-
Số nội dung
6.278 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
75
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Đồng
-
LacTuong mở topic này nhằm quy nhóm chủ đề thuận lợi cho việc tham khảo nghiên cứu mà không bị tản mác. Các đồng môn cứ việc quăng quẻ lên đây, rồi cùng nhau luyện tập.
-
ĐỐI TƯỢNG -Thưa cụ. . . .Đối tượng của thiền là gì? -Này chú Ba. . .Thiền không có đối tượng. - Thế. . . quán niệm hơi thở, dụng tâm quán tâm, nhận biết ý nghĩ, cảm thọ. . . . hay tri vọng chẳng phải đối tượng là gì? - Đó là các kỹ thuật tâm lý nhằm tiếp cận thiền. Nó là ngón tay chỉ trăng chứ không phải mặt trăng. . . . - Thiền như là mặt trăng? - Trạng thái thiền như mặt trăng tỉnh giác. . . .Nó thường chiếu, viên chiếu, hằng chiếu. . . .tự nhiên và phi nỗ lực! . . . . - Thế nào là hằng chiếu? - Vì Phật tánh là bản chất nên nó vốn như vậy. - Thế nào là viên chiếu? - Vì vô sở trụ. . . không có phạm trù. . . phi khái niệm. . .Là sự phản ảnh tức khắc, nên gọi là tự do hay giải thoát!. . . . - Thế nào là thường chiếu? - Vì phi thời gian. . . . - Làm sao để được vậy? - Tự nhiên sẽ được vậy. - Sau khi đã thực hành các kỹ thuật tâm lý để tiếp cận? - Đúng vậy. . . . Sau khi đã thực hành các kỹ thuật tâm lý để tiếp cận . . . .rồi buông xuôi. . . . . Nghĩa là, nương ngón tay Phật chỉ sẽ thấy mặt trăng. - Thế cần gì phải nói mặt trăng là cái xa vời mà ngay bây giờ chỉ cần "Nương ngón tay chỉ" thì thấy mặt trăng là cái đương nhiên, chứ mải nói mặt trăng mà không có ngón tay chỉ thì làm sao thấy được? - Đúng vậy!. . . .Đa thư loạn tâm. . . .duy tuệ thị nghiệp. . . . Nhưng chú Ba có biết: Đành rằng "nương ngón tay chỉ, sẽ thấy mặt trăng". . . .Thế nhưng nếu cứ mải nhìn ngón tay, không nương theo đấy ngước mặt nhìn lên trời. . . nhìn về cõi vô cùng. . . .thì có tinh tấn nhìn ngắm mãi, cũng sẽ thấy ngón tay chứ không phải mặt trăng!. . . Bởi vậy người chỉ trăng mà sơn phết ngón tay mình quá đẹp. . . .ca tụng ngón tay mình quá nhiều. . . .lại hô hào chỉ nên nhìn vào ngón tay mình. . .khiến người tìm trăng nhận lầm ngón tay mình là "Mặt trăng". . . .chẳng phải là đáng tiếc lắm sao!. . . . - Đúng là đáng tiếc! . . . - Mô Phật!. . . Ta tưởng vậy chứ chưa chắc đã vậy. Chú Ba nên hỏi việc này với chư vị thiện tri thức để các ngài chỉ dạy cho. - Thế sao cụ không tự mình hỏi lấy có hơn không? - Ta không có nhu cầu tìm hiểu và nghiên cứu. . . Vả lại ta đang rất bận!. . . - Cụ bận điều gì? - Ta bận làm việc và đi chơi!. . . . Tưởng Vậy/13/6/2006, từ duongsinh.net
-
TRƯỚC PHẬT ĐÃ CÓ PHẬT? tlt2009: Anh ơi, theo em đọc được thì trước Phật Thích Ca đã có vô số các vị phật rồi :lol: .Ít nhất là 1 vị Phật A-Di-Đà. Kimphong: Theo mình được biết, trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có Đức Cổ Phật Ca Diếp rồi . Thiên Đồng: Dạ, Thiên Đồng không biết trước Đức Thích Ca thì đã có Phật nào chưa. Bởi vì Thiên Đồng...chưa thành Phật. Xin khất lại với các chư bằng hữu, chừng nào Thiên Đồng thành Phật thì sẽ nói cho chư bằng hữu biết là trước Đức Thích Ca thì đã có Phật nào hay không. A Di Đà Phật! Nếu các chư bằng hữu cần câu trả lời gấp thì xin đến hỏi với Đức Phật. :rolleyes: Nói dậy hong biết có đúng hong? Xin các chư bằng hữu tìm hỏi lại chuyện này với các vị đã chứng đắc xem thế nào? Thiên Đồng cũng muốn biết lắm! Thiên Đồng
-
SẮC KHÔNG Tư Rượu Đế đang ngồi tán dóc với Ba Gàn. Hắn huyên thuyên về thiền và chứng ngộ. Ba Gàn như bị tra tấn. Từ sáng đến giờ, đã gần ăn trưa rồi mà hắn vẫn chưa về. Rất nhiều lần lão định chen ngang để tìm cách rút lui vì đã quá mõi mệt. Thế nhưng lần nào cũng vậy, cứ thấy Ba Gàn định nói Tư Rượu Đế lại xua tay gạt phắt đi và lại tiếp tục diễn thuyết liên miên bất tận. Thật quá quắt! . . .chẳng thấy hắn ngừng chút nào để mình chen vô! . . .Tức chết đi được! . . .Nhớ lời cụ Tưởng Vậy dặn, Ba Gàn quán tâm liên tục chứ nếu không thì thế nào lão cũng nổi tam bành với vị khác không mời mà đến này! . . . - Thật quí hoá quá! . . chẳng mấy khi bác đến chơi. Vợ chồng chúng em mời bác xơi bửa cơm nhạt với chúng em. Xin bác cứ tự nhiên cho! . . . Thím Ba Gàn vừa nở nụ cười xã giao vừa đặt mâm cơm khách trước mặt hai người đàn ông rồi bước vào trong. Ba Gàn mừng rơn tưởng mình được thoát nạn! . . . vì thế nào hắn cũng ngừng nói để ăn chứ! . . .Thế nhưng Tư Rượu Đế lại nhanh nhẹn đưa tay ngăn không cho Ba Gàn cầm đủa. Hắn lại tiếp tục nói một cách hùng hồn: - Ấy! . . .xin ông đừng vội! . . . quân tử cầu thông, tiểu nhân cầu thực! . . .chúng ta giải quyết việc này cho thông rồi hảy ăn chứ vội gì! . . . Ba Gàn tức anh ách đứng dậy định nổi nóng! . . Nhưng không kịp, Tư Rượu Đế đã nhanh hơn: - Khi sáng giờ ông đã nghe nhiều về bát nhã rồi. Vậy chứ ông có biết thế nào là: " sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc thức thị không, không tức thị sắc"? - Bộ ông biết chắc! Ba Gàn cố nén nhưng vẫn không giấu nổi vẽ bực tức! - Hì hì! . . .đừng nóng! . . .đừng nóng! . . .Sao ta lại không biết! . . . Này để ta nói cho nghe: "Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc" nghĩa là: Có không khác không. Không không khác có. Có cũng như không, không cũng như có. - Sao lại như thế được? - Chú thì thấy không được, chứ người đã chứng ngộ như ta thì thấy có cũng như không, không cũng như có! . . Cỏi trần này ta thấy như mơ như huyễn đâu thực có! . . Ráng tu đi rồi sẽ có ngày giác ngộ như ta! . . . Thế này thì quá lắm rồi! . . .xin Phật thứ tội con không thể nhịn được nửa! . . Nghĩ như vậy, Ba Gàn đứng lên chỉ vào mâm cơm: - Mâm cơm này là có? - Phải, là có. - Vậy nó cũng như không! . . Thế này nhé, ông là người đã tu chứng, đã ngộ cái lý: "Có không khác không, không không khác có. Có cũng như không, không cũng như có" rồi! . Vậy ông không ăn cũng như ăn. Còn tôi vô minh nên tôi thấy : Có là có, không là không, không thể lẩn lộn được. Bởi vậy tôi phải ăn cơm chứ không thì đói. Ông lẽ dĩ nhiên chẳng cần đến cái này. Vừa nói Ba Gàn vừa đưa tay cầm cất đi một cái bát và một đôi đủa phần của khách. Lão vừa xới cơm vào bát của mình vừa cười : - Hề hề! . . .tớ đói là đói, chứ không thể đói là no được nên tớ đành phải ăn thôi! Còn huynh là người đã chứng ngộ chắc huynh thấy đói cũng như no, no cũng như đói nên huynh không ăn mà cũng no, tài thật. Tớ thật tâm phục khẩu phục! . . . Ba Gàn quên mất bài học tỉnh giác. Lão ăn lia ăn lịa! . . . chưa bao giờ lão thấy ngon miệng như hôm nay! . . . Tư Rượu Đế ngồi im như phổng đá! . . . . Hôm Ba Gàn gặp tớ ở quán trà. Lão kể lại câu chuyện này. Kể xong lão đưa mắt nhìn tớ chằm chằm, chờ ý kiến ủng hộ của tớ. Tớ làm bộ giữ chánh niệm chỉ mĩm cười không nói chi, chứ thật ra cũng bí, không biết thế nào là phải. Nếu cho Ba Gàn là đúng thì bài bát nhã tâm kinh sai sao? Còn nếu cho Tư Rượu Đế là đúng thì coi chừng có ngày mình bị bỏ đói chứ chẳng chơi! . . Bí quá, chờ Ba Gàn uống trà xong đi về. Tớ vội vàng viết lại câu chuyện này đăng lên trang Web Dưỡng Sinh, hy vọng sẽ nhận được câu trả lời cuả quí vị để giải nghi cho cái đầu tăm tối của tớ! . . .hì hì! . . .Xin chân thành cảm ơn trước! . . . HAI LÚA/30/9/2004
-
Cứ để tự nhiên sẽ có hậu kiết. Nhưng theo cảm nhận, những giao dịch đầu sẽ có thuận lợi, về sau nên cẩn trọng. Thấy có gì bất hợp lý hay ám muội thì nên rút. Về lâu dài không ổn. Có thể có sự gian thương bên trong. Chưa biết sự việc sẽ ra sau. Để hạ hồi phân tỏ. Đây chỉ là nhàn bàn chưa hẳn đúng. Chúc may mắn, phát tài. :) Thiên Đồng :lol:
-
gửi khangduong, ngày bính thìn (STT) 23 tháng canh thìn (BLK) năm canh dần (TBM) giờ ất mùi (STK) Thương Xích Khẩu Luận: Năm nay sẽ là năm làm như điên, túi thiếu tiền, lòng ưu phiền, mọi chuyện thiệt vô duyên. sẽ tạm ổn vào những tháng cuối năm. Công việc sẽ có sự thay đổi, có người gợi ý và giúp đỡ. Khoản giữa tháng 5 âm thì có chuyển biến. Sẽ có tin về chuyện con cái. Nên sinh đứa Tân Mão 2011, nhưng chắc chắn là 2011 có con. Đứa này sinh ra, vợ chồng sẽ cực kỳ thuận lợi. Trong tháng này hoặc đầu tháng sau, khi nào tiện hay rảnh thì mua ít nhất 100 con chim thả, nhiều hơn càng tốt, không cần cúng kiếng. Chúc an cư lạc nghiệp. Thiên Đồng
-
XIN GIÚP MỘT "CẦN CÂU" Hôm nay, 5/5/2010, lúc 12g15, Thiên Đồng có mặt tại bệnh viện Chợ Rẫy để trao cho chị Võ Thị Phước, bệnh nhân tim mà những lần trước Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã hỗ trợ, số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẳn). Đây là số tiền do thành viên Hoangnt của trang nhà lyhocdongphuon.org.vn ủng hộ đóng góp. Thay mặt Trung tâm và chị Phước, chân thành cảm ơn tấm lòng thành của thành viên Hoangnt. Hôm nay là ngày chị Phước trở lại bệnh viện để tái khám định kỳ sau 7 ngày ra viện (30/4/2010). Từ sáng sớm người hàng xóm và con gái chị đã đưa chị Phước vào ngồi chờ khám và mua thuốc, nhưng đến lúc Thiên Đồng đến mà vẫn chưa tới lượt. Theo lời người hàng xóm thì con gái chị trước kia làm công nhân, nay đã nghỉ việc để lo cho mẹ. Người này muốn xin sự giúp đỡ của cô Widlavender tìm một việc làm để có kế mưu sinh. Bởi hiện nay, chuyện bệnh tật của người mẹ cũng đã và đang là gánh nặng của cả gia đình không có nguồn kinh tế ổn định. Qua đây cũng mong sự giúp đỡ của các thành viên có lòng hảo tâm trên diễn đàn. Đây là thư cảm ơn và xác nhận nhận tiền nhận tiền Từ phải qua: Con gái của chị Phước, chị Phước và anh hàng xóm.
-
Chúc mừng yeucon đã được nhận việc. Vậy thì 28/3 âm tức là 11/5/2010 nhận việc là tốt đẹp. Hoặc nếu muốn trể thì 21/5/2010 cũng tốt. chúc thành công. :lol: Thiên Đồng :)
-
BẢN THỂ CỦA TÂM -Thế nào là bản thể của tâm? - Không có vấn đề ấy - Tại sao? - Nếu tâm là tâm thức hay trạng thái tâm lý thì tâm đang ở "dụng"nghĩa là phạm trù hiện tượng. Do đó không thuộc phạm trù bản thể. Nếu tâm là cái tối thượng thì nó là tánh hay thể, nên không cần phải dùng bản thể của tâm! . . . - Thế nào là năng lực của tâm? - Không có vấn đề ấy. - Tại sao? - Nếu tâm là tâm thức hay tâm lý, thì cái gọi là hiệu ứng tâm lý thật ra là do cơ thể hiển thị. Bởi tâm lý hay tâm thức chỉ là một khái niệm duy danh không phải là một thực thể. Do đó không có vấn đề năng lực của tâm! Nếu tâm là cái tối thượng thì nó là tánh hay thể do vậy nó phải vượt khỏi phạm trù nhị nguyên của "năng và không năng". Vì cái tối thượng thì phi đặc tính. Bởi vậy không có vấn đề năng lực của tâm! . . . - Đặc tính "tịnh" của khí là gì? - Không có vấn đề ấy. - Tại sao? - Nếu khí ở "dụng" nghĩa là mặt hiện tượng thì khí là năng lượng. Đã là năng lượng thì năng động miên viễn chảy mãi không bao giờ ngừng nghĩ. Do vậy không có vấn đề tịnh. Nếu khí là cái tối thượng thì khí trùng với tánh hay đạo. Do vậy khi ấy khí phải vượt khỏi phạm trù nhị nguyên của "tịnh và động"Nên trong trường hợp này cũng không có vấn đề tịnh của khí. - Vậy phải dùng "tâm" hay "khí" thế nào mới đúng? - Đừng vẽ rắn thêm chân! . . - Mô Phật! . . . - Uống trà đi! HAI LÚA/14/9/2004 BÁT NHÃ -Bát nhã là gì? - Có cái thấy sự vật "như nó đang là" - Đó chính là giác ngộ? - Không phải thế. - Tại sao không? - Có cái biết như vậy, chứ không phải có cái kinh nghiệm như vậy. - Như vậy là cái biết vay mượn. - Không phải thế, nó là cái biết đích thực và là phát hiện của hành giả. - Bát nhã chưa phải, vậy bát nhã ba la mật đa hay đại bát nhã có phải là giác ngộ? - Đúng vậy. - Gọi là "đại bát nhã" hay "bát nhã cùng cực" có phải để chỉ tính toàn diện của trạng thái "như thị". - Không phải "bát nhã" là bộ phận và "bát nhã ba la mật đa" là toàn diện. Mà bát nhã là cái biết đỉnh cao của tâm trí sơ bộ về giác ngộ. Còn "bát nhã ba la mật đa" hay đại bát nhã là cái kinh nghiệm của sự thể nhập tánh. - Xin cho một thí dụ? - Như người đứng bên này sông muốn biết cảnh vật bên kia sông. Người ấy có thể leo lên một đỉnh núi cao để nhìn sang, khắc có cái thấy thật sự không vay mượn về cảnh vật bên kia bờ. Nó như là một phát hiện đích thực. Trường hợp này tương tự như trạng thái "bát nhã". Nhưng nếu người ấy qua sông đến bờ bên kia, khắc sẽ biết cảnh vật bên kia bờ bằng kinh nghiệm thật chứ không phải tầm nhìn. Đây là trường hợp của bát nhã ba la mật đa. Do vậy nên ba la mật đa ( paramita) được dịch là "sang bờ bên kia" là vậy. - Cảm ơn ông về buổi nói chuyện hôm nay. - Hề hề! . . tôi tưởng vậy chứ chưa chắc đã vậy. Xin ông vui lòng hỏi các vị thiện tri thức rồi bảo cho tôi biết với! TƯỞNG VẬY/29.9.2004 Từ: duongsinh.net
-
Y PHÁP BẤT Y NHÂN - Chào cụ Tưởng Vậy - Chào chú Ba Gàn - Thưa cụ thế nào là "Y pháp bất y nhân"? - Này chú Ba, không có việc ấy đâu? - Đó chẳng phải là lời dạy của Như Lai và chư Tổ sao? - Đúng vậy, nhưng nay đại bộ phận người tu chưa hiểu, đó chỉ là phương tiện khéo của các ngài, chứ thật sự không có việc ấy? - Tại sao vậy? - Vì người đã gọi là "Thầy" thì phải chứng thực pháp. Nghĩa là "lý và sự" phải viên thông. Nhiên hậu mới hướng dẫn người khác tu tập được. Bởi vậy, người đã được chúng sanh gọi là "Thầy" nhất thiết chẳng những thuyết giảng được pháp ấy, mà còn có cách sống biểu thị minh họa cho pháp mình đang giảng dạy để đệ tử nhìn vào đấy mà y theo. Nên "Pháp" tức là "Nhân", Thầy chính là "pháp sống". Chứ không thể có việc người Thầy nói một đàng mà cách sống thực tế lại đi ngược điều mình giảng dạy được. Vì như vậy chứng tỏ mình chỉ lý thuyết suông chứ thực tế thì chưa chứng được "Pháp" ấy. - Thế tại sao chư Tổ lại dạy rằng: "Y pháp bất y nhân"? - Đó là vì người học đạo còn trụ vào tâm trí và thường ngã mạn. Họ đến chẳng những để học đạo mà còn làm quan tòa phán xét Thầy mình theo các tiêu chuẩn có sẵn trong đầu. Để xem Thầy mình tốt hay xấu? Đạo đức hay không đạo đức? Trí huệ hay không trí huệ? Lẽ dĩ nhiên theo cách hiểu tâm trí của họ. Và điều ấy làm họ tự chặt mất sợi dây đồng cảm với Thầy mình. Khiến họ sẽ hiểu nhầm lời giảng, bài viết và các thiền cơ của minh sư họ. Cho nên họ sẽ chỉ nhận được các pháp hữu tướng và thường chỉ là phương tiện khéo của thầy họ chứ thực pháp thì cần có con tim đồng cảm mà họ đã tự đánh mất từ lâu rồi! Vả lại người đã được gọi là "Thầy" thì bao giờ cũng có bí pháp, hay các pháp tối thượng. Trước khi truyền trao các pháp tối thượng ấy, người thầy thường thử thách học trò mình rất khắc nghiệt để thật sự biết rằng người trò đã thực sự phi tâm trí thì mới truyền trao. Đó là vì Như Lai đã dạy trong kinh Pháp Vũ: "Pháp tối thượng thừa như một cơn mưa lớn, chỉ có lợi cho cây đại thụ. Cỏ và hoa sẽ dập nát." Bởi vậy mà người Thầy cần phải biết học trò mình là cỏ hay hoa tuy đẹp và có mùi thơm nhưng chỉ là cành hoa yếu đuối chỉ phù hợp với các pháp tiểu thừa. Hay thực sự là một cây đại thụ. Trước khi ngài truyền trao pháp bảo bằng đại pháp vũ nghĩa là cơn mưa lớn của Như Lai. Mô Phật, nếu người học trò trong cơn thử thách lại đem tâm trí để phán xét các phương tiện khéo hoặc nghịch pháp của Thầy mình giả tướng, thì thế nào cũng bị tâm ngã mạn làm xa đường đạo. Bởi vậy "Y pháp bất y nhân" có nghĩa là người học trò do chưa đủ trí huệ và chưa chứng thiền nên không đủ trình độ để phán xét Thầy mình được, mà phải cứ y theo pháp của ngài dạy nhất tâm tu tập chứ đừng dùng tâm trí để bị các giả tướng lôi đi. - Thưa cụ như vậy câu "Y pháp bất y nhân" không có nghĩa là dù ông Thầy mình xấu không đủ tư cách và đạo hạnh, nhưng thôi mình chả cần, cứ y theo lời giảng của ổng mà tu tập thì rồi cũng giác ngộ thành Phật, vì là pháp của Phật chứ pháp gì của ông ấy? - Mô Phật, đúng vậy. Đó là một thái độ ngã mạn và ngu muội. Vì tự mình cắt đi sợi dây tâm linh nối với Phật và chư Thiên. Vì người ấy sẽ nhận được cái bóng điện nhưng không có ánh sáng vì mình đã tự cắt cái dây diện rồi. Mô Phật, nếu chúng sanh có thể tu thẳng với Phật không cần Thầy thì Như Lai chỉ bảo qui y nhị bảo là Phật và Pháp chứ đâu có qui y tam bảo là: Phật, Pháp và Tăng. - Xin cảm ơn cụ. - Mô Phật, ta tưởng vậy chứ chưa chắc đã vậy. Ông nên tác bạch điều nay với chư tăng và chư thiện tri thức để các ngài ấy phát tâm chỉ dạy cho thì mới thực đúng được. Tưởng Vậy/30/9/2007, từ duongsinh.net
-
gửi ktsb Ngày mậu thân (DDT) 15 tháng canh thìn (BLK) nam canh dần (TBM) giờ đinh tị (STT) Anh cho em xin 1 quẻ nữa được không ah. Liệu tuần sau (4/5) em đi Trung Quốc có công việc làm ăn thì có nên đi hay không ah. EM cảm ơn anh nhiều Hưu Vô Vọng Luận: quẻ này thấy không thuận lợi. Ở tại chổ làm trung gian hay hoãn lại dịp khác hay hơn. Bởi hiện tại cũng chưa rỏ ý định của đố tác thế nào. Trước đây tuy có vẽ được hứa hẹn và xã giao tốt đẹp tình cảm nhưng vẫn chưa rỏ thực ý là muốn gì. Mình đi dầu có dò xét thì cũng bỏ công. Tưởng "thả con săn sắc"...ai ngờ " bắt con cá sặc" thì toi. Nói vậy thôi tùy duyên. Chưa biết đúng sai ra sao đâu nghen. hehe :huh: Thiên Đồng :lol:
-
gửi ktsb, ngày đinh mùi (TTH) 14 tháng canh thìn (BLK) năm canh dần (TBM) giờ tân tị (BLK). Anh LacTuong giúp em được không? Thực sự em thấy tới thời điểm này công việc mọi thứ bộn bề quá dù mọi năm khá là thuận lợi. Em là nữ, sinh lúc 6:45 ngày 24/8/1984. Theo anh công việc em nên làm là kinh doanh hay làm công việc văn phòng như trước kia. Khi nào công việc mới thực sự thuận lợi. Năm nay em nên đi du học hay để 1 vài năm nữa. Em cảm ơn anh nhiều Khai Tiểu Cát Luận: tính cách của ktsb là tính cách hơi nổi loạn một tí, cho nên làm việc văn phòng chỉ như là một giai đoạn ngũ đông, trong lòng lúc nào cũng nghĩ đến một sự nghiệp cho mình. Trước hay sau cũng sẽ chuyển biến theo ý định. Năm nay chưa phải lúc, năm sau nếu khởi sự kinh doanh thì tạm ổn, năm tới nữa (2012) thì bất ổn. Phù hợp với kinh doanh là bản tính, thành công hay thất bại là khả năng. Sau 3 năm nữa thì sự nghiệp mới có chiều hướng tăng tiến thuận phát. Năm nay nên đi du học, dù trể hay muộn cũng nên. Việc này cần cho chuyện đường dài mai sau. Việc này có thể sẽ diễn ra khoản trong tháng 7,8 âm lịch. Chúc thành đạt :huh: Thiên Đồng :lol:
-
Vậy thì đặt bàn thờ ở tường cùa công trình khép kín và nhìn ra cửa sổ. Nhưng như thế thì giường ngũ hai vợ chồng phía trước bàn thờ, cũng không được trang nghiêm. Thôi thì đầy bố trí ở hai vị trí đánh dấu X sao cho gọn đẹp vậy. Hic! Đúng là "nhà khó thì...bó tay". :huh: Thiên Đồng
-
gửi thanhnhien, ngày bính ngọ (TTH) tháng canh thìn (BLK) năm canh dần (TBM) giờ kỷ dậu (DDT) Thương Lưu Niên Luận: Nên làm người trung gian mà hưởng lộc thì hơn. Vụ nầy có vẽ gì đó khó ăn không được êm xuôi cho lắm. Lãnh trọn gói thì sẽ có vụ phiền gì đây, chưa biết được. :lol: Thiên Đồng :huh:
-
gửi lacquocphong, ngày đinh mùi (TTH) tháng canh thìn (BLK) nam Canh dần (TBM) giờ bính ngọ (TTH) Em muốn nhờ anh coi giúp xem dự án này có khả thi hay không? Và em có triển khai được dự án này không? Sinh Đại An luận: Dự án này có vẽ nặng tay, bên yêu cầu hỗ trợ có vẽ thiếu nhân sự và năng lực, đòi hỏi bên hổ trợ hổ trợ về mặt kỹ thuật, tình huống và kinh nghiệm, sự đồi hỏi này gắt gao. Nếu không thể hiện được năng lực và kinh nghiệm thì khó thuyết phục. Dẫu vậy sẽ khả thi. Việc triển khai dụ án sẽ gặp nhiều rắc rối, có khi phải trì trệ vì sự nghi ngờ hay do kém kinh nghiêm của phía yêu cầu. Đòi hỏi phải linh hoạt trong nhiều phương án hành động. chúc như ý. Thiên Đồng
-
gửi ocbuou, Ngày đinh mùi (TTH) tháng canh thìn (BLK) năm canh dần (TBM) giờ bính ngọ (TTH) Anh Thiên Đồng cho em xin một quẻ : sang năm con đường sự nghiêp của e có tốt không ? Hưu vô vọng Luận: sang năm đúng một năm sau, tháng này sẽ trở lại công việc. Sẽ trở lại một cách tư nhiên bình thường, mọi việc sẽ đều tốt đẹp, có sự tiến triển tiệm tiến. Chúc thành công. Thiên Đồng
-
Gửi hoa_tram87, Nếu người ngồi trong nhà (phòng trọ) nhìn ra, hướng nhìn ra là hướng Tây thì đặt ảnh tượng thờ cũng nhìn ra như vậy, tức là tượng Phật ngồi nhìn từ trong nhà nhìn ra. Còn nếu không phải là hướng tây thì xác định lại hướng nào và vẽ hình đưa lên đây. Thiên Đồng
-
Nguồn Gốc Phong Thủy Và Kinh Dịch Từ: http://5xublog.wordpress.com A . Nguồn gốc của Phong Thủy. Người ta cho rằng Phong Thủy xuất phát từ Tàu khoảng cuối thế kỷ thứ 3 đầu thế kỷ thứ 4. Các trước tác đầu tiên của thể loại Phong Thủy Tàu hình như là quyển Táng Thư.Tuy nhiên nếu nhìn vào trường hợp cụ thể của việc xây dựng thành Đại La thì có thể thấy Phong Thủy đã có ở Giao Chỉ trước. Và quan trọng nhất là: + Phong Thủy Giao Chỉ hoàn toàn không có yếu tố mê tín dị đoan khỉ gì cả. Chẳng qua có yếu đố dị đoan là do Cao Biền (do ảnh hưởng của phong thủy tàu) mang đến. + Phong Thủy Giao Chỉ chính là khoa học: Là thủy lợi, là quy họach đô thị, là hiểu biết về hạ tầng địa chất, là hiểu biết về mưa bão lụt lội. Vậy Phong Thủy Giao Chỉ đến từ đâu. Tất nhiên là đến từ Ai Cập Cổ Đại. + Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã có từ rất rất rất lâu ở châu thổ sông Nile, bắc phi. Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại là ở tận … thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên (ôi trời, xa thời hiện đại ghê). + Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã có cực kỳ nhiều thành tựu: chữ viết, xây dựng, hiểu biết về luyện kim, làm thủy tinh. Họ cũng có những kiến thức về điện, khí động học và hạ tầng địa chất, thiên văn học, y học. Tất cả nền văn minh rực rỡ này đều có xuất phát điểm từ việc họ rất giỏi thủy lợi và hiểu biết về thiên tai địch họa như lụt lội. Nhờ thủy lợi giỏi mà nông nghiệp của Ai Cập cổ đại phát triển. Họ bỏ qua các ngành lúc đó bị tụt hậu xa với nông nghiệp như săn bắn, đánh cá, … Nhờ nông nghiệp phát triển mà họ có sức mạnh về nhân sự (cần ít lao động hơn cho việc kiếm ăn). Nhờ sức mạnh nhân sự mà họ phát triển được các công trình xây dựng và quy họach đô thị. Tất nhiên nền văn minh nào cũng suy tàn. Vị Pharaoh cuối cùng của Ai Cập bị vua Cambyses II người Ba Tư đánh bại năm 525BC, mở ra thời kỳ nô lệ đầu tiên dưới ách đế chế Ba Tư (Persian Empire). Thời kỳ này kéo dài không lâu lắm. Lần cuối cùng người Ba Tư chinh phục đất sông Nile là lần vua Artaxeres III (358-338 BC) xâm chiếm Ai Cập. Sau thời kỳ bị Ba Tư xâm lược là thời kỳ Hy-La xâm lược Ai Cập Cổ Đại. Đặc biệt là trong đó có thời kỳ vua Alexander Đại Đế (356-323BC) Vua Alexander Đại Đế có một cuộc viễn chinh vĩ đại nhất trong lịch sử loài người cả về quy mô, sức người sức ngựa sức voi, và độ chinh phục. Ông tấn công Ấn Độ. Việc xâm chiếm Ấn Độ của quân đội Alexander Đại Đế không dài. Nhưng đủ để mang văn hóa La Mã – Ai Cập đến với Ấn Độ. Trong đó có các nghệ thuật thủy lợi, địa chất và quy họach đô thị. Có lẽ Alexander Đại Đế đã mang theo rất nhiều tù binh Ai Cập. Hoặc ông mang hẳn các nhà khoa học Ai Cập đi cùng quân đội viễn chinh của mình. Các kiến thức y tế, luyện kim, địa chất, khí tượng thủy văn của Ai Cập nhờ đó mà đến được với Ấn Độ. Sau khi quân đội của Alexander Đại Đế rút lui là mở ra đế chế Maurya của người Ấn (322BC-298BC). Đến thời vua Ashoka Đại Đế (273-232-BC), Ấn Độ đã trở thành nước mạnh với quốc giáo là Đạo Phật Nguyên Thủy. Vua Ashoka đã có chiến lược quảng bá Phật Giáo đi các vùng Đông Nam Á, Tây Á và Châu Âu phía Địa Trung Hải. Đi cùng các nhà truyền giáo cũng vẫn là các tri thức người Ấn vừa mới được update thêm kiến thức về thiên văn, thủy lợi, địa chất và y học. Sau đó là câu chuyện về việc Phật Giáo đi vào Văn Lang như đã nói ở phần II. Điều này lý giải tại sao các vua Hùng giỏi làm thủy lợi, biết đúc trống đồng, biết làm thuyền to đi trên sông. Lý giải tại sao Thục Phán An Dương Vương biết làm nỏ thần có mũi tên bằng sắt. Lý giải tại sao các pháp sư Giao Chỉ có kiến thức về thủy lợi, hạ tầng địa chất, thiên văn và quy hoạch. Tại sao các nhà sư ngày xưa lại biết chữa bệnh (cả Từ Đạo Hạnh và Minh Không đều chữa bệnh nan y cho Vua). Sau đó nghệ thuật thủy lợi và quy họach đi qua Trung Quốc và trở thành Phong Thủy. Rồi bị dị đoan hóa thành Phong Thủy Tàu. Rồi lại quay lại làm u mê chính chúng ta ngày xưa (Cao Biền) và ngày nay (toàn đọc xem lịch với tử vi bói toán kiểu Tàu, hahaha). B. Nguồn gốc của Kinh Dịch. Nguồn gốc của Kinh Dịch (gốc) cho đến nay vẫn hết sức mù con nhà mờ. Nếu thuyết cho rằng Kinh Dịch có từ thời Phục Hy (2852-2738BC) mà là đúng thì bó tay, không giải thích được. Nhưng may mắn là thuyết này chắc không đúng lắm vì chính bọn Tàu nó cũng không tin là cái thuyết này có nguồn gốc xạo như thế. Và người Tàu cũng bó tay khi không biết giải thích tên của bát quái là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là cái qué gì. Nhưng nếu các thuyết cho rằng Kinh Dịch (gốc) ra đời muộn hơn, tầm những năm thuộc thế kỷ thứ II trước công nguyên, mà đúng, thì có lẽ Kinh Dịch đến từ Văn Lang thật.Kinh Dịch Văn Lang một lần nữa lại là sản phẩm do các vua Hùng nhà mình localized từ kiến thức của người Ai Cập Cổ Đại.Cụ thể như sau: Người Ai Cập Cổ Đại có kiến thức vượt trội về Trắc Địa và Thiên Văn. Các kim tự tháp đã được xây dựng với các tính toán cực kỳ chính xác vềác góc, tọa độ, kích thước. Nó cũng trùng khớp với quỹ đạo một số quỹ đạo của sao ở trên giời. Nó cũng là các sản phẩm hình học (đa giác) do đầu tiên con người tạo nên mà có độ chính xác cao. Người Ai Cập Cổ Đại đã phát triển một dạng nghệ thuật biểu hiện thay cho chữ viết (Egyption hieroglyphs). Người Ai Cập Cổ Đại đã nắm vững các quy tắc thập phân và các tỷ lệ vàng trong xây dựng và quy họach (golden ratio). Và họ đã chuyển giao kiến thức và công nghệ cho các vua Hùng. Điều này thể hiện ở: + Tín ngưỡng đa thần + Các vua Hùng sử dụng hệ lịch thập phân, mỗi tuần có 10 ngày. Một năm có 360 ngày. + Các vua Hùng sử dụng đồ họa như là writing system. Cụ thể là ở trên mặt trống đồng, các hoa văn (chính là ideogram, pictogram) đều đưa ra một message gì đấy. Và các hoa văn này rất giống với các họa tiết của người Ấi Cập (Egyption hieroglyphs) trên đồ đất nung của họ. + Các hình ngôi sao trên trống đồng và hướng của chúng được đúc cực kỳ chính xác. Đó là do được học các phép toán về đo đạc, góc, phương vị, hình học và đặc biệt là Thiên Văn của người Ai Cập. + Các danh từ tiếng Ai Cập Cổ Đại được các vua Hùng sử dụng (giống ngày nay ta nói chuyện bằng tiếng Việt nhưng thuật ngữ vẫn nói tiếng Anh như chip, stock, …). Đặc biệt là các từ thuộc lĩnh vực cao siêu như Thiên Văn và Thủy Văn. Các từ như Càn, Khảm , Tốn, Khôn đều na ná như âm của người Mường học tiếng Ai Cập. Thậm chí từ Hùng như chúng ta gọi vua Hùng chính là từ chữ Khun hoặc Cun trong tiếng Việt cổ (có nghĩa là người đứng đầu hay thủ lĩnh). Mà chữ Cun này rất có khả năng chính là từ Vua trong tiếng Ai Cập cổ. Như vậy, nhờ chuyển giao công nghệ mà các vua Hùng của chúng ta có một bước đại nhảy vọt về các kiến thức Thiên Văn, Thủy Văn, Địa Chất, Xây dựng. Bọn Tàu vốn xưa nay giỏi copy and paste (càng ngày càng thấy giỏi) nên vác trống đồng của Vua Hùng về ngâm cứu + gửi gián điệp công nghệ qua Văn Lang để thuổng. Sau khi copy và paste, người Trung Quốc đã có: + Kinh Dịch: copy từ Thiên Văn + Phong Thủy: copy từ Quy họach và Địa Chất và Thủy văn + Thước Lỗ ban: copy từ Các golden ratio của người Ai Cập Cổ Đại trong xây dựng. + Chữ tượng hình: phát triển từ các hoa văn trên trống đồng + Riêng phần thiên văn khó quá nên lúc chuyển ngữ phải giữ nguyên tên gốc là tiếng bồi Ai Cập do các vua Hùng nói nên thành Càn, Khảm, Tốn, Khôn, gì gì đấy. Đến bây giờ người Tàu cũng vẫn cãi nhau về nghĩa gốc của các danh từ này. Bọn này dốt, chính ra qua Ai Cập học hết bằng A tiếng Ai Cập Cổ Đại là về dịch được luôn. Tóm lại, ngay cả cái được coi là gốc của văn minh Trung Hoa là Kinh Dịch thì cũng chỉ là sản phẩm copy and paste từ nền văn minh Văn Lang vốn được localized từ văn minh Ai Cập Cổ Đại. Sau đó người Trung Hoa copy and paste tiếp chữ viết, Phong Thủy, … Và gần đây họ copy and paste tuốt sờ luốt, từ phim Mỹ, phần mềm Mỹ, xe máy Nhật, nồi cơm điện Nhật, đến các công nghệ cao để làm máy bay hay tàu vũ trụ. C. Dấu tích của sự lan truyền văn minh từ Ai Cập Cổ Đại qua Văn Lang Dấu tích của sự lan truyền của nền văn minh Ai Cập qua khu vực Văn Lang còn có thể tìm thấy ở các vùng xa phía dưới miền Nam của Việt Nam hiện nay. Cụ thể là phía các quần đảo của Indonesia. Ở nơi đó, các dân tộc thiểu số của họ không biết tại sao đã biết thổi thủy tinh từ cái thủa xa xưa nào đấy. Không lọai trừ các làng nghề cổ của Việt nam có các nghề đặc biệt như làm giấy Gió, làm gốm cũng là được chuyển giao công nghệ từ Ai Cập Cổ Đại. Gần đây người ta còn phát hiện ra người Ai Cập còn biết đi biển (biết đóng tàu đi biển và có kiến thức về hoa tiêu biển). Cho nên có thể có những nhóm người Ai Cập Cổ Đại vì chiến tranh với Ba Tư mà chạy lọan về phía Nam Á hiện nay và lưu lạc tới Âu Lạc từ rất lâu trước các đợt tiến quân vào Ấn Độ của Alexander Đại Đế. Về ngôn ngữ, có lẽ người cổ đại có từ vựng rất ít, cho nên các bộ tộc ở xa nhau, khi gặp gỡ chỉ cần một khoảng thời gian ngắn là học được ngôn ngữ của nhau để giao tiếp. Mà chủ yếu là các vua Hùng nhà mình học tiếng Ai Cập Cổ Đại để đọc tài liệu kỹ thuật và dự các lớp training do người Ai Cập tổ chức. Điều kỳ lạ và thú vị nhất của sự chuyển giao công nghệ cuối cùng được thể hiện ở hai nền văn hóa được coi là lâu đời nhất trên địa bàn Việt Nam 1. Văn Hóa Đông Sơn (từ Thanh Hóa đến Lào Cai) + Cỡ khoảng 3000 năm trước công nguyên, đồ cổ có niên đại xưa nhất được tìm thấy là đồ thuộc văn hóa Phùng Nguyên. + Có nông nghiệp phát triển (đã tìm thấy lưỡi cày bằng đồng của thời này) + Đúc đồng phát triển (trống đồng). Có hoa văn tương tự hoa văn Ai Cập. + Vũ khi phát triển: nỏ thần, tên đồng + Giao thương phát triển: trống đồng Đông Sơn được tìm thấy cả ở Indonesia, Malaysia, Nhật, Myanma, Thailand…. + Đã hình thành nhà nước (quá sớm so với văn hóa các nước xung quanh) 2. Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi, Tây Nguyên và Quảng Bình). + Muộn hơn văn hóa Đông Sơn một chút + Đã có nghề đi biển, đánh cá + Có nghề gốm cực phát triển cả về công nghệ sản xuất và thẩm mỹ. Giống đồ gốm Ai Cập Cổ Đại. + Có nghề làm thủy tinh phát triển (xin thưa cái mà bọn tàu gọi là ngọc lưu ly, chén bát làm bằng ngọc lưu ly, chính là sản phẩm thủy tinh Sa Huỳnh sau này chúng cướp bóc từ Giao Chỉ mà mang về tiến vua). Nghề thủy tinh chắc ko thể tự nghĩ ra mà do chuyển giao công nghệ từ Ai Cập. + Có nghề làm đồ trang sức cực kỳ phát triển cả về nguyên liệu (được cho là nhập khẩu từ tít Ấn Độ và Myanma) và cực kỳ xuất sắc về design. Cho đến bây giờ vẫn thấy đẹp. 3. Và cuối cùng là vũ trụ quan của người Mường Nói chung sách sử của ta từ sau thời Mã Viện, đặc biệt là từ sau thời Lê, là cóc tin được. Từ thời Mã Viện, thanh niên này rất tàn ác, đã xóa bỏ chế độ xã hội bộ lạc rất dân chủ để xây dựng chế độ cai trị hà khắc tập quyền. Kể từ đó, tất cả những gì là sự thật đều bắt đầu phải đi qua dòng truyền khẩu dân gian, thay vì đi vào chính sử. Đặc biệt là từ thời Lê, khi mà Nho Giáo lên ngôi, thì sử sách chỉ còn là công cụ ghi chép của tụi cầm quyền. Vậy nên muốn hiểu sự thực về Âu Lạc và Văn Lang thì tốt nhất là đừng đọc sách sử, hoặc đọc nó mà phải hiểu theo cách phi phong kiến hóa, thay vào đó hãy lắng nghe văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian của người Việt cổ, nói vậy chứ quá mai một rồi, nước bọt đâu mà thì thào mấy ngàn đời được. Câu chuyện còn tồn tại xa xưa nhất về vị vua đầu tiên của nhà nước dân chủ đầu tiên là vua Thục Phán cũng rất mờ mịt. Tuy nhiên trong cái mờ mịt này lại có 2 điểm sáng. Một là Phán có phép thuật đi gặp núi là núu rẽ ra, đi xuống nước là nước rẽ ra (do đó mà gặp thần Kim Quy). Cái quả rẽ nước này rất giống Moses, hoàng tử Ai Cập, dẫn dân nô lệ Hebrew vượt qua biển Đỏ bằng cách rẽ béng nước ra mà đi dưới đáy biển. Hai là Phán không có quá khứ rõ ràng, được cho là cháu ngọai vua Hùng nhưng ở Ai Lao, đại khái là có quá khứ mờ mịt y như Moses. (Trong các chuyện cổ tích sau này thì có viên ngọc kỵ thủy, đi được vào nước, nhưng về concept là khác hẳn việc nước tự rẽ ra cho Thục Phán đi vào) Câu chuyện Cổ Loa cũng cho thấy là khi Mã Viện tới Âu Lạc thì dân Việt đã biết đắp đê trị thủy rồi (một công nghệ quá mới với người Hoa lúc đấy). Thành Cổ Loa được xây dựng ba vòng ốc cũng là từ công nghệ đắp đê được chuyển qua đắp thành. Nói chung các vết tích về Âu Lạc và Văn Lang chỉ dừng lại ở đấy, không thể đi xa thêm. Đó là do Mã Viện và Nho Giáo sau này. Nhưng may mắn thay người Việt cổ đã sống đồng cư và cộng cư với một dân tộc khác, một dân tộc luôn coi họ với người Kinh “tuy hai mà là một”. Đó là người Mường. Người Mường thì may quá, không bị phong kiến hóa. Thế cho nên nhìn vào văn hóa tín ngưỡng của người Mường có thể tìm thấy cái gì đó của người Việt cổ ngày xưa. (Lưu ý là người Mường oánh cồng chiêng và trống đồng hơi bị ác) + Người Mường có vũ trụ quan riêng của mình (choáng chưa, hơi bị văn minh nhé). Họ có ‘trường ca’ Đẻ Đất Đẻ Nước và một loạt truyện thơ khác để mô tả vũ trụ từ thủa hồng hoang (big bang) đến việc sinh ra trời đất, con người. Riêng đọan này họ hơn đứt người Việt và người Hoa. Mà có lẽ là họ cũng copy cái vũ trụ luận này từ đâu đó và giữ gìn được còn người Việt bị bọn Tàu nó nô dịch mà bắt phải quên đi, đến vua của mình là An Dương Vương xuất xứ ở đâu mà chả còn nhớ được nữa là. May mà còn nhớ được chi tiết rẽ nước mà đi. + Vua Dịt Dàng (hay Gịt Giàng, hay Yịt Yàng) có nghĩa là God. Cũng giống người Bana hay Ê Đê gọi là Giàng (hay Yàng). Xuất xứ của cái tên Dịt Dàng cho đến nay hơi bị mù tịt. Tuy nhiên rất giống từ Ai Cập Cổ Đại gọi vị thần đứng đầu trong các vị thần (Atum-Ra) của họ (đọc là Yamanu). Biết đâu qua tiếng Việt cổ (tiếng Mường) thành Yàng. (Atum là thủ lĩnh các vị thần, Ra là thần mặt trời). + Người Mường không gọi mình là Mường. Mường thực ra là vùng đất. Còn họ tự gọi họ là Con Mọl, tức là Con Người. + Quan niệm về cái chết và sự sống cũng như con người và linh hồn của người Mường cũng chia làm ba phần y như người Ai Cập: Mường Trời (các vị thần), Mường Người (thế giới của con người) và Mường Ma (thế giới của linh hồn). Điều đặc biệt nhất là người Mường có liên kết ánh xạ Mường Ma và Mường Người y như là trong quan niệm về thế giới người sống và thế giới người chết của người Ai Cập. Cả hai đều có quan niệm và coi trọng một cuộc sống afterlife y hệt như nhau (thế mới choáng chứ) + Khi có người chết, người Mường làm đám rất dình dang, với các bố Mo (hay ông Mo) làm đủ các thủ tục phức tạp để tiễn linh hồn về mường Ma. Y như các pháp sư Ai Cập làm thủ tục tiễn người chết đi cho trôi chảy vậy. + Xã hội khá dân chủ so với bọn phong kiến tập quyền. Có giới quý tộc (nhà Lang) và người lao động cống nạp. Trong giới quý tộc thì có quý tộc giàu và quý tộc nghèo. Cơ sở giàu nghèo được phân định trên số lượng ruộng công được sở hữu (lưu ý là trên số lượng ruộng lúa chứ không phải trên số lượng nương rẫy). Quan Lang, những người đứng đầu Mường Người, sống sướng chả kém gì Pharaoh, đặc biệt là lúc chết làm đám ma hoành tráng như Pharaoh, mỗi tội ở quy mô bé tí, hehehe, và không có kim tự tháp). Còn người dân sống trên đất của nhà Lang thì phải đóng tô thuế (văn minh chưa) cứ y như là chế độ thuế đất của người Ai Cập Cổ Đại vậy, hehe. + Còn một chi tiết nhỏ nữa là người Mường có lịch thập phân giống lịch thời vua Hùng. Mỗi tháng có 3 tuần, mỗi tuần có 10 ngày. Một năm có 12 tháng. Riêng về giờ thì một ngày có 16 giờ nhưng thời lượng của mỗi giờ không đều nhau. Các ví dụ về việc xóa bỏ cả một nền văn minh: + Việc Mã Viện xóa bỏ cả một nhà nước và nền văn hóa đi kèm theo nó (tịch thu và nung chảy tất cả các trống đồng) là tiền đề của việc đẩy cả một nền văn minh Văn Lang đi vào dĩ vãng. + Vào thế kỷ 15, khoảng 100 năm sau khi đế quốc Khmer suy yếu, người Xiêm nổi dậy chống ách áp bức của người Khmer đã tàn sát 100% sinh vật (người, gia súc) của Đế Đô Angkor Vat (1431-1432). Đưa Đế Đô này thành một thành phố chết và bị chính người Khmer quên lãng. Mãi đến 500 năm sau, các nhà khảo cổ Pháp tìm thấy tàn tích của Đế Đô Angkor Vat (Đế Thiên Đế Thích). Angkor Vat ngày nay là một điểm du lịch nổi tiếng. Thành phố cổ kỳ lạ này được cho là do Alexander Đại Đế hoặc quân của ông xây dựng. Người Khmer bị người Xiêm thôn tính hoàn toàn, xóa bỏ hoàng tộc, xóa bỏ chữ viết (tiếng Sankrit cổ) bằng cách giết sạch những người biết đọc biết viết. + Trước khi bị người Xiêm xóa bỏ, người Khmer của vương quốc Chân Lạp, dưới thời vua Bhavavarman đã thôn tính một nền văn minh khác (năm 627). Đó là vương quốc Phù Nam (Funan, Phnom, Phù Nam là phiên âm hán việt của Phnom như trong Phnom Pen, thủ đô Kampuchia ngày nay). Vua Bhavavarman là người xóa bỏ cái tên Phù Nam khỏi bản đồ và suýt nữa tiêu giệt toàn bộ hoàng tộc Phù Nam. May mà dân Phù Nam giỏi đi biển nên hoàng tộc Phù Nam chạy thoát qua Java và xây dựng triều đại Sailendra ở đấy. Tuy nhiên, nghề đi biển của dân Phù Nam mất hẳn. Tương tự như nghề sông nước, tục xăm mình của người Văn Lang cũng mất hẳn sau thời Mã Viện. Trước khi xóa bỏ Phù Nam, Chân Lạp của người Khmer chỉ là một xứ phiên thuộc Phù Nam. Trước khi xóa bỏ Angkor Vat, người Xiêm chỉ là nô lệ của người Khmer. + Bên Xiêm ngày càng lấn áp bên Khmer. Vua Khmer lúc đó là Chey Chetta II phải mượn quân đội của chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên để tỉn nhau với dân Xiêm. Tất nhiên là thắng. Sau đó Sãi Vương gả con gái của mình cho vua Khmer. Nhờ quyền lực của hoàng hậu người Việt, dân Việt Nam tràn vào sinh sống và làm ăn ở vùng đất Nam Việt Nam bây giờ. Nhờ đó chúa Nguyễn cai quản được Sài Gòn (Prey Nokor) và Bến Nghé (Kas Krobey). + Năm 1658, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chính thức cầm quân đánh nhau với Chân Lạp. Triều đình Chân Lạp lúc đó lại quay lại thân với người Xiêm, áp bức người Việt ở Thủy Chân Lạp (Nam Việt Nam). Hiền Vương đánh thắng quân Chân Lạp. Chiếm luôn Thủy Chân Lạp, phong vương cho người Khmer thân Việt lên làm vua ở Lục Chân Lạp. Chính thức tạo ra bờ cõi nước Việt ngày nay. Phần Lục Chân Lạp trở thành Cao Miên, Campuchia ngày nay. Người Việt, Hoa, Khmer ở miền nam ngày nay vẫn đến đền bà chúa Xứ ở An Giang để tưởng nhớ đến vương quốc Phù Nam xa xưa. Bà chúa Xứ được truyền tụng là quốc mẫu Soma của vương quốc Phù Nam. Nữ chúa Soma là người bản địa, đã lấy một võ tướng đi truyền giáo người Ấn Độ tên là Kaundinya, đẻ ra vị vua đầu tiên của vương quốc Phù Nam. Vị vua này có tên hiệu là Kampu.
-
Tây Du Ký 2010 - Tháp Đại Bát Niết Bàn - Tháp Trà Tỳ - Nơi Phật giảng bài kinh cuối cùng Thế Tôn nhập Niết bàn Suốt thời gian đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài đã vân du khắp vùng đồng bằng của thung lũng sông Hằng, rày đây mai đó khất thực để sống qua ngày và tạm dừng lại nghĩ ngơi suốt ba tháng mùa mưa. Một ngày kia, ông A-Nan đang ngồi thiền bỗng thấy đất rung động. Ông bèn hỏi đức Phật vì duyên cớ gì mà đất động như vậy. Đức Phật dạy rằng trong số các nhân duyên làm cho đất chuyển động, có một nhân duyên là khi đức Như Lai sắp nhập Niết-bàn. Khi ấy tại điện thờ Capala, thành Vaishali (Tỳ-xá-ly), đức Phật đã tuyên bố với Ananda cùng đại chúng Tỳ-kheo ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn tại rừng cây sa-la thuộc thành Kushinagar (Câu-thi-na): "Các Tỳ-kheo, đây là lời Ta nhắn nhủ các ngươi. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ." Tôn giả Ananda đã vội khẩn khoản thỉnh cầu đức Phật lưu lại thế gian: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho loài Trời và loài Người." nhưng đức Phật không nhận lời. Thấy ông A-Nan buồn rầu, đức Phật khuyên: "Ông đừng lo buồn nữa, sự vật đều như thế cả. Các pháp hữu vi đều vô thường. Có sinh ắt phải có tử. Có hợp ắt phải có tan". Sau đó, đức Phật sai ông A-Nan thỉnh các vị tỳ-khưu về hội họp, Ngài khuyên tất cả cần giữ giới hạnh thanh tịnh, tu tập ba mươi bẩy phẩm trợ đạo, đi đến giải thoát, và Ngài báo cho mọi người biết Ngài sắp nhập Niết-bàn. Thấy các tỳ-khưu than khóc, Ngài dạy: "Sự vật đều vô thường. Có hội hợp tất có biệt ly. Hãy giữ trọn vẹn các pháp mà ta đã nói thì coi như ta còn ở đời, không khác" rồi Ngài nói kệ rằng : "Ta muốn bỏ thân này, tấm thân già suy yếu. Nay xả tuổi thọ rồi, tạm nương mệnh ba tháng Những pháp ta đã nói là thày của các vị. Tu tập đừng bỏ quên, chuyên cần và tinh tiến. Như ta sống khác gì." Sau đó, đức Phật và đoàn tùy tùng tiếp tục du hành đến thành Tỳ-Da-Ly. Đến thôn Cưu-Bà, Ngài ngồi nghỉ dưới gốc cây. Dân chúng trong thôn kéo đến đỉnh lễ Ngài và khi hay tin Ngài sắp nhập Niết-bàn thì họ than khóc. Ngài bèn an ủi họ và nói pháp cho họ nghe. Tất cả hoan hỉ xin thọ tam quy ngũ giới và thỉnh Phật cùng chúng tăng ngày hôm sau đến hưởng sự cúng dàng của họ. Đức Phật và các tỳ khưu nghỉ tại khu vườn của ông Thuần-Đà. Sau khi thọ trai do ông Thuần-Đà cúng dàng, đức Phật dạy ông ta rằng: "Chỗ còn lại của thức ăn này, hãy đào đất mà chôn đi, đừng để cho ai ăn nữa." Tối hôm đó, đức Phật đau bụng dữ dội, mất ngủ suốt đêm. Tuy vậy sáng hôm sau Ngài vẫn lên đường đi Câu-Thi-Na. Giữa đường, cơn đau lại nổi lên, Ngài ngồi nghỉ dưới một cội cây và sai ông A-Nan đi kiếm nước cho Ngài uống. Ông A-Nan nói: "Lạch nước gần đây vừa có mấy trăm chiếc xe đi qua nên đục lắm, xin Thế Tôn đợi một chút, tới sông con sẽ múc nước". Đức Phật bảo ông cứ đi. Lạ thay, khi ông A-Nan tới lạch nước thì nước đã trở nên trong vắt! Uống nước xong, đức Phật ngồi nghỉ. Bỗng có một người bộ hành đi tới lễ Phật và dâng hai tấm y vàng. Ông này tên là Phất-Sa-Ca, một đệ tử của đạo sĩ Ka-La-Ma (đó chính là vị đạo sĩ mà khi xưa đức Phật đã gặp). Đức Phật nhận một tấm y và bảo ông Phất-Sa-Ca cúng dàng tấm kia cho ông A-Nan. Ông Phất-Sa-Ca xin làm đệ tử Phật và được Phật nói pháp cho nghe. Dùng thần thông, đức Phật biết ông Thuần-Đà đang thắc mắc về việc sức khỏe của Phật suy sụp là do bữa cơm mà ông đã cúng dàng. Ngài bảo ông A-Nan tìm dịp để nói cho ông ấy biết rằng bữa cơm mà Như Lai nhận trước khi thành đạo và trước khi nhập Niết-Bàn là rất quí. Ai đã dâng hai bữa cơm ấy phải vui lên, chớ nên thắc mắc. Sau đó đức Phật đi về phía rừng cây sa-la gần thành Câu-Thi-Na. Ông A-Nan sửa soạn chỗ nằm cho đức Phật, giữa hai cây sa-la. Đức Phật nằm nghiêng về phía tay mặt, đầu hướng về phía Bắc, trong thế sư tử tọa. Các vị tỳ khưu ngồi vây quanh đức Phật, tất cả đều biết đức Phật sẽ nhập Niết-bàn vào gần sáng. Lúc đó, không phải là mùa hoa, ấy thế mà các cây sa-la nở hoa trắng xóa, hoa rụng phủ lên áo của đức Phật. Theo lệnh của đức Phật, ông A-Nan đi vào thành Câu-Thi-Na báo tin cho dân chúng biết. Họ đến đông đảo, đức Phật nói pháp cho họ nghe. Trong số những người đó, có một người tu ngoại đạo, quán thông kinh sách, thọ đã 120 tuổi, tên là Tu-Bạt-Đà-La. Ông ta xin yết kiến đức Phật, ông A-Nan không thuận vì đức Phật đang mệt; tuy nhiên đức Phật bảo cứ cho ông ta vào. Ông hỏi một câu, đức Phật đáp, ông đại ngộ, xin xuất gia thành sa-môn. Đức Phật ưng thuận. Như vậy ông Tu-Bạt-Đà-La là người cuối cùng được Phật độ. Ông không nỡ thấy đức Phật nhập Niết-Bàn nên tự ý vào Hỏa quang tam-muội để nhập Niết-Bàn trước Phật (lúc này, các ngài Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền -Liên, La-Hầu-La đều đã viên tịch, còn ngài Ma-Ha Ca-Diếp đang đi hoằng pháp ở xa). Đức Phật phó chúc: "Đừng thấy Như Lai nhập Niết-bàn mà cho là chánh pháp của Như Lai mất hẳn. Chánh pháp đã được Như lai giảng giải cặn kẽ cho mọi người, Như Lai không dấu diếm gì cả. Các vị đừng đi tìm một chỗ nương tựa bên ngoài nào khác. Mỗi người phải lấy chánh pháp làm nơi nương tựa. Mỗi người phải là một hòn đảo cho chính mình. Tam Bảo có sẵn trong tâm mỗi người, khả năng giác ngộ là Phật, pháp môn tu học là Pháp, duyên hỗ trợ cho tu tập là Tăng. Tam Bảo ở trong mỗi người, đó là nơi nương tựa an ổn nhất. Hãy an trụ trong chính niệm, trong tứ niệm xứ... Hỡi các tỳ khưu, ai còn thắc mắc điều gì về giáo pháp thì đây là lúc nên hỏi". Nói ba lần như vậy mà không ai lên tiếng. Đức Phật đưa mắt yên lặng nhìn đại chúng rồi nói: "Này các tỳ-khưu, hãy nghe Như Lai nói đây: vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Các vị hãy tinh tiến lên để đạt giải thoát". Nói xong, đức Phật nhắm mắt. Bỗng nhiên đại địa rung động. Hoa sa-la rụng xuống như mưa. Mọi người tự nhiên thấy tâm thần chấn động. Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đã nhập Niết-bàn. (theo Kinh Đại Bát-Niết-Bàn). (Tranh Thế Tôn nhập Niết Bàn) Lễ trà tỳ Vua và dân chúng, dân làng và người thành thị, từ xa cho đến gần kéo về đỉnh lễ Ngài trong 6 ngày. Ngày thứ 7 nhục thân của Đức Thế Tôn được trang hoàng với những vòng hoa và hộ tống với âm nhạc đến nơi hoả thiêu tại Tu Viện Mukutabandha (tháp Rambhar) trong Kushinagar theo nghi thức tang lễ của một vị Chuyển Luân Thánh vương. Sau lễ hỏa táng, để tránh sự xung đột tranh giành xá-lợi của đức Phật, bộ tộc Malla tại Kushinagar đã đồng ý chia xá-lợi Ngài làm tám phần đều nhau cho tám vị quốc vương trong tám nước xây tháp cúng dường. Bộ tộc Malla cũng xây một bảo tháp tại nơi lễ Trà tỳ của đức Phật để phụng thờ tro than lúc hỏa táng còn lại. Ngôi tháp này hiện nay không còn lại nhiều ngoại trừ một mô gạch lớn chiều cao khoảng chừng 15 mét được bảo quản bên trong một công viên. (Tháp Trà Tỳ ở câu Thi Na/3/2010) Theo Phật-Giáo Đại-Thừa, ngày rằm tháng hai âm-lịch là ngày kỷ-niệm Đức Phật Thích-Ca nhập Niết-Bàn, sau 49 năm trời thuyết pháp độ sinh. Vậy Niết-Bàn là gì?Niết-Bàn là phiên âm chử Phạn NIRVANA, cựu dịch là tịch diệt, diệt độ, bất sinh, an lạc, giải thoát; tân dịch là viên tịch. Tịch diệt có nghĩa là diệt hết cái khổ sinh tử luân hồi. Phật-giáo chia ra có hai thứ Niết-Bàn: Hữu dư y Niết-Bàn và Vô dư y Niết-Bàn: Nhập Hữu dư y Niết-Bàn là đã đoạn hết cái nhân đưa đến sinh tử luân hồi, nhưng còn dư cái quả khổ sinh tử biến dịch là cái xác thân; nội tâm đã thanh tịnh giải thoát hoàn toàn, không còn triền phược tham sân si, nhưng còn cái thân tứ đại, vẫn phải sống phải ăn uống ngủ nghỉ, phải chịu đau già bệnh chết. Nhập Vô dư y Niết-Bàn là đoạn được cái nhân sinh tử rồi, nay đoạn nốt cái quả biến dịch, cứu cánh không còn luân hồi nữa, nghĩa là người tu hành hoàn toàn giác ngộ và giải-thoát, lìa bỏ xác phàm, được tự tại vô ngại. Vài nét về Kushinagar Nơi đức Phật nhập Niết-bàn, Kushinagar đã trở thành một trong bốn thánh tích thiêng liêng nhất của Phật giáo (Lumbini, Bodhgaya, Sarnath và Kushinagar). Khi hành hương, chiêm bái bốn thánh tích (Tứ động tâm) trên miền đất Phật thiêng liêng, có lẽ Kushinagar là thánh tích để lại trong ta những ấn tượng bùi ngùi và xúc động nhất. Thánh tích Kushinagar tọa lạc tại thành Kushinagar, thuộc tiểu bang Utta Pradhesh, cách ga xe lửa Gorakhpur khoảng 50 km. Nhìn vào bản đồ Ấn Độ, chúng ta có thể xác định vị trí của Kushinagar tọa lạc gần như là trung tâm của những thánh tích khác như: Lumbini (Lâm-tỳ-ni thuộc nước Nepal), Vaishali (Tỳ-xá-li), Sarnath (vườn Lộc-uyển), v.v... Căn cứ theo đường chim bay, Kushinagar cách Lumbini khoảng 100 km, cách Vaishali khoảng 150 km, cách Sarnath khoảng 200 km và cách Bodhgaya khoảng 300 km. Thành Kushinagar, từ thời đức Phật cho đến hàng chục thế kỷ về sau, vẫn là một nơi xa xôi, hẻo lánh, dân cư thưa thớt. Kushinagar không có những vương thành lộng lẫy, những trung tâm thương mại, phố xá phồn hoa như thành Savatthi (Xá-vệ), thành Rajagaha (Vương-xá), thành Baranasi (Ba-la-nại), v.v... Kushinara được coi như là thủ đô của cộng hoà Malla, một trong những nước cộng hoà thuộc miền bắc Ấn, suốt thế kỷ thứ 6 và thứ 5 BC. Các quan niệm khác nhau về Niết Bàn: Phật giáo nguyên thủy coi nhập Niết-Bàn là "khôi thân diệt trí" thân tiêu ra tro, trí cũng tận diệt, toàn thể thân mạng của loài hữu tình đều diệt hết, vĩnh viễn không còn dấu tích gì trong pháp giới, không còn trở lại cõi nào nữa. Đó là Niết-Bàn tiêu cực, thụ động, là thế giới chết, là cõi hư vô (Néant). Khi Đức Thích-Ca được 80 tuổi, thân thể đã già suy, người nào đáng độ đã được Phật độ, những gì cần làm đã được Phật làm, lời nào cần dạy đã được Phật dạy; có sinh ra thì có già chết, luật vô thường không sai chạy mảy may; thân Phật tuy là thân kim cang cũng không thoát khỏi luật vô thường chi phối. Với sức toàn năng toàn trí, Phật có thể kéo dài đời sống thêm ít lâu, nhưng Phật không làm vậy để chứng tỏ sự hiệu lực của luật vô thường. Vả lại, việc làm của Ngài đã hoàn mãn, giáo pháp đã rõ ràng đầy đủ, tăng già đã thành lập vững vàng, Ngài muốn các đệ-tử tự thắp đuốc mà đi, đừng ỷ lại vào Ngài nữa. Phật giáo nguyên thủy coi Phật là một hữu tình giống như mọi chúng sinh, chỉ khác là Ngài đã tìm được con đường thoát khổ, Ngài đã thực hành phương pháp diệt khổ và đã được hoàn toàn giác-ngộ và giải thoát. Tuy vậy Phật vẫn phải chịu cảnh già chết một lần cuối cùng, và khi được 80 tuổi, Ngài bỏ thân xác thịt để nhập Niết-Bàn, vĩnh viễn không trở lại cõi này nữa. Đại Thừa coi Niết-Bàn là tích cực, là sống động, không phải một cõi, một cảnh, một tâm trạng, cũng không phải cái ngoan không, mà chỉ khi nào chứng mới biết Niết-Bàn là gì, chỉ có thể lấy trí mà nhận. Kinh Na Tiên nói rõ:"Người té vào đống lửa cháy mà vượt ra khỏi, người rớt vào huyệt chứa thây chết mà bò lên thoát, người ngã xuống hầm phân dơ mà trèo lên được, người ra khỏi vòng triền phược của tham sân si, của lo sợ sinh, già, bệnh, chết, đó là Niết-Bàn". Chúng sinh sống ở đời giữ được lòng an định, chứng được 4 đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nhận rõ đâu là chân, đâu là giả, thì tuy vẫn còn đi đứng nằm ngồi như mọi người, thật ra đã chứng Niết-Bàn. Đến khi duyên Ta Bà đã mãn, người chứng Niết-Bàn xả nốt cái thân tứ đại như chúng ta vứt bỏ cái áo rách và nhập Vô dư y Niết-Bàn. Nhưng không phải là ở đó an hưởng một mình cảnh sung sướng an nhàn, mà phải hiện hoá muôn thân, hồi nhập Ta Bà và tới các cõi khác để cứu độ chúng sinh. Thiên-Thai Tông cho rằng không có Vô dư y Niết-Bàn thật diệt mà chỉ là việc ngưng vọng về chân, chấm dứt sự biến hóa để trở về với nguồn gốc, chấm dứt mọi hiện tượng để trở về với bản thể. Đức Thích-Ca nhập Niết-Bàn là ngưng sự biến hóa của ứng-thân để trở về cái gốc của chân thân. Đại-Thừa đã siêu-nhân-hóa Đức Phật, không phải là Đức Thích-Ca mới thành Phật sau khi xuất gia tu hành khổ hạnh, ngồi nhập định dưới cội Bồ Đề trong 49 ngày, rồi hoát nhiên ngộ đạo lúc sao mai vừa mọc, sáng sớm ngày mồng 8 tháng 12 âm lịch, mà Ngài đã thành Phật từ lâu trải qua vô lượng vô số kiếp. Ngài đã chứng Pháp-Thân từ xưa và hóa hiện các ứng-thân trong trăm nghìn cõi để cứu-độ muôn loài. Chúng sinh mê muội không thấy rõ sự nhiệm mầu, mà chỉ căn cứ vào sự phân biệt của giác-quan và ý thức, nên tưởng rằng Đức Phật có giáng sinh, xuất gia, thành đạo, rồi có diệt độ, nhập Niết-Bàn. Ngài đã thành Phật từ lâu xa, thọ mạng vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường còn chẳng mất, nhưng nay chẳng phải thiệt diệt độ mà nói diệt độ. Đó là Đức Như-Lai dùng phương tiện để giáo-hóa chúng sinh nếu Phật ở lâu nơi đời thì người ta dễ sinh lòng ỷ lại, buông lung, nhàm trễ, chẳng sinh ra ý tưởng khó gặp gỡ Như-Lai, tưởng có Như-Lai luôn luôn ở đời, về sau tu cũng còn kịp, dầu gặp khổ não thì đã sẵn có Như-Lai cứu giúp. Muốn cho mọi người sinh ý tưởng khó gặp Phật, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, nên Đức Như-Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt độ. Kinh Pháp-Hoa đưa ra thí dụ: Xưa có một lương y rất giỏi, chữa bệnh gì cũng hết; các con ông ta cậy có cha tài giỏi nên không gìn giữ, uống phải thuốc độc, phát bệnh khổ sở, xin cha cứu cho. Vị lương y nghiên cứu bệnh, bào chế thuốc hay rồi đưa cho uống; những đứa con nào nghe theo lời dạy của cha, uống thuốc đều được lành bệnh. Vài đứa con khác, vì thuốc độc thâm nhập làm mất bổn tâm, không chịu uống vì cho không ngon. Người cha thương xót nghĩ rằng: lũ này ngu si điên đảo, cầu xin thuốc tốt mà lại không chịu uống. Ta phải dùng phương-tiện khiến chúng nó uống thuốc này. Ông ta bèn bảo các con rằng: "Ta, nay đã già, giờ chết sắp đến; ta để lại thuốc tốt, các con nên uống, chớ lo không hết bệnh". Sau đó ít lâu, vị lương y đi sang nước khác, cho người về bảo các con rằng: "Cha các ngươi đã chết". Các người con nghe cha chết, không chỗ cậy nhờ; tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này là lương dược chữa được các bệnh, liền đem ra uống, quả nhiên hết bệnh. Người cha biết các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con thấy. Với thí dụ trên, Đại-Thừa chủ trương Đức Phật thường trụ ở đời; nếu người nào tu hành thanh tịnh, tâm được an tịnh thì sẽ thấy những cảnh giới nhiệm mầu mà thân phàm mắt thịt không sao thấy được. Ngài Thiên-Thai Trí-Giả Đại-Sư trì tụng Kinh Pháp-Hoa, lặng lẽ nhập định, thấy hội Linh-Sơn vẫn còn, Đức Phật đang thuyết pháp cho chư Bồ tát, Thanh-Văn và chư Thiên nghe. Kinh Pháp-Hoa còn đưa ra một thí dụ khác, ví Niết-Bàn của Phật Giáo Nguyên Thủy như một hóa thành, nghĩa là một tòa thành do thần thông biến hóa ra không thật có không phải là chỗ an trú vĩnh viễn mà chỉ là nơi tạm nghỉ chân để dưỡng sức trước khi tiếp tục cuộc hành trình khó nhọc mà cứu cánh là quả vị Phật, ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Niết-Bàn chỉ còn là một phương tiện nghỉ ngơi ở giữa đường dài, chỉ là một kết quả tạm thời bé nhỏ đối với các kết quả to lớn là Phật quả. Niết-Bàn đó không chân thật, rốt ráo chỉ do sức của Như-Lai. Nơi một Phật thừa mà phương tiện nói thành ba. Bổn hoài của Phật là đưa chúng sinh thẳng một đường đến Phật quả, con đường đó chỉ có một, đó là Phật thừa. Nhưng vì chúng sinh tự lực yếu kém, chí nguyện thấp hèn, cao thì sợ, xa thì chán nên bất đắc dĩ Phật phải quyền lập tam thừa, quyền nói Niết-Bàn, để chúng sinh có chỗ nghỉ tạm hưởng an vui chốc lát cho hết mệt, hết sợ, hết chán. Sau đó Phật lại dẫn người tu hành tiếp tục lên đường hành Bồ-Tát đạo, tự giác giác tha, lợi mình lợi người, không phải là những mầm mống hư nát (tiêu ma hoại chủng), không giữ thái độ trầm không thủ tịch, mà lăn xả vào cuộc đời để cứu đời, làm mọi việc lành mà không chán, sống trong bùn mà không hôi, đắm trong sắc mà không ham, không còn chấp hình danh sắc tướng. Quên mình để cứu giúp mọi loài, đó là hình bóng của Bồ Tát Quán-Thế-Âm tầm thanh cứu khổ. Đó là Bồ-Tát Địa-tạng với lời nguyện lớn: Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, Chúng sinh độ tận, phương chứng bồ-đề. Duy thức tông (zh. 唯識宗, sa. vijñānavādin) thì cho rằng Niết-bàn và luân hồi không khác, mọi hiện tượng đều không tồn tại, không thật có. Đối với tông này thì Niết-bàn xuất hiện khi mọi phân biệt chấm dứt. Duy thức tông cho rằng có hai dạng Niết-bàn: Niết-bàn của A-la-hán, đó là người khi chết chỉ còn Chân như tuyệt đối là tồn tại. Đó là người "đã yên nghỉ". Dạng Niết-bàn đó tuy nhiên không ưu việt bằng Niết-bàn của Phật, là dạng chủ động "dập tắt ngọn lửa đời sống" nhưng cũng chủ động ban phát lòng từ bi. Đây là dạng thống nhất của Chân như với mọi chúng sinh, trong đó mỗi cá nhân vẫn còn tồn tại trong nghĩa quy ước. Kinh Lăng-già (sa. laṅkāvatārasūtra) ghi lại như sau (bản dịch Đức ngữ của H.W. Schumann, Chân Nguyên dịch Đức-Việt): Phải nhận biết luân hồi và Niết-bàn không khác biệt nhau. (Laṅkāv 2, p.61). Định nghĩa của bất nhị (zh. 不二, sa. advaya) là gì? Nó có nghĩa là, hình ảnh, dài ngắn, trắng đen xuất phát từ nhị nguyên và không tách rời nhau. Như trường hợp luân hồi và Niết-bàn, tất cả những sự việc này đều bất nhị. Không có Niết-bàn có luân hồi, và không có luân hồi có Niết-bàn. Bởi vì nguyên tất cả những hiện hữu đều không có tự tính, chỉ là ngôn từ của con người. Chúng chỉ là sự tưởng tượng (s.kalpanā) và không tồn tại thật sự. Niết-bàn cũng chỉ là cơn mộng và không có một cái gì có thể nhập niết-bàn bao giờ. (Laṅkāv 2,146, p.88). Thiền tông, Niết-bàn cũng không hề tách rời với thế giới này mà chính là sự trực ngộ được thể tính của Tâm, là thể tính của con người, thể tính của Phật. Thực hiện Niết-bàn phải thông qua trí huệ và vì vậy, có khi Niết-bàn được xem là đồng nghĩa với trí huệ bát-nhã. Niết-bàn và trí huệ chỉ là hai mặt của một cái duy nhất. Niết-bàn là trạng thái của một người đã đạt trí huệ bát-nhã, đã đạt tri kiến về Tâm và ngược lại Bát-nhã là trí huệ của một người đã chứng đắc Niết-bàn. Tháp và chùa Niết Bàn Đến với thánh tích Kushinagar, ngày nay, chúng ta sẽ được chiêm bái hai nơi thiêng liêng nhất: nơi đức Phật nhập Niết-bàn (gồm tháp Niết-bàn, chùa Niết-bàn...) và nơi diễn ra lễ Trà tỳ kim thân của đức Thế Tôn. Các sử liệu về Kushinagar chưa xác định rõ sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, nơi đó có những gì. Ngôi tháp Niết-bàn, chùa Niết-bàn và những phế tích còn lại mà chúng ta thấy ngày nay được các nhà khảo cổ xác định xây dựng từ thời vua Asoka (vua A-Dục, thế kỉ thứ 3 trước Tây lịch) trở về sau. Tháp Niết-bàn (Mahaparinirvana Stupa) to lớn mà chúng ta thấy hiện nay có chiều cao khoảng 45 mét, đường kính khoảng 10 mét. Đấy là một ngôi tháp có màu trắng, xây kín xung quanh, không có cửa ra vào. Tháp được xây trên một nền gạch cao khoảng 2,7 mét; tháp có hình tròn trụ, với mái hình vòm tròn, phía trên vòm tròn ấy được xây một khối hình trụ nhọn dần lên tận đỉnh, hình trụ ấy gồm ba tầng, cao khoảng 5,5 mét. Nguyên thủy ngôi bảo tháp Niết Bàn, được các nhà khảo cổ cho rằng, nó được xây dựng bởi vua Asoka vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Vua Asoka, sau khi từ bỏ đời sống một bạo chúa hung tàn, ông đã quay về với Phật giáo và dùng chánh pháp để trị dân. Để cho dân chúng toàn cõi Ấn Độ được thấm nhuần công đức, vua Asoka đã thu thập xá-lợi của đức Phật trong tám ngôi tháp của tám vị quốc vương thời xưa, chia đều ra tám vạn bốn ngàn phần và xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp trên toàn cõi Ấn để dân chúng được chiêm bái, cúng dường, tăng trưởng công đức. Bảo tháp Niết-bàn là một trong những ngôi tháp ấy. Tháp Niết-bàn được xây tại thánh tích này để tôn thờ xá-lợi của đức Phật, đồng thời để kỉ niệm nơi đức Phật đã xả bỏ báo thân sanh diệt, an trú vào Niết-bàn bất diệt. Gần mười thế kỷ trôi qua kể từ thời vua Asoka, đến thế kỷ thứ bảy, ngài Huyền Trang đến chiêm bái thánh tích này thì bảo tháp Niết-bàn vẫn còn và ngài đã ghi chép trong cuốn kí sự của mình: "Về phía tây bắc của thành này khoảng ba đến bốn dặm, băng qua dòng sông Ajitavati (A-tỳ-ba-phạt-để), không xa về phía tây của bờ sông này, chúng ta đến một rừng cây Ta-la. Cây Ta-la giống như cây Huk, vỏ cây màu trắng xanh, lá cây lóng lánh và trơn dịu. Chỗ này có bốn cây thật cao, đây là nơi đức Như Lai đã nhập Niết-bàn, tại đây có tinh xá bằng gạch rất lớn. Trong tinh xá này có một tượng đức Phật nhập Niết-bàn, Ngài nằm quay đầu về hướng bắc như đang ngủ. Bên cạnh tinh xá này là bảo tháp do vua Asoka xây dựng, mặc dù đã hư sụp, nhưng cũng còn cao gần 60 mét (200 feet)..." Vào những thế kỉ 12, 13, các thánh tích Phật giáo bị Hồi giáo đốt phá.Nơi đức Phật Niết-bàn, cũng như bảo tháp Niết-bàn đã bị thiêu rụi và đập phá, trở thành những đống gạch đổ nát, hoang tàn. Thánh tích Kushinagar nói chung và bảo tháp Niết-bàn nói riêng hầu như đã bị lãng quên không người nhắc đến. Gần 600 năm sau, thế kỉ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng người Anh tên là Cunningham, người có công lớn trong cuộc khảo cổ đã phục hồi lại các thánh tích Phật giáo. Ông đã căn cứ vào cuốn Đại Đường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang và tiến hành khảo cổ các thánh tích thiêng liêng của Phật giáo. Dưới sự hỗ trợ đắc lực của người phụ tá của ông, nhà khảo cổ Carllleyle, các di tích nơi đức Phật nhập Niết-bàn gồm các nền tháp, chùa viện, tượng Phật, v.v... đã được phát hiện và bảo vệ cẩn thận. Với sự phát hiện khám phá đầy ý nghĩa ấy, nền tháp Niết-bàn đã được xác định. Đến năm 1927, với sự đồng ý của chính phủ Ấn Độ, cộng đồng Phật tử Myanmar đã phát tâm kiến tạo ngôi tháp Niết-bàn ngay trên nền móng cũ của bảo tháp do vua Asoka xây dựng ngày xưa. Gần 50 năm sau, vào năm 1972, các Phật tử Myanmar lại phát tâm trùng tu bảo tháp này một lần nữa và đấy chính là bảo tháp Niết-bàn hùng vĩ mà chúng ta thấy ngày nay. Tại Tháp Niết Bàn thờ một tượng Phật nằm, dài chừng 6 mét trong tư thế nhập diệt. Tượng được tạc bằng đá đen nhưng bây giờ tượng được lát vàng bởi sự đắp vàng vào tượng của khách hành hương. (Bình minh trên Tháp và Chùa Niết Bàn/Câu Thi Na/3/2010 ) Các di tích tại nơi đức Phật nhập Niết-bàn: Một trong những bảo vật ý nghĩa nhất tại chùa Niết bàn ở Câu Thi Na là tượng đức Phật nhập Niết-bàn. Trong ngôi chùa này, chỉ thờ duy nhất pho tượng này. Đây là một trong những kiệt tác về nghệ thuật tranh tượng Phật giáo vào thời đại Kumargupta (413-455). Một triều đại đã đến đỉnh cao của nghệ thuật sáng tác tranh tượng Phật giáo. Trong triều đại này, nhà điêu khắc Haribhada đã tạc pho tượng từ một khối đá lớn có tên là Chunar. Pho tượng có chiều dài khoảng 6 mét, được đặt trên một bệ đá hình chữ nhật cao khoảng nửa mét và tôn thờ trong chùa Niết-bàn. Tượng nằm nghiêng bên hữu, đầu tượng hướng về phương Bắc và gối lên tay phải, mặt tượng hướng ra cửa chánh Nam, tay trái đặt xuôi trên hông, hai chân song song chồng lên nhau. Pho tượng đã thể hiện đầy đủ các tướng hảo và vẻ đẹp của một đấng Thế Tôn. Một điều đáng buồn là pho tượng đã bị đập gãy làm nhiều phần. Trong lúc khảo cổ khai quật từ đống gạch đổ nát của tháp và chùa Niết-bàn, Cunningham và các cộng sự của mình đã phát hiện pho tượng này vào năm 1876, đoàn khảo cổ của ông cũng phát hiện những bộ hài cốt phủ phục trên pho tượng này; đây rất có thể là những vị Tăng sĩ đã lấy thân mình bảo vệ thánh tượng, không cho những kẻ cuồng tín đập phá tôn tượng. Ngày nay, pho tượng đã được ráp lại và thờ đúng vị trí ngày xưa; dù bị đập gãy nhiều phần, nhưng thánh tượng đã được hồi phục và trở thành một trong những bảo vật thiêng liêng tại thánh tích Kushinagar. Đến với thánh tích này, ngoài bảo tháp và chùa Niết-bàn trang nghiêm hùng vĩ, chúng ta còn chứng kiến được nhiều di tích khác trong khuôn viên đức Phật nhập Niết-bàn. Xung quanh tháp và chùa Niết Bàn, có nhiều chùa tháp và tự viện được xây dựng từ thời xa xưa. Vào khoảng đầu thế kỉ thứ 5, ngài Pháp Hiển, một vị cao tăng người Trung Hoa đến chiêm bái nơi này, ngài cho biết nơi đây có nhiều ngôi chùa, tháp, tự viện, v.v... Hơn hai thế kỉ sau, thế kỉ thứ VII, ngài Huyền Trang đến chiêm bái thánh tích này, ngài cũng cho biết nơi đây có rất nhiều ngôi bảo tháp như: bảo tháp Niết-bàn, tháp tưởng niệm vị đệ tử cuối cùng của đức Phật, tôn giả Subhada (Tu-bạt-đà-la), vị đệ tử đặc biệt lớn tuổi (120 tuổi) cầu pháp, chứng đắc thánh quả và nhập Niết-bàn chỉ trong một đêm, cùng đêm đức Phật nhập Niết-bàn; tháp tưởng niệm tiền thân của đức Phật từng làm con chim trĩ và con nai để cứu độ chúng sanh; tháp tưởng niệm vị thần Kim cang Vajrapani ngã xuống đất bất tỉnh, khi nghe đức Phật đã nhập Niết-bàn, v.v... Cách bảo tháp và chùa Niết-bàn khoảng 200 mét về hướng Tây Nam có một nền tháp tên là Matha Kuar, tháp này được xây dựng để thờ tượng Phật Matha Kuar (Hoàng-tử-mất). Theo các sử liệu Phật giáo, tháp này được xây bởi những người thuộc dòng tộc Sakya (Thích-ca) để tôn thờ tượng đức Phật; vì trong tâm của họ, đức Phật lúc nào cũng là vị hoàng tử tài ba, khả kính, nên họ đặt tên cho tháp này là Matha Kuar. Nhìn vào nền tháp chúng ta có thể ước đoán được ngôi tháp ngày xưa ắt hẳn cao lớn và đẹp lắm. Những cây sa-la ngày xưa, lúc đức Phật nhập Niết-bàn và lúc ngài Huyền Trang trông thấy hiện nay không còn nữa. Nhưng ngày nay cũng có một số cây sa-la được trồng trước bảo tháp và chùa Niết-bàn, cũng như một số nơi trong khuôn viên đức Phật nhập Niết-bàn. Với sự quan tâm và bảo vệ của chính phủ Ấn, ngày nay, nơi đức Phật nhập Niết-bàn đã trở thành một hoa viên xinh đẹp, một thánh tích thiêng liêng của người con Phật. Tháp Trà Tỳ(Angrachaya Stupa) Tại khuôn viên diễn ra lễ trà tỳ của đức Phật có một ngôi tháp thật lớn, hình dạng đặc biệt trông giống như một ngôi mộ cổ vĩ đại. Tháp có chiều cao khoảng hơn 8 mét, đường kính của tháp đến 34 mét. Niên đại của ngôi tháp chưa được xác định chính xác. Theo kinh Đại bát-niết-bàn thì, nguyên thủy của ngôi bảo tháp này được bộ tộc Malla gom tất cả tro than sau lễ trà tỳ của đức Phật lại và xây một ngôi bảo tháp to lớn trên phần tro than ấy để tôn thờ, lễ bái, cúng dường. Qua các thế kỉ về sau, rất có thể ngôi bảo tháp được xây dựng thêm cho cao và lớn hơn; cũng có thể trải qua thời gian ngôi bảo tháp bị đập phá bởi con người, hay sự bào mòn và tàn phá của thời gian làm cho ngôi tháp trở nên thấp và nhỏ đi. Ngài Huyền Trang khi đến chiêm bái thánh tích này có đề cập đến ngôi bảo tháp và các di vật, nhưng Ngài không có mô tả về hình dáng và niên đại của ngôi tháp: "Về phía Bắc của thành này, sau khi băng qua dòng sông Ajitavati (A-tỳ-ba-phạt-để), và đi khoảng hơn 300 bước có một bảo tháp. Đây là nơi trà tỳ kim thân của đức Như Lai. Đất chỗ này trộn lẫn giữa đất và than, có màu vàng đen. Bất cứ người nào với lòng chí thành nguyện cầu và tìm ở đây, chắc chắn sẽ tìm thấy một vài xá-lợi của đức Như Lai." Xung quanh bảo tháp trà tỳ có nhiều tháp nhỏ và nền móng các tháp, tinh xá, tự viện... Hầu hết các tháp và tinh xá này được xây dựng từ thế kỉ thứ nhất trở về sau. Toàn bộ khu vực này được trồng những thảm cỏ xanh, cây cối và hoa kiểng rất đẹp. Viện bảo tàng Kushinagar Với những công trình khảo cổ và khai quật tại thánh tích Kushinagar từ những năm đầu thế kỉ 19 đến nửa đầu thế kỉ 20, các nhà khảo cổ đã phát hiện rất nhiều di tích, cổ vật như: các tranh tượng Phật, Bồ-tát, các khí cụ, mẫu vật bằng đồng, đá, đất, v.v... có những di vật cách đây hơn 2000 năm. Với những di vật đầy ý nghĩa lịch sử và giá trị tôn giáo ấy, chính phủ Ấn đã xây một viện bảo tàng để bảo vệ. Đây là một trong những viện bảo tàng lớn của tiểu bang này.Tứ Động Tâm của Phật giáo nói chung hay thánh tích Kushinagar nói riêng đã thật sự chuyển mình thức dậy sau giấc ngủ ngàn thu. Ngày nay, Tứ Động Tâm đang chào đón những người con Phật khắp nơi trên thế giới trở về chiêm bái, tu tập. Đó là một trong những phước duyên tối thượng để tăng trưởng phước đức ngay giữa cuộc đời ác trược đầy biến động này. . . . . . Trước sân khách sạn tại Câu Thi Na/ Ấn Độ/3/2010 Trước sân khách sạn tại Câu Thi Na/ Ấn Độ/3/2010 Hành lễ tại Chùa Niết Bàn/Câu Thi Na/3/2010: từ: duongsinh.net
-
Gửi hoa_tram87, Nếu cửa ra vào của phòng trọ nhìn về hướng Tây thì đặt ảnh tượng Quan Âm nhìn về hướng Tây, tức từ trong nhà nhìn ra như thông thường. Lưu ý: không đặt bàn thờ ngay trên vòm cửa ra vào trong nhà. Nghĩa là mỗi lần người đi qua cửa là đi phía qua dưới bàn thờ. Sau này hai vợ chồng chọn hướng nhà hay hướng bàn thờ thì chọn Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây (Theo Phong Thủy Lạc Việt). :lol: Thiên Đồng :rolleyes:
-
Viếng Đền Vua Hùng Sáng nay, ngày 23/4/2010, tức mồng 10/3 năm Canh Dần, tức là ngày giổ Tổ, tưởng nhớ các vua Hùng Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giổ tổ mồng mười tháng ba. một nhóm thành viên diễn đàn Lyhocdongphuong đã có buổi họp mặt để cùng đến viếng đền vua Hùng tại số 94 Nguyễn Thái Sơn quận Gò vấp. 8g00 sáng cùng ngày, một số thành viên đã tập trung ở TTNC lý Học Đông Phương và khởi hành đến đền sau khi dùng vài ly trà Bắc. Trước khi vào lễ, nhóm đã có buổi tọa đàm tại quán cafe bên cạnh đền. từ trái qua: Thiên Luân, Xã nhà của Văn Lang, Văn Lang, Phongphongthay, HungNguyen, Thiên Đồng, Công Minh, Hatgaolang. Các thành viên cùng góp một tí lòng thành để viếng lễ. Đầu tiên, lễ Mẹ Âu Cơ. từ trai qua: Công Minh, NguyenAnh, Văn Lang, Hatgaolang, Thiên Luân, Xã nhà của Văn Lang. Tiếp đến lễ bái Lạc Tướng, Lễ bái Cữu Huyền Thất Tổ Lễ bái Bác Hồ Lễ Bái Vua Hùng, Lạc Long Quân. Riêng lễ bái Vua Hùng, Thiên Đồng không kịp chụp đầy đủ các thành viên đang hành lễ, vì do lể bái trên lầu và xuống chậm.
-
Đi trên đường Lý Chính Thắng, quân 3, Tp HCM, Thiên Đồng chợt nhận thấy một ngôi đình cổ tên là "Đình Xuân Hòa" mà ở đấy , ngay mặt tiền ngoài nơi thờ ông Hổ có thể hiện hai xoáy Âm Dương Lạc Việt. Dò hỏi người giữ đình thì người này không biết gì cả, chỉ biết rằng đình thờ Thần Hoàng Bổn Sứ của người Việt đã có tứ lâu. Nay đình này được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.
-
Phong Thủy của Thăng Long từ http://5xulog.wordpress.com Tám thế kỷ sau ngày Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông Hát (năm 43) và Giao Chỉ lần thứ hai trở thành thuộc địa của Trung Quốc, một vị tướng trẻ văn võ song toàn và giàu nhiệt huyết có tên là Cao Biền (821-887)được vua Đường gửi tới làm quan cai trị mảnh đất cực Nam của Trung Hoa (866-875). Những năm tháng đầu tiên ở đất Giao Chỉ, một mặt Cao Biền chỉ huy quân dẹp nạn Nam Chiếu, một mặt cải tổ hệ thống quản lý thuộc địa, đưa nó lên một tầm mới. Cao Biền cũng cải tổ các chính sách kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Giống như những người Trung Hoa lúc đấy, Cao Biền vẫn mang trong mình tư duy của nước lớn, mang văn minh đến khai hóa cho thuộc địa. Tới Giao Chỉ, Cao Biền nhận ra đây là mảnh đất địa linh nhân kiệt, có thể cát cứ cho riêng mình, từ đó ôm mộng lập quốc để làm vương. Cao Biền bắt đầu giấc mộng này bằng việc xây dựng thành Đại La. Nhưng Cao Biền không ngờ rằng đất Giao Chỉ, trước đấy 1000 năm, đã có một nền văn minh lúa nước và văn hóa phật giáo cực kỳ phát triển, trong đó đỉnh cao là thời kỳ chuyển tiếp ở Luy Lâu. Thậm chí, có thể, Luy Lâu đã từng là trung tâm văn hóa rực rỡ nhất của Đông Nam Á, hoặc cả Đông Á ở thời điểm đấy. Chỉ có điều Mã Viện và đồng bọn đã tàn bạo xóa hủy hoàn toàn nền văn minh này. Khi Đại La xây xong, Cao Biền nghiên cứu tài liệu, chợt nhận ra rằng mình đã vô tình khởi tạo lại sức sống cho một quốc gia cổ. Nếu quốc gia này tái sinh, sự tồn tại của Trung Hoa vớ vẩn có khi sẽ bị đe dọa. Cao Biền sợ quá liền viết report gửi về cho vua Đường, rồi tự mình đi trấn yểm để phá Giao Chỉ. Duy chỉ có thành Đại La là Cao Biền không thể tự hủy hoại được. Việc trấn yểm mang tính chất phá hoại của Cao Biền đã phần nào có kết quả khi nước Việt lớn mạnh sau này chỉ vài lần mang quân đánh sâu vào Trung Hoa (Lý Thường Kiệt) và cũng chủ yếu là để cảnh cáo. Còn bản thân nước Nam, suốt 1000 năm sau đó, lặng lẽ mở rộng bờ cõi về phía Nam. Từ biên giới lúc đầu chỉ ở vùng Nghệ An, dần dần quốc gia Giao Chỉ mở rộng bờ cõi, sáp nhập Chân Lạp, Chiêm Thành và một phần lớn quốc gia Phù Nam. Điều đặc biệt ở đây là văn hóa giao chỉ, cùng với sự mở rộng bờ cõi, đã dễ dàng được các vùng đất mới hấp thu và bản địa hóa. Thời kỳ mở rộng bờ cõi có quy mô lớn nhất là thời kỳ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Chúa Tiên là người đã cầm quân đi mở rộng biên cương bắt đầu từ Quảng Nam-Phú Yên (đất Chiêm Thành) qua đến hết vùng đồng bằng sông cửu long tới tận Vịnh Thái Lan (đất cũ của vương quốc cổ Phù Nam, sau này do các vua người Khmer quản lý). Chua Tiên Nguyễn Hoàng là triều thần nhà Lê, đóng đô ở Thăng Long. Đến thời nhà Nguyễn (các hậu duệ của chúa nguyễn), vua Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi ở Gia Định, đánh thắng quân Tây Sơn, chiếm ngược lại hết miền bắc của nhà Lê. Tuy nhiên, ông có một sai lầm hết sức khủng khiếp, là dời đô từ Thăng Long về Phú Xuân. (Lưu ý là trước đấy có nhà Hồ rời đô về Thanh Hóa. Được mấy năm là đứt phừn phựt luôn, sợ chưa) Kể từ khi dời đô về Phú Xuân (1802), binh đao lọan lạc liên miên cho đến 1954 mới tạm chấm dứt ở miền bắc là 1975 mới thống nhất đất nước một lần nữa. Trong thời kỳ kinh đô của Việt Nam bị dời về Phú Xuân thì Thăng Long Thành bị Pháp chiếm một thời gian dài, trong đó quân đội Pháp đóng quân ngay trong Hoàng Thành. Chính vì đóng quân ở đất vượng khí nên quân đội viễn chinh Pháp đắc lợi. Có cái Điện Biên Phủ bé bằng cái chảo không dính mà quân Việt Minh của ông Giáp phải đánh mất 9 năm mới xong. Nếu mà bọn Pháp không hưởng vượng khí của đất Hoàng thành thì có khi oánh 9 tháng là xong cứ điểm Điện Biên Phủ. Vậy thì thuật phong thủy được áp dụng vào Đại La là như thế nào? Tại sao rất nhiều người xây Đại La trước Cao Biền mà các cụ thiền sư Giao Chỉ không giúp, mà phải đợi đến Cao Biền mới giúp. Phong Thủy, nếu mua sách Phong Thủy về đọc thì thấy hết sức đau đầu, vừa tù mù vừa bí ẩn. Tốt nhất là không nên đọc mà lấy cái concept gốc rồi suy theo ý của mình. Ví dụ concept của Phong Thủy là phương pháp nghiên cứu đến việc Khí và Nước ảnh hưởng đến con người. Nhưng Phong Thủy làm ảnh hưởng đến cả một kinh đô, qua đó ảnh hưởng đến cả một dân tộc như việc trấn yểm Tô Lịch là một việc hiếm có. A. Pháp sư thời Interlét phán thế này: Theo như tôi hiểu (giả vờ mình và pháp sư thời internet để cố hiểu, haha) thì Khí đại khái giống như một ’sóng’ năng lượng. Nó ‘chảy’ qua các vùng đất theo các tunnel mà trong phong thủy gọi là mạch, lạc, huyệt gì đó. Các tunnel này lại tùy thuộc vào địa thế của từng vùng đất như núi non, sông ngòi ở trên đất đấy. Ở đâu Khí tốt tụ lại thì nó sẽ cộng hưởng với nguồn nhân lực và thiên nhiên ở đấy, kích họat năng lực của con người và thiên nhiên ở đấy lên một bậc cao hơn. Nếu chưa có khí tốt tụ lại thì phải Trấn (bịt, hoặc lái các tunnel) để dồn khí lại. Để đọc được dòng chảy của Khí trên một diện rộng (ví dụ như Thăng Long) thì cần phải rất hiểu biết về Hình Thế. Mà các thiền sư Giao Chỉ rất giỏi món này, như đã nói trong entry trước. Khí chảy qua Thăng Long trước thời kỳ xây thành Đại La là rất tốt, nhưng chưa đủ mạnh và đậm đặc để làm vượng đất này. Do đó phải Trấn. Bởi Khí là sóng nên có các tính chất phản xạ, hội tụ, tán sắc, suy hao, phân cực, cộng hưởng và có thể khuyếch đại được. Việc Trấn các dòng Khí chính là tạo ra một cái bẫy nhân tạo, bắt Khí phải phản xạ và hội tụ vào một khu vực nào đó theo mong muốn của mình. Để trấn các dòng Khí, tất nhiên là phải dùng Thủy (nước). Các Pháp Sư nhà mình biết là phải Trấn một điểm trên Sông Tô Lịc ở phía Tây thành Đại La. Nhưng đợi mãi mới có một chàng tuổi trẻ tài cao là Cao Biền mới làm các pháp sư Giao Chỉ yên tâm giao nhiệm vụ (bằng mẹo). Và quan trọng hơn nữa là Cao Biền giỏi Lý Pháp. Tại sao phải giỏi Lý Pháp? Như đã nói ở trên, nhìn ra khí của một vùng đất, tìm ra điểm trấn để khuếch đại và hội tụ khí thì các cụ Pháp Sư Giao Chỉ biết rất rành. Nhưng Khí có bản chất là sóng nên nó có các hài (harmonic). Có các hài bậc chắn và hài bậc lẻ. Khí gốc (fundamental frequency) có nhiệm vụ làm con người và thiên nhiên nơi nó chảy qua dao động cùng tần số với khí. Ai mà hợp sẽ cộng hưởng. Còn các hài (integer multiple of fundamental frequency – harmonic series) sẽ có nhiệm vụ bắt các khả năng của con người phải dao động theo. Ví dụ các hài bậc chẵn sẽ làm ảnh hưởng đến các khả năng có tính vật chất như sức khỏe, độ dẻo dai, chạy nhanh, sống lâu. Các hài bậc lẻ sẽ ảnh hưởng đến các khả năng về tâm linh, tư duy, năng khiếu nghệ thuật, quân sự. (cái này chỉ là ví dụ chứ bố ai biết được chính xác là gì ngoài mấy cụ thiền sư Giao Chỉ nhà mình ngày xưa) Đối với Khí gốc thì dùng Trấn. Còn với các hài của khí thì phải dùng Yểm. Yểm thì phải giỏi Lý Pháp. Thế là phải đợi mãi mới có Cao Biền giỏi Lý Pháp xuất hiện. Trận đồ bát quái như Cao Biền hay Khổng Minh dùng, đều là phép yểm cao cấp của Lý Pháp. B. Pháp sư cộng hưởng từ hột nhân phán thế này: Còn bây giờ lại chán làm pháp sư internet rồi, hahaha, quay qua làm pháp sư cộng hưởng từ hạt nhân (nuclear magnetic resonance) xem sao. Trấn ở Sông Tô Lịch sẽ là một điểm phát các xung (pulse) có tần số là một dải xung quanh tần số Larmor (Larmor frequency) trung bình của các khí chảy qua Đại La. Các xung này sẽ làm cộng hưởng các khí. Yểm sẽ là một trận đồ phát gradient vào khu vực Đại La. Các gradient này có nhiệm vụ phá pha (phase) các khí xấu và quy tu pha (phase) các khí tốt. Tuy nhiên một thời gian sau khi cộng hưởng thì sẽ xảy ra hiện tượng hồi phục (relaxation) theo phương trình Bloch. Lúc đó các Vua phải cho pháp sư ra Tô Lịch lập đàn cúng lễ với mục đích phát thêm xung (pulse) và gradient vào Đại La. Việc này được làm thường xuyên đến tận cuối đời Trần, thế cho nên đồ cổ tìm được ở Tô Lịch là các cổ vật có niên đại cách nhau cả 500 năm. Cũng do chịu khó phát thêm xung nên nhà Lý và nhà Trần cực mạnh. Đến cuối nhà Trần thì chắc các pháp sư trình độ kém, hoặc vua nhà Trần lơ là việc phát xung, thậm chí phát xung sai tần số nên khí bị giảm năng lượng dã man. Dẫn đến mất ngôi vào tay nhà Hồ. Kể từ thời nhà Hồ, lọan lạc linh tinh đến tận thời kỳ Pháp thuộc. Duy chỉ có nhà Lê vốn có Nguyễn Trãi và ba đời vua cực tài năng nên tồn tại được tầm gần 4 thế kỷ nhưng nội bộ chém giết nhau rất kinh. Thời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) là oách nhất. Ông vua này là người đầu tiên mở bờ cõi về phía Nam (đánh nhau với Chiêm Thành, lập quận Quảng Nam), mở bờ cõi về phía Tây, chiếm đất của Ai Lao, đưa quân thần phục nhiều tiểu vương quốc ở Thailand, Malaysia và Mymana. Thậm chí thủy quân của Lê Thánh Tôn còn đánh nhau đến tận Indonesia. Chúa Tiên về sau là người hoàn thiện nốt chiến lược nam tiến của vua Lê Thánh Tôn. Lưu ý rằng Nguyễn Trãi có họ ngọai là quý tộc nhà Trần còn vua Lê Thánh Tôn ngoài tài năng quân sự và kinh tế, ông còn là trí thức cực kỳ uyên bác “tay không rời sách, kinh sử, dịch số, toán chương đều tinh thông, văn thơ càng giỏi hơn các bề tôi…” (Phan Huy Chú nói về vua Lê Thán Tôn như vậy). Vua Lê Thánh Tôn cũng là người minh oan cho Nguyễn Trãi. C. Pháp sư có con mắt 4 chiều (và nhiều hơn nữa) của Einstein-Hilbert (pháp sư có mắt thế này chắc chắn là mắt lác hoặc chột hoặc thế nào đấy, chứ ko phải là mắt bồ câu đưa thư) Trong không gian đa chiều và phi tuyến tính của Einstein-Hilbert chắc chắn mọi thứ đều có tác động qua lại lẫn nhau. Đặc biệt các vật thể có năng lượng lớn xuất hiện trong không gian sẽ làm méo không gian xung quanh. Như vậy có thể cho rằng nếu xây một tòa tháp lớn sẽ làm không gian phong thủy xung quanh thay đổi theo. Tương tự như vậy, có thể cho rằng Trấn và Yểm là đặt vào không gian phong thủy một điểm có năng lượng lớn và làm thay đổi mạnh dòng chảy (flow) của khí trong khu vực này. Sự méo hoặc gấp lớp của không gian phong thủy (thay đổi các dòng khí) có thể sẽ rất giống với Ricci Flow và Ricci Curvature. Nhiều người đã tin rằng nếu phong thủy nhà mình xấu có thể sửa chữa bằng cách thay đổi hướng bếp, hướng cửa. Nhưng cách thay đổi hiệu quả nhất là đặt bể nước và đá (thái sơn thạch cản đương). Trong không gian phong thủy nhỏ, việc đặt thêm một bể nước hoặc thêm một hòn non bộ nhỏ, rất có thể làm thay đổi (cho tốt lên) của tiểu không gian phong thủy xung quanh. Tương tự như vậy, việc trấn yểm Tô Lịch làm thay đổi dòng chảy của 3 con sông (chết 2 sông, sông còn lại tắc tịt) rất có thể làm dòng khí của Đại La thay đổi hoàn toàn theo hướng tích cực. D. Năng lượng Giả sử các pháp sư ở trên có lý (hehe, chẳng may mà có lý thật thì vui) thì khu vực Trấn Yểm hẳn phải là nơi tập trung năng lượng (đặc biệt) thật là cao. Vậy năng lượng ấy ở đâu ra. Có thể khu vực Trấn Yếm được xây dựng (ví dụ bát quái trận đồ) như một cái hub có khả năng hút các năng lượng siêu nhiên từ nhật nguyệt tinh tú. Hoặc hút năng lượng của địa cầu. Hoặc được xây dựng như một tấm “gương” bát quái có tính chất phản xạ và hội tụ dòng khí vào đất Đại La (Trấn có tác dụng như một cái gương cầu lõm đối với ánh sáng còn Yểm có tác dụng như gương cầu lồi). Hoặc đơn giản nhất là trấn có tác dụng như điểm huyệt. Trong võ công có thể điểm huyệt làm liệt một cánh tay (hoặc làm cánh tay đang bị bệnh khỏe trở lại). Việc trấn yếm sẽ có tác dụng làm khỏe phần địa chất là nền móng của Đại La và làm chết hai con sông cổ, thay đổi phần thủy, dẫn đến ảnh hưởng toàn bộ phần khí của Đại La. Trong trường hợp này năng lượng sử dụng chính là sức người (nhân công) làm thay đổi dòng chảy (đóng cọc ngăn sông, làm kè, …) của ba dòng sông cổ đồng thời làm móng cho đất bồi châu thổ nằm giữa sông cái (Nhị Hà) và các sông nhánh (Tô Lịch). Hiến sinh Riêng phần các bộ hài cốt tìm thấy ở sông Tô Lịch thì sao? Việc này liên quan đến tục hiến sinh của hầu hết các dân tộc cổ. Hiến sinh xuất hiện ở các dân tộc thờ đa thần, có mục đích khá siêu nhiên là dâng hiến linh hồn sống và máu cho các thần. Một số ít dân tộc có tục hiến sinh người sống, trong đó có dân tộc Hoa. Chuyện người Hoa chôn người sống làm thần giữ của là quá phổ biến rồi. Trong khi đó người Việt cổ cùng lắm là hiến sinh súc vật. Tàn tích của hiến sinh súc vật còn tồn tại ở Đồ Sơn với lễ hội chọi trâu, con trâu thắng cuộc được vứt xuống vực. Ngay cả người dân tộc ở Tây nguyên có lễ đâm trâu cũng chỉ là hiến sinh súc vật. Còn người Việt ở đồng bằng bắc bộ còn duy trì tục hiến sinh cho tận tới ngày nay: cúng tổ tiên hay cúng giao thừa thì bao giờ cũng làm thịt một con gà trống. Vừa là hiến sinh vừa là cho vào bụng. Rất tiện. Ngoài ra còn hiến sinh bằng lương thực. Cúng xong hay quăng và rắc muối + gạo ra xung quanh nhà hoặc quanh chùa. Các cụ Pháp Sư nhà mình biết trước là nếu mượn tay Cao Biền đi trấn yểm thì chắc chắn Cao Biền sẽ làm lễ hiến sinh người sống. Mà người bị Cao Biền bắt cho lễ hiến sinh này chắc chắn sẽ là những trinh nữ trẻ khỏe đẹp nhất, các nam đồng khôi ngô nhất. Các cụ pháp sư Giao Chỉ phải cân nhắc rất lâu, cuối cùng quyết định là hy sinh vài người cho tương lai. Sau đó mới cử một cụ bơi giỏi nhất, canh lúc Cao Biền đi thuyền du lịch trên sông, mới bơi ra giả làm thần Long Đổ. Chính vì vậy mà hai vở kịch Bạch Mã và Long Đổ mới xảy ra ở hai khoảng thời gian cách quãng nhau. Nguồn gốc của Phong Thủy. Người ta cho rằng Phong Thủy xuất phát từ Tàu khoảng cuối thế kỷ thứ 3 đầu thế kỷ thứ 4. Các trước tác đầu tiên của thể loại Phong Thủy Tàu hình như là quyển Táng Thư. Tuy nhiên nếu nhìn vào trường hợp cụ thể của việc xây dựng thành Đại La thì có thể thấy Phong Thủy đã có ở Giao Chỉ trước. Và quan trọng nhất là: + Phong Thủy Giao Chỉ hoàn toàn không có yếu tố mê tín dị đoan khỉ gì cả. Chẳng qua có yếu đố dị đoan là do Cao Biền (do ảnh hưởng của phong thủy tàu) mang đến. + Phong Thủy Giao Chỉ chính là khoa học: Là thủy lợi, là quy họach đô thị, là hiểu biết về hạ tầng địa chất, là hiểu biết về mưa bão lụt lội. Vậy Phong Thủy Giao Chỉ đến từ đâu. Tất nhiên là đến từ Ai Cập Cổ Đại. + Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã có từ rất rất rất lâu ở châu thổ sông Nile, bắc phi. Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại là ở tận … thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên (ôi trời, xa thời hiện đại ghê). + Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã có cực kỳ nhiều thành tựu: chữ viết, xây dựng, hiểu biết về luyện kim, làm thủy tinh. Họ cũng có những kiến thức về điện, khí động học và hạ tầng địa chất, thiên văn học, y học. Tất cả nền văn minh rực rỡ này đều có xuất phát điểm từ việc họ rất giỏi thủy lợi và hiểu biết về thiên tai địch họa như lụt lội. Nhờ thủy lợi giỏi mà nông nghiệp của Ai Cập cổ đại phát triển. Họ bỏ qua các ngành lúc đó bị tụt hậu xa với nông nghiệp như săn bắn, đánh cá, … Nhờ nông nghiệp phát triển mà họ có sức mạnh về nhân sự (cần ít lao động hơn cho việc kiếm ăn). Nhờ sức mạnh nhân sự mà họ phát triển được các công trình xây dựng và quy họach đô thị. Tất nhiên nền văn minh nào cũng suy tàn. Vị Pharaoh cuối cùng của Ai Cập bị vua Cambyses II người Ba Tư đánh bại năm 525BC, mở ra thời kỳ nô lệ đầu tiên dưới ách đế chế Ba Tư (Persian Empire). Thời kỳ này kéo dài không lâu lắm. Lần cuối cùng người Ba Tư chinh phục đất sông Nile là lần vua Artaxeres III (358-338 BC) xâm chiếm Ai Cập. Sau thời kỳ bị Ba Tư xâm lược là thời kỳ Hy-La xâm lược Ai Cập Cổ Đại. Đặc biệt là trong đó có thời kỳ vua Alexander Đại Đế (356-323BC) Vua Alexander Đại Đế có một cuộc viễn chinh vĩ đại nhất trong lịch sử loài người cả về quy mô, sức người sức ngựa sức voi, và độ chinh phục. Ông tấn công Ấn Độ. Việc xâm chiếm Ấn Độ của quân đội Alexander Đại Đế không dài. Nhưng đủ để mang văn hóa La Mã – Ai Cập đến với Ấn Độ. Trong đó có các nghệ thuật thủy lợi, địa chất và quy họach đô thị. Có lẽ Alexander Đại Đế đã mang theo rất nhiều tù binh Ai Cập. Hoặc ông mang hẳn các nhà khoa học Ai Cập đi cùng quân đội viễn chinh của mình. Các kiến thức y tế, luyện kim, địa chất, khí tượng thủy văn của Ai Cập nhờ đó mà đến được với Ấn Độ. Sau khi quân đội của Alexander Đại Đế rút lui là mở ra đế chế Maurya của người Ấn (322BC-298BC). Đến thời vua Ashoka Đại Đế (273-232-BC), Ấn Độ đã trở thành nước mạnh với quốc giáo là Đạo Phật Nguyên Thủy. Vua Ashoka đã có chiến lược quảng bá Phật Giáo đi các vùng Đông Nam Á, Tây Á và Châu Âu phía Địa Trung Hải. Đi cùng các nhà truyền giáo cũng vẫn là các tri thức người Ấn vừa mới được update thêm kiến thức về thiên văn, thủy lợi, địa chất và y học. Sau đó là câu chuyện về việc Phật Giáo đi vào Văn Lang như đã nói ở phần II. Điều này lý giải tại sao các vua Hùng giỏi làm thủy lợi, biết đúc trống đồng, biết làm thuyền to đi trên sông. Lý giải tại sao Thục Phán An Dương Vương biết làm nỏ thần có mũi tên bằng sắt. Lý giải tại sao các pháp sư Giao Chỉ có kiến thức về thủy lợi, hạ tầng địa chất, thiên văn và quy hoạch. Tại sao các nhà sư ngày xưa lại biết chữa bệnh (cả Từ Đạo Hạnh và Minh Không đều chữa bệnh nan y cho Vua). Sau đó nghệ thuật thủy lợi và quy họach đi qua Trung Quốc và trở thành Phong Thủy. Rồi bị dị đoan hóa thành Phong Thủy Tàu. Rồi lại quay lại làm u mê chính chúng ta ngày xưa (Cao Biền) và ngày nay (toàn đọc xem lịch với tử vi bói toán kiểu Tàu, hahaha). Kể từ ngày Cao Biền đặt móng, đến vua Lý dời đô về Thăng Long, cho đến nay, nước Việt trải qua quá nhiều thăng trầm, nhưng bờ cõi ngày càng mở rộng, văn hóa ngày càng phát triển. Tuy đến nay kinh tế còn hơi yêu yếu, GDP đứng kém có khoảng 100 nước, dân số đẻ thêm mãi vẫn chưa bằng Tàu bằng Ấn, khoa học công nghệ chỉ hơn dăm nước châu Phi, nhưng Việt Nam là một lãnh thổ rộng lớn, rộng lớn hơn Giao Chỉ nguyên thủy rất nhiều lần. Chỉ có điều người Việt Nam bị nô dịch quá lâu, quên béng mất mình đã từng có một nền văn minh rực rỡ, nên bị mắc bệnh tự ti, nghĩ cái gì Tàu Nhật nó cũng hơn mình, mình phải học nó, đã thế lại toàn học mót, không ra đầu ra cuối gì. Điều này quả thực là vô cùng đáng tiếc với một dân tộc vốn tự coi mình là con Rồng cháu Tiên.
-
PHƯƠNG TIỆN - Chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Tổ Sư đều có hiển thị thần thông. Nay tại sao bảo trụ vào thần thông và các trò quái dị là sai chệch bản chất của pháp môn? - Nó chỉ là cái móc để móc cái áo choàng "chánh niệm, tỉnh giác, vô ngã, vô trụ tướng, thể nhập tánh". - Tại sao gọi thế? - Như có đứa bé kia học toán "cộng" ở trường. Cô giáo cho đề bài : "Em có một cái kẹo. Mẹ em cho em 2 cái nữa. Hỏi em được mấy cái? " Này Cỏ May, ông nghĩ sao. Vấn đề của đứa bé là học được phép "cộng" để sau này ứng dụng vào cuộc sống. Hay là trụ vào hình thức và chất lượng các viên kẹo? - Biết làm toán cộng mới là mục đích của nó. - Cũng thế pháp môn "Vô ngã, thể nhập tánh" mới là bản chất vấn đề. - Có phải vì thế mà gọi là xa rời được tâm phân biệt của nhị nguyên? - Đúng vậy, biết làm toán cộng thì chỉ có một, nên gọi là nhất nguyên hay bất nhị. Còn trụ vào kẹo thì có vô lượng vô biên màu sắc, hình thức và phẩm chất. Do đó sinh tâm phân biệt và đấu tranh vì cho rằng kẹo mình giá trị hơn kẹo của người khác! . . . Cũng thế pháp "Vô ngã, thể nhập tánh" của Như Lai là bình đẳng vì duy nhất "Một", còn trụ vào phương tiện hữu tướng sẽ sinh tâm phân biệt đấu tranh. - Có phải vì thế mà nảy sinh vấn đề duy danh hữu tướng? - Đúng vậy. Nếu bây giờ có người có người thay "kẹo" bằng "Máy vi tính hay các thiết bị hiện đại " . Thế nào Cỏ May! Ông có cho rằng đề toán có tính khoa học? - Không phải vậy - Nếu bây giờ có người thay "kẹo" bằng "nước mắm hay áo tứ thân". Thế nào Cỏ May! Ông có cho rằng đề toán có tính dân tộc? - Không phải vậy - Nếu bây giờ có người thay " kẹo" bằng "Tượng hay sách viết về Phật đạo". Thế nào Cỏ May! Ông có cho rằng đề toán là chánh giáo? - Không phải vậy. - Nếu bây giờ có người thay " kẹo" bằng "Tượng hay sách viết về các pháp tu khác". Thế nào Cỏ May! Ông có cho rằng đề toán là tà đạo? - Không phải vậy. - Này Cỏ May! Trụ vào các pháp phương tiện thì cũng "Không phải vậy". - Vậy thế nào là phương tiện thiện xảo? - Bây giờ giả dụ, đứa bé học toán cộng kia, đã trưởng thành. Nó làm nghề dạy học và lại dạy toán cộng. Thế nào Cỏ May! Ông có cho việc thay đổi đề bài không dùng kẹo nữa mà dùng bánh hay các vật khác là sai với chánh giáo? - Không phải vậy. - Thế nào Cỏ May! Ông có cho việc không thay đổi đề bài lúc nào cũng phải dùng "kẹo" mới học được phép cộng? - Không phải vậy. - Dụng phương tiện thiện xảo cũng như vậy. - Mô Phật! . . Đó có phải là " . . .ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" ? - Hôm nay trời quang, núi không sa mù. Đi dạo thôi! . . . MÂY /12/11/2004, từ duongsinh.net
-
Gửi Dungxinh, Giờ thìn ngày 10/3 âm Cố gắng thì đạt mà. Đạt. :rolleyes: Thiên Đồng :lol: