-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
<_< :D :lol: :P
-
Dãy nhà nhìn âm u ghê! Rợn tóc gáy. Lại cái cây chết khô đứng đầu ngỏ như tiển vong. ớn! Sao không lấy "cẩu đầu dao" mà tiển nó đi luôn đi? <_<
-
Gỏ Mõ Mõ dùi tạo thanh trọc? Thanh trọc từ mõ dùi? có âm không hình tướng Không mà Có nhất thời. Duyên đau mà hợp lại Ta cũng có với đời cũng một thân tứ đại Có mà Không nhất thời Thiên Đồng
-
Dim nên chú ý, Dùng Lạc Thư Hoa Giáp để luận tuổi. trường hợp của chích chòe, Chồng Mậu Ngọ mạng Đại Hải Thủy Vợ Kỷ Mùi mạng Đại Hải Thủy Con gái Giáp Thân mạng Sơn Đầu Hỏa Hai vợ chồng này xét về Can, Chi, Mạng thì Âm Dương là một cặp, hoàn toàn hợp. Con gái hợp mẹ ở Can, khắc cả cha lẫn mẹ ở mạng. Nhưng vì con gái nên gia đình này cũng đỡ phần nào. Xét về kinh tế gia đình này không mấy khởi phát khi sinh bé ra. Đôi khi lại dậm chân tại chổ. Thân chủ muốn sinh thêm đứa Quý Tị 2013 thì tuy nhà có 4 mạng liền tuổi, nhưng không tốt. Tốt nhất là chọn đứa trai Tân Mão 2011. Vì nhà có 2 Thủy 1 Hỏa đối kháng vì vậy nên chọn 1 Mộc hòa giải là hay nhất. Gia đình trên dưới êm ấm thuận hòa, phát dương quang đại. Con được 2, 3 tuổi thì khởi phát. Thiên Đồng.
-
Cái này phân tích dài dòng. Muội tự suy luận thêm là ra à! <_<
-
gửi ma ma lulu, ngày mậu tuất (BD Mộc) 3 tháng giáp tuất (TL thủy) năm kỷ sửu giờ tuất, Bao giờ em có người yêu hả anh? Khai Xích Khẩu Làm quen rồi, đưa lưỡi cưa cưa rồi, cột đi tìm trâu. Nhanh thì một tháng, chận thì ra giêng. Và anh ấy là người như thế nào,có tốt bụng và đẹp trai ko ạ? Hưu Tiểu Cát Anh chàng này tuy tốt bụng nhưng tính hơi "keo nặng", nói năng nhỏ nhẹ, đầu óc tính toán. Tuy vậy dể siêu lòng đối với phụ nữ. Được trai mà không đẹp trai, cỡ 6-7 nút. cao 1,6 đến 1,68. Mắt cận hoặc loạn thị 1-3 diop. Thiên Đồng
-
Một số Bùa Miền Bắc Bùa Ông Tề trấn trạch This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 609x1024. Các pháp sư còn dùng bùa cá để trừng trị kẻ tiểu nhân, trấn trùng tang (và trấn trạch?) This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 675x1024. . Một loại bùa mà các pháp sư miền bắc hay đung để trấn trạch Click this bar to view the full image. Lưu ý: cái này xoáy âm dương có 2 chấm và ông hổ không ngồi trên trống đồng, có thể dị bản chăng? (Thiên Đồng) Khi một nhà nào đó bị sát hướng ,các pháp sư thường cho treo bùa này ở hai bên cửa phía trên để hóa giải ,có thể chống được cả các vật xung chiếu như đối cửa .v.v.. Và đây là bùa nữa có tác dụng như trên nhưng chỉ dùng một cái ,treo ở cửa ,hoặc trong nhà chiếu ra cửa . Sưu tầm:http://www.thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?t=1420&page=5
-
Lấy quẻ của Dim giải thêm cho Vĩnh Viễn. 16h45 ngày 3/9 ÂL năm Kỷ Sửu 1. Bao giờ gặp người yêu thứ 3? TỬ - LƯU NIÊN Luận: trường hợp 1: là người đương ở không, chưa có đối tượng nào Lưu niên là cô đơn buồn tẻ, ế từ thượng cổ cho đến hiện đại, lòng chợt xao động khi có một biến cố bên ngoài. Tử là tinh thần bị ức chế, tình cảm bị cô quanh và môi trường xung quanh đang bế quan không có đối tương nào mình nhắm tới được hoặc không vừa ý. Tóm lại là đang ở trong tình trạng hộ tình đơn côi lẻ bóng triền miền kể từ khi tứ giả ít nhất một mối tình và tương lai gặp người thứ 3 hơi lâu. 6 tháng đế 1 năm sau. trường hợp 2: đang có đối tượng để tấn công Lưu niên là Vĩnh Viễn đang trong giai đoạn tính toán chinh phục, mưu mô tấn công. Tử là đối tượng cũng gây khó khăn, chảnh, phớt lờ...nhưng mình kiên trì thì "ẽm" sẽ chịu ảnh. Như vậy thì nhanh là 6 tháng chậm là 9 tháng. 2. Cô ấy như thế nào? KINH - TỐC HỶ Luận: Tốc hỷ là người vui vẻ, có hiểu biết có học, tính tình cởi mở, đẹp. Kinh là thuộc kim nên người này ăn nói sắc bén. Nghĩa là tuy là nữ nhưng người này tính tình cứng rắn, linh hoạt thông minh trong ứng xử, phải có cái đầu cao hơn thì mới "lừa được" vào tròng. cũng có thể thuộc dạng Lemon question. Tóc ngắn, mắt long lanh, nước da trắng hồng (chắc cũng dùng mỹ phẩm?), ngực "khủng" <_< , môi mộng...Ui trời tuyệt vời! Thôi rồi, chảnh, tấn công, săn đón mệt luôn là đúng quá ròi. :D Chúc thành công. Thiên Đồng
-
Bí Pháp Huyền Thuật Tây Tạng Từ xưa đến nay có rất nhiều môn huyền thuật bí mật và tâm truyền...và thâm sâu huyền bí cao nhất vẫn là Kim Cương Thừa Mật Giáo Tây Tạng. Mật Giáo chia ra làm nhiều tông phái nhưng gom lại cũng chỉ có 3 thừa bí mật là: -Kim Cương Thừa Mật Giáo cổ Tibet La Ma Giáo -Đại Thừa Bắc Tông Sankrit Mật Giáo -Tiểu Thừa NamTong Pali Mật Giáo Trong thế giới huyền thuật chứa đựng nhiều pháp thuật huyền bí thâm sâu và bí truyền, nên nhiều pháp môn bí truyền sau này đã thất truyền. Om-Ah-Hum-Benza-Guru-Padma-Siddhi-Hum. Om-Benza-Satto-Hung. Om-Ah-Hum E Hi Ma Ma Na Mo Put Tha Ya Na Ma Pa Ta Hum Pat. Om-Dzak-Hum-Pam-Hok-Hung-Pat Nak-Mak-Pak-Tak-Hung-Pat. Trong thế giới Huyền Thuật đầy huyền bí và bí mật thâm sâu, có rất nhiều bí pháp của Mật Giáo vô cùng bí mật, trong mật Giáo có có 3 loại bí mật là: các loại pháp chánh, các loại pháp tà, các loại pháp ngoại đạo...và mật giáo là sự bí mật trong bí mật có chứa vô lượng sự bí mật khác nên Mật Giáo rất thâm sâu huyền bí và các hành giả tu luyện trong vô lượng kiếp cũng không hết các bí mật pháp môn đó...trong Mật Giáo có các Mantra-Katha còn gọi là các Thần chú bí mật và các Yantra đồ hình hay các loại chữ Phạn cổ hay các chữ bùa phép bí mật nên gọi là Yantra,Mandala bí mật.Các bí pháp bí mật muốn học được đều phải nhận được sự truyền thừa còn gọi là Truyền tâm Pháp,Quán Đảnh,Điểm Đạo...Trong Mật Giáo các giáo lý của Kim Cương Thừa Mahamudra Tibet cổ xưa là Bí Mật nhất và đạt được đỉnh cao tối thượng thừa...nên gọi là các giáo lý bí mật MahaMudra Đại Thủ Ấn. Mantra-Yantra-Mandala-Tibet-Mahamudra Katha-Yants-Pali-Thailan Master-TaiKimLuanPhapVuong-Katha kimluanphapvuong.com
-
Vậy thì yên chí, trong vòng trể nhất là 2 năm thôi thì mọi việc sẽ xong, sẽ như ý. Chúc hạnh phúc <_<
-
Tui hong phải là thầy, chỉ là...Thiên Đồng. Mấy bài "góp nhặt phong thủy" trong đó cũng có vàng ngọc, cũng có cát đá. Đọc chỉ tham khảo thôi, không phải là quan niệm chính của Phong thủy Lạc Việt. Tuổi của NhuNguyen thì theo Phong thủy Lạc Việt có bốn hướng tốt để quay cái bếp là Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây. Tùy nghi anh sử dụng. Cái đường dẫn của anh poste, không đọc được. Bếp dựa lưng vào toa lét nhà mình hay nhà người ta không có gì là xấu. Thiên Đồng
-
"Em" là Nam hay Nữ? Hình ảnh nhà cửa đất đai ra sao? Miêu tả cho tưởng tượng thì mệt lắm. :(
-
gửi Chiêu nam, Thiên Đồng bóc quẻ thấy tốt nên trả lời luôn. ngày đinh dậu(DK thủy) 2 tháng giáp tuất (TL thủy) năm kỷ sửu giờ thân Cảnh Đại An Luận: quẻ nói chuyện hôn nhân, nhưng đang trong tâm trạng chờ đợi người ta ừ. Báo trước khi nói ra thì sẽ gặp nhiều lý do trở ngại, có thể sẽ cảm thấy thất vọng, nhưng linh hoạt thì êm xuôi. Kết quả là bất ngờ. Nhanh tháng 5 năm sau, chậm thì 2 năm nữa. Lẽ ra phải hỏi tuổi, nhưng đoán luôn cho hên. Thiên Đồng
-
Những Chiếc Cầu Lạ Trên Thế Giới Không chỉ là phương tiện phục vụ sự đi lại, những cây cầu này còn nổi tiếng thế giới vì hình dáng kỳ lạ của nó. Chính sự khác thường đã thu hút rất nhiều khách du lịch đến tham quan và thưởng thức khung cảnh kỳ vĩ mà những cây cầu này bắc qua. Dưới đây là 10 cây cầu có hình dáng kỳ lạ nhất thế giới. 1. Cầu Henderson Wave (Singapore) Đây là cây cầu đi bộ cao nhất Singapore với hình dáng độc nhất vô nhị, uốn lượn như những đợt sóng với bốn điểm lượn lên và ba lượn xuống. Thiết kế gợn sóng của cây cầu đã tạo tác động thị giác rất mạnh. Đây được coi là điểm tham quan mới thu hút rất nhiều khách du lịch, đặc biệt về đêm, khi cầu càng rực rỡ dưới ánh sáng đèn. Cây cầu này nối hai khu vườn quốc gia Mount Faber và Telok Blangah. 2. Cầu gỗ sông Mur (thành phố Graz, Áo) Cây cầu bắc qua dòng sông Moore, nối liền các hòn đảo san hô nhân tạo, do kiến trúc sư Vito Acconci thiết kế nhằm kỷ niệm sự kiện “Graz 2003: thủ đô văn hóa của châu Âu”. Cầu gỗ sông Mur là sự pha trộn cổ điển giữa nghệ thuật và kiến trúc, sự giao hòa giữa giấc mơ và hiện thực. 3. Cầu Langkawi Sky (đảo Langkawi, Malaysia) Hoàn thành tháng 10-2004, Langkawi Sky là một trong những cây cầu hùng vĩ và ngoạn mục nhất thế giới với hệ thống cáp treo và hình dáng uốn cong. Cầu cao 700m so với mực nước biển và dài khoảng 125m băng qua những ngọn núi. Cao và hẹp nên cây cầu là điểm đến thu hút nhiều khách du lịch muốn tìm cảm giác mạo hiểm. Từ đây, du khách có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của biển Andaman và đảo Tarutao của Thái Lan. 4. Cầu nước Magdeburg (Germany) Cây cầu Magdeburg ở Đức dài 918m, khánh thành tháng 10-2003. Đây là cầu dẫn nước thích hợp cho tàu bè qua lại. Cầu nằm trên sông Elbe là nơi chuyên chở quan trọng giữa hai vùng Đông Đức và Tây Đức cũ. Cây cầu này là điểm ngắm tuyệt vời cho du khách mỗi khi được đi trên nó. 5. Con mắt của Thiên Tân - cầu Yongle (Trung Quốc) Cầu Yongle với vòng quay khổng lồ Ferris được ví là con mắt của Thiên Tân. Đây không chỉ là nơi lưu thông xe cộ mà còn là một điểm du lịch hấp dẫn du khách. Chiếc bánh xe quay này có 48 khoang, khả năng chứa tối đa 384 hành khách đi một vòng khoảng 30 phút. Điểm cao nhất của vòng quay này là 120m. 6. Cầu Oliveira (Sao Paulo, Brazil) Cầu Oliveira bắt đầu hoạt động vào tháng 5-2008. Cây cầu này có độ cao 138m, được nối giữa Marginal Pinheiros tới đại lộ Jornalista Roberto Marinho. Cầu được thiết kế với hình dáng khá đặc biệt, giống như chữ “X” ở giữa tháp. Nó cũng là cây cầu duy nhất trên thế giới có hai làn đường uốn cong với cột đỡ bằng bêtông. 7. Cầu Suspended (Thụy Sĩ) Được kiến trúc sư Thụy Sĩ Jurg Conzett thiết kế, cầu Suspended nằm ở Traversinertobel. Ông đã giải quyết vấn đề hóc búa của địa hình ở đây bằng cách nối hai độ cao khác nhau của hẻm núi này bằng một cầu thang gỗ. Cầu thang gỗ này chỉ thích hợp cho người đi bộ. 8. Cầu Banpo Fountain (Seoul, Hàn Quốc) Cầu Banpo Fountain bắc ngang sông Han ở thủ đô Seoul vừa là cầu vừa là một đài phun nước - một điểm đến hấp dẫn ở thủ đô này. Trước đây nó chỉ đơn thuần là một cây cầu, nhưng vào năm 2008 người ta đã gắn thêm vào cầu 380 vòi phun với 190 tấn nước/phút. Vào ban đêm, ánh sáng huyền ảo tạo nên những hình ảnh và khung cảnh tuyệt đẹp. 9. Cầu Python (Amsterdam, Hà Lan) Có hình dáng giống con mãng xà nên được đặt tên Python (mãng xà). Cầu được xây vào năm 2001 nối bán đảo Sporenburg với hòn đảo Borneo. 10. Cầu Rolling (London, Anh) Ý tưởng xây dựng cây cầu là của nhà thiết kế người Anh Thomas Heatherwick. Đây là cây cầu duy nhất có thể chuyển động trong top 10 cây cầu này. Cầu có tám phần tam giác được kết nối và liên kết với phần trên bằng hai phần nối có thể cuộn lên cuộn xuống nhờ các pittông nước. Khi mở rộng nó dài 12m, tương tự chiếc cầu đi bộ bằng gỗ và thép thông thường. Tuy nhiên, để thuận tiện cho tàu bè qua lại cầu được cuộn cong cho đến khi hai điểm đầu cuối gặp nhau.
-
Dân thôn “tô tượng” phá đền chùa Viết bởi Đỗ Lãng Quân LTS: Trên Tuổi Trẻ ngày 23-3, nhà văn Nguyên Ngọc vừa cất lên một lời than: Trùng tu, hết chịu nổi! Nhưng “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” ấy không chỉ có ở riêng di tích, đền chùa nào. Phóng viên và cộng tác viên Tuổi Trẻ tiếp tục ghi nhận. Có lẽ chưa bao giờ công cuộc trùng tu tôn tạo di tích ở Việt Nam lại đi vào "cao trào" như hiện nay. Bà con các nơi thi nhau lập hòm công đức, vận động tiền trong các tổ chức, cá nhân để bằng mọi giá tô lại tượng, sửa đình chùa miếu mạo quê mình. Họ coi đó như một cách bày tỏ tín tâm, sự sùng kính đối với chư vị thần linh. Nhưng… Xin "tha mạng" cho một ông hộ pháp! Chúng tôi đi khảo sát số phận các ngôi chùa vùng Thuận Thành, Bắc Ninh cùng nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ hàng đầu, họa sĩ, giảng viên Ðại học Mỹ thuật Phan Cẩm Thượng. Ông Thượng sống ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) đã nhiều năm, không phải ông xuất gia tu hành mà vì yêu kính di sản văn hóa tuyệt kỹ Bút Tháp. Và vì nữa, quá đau đớn với thực trạng tàn phá di sản dưới danh nghĩa trùng tu ở khắp nơi, ông Thượng đã chọn một chốn để nỗ lực nghiên cứu và coi sóc, xem như cõi "tháp ngà nghệ thuật" hi vọng sẽ còn sót lại của mình. Ông Phan Cẩm Thượng bên pho tượng hộ pháp cổ kính được "tha mạng" (không sơn theo lối làm mới) hiện cư ngụ tại chùa Bút Tháp -ảnh Lãng Quân. Khi nhắc đến chuyện tô tượng, sửa chùa làm "tan biến" các giá trị nghệ thuật cổ, họa sĩ Phan Cẩm Thượng khoát tay kể ra một loạt "điểm nóng": chùa Dâu, chùa Bình, chùa Tướng, chùa Phật Tích ở Bắc Ninh; chùa Chuông ở Hưng Yên; chùa Trăm Gian, chùa Sủi (Hà Nội)... "Mà chẳng đâu xa, ngay trong chùa Bút Tháp nơi tôi đang ngồi với các vị đây cũng đã bị người ta xông vào "cung tiến" việc sơn lại các pho tượng tuyệt đẹp. Sểnh một cái họ thuê đám thợ chuyên đi làm đồ giả cổ, mua sơn hộp công nghiệp về bôi kín cả nhóm tượng chân dung các bà hoàng!". Với hai ông hộ pháp khổng lồ trong chùa, khi các thợ sơn kiểu chuyên làm đồ gia công mỹ ký sơn xong một pho ai nấy mới tá hỏa: thế là giết chết pho tượng quý, sơn tượng cổ mà như bôi phẩm màu. Quyết định được ban ra muộn màng: xin hãy tha mạng (không sơn mới) pho hộ pháp còn lại. Bây giờ một ông cũ, một ông mới sơn vẫn đứng đó liếc nhìn nhau, chắc cả hai đều... rất đau. Các pho tượng trong hệ thống “Thập điện Diêm vương” tuyệt đẹp của chùa Tướng bị sơn vẽ -Ảnh: Lãng Quân 1 triệu đồng "làm mới" đền thờ Sỹ Nhiếp! Suốt thời kỳ Bắc thuộc dài dặc, Luy Lâu (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của nước ta, trường học đầu tiên của Việt Nam tại đây được mở rộng dưới thời ông Sỹ Nhiếp (186-226). Thời phong kiến, dân Việt Nam ta tôn ông Sỹ Nhiếp làm "Nam Giao học tổ", đền thờ ông trong thành Luy Lâu được gọi là "Văn miếu tiên nho". Tuy nhiên, lần này trở lại đền thờ Sỹ Nhiếp, chúng tôi ngỡ ngàng thấy tượng thờ, kiệu lễ, hoành phi câu đối trong đền đều nhất tề bị… sơn lại bằng sơn hộp công nghiệp trông rất phản cảm. Cụ Nguyễn Văn Vịnh, 68 tuổi, người được dân giao coi đền thờ Sỹ Nhiếp, khoe: "Chúng tôi vừa sơn lại bảy pho tượng, cả tượng "đức ngài Sỹ Vương", hết hơn 1 triệu đồng". Cụ hào hứng kể: "Thôn chúng tôi có 152 hộ dân, chỉ đi vận động mất hơn nửa tháng là đủ tiền sơn lại toàn bộ tượng. Sơn xong, chúng tôi quay ra sơn nốt câu đối, bộ bát bửu, sơn cả cái đòn khiêng kiệu, ôi giời, nhiều hạng mục phải làm cho đẹp lên lắm. Chúng tôi vận động được tiền rồi nói với cán bộ văn hóa xã, huyện rằng cho chúng tôi "quang diện" (sơn cho đẹp đẽ - NV) lại toàn bộ mà". Hỏi: "Có chỗ nào trong đền mình chưa sơn lại không hả cụ?". Trả lời: "Có mấy cái mới mua chưa sơn lại thôi. Chúng tôi toàn nhờ anh Quỳnh, thợ sơn thuê ở ngoài Mãn Xá (xã bên - NV), sơn cho ấy mà". Tôi quay sang hỏi ông Phan Cẩm Thượng có phải sơn Nhật không, ông trợn mắt: "Làm gì được sơn hộp của Nhật, đây là sơn hộp ta, dùng để phết cửa rả ở quê ấy". Các pho tượng đỏ lòm, vàng chóe, bôi quết ngoang nghếch, đặc biệt các vị quan văn quan võ của ông Sỹ Nhiếp đều được thợ vườn vẽ râu vẽ ria, mắt trắng dã, méo xẹo như trong một vở tuồng cấp xã. Trong khi pho tượng cổ râu ria của các ngài được cắm từng sợi rất cẩn thận và thẩm mỹ. Ông Thượng như chết đứng, lẳng lặng bỏ ra ngoài đền đi chụp khung cầu đá cổ nổi tiếng còn nguyên vẹn trên con đường dẫn vào đền. Tôi đi theo, ông Thượng lẩm bẩm: "Bà con đã sơn lại hết rồi, biết làm sao được!". Sơn dỏm này đã giết chết các pho tượng quý, cả tượng Nam Giao học tổ chỉ bằng 1 triệu đồng (thế là còn đắt!). Ðáng sợ hơn, sơn công nghiệp kín mít làm các pho tượng không thể thở được (như dùng sơn ta), chỉ một thời gian tượng sẽ phá ra và hỏng toàn bộ. Hầu như toàn bộ hệ thống tượng ở đền thờ “Nam Giao học tổ” Sỹ Nhiếp bị hủy hoại bởi sơn công nghiệp - Ảnh: Lãng Quân "Mình có Thập điện Diêm vương rồi, còn nhận thêm 10 ông kia nữa làm gì?" Khủng khiếp hơn là ở chùa Tướng, thờ Pháp Lôi, nằm trong hệ thống thờ Tứ Pháp tối cổ của nước ta, cùng thời với chùa Dâu, có từ thế kỷ thứ 2. Anh Chăm, 47 tuổi, người nhang khói ở chùa..., thở dài khi gặp lại tôi: "Chúng tôi vận động bà con trong xóm và khách thập phương lấy tiền để sơn tượng rất kỳ công đấy nhé". Trời ạ, không dám tin vào mắt mình nữa, ngôi chùa Phật giáo đứng vào hàng cổ nhất của Việt Nam mà chỉ trong vài năm, toàn bộ các pho tượng biến từ màu đen sang màu... vàng chói chang. Một cái "mốt" thay màu tượng thờ quái đản. Những gì ông Thượng chụp ảnh và viết trong các cuốn sách của mình giờ không thể nhận ra! Anh Chăm và bà vãi hiền lành đi theo tôi giải thích: "Tượng mới sơn lại nhưng cứ bị bạc màu dần trông hơi xấu. Có tiền, nhà chùa chúng tôi lại cho sơn lại cả sang màu vàng cho nó đẹp". Tôi và bà vãi cứ đi lan man trong một thế giới tượng được sơn phết bằng sơn công nghiệp, râu ria vẽ loằng ngoằng, màu mè xanh đỏ chói gắt. Trong chùa Tướng, nền lát gạch hoa, toàn bộ bêtông, đèn xanh đỏ trùm kín mặt tượng, đèn điện nháy tràn cung mây. Ðặc biệt, bên cạnh "Thập điện Diêm vương" bị bôi vẽ do các thợ vườn mỹ ký, các bà buôn ở TP Bắc Ninh còn cung tiến vào chùa các bộ "Thập điện Diêm vương" mới với 10 cụ vàng chóe, đỏ đòng đọc sơn công nghiệp, tượng nào cũng vuông rìa sắc cạnh như đồ chơi trẻ em. Ông Thượng thắc mắc với anh Chăm: "Mình có tám vị Diêm vương cổ rồi còn lấy thêm 10 ông Diêm vương mới nữa làm gì, nó phá vỡ hết không gian được bố trí rất tài tình của chùa Tướng". Anh Chăm gãi đầu gãi tai: "Họ cho thì lấy". Có người cung tiến cả tượng Quan Âm bằng thạch cao, cao đến 3m, không đưa vào được, nhà chùa đành để ngài trắng toát ngự giữa sân với đủ ngai, tán lọng, bệ thờ, bậc gạch như một ngôi miếu mới! Nguồn: tuoitreonline.com http://daitangkinhvietnam.org/van-hoc-va-n...-truc-phat-giao
-
Tham Khảo Kiến Trúc Truyền Thống Viết bởi Caycanhthanglong Đình: Theo (Bách khoa toàn thư) là một dạng kiến trúc truyền thống bắt nguồn từ Trung Quốc. Đình thường không có tường bao quanh, được thiết kế theo các dạng lục giác, bát giác, hoặc nhà tròn. Thông thường Đình là nơi che nắng mưa, hoặc để nghỉ ngơi tại các nơi công công như công viên, vườn hoa, hoặc địa điểm thuận lợi trên tuyến đường dài. Đình cũng là nơi để biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật. Có ý kiến khác là Đình ra đời từ gian đoạn thời Trần, ban đầu chủ yếu là nơi nghỉ cho vua quan khi đi thị sát dân tình, về sau mới được làm nơi thờ cúng (thờ Thành Hoàng). Đình còn là nơi họp việc làng… Đình dần trở thành một công trình đặc thù riêng của người Việt. Chùa: Theo (Bách khoa toàn thư) là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, tuy nhiên tại Việt Nam chùa còn là nơi thờ thần, thờ tam giáo, thờ trúc lâm tam tổ… Chùa đa số là thuộc về các cộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Chùa Tây Phương Đền: là công trình kiến trúc được xây dựng xuất phát từ lòng kính trọng và ghi nhớ công ơn của một anh hùng hoặc ai đó có công với đất nước hay công đức của một cá nhân đối với địa phương và được dựng lên theo truyền thuyết dân gian. Ngoài ra các đền thờ cũng để thờ Thánh siêu nhiên, Thất tiên của Đạo giáo. Đền Voi Phục Miếu: là nơi thờ cúng, lưu danh, tôn vinh những công thần đã từng đóng góp nhiều công lao cho triều đại Ví dụ: Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hưng Miếu, Thế tổ Miếu, Võ Miếu, Miếu hiệu, Miếu Gàn… Miếu làng Gác chuông: là lầu cao trong nhà chùa, nhà thờ dùng để treo chuông. Gác chuông chùa Trăm Gian Vọng lâu: là lầu cao, nơi quan sát hoặc là nơi vãn cảnh: Thuỷ đình: là nơi biểu diễn một số dạng nghệ thuật dưới nước ví dụ : Rối nước Tháp: Từ xưa tháp được xây dựng tại các thánh tích quan trọng. Một số thời, Tháp được xây để thờ các vị thánh. Trong kiến trúc phật giáo chùa Tháp vốn là nơi cất giữ xá lị hay cất cốt các vị đại sư. Tháp BAÓ ÂN Tháp và Chùa Tháp có nhiều tầng tượng trưng cho tam giới nhiều chùa Tháp được xây 8 mặt đại diện cho Pháp Luân hoặc Bát chính đạo. Tháp cũng là nơi chứa đựng kinh điển, tranh tượng. Tháp cũng là một đối tượng thiền quán, thường thường có nhiều ý nghĩa tượng trưng. Tam quan: Tam quan là tên gọi cái Cổng lớn ở Chùa, ở Phủ thờ. Cửa Tam quan có ba lối đi. Theo nghĩa hẹp, đường đời cũng như đường đạo phải đi qua nhiều cửa hẹp. Tam quan được xem là bộ mặt của ngôi Chùa. Tam quan được xem như cửa ải giữa 2 thế giới thánh phàm, tịnh nhiễm người ta thường gọi cổng Tam quan của nhà Chùa là Cửa phật. Nguồn: Caycanhthanglong.com.vn
-
Đây là các thành viên Hội đồng tuyển chọn. Các phương án dự thi: Phương án P246 Phương án V919 Phương án H112 Nhà Quốc Hội của các nước trên Thế giới Lào Campuchia Trung Quốc Nga Một số nước khác: Anh Pháp Mỹ Xứ Wales Hàn Quốc Canada Úc (Caberra) Bắc Úc (Darwin) Hungari Và cuối cùng là công trình mà các thầy dạy kiến trúc khi giảng bài thường xuýt xoa khi nhắc tới: NQH Braxin nguồn: http://www.diendan.nguoihanoi.net
-
Vật Liệu Trong Kiến Trúc Cổ Việt Nam Tạ Hoàng Vân Khi những vật liệu hiện đại như xi măng chưa xuất hiện thì ông cha ta đã sử dụng một thứ vữa được chế bằng phương pháp thủ công, nguyên liệu mang đặc thù của địa phương. Ví như ốc vặn đốt thành than luyện với vỏ cây dè rớt, hoặc dùng mật luyện kỹ với vôi vỏ sò. Vùng Nghệ An dùng vỏ hến rây kỹ, trộn cát, thâm mật xấu, giấy bản ngâm ướt hay rơm nếp và trộn với nhựa lá cây bớt lời. Mật, đường lấy từ mía, người ta đã làm một chất dẻo để nặn phù điêu rồng phượng, hoa đá trang trí những cột trụ hay hình lưỡng long chầu nguyệt ở chùa. Chất dẻo này cũng để nặn những hình khối mềm mại, đổ khuôn sản xuất hàng loạt chi tiết trang trí, khi khô rất rắn, có thể chịu nắng, mưa. Có nơi lấy cơm nếp trộn với gạch non tán nhỏ rây kỹ cùng với lá khoai luyện thành một thứ vữa gọi là “sơn man”, thường dùng để gắn áo quan, cũng có địa phương quen dùng cơm nếp nát nấu với nhựa thông. Ngoài ra, cát, đất sét và chất kết dính cũng là những vật liệu được sử dụng thường xuyên trong việc xử lý nền và kết nối gạch, đá. Kiến trúc hang động, mái đá là những ngôi nhà đầu tiên của loài người. Tiếp đó, việc sống trong nhà hay lều rồi lập thành làng là hiện tượng gắn với lối sống định cư trên cơ sở sản xuất nông nghiệp hay bán nông nghiệp. Sách Lĩnh Nam chích quái viết: Đất nhiều gạo nếp, lấy ống tre để nấu cơm (cơm lam), gác gỗ làm nhà (nhà sàn) để tránh khỏi hổ lang làm hại... Từ khi con người thoát ra khỏi đời sống bầy đàn hang động thì loại hình nhà sàn tỏ ra hợp lý và thông dụng với cư dân sống ở những nơi có địa hình dốc. Những nghiên cứu sau này đã chứng minh loại hình kiến trúc đình còn giữ lại nhiều nét kiến trúc xa xôi, mà vật liệu kiến trúc là một nét đáng chú ý. Việc sử dụng vật liệu gỗ được coi là bước đột phá của kỹ thuật xây dựng, do tính năng mềm, bền chắc của nó, đồng thời cũng là vật liệu dễ tìm tại di chỉ Đông Sơn, đã phát hiện thành phần gỗ của kiến trúc nhà ở, gồm những cột nhà, rui tre, những thanh gỗ đẽo vạc thô sơ, nhiều cột gỗ dựng đứng trên nền đất có tỉ lệ khác nhau (được phỏng đoán như chân của cột nhà sàn phối hợp trong một vì nhà). Kỹ thuật liên kết chủ yếu là lạt buộc, con sỏ, mộng xuyên lỗ, mộng ngoãm, gồm ngoãm tự nhiên (chạc cây) và ngoãm nhân tạo (vết cản ở thân cột để thắt thêm một đoạn gỗ). Ở dấu tích ngôi nhà sàn có bộ khung bằng gỗ, lợp ngói có niên đại khoảng những thế kỷ đầu, vật liệu xây dựng được tìm thấy gồm nhiều mảnh ngói và mảnh đồ đựng bằng sành lẫn trong đất san nền và chiếc then cửa. Ngói có 2 loại: ngói ống và ngói vũm lòng máng tại xã Mộc Bắc, Duy Tiên, Hà Nam (3). Như vậy, gỗ là thành phần cơ bản trong kiến trúc nhà ở. Gỗ được chia thành nhiều loại: xoan, đinh, lim, sến, táu... có độ bền, chống mối mọt, mục nát của thiên nhiên nhiệt đới. Vì kèo chồng rường phù hợp với loại gỗ xoan; gỗ lim, táu hợp với các cột cái, cột quân, cột hiên và bẩy đỡ vì tính năng to chắc và tính chịu lực của nó. Rui mè sử dụng loại gỗ mỏng hơn, thậm chí dùng tre, nứa (đã được ngâm tẩm). Họ nhà tre dùng làm đòn tay, rui mè, chọn những thanh đều dóng (có sức bền đồng thời có ý nghĩa mỹ quan). Trong kết cấu bộ khung nhà, bương vầu làm cột nhà vì thân to dày, đốt ngắn chịu sức nén khoẻ; tre đằng ngà làm đòn tay vì thân đặc, dẻo dai chịu sức kéo tốt; mai thẳng và dày dùng làm sàn nhà; nứa mỏng hơn đập dập để lợp mái nhà. Ở vùng núi, người dân sử dụng chủ yếu là tre, vừa làm khung nhà, vừa làm phên giậu che chắn. Tận dụng các thành phần của cây tre để làm nhà còn là một nghệ thuật trong kỹ thuật lắp dựng và chống mối mọt. Ngoài việc ngâm tre trong nước khoảng một năm, người dân còn hun khói cho bền, chống mối. Ở vùng đồng bằng, gỗ được sử dụng phổ biến trong các kết cấu chính của công trình. Các công trình kiến trúc cổ đều làm bằng gỗ lim có thể chịu đựng khí hậu nhiệt đới qua nhiều thế kỷ. Loại cột có đường kính to nhất 70 - 80cm được coi là tiêu chuẩn chung của cột đình làng. Sử dụng gỗ trong kiến trúc liên quan đến “lối kéo cột” quen thuộc của từng vùng. Trung Bộ có lối nhà rội, nhà rường; Bắc Bộ có lối nhà chồng rường trên 3 hay 4 hàng cột. Những xà nhà lớn chồng lên nhau, có những “trụ non” hay “đất rường” ken vào kẻ tận cùng bằng “con cung” ở gần góc mái và thay thế vì kèo tam giác là một lối vì kèo không quen biết trong kiến trúc cổ truyền của người Việt. Kỹ thuật tinh xảo đã tạo nên những mộng vững chắc ở đầu cột, nhất là ở chỗ nối với câu đầu, kẻ ngồi và xà thượng. Vì kèo nọ giằng với vì kèo kia bằng một hệ thống xà (xà thượng, xà tứ); gần mặt tảng, các “địa thu” nối liền chân cột nọ với chân cột kia, tất cả tạo nên một bộ khung bằng gỗ tháo lắp dễ dàng và không biết đến một cái đanh nào bằng sắt”(4). Trong kiến trúc Việt cổ truyền, khung nhà hoàn toàn bằng gỗ thì tường ngăn cũng làm bằng những ván “liệt bản” nối liền nhau bằng những “đố búp măng” hay những đố gỗ lớn chạm trổ công phu. Đồ đất nung gồm những vật liệu làm từ đất, được chế biến và tạo thành phẩm khi qua lửa, có độ bền lớn và khả năng tồn tại lâu dài, được phân chia thành 2 loại chính: gạch xây tường (gồm cả gạch lát nền): gạch hoa, gạch trổ thủng, gạch chạm nổi; và ngói: ngói bản, ngói âm dương, ngói mũi hài/ vảy cá/ vảy rồng... Quá trình phát triển và kỹ thuật chế tác sản phẩm làm từ đất nung ngày càng cao thì kỹ thuật xây dựng của người Việt càng tiến tới hoàn thiện. Đồ đất nung đã trở thành một phần quan trọng trong kiến trúc Việt Nam. Các loại gạch có hình dáng khác nhau thì có những chức năng khác nhau. Gạch hình chữ nhật, được tìm thấy nhiều nhất và thường xây tường nhà, lát nền (vách mộ tại các ngôi mộ cổ). Kích thước của chúng thay đổi qua thời kỳ: thế kỷ I - VI có 3 cỡ: 50x25x6cm, 45x21x8cm, 28x13x7cm; thế kỷ VII - IX, kích thước gạch nhỏ hơn: 25x13x3cm; thế kỷ X: 30x16x4cm; thế kỷ XII - XIII: 38x19,5x6cm; thế kỷ XV-XVI loại gạch vồ màu đỏ hoặc xám: 43x25x10cm; 43x28x22,5cm; 38x17x11cm. Gạch múi bưởi (hình múi cam, hình lưỡi búa), thực chất là loại gạch hình chữ nhật nhưng một cạnh rìa được làm thu nhỏ hơn cạnh rìa đối diện từ 1 - 2 cm, có tác dụng cuốn vòm ở những cửa mộ, quách mộ hay cửa nhà, tạo độ cong tự nhiên. Gạch hình vuông, có hai mặt lớn hình vuông và chuyên dùng để lát nền, trước thế kỷ X nó có kích thước trung bình 25x25cm. Nhưng đến thế kỷ thứ X, gạch vuông, tìm thấy và phổ biến trong các vị trí kiến trúc của kinh đô Hoa Lư, có kích thước rất lớn: 35x35x6 đến 9cm. Gạch ốp tường có hình trang trí trên cả một mặt lớn và được xây ốp vào tường, ít có chức năng thực dụng. Khoảng thế kỷ thứ X, mới tìm thấy một viên gạch trang trí mặt người ở mộ Đầm Xuyên, một viên chạm nổi hình ác thú ở Luy Lâu (Bắc Ninh). Ở Tháp Nhạn tìm thấy những viên gạch ốp tường in hình ba vị Phật ngồi trên toà sen, chạm hình voi... có kích cỡ 28x15,5x5,5cm. Một số viên gạch đặc biệt có kết cấu khác với loại gạch thông dụng về kích thước lớn, được dùng trong các vị trí đặc biệt của kiến trúc. Những miền không được thiên nhiên ưu đãi, đất trộn rơm, trấu được sử dụng làm tường nhà hay hàng rào quanh vườn ở thôn quê. Đất lấy từ đồng ruộng, ao vườn trong khuôn viên sống, trộn với trấu, pha nước, nhào bằng chân hay để trâu dẫm nát rồi theo khuôn gỗ đắp từng lớp theo chiều dài của tường. Những ngôi nhà ở châu thổ Bắc Bộ có mặt tường trong nhẵn, quét vôi trắng, cùng với nhà bằng đất, có nơi láng một lượt vữa bằng vôi sò dưới mái rơm dày trên dưới 30cm, chống lại cái nóng bức của mùa hè và chống cháy rất hiệu quả. Vùng Nam Bộ, đất sét được dùng làm mái nhà, một lớp đất được đổ trên rui mè, rồi mới lợp một lớp mái gối lên trên (dày trên dưới 30 cm), làm thành một cái vỏ chống cháy. Trang trí trên gạch rất thường gặp ở loại gạch lát nền, ốp tường, chủ đề chính là dạng hoa cúc, hoa chanh. Sang đến thế kỷ XVI - XVIII là những trang trí hoa dây hình sin, hình chữ đinh, mảnh vây rồng hay râu rồng men xanh, vàng (thế kỷ XVII - XVIII). Loại gạch phù điêu thường dày và to, có viên nặng tới 50 - 60kg như gạch xây tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc). Tùy theo yêu cầu, công dụng và vị trí đặt gạch trong kiến trúc để tạo dáng đơn giản hay phức tạp cho công trình. Về nghệ thuật, các viên gạch được trang trí công phu trong bố cục cũng như họa tiết, hình tượng. Ngoài những viên gạch hoàn chỉnh, còn có những viên gạch mà tự thân nó không toát lên được vẻ đẹp nhưng khi phối hợp chúng lại với nhau đã tạo hiệu quả thẩm mỹ cao. Ngói là vật liệu tạo nên bộ mái, phần bao bọc quan trọng nhất của công trình. Trước thế kỷ thứ X, phổ biến nhất là loại ngói ống, còn gọi là ngói uyên ương (5), gồm 2 phần: phần dương (ngói ống) có hình ống tre hay ống nứa bổ đôi và ngói âm (ngói bản) hình lòng máng. Khi lợp, phần ngói ống úp xuống móc khớp với phần ngói bản lật ngửa. Loại ngói này còn có hai phần phụ, được sử dụng nhiều ở hàng ngói lợp hiên: đầu ngói và yếm ngói. Kết thúc hàng ngói ống là đầu ngói hình bán viên hay hình tròn. Kết thúc với hàng ngói bản lợp hiên là yếm ngói gần với hình tam giác. Đầu ngói ống được trang trí công phu hình hoa sen, dây cúc, mặt hề... Ngói mũi hài/ ngói mũi sen/ ngói dẹt/ ngói bản có tráng men màu, lợp trên mái trông như sóng gợn hoặc lớp vảy rồng/ vảy cá. Các công trình kiến trúc có niên đại sớm, những viên gạch được gắn bờ nóc đều có hình đầu rồng, phượng theo bố cục giống hình ngọn lửa. Tại khu Khải Thánh Văn Miếu (Hà Nội) đã phát hiện 2.063 mảnh gạch và ngói có dấu vết kiến trúc thời Lý - Trần rồi được tu bổ, xây dựng lớn vào các thời Lê - Mạc (6). Loại ngói uyên ương có niên đại trước thế kỷ X, nhưng vẫn được tận dụng, thậm chí có sản xuất (rất hạn hẹp) ở thời kỳ Lý - Trần. Tại khu di tích Lam Kinh (Thanh Hóa), dấu vết công trình kiến trúc có kết cấu 4 hàng chân cột với những cột sỏi gia cố chân tảng và những viên gạch trang trí hoa dây có niên đại thế kỷ XV - XVI. Nhiều gạch trang trí hoa dây, ngói mũi phong cách Kê Sơn, ngoài ra còn có hệ thống rãnh thoát nước lộ thiên. Ngói mũi màu vàng, gạch mũi nhô, tạo đơn giản (7). Ngói mũi - một dạng ngói thường gặp trong kiến trúc chịu ảnh hưởng Chăm. Thân ngói bẻ uốn cong vuông góc với thân thường cao 0,02-0,03m, tương tự độ dày của viên ngói, có màu đỏ nhạt hoặc màu vàng nhạt, độ cứng không cao (8). Đá là loại vật liệu thô sơ nguyên thủy đầu tiên được loài người sử dụng. Thời Lê sơ đã sử dụng một số chân tảng đá của thời Lý - Trần để xây dựng một nền móng khác (trong Hậu Lâu khu vực thành Hà Nội). Đặc trưng của chân tảng là hình khối vuông, giật 2 cấp: cấp mặt tảng tròn, chung quanh chạm 16 cánh sen thon dài và cấp bệ tảng hình vuông để trơn. Chất liệu chính là loại đá cát màu xám hoặc đá có màu trắng phấn. Ngoài ra, loại vật liệu đá còn dùng ở bộ phận làm hai cối cổng, có lỗ mộng tròn. Đá được sử dụng nhiều trong tạo tác các vật linh hoặc các tượng thờ, với những hình bờm lượn sóng, đuôi uốn lượn mềm mại, trở thành những hình tượng sinh động, đáng yêu. Đá sử dụng nhiều ở các công trình công cộng dân gian, điển hình là cầu, loại hình kiến trúc độc đáo, bền vững, có giá trị thẩm mỹ cao. Ví như Cầu đá Thọ Vinh (Hải Hưng), vật liệu xây dựng chủ yếu là đá xanh hạt mịn, độ rắn cao được làm ở 3 bộ phận chính là trụ cầu, dầm cầu và mặt cầu (9). Hay 10 cây cầu đá ở Hải Anh (Hải Hậu, Nam Định). Ở các khu di tích lớn (quần thể tập trung nhiều lăng mộ), đá được sử dụng trong các bộ phận hay công trình cụ thể như bậc thềm, chân tảng, cột, mi cửa hay lớn hơn là các toà thành. Ở loại hình này, chức năng cơ bản của nó là tính bền vững cao. Tường thành nhà Hồ, xây bằng đất nện nhưng bên ngoài được bao bởi lớp tường đá tảng nặng trên 15 tấn. Hệ thống cổng thành xây bằng đá xẻ dạng cuốn tò vò nay vẫn đứng vững. Đá phong phú về chủng loại: đá vôi, đá ong, đá xám... nhưng được ưa chuộng nhất vẫn là loại đá xanh làm chân tảng, bệ thờ. Dân gian ưa đá ong vì tính năng mềm, dễ tạo dáng, có khả năng chống chọi với thiên nhiên, dùng để xây móng đình đền chùa, làm tường nhà, cổng nhà, thậm chí còn sử dụng trực tiếp trong việc xây nhà. Đá ong dễ tạo được thẩm mỹ chung cho công trình, không cần đến một loại vật liệu phụ nào bao che bên ngoài, tự thân nó đã toát lên vẻ đẹp qua thời gian. Những lăng mộ ở các tỉnh phía Nam được xây khá nhiều bằng đá ong, cắt gọt theo những hình trang trí dân gian, kết hợp khéo léo với vật liệu đá vôi sắc cạnh, nhẵn mặt và chạm gờ chỉ, hoa lá. Loại đá này nằm dọc vùng biển miền Trung Bộ cũng được sử dụng xây tường. Khi còn ở dưới đất, đá mềm có thể dùng mai sắn ra, gặp không khí nó trở nên rắn chắc. Những ngôi nhà dân gian, các công trình tôn giáo ở Bắc Bộ là nơi ta bắt gặp nhiều nhất dạng đá này. Thành Sơn Tây xây thời Nguyễn được ốp bằng đá ong. Lăng Nguyễn Diễn ở Bắc Ninh xây toàn bằng đá ong màu nâu thẫm. Các loại đá cuội, đá dăm được dùng để gia cố nền móng như móng chùa Lạng, móng tháp Chương Sơn, mộ Lê Lan Xuân (Tam Nông, Vĩnh Phú); đá hộc dùng để lát nền như mộ Thái sư Lê Văn Thịnh (Bắc Ninh); các loại đá núi lớn dùng để bó kè các bậc thềm với kích cỡ rất lớn (60x50cm), như nền chùa Dạm, chùa Phật Tích gồm 4 tầng rộng hàng nghìn mét vuông. Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh còn dùng nhiều đá để xây bó vỉa thềm nhà, các viên đá đều có hình tròn được gia công nhẵn, mặt trước chạm rồng, có xẻ rãnh để bưng ván gỗ. Đá được dùng khá phổ biến để kê chân cột ở các công trình kiến trúc. Các chân đá tảng phổ biến là hình khối hộp vuông chạm hoa sen. Trong các công trình kiến trúc tôn giáo, ngoài việc làm chân kê nó còn được dùng làm cột. Đôi khi được làm cầu nhỏ hay xây tháp (chùa Tức Mạc); làm tường kè như ở chùa Dạm hoặc lan can có mảng điêu khắc như ở chùa Bút Tháp... hết thảy đều sống động, tinh xảo. Các lan can vịn, bậc cấp cũng được làm bằng đá (thời Lý). Đá được gia công thành nhiều kiểu loại khác nhau. Đá bó nền tháp, khối hình chữ nhật hoặc chỏm tháp năm cạnh, hai tầng trong lõm vát hình vòng cung. Đá bó bậc lên xuống, hình hộp chữ nhật, hình thang vuông có chạm sóng nước. Đá chèn bậc hình hộp chữ nhật. Tay vịn thành bậc hình thang vuông chạm tiên nữ dâng hoa. Đá bó các tầng và thân tháp hình hộp chữ nhật tiết diện vuông. Đá ghép tường tháp gồm các loại hình vuông, hình hộp, hình tròn, hình lá đề, mặt ngoài có trang trí, mặt trong có chuôi hoặc thân gia công qua loa để gắn với thân tháp. Đá ghép cửa tháp, như mi cửa, trụ cửa, chân, thân cửa, mặt trên cửa cuốn có nhiều dáng: hình hộp, hình vành khăn, hoặc kết hợp với nhau tạo vòm cửa được uốn cong. Các loại đấu để đỡ xà cũng có đuôi gắn vào thân tháp, mặt trên tạc liền khối các hình tượng chim thần, nữ thần chim hoặc đầu rồng ngậm đấu. Kim loại, trong các công trình kiến trúc cổ, ít được sử dụng, có lẽ do tính chất đặc thù của nó. Tại khu di tích Lam Kinh đã phát hiện ra những chiếc đinh sắt dùng để liên kết kiến trúc. Nó được sử dụng nhiều hơn vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhất là sau ảnh hưởng của kiến trúc Pháp. Dân gian sử dụng các đinh nhỏ trong liên kết các cấu kiện (rất hiếm hoi vì các cấu kiện đều tra mộng, thậm chí đinh chốt làm bằng gỗ). Đầu đao của mái có dùng một mảnh sắt hình giống đầu lưỡi cày thay vì trước đây người ta phải đúc hay nung gốm. Ở giai đoạn sau, kim loại được kết hợp với các vật liệu khác tạo thành các vật liệu hỗn hợp có nhiều công dụng và độ bền cao. Sơn, ở các công trình kiến trúc cổ, được sử dụng có phần hạn chế. Người ta tận dụng ngay màu sắc của vật liệu gốc. Ví như mái thì tận dụng màu đỏ của ngói; các hàng chân cột để nguyên đúng màu gỗ hay sử dụng nền đất nện. Vật liệu dân gian thường dùng là sơn ta và sơn son thếp vàng (phổ biến trong các công trình tôn giáo tín ngưỡng), đáp ứng yêu cầu về màu sắc trang trí hơn là bảo vệ gỗ. Tuy nhiên, sơn ta cũng có tác dụng chống ẩm và bảo vệ gỗ rất tốt. Vôi, sử dụng chủ yếu là nguyên màu gốc, có độ bền tốt, nhưng không có màu sắc sặc sỡ, chủ yếu là màu trắng và màu vàng. Màu trắng của vôi được pha cùng các phụ gia khác được lấy từ cây cối, hoa lá. Những chất kết dính khác cũng được sử dụng khá linh hoạt. Khi những vật liệu hiện đại như xi măng chưa xuất hiện thì ông cha ta đã sử dụng một thứ vữa được chế bằng phương pháp thủ công, nguyên liệu mang đặc thù của địa phương. Ví như ốc vặn đốt thành than luyện với vỏ cây dè rớt, hoặc dùng mật luyện kỹ với vôi vỏ sò. Vùng Nghệ An dùng vỏ hến rây kỹ, trộn cát, thâm mật xấu, giấy bản ngâm ướt hay rơm nếp và trộn với nhựa lá cây bớt lời. Mật, đường lấy từ mía, người ta đã làm một chất dẻo để nặn phù điêu rồng phượng, hoa đá trang trí những cột trụ hay hình lưỡng long chầu nguyệt ở chùa. Chất dẻo này cũng để nặn những hình khối mềm mại, đổ khuôn sản xuất hàng loạt chi tiết trang trí, khi khô rất rắn, có thể chịu nắng, mưa. Có nơi lấy cơm nếp trộn với gạch non tán nhỏ rây kỹ cùng với lá khoai luyện thành một thứ vữa gọi là “sơn man”, thường dùng để gắn áo quan, cũng có địa phương quen dùng cơm nếp nát nấu với nhựa thông. Ngoài ra, cát, đất sét và chất kết dính cũng là những vật liệu được sử dụng thường xuyên trong việc xử lý nền và kết nối gạch, đá. Thành công của nghệ thuật kiến trúc Việt đó là tính sáng tạo trong việc vận dụng các nguyên liệu sẵn có sự hoàn thiện vật liệu khi sử dụng với trình độ kỹ thuật cao, khắc phục những điều kiện tiêu cực của khí hậu nhiệt đới. Song, cùng với truyền thống đó phải kể đến kết quả của quá trình tiếp thu, dung hợp những sáng tạo của các nước mà từ lâu văn hóa Việt Nam đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc. Có thể thấy những dấu vết văn hóa ngoại lai trên vật liệu xây dựng từ cổ truyền cho đến hiện đại. Dấu ấn của văn hóa Trung Hoa khá sâu đậm trên các hiện vật gốm, gạch, đá và đặc biệt là trang trí kiến trúc. Từ một số cấu kiện, kết cấu, bố cục, hình khối đến kỹ thuật chế tác, kỹ thuật lắp dựng cũng được người Việt học hỏi nhưng đã cải biến và uốn nắn lại, do đó mang sắc thái riêng. Các môtíp và biểu tượng trang trí được thể hiện dưới dạng đất nung hay những trang trí trên kết cấu công trình ít nhiều mang phong cách Chăm, Ấn Độ. Nhìn chung, các vật liệu cũng như kiến trúc thời Lý - Trần chịu ảnh hưởng của hai luồng văn hóa này rất sâu đậm. Kiến trúc stupa Ấn Độ thường có một cột gỗ cách điệu bằng hình tượng hoa sen (nguyên tắc được lưu giữ ở kiến trúc chùa Một Cột). Cuộc hội ngộ với văn minh phương Tây đã làm cho kiến trúc Việt Nam có sự chuyển mình sâu sắc. Ngoài việc tận dụng những vật liệu sẵn có, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong phong cách kiến trúc Đông Dương, người phương Tây (đặc biệt là người Pháp) đã có công hoàn thiện thêm những chất liệu đó. Sự kết hợp các vật liệu truyền thống thô sơ, gặp rất nhiều ở những công trình cổ, cũng được lặp lại khá độc đáo ở những loại hình kiến trúc mới. Rõ rệt nhất là sự “chung đụng” rất hiệu quả giữa vật liệu xây mới và vật liệu truyền thống, làm bộ mặt kiến trúc hứng khởi, rạng rỡ hơn, hiện đại mà vẫn phù hợp với môi trường. Trải rộng trong không gian và kéo dài theo thời gian, những công trình kiến trúc dù có hình thức, chức năng, nội dung sử dụng khác nhau nhưng khởi nguyên đều bằng những nguyên liệu có nguồn gốc bản địa. Đá, gỗ, gạch và các vật liệu hoàn thiện hơn đã được con người biến thành công trình mang tính nghệ thuật cao với kinh nghiệm chắt lọc kết hợp với kế thừa, tiếp thu những sáng tạo và khoa học kỹ thuật mới. T.H.V Chú thích: 1, 2. Tạ Đức, Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc, biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn. 3. Dấu tích ngôi nhà sàn đầu công nguyên, Những PHMVKCH 1998. 4. Ngô Huy Quỳnh, Đặc trưng kiến trúc Việt, T/c Dân tộc học số 1/1980. 5. Theo cách gọi của HS. Trần Khánh Chương 6. Khu Khải Thánh Văn Miếu Hà Nội 9-1999 7. Trịnh Ngữ, Lê Huy Lạng, Nguyễn Văn Đoàn, Khai quật Thái Miếu thuộc trung tâm di tích lịch sử Lam Kinh, Thanh Hóa, Những PHVMKCH 2000, tr.329-330. 8. Lê Đình Phùng, Tống Trung Tín, Ngói mũi lá của ChămPa. 9. Tống Trung Tín, T/c KCH số 3-1982. Nguồn:http://daitangkinhvietnam.org/van-hoc-va-nghe-thuat/kien-truc-phat-giao/
-
Cảm ơn sự hồi đáp của anh duyphu75, anh cứ gọi Thiên Đông theo như phép xã giao là được. Nhà anh tuy lớn vậy nhưng nhìn theo công năng sử dụng bố trí có phần hơi phí và nhìn theo phong thủy thì thật xấu. Bây giờ điều nhất thiết nhất là phải chuyển bếp đi chổ khác, còn chổ nào thì Thiên Đồng chưa nghĩ ra vì nhìn đi nhìn lại để đâu cũng phạm. Nhà này chỉnh lại chắc hơi rắc rối một chút, nhất là động đến thói quen sinh hoạt của người trong gia đình. Nhà này mà đụng tay vô không khéo thì hơi mệt đó. Theo sơ đồ thì anh ở cũng gần với nơi sư phụ Thiên Sứ, vậy là cũng thuận tiện, anh nên nhờ Sư Phụ Thiên Sứ tư vấn thì chắc cú hơn. Về chùa Hoàng Pháp, hôm triển lãm Phật Ngọc Hòa Bình, TĐ có ghé qua, nhưng chen chút hơn nêm thành ra không để ý pheng sủy ở đây thế nào. Nhưng cũng thắc mắc chùa này có yếu tố gì không mà sao là nơi được chọn để rước một lễ trọng như vậy? Vậy phải xét thêm nhiều yếu tố khác. Túm lại, " cẩn tắc vô ấy nấy", tùy anh, anh nên chọn thầy tư vấn thiệt giỏi để đưa ra giải pháp tối ưu nhất. Thiên Đồng xin dừng ở đây như một câu chuyện trao đổi. (Vì phải bận đi thả diều. Hihi) Thiên Đồng
-
Như vậy theo lời Sư Phụ thì Giờ Vinh danh nền Văn Hiến Lạc Việt 5000 năm đã điểm và nguồn gốc Lý học Đông Phương thuộc về nền Văn Hiến Lạc Việt dần được minh khai. Chúc mừng Sư Phụ đã có buổi tọa đàm thành công.
-
Nhà này hướng Đông Nam hợp với người cha mạng Cấn là Sinh Khí, theo Phong thủy Lạc Việt. Nếu theo sách Tàu thì Tuyệt Mạng. Vì chỉ cho biết chiều ngang mà không có chiều dài nhà nên việc xác định cũng có phần hạn chế. Nói chung, nhà này nằm ở khu vực Âm khí vượng, nội bộ bên trong nhà Âm khí cũng vượng, tạp quá nhiều và Dương khí không tụ. Những nơi cần tụ khí thì gần như vô khí. Có phải vợ chồng duyphu75 đang ở phòng 2 phải không ? Thành viên trong nhà này dể nóng tính và bất hòa, hay cự cải vặt hoặc dể hờn mát? Những người nào ở trên gác cũng dể nổi cáu, hay uể oải, ngủ không muốn dậy, dể nhiễm bệnh cảm mạo, viêm họng, viêm mủi? Xin hỏi bên lề, khu vực những nhà ở phía sau nhà duyphu75, tức khu vực có 2 hẻm cụt đa số là các hệ nghèo? Còn nếu nhà cửa khang trang đều xây liên kế thì những hộ này cũng không thuộc loại khá bằng các hộ ở ngoài? Và khực này thường không an ninh bằng khu ngoài? Chùa Hoàng Pháp này trong quá khứ chắc cũng nhiều tai tiếng thị phi? Đa số các đời trụ trì chùa đều không trụ lâu? Cha 1929, mạng Cấn duyphu75 mang Ly (theo sách Tàu là Đoài) Vợ 1981 mạng Cấn. Làm gì thì làm, hai vợ chồng mà có nhà riêng thì chỉ theo tuổi Chồng, tuổi vợ thì...quên đi. Ông bà đã nói " Thuyền theo lái, gái theo chồng" là vậy đó. Phong thủy theo tuổi chồng được tốt thì vợ mới tốt lây. Thiên Đồng.
-
TRÍCH TỪ SÁCH : "HỒNG VŨ CẤM THƯ" LỊCH SỬ (Trích trong sách Hồng Vũ Cấm Thư của Dương Quân Tùng, dịch giả: Nguyễn Văn Minh) Hồi ấy, đương khi Hồng Vũ yến ẩm, các vương tước ở trong bảo điện nghe tiếng người Châu Bắc – Đôi là ông Lý Bá Truyền tinh thông địa lý, Vua liền mời ông vào bệ kiến. Vua dụ rằng: “Ta nghe ngươi rất giỏi về môn Địa Lý, vậy ta mong ngươi hết sức giúp ta, chớ vì điều lợi nào mà đổi lòng”. Ông Lý Bá Truyền lạy tạ, thưa rằng: “Thần là một người quê mùa ở đất Bắc – Đôi, Trước theo học ở Kinh Giang, một hôm vào chúa Hoa Kinh ở trên núi Đôi Châu, thấy có một quyển sách nhan đề là: Địa Lý Diệu Ngữ Thần Kinh, thưa đấy là do ý Trời sai khiến để giúp nhà vua” Lý Bá Truyền ở bên vua biên tập một cuốn sách bút kí bao la. Vua lấy làm vừa ý, mới đề mục rằng: Một thiên đại lục. Xong phong cho Lý Bá Truyền là Tỉnh An tiên sinh, cho cả mũ áo chức Ngự sử. Thời bấy giờ thuộc niên hiệu Hồng Vũ, năm Canh Tý, tháng Thân, giờ Thìn. CÁC THẾ ĐẤT LÀNH CÁC THẾ ĐẤT PHÁT TRẠNG NGUYÊN, PHÁT GIÁP KHOA, CHÍNH KHOA, THẾ KHOA, KHOA DANH Trước khi đi vào các thế đất cụ thể sau này, cần lưu ý đến một số điểm sau: 1. Các thế đất này là thế đất tự nhiên, được hình thành theo quy luật Thiên - Địa nào đó. Nếu có thể cho phép đi xa hơn theo một kiểu ngoại suy nào đó từ nhân thể, thì Mặt Đất – cũng giống như hình thể con người - phải có những chỗ lồi, chỗ lõm, những chỗ “phát, nhận” năng lượng từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong…Các chỗ lõm này phải tuân theo các quy luật xác định, nhằm bảo vệ, duy trì sự tồn tại của con người hay Quả Đất. Ngày nay, một số thế đất tự nhiên đã bị san bằng - tại các thành thị chẳng hạn- và chủ yếu chỉ còn lại ở các vùng đồi núi, cao nguyên, các vùng con người chưa hề đặt chân tới. Tuy nhiên, con người trong thế kỷ sau sẽ trở lại với thiên nhiên một phần nào, hạn chế phần nào sự phá phách Thiên Nhiên của mình, và từ đó một phần nào sẽ sống trong bối cảnh Thiên Nhiên sẵn có với các thế đất của nó. Trước mắt, có thể quan sát các thế đất của tổ tiên nhiều đời. Theo thống kê của Pháp (Raymong Réant) thì hài cốt tổ tiên còn ảnh hưởng đến người sống trong 600 năm. 2. Trong phần tiếp theo sau đây, có một số thế đất có dạng đặc biệt, như dạng cái bút (có đầu nhọn). Cổ nhân xem đây là biểu tượng của khoa bảng, của sự thành đạt trong thi cử…Nếu đối chiếu với nền văn minh hiệnđại, thì biểu tượng của khoa bảng không chỉ là cái bút kiểu xưa mà còn phải là cái bút bi hay cái máy vi tính! Thành thử cần hiểu các thế đất sau đây như thế nào, khi có xuất hiện hình bút? Để tôn trọng văn hoá truyền thống, chúng tôi vẫn giữ lại ý nghĩa biểu tượng khoa bảng của thế đất hình bút.(tác giả xin trân trọng cảm ơn anh Trần Xuân Hiến đã giứp đỡ tác giả trong việc dịch một số tư liệu từ tiếng Trung Hoa sang tiếng Việt). Các thế đất lành ĐẤT PHÁT CỰ PHÚ TẦM LONG TRÓC MẠCH Nguyên khí còn gọi là Long, Như đã nói trên đây, Long là một dạng Khí Tiên thiên, có tác dụng rất cơ bản đến sự sống các sinh vật. Vấn đề là tìm nơi tụ Long. Để làm việc này cần tìm gốc của Long. Trước hết Nguyên khí hay Khí Thiên giáng từ Trời xuống các đỉnh núi cao theo hình xoắn, như đỉnh núi Hymalaya, núi Tản Viên, núi Tam Đảo… Con Người có đầu và huyệt Bác Hội để nhận (hút) khí Thiên vào trong cơ thể mình, thì Quả đất có những đỉnh núi cao cũng để nhận khí Thiên vào lòng đất đai. Nơi Long xuất phát gọi là Tổ Sơn, nơi Long kết thúc gọi là Minh Đưòng. Long phải có nước đi theo, vì nước là môi trường hấp thụ Long (ở nhiều nước, các nhà khoa học có nghiên cứu các đặc tính của nước có Trường sinh học, tức là có Long. Nước có chứa Long có sức căng mặt ngoài tăng lên). Ngoài Tổ Sơn, Long còn có thể có những xuất phát điểm khác gọi là Thiếu Sơn. Như với Nguyên khí – Long mang theo bởi dòng Cửu Long Giang thì Hymalaya là Tổ Sơn, còn dãy Trường Sơn là Thiếu Sơn. Như thế đất nước ta là một Minh Đường rộng lớn mà Nguyên khí được cung cấp bởi hai loại anten lớn là Hymalaya và dãy Tràng Sơn. Nguyên khí - bằng một cơ chế nào đó - được chuyển đến nhiều địa điểm khác nhau của đất nước ta như Núi Ba Vì và các nơi thờ Thánh Tản Viên , Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Thất Sơn, Yên Tử Sơn… ĐIỂM HUYỆT Các hình thể huyệt kết Có bốn hình thể huyệt kết như sau: Huyệt hình Oa thì tròn, huyệt hình Kiềm thì dài, huyệt hình Nhũ thì tròn, huyệt hình Đột thì dài. Các huyệt Oa và Kiềm thì phần nhiều ở chỗ có mạch sơn cước (ở núi đồi). Các huyệt Nhũ và Đột thường ở chỗ các mạch bình dương (ở những nơi có các độ cao chỗ thấp ít khác nhau, như ở các ruộng). Các huyệt trên còn gọi là kết Oa, kết Kiềm, kết Nhũ, kết Đột. Huyệt ở chỗ quá cao thì sát, ở chỗ quá thấp thì yểu. Nơi núi cao, cần điểm huyệt ở nơi vùng thấp, để tránh gió, do ở nơi cao gió sẽ tán khí. Trái lại ở những nơi bình dương, cần điểm huyệt ở chỗ cao nhất, như tại các gò cao, tránh thuỷ phá. Nếu có sắc thổ đẹp, có cây lá xanh tươi thì việc điểm huyệt ở nơi đó càng tốt. Những nơi bằng phẳng, xung quanh cs thành cao là nơi điểm huyệt tốt. Ở những núi đá không có huyệt. Nhưng nếu ở đó có chỗ vũng Oa thì nên điểm huyệt ở đó. SƠN THUỶ PHÁP Sơn thuỷ pháp là cách xem tướng đất để biết về người có liên quan. Sơn chủ người, thuỷ chủ tiền của. Núi đầy đặn sẽ sinh người mập mạp, núi đơn bạc sẽ sinh người gày ốm. Núi tinh sinh người tốt giỏi, núi ô trọc sinh người u mê. Thuỷ tĩnh thì sinh người thanh tú, thuỷ chảy xiết thì sinh người nghèo khổ. Thuỷ dồn tụ thì sinh người giàu có. Sơn lởm chởm là nơi có ác khí. Thuỷ chảy kêu réo là nơi hung. Có sơn nhưng không có thuỷ gọi là cô sơn. Có thuỷ nhưng không có sơn gọi là cô thuỷ. MINH ĐƯỜNG THUỶ PHÁP Chỗ nước tụ trước huyệt gọi là Minh Đường. Có thể có một hay nhiều Minh Đường. Minh Đường gần huyệt nhất gọi là Nội Đường, Minh Đường xa huyệt nhất gọi là Ngoại Đường, Minh Đường ở giữa gọi là Trung Đường. Có Minh Đường mới có huyệt kết, nếu không thì sẽ không có huyệt kết. Minh Dường ngay ngắn thì con cháu hiền tài. Minh Đường nghiêng lệch thì con cháu du đưng, nghèo khó. Minh Đường có nước tụ như nhà có chứa ngọc, còn Minh Đường có nước tiêu tan thì như nhà tán tài, điều đáng sợ nhất là Minh Đường có thể cạn nước về mùa thu. Minh Đường nằm nghiêng thì tuy là quan được nhưng trước sau cũng bị cách chức hay thoái chức. Minh Đường gần huyệt thì phát sớm. Minh đường xa huyệt thì phát chậm. Minh đưòng thụ nước bên trái thì trai trưởng phát trước, tụ bên phải thì trai thứ phát trước (còn nữ thì sao?) Nếu nước chảy từ Tây Bắc đến Đông Nam, thì cần cho huyệt hướng về phía nước tới, tức là về phía Tây Bắc, để hứng được tất cả nước từ xa đến. LONG HỔ PHÁP Xung quang huyệt có thể có những giải đất bao bọc huyệt, bảo vệ huyệt như chân tay bảo vệ cơ thể. Giải bên trái gọi là Thanh Long hay Long, có nam tính. Còn giải bên phải gọi là Bạch Hổ hay Hổ và có nữ tính (trai trái gái phải). Long cần phải dài, Hổ cần phải ngắn. Long, Hổ có ảnh hưởng tốt hay xấu đến con cái. Chẳng hạn Long chủ sinh con trai, văn quan, Hổ chủ sinh con gái, vũ tướng. Nếu Long (nam) ôm lấy Hổ (nữ) thì địa thế rất quý. Còn nếu Hổ (nữ) ôm lấy Long (nam) thì địa thế không hoàn chỉnh. Nhiều Long, nhiều Hổ thì phát nhiều đời. Đơn Long, đơn Hổ thì chỉ phát một đời. Hổ từ bên phải đến, kéo dài qua bên trái là Hổ nghịch. Long từ bên trái kéo dài qua bên phải là Long nghịch Điều kị nhất là Long quay lưng lại, còn Hổ thì lại vươn đầu lên, gia đình sẽ sinh nghịch nhân. HUYỀN VŨ PHÁP Huyền Vũ là đồi, núi ở đằng sau huyệt. Huyền Vũ tròn hay vuông thì gia đình giàu có và thọ. Kiêng kỵ: Huyền Vũ thấp mỏng, bị gió thổi. Huyền Vũ không được thô và lấn át huyệt. (Châu Tước là các gò đống ở trước huyệt) ÁN SƠN PHÁP Án có nghĩa là một địa thế, như một bán giấy ngồi trước mặt người ngồi. Án không nên quá cao hoặc quá thấp. huyệt gần án thì phát nhanh hơn là khi xa án. Cổ nhân xem huyệt là chủ, án là khách, khách chủ tương kính nhau mới là tốt. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẤT CẦN BIẾT Đất màu sắc hồng hoàng, sáng tươi, mềm dẻo, nửa nạc nửa mỡ thì tốt. Đất đen, khô, rời vụn thì xấu, không có khí mạch. Đất ngạnh, có đá cứng thì rất hung. Nếu cả vùng đất đều bình thường như nhau, chỉ có một chỗ khác mịn, tươi hơn thì đó là đất tốt. Đất khi khai huyệt có sinh vật như rùa, cá – tinh thuỷ của Thiên Địa – là đất tốt. Trái lại, đất có rắn, chuột, sâu bọ, kiến là đất xấu. SƠ ĐỒ ĐỊA LINH NƯỚC VIỆT TỔ SƠN: Hy Mã Lạp Sơn (Nguyên Khí đi theo sông Cửu long) THIẾU SƠN: Dãy Trường Sơn (Nguyên khí đi theo song Cửu Long) ĐỊA LINH CHÍNH ĐỂ DỰNG CÁC THỦ ĐÔ: Thăng Long (Rồng thăng), cố đô Huế MINH ĐƯỜNGTHANH LONG, BẠCH HỔ: Biển Đông với chỗ thuỷ tụ của nó ÁN: Có người cho rằng án của Việt nam chính là Philippines (Nguyễn Việt Cường) http://thanhtanvien.com/bavi
-
Làng Mộ Trạch: Làng có 36 tiến sĩ (Thứ Năm, 08/01/2009-9:04 AM) Nhà Bia Làng Mộ Trạch (xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) nơi có 36 Tiến sĩ Nho học triều Lê và có nhiều di tích cổ - một làng xưa của hai họ Vũ, Võ. Các di tích văn hóa cổ Làng Mộ Trạch có từ giữa thế kỷ thứ IX, được một nhân vật lịch sử Vũ Hồn (804-853) thành lập cách nay 1155 năm, nơi còn bảo tồn được các di tích văn hóa và lịch sử cổ đáng tham quan, chiêm bái. Ngay đầu làng có cổng Tam quan, đi vào khoảng 50, 60 mét là ngôi Cổ Miếu có kiến trúc thời Nguyễn, giữ lại được hình dáng kiến trúc, hệ thống cột, kèo, đòn tay, xà, mái theo đúng nét xưa. Bên trong ngôi Cổ Miếu là Hậu cung, nơi có tượng Thần tổ đặt trong một hộp kính, cao chừng 1,8m, ngang 1m, khung kính 3 mặt, sơn son thếp vàng lộng lẫy, uy nghi, tất cả đều có hoa văn chạm trổ hết sức tinh vi và mỹ thuật. Phía trên cao, dưới mái trong Cổ Miếu có một tấm bảng gỗ sơn mài màu đỏ khắc 3 chữ thếp vàng rất lớn: Vạn Thế Trạch (Ơn Muôn Đời) và một tấm bảng nền vàng ánh tươi, có khắc 4 chữ sơn đen bóng: Thủy Tồ Linh Từ (nơi thờ vị Tổ đầu tiên linh thiêng). Dưới là một cửa võng chạm khắc rồng phượng, hoa, lá, mây. Hậu cung cũng bài trí nhiều đồ thờ. Xưa chỉ có ông Thủ từ và các cụ chức sắc trong Tư Văn làng có nhiệm vụ mới được vào Hậu cung. Rời tòa Cổ Miếu, bước ra, hai bên là hai giếng nhỏ mắt Rồng ở hai phía tả, hữu, có lan can trụ đá, bao quanh rộng chừng 8m đường kính. Đi sâu vào trong là là một tòa nhà hoành tráng ngang rộng khoảng 20 mét, sâu chừng 8-10 mét, có hai tầng mái lớn rộng, 4 mái uốn cong có đầu đao 8 góc. Đó là Nhà Bia cao hơn sân chừng 60cm, có một bia đá ghi hai mặt: Hán tự và Quốc ngữ, cao 2m rộng 1m, nội dung ghi tiểu sử và công đức vị Thần Tổ họ Vũ. Lễ hội làng Tiến sĩ Nho học Lê triều Nơi đây mỗi năm tổ chức Lễ hội Đại Kỳ Phúc “Làng Tiến sĩ Nho học Lê triều” rất đông vui nhưng cũng rất trang nghiêm, trước sự thành kính của hàng ngàn con cháu, các chi phía họ Vũ, Võ trong làng và các nơi tấp nập về chiêm bái. Lễ hội làng này, có rước kiệu rồng, trên ngai cao có mũ, áo, hia màu vàng tượng trưng cho Vũ thần – ông tổ của làng. Đám rước từ Miếu ra Đình làng ở mé giữa làng, đi về hướng Nam cách xa khoảng 400 mét, để các chức sắc, bô lão trong làng làm lễ tế Thành hoàng. Đám rước có kiệu Rồng với 8 trai làng áo chẽn đỏ cùng khiêng, đầu chít khăn đỏ. Hai bên có che hai cái tán ở trên Long ngai. Đi đầu có bát bửu lộ-bộ, cờ, quạt và đi trước kiệu Bát cống, có một cụ già áo thụng đỏ cầm cái “trống khấu” gõ làm cối. Các bà, các cô, các cụ già đứng hai bên đường, chấp tay thành kính khi “Kiệu Thánh” đi qua, vái lia, vái lịa, miệng lầm bầm suýt soa khấn cầu Thành hoàng phù cho quốc thái dân an, làng xóm làm ăn ấm no hạnh phúc. Đoàn rước đi chậm theo tiếng nhạc bát âm, đàn, sáo, kèn, chiêng, trống, du dương, réo rắt vui tươi, nghiêm trang, kính cẩn. Cảnh quan thật lạ mắt. Đình làng Mộ Trạch là một kiến trúc triều Hậu Lê, đã được sữa chữa nhiều dưới triều Nguyễn. Đó là một kiến trúc 5 gian rộng, nằm ngang khoảng 15m. Ngôi Đình gỗ lim, mái ngói, hoành tráng, tọa lạc trong một khuôn viên, kể cả sân trước, vườn sau rộng khoảng hơn 3000m2. Kiến trúc Đình này vẫn giữ nguyên trạng lối cổ xưa hình chữ Nhất nhìn từ phía trước. Đình Mộ Trạch cũng bề thế có nhiều hoành phi, câu đối thờ và bảng mục lục, chữ nghĩa văn hoa, bóng bảy và uyên bác. Toàn bằng chữ Nho xưa đủ lối thư pháp cổ: chân, thảo, triện, lệ. Hàng năm, có tổ chức tế lễ cúng Thành hoàng ở Đình làng cho toàn thôn dân đến dự lễ. Năm nào vào Đám tức Lễ hội Đại Kỳ Phúc, thì phải tổ chức rước kiệu Rồng Bát cống, Long ngai, mũ, áo, hia, Thành hoàng từ Miếu ra Đình. Xong Lễ, lại phải rước Ngai Thành hoàng trả về Miếu. Đình chỉ có chức năng họp việc làng là chính và tế lễ Thượng, Hạ Điền tứ thời bát tiết và các nghi lễ dân gian mà thôi. Giếng tiên giúp làng học giỏi Ở làng Mộ Trạch có một cái giếng rất độc đáo, gọi là giếng chùa Diên Phúc (Diên Phúc tỉnh tuyền) là một giếng cổ, nước trong sạch, ngọt và mạch nước lúc nào cũng tuôn chảy, từng nuôi sống hàng ngàn dân làng trong suốt hơn 1150 năm qua. Giếng khơi này tròn, rộng hơn 50 mét đường kính. Tương truyền, thuở xưa phu nhân ngài thủy tổ Vũ Hồn đã cho người đào giếng này, lấy nước sạch, trong để dân sống ở “Trang Khả Mộ” dùng hàng ngày. Người dân trong vùng tin tưởng rằng “Nho sĩ Mộ Trạch thông minh, học giỏi là nhờ uống nước giếng có long mạch tốt, nên mới đỗ đạt nhiều: “Hàng trăm ông Cống, một đống ông Nghè, một bè Nho sĩ, một bị Thượng Thư…”. Đến nay giếng cổ còn đó, nước đầy quanh năm suốt tháng, có 9 bậc đá xanh bước xuống giếng này lấy nước ăn uống cho cả làng. Hàng năm, vào mùa thi Trung học, Đại học, nhiều người duy tâm đã mang can nhựa, bình lớn cầu khấn Thần tổ Vũ Hồn và cầu xin 36 ông Tiến sĩ xưa của làng phù hộ cho con em. Rồi người ta đem các can, lọ, bình nước giếng cổ về nhà cho con cái uống. Mong rằng trong tương lai, làng Mộ Trạch sẽ trở thành một làng văn hóa du lịch, thu hút đông đảo du khách. Cự Vũ http://www.baodulich.net.vn/Story/vn/vedep...009/1/3388.html
-
Làng nhân tài “độc nhất vô nhị” ở Việt Nam 2/14/2009 3:17:00 PM “Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ” (tạm dịch: một làng Mộ Trạch tài bằng nửa cả nước), đó là lời khen ngợi của vua Tự Đức về sự học ở làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Đây là làng nhân tài, làng tiến sĩ “độc nhất vô nhị” của nước ta, với 36 tiến sĩ đại khoa, kể từ thời nhà Trần đến thế kỷ XVIII. Theo tư liệu lưu giữ, trải qua nhiều thế kỷ, từ triều Trần qua triều Lê, Mạc đến thời Vua Lê, Chúa Trịnh, luôn luôn có các bậc anh tài làng Mộ Trạch mà trong đó đa phần là ruột thịt dòng họ Vũ, từng ra vào giáp mặt nhau như "cơm bữa" tại triều đình. Tiếng tăm khoa bảng Mộ Trạch, đời đời đã khẳng định qua câu phương ngôn: “Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm” (tên cúng cơm của làng Mộ Trạch). Làng cũng là nơi "chôn nhau cắt rốn" của Trạng Cờ Vũ Huyến, Trạng Toán Vũ Hữu, Trạng Vật Vũ Phong, Trạng Chạy Vũ Cương Trực và Trạng Chữ Lê Nại. Mở đầu trong "Bảng vàng tiến sĩ" của làng Mộ Trạch là hai anh em ruột Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi, cùng đỗ thái học sinh năm Giáp Thìn (1504) triều vua Trần Anh Tôn. Còn đáng nhớ nhất là khoa thi năm Bính Thân (1656) dưới triều vua Lê Thần Tôn, triều đình có 300 thí sinh dự thi nhưng chỉ lấy lấy có 6 người. Vậy mà làng Mộ Trạch đã chiếm tới ba người và cả ba người này cùng rất trẻ chỉ từ 21 đến 23 tuổi đó là: Vũ Trác Lạc, Vũ Đăng Long và Vũ Công Lương. Sau đó 3 năm, khoa thi năm Kỷ Hợi, 4 trong số 6 tiến sĩ đều được vua trong dụng làm quan to trong triều đình là: Vũ Công Đạo, Vũ Bật Hài, Vũ Cầu Hối và Lê Công Triều đều là người làng Mộ Trạch. Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có 17 người đỗ đạt làm quan trong triều, nên có câu: "Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô". Làng Mộ Trạch còn nổi tiếng với gia đình cụ Vũ Quốc Sĩ có 5 người con làm quan cho triều đình, trong đó có 3 người đỗ tiến sĩ. Ở làng còn có trường hợp 3 đời con trưởng cùng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Vua Lê Thánh Tôn, đó là Vũ Bạt Tụy (ông), Vũ Duy Đoán (cha), Vũ Duy Khuông (cháu). Tiến sĩ làng Mộ Trạch làm quan có những người rất giỏi ngoại giao, đã có công giúp nước như: Vũ Huy Tấn - triều Tây Sơn, Vũ Duy Đoán - triều Lê… Nhiều danh sĩ làng Mộ Trạch đã để lại những sách, tác phẩm văn học có giá trị cho đời sau: Lê Cánh Tuân có “Vạn ngôn thư” và 12 bài trong “Toàn Việt thi lục”, Lê Thiếu Đình có “Tiệt trại thi tập”, Vũ Hữu có “Đại thành toàn pháp”, Vũ Quỳnh có “Đại Việt thông giám” và “Lĩnh nam trích quái”, Vũ Cán có “Tùng niên thi tập” và “Tứ lục bi lâm”, Lê Nại có “Việt sử thông giám”, Vũ Phương Đề có “Công dư tiếp ký” 43 tập, Vũ Huy Tấn có “Văn tế quân Thanh”... Ngoài 36 tiến sĩ, làng Mộ Trạch còn có rất nhiều người chỉ đỗ thám hoa, hoàng giáp, cử nhân nhưng cũng làm quan to, nhỏ, làm thầy giáo giỏi, thầy thuốc tài và buôn bán giàu có ở nhiều nơi. Ngày nay, làng tiến sĩ Mộ Trạch vẫn phát triển và nhân rộng nhiều vùng khắp đất nước. Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm và công cuộc xây dựng đất nước, có nhiều người con của làng Mộ Trạch đã "tỏa sáng" như truyền thống hiếu học và tài giỏi của làng tiến sĩ. Theo ông Vũ Xuân Đoàn, Bí thư Đảng uỷ xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, sở dĩ làng Mộ Trạch có nhiều người học giỏi đỗ cao, vì đây là mảnh đất có truyền thống hiếu học, khuyến học nổi bật. Trước đây, tất cả con trai trong làng đều chăm chỉ dùi mài kinh sử để mong có ngày đỗ đạt chốn khoa trường. Để được lên Kinh dự thi, các thí sinh đều phải đăng ký vào sổ thi của làng và dứt khoát phải vượt qua kỳ thi thử tại quán Kỳ Anh nơi đầu làng. Tại kỳ thi này, những người có khoa bảng trong làng làm nhiệm vụ khảo xét bồi dưỡng lớp con em để họ có đủ năng lực và phẩm chất trước khi thi tài với thiên hạ. Hiện nay, xã Tân Hồng nói chúng là làng Mộ Trạch nói riêng tổ chức rất tốt phong trào khuyến học. Đặc biệt, hàng năm, lớp sinh viên, học sinh đã đỗ đạt của làng lại tổ chức các lớp học tình nguyện, dạy chữ, tư vấn thêm ngành học cho con em học sinh trong làng. Nhờ truyền thống giáo dục tốt mà người làng Mộ Trạch đã chiếm bảng vàng rực rỡ trong các kỳ triều đình mở hội thi. Điều đặc biệt là người làng Mộ Trạch dù làm quan tới chức nào cũng không ham lo xây dựng dinh thự mà luôn một lòng phục vụ đất nước, chăm lo cho nhân dân. Về căn cốt văn hóa đình làng, ông Vũ Huy Căn, Trưởng thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng cho biết: Hiện tại, Đình làng Mô Trạch có tới 12 sắc phong của các triều vua và hiện nay vẫn còn giữ được 8. Đình làng được Nhà nước ta công nhận Di tích văn hoá ngày 2/4/1991. Năm 2001, làng Mộ Trạch khánh thành đền thờ cụ Vũ Hồn, cụ tổ của họ Vũ, được dân làng thờ là Thần hoàng làng, người đã có công sinh thành và khai trí đường học cho đời con cháu họ Vũ và dân làng Mộ Trạch. Đền rộng trên 3.000 m2, có cổng đền, có nhà thờ cụ Vũ Hồn, có nhà trưng bày hiện vật, tranh ảnh, thư từ… Đền thờ có nhà bia tiến sĩ, có hồ sen, đặc biệt con cháu đã cung tiến những cây cảnh quý ở nhiều vùng trong cả nước… Làng Mộ Trạch hôm nay có hơn 10 dòng họ nhưng dòng họ Vũ đông hơn cả và thành đạt hơn cả. Chi nhánh của họ Vũ toả đi khắp nơi, đỗ cao thành đạt khắp nơi, nhưng đâu đâu cũng nhớ về tổ tiên Vũ Hồn một thời khẩn hoang lập làng, lập xóm. Người ta nhắc đến những tên tuổi như tiến sĩ Vật lý ở Nhật Bản Vũ Khắc Thịnh, Giáo sý tiến sĩ Vũ Tuyên Hoàng, nhà giáo Vũ Đình Liên, cụ Vũ Đình Hoè từng làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Bộ trưởng Bộ Tư pháp của nước ta... Tiến sĩ Vũ Phương Nghi ở Pháp gửi thư về có đoạn viết: “Nhờ lòng tự hào về làng Mộ Trạch mà tôi đã phấn đấu vươn lên mọi khó khăn để đạt bằng tiến sĩ văn học ở Pháp”. Tiến sĩ hoá học Vũ Đàm ở Mỹ mới ở độ tuổi 30 nhưng đã có những công trình lừng lẫy khiến tổng thống Mỹ đích thân mời ông phụ trách việc thẩm định và cấp bằng sáng chế cho các công trình phát minh trong nước và quốc tế thuộc cục phát minh, sáng chế Mỹ… Hay anh thương binh Vũ Hồng Quang, hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng đã gắng hết sức nuôi 4 người con đỗ tốt nghiệp đại học, cao đẳng và gần đây con gái Vũ Thị Đào làm luận án tiến sĩ tại Pháp. Gia đình anh Vũ Huy San, có 3 người con đều đỗ đại học... Lớp con cháu làng Mộ Trạch ngày nay đang hăng say lao động xây dựng làng, xã, chăm lo cuộc sống và gắng hết mình học hành hiển đạt. Thành thông lệ, ngày mồng 8 tháng Giêng hàng năm là ngày hội làng Mộ Trạch. Con cháu họ Vũ làng Mộ Trạch khắp mọi nơi sẽ tìm về với quê hương vui ngày lễ hội và thắp nén hương tưởng nhớ người đã sinh ra dòng họ Vũ và tưởng nhớ cả các thế hệ ông cha đã góp phần lưu danh thơm làng Mộ Trạch hôm nay. Theo TTXVN http://kttnn.wru.edu.vn/Infodetail.aspx?Id...Sid=5&Cid=2
-
sinh đứa Quý Tị 2013