi ngang huyện đảo Hoàng Sa, rồi tản mát và suy vi về phía Bắc. những nơi bảo đi qua chỉ bị thiệt hai nhẹ, nhưng không tàn phá biển Đông. Tàu thuyền chỉ tạm hoãn ra khơi, tránh bão ở bờ. Những ngư dân đánh bắt xa bờ chỉ hư hỏng về phương tiện đánh bắt, không thiệt hại về người và của. Cầu trời cho quẻ đúng. Thiên Đồng.
  19. Bạn cho Thiên Đồng biết vợ chồng tuổi gì? Con cái trai gái tuổi gì? mấy đứa?
  20. gửi Đoan Trang tập cuối ngày giáp tuất 8 tháng quý dậu năm kỳ sữu giờ tị. Khai Xích Khẩu Vậy là quẻ bói đồng xu cũng phù hợp với quẻ của bác huyencodieuly là Ngữ văn. Thế thì coi như có sự thống nhất của...tự nhiên. Thiên Đồng lấy luôn quẻ cảm ứng là thi khố D, thấp là trong khoản 19-21 cao thì tầm 26-29 điểm. Học hành năm 12 này dĩ nhiên khỏi cần bói thì cũng biết là lu bù và mệt nhọc rùi. Cần phải chủ ý bệnh về mắt, cận thị loạn thị..., chú ý bệnh về phổi và cũng chú ý H1N1. hehe... :lol: Không nên đầu tư học hành dàn trải mà tập trung những môn chú trọng sẽ phải thi. Lâu lâu cũng đi pique-nique kem chè để xả tress, lấy lại năng lượng mà dùi mài kinh sử đi thi. Nói chung kết quả năm 12 là khá tốt, có thể điểm trung bình toàn năm tệ lắm cũng phải 8,6 điểm. Còn trường "chiên" thì không biết là bao nhiêu thì vừa chắc là 9,1 chăng? Tóm lại là lai kinh ứng thí toại nguyện thành công. Vậy nhe cô bé! (The End) Thiên Đồng
  21. Gửi Longrichman, Ngày giáp tuất (TL thủy) 8 tháng quý dậu (KP kim) năm kỷ sữu, giờ tị. chiếm quẻ cho nam Canh Thanh mạng thạch lưu mộc. Kinh Tốc Hỷ Luận: Quẻ này chủ về sự di chuyển đi lại. Nhưng nhanh hay chậm thì còn phải xét lại. Trước mắt tốc hỷ vô lực mà tuất lại lâm tuần không vô khí, chỉ là tượng có sự nóng lòng mà thôi. Kinh vì đế vượng mà có lực, chứng tỏ chỉ sự cố gắng với mọi khả năng. Tốc hỷ khắc kinh kim là cố công thực hiện ý định. vậy thì có thể đoán rằng: Longrichman đang trong giai đoạn rất chờ đợi, nóng lòng cho cuộc xuất ngoại này và đang làm mọi khả năng có thể để được đi. Nhưng đến lúc này, theo nghĩa quẻ, thì vẫn chưa thể đi được trong năm nay. Thiên Đồng đoán nhanh là tháng Giêng năm Canh dần sẽ đi hoặc trể là tháng 3 năm canh dần. Thiên Đồng chốt lại dự choán là tháng Giêng năm Canh Dần sẽ đi. Đoán bên lề: cuộc xuất ngoại này có thể liên quan đến chuyện học hành hoặc tình yêu. Nhưng Thiên Đồng cũng đoán luôn là có thể vì lý do tình cảm tình yêu mà ra đi. Chúc bạn mau chống được như ý. Đúng sai xin hồi đáp. Thiên Đồng
  22. Bác Liễu Ngân Đình coi bộ cũng cùng gu với Thiên Đồng à nghen. Nhớ hồi nhỏ mê truyện Kim Dung, nhà bị cúp điện mà vẫn chông đèn dầu đọc ngấu nghiến. Đến khi phim Hồng Kông xâm lược sang thị trường Việt Nam thì đi coi ké phim mà bỏ cả ăn cơm, thay vào đó là ăn...roi mây. Hic. Truyện Tàu, Phim Tàu quả ư là lợi hại! Ác tai, ác tai! Gã Lệnh Hồ Xung là một gã giang hồ lang bạc kỳ hồ, với bao thành công và thất bại về võ công cũng như tình ái, hỷ nộ ái ố ai lạc dục đều nếm đủ cả. Coi như khổ đau, hạnh phúc gã đều trải qua cũng được xem là đệ nhất thiên hạ. Nhưng khả năng "Thiên hạ vô địch" sau này mà gã có được, nếu không nhờ cái định mệnh hay duyên may gặp được Thượng thừa cao thủ Dương Thanh Phong thì gã cũng chỉ xếp hàng...cao cao thủ. May thay Dương Thanh Phong truyền cho gã một tâm pháp siêu việt. Dương Thanh Phong bảo gã lãng tử Lệnh Hồ Xung biễu diễn cho xem tất cả những võ công mà gã học được từ bấy lâu nay. Gã lệnh Hồ làm theo. Thế rồi quái lão Dương Thanh Phong lại bảo gã lãng tử kia kết nối và xâu chuỗi lại các môn tuyệt học. Kết nối xâu chuỗi những cái nào có thể và bỏ ngay cái nào không thể xâu chuỗi được. Gã Lênh Hồ Xung làm theo, xâu chuỗi lại các võ công từ chính lẫn tà, từ sơ học lẫn tuyệt học. Rồi thì Dương Thanh Phong lại tâm truyền một câu rất tuyệt chiêu là...quên hết. Lão bảo gã gạt bỏ hết và tự thi triển kiếm pháp theo ý mình, ý đi đến đâu kiếm đi đến đó cho đến khi ý chưa đến nơi, kiếm đã tới đích trước, liên miên chẳng dứt, ảo diệu chẳng dừng và thiệt là vi diệu. Lệnh Hồ Xung như được một lần nữa đã thông các huyệt đạo và trong phút chốc lĩnh hội đã đạt đến vô địch võ công, vô địch kiếm pháp, đứng vào hàng Vô địch thủ. Tuyệt thay cho ngòi bút thượng thừa của Kim Dung, xứng đáng là chưởng môn của lĩnh vực tiểu thuyết võ hiệp, vinh dự nhận bằng Tiến sĩ danh dự nhưng cũng sẳng sàng bỏ tiền đi học lại và làm sinh viên của trường đại học danh tiếng này. Ô hay càng tuyệt chiêu hơn! Đọc tới đây chắc bác Liễu Ngân Đình sẽ nghĩ Thiên Đồng là...Quái tử Thiên Đồng, vì cái câu chuyện kiếm hiệp kia có nhậu ăn nhập gì tới chuyện của Phong Thủy Lạc việt nè trời! Ủa, vậy mà có đó bác! Quái Lão Dương Thanh Phong vì không quan niệm võ công là phân chia tông phái nêu mới chỉ điểm cho gã Lệnh Hồ hòa nhập tất cả các võ công đã bị chia ra thành tông phái để thành...một cục võ công. Do đó gã lệnh Hồ Xung làm theo và đạt được khả năng thượng thừa vô địch. Thì đây Phong Thủy Lạc Việt cũng như vậy, tổng hợp tất cả các yếu tố mà sách cho là trường phái như Loan đầu, Huyền không...để đưa về đúng bản chất của nó là phong thủy. Nhưng người vận dụng và nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt không phải đơn thuần chỉ là thực hành chiêu thức mà là vận dụng nguyên lý để đưa ra những giải pháp phong thủy phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Và việc vận dụng đó dựa trên cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành với nguyên lý Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ mà chủ nhân đích thực của học thuyết này là nòi giống Rồng Tiên với chiều dày 5000 văn hiến, và nguyên lý chủ đạo là khí trong phong thủy theo khái niệm và định danh của Phong thủy Lạc Việt. Nhưng khái niệm này chưa được công bố bởi Sư Phụ Thiên Sứ nên bài tham khảo trên còn có nhiều khúc mắc khiến các đọc giả nghi ngờ hay hiểu lầm. Bởi vậy, theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt là sự tổng hợp các yếu mà sách Hán gọi là trường phái và không phủ nhận những giá trị tiền nhân để lại, nhưng hiệu chỉnh nó làm cho nó sáng tỏ hơn. Cho nên những trường hợp riêng rẻ như nhà lộ cốt mà một thành viên đã nêu và cho rằng hoạt động tốt, sống tốt thì chỉ là một yếu tố riêng phần, chưa quán xét trên cơ sở của sự ảnh hưởng của các yếu tố khác, đưa đủ yếu tố thuyết phục để vội khẳng định đâu đúng đâu sai. Và việc quán xét phong thủy kiến trúc trên quan niệm về khí thì cả phong thủy Hán và Việt đều đề cập đến; và các cổ thư chữ Hán cũng đề cập rất kỹ càng và phong phú từ cổ cho đến hiện đại; nhưng bản chất của khí là gì và như thế nào thì chỉ có Phong Thủy Lạc Việt mới giải thích được điều này. Vì vậy trao đổi trên tình thần học tập cầu thị, hầu tìm ra chân lý và công nhận chân lý như Đại cao thủ Lệnh Hồ Xung thọ giáo vơi Quái lão Dương Thanh Phong thì chắc cũng chỉ được mấy người. Mà bác Liểu Ngân Đình cũng biết rồi đó, giang hồ Hắc Bạch lưỡng đạo Tà cũng như Chính, không vì Lợi thì cũng vì Danh, không vì Danh thì cũng vì Sĩ, không vì Sĩ thì cũng vì tính quái khí mà thích gây sự, nên giang hồ mãi loạn ly, bát nháo. Thôi thì phiêu diêu tiêu sái với khúc Tếu Ngạo Giang Hồ với tri âm là tuyệt diệu nhất. Nè, mà bác nghe vậy thì đừng cho rằng Quái tử Thiên Đồng không ham Danh, không ham Lợi, không ham Sĩ hay không có quái tính khí à nghen. Nếu không như vậy thì sẽ không rỗi hơi hầu chuyện với bác đâu. Làm người thiệt khổ: Kiếp sau xin chớ làm người làm cây thông đứng giữa trời mà reo bên trời dóc đá cheo leo ai mà muốn mỏi thì trèo với thông (quên tên tác giả rồi, hình như trong truyện "Lều chõng" thì phải.) Thôi, Thiên Đồng lại đi thả diều, đánh đáo. Kính bác ngột ngày vui. (Sư phụ đừng gỏ đầu con nghen).
  23. gửi Đoan Trang (tt tập 3) Bác giải thích hộ cháu cụm từ "đúng với thực tế thang điểm" được ko ạ? Vì cháu thi ĐH Ngoại Ngữ, có nhân hệ số môn Anh Văn. Cái 25 đ cháu tính trên kia mới là hệ số 3 thôi... Hệ số 4 mà 24 thì tầm mỗi môn có 6 thôi bác nhỉ :) Lâu rồi Thiên Đồng không rỏ việc các thí sinh thi thế nào nên điểm vào trường ra sao, hệ số thế nào...cái này coi như không liên quan. Thôi thì cứ theo quẻ coi nghiệm xem sao? Nhân tiện bác xem hộ cháu thi HS Giỏi nên chọn Anh văn hay Ngữ Văn (cái nào xác xuất có giải cao hơn ấy ạ). Thôi, bây giờ đơn giản vậy đi. Dùng một đồng xu, quy định mặt hình là Anh Văn, mặt chữ là Ngữ Văn, chấp vào hai lòng bàn tay,ngồi xếp bằng tịnh tâm 30 giây, rồi tự hỏi thầm trong đầu rằng " Thi Anh Văn tốt hơn hay Ngữ văn tốt hơn? Nếu Anh Văn là tốt hơn thì cho ngửa mặt hình, nếu Ngữ Văn Tốt hơn thì cho ngữa mặt chữ." Nói thầm 3 lần, rồi đưa tay lên cao bằng trán, buông đồng tiền ra. Thu kết quả! Vậy nha. chúc thành công. :( Thiên đồng. :unsure:
  24. gửi Đoan Trang ngày nhâm thân 6 tháng quý dậu năm kỷ sửu giờ tị. Cảnh Đại An Bác xem hộ cháu có thể đi du học ko ạ? Cảnh là đi xa, đại an là nước lớn. Vậy là đi ra nước ngoài rồi. Đi du học là ok. Vậy là yên tâm. vì cháu quyết tâm ít nhất cũng phải đc 25 - "Sẽ đậu với điểm sát sao. Điểm ở khoản 20-22 điểm". Trường hợp này có thể thay đổi đc ko bác nhỉ. À, nếu cho đúng với thực tế thang điểm thì có thể đậu với mức điểm trong khoản 24-27 điểm. Chúc thành công Thiên Đồng
  25. Mua tượng hay tranh ngựa nào cũng được, nhưng phải biết để ở đâu, mục đích gì, tại sao phải để, đó mới là vấn đề chứ kevin. Thiên Đồng