-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
Sử sách chưa phải là cái chứng cứ đáng tin nhất. Nhất là sử sách Tàu. Ngụy thư tràng lan. Chưa kể kể viết sử bị chi phối bởi ý triều đình hoặc đưa ý kiến cá nhân của người viết vào sách. Rồi hậu sinh tam sao thất bản.
-
Quanh vụ muay Thái thách đấu Thiếu Lâm tự 09/12/2009 1:25 Ông Lý Kiện Bình (trái) không tin có chuyện thách đấu nghiêm túc - ảnh: sina.com Những ai đang trông ngóng trận đấu lịch sử giữa muay Thái với cao thủ võ lâm Trung Hoa vào ngày 19.12 tới có thể sẽ thất vọng, bởi các quan chức Trung Quốc đã phủ nhận việc này. Tờ China Daily vừa qua đã đưa tin: việc 5 võ sĩ muay Thái tung lời thách đấu với chùa Thiếu Lâm đã gây xôn xao chú ý không chỉ riêng ở xã hội hai nước, mà còn đẩy sự đối kháng giữa võ thuật Trung Hoa và muay Thái lên một cao trào mới. Tên tuổi của 5 võ sĩ này đã được xác định là Phỉ Thái Khắc, Xá Thụ Liên, Nạp Như Liên, Xá Sơn và Khảo Khắc Thái (phiên âm theo báo chí Trung Quốc). Theo kế hoạch thách đấu, họ sẽ tập trung tại Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông vào ngày 19.12 tới để tham gia trận đấu lịch sử này. Trước lời thách đấu nói trên, đại diện của chùa Thiếu Lâm cương quyết khẳng định lập trường không nhận thách đấu với lý do: "Đối phương lợi dụng danh tiếng của chùa Thiếu Lâm để tạo scandal". Trong khi đó, Hội trưởng Hội Nghiên cứu võ thuật Nga My, chưởng môn Nga My - ông Uông Kiện - lại cho rằng "không thể nhẫn nhục" trước lời thách đấu này và đã đệ đơn lên Hiệp hội Võ thuật Trung Hoa, xin chấp thuận cho nhận lời thách đấu. Tuy nhiên, theo nguồn tin của China Daily, sau khi gặp gỡ ông Trần Quốc Vinh - Chủ nhiệm Trung tâm quản lý Hiệp hội võ thuật Trung Hoa - thì hiệp hội này cho tới nay vẫn chưa nhận được một tờ đơn nào của phía Nga My. Ông Trần nhấn mạnh: "Cơ chế tổ chức các cuộc thi tranh bá ở Trung Quốc không cho phép tự do đăng ký xin tham gia. Mọi thành viên tham gia thi đấu sẽ do đội tuyển võ thuật quốc gia đích thân tuyển chọn căn cứ vào năng lực và vào biểu hiện của từng trận đấu trước đó. Thậm chí nếu có thi đấu đi chăng nữa, chúng tôi cũng không dùng võ sư dân gian. Không phải chúng tôi phủ nhận họ, nhưng để bảo đảm an toàn cho thí sinh, chúng tôi nhất thiết phải tuyển chọn các vận động viên chuyên nghiệp". Trong khi đó, ông Lý Kiện Bình - huấn luyện viên trưởng đội quyền Anh quốc gia Trung Quốc, đồng thời là giáo sư Học viện võ thuật Vũ Hán - đã tuyên bố lời thách đấu trên chỉ là bịa đặt. Do từng nhiều lần làm huấn luyện viên trưởng của đội tuyển quốc gia, ông Lý hiểu rất rõ về đặc điểm của muay Thái và kungfu Trung Hoa. Ông cho biết: "Thách đấu Thiếu Lâm, Thiếu Lâm không dám nhận lời. Nga My xuất trận, viết huyết thư… tất cả đều là bịa chuyện". Từ năm 2001 tới nay, Trung Quốc và Thái Lan đã tổ chức 6 trận đấu tranh bá quyền Anh với quy cách: mỗi bên cử 5 vận động viên tiến hành các trận đấu 1 chọi 1, gồm 5 trận, mỗi trận 3 phút. Từ kết quả các trận đấu này cho thấy thực lực hai bên tương đương nhau, trong đó kungfu Trung Quốc có nhỉnh hơn chút ít. Nguyễn Lệ Chi (tổng hợp)
-
Trống vắng :rolleyes: :wacko: :wacko: :P :lol: :lol: :lol:
-
Cuốn "Phong Thủy Huyền Không Học" của tác giả Bình Nguyên Quân biên soạn là một cuốn sách khá hữu ích cho người nghiên cứu Phong Thủy. Cuốn sách giúp người đọc hiểu rỏ hơn về những khái niệm và nguyên lý cơ bản trong Huyền Không học. Tuy đây cũng là một tài liệu quý, đáng tham khảo, nhưng vẫn chưa phải là đồng quan điểm với Huyền Không Lạc Việt. Tạp tài liệu này là nội dung rút gọn từ cuốn "Phong Thủy Huyền Không Học" cùng tên. Thiên Đồng sưu tầm và giới thiệu. Huyền Không Giải thích về 2 chữ Huyền Không, Thẩm trúc Nhưng (tác giả bộ "Thẩm thị Huyền Không học") viết: Trong sách Pháp Ngôn của Dương Hùng viết "Huyền giả nhất dã" (tức Huyền là một), lời giải thích này khá rõ ràng. Nhưng đến chữ Không thì rất khó giải thích. Bởi vì "KHÔNG" không có nghĩa là trống không hoàn toàn, mà trong cái "KHÔNG" lại bao hàm cái "CÓ". Các học giả Thiên Trúc (Ấn độ) xưa luận giải như sau: Dựa vào Lạc thư, sau này vua Văn Vương nhà Chu mới đặt ra Hậu thiên Bát quái và định phương vị cho Cửu tinh như sau: - Số 9 nằm ở trên tức hướng NAM. Vì phương NAM nóng, thuộc quẻ Ly-Hỏa nên số 9 mang hành Hỏa. - Số 1 nằm ở dưới nên thuộc hướng BẮC. Vì phương Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ Khảm-Thủy nên số 1 mang hành Thủy. - Số 3 nằm bên trái thuộc phương ĐÔNG. Vì phương ĐÔNG là quẻ CHẤN-Mộc, nên số 3 mang hành Mộc. - Số 7 nằm bên phải thuộc phương TÂY. Vì phương TÂY là quẻ ĐOÀI-Kim, nên số 7 mang hành Kim. - Số 2 là "vai” bên phải, nên nằm tại phía TÂY NAM. Vì phía TÂY NAM thuộc quẻ KHÔN-Thổ, nên số 2 mang hành Thổ. - Số 4 là "vai” bên trái, nện nằm tại phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN-Mộc, nên số 4 mang hành Mộc. - Số 6 là "chân” bên phải, nên nằm tại phía TÂY BẮC. Vì TÂY BẮC thuộc quẻ CÀN-Kim, nên số 6 có hành Kim. - Số 8 là "chân” bên trái, nên nằm tại phía ĐÔNG BẮC. Vì phía ĐÔNG BẮC thuộc quẻ CẤN-Thổ, nên số 8 mang hành Thổ. - Số 5 nằm ở chính giữa (tức trung cung). Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Vì thế nên số 5 cũng mang hành Thổ. Sắc bất dị không Không bất dị sắc Sắc tức thị không Không tức thị sắc Thụ tưởng hành thức Diêc phục như thị (Nghĩa là: Vật không khác gì "không", "Không" không khác gì vật. Vật tức là "không", "không" tức là vật. Những điều con người cảm thụ và suy nghĩ được cũng vậy). Như vậy "KHÔNG" bao hàm cả "khiếu" (tức mấu chốt của sự vật). "Khiếu" có 9 cái nên gọi là "Cửu khiếu", cũng là nói hai chữ "Huyền Không" bao hàm từ 1 tới 9. Nhưng đây không phải đơn thuần là số đếm, mà còn là mấu chốt để định vị không gian và thời gian chứa đựng sự vật. Vì vậy mới dùng hai chữ Huyền Không để làm đại biểu. Nói một cách khác, Huyền Không là dùng các con số từ 1 tới 9 để biểu thị, quan sát mọi sự thay đổi, biến hóa của sự vật. Như chúng ta đã biết, mọi vật thể, cũng như vũ trụ đều được cấu trúc bằng những hạt nhân nguyên tử hay những hành tinh di chuyển theo một quỹ đạo hình tròn. Còn 9 con số của Huyền Không khi biểu thị sự biến hóa của sự vật sẽ di chuyển theo một quỹ đạo nhất định. Quỹ đạo này được gọi là vòng "Lượng thiên Xích"(sẽ nói trong 1 bài khác). Bàn về vòng Lượng thiên xích, sách "Trạch vận tân án" có viết: Thùy đắc Lượng thiên Xích nhất chi, Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi, Tử sinh đắc thất tùy thám sách, Quá hiện vị lai liễu liễu tri Tạm dịch: Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích, Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay, Tìm hiểu được sự sống chết và được mất, Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai. Cho nên Huyền không học là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát quái mà đoán định sự cát, hung, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch). Nhưng tại sao lại phải dựa trên đồ hình Bát quái? Đó là vì ngay từ thời xa xưa, cổ nhân đã biết phác họa ra Bát quái để thu tóm mọi biến chuyển của Trời (thiên văn), Đất (địa lý) vào đó. Theo "Lục kinh đồ", phần "Ngưỡng quan thiên văn đồ" thì "Phục Hy quan sát thiên văn mà vẽ ra Bát quái. Do đó, phàm những gì thuộc về thiên văn như vòng vận hành của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, ngày tháng, bốn mùa. . . không gì mà Bát quái không thu tóm". Còn sách Phủ Sát địa lý thì viết "Cúi xuống xem xét địa lý mà vạch ra 8 quẻ, cho nên phàm những gì liên quan tới lý lẽ của Đất (địa) như bốn phương chín châu, điểu, thú. thảo mộc, mười hai chi sở thuộc. . . không gì mà Bát quái không cai quản". Như vậy, Bát quái chính là sự thu tóm những biến chuyển của Trời, Đất, còn sự di chuyển của 9 con số (còn được gọi là Cửu tinh) theo vòng Lượng thiên Xích chính là những biến hóa, thay đổi của sự vật. Kết hợp những yếu tố này với nhau, tức là đưa sự vận hành của Cửu tinh theo vòng Lượng thiên Xích vào trong đồ hình của Bát quái để thu tóm mọi biến chuyển của Trời, Đất và sự vật chung quanh, tức là những yếu tố khách quan bên ngoài có tác động, ảnh hưởng tới 1 căn nhà hay 1 ngôi mộ thì đương nhiên sẽ biết được vận khí tốt, xấu của căn nhà hay ngôi mộ đó theo từng thời gian nhất định. Đây chính là nguyên nhân của sự hình thành và phát triển của trường phái Phong thủy mang danh là "Huyền không học" (hay Huyền Không Phi tinh). Về lai lịch của phái Huyền Không thì tuy không ai có thể xác định được chính xác nó được hình thành từ lúc nào hoặc do ai sáng lập, nhưng vì hầu hết những nguyên lý căn bản của phái này đều được trích dẫn từ những tác phẩm về Phong thủy nổi tiếng của Dương quân Tùng (một Phong thủy sư lỗi lạc thời tàn Đường) như "Thiên ngọc Kinh", "Thanh nang áo Ngữ", "Đô thiên Bảo chiếu kinh", cho nên có lẽ phái Huyền Không đã được hình thành từ Thế kỷ IX sau Công Nguyên, và Dương quân Tùng nếu không là người sáng lập thì cũng chính là người đã có công tạo dựng nền tảng và cơ sở vững chắc cho sự phát triển của phái Huyền Không. Đến đầu thời Tống, danh sư Ngô cảnh Loan cho ra đời những tác phẩm như "Huyền Không bí chỉ" và "Huyền cơ phú" thì Huyền Không đã trở thành 1 trường phái rõ rệt, cũng như có 1 vị trí vững vàng trong nghệ thuật Phong thủy Trung Hoa. Sau này, các danh sư như Tưởng đại Hồng thời Minh, Chương trọng Sơn thời Thanh càng làm cho phái Huyền Không nổi bật lên với những luận đoán cực kỳ chính xác cả về âm trạch lẫn dương trạch. Tuy nhiên, vì những nguyên lý của Huyền Không vào các thời đại đó đều được giữa hết sức bí mật, nên ít có ai biết hoặc hiểu về Huyền Không, trừ khi được chân truyền. Mãi đến cuối đời nhà Thanh, khi Thẩm trúc Nhưng cho công bố tác phẩm "Thẩm thị Huyền không học" thì những bí mật của Huyền Không mới được làm sáng tỏ. Từ đó đến nay, ảnh hưởng của Huyền Không phái càng ngày càng lan rộng trong đại chúng, nhất là đối với những người yêu thích Phong thủy, hoặc muốn xử dụng Phong thủy để cải tạo nhà cửa, mồ mả để làm cho cuộc sống gặp được nhiều thuận lợi và may mắn hơn. Tổng Luận Phi Tinh Sau khi đã có sơ đồ phi tinh, tiến hành luận đoán tốt xấu để có phương án bài trí cho phù hợp. Hai cung quan trọng nhất đó là toạ và hướng, bởi hướng là nơi nạp Thiên khí vào nhà chủ quản hoạ phúc. Toạ là nơi nạp Địa khí chủ về nhân đinh, hậu vận. Mỗi cung toạ và hướng có các Phi Tinh Sơn và Hướng, căn cứ vào Sơn Tinh và Hướng Tinh kết hợp để luận đoán tốt x ấu. Sau đây luận các cách kết hợp của Sơn Tinh và Hướng Tinh. Luận phải lấy vượng làm chính, lấy suy làm ngược lại, vượng tinh thì tốt chủ cát lành, suy tinh thì chủ hung bại. Vượng tinh cần được sinh phù, suy tinh cần thu sơn xuất sát. Những cửa chính, cửa phụ được cát tinh sinh vượng chiếu nên sinh hoạt, đi lại nhiều hoặc mở cửa sổ lớn để đón khí. Trường hợp bị hung tinh suy tử chiếu thì cần có cách thức trấn yểm, hoá giải phù hợp, tốt nhất là hạn chế đi lại hoặc mở cửa ở phương khác tốt hơn. Nhất Bạch 11 : Đào hoa, v ượng ứng với quan tinh, chủ văn x ương, độc thư, thông minh, văn tài xuất chúng. Suy ứng với tai máu thận suy, di tinh tiết huyết, dâm đãng, x ảy thai, bất đắc chí. 12 : Dễ mắc bệnh dạ dày, ruột, bệnh thận, tai máu, nữ mắc phụ khoa, đẻ non, sảy thai. Trung nam không thuận phải ly tổ bôn ba, quan lộc bị x âm hại. 13 : Tranh chấp, quan phi, đạo tặc, phá tài 14 : Ra ngoài có lợi, dễ thăng chức, văn chương phát quý nổi danh, tài vượng, phụ nữ sang quý. Nếu suy sinh dâm đãng. 15 : Tổn hại nhân đinh, dễ mắc bệnh thận, tai máu, trung nam bị tổn hại. 16 : Phú quý cát lợi, văn tài thông minh, hãm thì dâm loạn 17 : Đào hoa, ra ngoài cát lợi. Nếu hãm thì thương tích, thị phi, tham luyến tửu sắc. 18 : Phạm bệnh tật tai máu, trung nam bất lợi tha hương lưu lạc. 19 : Thuỷ hoả không dung, phạm bệnh tật mắt, tinh thần, trước tốt sau x ấu. Nhị Hắc 21 : Nữ bệnh phụ khoa, tràng vị, nam mắc bệnh tai máu thận, trung nam tổn hại. 22 : Bệnh tật, nữ bệnh phụ khoa, nam mắc bệnh đường ruột. Đắc v ận thì giàu có. 23 : Cách Đấu Ngưu sát chủ quan phi, kiện tụng, khẩu thiệt. Mẹ già tổn hại. 24 : Bất hoà, bệnh phong hàn, khẩu thiệt, kiện tụng, sinh nở khó, hại mẹ già. 25 : Tổn thất nhân đinh, cô quả, mẹ nhiều bệnh. 26 : Đất đai vượng phát, tăng tài, buôn bán phát đạt. 27 : Tiến tài, nhiều hỷ sự, nếu hãm phạm đào hoa, khẩu thiệt, tán tài. 28 : Cách hợp thập chủ cát lợi, dễ đi xa 29 : Sinh đẻ nhiều, nếu v ượng chủ văn tài, thất v ận phòng bệnh tật, sinh người ngu đần. Tam Bích 31 : Thị phi khẩu thiệt tranh đấu phá tài. Nếu đắc lệnh thì phát quý. 32 : Cách Đấu Ngưu sát chủ thị phi tranh đấu đạo tặc, hại mẹ già, bệnh đường ruột. 33 : Quan phi, thị phi, đạo tặc, đắc lệnh thì phú quý. 34 : Đào hoa, kiếp tặc hại cho nữ. Đắc lệnh văn tài phú quý nổi danh. 35 : Hại tì vị, chủ nhân bất an, hại cho trưởng nam. 36 : Trưởng nam bất lợi, quan phi, thương tích chân tay, đắc lệnh thì quyền uy, phát văn tài. 37 : Phá tài, kiếp đạo, dâm đãng, hại trưởng nam 38 : Bất lợi nhiều bệnh tật, phá tài, tuyệt hậu 39 : Thông minh tiến tài, sinh quý tử Tứ Lục 41 : Đào hoa dâm đãng, nếu sinh vượng thì xuất ngoại thành danh, v ăn tài xuất chúng 42 : Bệnh tật tỳ vị, hại mẹ già. 43: Dâm loạn, đạo tặc, hại thiếu nữ 44 : Đào hoa, ly tổ, sinh v ượng thì có quý nhân phù trợ, văn tài thành danh. 45 : Nhiều bệnh tốn tài. Sinh vượng thì nhà cửa hưng v ượng 46 : Trước lành sau x ấu, khó sinh, bất lợi trưởng nữ 47 : Cô qủa bất hoà, nạn đao thương thổ huyết, hại trưởng nữ. Sinh vượng thì xuất hiện giai nhân tài sắc 48 : Tổn tài, hại thiếu nam, bệnh phong tật thấp khớp, đào hoa. Tốt lành tiến tài, lợi điền sản. 49 : Sinh quả phụ, đào hoa. Sinh vượng thì Mộc Hoả thông minh, xuất hiện danh sĩ. Ngũ Hoàng 51 : Tổn nhân đinh, hại trung nam nhiều bệnh tật, bệnh tai máu thận. 52 : Sinh cô quả phụ, nhiều bệnh, bệnh tỳ vị. 53 : Hại trưởng nam, phá tài, nhiều bệnh tật 54 : Phá tài, hại nhân khẩu, bệnh tật 55 : Rất x ấu chủ bệnh tật, hao người tốn của 56 : Nếu sinh vượng thì rất tốt 57 : Bệnh tật, kiếp đạo, đắc thì tiến tài nhiều hỷ sự 58 : Bất lợi thiếu nam, đắc thì cát chủ hoạnh phát tài 59: Sinh nở khó, bệnh tật, thương vong, ăn chơi phá tài Lục Bạch 61 : Đào hoa dâm loạn, sinh nở khó. Đắc thì quan lộc hanh thông 62 : Bệnh tật, phụ khoa, tổn tài 63 : Tai nạn, bất an, hại trưởng nam 64 : Ly tán, tai nạn, bất an, hại trưởng nữ 65 : Bệnh tinh thần, đắc thì phát tài 66 : Hại trưởng nam, người già, đắc thì quan vận tốt, quyền hành, văn tài xuất hiện. 67 : Đao kiếm sát phạm đao thương, tổn tài, thị phi quan tụng 68 : Đại cát nhiều hỷ sự, lợi quan lộc 69 : Bệnh phế huyết hoả tai, hại cho cha già Thất Xích 71 : Kim thuỷ đa tình đào hoa, ly hương xuất ngoại, tổn hại lục súc 72 : Khẩu thiệt thị phi hoả tai. đắc vận thì hợp thành Hoả tiên thiên lợi nhị hắc nên phát tài. 73 : Thương trưởng nam, bội nghĩa, thị phi, bệnh tật, quan phi 74 : Hại trưởng nữ, đao thương, bệnh thần kinh 75 : Nhiều bệnh bất an, tửu sắc phá tài 76 : Đao kiếm sát, tổn tài, sinh nhiều nữ 77 : Tổn tài, thị phi. Sinh vượng thì hỷ sự phát tài, sinh nhiều nữ 78 : Cầu tài danh đều lợi, nam nữ đa tình 79 : Tai nạn bệnh tâm khí, hại cho nữ nhỏ Bát Bạch 81 : Hại trung nam, bệnh tai máu thận 82 : Bệnh tật, hại mẹ già, thiếu niên lao khổ, sinh vượng thì phát tài chủ tốt 83 : Bất lợi, ly hôn, hại thiếu nam 84 : Cô quả, khó sinh nở, hại thiếu nam 85 : Bệnh tật, tai nạn, hại thiếu nam 86 : Văn tài, thông minh cát lợi, sinh quý tử 87 : Sinh v ượng thì tốt cho thiếu nam, thiếu nữ, tài lộc vượng 88 : Đại cát, sinh nhiều con trai 89 : Đinh tài đều vượng nhiều hỷ sự Cửu Tử 91 : Cách Thuỷ Hoả Ký Tế lợi văn chương, có nhiều danh vọng, công danh tốt. 92 : Phạm bệnh tật, bệnh mắt, phụ khoa 93 : Quan phi khẩu thiệt. Nếu sinh vượng sinh văn sĩ 94 : Đào hoa, hao tài 95 : Nhiều bệnh tật, hoả tai 96 : Sinh bệnh tật, bệnh não, thổ huyết, quan hình 97 : Phá tại, hại thiếu nữ, quan phi khẩu thiệt 98 : Cát lành hỷ sự 99 : Bệnh mắt bệnh thần kinh, sinh vượng thì tốt Ngũ Hành Và Các Đặc Tính Ngũ hành tức là 5 hành KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ. Đối với các môn Khoa học và Huyền thuật Đông phương, Ngũ hành là 1 trong những nguyên lý căn bản và nền tảng cho mọi học thuyết. Thuyết Ngũ hành cho rằng mọi vật thể trong vũ trụ (kể cả con người) đều được cấu tạo bởi 5 hành đó, cũng như mọi sự phát triển, biến hóa của sự vật đều là do sự tương tác của Ngũ hành đối với nhau mà thôi. Do đó, việc nắm vững mối quan hệ tương tác giữa Ngũ hành là 1 điều quan trọng cho bất cứ ai muốn tìm hiểu sự vượng, suy, được, mất của mọi sự vật. Riêng đối với Phong thủy Huyền không, có nắm chắc được đặc tính của Ngũ hành, cũng như sự tương quan của chúng thì mới có thể phán đoán chính xác mọi hiện tượng xảy ra cho từng căn nhà hay từng phần mộ được. Dưới đây xin được trình bày sơ lược về đặc tính của Ngũ hành như sau: • Về hình dáng: + Kim: tròn đầy. + Mộc: hẹp dài. + Thủy: khúc khuỷu. + Hỏa: nhọn sắc. + Thổ: vuông vức. • Về màu sắc: + Kim: màu trắng. + Mộc: màu xanh. + Thủy: màu đen. + Hỏa: màu đỏ. + Thổ: màu vàng. • Về cơ thể: + Kim: đầu, họng, lưỡi, phổi. + Mộc: lông, tóc, tay chân, gan, mật. + Thủy: máu, mồ hôi, nước mắt, tai, thận. + Hỏa: mắt, tim. + Thổ: dạ dày, lá lách, lưng, bụng. • Về mùi vị: + Kim: cay + Mộc: chua + Thủy: mặn + Hỏa: đắng + Thổ: ngọt • Về Quẻ Dịch: + Kim: 2 quẻ CÀN, ĐOÀI. + Mộc: 2 quẻ CHẤN, TỐN. + Thủy: quẻ KHẢM. + Hỏa: quẻ LY. + Thổ: 2 quẻ KHÔN, CẤN. • Về Thiên Can: + Kim: Canh, Tân. + Mộc: Giáp, Ất. + Thủy: Nhâm, Quý. + Hỏa: Bính, Đinh. + Thổ: Mậu, Kỷ. • Về Địa Chi: + Kim: Thân, Dậu. + Mộc: Dần, Mão. + Thủy: Hợi, Tý. + Hỏa: Tỵ, Ngọ. + Thổ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. • Về phương hướng: + Kim: TÂY và TÂY BẮC. + Mộc: ĐÔNG và ĐÔNG NAM. + Thủy: BẮC. + Hỏa: NAM. + Thổ: ĐÔNG BẮC và TÂY NAM. Tất cả những đặc tính kể trên là những yếu tố tối thiểu mà người học Phong thủy Huyền Không cần phải biết để có thể ứng dụng sau này. Chẳng hạn như nói hình nhọn thuộc Hỏa, hẹp dài thuộc Mộc, tròn đầy thuộc Kim, vuông vức thuộc Thổ... Như vậy, tuy trong vận 8 này, mặc dù mọi nhà đều cần chọn hướng sao cho vượng tinh bát bạch Thổ chiếu tới, nhưng những nhà có hình vuông vức (thuộc dạng hình Thổ) sẽ tốt hơn, và dĩ nhiên là phát đạt hơn những nhà có dạng hình ống hay hình chữ nhật (vì là dạng hình Mộc khắc vượng tinh hành Thổ). Sự Tương Quan Của Ngũ Hành Sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau được thể hiện qua những hình thức sau: Ngũ hành tương sinh Mọi vật thể muốn phát triển cần được sự hổ trợ, nuôi dưỡng từ những vật thể khác. Do đó, quan hệ tương sinh là biểu hiện quá trình tăng trưởng và phát triển của sự vật. Nguyên lý ngũ hành tương sinh là: - KIM sinh THỦY - THỦY sinh MỘC - MỘC sinh HỎA - HỎA sinh THỔ - THỔ sinh KIM. Kim sinh Thủy không phải là vì Kim bị đốt nóng sẽ chảy ra thành nước, vì Kim lúc đó tuy ở dạng thể mền lỏng, nhưng đỏ chói, nóng bỏng nên sao có thể gọi là “Thủy” được. Thật ra, nguyên lý Kim sinh Thủy của cổ nhân là vì lấy quẻ CÀN là biểu hiện của Trời, mà Trời sinh ra mưa để tưới nhuần vạn vật, nên Thủy được phát sinh từ Trời. Mà quẻ CÀN có hành Kim nên mới nói Kim sinh Thủy là vậy. Mặt khác, trong Hậu thiên Bát quái của Văn Vương, Thủy là nguồn gốc phát sinh của vạn vật. Nếu không có Thủy thì vạn vật không thể phát sinh trên trái đất. Cho nên khi lấy CÀN (KIM) sinh KHẢM (THỦY) cũng chính là triết lý của người xưa nhìn nhận nguồn gốc của sự sống trên trái đất là bắt nguồn từ Trời, là hồng ân của Thượng Đế. Do đó, trong các nguyên lý tương sinh của Ngũ hành, Kim sinh Thủy là 1 nguyên lý tâm linh, triết lý và vô hình, và cũng là nguyên lý tối cao của học thuyết Ngũ hành tương sinh, vì nó là sự tương tác giữa Trời và Đất để tạo nên vạn vật. Còn những nguyên lý tương sinh còn lại chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau trên trái đất để duy trì sự sống mà thôi, nên cũng dễ hiểu và dễ hình dung hơn. Ngũ hành tương khắc Mọi vật thể khi bị sát phạt, khắc chế sẽ đi đến chỗ tàn tạ, thoái hóa. Do đó, quan hệ tương khắc là để biểu hiện quá trình suy vong và hủy diệt của sự vật. Nguyên lý của Ngũ hành tương khắc là: - KIM khắc MỘC. - MỘC khắc THỔ. - THỔ khắc THỦY. - THỦY khắc HỎA. - HỎA khắc KIM. Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy. Ngũ hành phản sinh Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành. Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là: - Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp. - Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than. - Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt. - Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt. - Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục. Ngũ hành phản khắc Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc. Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là: - Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy. - Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu. - Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt. - Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn. - Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt. Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa. Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không phi tinh mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7. Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc. Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi. Lạc thư và Lượng thiên Xích Lạc thư Tương truyền vua Đại Vũ khi xưa đi trị thủy trên sông Lạc thì gặp rùa thần nổi lên, trên lưng có hình Cửu tinh (?). Vua Đại Vũ cho sao chép lại và gọi đó là Lạc thư. Khẩu quyết của Lạc thư là: "Đới Cửu, lý Nhất; tả Tam, hữu Thất; Nhị-Tứ vi kiên; Lục- Bát vi túc; Ngũ cư trung vị". Có nghĩa là: Trên đội 9, dưới đạp 1; bên trái 3, bên phải 7; 2 vai là 2 và 4; 2 chân là 6 và 8; còn 5 nằm chính giữa. Do đó, phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên Bát quái như sau: Đây chính là những phương vị "nguyên thủy” của Cửu tinh trong Lạc thư (hay Hậu thiên bát quái). Nhưng khi có những thay đổi về không gian và thời gian thì Cửu tinh cũng sẽ thay đổi hoặc di động theo 1 qũy đạo nhất định. Quỹ đạo đó được gọi là vòng Lượng thiên Xích. Lượng thiên Xích Còn được gọi là "Cửu tinh đãng quái” là thứ tự di chuyển của Cửu tinh trong Lạc thư hay Hậu thiên Bát quái. Gọi là Lượng thiên xích vì đây được coi như là 1 công cụ (Xích: cây thước) để đo lường (lượng) thiên vận (thiên). Nói 1 cách khác, "Lượng thiên Xích” chính là phương pháp tính toán để tìm thấy những giai đoạn cát, hung, họa phước cho dương trạch và âm trạch. Còn sự di chuyển của Cửu tinh theo vòng Lượng thiên xích là dựa theo thứ tự số trong Lạc thư (hay Hậu thiên Bát quái) mà đi, bắt đầu từ chính giữa (tức trung cung). Cho nên nếu nhìn vào thứ tự các con số trong Hậu thiên bát quái thì chúng ta sẽ thấy số 5 nằm chính giữa, nên bắt đầu từ đó đi xuống lên số 6 ở phía TÂY BẮC, xong lên số 7 nơi phía TÂY. Rồi vòng xuống số 8 nơi phía ĐÔNG BẮC, sau đó lại lên số 9 nơi phía NAM. Từ 9 lại đi ngược xuống số 1 nơi phía BẮC, sau đó lên số 2 nơi phía TÂY NAM, rồi quay ngược qua số 3 nơi phía ĐÔNG, sau đó đi thẳng xuống lên nơi số 4 ở phía ĐÔNG NAM, rồi trở về trung cung là hết 1 vòng. Cho nên quỹ đạo của vòng Lượng thiên xích như sau: (1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC. (2) Từ TÂY BẮC lên TÂY. (3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC. (4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM. (5) Từ NAM xuống BẮC. (6) Từ BẮC lên TÂY NAM. (7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG. (8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM. (9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung. Đó chính là bộ pháp (cách di chuyển) của Cửu tinh. Phải biết được nó mới có thể biết cách bài bố tinh bàn cho 1 trạch vận mà luận đoán cát, hung được. Sự vận chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh Tuy Cửu tinh di chuyển theo 1 quỹ đạo nhất định là từ trung cung xuống TÂY BẮC, rồi từ đó lên TÂY. . ., nhưng khi di chuyển thì chúng sẽ tạo ra 2 tình huống: 1) Di chuyển THUẬN: Theo thứ tự từ số nhỏ lên số lớn, chẳng hạn như từ 5 ở trung cung xuống 6 ở TÂY BẮC, rồi lên 7 ở phía TÂY, xuống 8 phía ĐÔNG BẮC...; 2) Di chuyển NGHỊCH: Theo thứ tự từ số lớn xuống số nhỏ, chẳng hạn như từ 5 ở trung cung xuống 4 ở TÂY BẮC, lên 3 ở phía TÂY, xuống 2 ở phía ĐÔNG BẮC... Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm-dương của Tam nguyên long.
-
Chắc huynh viết truyện tình của Heocon và Tétpỳ quá. hic. Lâm ly bi đát. Tình như mây khói bay đi mất để lại niềm riêng một cõi sầu. :unsure:
-
Luận về các sao xuất huyệt Sao Tham Lang xuất huyệt, thì hiển đạt văn chương, thiếu niên cập đệ: Người ta tranh nhau để cho được xem mặt quan tân lang, vì tại phương Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cung là được đất, năm sáu người con chủ ứng ở phương Chấn là con trai trưởng vậy. Sao Cự Môn xuất hiện thì doanh nghiệp mở mang ngày thêm thịnh vượng, người ta chăm đọc thi thư nên tính tình độ lượng khoan hồng. Bởi tại Khôn, Cấn, Đoài, Kiều, Cung là được đất bốn con thủ ứng phương Khảm là người con trai giữa vậy. Sao Vũ Khúc xuất huyệt, thì vượng người vượng của, mũ xanh áo tía đàng hoàng đoan trang theo hút lại. Bởi tại Kiền, Khôn, Cấn, Đoài, Cung là được đất tam tự chủ ứng phương Cấn là người con trai Út vậy. Sao Tả Phụ xuất huyệt, đất phát võ quan soái phủ được người ta tôn sùng lại thêm mạnh mẽ làm quan tới chức tam công. Sao Thái Dương xuất huyệt, thì con cháu rất tốt, giàu sang của cải đề đa, tức là bạch ốc xuất công khanh thế vậy. Sao Thái Âm xuất huyệt, thời con gái thành cung nga, con trai mở kho lẫm, bên là đỗ đại khoa. Sao Thủy tinh tức là trương thiện xuất huyệt, thì con cháu đông đúc, nhiều người chăm đọc sách, đỗ đạt rất nhiều, giàu có, điền viên thiên mạch. Sao Mộc Tinh tức là xung thiên xuất huyệt văn chương hiển đạt giàu sang đẹp đẽ người nhiều ruộng lắm đất hay. Sao Thiên Tài xuất huyệt thì con cháu nối tiếp nhau thi đỗ, đôi con đôi vợ của cải giàu sang phát đạt. Kén chọn long mạch Từ đây trở xuống là thu góp các nhà so sánh về long mạch tốt xấu. Quý long ba hướng lành mạnh. Gọi là Cấn, Tốn, Đoài là ba phương tốt vậy. Xuất ở hải vũ kinh. Năm phương tiện long xấu, bảo rằng Càn, Khảm, Ly, Chấn là năm thứ hung long vậy. Xuất ở hải vũ kinh. Bốn khu vực của ngôi sao quý long: Bảo rằng là Hợi Cấn Binh Đoài là bốn khu vực của ngôi sao. Xuất ở thanh nang kinh. Hải lão tiện long. Bảo rằng là Kiền Khôn là hải lão tiện long. Xuất ở ngọc xích kinh. Lục tú quý long bảo rằng Hợi là đệ nhất, Cấn Tốn Đoài Binh Đinh Tân là lục tú quý long vậy. Xuất ở thôi quan thiên. Tứ khố tiện long bảo rằng là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là tứ khố tiện long vậy. Xuất ở ngọc xích kinh. Bất tường long nói rằng là Dần Thân Ất Khôn là bất tường long vậy. Bát cá tinh xuất ở la kinh vậy. Trong kinh có thơ nói rằng: Tốn Đoài Cấn Binh với Tân Đinh, Kỷ, Hợi bao gồm lại bát tinh. Núi nước được chiều ai phúc đức Cành vàng lá ngọc giúp vua mình. So sánh về thủy luận Từ đây trở xuống là gom góp các nhà nói về dị đồng của nước. Đây là mười hai phương âm thủy có: Hợi Mão Mùi Kỷ Dậu Sửu Cấn Bính Tân Tốn Đinh Canh ấy là âm thủy vậy nên chầu về long âm. Đây là 12 dương thủy có: Thân Tý Thìn Dần Ngọ Tuất Càn Giáp Khôn Nhâm Quý Ất là dương thủy vậy nên chầu về dương long. Đại thần thủy có: Nói rằng là Càn Khôn Cấn Tốn ấy vậy. Trung thần thủy có: Nói rằng là Giáp Canh Bính Đinh ấy vậy. Tiển thần thủy có: Nói rằng là Ất Tân Đinh Quý ấy vậy. Tiến thần thủy có. Nói rằng là sinh vào khắc ra ấy vậy. Thoái thần có. Nói rằng là thủy sinh ra khắc vào ấy vậy. Âm thôi thủy có. Bảo rằng là Cấn Chấn Tốn Đoài ấy vậy. Dương thôi thủy ấy có. Bảo rằng là Bính Đinh Canh Tân ấy vậy. Tứ khổ thủy ấy có. Bảo rằng là Thìn Tuất Sửu Mùi ấy vậy, nên xúc tích chẳng nên chảy. Lúc thần thủy ấy có bảo rằng là thanh long bạch hổ chu tước huyền vũ, câu trận, đằng xà là sáu thần thủy ấy vậy. Trích theo tràng sinh khởi: Lục kiến thủy ấy có nói rằng Hợi là thiên kiến, Cấn là địa kiến, Đinh là nhân kiến, Mão là tài kiến, Tốn là lộc kiến, Bính là mã kiến, là sáu kiến ấy vậy. Tam cát thủy ấy có nói rằng là Cấn là tam lang, thủy tinh chủ quan lộc. Tốn là cự môn. Thủy tinh chủ tài bạch. Đoài là vũ khúc. Thủy tinh chủ nhân tài ấy vậy. Xá văn thủy ấy có nói rằng là Tốn Bính Đinh là văn thủy ấy vậy. Trường thọ thủy ấy có nói rằng là Cấn Bính Đinh Đoài là tràng thọ thủy ấy vậy. Ngũ cát thủy ấy có bảo rằng là Mão Tốn Bính Tân Đinh là năm cát thủy ấy vậy. Bảo thương thủy ấy có nói rằng là Mão Thủy ấy vậy. Văn bút thủy ấy có bảo rằng là Tốn Thủy ấy vậy. Kim đường thủy ấy có bảo rằng là kính thủy ấy vậy. Ngọc môn thủy ấy có bảo rằng là đinh thủy ấy vậy. Học đường thủy ấy có bảo rằng là tân thủy ấy vậy. Lục tú thủy ấy có nói rằng là Cấn Tốn Đoài Binh Đinh Tân là lục tú thủy ấy vậy. Kim giai thủy ấy có nói rằng là Canh Dậu Tân là Kim giai thủy ấy vậy. Ngự nhai thủy ấy có nói rằng là Kiền Khôn Tốn Cấn là ngư nhai thủy ấy vậy. Đào hoa thủy ấy có nói rằng là Tý Ngọ Mão Dậu là đào hoa thủy ấy vậy. Sát kiếp thủy ấy có nói rằng là Dần Thân Tỵ Hợi là kiếp thủy sát ấy vậy. Hoàng tuyền thủy ấy có nói rằng là Canh Đinh hướng, thì khôn thủy là hoàng tuyền. Ất Bính hướng, thì Tốn thủy là hoàng tuyền. Tân Nhâm hướng, thì Càn Thủy là hoàng tuyền. Quý Giáp hướng, thì cấn thủy là hoàng tuyền. Đinh Canh Ngọ Mùi Thân năm hướng. Ất Bính Mão Thìn Tỵ năm hướng. Tân Nhâm Dậu Tuất Hợi năm hướng. Quý Giáp Tý Sửu Dần năm hướng. Khôn hướng, thì Canh Đinh thủy là hoàng tuyền. Tốn hướng, thì Ất bính thủy là hoàng tuyền. Càn hướng, thì Tân Nhâm thủy là hoàng tuyền. Cấn hướng, thì Quý giáp thủy là hoàng tuyền. Bát diệu thủy ấy có: Kiền long kiêng ngọ thủy, khảm long kiêng Thìn thủy. Cấn long kiêng Dần Thủy, Chấn long kiêng thân thủy. Tốn long kiêng Dậu Thủy, ly long kiêng hợi Thủy. Khôn long kiêng Mão thủy, Đoài long kiêng Tỵ thủy. Quy nguyên thủy ấy có nói rằng là thai tuyệt là hai vị vậy. Thủy của tôn miếu Pháp hồng Nhân lại nói rằng: Nước đi khuất khúc có tình, Tinh thần chưa hợp nhưng hình tốt thay Ông Dương Quân Tùng nói rằng: Cứu bần nước đến chữ huyền Hỏi chi cung cách tần phiền phi công Ông Khắc Yêm lại nói rằng: Dữ lành nước hỏi thành nao? Ly phương phúc trạch dồi dào cháu con. Đây là nói phương hướng tốt, còn như hình thế xung đột, bắn nhắm, bay lạc, xiên vẹo, dùi thủng, trái ngược, nghiêng ngửa, thì dẫu có ở được ngôi lành rồi sau cũng suy sút. Xuất gia dị đồng thủy. nguồn: vnthuquan.net
-
Liệt giường vì ăn ốc ma VnExpress - Thứ Ba, 8/12 Ăn một con ốc ma (ốc sên) nướng, Lưu Thanh Điền, 20 tuổi, ngụ tại Tiền Giang, sùi bọt mép, hôn mê và mất luôn tri giác từ 4 tháng nay. Các bác sĩ cho hay, bệnh nhân bị một loại ký sinh trùng cư trú trong ốc gây viêm màng não.> Viêm màng não vì ăn ốc sên / Nguy kịch tính mạng vì ăn ốc sống Nằm điều trị ở khoa Nhiễm Việt - Anh, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, TP HCM, từ một sinh viên cao to của trường kỹ thuật, Điền trở nên xanh xao, mắt lờ đờ, không nhận ra người thân của mình. Các bác sĩ cho hay, loại ký sinh trùng có trong thịt ốc ma gây biến chứng khiến não của bệnh nhân bị tổn thương quá nặng. Khả năng bình phục không thể tiên lượng. “Tùy vào vị trí não bị tổn hại, bệnh nhân có thể bị liệt hoặc phải sống đời sống thực vật suốt đời”, một bác sĩ cho biết. Theo người nhà bệnh nhân, trong một lần nhậu, thấy ốc ma từ ngoài vườn bò vào nhà, Điền và người bạn nhậu đã bắt nướng ăn. Chỉ vài giờ sau, cả hai đã mê man bất tỉnh. Người cùng ăn với Điền may mắn bình phục. Cùng thời điểm với bệnh nhân Điền, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới cũng tiếp nhận 4 trường hợp khác nhập viện do ăn ốc ma. Một trường hợp ở Sóc Trăng hiện cũng phải sống đời sống thực vật do viêm màng não vì ký sinh trùng có trong ốc. Trong lúc một số bệnh nhân thừa chết thiếu sống vì tai biến do ốc ma thì tại Củ Chi, Hóc Môn (TP HCM), Định Quán, Tân Phú (Đồng Nai), Tây Binh, Bình Phước, ốc ma được bắt bán với giá 30.000 đồng một kg. Người dân cho hay, họ tìm mua ốc ma hoặc tự đi bắt về ăn vì nghe đồn loại ốc này có thể trị được bệnh phong thấp và chứng đau nhức. Tuy nhiên theo các bác sĩ, khả năng chữa trị bệnh từ loại ốc này nếu có, vẫn thấp hơn khả năng gây biến chứng rất nhiều. “Tất cả loại ốc đều có mang ký sinh trùng gây bệnh viêm màng não, nhưng ốc ma chứa loại ký sinh trùng này nhiều hơn. Chính vì thế, tốt nhất là không nên ăn ốc ma. Hoặc nếu ăn thì phải chế biến thật kỹ bằng cách luộc nhiều lần để loại trừ ký sinh trùng gây viêm màng não”, một bác sĩ chuyên khoa Nhiễm khuyến cáo. http://vn.news.yahoo.com/vne/20091207/ten-...ma-7143884.html
-
Luận về sự tranh đấu tịnh âm tịnh dương Đại phàm lập huyệt, chỉ nên xem nước nỏ chảy đi chảy lại thế nào, không những là kén chọn âm dương long mạch, điều ấy thì người ta ai cũng phải biết rồi. Như các sách Trác ngọc phủ biên ra trước kia có nói âm long dương hướng, dương long kỳ âm hướng là những lời nói như thế, người sau chẳng biết duyên cớ gì đâu lại cho là chính tông, thật là hại cho người ta quá tệ, chẳng biết rằng ông Lưu Thanh Điền có nói dương long dương hướng nước chảy cũng dương ấy là lời nói rất hoang đường. Âm long âm hướng nước chảy cũng âm. Người giết người câu lệ là thường, vì rằng âm long âm hướng, dương long dương hướng nó phối hợp với nhau vốn cũng đã nhiều mà âm long dương hướng, dương long âm hướng nó phối hợp với nhau lại cũng chẳng phải là ít vậy. Chỉ duy có người sáng suốt mới nhận định ra ngay nước chảy đứng chầu là bí quyết. Được như thế, thì không đi đến đâu mà chẳng đích đáng vậy. Hai bên cũng rất cần phóng khoáng Kinh có nói rằng: Chốn bình dương hình thế không cùng, núi thì giữ gió, nước nguyên do phát tự ở đâu lại phải phân biệt nước chảy đi chảy lại làm sao kiêng gió kiêng nước cũng thật là chân tuyệt diệu. Nhưng gió thổi thủy kiếp thì sống lâu giàu bền, con cháu nối dõi lâu dài mà minh đường thế đất trùng điệp sóng dồn lại thì càng tốt. Phép so sánh long mạch Kìa như kim mộc thủy hỏa thổ ấy là thiên tinh đấy vậy. Tròn hay là uyển chuyển, thẳng hay là nhọn vuông ấy là hình thế của đất vậy. Thiên tinh địa hình: Trên dưới cùng nương tựa nhau, mà mỗi cái vẫn có nguyên nhân, duyên theo chỗ đó mà phát sinh ra cho nên mới nói rằng: Hình tức là tinh vậy. Hiện thiên kim Trương thiên thủy Sung thiên mộc Diệm thiên hỏa Chướng thiên thổ Đây là năm sao chính ở trên trời vậy. Chủ phát đại phú đại quý. Phép kén chọn huyệt Tham lang tinh thuộc mộc tức là sao tử khí tinh, tức là sao sinh khí. Cự môn tinh thuộc thổ, tức là sao thiên tài, tức là sao thiên y. Lộc tồn tinh thuộc thổ, tức là sao cô diệu, tức là sao lộc cung. Sao văn khúc thuộc thủy tức là sao trảo đãng, lại tức là sao lục sát. Sao liêm tinh thuộc hỏa tức là sao táo hỏa. Sao vũ khúc thuộc kim tức là sao duyên niên vậy. Sao phá quân thuộc kim, tức là sao thiên cương, lại là tuyệt mệnh Thái dương thuộc kim tinh Thái âm thuộc kim tinh. Sao tả phụ thuộc kim Sao hữu bật thuộc kim. Sao tử khí thuộc mộc, tức là sao tham lang. Sao thiên tài thuộc thổ, tức là sao cự môn. Sao cô diệu thuộc thổ, tức là sao lộc tồn. Sao trảo đãng thuộc thủy tức là sao văn khúc Sao hỏa táo thuộc hỏa, tức là sao liêm trinh. Sao duyên niên thuộc kim, tức là sao vũ khúc. Sao thiên cương thuộc kim, tức là sao phá quân.
-
gửi satic82 Nam Nhâm Tuất và Nam Quý Hợi hợp tác công việc. ngày bính tuất 21 tháng ất hợi năm kỷ sửu giờ dậu. Sinh Xích Khẩu Luận: Hai tuổi này hợp tác nhau thì đôi khi cũng có đôi co, nhưng cũng vì chuyện công việc mà thôi. Sang năm thì hai tuổi này có vẽ thuận lợi, nhiều cơ hội làm ăn và hiệu quả cũng rất khá. Công việc này sẽ tiến triển khá tốt rong 2 năm tới. :wub: Thiên Đồng :unsure:
-
Đồng Dollar Mỹ là một danh từ, một vật chất, rất phổ thông chẳng những cho người Mỹ, mà còn rất hấp dẫn đối với hầu hết các quốc gia khác trên thế giới. Bất kể quốc gia nào, thương hay ghét Mỹ, đồng dollar vẫn là cái tiêu chuẩn kinh tế để họ so sánh, ít nhất là cả gần một thế kỷ qua và ngay cả hiện tại nữa. Trong lãnh vực tình yêu, hay rộng hơn nữa, nhân tình thế sự, “dollars” cũng được xem như một trong những đặc điểm “đáng yêu” (có khi đáng ghét), hay ít nhất, “đáng nể” của đối tượng. Đối với những người mới tỵ nạn ở Mỹ, đồng “đô la” thường được nói lái thành “đa lo” (lo nhiều).Nhưhg thật ra có bao giờ bạn để ý trên đồng bạc dollar có những hình vẽ, những ý nghĩa nào, hay ít nhất, màu sắc gì chưa? Cùng lắm, người ta nói “đô la xanh” để nói đến màu xanh của nó thôi. Nếu bạn chưa có dịp thì ngay bây giờ hãy đem đồng đô la ra để “chiêm ngưỡng” nó một tí cho dễ tìm hiểu trong lúc đọc bài viết này. Reduced: 77% of original size [ 748 x 658 ] - Click to view full image Mẫu thiết kế của tờ đồng dollar hiện lưu hành ngày nay được ra đời vào năm 1957. Tuy gọi là “tiền giấy”, thật ra đồng dollar làm bằng chất vải lanh bện bông, với những đường chỉ tơ màu đỏ và xanh rất nhỏ đan ngang dọc. Thật sự đồng dollar làm bằng vải. Chúng ta đã từng giặt nó mà chưa hề thấy nó bị rách. Một màu mực đặc biệt được dùng trong đồng dollars, chẳng biết trong đó pha trộn thế nào. Người ta in những dấu hiệu lên trên đó, và rồi nhuộm hồ để nó không thấm nước và được in ép cho nó mỏng và sát sao đẹp đẽ như ta thấy. Nếu nhìn mặt trước của nó, ta sẽ thấy dấu mộc của sở Ngân Khố Hoa Kỳ. Phía trên cùng của dấu mộc là bàn cân tượng trưng cho sự cân bằng ngân sách. Chính giữa là thước thợ, một dụng cụ dùng để đo cắt cho ngay thẳng. Phía dưới là chìa khóa của sở Ngân Khố Hoa Kỳ. Tất cả đều có thể nhìn ra dễ dàng, nhưng đằng sau của tờ dollar mới là điều mà ta cần tìm hiểu. Nếu bạn lật phía sau của tờ dollar lên, bạn sẽ thấy có hai vòng tròn. Cả hai vòng, họp lại làm thành con dấu lớn của Hoa Kỳ. Đệ Nhất Hội Nghị Lục Địa của Mỹ đòi ông Benjamin Frankin và một nhóm người nghĩ ra một con dấu. Họ đã phải mất bốn năm mới hoàn thành và hai năm sau nữa mới được chấp thuận. Bên hình tròn phía tay trái là một Kim Tự Tháp. Để ý thấy mặt trước của nó thì sáng, và mặt phía Tây của nó thì tối đen. Ý nghĩa của thiết kế này như sau. Lúc ấy quốc gia này (Hoa Kỳ) còn mới bắt đầu. Người Hoa Kỳ chưa bắt đầu khám phá miền Tây hoặc chưa có quyết định gì đối với nền văn minh của miền đất phía Tây. Kim Tự Tháp không có ngọn, tượng trưng rằng họ còn chưa hoàn tất. Trong miếng đá trên đỉnh, có hình một thiên nhãn, mắt nhìn thấy mọi nơi, một dấu hiệu cổ xưa tượng trưng cho Thượng Đế. Ông Franklin tin rằng một người không thể làm một mình, nhưng một nhóm người, với sự hỗ trợ của thần linh, có thể làm bất cứ việc gì. Từ ý nghĩ trên, nhóm chữ “IN GOD WE TRUST” được in trên đồng dollar. Hàng chữ Latin phía trên Kim Tự Tháp “ANNUIT COEPTIS” có nghĩa là “thượng đế đã ủng hộ trách nhiệm của chúng ta”. Hàng chữ Latin phía dưới Kim Tự Tháp “NOVUS ORDO SECLORUM” có nghĩa “một trật tự mới được bắt đầu”. Phía dưới nền của Kim Tự Tháp là số La Mã ghi năm 1776 (đánh dấu năm công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ). Nếu bạn nhìn kỹ bên phía hình tròn bên phải, bạn sẽ tìm thấy nó trong tất cả các Nghĩa Trang Quốc Gia Hoa Kỳ. Dấu hiệu đó cũng được nhìn thấy trên đường phố hàng cờ ở Nghĩa Trang Quốc Gia ở Busnell, Florida, và là biểu hiệu chính cho hầu hết các đài kỷ niệm ghi ơn các anh hùng. Sửa đổi một chút, nó thành cái dấu mộc cho Tổng Thống Hoa Kỳ, và luôn luôn hiện hữu mỗi lần ông nói chuyện, tuy ít có ai để ý những dấu hiệu này mang ý nghĩa gì. Con ó sói đầu được làm dấu hiệu tượng trưng cho vinh quang vì hai lý do: thứ nhất, nó không sợ bão táp, nó mạnh mẽ, và thông minh để vượt bay qua cơn bão. Thứ hai, nó không mang một vương miệng nào cả. Điều này nói lên sự phủ nhận vua chúa. Lúc ấy Hoa Kỳ vừa ly khai khỏi Anh Hoàng. Còn nữa, cái thuẫn che trước ngực nó không có cây đỡ. Ý nghĩa là xứ sở này ngày nay có thể tự đứng vững một mình. Bạn thấy trên đầu của cái thuẫn che có một cái thanh ngang màu trắng, nó tượng trưng cho quốc hội, là một yếu tố kết đoàn. Chúng ta đến với nhau như một quốc gia. Trên mỏ của con ó bạn đọc thấy hàng chữ “E PLURIBUS UNUM”, có nghĩa rằng “một quốc gia của nhiều dân tộc”. Phía trên con ó, bạn thấy có 13 ngôi sao, tiêu biểu cho 13 tiểu bang nguyên thủy. Chung quanh các ngôi sao, tất cả những cụm mây mờ hiểu lầm đang bay ra xa. Nhắc lại một lần nữa, chúng ta đang đến với nhau để họp thành một. Bạn để ý xem con ó cầm cái gì trong những móng của nó. Nó cầm một cành cây olive và những mũi tên. Đất nước này muốn hòa bình, nhưng chúng ta không bao giờ sợ phải đi chiến đấu để bảo vệ hòa bình. Con ó luôn hướng mặt về nhành olive, nhưng trong thời chiến, nó dán mắt nhìn vào những mũi tên. Người ta nói rằng số 13 là con số không may. Điều này gần như cả thế giới đều tin như vậy. Bạn thường ít khi thấy phòng số 13, hoặc mấy cái phòng ngủ không có tầng lầu thứ 13. Nhưng hãy nghĩ xem: 13 thuộc địa đầu tiên, 13 người ký tên trong bản Tuyên Ngôn Độc lập, 13 sọc trên lá cờ Hoa Kỳ, 13 bậc trên Kim Tự Tháp, 13 mẫu tự trong hàng chữ Latin nói trên, 13 chữ trong “E Pluribus Unum”, 13 ngôi sao trên đầu con diều hâu, 13 sọc trong cái thuẫn đỡ của nó, 13 lá trên cành olive, 13 trái cây, và nếu bạn nhìn gần một chút sẽ thấy 13 cái mũi tên. Còn nữa, đối với những người thiểu số: Tu Chính Hiến thứ 13. Ít ai biết điều này, các em học sinh không biết, ngay cả các giáo sư sử cũng nhiều người không để ý. Nhân đây, bạn cũng nên biết, Tu Chính Hiến thứ 13 của Hoa Kỳ bãi bỏ chế độ nô lệ. Nguồn: BacBaPhi Tờ Xanh và Những Chuyện Lạ “Tờ xanh” (danh từ để chỉ đồng dollar Mỹ, USD) trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới là một thương hiệu quen thuộc và phổ biến hơn cả những nhãn hiệu hàng hoá đại chúng như Coca - Cola hay McDonald. Hình thức của những đồng USD hiện đại chứa đựng nhiều điều thú vị do những pha trộn các chi tiết kết cấu, lịch sử và các yếu tố huyền bí. Một số chi tiết trên các tờ xanh thường bị coi là các biểu tượng của hội Tam Điểm hay các tổ chức tín ngưỡng huyền bí nào đấy. Theo đánh giá của website Washprofile, những suy nghĩ như thế hoàn toàn không vô căn cứ vì nhiều nhà lập quốc của nước Mỹ đã là thành viên của hội Tam Điểm và hiện nay các nhóm Tam Điểm vẫn điềm nhiên tồn tại và phát triển trong lòng nước Mỹ. Tuy nhiên, nói một cách công bằng, phần lớn các chi tiết trên các tờ xanh được đưa vào để chống lại những kẻ làm tiền giả. Yếu tố an ninh luôn được đặt lên hàng đầu trong lĩnh vực tài chính Mỹ. Hình thức căn bản của đại đa số các tờ xanh hiện đang được lưu hành đã được thông qua năm 1928. Trên các đồng USD thường có chân dung các nhà lãnh đạo Mỹ: vị Tổng thống thứ nhất George Washington hiện diện trên các tờ $1; vị Tổng thống thứ ba Thomas Jefferson - trên các tờ $2; vị Tổng thống thứ 16, người anh hùng đã giành được chiến thắng trong cuộc nội chiến Nam Bắc Abraham Lincoln - trên các tờ $5; một trong những nhà lập quốc và cũng là Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Mỹ Alexander Hamilton - trên các tờ $10; vị Tổng thống thứ 7 và cũng là một trong những người sáng lập ra các đồng USD hiện đại Andrew Jackson - trên các tờ $20; vị Tổng thống thứ 18 và cũng là anh hùng nội chiến Ulysses Grant - trên các tờ $50; nhà bác học, nhà bình luận chính trị kiêm nhà ngoại giao Benjamin Franklin - trên các tờ $100. Trên các tờ bạc Mỹ có mệnh giá $500 có hình vị Tổng thống thứ 25 William McKinley; trên tờ có mệnh giá $1.000 - hình vị Tổng thống Mỹ thứ 24 Grover Cleveland; trên tờ có mệnh giá $5.000 - hình vị Tổng thống thứ 4 James Madison; trên tờ có mệnh giá $10.000 - hình người đứng đầu Bộ Tài chính dưới thời Tổng thống Lincoln và về sau trở thành Chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, ông Salmon Chase. Chính ông Chase đã là người đầu tiên quyết định ghi lên các tờ bạc Mỹ câu "Chúng tôi tin ở Thượng đế" (In God We Trust) - câu này thoạt tiên được khắc lên các đồng tiền kim loại mệnh giá 12 cent (100 cent bằng 1 USD) năm 1864. Trên các tờ bạc giấy, câu này xuất hiện năm 1957 và từ năm 1963 bắt đầu được sử dụng thường xuyên. Có một chi tiết là: tờ $1, được phát hành từ năm 1863, đã không có chân dung của George Washington mà chỉ có chân dung của ông Chase. Năm 1864, Quốc hội Mỹ đã thông qua đạo luật quy định rằng, trên các tờ bạc Mỹ không được in hình của những người còn sống. Quy định đó được đưa ra sau khi xảy ra câu chuyện thú vị này: ông Spencer Clark, lãnh đạo của Cục Tiền tệ mới được thành lập và vừa bắt đầu phát hành các đồng USD (để tài trợ cho cuộc nội chiến ở Mỹ khi đó) đã đưa chân dung của mình lên tờ bạc 5 cent (nay là đồng tiền kim loại). Thử nghiệm này đã có thể không gây nên những chuyện ầm ĩ vì trước đó trên các "tờ xanh" cũng đã có chân dung của ông Chase, một quan chức tài chính vẫn đang còn sống. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau đó Clark lại bị dính vào một vụ tai tiếng tình ái: trong cơ quan mà ông Clark quản lý có những phụ nữ đầu tiên được nhận làm viên chức nhà nước ở Mỹ và ông đã có với họ những mối quan hệ cá nhân không xứng danh quan chức. Để giải thoát cho các "tờ xanh" khỏi những tai tiếng và để định chế nhà nước Mỹ không bị giễu cợt, Quốc hội Mỹ đã đưa ra quyết định trên - những người không còn sống thì không thể nào gây nên các vụ tai tiếng mới! Ở mặt sau của các "tờ xanh" có những hình ảnh minh họa cho lịch sử của nước Mỹ hoặc là những biểu tượng của nước Mỹ. Trên tờ $2 (tương đối là hiếm gặp) có hình ký bản Tuyên ngôn Độc lập. Trên tờ $5 - hình khu Tưởng niệm Lincoln ở Washington . Trên tờ $10 - hình trụ sở Bộ Tài chính Mỹ. Trên tờ $20 - hình Nhà Trắng. Trên tờ $50 - hình trụ sở Quốc hội Mỹ. Trên tờ $100 - hình Independence Hall ở Philadelphia, tòa nhà mà trong đó đã diễn ra lễ ký Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ. Tất cả các tờ bạc Mỹ đều in fácimile (bản sao) chữ ký của các quan chức chịu trách nhiệm về nền tài chính nước nhà. Thoạt đầu đó là những chữ ký "tươi" của những con người có thực. Năm 1776, những phần tử li khai ở Mỹ đã quyết định tung ra đồng tiền riêng của mình mang tên continental (tên gọi này được hình thành từ tên Quốc hội đầu tiên của quốc gia tương lai - Continental Congress). Thực tế là đã khởi động cỗ máy in ra những đồng tiền không có gì đảm bảo giá trị (vị Tổng thống tương lai của nước Mỹ, khi đó mới chỉ là Tổng tư lệnh quân đội George Washington có lần đã nhận xét một cách châm biếm rằng, mang một xe tiền continental đi có thể mua được một xe khoai tây!) Thế nhưng, mỗi một tờ continental đều được in các chữ ký để chống lại những kẻ làm giả nó, vốn rất ráo riết tác nghiệp ở Bắc Mỹ khi ấy. Để thực hiện công việc này đã tập hợp hàng trăm công dân khả kính, ngồi cùng nhau bên bàn và ký vào từng tờ bạc một - nhiều người trong số này về sau kêu ca rằng đó đã là công việc nặng nhọc nhất trong cuộc đời của họ. Chỉ tới năm 1863, những chữ ký "tươi" mới được thay bằng các bản sao. Trên mặt sau của tờ $1 có in hình "Cái ấn vĩ đại của Hoa Kỳ" (Great Seal of the United States ). Đó là hai hình ảnh: bên phải có con đại bàng đầu trắng, được che bởi một cái mộc có hoa văn của lá cờ sao và vạch. Một móng con đại bàng quắp cành ô liu (tượng trưng cho hòa bình) cùng 13 trái cây và 13 cái lá (tượng trưng cho 13 thuộc địa đã tạo nên Hợp chúng quốc Hoa Kỳ); móng bên kia đại bàng giữ 13 mũi tên (tượng trưng cho chiến tranh). --PageBreak-- Những trái cây, lá và mũi tên được các nhà thiết kế ra đồng USD vay mượn từ các biểu tượng của liên minh các bộ lạc da đỏ Iroquois. Trên đầu con đại bàng là 13 ngôi sao (lại là biểu tượng của 13 thuộc địa). Đầu con đại bàng đã được hướng tới phía cành ô liu nhằm thể hiện khát vọng của nước Mỹ về hòa bình (cho tới trước năm 1945 con đại bàng đã nhìn sang hướng khác). Mặt trên của cái mộc thể hiện cơ quan lập pháp, đầu con đại bàng thể hiện cơ quan hành pháp, còn đuôi của đại bàng - đó là cơ quan tư pháp (tòa án). Các lý giải này chỉ tới đầu thế kỷ XX mới xuất hiện. Trên đầu con đại bàng có dải băng in dòng chữ (cũng gồm 13 chữ cái): E Pluribus Unum, có nghĩa là một trong nhiều. Ý nghĩa của dòng chữ này rất mù mịt. Những tìm kiếm của các nhà ngôn ngữ học và sử học, định lần tới những căn nguyên tương tự trong các công trình của những nhà hiền triết La Mã cổ đại đều hoá công dã tràng - một câu tương tự chỉ được tìm thấy trong một trường ca của thi sĩ Vergilius (mất năm 19 trước CN). Thực ra, bí ẩn của câu văn này rất giản dị. Trong những thế kỷ XVIII-XIX, giữa giới tinh hoa Anh - Mỹ rất phổ biến tạp chí Anh Gentleman's Magazine (năm 1922, tạp chí này đã ngừng xuất bản hàng tháng và ra mỗi quý một lần và đổi tên thành Gentleman's Quarterly, năm 1980, nó lại được phát hành hàng tháng với cái tên GQ). Đầu thế kỷ XVIII, số tiền đặt tạp chí này rất lớn, vì thế, các quý ông chỉ có thể mượn nó đọc từ thư viện hoặc mua cả bộ một năm: bộ tạp chí cả năm này được ký hiệu là E Pluribus Unum. Những nhà thiết kế các tờ bạc Mỹ đầu tiên đã mượn logo này của tạp chí Anh để tạo cho đồng tiền mới một vẻ chững chạc và tin cậy. Ở phía bên trái có hình một kim tự tháp dang dở với chữ số 1776 ở dưới chân (năm thành lập nước Mỹ, được in bằng chữ số La Mã). Không có phương án lý giải chính thức cho hình ảnh này. Người ta cho rằng, kim tự tháp tượng trưng cho sự phát triển tương lai của nước Mỹ và khát khao vươn tới hoàn thiện. Ngoài ra, kim tự tháp còn có 13 bậc - đó cũng là tương trưng cho 13 thuộc địa và cũng là một biểu tượng của hội Tam Điểm. "Con mắt nhìn thấu mọi sự" trong hình tam giác được viền bởi những tia nắng mặt trời (một biểu tượng tôn giáo rất cổ kính), tượng trưng cho sức mạnh thần thánh đang theo dõi cõi trần thế. Trên đỉnh kim tự tháp có dòng chữ gồm 13 chữ cái Annuit Coeptis, có nghĩa là Người đồng tình với việc làm của chúng ta. Dưới chân kim tự tháp - lại là một danh ngôn La tinh nữa: Novus Ordo Seclorum, tức là trật tự mới của các thế hệ, tượng trưng cho sự xuất hiện của "kỷ nguyên Mỹ". Kim tự tháp, con mắt nhìn thấu mọi sự và những dòng chữ này xuất hiện ở thế kỷ XVIII trên những tờ bạc đầu tiên được phát hành ở nước Mỹ - chúng được mời chào sử dụng bởi một trong những nhà lập quốc của Mỹ, Benjamin Franklin, người từng là chủ nhà in, nhà bình luận chính trị, nhà sáng chế, nhà bác học, nhà ngoại giao và cũng là một thành viên hội Tam Điểm. Điều này được lý giải bằng hai yếu tố: sự phổ cập của những biểu tượng như thế trong nghệ thuật thời đó (Franklin cũng tuân thủ theo mốt) và ý muốn gây khó khăn cho những kẻ định làm tiền giả, vốn không đủ tài nghệ để sao chép chuẩn xác những hình ảnh như thế và cũng không thông thạo tiếng La tinh lắm. Tuy nhiên, cái ấn đó chỉ tồn tại trên các tờ bạc Mỹ trong vòng vài thập niên rồi bị quên lãng. Trên các tờ USD hiện đại, "Cái ấn vĩ đại của Hoa Kỳ" chỉ quay trở lại vào những năm 30 của thế kỷ trước, dưới thời cầm quyền của vị Tổng thống thứ 32 Franklin Roosevelt. Ông Roosevelt đánh giá chi tiết này trong hình thức của đồng USD như một biểu tượng sức mạnh của nền kinh tế Mỹ. Người ta cũng đã thông báo với ông về biểu tượng của hội Tam Điểm có trong cái ấn. Thấy vậy, ông Roosevelt đã hỏi ý kiến của một thành viên nội các (một tín đồ Thiên chúa giáo) về việc, liệu các chi tiết như thế có làm xúc phạm tới tình cảm của các tín đồ không, và ông đã nhận được câu trả lời là không! Những nguyên nhân khiến các tờ bạc Mỹ có màu xanh cho tới nay vẫn không được ai biết rõ. Trước năm 1929, để in các tờ bạc Mỹ, người ta đã sử dụng các màu sắc khác nhau - màu xanh đơn độc như hiện nay chỉ xuất hiện từ năm 1929. Mực màu xanh nhìn chung là tương đối rẻ và màu xanh tương đối ổn định trước các tác động từ bên ngoài. Thêm vào đó, màu xanh về mặt tâm lý thường gợi lên sự tin cậy đối với đồng tiền và khiến người ta cảm thấy lạc quan. Trong những năm gần đây, các tờ bạc Mỹ lại được tô thêm màu mới nhờ những ánh vàng và hồng. Mặc dầu thế, "tờ xanh" vẫn tiếp tục là "biệt danh" của đồng USD trong ngôn ngữ của nhiều nước
-
Gửi Huy Khôi, Tôi đang có băn khoăn có nên thay đổi công việc hiện tại không và đã bốc đươc quẻ ngày Quí Mùi, tháng: Ất Hợi, năm Kỷ Sửu (04-12-2009) Quẻ Phong Địa Quan Gió thổi trên đất, sấm dậy mặt đất, báo hiệu sự khởi sinh, ý ấy là vui vẻ mà manh lo dự phòng, nghĩa ấy là thổ động nứt ra, vạn vật phất triển. Biến quái Phong Thủy Hoán Sấm động trên mặt bể, thuyền xuôi theo sông dài, ý ấy là phân tán, nghĩa ấy là giải đi. Thể đầu khắc dụng, dụng sau sinh thể, lại lâm nguyệt lệnh, tuế lệnh hối thúc. Hào nhị trung chính động biến đắc dương vị. Đoán rằng có sự thay đổi, nhanh thì đầu xuân sau, nhanh hơn thì trong vòng 12 ngày. Vài hàng lạm bàn. Thiên Đồng
-
So sánh để lập huyệt nơi bình dương phép động tĩnh Đại phàm khi lập huyệt, cần nhất phải xem đất hay ruộng chỗ nào là chỗ động thì mới là chân thực xác đáng. Thế nào là động? Nơi cao nơi thấp của đất ruộng là động. Động nghĩa là hoặc lồi hoặc lõm, chỗ khác thường đi thời là long mạch hay ở những chổ ấy vòng quanh xúm xít hay ở những chỗ đứng mạch lại. Thế cho nên chỗ hơi cao một chút là động, hơi thấp một chút là tĩnh. Cho nên nói rằng: cao hơn một tấc là núi, thấy đi một tấc là nước vậy Nước vốn động nhưng cầu được chỗ tĩnh mới tốt. Đất vốn tĩnh nhưng cầu được chỗ động mới hay. Tính tình nước động chảy đi Ý thiêng tụ hội tĩnh thì mới hay Đất thường bình tĩnh xưa nay, Mạch động đặc biệt khác ngay mới là... Người xưa có nói rằng: Huyệt không động tĩnh, phúc ấm không hay kém thịnh, đất không cao thấp, mỏi mắt nhọc lòng uổng công phí sức, người ý tứ phải như thế đấy. Luận về Minh đường cao thấp Phàm khi định huyệt, huyệt cần nên xem những chỗ nào âm dương biến hóa, như được những phương đế vượng thì nhân định thịnh nhiều. Cao một tấc là núi thuộc âm, thấp một tấc bằng phẳng, ruộng thuộc dương. Cũng có khi vì ruộng thấp mà phải bồi đắp thêm đất để mà táng ấy cũng thành thuộc âm. Nhược bằng ấy nước thủy triều lên xuống cũng tức là thuộc dương. Chỗ âm dương cùng giao cảm với nhau tức là vượng tướng, phàm làm huyệt, trong minh đường nếu có ruộng thấp quá thì nên làm khí quản (ống hơi). Kinh nói rằng: Minh đường như lòng bàn tay Nhà giàu đấu đựng vàng đầy của dư. Nhưng ở ngoài minh đường cũng cần nên phải để cho cao. Lại có câu kinh rằng: Minh đường cao lại ưa cao, Phúc cho con cháu biết bao sang giàu Minh đường thấp quá hoặc sâu, Nghèo nàn con cháu buồn rầu xác xơ nguồn: vnthuquan.vn
-
Đúng là bà Tám! :unsure:
-
Có một thứ dấu hiệu chữ cái Alphabet bằng tay dành cho người câm. và khi nói tắt hay ra hiệu cho câu "I Love You", thì người ta giơ tay lên với ba ngón tay như trên. Ấy là tắt của 3 chữ I, L và Y. Đây là hành động bắt chước ngôn ngữ của người câm. Dấu hiệu ngôn ngữ này thường được hướng dẫn trong sinh hoạt đội nhóm công tác xã hội, xem như một mật thư. Còn có phải là có nguồn gốc từ Hội Tam Điển nữa hay không thì cần...ngửa cứu thêm. Dầu sao đồng Dollar cũng thật là huyền bí. Xem ra cũng có thể là "bùa trấn yểm" thật là hữu dụng của dân sứ Cao Bồi Hoa Hòe cho những ai hay bị tăng - xông, mất ngũ và bệnh...than. :unsure:
-
Nghe mấy ông cậu nói lại, ngày xưa khi các võ sĩ thượng đài đấu muay thái thì sau hậu đài đã để sẳn hai..."cây hàng". Em nào tử trên võ đài thì ra về trong "hàng" rất êm xuôi. :D Cũng mấy ông cậu nói rằng các võ sĩ muay Thái ngoài luyện quyền cước tay chân ra, thường có dùng bùa ngãi, gọi là võ bùa. Chẳng biết thực hư ra sao, nhưng khi lên đài là các võ sĩ múa may, bái lạy thấy cũng kiểu cách nhiêu khê. Trước kia đấu trường Việt Nam cũng đã đụng độ với Bốc Thái, nghe đâu ta thất bại cũng nhiều mà thắng cũng không ít. Có cả Nữ võ sĩ Bốc Thái đấu với Nam võ sĩ Việt Nam. Anh nào không vững tâm cũng rớt như sung. Bây giờ thì Bốc Thái với Thiếu Lâm. Hấp dẫn! Muốn biết sự thể ra sao, xem hồi sau sẽ rỏ. :unsure: Thiên Đồng :wub:
-
Ngũ hành phương cục Thử xem bản sơn chỗ vị trí thuộc ngũ hành nào, Mộc tinh trường sinh ở Hợi, Hỏa tinh trường sinh ở Dần, Kim tinh trường sinh ở Tỵ, Thủy và thổ tinh trường sinh ở Thân Các vị đều phải chiếu theo địa vị của nó khởi tự đâu, rồi đuổi theo trường sinh mà xem sao quan diệu để mà xem phương vị. So sánh hai sao quan diệu để mà xem phương vị sinh tử. Trường sinh cung xuất hiện là đỗ khôi giáp. Quan diệu chủ ra đại quan về. Nửa năm tất nhiên đã phát. Mộc dục cung xuất hiện thời bổng lộc hậu, quan diệu cung sao xuất hiện thì phát đại quan. Quan đới cung xuất hiện thì phát tài hoa. Quan diệu sao chiếu chủ sang mà thanh chính. Lâm quan cung xuất hiện thì có tài chính sự. Quan diệu sao xuất hiện thì làm quan bị chín lần đổi. Đế vượng cung xuất hiện thì là người thống đạt Quan diệu sao chiếu thì làm quan chín lần đổi. Ai cung xuất hiện thì là lưu liên đình trệ Quan diệu sao chiếu chủ lâm quan không lộc. Bệnh cung xuất hiện là bị chinh chiến. Quan diệu sao chiếu thì chủ lâm quan làm ác ngược. Tử cung xuất hiện thì là người không khí độ. Quan diệu sao chiếu thì lâm quan không cất nhắc thì không có giấy tờ. Mộ cung xuất hiện là bổng lộc coi kho. Quan diệu chiếu là chủ làm quan tích bảo. Tuyệt cung xuất hiện thì bị hao hụt của cải. Quan diệu chiếu thì là làm quan chết đường. Thai cung xuất hiện thì người ta hình dung đẹp đẽ. Quan diệu sao chiếu thì chủ lâm quan thanh tú. Dưỡng cung xuất hiện là người nhân từ. Quan diệu sao chiếu thì làm quan hàm dưỡng khéo. Long mạch bằng ở hướng nước mà so sánh. Ông Dương quân Tùng làm cái thuật cứu bần cũng tùy theo tất cả trên phương hướng mà lên lên xuống xuống, đổi thay thay đổi luân chuyển tuần hoàn. Vì rằng long huyệt vốn không phải là lành dữ, mà chỉ dạy lấy hướng nước là lành dữ vậy. Cho nên long mạch dẫu chẳng được đẹp tốt hoàn toàn cho lắm mà thủy thần nếu được trường sinh đế vượng chi khí thì cũng có thể phát phúc đinh tài lưỡng vượng vậy. Trường sinh đế vượng nước đó cần phải đến, tử tuyệt nước đó cần phải đi. Nước lại nước đi quan hệ ở long huyệt lành hay dữ vậy. Một việc tối ư khẩn thiết không gì bằng cái nước trường sinh đế vượng phương mà nó tan rã. Thời long huyệt dẫu có thật cũng chẳng hay sinh tài phát phúc gì được, vậy mà lại còn tai bay vạ gió đến ngay. Đấy khá thấy bởi nước mà long huyệt thành ra dữ vậy. Mà nước nó lành dữ lại tại phương hướng. Cho nên ông Dương Quân Tùng nói rằng tìm long mạch mà điểm huyệt tất nhiên phải lấy nước làm chủ, lấy hướng làm tôn trọng vậy như gặp phương trường sinh đế vượng, sa thủy hay lấy hướng thu về cục nội làm gốc ở huyệt quan lộc. Thời phát phú quý phát phúc không còn ngờ vậy. Ngày xưa có người lập hướng nhỡ một khi nhầm lẫn, lại đem đế vượng phương sa thủy bát sang cái ngôi tử tuyệt thời bản huyệt quan lộc, hóa ra làm quỉ sát hại người tốn của. Đấy cái lý đương nhiên thật là việc đáng tiếc vậy. Giả như khôn thân hành long, dần mão là ngôi bệnh, tử Tỵ Ngọ là tuyệt hai địa vị vậy. Mà Dần Mão Tý Ngọ có núi cao nước cả ví bằng lộc tốn tỵ canh ba hướng, mà họa đến ngay. Như Bính Ngọ hướng thời cái núi Dần Mão làm hỏa tinh của tràng sinh mà cái nước của Tỵ Ngọ làm cái nước lâm quan đế vượng há chẳng làm phúc ru? Cho nên kén chọn hình thục ấy là giả Kén chọn đế vượng ấy mới là thật. Vậy cho nên những chỗ hay, còn phải ở người khéo biến báo hoạt bát vậy. Tam hợp ngũ hành kén chọn long mạch, đại phàm xem long mạch phải biết từ núi tổ nó phát ra đi thế nào. Xuất thân chuyển qua quan ải núi non rộng hẹp nương tựa đổi thay mà lại, nhưng cần phải đến chỗ nào đặc biệt nhất làm cốt, thảng hoặc như có chân long thay đổi vắn mà sau rốt lại dài tất nên bỏ chỗ nguy mà nhận lấy chỗ chân nương tựa vào nước mà lập hướng như long nhập thủ mùi phương nước chảy thì lập Giáp Mão hướng vượng Đinh Mùi mộ hướng. Cho nên cần phải so sánh tam hợp. Bốn cục cũng đều như thế vậy Tam hợp là: Thân, Tý, Thìn Bốn cục là: Thân Tý Thìn là thủy cục. Tỵ, Dậu, Sửu là kim cục Hợi Mão Mùi là mộc cục Dần Ngọ Tuất là hỏa cục.
-
Ông xã muốn thành lập công ty riêng với người đó. Người đó là nam hay nữ? tuổi gì? Kinh doanh nội thất cụ thể là gì? satic82 vợ có hợp tác làm ăn với tụ này không? hay chỉ đứng ngoài nhìn?
-
Gửi HHH ngày ngày giáp thân (LT hỏa) 19 tháng ất hợi (TL thủy) giờ tị Đổ Xích Khẩu Luận: Tốt. Có thi vấn đáp gì không? Hay viết bài? Vấn đáp hay viết bài điều tốt cả. Thang điểm chỉ trong vòng 8,9 điểm. Chúc thành công Thiên Đồng
-
Gửi anh Tuấn Long, Ngày quý mùi (DL Mộc) 18 tháng ất hợi (TL Thủy) năm kỷ sữu giờ tị. Nay muồn bán nhà Thương Tốc Hỷ Luận: Hiện nay anh muốn bán nhà, có vẻ muốn bán gấp. Chắc cũng đã 3 lượt người kỳ kèo cho qua chuyện cũng không thực vừa ý mua. Chuyện này phải để sang năm sau, nhanh thì tháng 2 chậm thì tháng 4 âm sang năm. Đoán là tháng 2 xuân sẽ bán được. Thiên Đồng
-
gửi kàna ngày 17/10 kỷ sữu giờ thân. Quẻ Cảnh Tiểu Cát. Nếu chịu huề vốn từ đây đến cuối năm thì mở bây giờ sang xuân năm sau thì thấy lợi. Tháng 10 âm còn ngày tốt là 21 và 25 âm. Tháng 11 âm thì ngày 6. Tùy ý chọn rồi Đồng chọn giờ lành tháng rách cho. :P
-
Vậy là người iu của Lovestory là tuổi Mão. Tháng đại lợi là tháng 1 và 7 Tháng tiểu lợi là tháng 6 và 12 Nên sinh con tuổi Canh Dần 2009 và Ất Mùi 2015 hoặc Kỷ Hợi 2019. Vợ chồng này nếu không cãi nhau thì ăn cơm không ngon, nhiều khi người không nghe được sự cằn nhằn của ng kia thì chắc cũng nhớ lắm, như ăn cá mà thiếu ớt cay đó mà. Nhưng nói về việc phát triển kinh tế gia đình thì rất khá và rất hợp. Hai ng bàn chuyền làm ăn tiền bạc thì quên cải nhau. Nên kinh doanh ngành ăn uống, xăng dầu, bàn ghế nội thất gổ... sẽ rất hợp. Chúc hạnh phúc. Thiên Đồng
-
Có 2 khoản thời gian tốt để tiến hành trọng sự. giờ thìn: 7g đến 9g giờ ngọ: 11g đến 13g Tùy sấp xếp sao cho hợp nhé. Sinh con tuổi Canh Dần 2010 và Mậu Tuất 2018 hoặc Kỷ Hợi 2019. Chúc hạnh phúc. Thiên Đồng
-
Hạ Tầng Hung Long Tý long Chính khí Canh Tý, Tý long có một hướng là hướng Khôn. Nên ngồi phương Cấn hướng khôn Tý là dương long. Sửu long Chính khí Tân Sửu, Sửu Long có một hướng bính. Nên ngồi phương nhâm hướng Bính. Sửu là âm long. Dần long Chính khí Nhâm Dần. Dần long có hai hướng khôn và thân. Nên ngồi phương Cấn hướng khôn, ngồi phương Dần hướng Thân. Dần là dương long. Giáp long Chính khí Tỵ Mão. Giáp long có hai hướng Càn và Khôn. Nên ngồi phương tốn hướng càn, ngồi phương cấn hướng khôn. Giáp là dương long. Ất long Chính khí Canh Thìn. Ất long có một hướng là hướng khôn. Nên ngồi phương Cấn hướng về Khôn. Ất là dương long. Thìn long Chính khí Giáp Thìn. Thìn long có hai hướng kiền và khôn. Nên ngồi phương tốn hướng kiền, ngồi phương cấn hướng khôn. Thìn là dương long. Tỵ long Chính khí Ất Tỵ. Tỵ long có một hướng là hợi. Nên ngồi phương Tỵ hướng Hợi. Tỵ là âm long. Ngọ long Chính khí Bính Ngọ. Ngọ long có hai hướng là Quý Nhâm. Nên ngồi phương Đinh hướng quý, ngồi phương bính hướng nhâm. Ngọ là dương long. Mùi long Chính khí Đinh mùi. Mùi long có một hướng là cấn. Nên ngồi phương khôn hướng cấn. Mùi là âm long. Khôn long. Chính khí Giáp Thân. Khôn long có một hướng là Quý. Nên ngồi phương Đinh hướng Quý. Khôn là dương long. Thân long Chính khí Mậu Thân. Thân long có hai hướng là Quý Giáp. Nên ngồi phương Đinh hướng Quý, ngồi phương Canh hướng Giáp. Thân là dương long. Tuất long Chính khí Canh Tuất. Tuất long có một hướng là Ất. Nên ngồi phương Tân hướng Ất. Tuất là dương long. Kiền long Chính khí Đinh Hợi. Kiền long có một hướng là Ất nên ngồi phương Tân hướng Ất Kiền là dương long. Xem nước lại phương nào sinh vượng. Bát đất đi khỏi chỗ hưu tù. Phải là được phép đó ru? Mới thành kết quả mới thu công trình. So sánh để lập huyệt ở chỗ bình dương. Đại phàm chọn đất ở chỗ bình dương, thì nên lấy nước tốt làm chủ, lấy phương hướng làm tôn vậy. Vậy nên xem được nước phải như thế nào. Nước thu về ở phương trường sinh đế vượng, bát đất đi khỏi nơi hưu tù nước đọng, ấy là người đã hiểu được phép vậy. Ví bằng được phương hướng trường sinh đế vượng thì sinh con rất thông minh tuấn tú. Nếu như đế vượng đi mà tràng sinh nghinh tiếp đến thì phú quý nó hẹn đến ngay. Như đế vuợng đi mà phá trường sinh, thì dẫu có con mà cũng chả làm ra gì. Trường sinh lại mà phá đế vượng thì dẫu có giàu sang rồi cũng chẳng ra làm sao, chỉ luống công vậy thôi. Ví như gặp minh đường phương hướng cực chẳng hợp với thủy khẩu cho lắm nhưng cũng có thể tòng quyền mà lập hướng chứ không nên coi nhẹ mà vội bỏ đi vậy chăng. So sánh thế nào là giả, kén chọn hình cục ấy thời là giả. So sánh thế nào là chân, kén chọn trường sinh đế vượng ấy là chân. So sánh thế nào là âm? - Nổi cao lên ấy thời là âm. So sánh thế nào là dương? - Bằng mà thấp ấy là dương. Trường sinh phương lại được nước tốt tức là lập được sinh hướng là tốt. Đế vượng phương mà được nước tốt tức là đã lập được vượng hướng là tốt. Mộ phương mà được nước tốt tức là đã lập được mộ hướng là tốt.
-
Bốn tuổi này hợp tác với nhau làm ăn thì quá đẹp, cũng thích hợp cho nhà hàng tiệc cưới luôn. nếu cả hai vợ chồng Kana đều làm chủ hay cổ phần hùn nhiều nhất thì càng tốt. Nên giữ thế hợp tác 4 người này. Năm nay đều tư năm sau sẽ thấy lợi. Ngay đầu năm sẽ thấy thuận lợi nhiều. Chúc thành công.
-
Ái chà cobelolem đã gặp Hoàng tử trong mộng rồi. Chúc mừng. Tháng 12 âm lên xe bông về nhà đức lang quân là đẹp đó, được tiểu lợi. Ngày tốt là 6, 10 11, 12 âm tháng 12. Tùy ý chọn và sắp sếp, Thiên Đồng chọ giờ tốt cho. Chúc hạnh phúc