wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Vì sao Lương y Yên được tiếp tục chữa bệnh cứu người? Thứ Sáu, 12/08/2011 07:00 (NLĐO)- Như Báo Người Lao Động đã thông tin, UBND tỉnh Bình Phước đã chấp thuận cho ông Võ Hoàng Yên tiếp tục chữa trị bệnh nhân thuộc nhóm câm điếc, bại liệt, thoái hóa cột sống đã đăng ký hoặc đã được điều trị từ 1-3 lần. Hội Đông y tỉnh trực tiếp theo dõi, giám sát quá trình chữa bệnh của ông Yên (tại chùa Quang Minh, thị xã Đồng Xoài và 1 điểm tại thị xã Phước Long). Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng chấp thuận các đề xuất của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật của tỉnh vận động ông Yên vào thành viên Hội Đông y tỉnh Bình Phước để ông có pháp nhân đăng ký thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh. Hội đồng khoa học tỉnh bổ sung thêm danh mục đề tài nghiên cứu khoa học “Dùng phương pháp xoa bóp day ấn huyệt để phục hồi chức năng một số bệnh câm điếc, bại liệt, thoái hóa cột sống” vào nhóm đề tài nghiên cứu được xét duyệt trong năm 2011 (thực hiện đề tài từ 6 tháng đến 1 năm). Sau khi nghiệm thu đề tài, UBND tỉnh chỉ đạo cho ngành y tế có thẩm quyền xem xét nếu được thì cấp phép cho ông Yên được điều trị bệnh lâu dài tại tỉnh. Theo Giáo sư Hoàng Bảo Châu, nguyên Viện trưởng Viện Y học cổ truyền Việt Nam: “Cách chữa trị của lương y Yên cho thấy bước đầu đạt kết quả. Cách chữa trị này áp dụng kiểu xoa bóp trong võ thuật, tác động chủ yếu lên gân cơ bị tổn thương. Việc móc ngay cổ họng bệnh nhân nhằm cố gắng phục hồi thanh quản đã không vận động trong thời gian dài. Thứ hai, cầm lưỡi kéo ra, trong y học hiện đại không có thủ thuật nào cầm lưỡi kéo và quay, mục đích chính nhằm phục hồi cơ ở lưỡi, vì lưỡi mềm mại mới nói được. Trên cơ sở đó mọi người đều thấy bệnh nhân nói được ngay. Phương pháp này có cơ sở khoa học, đó là tác động trực tiếp vào những cơ quan bị rối loạn. Còn về lâu dài do các căn bệnh trên (câm điếc, liệt) do tổn thương ở não, nếu tổn thương não nặng thì phục hồi chậm còn nhẹ thì phục hồi nhanh. Vì vậy, nếu bệnh nhân được chẩn trị thường xuyên sẽ chóng phục hồi” Lương y Võ Hoàng Yên (đứng, bên trái) đang chữa bệnh cho bệnh nhân câm, điếc. Bác sĩ Nguyễn Hoàng Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Y học cổ truyền (Bộ Y tế), nói: “Phải nghiên cứu, đánh giá tính an toàn, hiệu quả của phương pháp chữa bệnh của lương y Võ Hoàng Yên và phải có đề tài nghiên cứu. Khi thực hiện đề tài này cần có đơn vị tham gia đánh giá trước, trong và sau quá trình điều trị. Trên cơ sở đó đưa ra những kết luận xác đáng về tính an toàn và hiệu quả của nó. Khi có kết quả nghiên cứu, chúng tôi sẽ báo cáo với Bộ Y tế và có hướng thực hiện những bước tiếp theo”. Bài - ảnh: Tân Tiến
  2. Hiện tượng “áp vong”: “Hồn nhập” hay ám thị? Theo bác sĩ Châu, có đến 95% những người áp vong rơi vào trạng thái bị tâm thần hoang tưởng. Nở rộ… “trung tâm áp vong” Có thể nói, trong mấy năm trở lại đây, các trung tâm “áp vong” lợi dụng tìm mộ liệt sĩ, mọc lên như nấm sau mưa ở miền Bắc. Nơi đầu tiên thực hiện việc “áp vong” là Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng (Liên hiệp UIA). Liên hiệp UIA được phép nghiên cứu hiện tượng này để áp dụng vào công tác tìm mộ liệt sĩ. Sự việc “áp vong” ở Việt Nam mới diễn ra mới khoảng 3-4 năm nay mà thôi. Câu chuyện có lẽ bắt đầu từ cô gái tên H., ở Hà Nội. Cô gái này thường có biểu hiện lạ, không rõ bị tâm thần hay “ma nhập”. Cứ mỗi khi bàn chuyện lấy chồng, thì “con ma” lại “nhập” vào cô ta hành hạ, không cho cô này lấy chồng. Theo gia đình H., “con ma” này đã “yêu” cô, không muốn cho cô lấy chồng. Cô gái bị "ma nhập" không cho đi lấy chồng Mỗi lần bị “ma nhập”, gia đình lại đưa cô đến Liên hiệp UIA để các nhà ngoại cảm tìm cách “đuổi ma” ra khỏi cơ thể cô gái. Không rõ khả năng của các nhà ngoại cảm thế nào, mà sau một hồi thuyết phục, “con ma” cũng rời khỏi cơ thể H., đưa cô trở lại trạng thái bình thường. Đã có vài lần tôi chứng kiến việc “đuổi ma” ra khỏi cơ thể cô gái này và tôi cũng chẳng rõ đây là hiện tượng “ma nhập” hay hiện tượng “tâm thần hẹn giờ”. Không hiểu có phải sau cuộc nghiên cứu “ma nhập”, “ma hành” cô gái tên H. hay không, mà sau đó một thời gian, Liên hiệp UIA tiến hành nghiên cứu về hiện tượng “áp vong”. Ông Vũ Thế Khanh lập cả đề tài khoa học lớn để nghiên cứu về hiện tượng này. Các nhà khoa học, các nhà ngoại cảm thậm chí đã nắm được bí quyết để “triệu vong”, mời “linh hồn” người chết từ âm ti địa ngục về nhập vào người sống để trò chuyện, giao lưu, tìm mộ. Tỷ lệ thành công trong các cuộc “áp vong” lên đến 90%, nhưng tỷ lệ thành công trong tìm mộ thì có lẽ không đến một phần ngàn. Vẫn còn nhiều bí ẩn cần tiếp tục nghiên cứu về hiện tượng này. Tuy nhiên, kể từ ngày Liên hiệp UIA thử nghiệm phương áp “áp vong” tìm mộ, thì các “trung tâm áp vong” mọc lên khắp nơi. Đầu tiên là trung tâm của “người ba mắt” Hoàng Thị Thiêm ở Lương Sơn, Hòa Bình. Chị Thiêm vốn có khả năng đặc biệt, bịt mắt mà vẫn đi xe máy, đọc sách được. Khả năng nhìn bằng trán, mũi, thái dương của chị Thiêm thì không có gì phải bàn cãi, vì đã được các nhà khoa học thực nghiệm nghiêm túc. Từ khi có khả năng đặc biệt, chị đã được các nhà khoa học ở Liên hiệp UIA đào tạo phát triển thêm năng lực, rồi chị biến thành nhà ngoại cảm, có khả năng “áp vong”. Tuy nhiên, làm việc ở UIA một thời gian, chị tự lập “trung tâm áp vong” tại nhà mình ở Lương Sơn (Hòa Bình) và làm rất nhiều trò mê tín dị đoan quái đản, gây dư luận không tốt. Hoàng Thị Thiêm đang áp vong Hoàng Thị Thiêm đang áp vong Chẳng hiểu lý do vì sao, mà trong 1-2 năm trở lại đây, các “trung tâm áp vong” mọc lên như nấm sau mưa. Hầu như tỉnh nào ở miền Bắc cũng có một vài “trung tâm áp vong”, riêng Hà Nội có đến cả chục trung tâm. Các “trung tâm áp vong” đều sặc mùi làm ăn, kiếm tiền, chứ chẳng còn ý nghĩa nhân văn là tìm mộ liệt sĩ nữa. Nhiều “trung tâm áp vong” mới mọc lên còn cho chân gỗ đi quảng cáo đến từng gia đình cứ như thể đi phát tờ rơi quảng cáo biểu diễn văn nghệ. Mỗi gia đình đến “áp vong” họ thường thu ít thì 500 ngàn, nhiều đến bạc triệu. Nhiều nơi quảng cáo tùy tâm, hoặc không thu tiền, nhưng nếu các gia đình không đặt lễ lên bàn thờ số tiền mặc định ngầm, thì đừng hòng có chuyện “vong” nhập vào được. Sự thực về “vong” nhập Theo bác sĩ Dư Quang Châu, nhà cảm xạ học hàng đầu Việt Nam, hiện tượng các “trung tâm áp vong” đua nhau mọc lên, không có sự quản lý là rất nguy hiểm. Việc “áp vong” không có mục đích rõ ràng, không vì lý tưởng cao cả, sẽ biến người bình thường thành người tâm thần, hoang tưởng, ảnh hưởng lớn đến tâm lý xã hội. Bác sĩ Dư Quang Châu là người đầu tiên đưa môn cảm xạ học vào Việt Nam và phổ biến môn học này khắp cả nước, nên ông hiểu rất rõ hiện tượng gọi là “áp vong” này. Để giúp tôi hiểu về hiện tượng gọi là “áp vong”, bác sĩ Châu đã mời tôi tham dự một buổi dã ngoại của các cảm xạ viên. Bác sĩ Châu bảo, chỉ cần tập luyện đúng cách, thì con người có thể rơi vào trạng thái đặc biệt, mà cảm xạ gọi là vô thức, phương Tây gọi là thôi miên, ám thị. Khi đó, ý thức con người tạm thời ngủ quên, để tiềm thức trỗi dậy, phát tác ra những khả năng lạ, đặc biệt. BS Dư Quang Châu. Trong buổi tham gia dã ngoại với các học viên cảm xạ, tôi đã rất ngạc nhiên rồi sáng tỏ được nhiều điều. Khi tập trung tư tưởng, hoặc tập bài rung động thư giãn, nhiều cảm xạ viên tự dưng mất hết ý thức. Người cứ đứng một chỗ rung lắc toàn thân, người múa may lảo đảo như say rượu, người rũ rượi như bị tâm thần, “ma nhập”, người chạy nhảy lung tung, thậm chí cắm đầu trồng cây chuối rất giỏi, dù lúc tỉnh táo họ không làm được. Tất cả các học viên đều nhắm mắt khi rơi vào trạng thái này, song họ đi lại, chạy nhảy trong rừng cứ như chỗ bãi bằng, không đâm đụng vào cây cối, đá núi hoặc rơi xuống vực. Các cảm xạ viên đều cho biết, họ không biết gì khi rơi vào trạng thái đặc biệt này. Có người nghe thấy tiếng gọi như từ cao xanh, có người nhìn thấy không gian đầy màu sắc rõ rệt, thậm chí có người khi nhắm mắt ôm cây cổ thụ thì “nhìn” xuyên thấu cả thân cây, từ gốc lên đến tận ngọn, thậm chí, có người trò chuyện, tâm sự với cây rồi khóc như trẻ con. Lúc tỉnh lại, họ kể rằng cây nói chuyện với họ, cây tâm sự bị con người đốt rừng, chặt phá, hủy hoại thiên nhiên, họ thương cây mà cứ ôm cây khóc. Nhìn cảnh những học viên cảm xạ rơi vào trạng thái kỳ lạ này, tôi liên tưởng ngay đến hiện tượng “áp vong”. Chả lẽ những cảm xạ viên này bị “ma nhập”? Thực tế không phải là hiện tượng ma nhập kỳ bí gì cả. Khi các học viên tập bài rung động thư giãn, cơ thể sẽ rơi vào trạng thái vô thức, tức là phần ý thức tạm thời ngủ yên, phần tiềm thức của bộ não sẽ sống dậy chiếm lấy và chỉ đạo cơ thể, từ suy nghĩ đến hành động. Phần tiềm thức chiếm từ 95% đến 99% bộ não và là thế giới đặc biệt rộng lớn, bí ẩn, mà con người chưa khám phá, giải thích hết được. Khi đã hiểu được bản chất của tiềm thức, thì có thể hiểu được hiện tượng mà ta vẫn gọi là “áp vong”. Khi tiềm thức hoạt động, thì người đó vẫn là mình, nhưng lại không phải là mình nữa. Ta tưởng tượng đơn giản thế này: Bộ não con người như chiếc máy quay phim có dung lượng gần như vô hạn, có thể ghi lại tất cả mọi hình ảnh, âm thanh diễn ra quanh mình. Nhưng con người chỉ nhớ được những hình ảnh thực sự ấn tượng, những hình ảnh không nhớ được thì nằm yên trong tiềm thức, giống như các file lưu giữ trong máy tính mà ta không mở ra xem lại bao giờ nên quên lãng. Khi con người rơi vào trạng thái vô thức, những hình ảnh nằm trong tiềm thức sống dậy, khiến người này nói ra những điều mà bản thân họ cũng không nhớ (chứ không phải chưa từng biết), khiến những người xung quanh ngạc nhiên, nghĩ rằng đó là… “hồn ma”. Chính vì điều này, mà hiện tượng “vong nhập” diễn ra dễ dàng, nhưng việc tìm được mộ liệt sĩ thì chả khác nào mò kim đáy bể. Tôi đặt câu hỏi, vì sao bình thường con người hiếm khi bị “vong nhập”, nhưng khi đến các “trung tâm áp vong”, thì lại dễ dàng bị “vong nhập”? Bác sĩ Châu giải thích hiện tượng này như sau: Đất nước ta đã trải qua thời kỳ chiến tranh khốc liệt, con người đã trải qua những thời kỳ quá đau khổ, kèm với đó là những mất mát xương máu quá lớn. Đến nay, dù đã hòa bình, cuộc sống khá hơn, song con người vẫn đau đáu nghĩ về người đã mất, gây nên tâm lý đau khổ, phiền muộn, uất ức trong lòng. Những người đi tìm mộ đều mang tâm lý phức tạp đó đến các “trung tâm áp vong”. Lúc nhắm mắt ngồi thiền, trong khung cảnh đặc biệt, trong đầu họ gọi tên liệt sĩ, rồi mọi người xung quanh cũng gọi liệt sĩ, họ sẽ dễ dàng rơi vào trạng thái mất kiểm soát. Trạng thái đó có nhiều kiểu, có thể là rơi vào vô thức, thôi miên, hoặc bị ám thị, cũng có thể bộc phát thành tâm thần, hoang tưởng. Khi ở trạng thái này, với các bác sĩ chuyên khoa, thì đích thị là bị tâm thần. Theo bác sĩ Châu, có đến 95% những người áp vong rơi vào trạng thái bị tâm thần hoang tưởng. Tuy nhiên, bác sĩ Châu cho biết, cũng có những hiện tượng rất lạ, người được “áp vong” không phải rơi vào trạng thái thôi miên, ám thị hay vô thức, mà họ thực sự như người khác hoàn toàn. Dù không có trình độ gì, song tự dưng họ nói được tiếng nước ngoài, viết được chữ nước ngoài, hoặc nói năng khác hẳn, như một người có trình độ rất cao. Nhưng những hiện tượng này là hãn hữu, chiếm phần trăm cực nhỏ. Và hiện tượng này cũng chỉ nên được coi là khả năng tiềm ẩn, đặc biệt của con người, chứ không nên đổ cho ma quỷ, thần thánh, rồi lạc vào trận đồ của mê tín dị đoan. Theo bác sĩ Châu, việc các trung tâm áp vong mọc lên như nấm sau mưa là rất đáng ngại. Trong lúc này, các nhà khoa học cần vào cuộc, nghiên cứu nghiêm túc về hiện tượng này, để có cách giải đáp rõ ràng, thỏa đáng. (Theo Giáo dục Việt Nam)
  3. Thực hư chuyện đoàn tìm mộ gặp “ma” ở Trường Sơn! Gió từng hồi rít lên làm các ngọn cây nghiêng ngả. Nửa đêm, bỗng dưng ông B. bật nhỏm dậy nói chuyện to tướng với một… liệt sĩ. Ông nhắc liệt sĩ đi đi, đừng làm mọi người sợ. Bảo liệt sĩ đi rồi, ông B. kể, ông vừa nhìn thấy đồng đội đứng gốc cây cạnh hố bom nhìn ông cười. Đoàn tìm mộ ở Đa Krông (Quảng Trị) chia làm hai phương pháp tìm kiếm. Nhà ngoại cảm Nguyễn Ngọc Hoài chỉ nhận tìm một liệt sĩ mà chị đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước. Nhà ngoại cảm này làm việc khá thận trọng. Chị nắm rất rõ lý lịch của người đã mất, thuộc đơn vị nào, đóng quân, chiến đấu và hy sinh ở đâu, hy sinh giờ nào, hy sinh trong hoàn cảnh nào… Sau khi có đầy đầy đủ thông tin mà việc tìm kiếm vẫn không có kết quả, chị mới sử dụng khả năng đặc biệt của mình để tìm kiếm. Nhà ngoại cảm Hoàng Thị Thiêm đang bắt "ma"! Riêng chị em “nhà ngoại cảm” Hoàng Thị Thiêm thì không cần bất cứ thông tin gì, chỉ cần đến địa điểm, gọi tên liệt sĩ, hễ vong nhập là tiến hành tìm mộ. Theo Thiêm, nếu vong nhập, vong sẽ chỉ chỗ nằm, đào lên, ắt sẽ thấy xương cốt. Việc tìm mộ nghe có vẻ đơn giản quá, nên hai chị em Thiêm và Thuy rất tự tin. Có mặt ở quả đồi nơi diễn ra trận chiến ác liệt, cựu binh Nguyễn Văn B. của Sư đoàn X. rưng rưng nhớ lại cảnh quân đội Mỹ - Ngụy dội bom, nã pháo trúng bệnh viện dã chiến, khiến hàng chục người tan xác, bị chôn vùi. Các chiến sĩ giành giật từng tấc đất để bảo vệ anh em thương binh đang chờ chuyển xuống tuyến dưới cũng trúng bom vùi xác dưới lòng đất. Hàng trăm hố bom nham nhở khắp quả đồi vẫn còn đó như chứng tích của sự khốc liệt. Nhìn những hố bom cày xới từng mét đất, đoàn tìm mộ chúng tôi rưng rưng xúc động. Thật đau lòng khi không vái liệt sĩ, mà lại vái... tổ mối Cựu binh Nguyễn Văn B. đã cùng nhiều gia đình, đồng đội vào khu vực này vài lần tìm kiếm hài cốt, song không có kết quả. Ông và các gia đình chỉ còn biết trông mong vào khả năng của các nhà ngoại cảm. Đêm ấy, chúng tôi dựng trại ngủ ngay trên ngọn đồi trên dãy Trường Sơn. Gió từng hồi rít lên làm các ngọn cây nghiêng ngả. Nửa đêm, bỗng dưng ông B. bật nhỏm dậy nói chuyện to tướng với một… liệt sĩ. Ông nhắc liệt sĩ đi đi, đừng làm mọi người sợ. Bảo liệt sĩ đi rồi, ông B. kể, ông vừa nhìn thấy đồng đội đứng gốc cây cạnh hố bom nhìn ông cười. Ông còn trấn an mọi người rằng, liệt sĩ này là đồng đội, là bạn thân của ông, tính nết hiền lành lắm, nên không ai phải sợ. Nghe ông B. kể thế, chị Thiêm cũng chen vào: “Suốt từ chiều tôi nhìn thấy rất nhiều vong, nhưng mọi người mới đến còn mệt, nên tôi chưa kể, sợ mọi người lo lắng. Tình hình vong lên nhiều thế này, ngày mai áp vong sẽ dễ lắm”. Nghe ông B. và chị Thiêm kể thế, ai cũng sợ xanh mắt. Có người sợ quá không ngủ được cứ khóc thút thít, nhảy vào giữa đám đông ngồi. Riêng tôi căng mắt nhìn ngó xung quanh, song chả thấy vong đâu. Từ bé tôi đã không sợ bóng đêm, rất mong được nhìn thấy ma, nên rủ một đồng nghiệp dạo vòng quanh đồi giữa đêm khuya, hy vọng được diện kiến ma một lần. Tuy nhiên, tôi và anh bạn đồng nghiệp chẳng thấy cảm giác gì ngoài sự thanh bình của núi rừng Trường Sơn giữa đêm trăng sáng. l Bốc đất mà tưởng là xương. Sáng hôm sau, nhà ngoại cảm Nguyễn Ngọc Hoài đi theo hướng khác tìm một liệt sĩ theo kế hoạch từ trước, chị em Thiêm tìm hài cốt ở ngay hố bom cạnh chỗ chúng tôi dựng trại. Tôi quyết định theo đoàn hài cốt của Hoàng Thị Thiêm, vì chị Thiêm phụ trách tìm nhiều liệt sĩ và phương pháp tìm của chị lúc đó rất mới mẻ.Khi mặt trời lấp ló sau dãy núi phía Đông, rọi những tia nắng ấm áp qua những kẽ lá, đoàn tìm mộ tập trung quanh hố bom làm các thủ tục cần thiết. Hương hoa bày ra đất, khói nhang nghi ngút báo cáo thần linh, thổ địa và mời hương hồn các liệt sĩ về. Tổ mối nhưng nhà ngoại cảm khẳng định là xương sọ. Chị Thiêm và Thuy yêu cầu mọi người ngồi xuống cạnh hố bom, nhắm mắt, tĩnh tâm, hướng suy nghĩ về các liệt sĩ. Hai chị em Thiêm đến trước mặt từng người gọi tên các liệt sĩ. Chị luôn miệng gọi: “Bác K. à, bác về rồi, sao không lên tiếng. Bác C. đấy phải không, sao bác không nhập vào để trò chuyện?”. Chị Thiêm và Thuy liên tục gọi, song chẳng thấy vong nhập vào ai.Nghỉ ngơi một lát, chị Thiêm đến cạnh bác G. nói chuyện: “Bác Q. đấy à, bác có khỏe không? Sao bác không nói gì, bác phải lên tiếng đi chứ, mọi người đều mong mỏi bác. Bác chết thảm lắm phải không? Mấy chục năm không về, bác tủi thân lắm nhỉ? Bác cứ khóc đi cho nhẹ lòng, rồi chỉ cháu chỗ bác nằm, để cháu đưa bác về cho đỡ lạnh...”. Nhà báo Đào Thanh Tuy và một tổ mối cùng đất đen, song lại được coi như hài cốt liệt sĩ. Chị Thiêm cứ nói, còn bác G. cứ khóc rưng rức. Thuy trò chuyện với chị L., con gái của liệt sĩ, và chị L. cũng khóc như mưa. Tuy nhiên, hai người khóc một lúc thì dừng lại. Khi bác G. tỉnh, tôi hỏi bác thấy thế nào, bác bảo chị Thiêm nhắc đến bác Q., làm bác xúc động quá không kìm được nước mắt, chứ không phải vong nhập. Bình thường, khi đến cơ sở của chị Thiêm, vong nhập rất dễ dàng, song buổi sáng hôm đó, chị em Thiêm chạy toát mồ hôi, gọi mỏi cả miệng, mà vong chẳng chịu về. Cũng có thể, trong cảnh rừng núi thanh bình, không gian thoáng đãng, vong khó nhập hơn. Một ngày đào được 8 bộ hài cốt, nhưng không có mẩu xương nào. Đang lúc không biết bấu víu vào đâu, thì chị Cao Thị H., người của trung tâm tổ chức cuộc tìm mộ rú lên một tiếng rồi lăn ra đất. Ngay lập tức, chị Thiêm và Thuy chạy đến đỡ. Chị H. nói rõ to: “Tao là Trần Văn D. đây!”. Nghe vậy, một chị là em của liệt sĩ chạy ngay đến ôm chị H. khóc lóc. Chị Thiêm chỉ hỏi dăm ba câu, “vong” nhập chị H. liền tả vanh vách các liệt sĩ chết thế nào, nằm ở đâu, rồi chỉ lần lượt nơi các liệt sĩ, các đồng đội của liệt sĩ D. nằm. Khỏi phải nói, mọi người vui mừng, xúc động như thế nào. Nhưng khi đó, tôi rất nghi ngờ, bởi vì, người nhà của các liệt sĩ thì chẳng bị vong nhập, mà vong lại nhập vào người của trung tâm tìm mộ! Khi chị H. chỉ chỗ có hài cốt, đoàn tìm mộ tiến hành khai quật ngay. Cô Thuy chỉ lấy chiếc bay gạt lớp đất mỏng đã reo lên: “Đây rồi, đầu lâu liệt sĩ đây rồi, vẫn còn trắng tinh”. Theo Phạm Đặng Nguyệt Diễm VTC News
  4. Nên lấy chồng già! 1. Chồng già nhìn rất giống ông già. Do đó mình sẽ không bị mang tiếng là bỏ nhà theo... trai. 2. Người già quen nhiều nên đông khách. Khách tới nhà nếu mình ra mở cửa hay hỏi: “Bố cháu có nhà không?” khiến ta có cảm giác lâng lâng rất sung sướng. 3. Chồng già luôn đi chậm, nên nếu chở vợ bằng xe máy, tai nạn giao thông rất ít xảy ra. Nếu có xảy ra, cảnh sát thường nghĩ lẽ phải về chồng mình. 4. Chồng già mắt kém, nên nếu ta có đi với bồ, chồng nhìn thấy thì vợ sẽ cãi: “Anh nhìn nhầm rồi” và chồng già vội vã tin ngay. 5. Chồng già răng yếu nên nhai lâu. Nhai lâu nên ăn chậm. Ta lợi dụng ra luật lệ: “Ai ăn sau phải rửa chén đĩa”, thế là ta thoát. 6. Chồng già hay ho. Khi nghe tiếng ho, ta biết mùa đông đã về, khỏi phải xem dự báo thời tiết. 7. Chồng trẻ nhìn thấy một cô gái trẻ thường hỏi: “Em nào đấy?”. Còn chồng già nhìn thấy gái trẻ thường hỏi: “Con nhà ai đấy?”, khiến ta rất yên tâm. 8. Chồng trẻ đi đường hay để vợ nắm tay mình. Còn chồng già lại nắm tay vợ. 9. Chồng già hay bàn tới tương lai. Còn chồng trẻ thường bảo: “Tương lai là không biết”. 10. Chồng trẻ hay nhìn vợ rồi thở dài. Còn chồng già hay nhìn bản thân mình rồi thở dài. 11. Chồng già hay hỏi thăm ba má vợ. Còn chồng trẻ hay hỏi về bạn bè vợ, nhất là bạn gái. 12. Khi cãi nhau, chồng trẻ gào lên: “Tôi lấy cô là một sai lầm” trong khi chồng già nói: “Tôi biết sai lầm nhưng vẫn lấy em”. 13. Khi ra tòa ly dị, chồng trẻ nói: “Chúng tôi không hợp nhau”, còn chồng già nói: “Chúng tôi cũng chả biết không hợp ở chỗ nào”. 14. Khi vợ có bồ, chồng trẻ nói: “Cô làm cho tôi ngạc nhiên”, còn chồng già nói:“Em làm cho anh tan nát”. 15. Cứ tới cuối tuần, chồng trẻ nói: “Mình đi chơi”, còn chồng già nói: “Mình đi nghỉ”. 16. Khi đang ăn bị hóc xương, chồng trẻ càu nhàu: “Bỏ cái gì vào mồm cũng phải nhìn chứ”, còn chồng già nói: “Sao em không đưa miếng đó cho anh?”. 17. Gặp một cô gái bốc lửa mặc áo tắm, chồng trẻ nhìn cô ta, còn chồng già nhìn sang vợ. 18. Khi mua đồ tặng vợ, chồng trẻ nhìn túi tiền, còn chồng già nhìn xem đứa khác đã mua chưa. 19. Khi đi xa, chồng trẻ gọi điện thoại về hỏi: “Nhà có chuyện gì không?”, còn chồng già hỏi: “Em có chuyện gì không?”. 20. Khi nhà hàng xóm nhảy nhót điên cuồng, chồng trẻ mở cửa ra nhìn, nói: “Vui nhỉ”, còn chồng già đóng cửa lại, lẩm bẩm: “Chúng nó làm gì mà ầm ĩ thế?”. 21. Chồng trẻ hay tiếc những đồng tiền đã tiêu, còn chồng già hay tiếc những đồng tiền không tiêu. 22. Chồng trẻ khi đi tắm hay sai: “Em lấy cho anh cái khăn”, còn chồng già luôn kiểm tra có khăn rồi mới chui vô phòng tắm. 23. Chồng trẻ hay nói: “Vui chung”, còn chồng già tuyên bố: “Em vui là anh vui”. 24. Chồng trẻ hay nhăn nhó: “Tôi mệt quá”, còn chồng già hô: “Anh chả bao giờ mệt cả”. (Copy từ blog của BB)
  5. 'Thời trang' cho người cõi âm Những bộ đầm màu sắc trẻ trung, giày cao gót kiểu dáng hiện đại, áo sơ mi lịch lãm, Iphone... bằng giấy xuất hiện tràn ngập trên phố cổ Hà Nội dịp lễ Vu Lan. Vài ngày nữa là rằm tháng bảy, trên phố Hàng Mã các đồ dùng bằng giấy để hóa gửi cho người cõi âm lại được bày bán. Một chiếc váy đỏ có đai quấn quanh được bày bán cùng ma nơ canh. Đôi giày cao gót rất kiểu cách, "hợp thời trang" được bọc cẩn thận trong túi nylon với giá 60.000 đồng. Áo cho phụ nữ mặc ở nhà, mặc đi ngủ... được thiết kế như thật với nhiều hoa văn, màu sắc . Áo sơ mi dành cho nam giới với cà vạt và bộ đồ ngủ phụ nữ bày tràn lan dưới vỉa hè. Đồng hồ đeo tay thời trang, điện thoại nhái theo kiểu Nokia cùng dây lưng, sữa tắm, dầu gội đầu được bán cả hộp Một chiếc váy cho trẻ em giá 40.000 đồng cùng đôi dép quai hậu 30.000 đồng đang được khách hỏi mua. Nhiều người quan niệm ở dưới cõi âm cũng giống như trên trần gian. Vì vậy người chết phải được hưởng thụ những gì hiện đại nhất, mới nhất. Những chiếc xe hơi, xe máy hạng sang, nhà cao tầng không còn là lạ vào mỗi dịp mùa báo hiếu. Đặt hàng ngay trên lề đường. "Chỉ cần khách hàng yêu cầu loại đồ dùng gì, chúng tôi sẽ làm theo đúng như thế không có gì khó khăn, kể cả Iphone, máy tính bảng, làm được hết", một người bán hàng khẳng định. Các loại đồ dùng này năm nay được các cửa hàng bọc kín đáo cho khách tránh sự ngại ngùng khi mang vác ngoài đường. Đi xe Mercedes dòng S đến mua đồ dùng cõi âm. Các vị khách nước ngoài tỏ ra lạ lẫm và ghi lại một số hình ảnh. Hoàng Hà vnexpress.net Thật đáng buồn! Qua hiện tượng này mới biết giới làm hàng mã cũng nhận thức được thế giới Âm ngày nay quá nhiều người chết trẻ! Vì nhiều lý do khác nhau trong đó vấn nạn ma túy và suy đồi lối sống mà họ hưởng dương ngắn ngủi.
  6. Đây có lẽ là điều giản dị để cho chúng sinh dễ hiểu chăng? Ý muốn đề cao bậc chứng đắc Bồ Tát mà còn biết sợ NHÂN xấu lỡ gieo trong vô thức thì chúng sinh vô minh chỉ đến khi nhận QUẢ họ mới ý thức được NHÂN hữu hình.
  7. Mặt tích cực nằm trên lãnh vực kinh tế: lý thuyết mới này cho phép chúng ta giải thích thế giới mà không cần đến một đơn vị tuyệt đối, tiết kiệm bút mực và công sức, bớt đi chướng ngại cản trở con đường đi đến sự thật và giác ngộ. Với phương thức này tất cả những thử nghiệm tìm cho được một đơn vị tuyệt đối trong thế giới này và xem nó như là một đơn vị bất biến là không cần thiết, không những không cần thiết mà còn không thể đứng vững được. Đức Phật bác bỏ ngay cả ý niệm tuyệt đối của tiểu ngã của tư tưởng Upanishaden (Upaniṣaden) trong chính lý luận của các triết gia Upanishaden khi họ cho rằng: Nếu tất cả những gì trong thế giới đều được thấy rõ là phù du vô thường và không vững chắc trên phương diện tri thức luận; và nếu mặt khác muốn hiểu thế giới này thì cần phải chấp nhận một thực thể tuyệt đối hoàn toàn vượt ra khỏi tất cả những vô thường và bất định. Nếu đó không phải là Đại ngã bên ngoài thì điều gì có thể tuyệt đối hơn và thực chất hơn là chính người đã đưa ra suy nghĩ này? Ngoài ra nếu cần thiết nhìn thế giới mà không cần đến sự núp bóng vào trong một thực thể tuyệt đối thì giả thuyết chính con người là nơi trú ẩn chắc chắn nhất, duy nhất đối với sự vô thường của thế giới bên ngoài có thể đứng vững. Nói khác đi, chính con người với tư cách là thực thể cá nhân đồng thời cũng là thực thể tuyệt đối phổ quát được giả định trên lý thuyết, đó chính là cái NGÃ bất biến.. Theo Đức Phật, chính giả thuyết này lại là một sai lầm cơ bản, vì đã xây dựng cả cuộc sống của cá nhân con người trên một tiền đề không được biện minh. Sự xây dựng toàn thể thế giới và đời người trên cơ sở của một cái NGÃ bất biến đem đến thất vọng thay vì sự thật và hạnh phúc. Đức Phật dùng khái niệm KHỔ cho sự thất vọng này. Thất vọng hay khổ phát sinh do sự chấp trước hay tin tuyêt đối vào NGÃ là cái gì tồn tại vịnh cữu. Khái niệm KHỔ trong diệu đế thứ nhất và phân tích KHỔ trong diệu đế thứ hai chỉ rõ tính cách vô thường hay bị điều kiện hoá. Chính tính vô thường, sự biến đổi của sự vật trên thực tế phản bác lại sự thường còn ảo tưởng và từ đó sự khổ đến từ ý thức về ngã một cách sai lầm. Khổ chỉ tồn tại bao lâu người ta không biết tính sai lầm của tiền đề chủ trương tất cả mọi vật đều là thường còn. (còn tiếp)
  8. III. Tương quan nhân quả theo tư tưởng Phật học. 1. Khái niệm “con người” Tương đương với khái niệm lưỡng tính về con người trong triết học của I. Kant : “Con người không chỉ là hiện tượng của các giác quan, mà qua thông giác thuần túy con người còn tự biết mình như một thực thể tư duy và ý chí, một thực thể được bẩm sinh tính tự khởi, mà khả năng tinh thần của nó hoàn toàn không có cảm tính. Đặc biệt lý tính của con người khác biệt với những năng lực tùy thuộc thường nghiệm, bởi vì lý tính chỉ quyết định đối tượng theo ý niệm của nó mà thôi. Và lý tính này sở hữu tính “nhân quả.”5 Đức Phật đã phác hoạ chân dung con người như sau: “Trong tấm thân sáu trượng này cùng với tâm thức của nó có sự khởi đầu của biết (ý thức, tâm, ghi chú của người viết) và khổ đồng thời khả năng thoát khổ”. Con người- như một tương hợp của ngũ uẩn- nằm trong điều kiện tính của thập nhị nhân duyên và luân hồi- trầm luân trong bể khổ nhưng chính con người có khả năng diệt khổ, thoát khỏi trầm luân. Có thể nói, lý thuyết nhân quả và nghiệp của Đạo Phật là yếu tố phổ thông và phổ quát nhất trong quá trình tìm hiểu, thực hành, tu chứng của người nghiên cứu cũng như của Phật tử. Nó quan trọng đến nỗi hầu như thấy được yếu tính của nó là có thể quán triệt hệ thống tư tưởng Phật học, như ngài Long Thọ (Nagarjuna)6 đã xác nhận. 2. Tương quan điều kiện tính. Khác với Kant, đạo Phật chỉ có một mô hình tương quan nhân quả áp dụng cho tất cả các lĩnh vực thường nghiệm cũng như siêu nghiệm. Thay vì khái niệm “nhân quả” đường thẳng, từ đó đưa đến ý niệm có một đấng toàn thể là nguyên nhân cuối cùng, tương quan điều kiện tính hay cũng được gọi là chuỗi điều kiện hay nhân duyên (Pratītyasamutpāda) trong đạo Phật được quan niệm như một phức hợp của nhiều điều kiện gây nên quả. Chuỗi tương quan điều kiện này được áp dụng cả trên bình diện tri thức (tuệ) lẫn bình diện đạo đức (giới). Cả hai bình diện là hai phần tử thiết yếu của hệ thống tri thức Phật học. Thấu triệt chuỗi tương quan nhân quả trong toàn bản thể của nó (tuệ) là điều kiện hay nguyên nhân để hành động đạo đức được thiết lập. Triết học Phật giáo không đi từ sự tách rời hai bình diện lý thuyết và thực hành như Kant đã làm mặc dù sự tách rời này trước tiên được xem như là bước đầu có tính phương pháp học để khảo sát các đối tượng trong tinh thần phân tích khoa học. Triết học Phật giáo đi từ lối nhìn toàn diện và nhất thể bao gồm ba khả năng: Tri, Hành và Định (hội nhập) mà Đức Phật đã đưa ra làm nền tảng cho phương thức cứu đời hay phương thức chữa lành khổ não của con người. Định (Samadhi) Tuệ Giới Prajna (Wissen) Sila (sittliches Handlung) Đức Phật cho rằng tri thức của nhân loại là vô cùng nhưng có một loại tri thức đúng đắn về sự vật và thế giới giúp ta mở được cánh cửa giải thoát khỏi điều kiện tính. Trong phương thức trên, “Tuệ” hay khả năng tri thức sự vật hay thực tại của sự vật đúng thật bản chất của sự vật có thể làm nền tảng cho hành động đạo đức, hay nói cách khác hành động đạo đức trên quan điểm của Phật giáo có lý do phát khởi qua sự liễu tri toàn diện về sự vật. Ta hãy tìm hiểu điều kiện khả thể của khái niệm nhân quả trong Phật giáo để biết tương quan chặt chẽ giữa tri thức và đạo lý. Hai bình diện này có một liên quan chặt chẽ- một liên quan có tính nhân quả khác hẳn với qua điểm nhị nguyên của Kant cho rằng giữa tri thức lý thuyết và hành động đạo đức có một dị biệt về thể tính không thể vượt qua được và do đấy phải viện dẫn ý niệm chủ thể tuyệt đối (ý niệm Thượng đế) đầy quyền năng sáng tạo và bất tử. 2a. Ngược lại với truyền thống tư duy của thời đại ngài sinh ra, Đức Phật đã sáng tạo ra một phương thức giải thích sự hình thành tri thức về thế giới mà không cần viện dẫn ý niệm tuyệt đối. Trong lúc những nhà tư tưởng của hệ thống Upanishaden cho rằng để giải thích sự hình thành thế giới vốn vô thường và giới hạn, sự hiện hữu của một thực thể tuyệt đối, bất biến, vô điều kiện là cần thiết. Đức Phật bác bỏ điều ấy và cho rằng chúng ta không cần phải viện lý một thực thể bất biến như vậy, chúng ta chỉ cần nhìn thế giới như một toàn thể mà trong đó mỗi yếu tố là điều kiện phát sinh ra một yếu tố khác: “Nếu cái này có thì cái kia có, nếu cái này phát sinh ra thì cái kia phát sinh ra. Nếu cái này không có thì cái kia không có. Nếu cái này được chấm dứt thì cái kia cũng được chấm dứt” điều đó có nghĩa, thế giới có thể tri thức được một cách thường nghiệm là một tập thể bao gồm nhiều phần tử, những phần tử này nằm trong một liên hệ với nhau là nếu một phần tử P hiện diện thì phần tử Q sẽ phát sinh và ngược lại nếu người ta bỏ P đi thì Q cũng sẽ không còn nữa. Trong chuỗi tương quan điều kiện này hai điểm có tính tri thức luận cần nêu rõ là: - Đức Phật đã khai triển một phương pháp có thể cho phép ngài giải thích thế giới mà không cần phải dựa dẫm đến ý niệm tuyệt đối hay tương quan nhân quả tuyệt đối - Thay vào chỗ những đơn vị tuyệt đối bất biến riêng lẻ, chúng ta phải nhìn thế giới ở trong chuỗi liên hệ của những điều kiện. Tri thức về chuỗi điều kiện này là chìa khoá nhận thức bản chất thực của mọi sự vật trên thế gian: là vô thường và vô ngã, ngay cả cái tôi chủ thể đang tri thức. 2b. Đức Phật dạy rằng chúng ta có thể có một khái niệm về thế giới mà không cần đến ý niệm tuyệt đối. Khám phá của Ngài bác bỏ giả thuyết về một tiểu ngã bất biến (Atman) mà các nhà lý thuyết Upanishaden chấp nhận, sau khi loại trừ ý niệm đại ngã của Bà La môn, có thể xem là một cuộc cách mạng tư tưởng gấp đôi.
  9. Đề nghị Ban Quản Trị xét và tạo điều kiện thuận lợi cho VU LONG trong việc truyền dạy kiến thức đến tất cả ACE như lời trên đây, tôi rất ủng hộ nghĩa cử này của VULONG.
  10. II Những dị biệt: Chúng ta biết, trước Kant hơn nghìn năm, Đức Phật đã đem hi vọng và trả lại giá trị của con người với lời dạy rằng trong chuỗi luân hồi nhân quả “Mỗi người là Phật đang thành” và Phật tính nằm trong mỗi một con người. Cần phải hiểu như thế nào về lý thuyết nhân quả của Phật giáo như là nền tảng của hành động đạo đức? Trước khi triển khai lý thuyết nhân quả Phật giáo trong viễn tượng giải phóng con người ra khỏi chuỗi luân hồi trói buộc, cần nêu lên những dị biệt trong lý thuyết về tương quan nhân quả của Kant từ những trình bày trên. 1. Tính nhị nguyên trong tư tưởng của Kant hầu như được hoàn hảo khi ông cho rằng có hai lãnh vực tương quan nhân quả: lãnh vực tự nhiên cho thế giới hiện tượng (phaenomen), trong đó con người như một hiện tượng bị động, được đặt định do những nguyên nhân bên ngoài (trong đó có vai trò sáng tạo của Thượng đế), và lãnh vực tương quan nhân quả trong hành động đạo đức thực tiễn, trong đó con người là chủ thể tự do sáng tạo, làm nên qui luật hành động cho chính mình. Lý thuyết về hai tương quan nhân quả, tự nhiên (naturell) và nhân bản (human) tiêu biểu cho tư tưởng nhị nguyên nói trên. Con người, theo Kant, là một thực thể gồm hai yếu tính: con người bị qui định trong giới hạn hiện sinh, trong thế giới của cảm nghiệm giác quan, nhưng lại tự do trong thế giới giác tính, linh tri (intelligent). Cả hai yếu tố này không khai trừ lẫn nhau. Bình diện thế giới cảm quan bao gồm tất cả sự vật nằm trong kinh nghiệm khả thể của chúng ta. Có nghĩa thế giới này là thế giới của hiện tượng (phaenomen) như Kant nói. Bình diện thế giới giác tính siêu nghiệm bao gồm những vật tự thân (nouomenon, Ding an sich), vật tự thân này nằm ngoài tất cả những kinh nghiệm có thể có được và do đấy không thể được tri thức bởi cảm quan của con người. Con người chỉ tri giác được sự vật qua lăng kính giới hạn của ngũ quan cho nên chỉ có thể có được những nhận thức có tính thường nghiệm về các hiện tượng của sự vật. Tuy nhiên, với trí tuệ của mình, con người còn là một phần tử của thế giới giác tính (Verstandeswelt). Trong lúc với tư cách là một phần tử của thế giới cảm tính, thực thể người cảm nghiệm bằng máu và thịt, do đấy nó phải tuân thủ các qui luật thiên nhiên. Con người bị giới hạn về thể xác, có những ham muốn và sở thích cá nhân và bị đặt định, bị sai khiến cũng bởi tất cả những ham muốn và những sở thích ấy. Với tư cách một phần tử của thế giới giác tính, con người không do những yếu tố trên qui định, mà linh hoạt, tự động, tự chủ. Kant gọi khả năng linh hoạt này là lý tính thuần túy. Lý tính thuần tuý này thuộc vào thế giới trí tuệ (Intelligenz) hay thế giới giác tính. Với tư cách là phần tử của thế giới này, con người có khả năng tri thức “vật tự thân” chứ không chỉ nhận thức hiện tượng. Nhưng tiềm năng liễu tri sự vật trong tận bản chất trọn vẹn của nó khổ thay không thể có được trên bình diện lý thuyết tri thức luận, do bởi giới hạn đã định sẵn cho con người (Thân xác, ngũ quan giới hạn, thời gian, không gian), nhất là thời gian và sự biến đổi, vô thường. Kant cho rằng liễu tri thấu triệt sự vật chỉ có thể thực hiện được trên lãnh vực hành động, thực tiễn, trong đó con người, thay vì bị động, hành động. Chỉ trên bình diện hành động thực tiễn này, con người mới là nguyên nhân tác tạo, con người làm nên đối tượng tự thân, liễu tri toàn vẹn đối tượng như hoạ sĩ, nhạc sĩ với tác phẩm của họ. Chỉ trong hành động, con người tự do – trong nghĩa không bị động - thể hiện tự do, lý tính thuần tuý trở nên lý tính thực tiễn. Kant nhận định: “Tính tất yếu tự nhiên về tương quan của các sự vật (trong đó có con người) nằm trong qui luật cho biết chúng đã có một nguyên nhân khác (bên ngoài) tác động lên trong tương quan nhân quả”. Ngược lại với điều đó, ý chí của lý tính thuần tuý xuất phát trên bình diện của thế giới giác tính. Ý chí này hoàn toàn tự do không bị những ảnh hưởng bên ngoài chi phối. Do đó ý chí này là qui luật của chính nó. Dĩ nhiên ý chí cũng lệ thuộc vào qui luật nhưng ý chí lại chính là người làm ra qui luật mà nó phải tuân thủ. Sự tự chủ này – AUTONONIE- Kant gọi là sự tự do của ý chí. Với tư cách là một thực thể có lý tính và theo đó thuộc vào thế giới trí tụê, con người không bao giờ có thể nghĩ ra được tương quan nhân quả của ý chí của chính nó mà không có ý niệm tự do. Với tư cách là một phần tử của thế giới giác tính, có nghĩa là độc lập với tất cả những nguyên nhân gây ra do thế giới cảm quan, ý niệm tự do đã được bao hàm trong nó. Kant không thể chứng minh khái niệm tự do này bởi vì khái niệm này không thể chứng minh được do những nguyên nhân mà ông thường nói là lý tính thuần tuý cũng không thể chứng minh được, nhưng Kant nói rằng chúng ta phải lấy khái niệm tự do như là điều kiện tiên quyết bao lâu con người với tư cách là con người có lý trí được thiên phú một ý chí. Kant nói rằng: Khái niệm tự do, trong chừng mực tính tồn tại khách quan của nó được chứng minh bằng một qui luật của lý tính thực hành, khái niệm này sẽ tạo nên viên đá kết thúc cả toà nhà của một hệ thống lý tính thuần tuý ngay cả của lý tính thực hành, và tất cả những khái niệm khác (Ví dụ khái niệm về Thượng đế và linh hồn bất tử), - những khái niệm được xem là những ý niệm tồn tại trong lý tính mà không có chỗ đứng khách quan trong thế giới thường nghiệm, - cũng sẽ đi theo khái niệm tự do. Với tự do, cũng như nhờ tự do chúng nhận được vị trí và tính thực tại khách quan, có nghĩa là khả thể của chúng được chứng minh nhờ sự hiện hữu thật sự của tự do bởi vì ý niệm này được công bố bởi qui luật đạo đức. Nhưng tự do cũng là ý niệm duy nhất trong tất cả những ý niệm của lý tính lý thuyết, mà con người chỉ biết được tính khả thể tiên thiên của nó nhưng không thấu triệt được nó bởi vì tự do là điều kiện của qui luật đạo đức, qui luật này chúng ta tri thức được qua hành động. Khái niệm tự do là viên đá đụng độ khởi đầu của tất cả những nhà theo chủ thuyết thường nghiệm, nhưng cũng là chìa khoá mở ra những nguyên lý thực tiễn cao quí nhất cho những nhà đạo đức phê phán, qua đó họ nhận rõ rằng họ tất yếu phải tiến hành tự do một cách duy lý. Chúng ta sẽ trở lại khái niệm hành động đạo đức qua mệnh lệnh phạm trù trong phần tới sau khi lược qua lý thuyết nhân quả của Phật giáo. Tóm tắt những ý tưởng trên, xin đưa ra lời Kant nhận định như sau “Như những sự vật, một mặt, con người được xem như là một hiện tượng thuộc vào thế giới cảm quan, mặt khác con người cũng tự nhận như là thực thể tự thân thuộc về thế giới tri thức (Intellektuelle Welt). Một thực thể lý trí (được thiên phú cho khả năng tư duy và linh hoạt trí thức) được xem như là trí tuệ, thuộc về thế giới giác tính (Verstandeswelt). Như thế có hai quan điểm để xét con người: “trong chừng mực con người thuộc về thế giới cảm quan, thì nó phục tòng qui luật tự nhiên (dị phân Heteronomie), trong chừng mực nó thuộc về thế giới giác linh, thì nó phục tòng qui luật độc lập với thiên nhiên, bất thường nghiệm, chỉ có nền tảng trong lý tính”. Với tư cách là một thực thể thuộc về thế giới trí tuệ, con người không thể nào tư duy liên hệ nhân quả do ý chí riêng mà không cần đến ý niệm tự do; bởi lẽ sự độc lập đối với những nguyên nhân quyết định trong thế giới cảm quan (mà lý trí luôn tự đi theo) là tự do. Không thể tách rời với khái niệm TỰ DO là khái niệm TỰ CHỦ luôn theo sát. Với khái niệm tự chủ, nguyên lý phổ quát về đức lý được dựng nên, nguyên lý này là nền tảng cho tất cả những hành động của những thực thế lý trí cũng giống như nguyên lý tự nhiên làm nền tảng cho mọi hiện tượng” 3 Tự do là một khái niệm bất khả liễu tri- bởi vì biết về tự do chưa hẳn là tự do- Tự do thuộc hành động và sáng tạo, chỉ trong hành động sáng tạo, tự do được cảm nghiệm và thấu triệt. Bởi thế Kant cũng phát biểu, một cách tự kiểm soát tư duy cách mạng của mình: “Tuy chúng ta là những phần tử làm ra qui luật cho thế giới đức lý nhưng đồng thời không phải là kẻ đứng đầu các qui luật ấy mà là những kẻ phục tùng chúng”4
  11. Người Tây Tạng lưu vong có 'tân thủ tướng' Ông Lobsang Sangay, học giả Harvard, đã tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Tây Tạng lưu vong và hứa chống lại "chủ nghĩa thực dân" Trung Quốc. Ông Lobsang Sangay đứng sau Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi lễ nhậm chức. Với tư cách là người đứng đầu chính phủ lưu vong, ông tiếp quản vai trò chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người năm nay 76 tuổi và vẫn là lãnh tụ tinh thần của người Tây Tạng lưu vong Đức Lạt Ma chủ trì buổi lễ nhậm chức tại Dharamsala, Ấn Độ Ông Sangay gây ngạc nhiên cho nhiều người khi ông được bầu vào vị trí thủ tướng, được người Tây Tạng gọi là Kalon Tripa, hồi tháng Tư. Một số người lo rằng ông sẽ có những chính sách cứng rắn hơn đối với Trung Quốc, nước xa lánh chính phủ lưu vong này. Các nhiệm vụ mới của ông Sangay bao gồm vai trò dẫn đầu phong trào toàn cầu đòi nhân quyền và tự do cho người Tây Tạng đang nằm dưới sự cai trị của Trung Quốc và điều hành chính phủ lưu vong. Ông gặp nhiều vấn đề khó khăn từ chỗ chính phủ lưu vong Tây Tạng không được bất cứ nước nào trên thế giới công nhận trong khi bản thân ông gần như không có kinh nghiệm sống ở Tây Tạng và kinh nghiệm quản lý. 'Bất công và vô phương bào chữa' Trong bài diễn văn nhậm chức, ông Sangay cố gắng bác bỏ những lo ngại rằng tuổi già của Đức Đạt Lai Lạt Ma và cái chết của ông trong tương lai sẽ chấm dứt phong trào Tây Tạng mà ông lãnh đạo từ khi rời đi sống lưu vong năm 1959. Ông nói chính việc ông được bầu lên gửi ra "thông điệp rõ ràng cho những người cứng rắn trong chính phủ Trung Quốc rằng lực lượng lãnh đạo Tây Tạng sẽ không biến mất." Cuộc đấu tranh, ông nói, ông phải là chống người dân Trung Quốc hay đất nước Trung Quốc. "Cuộc đấu tranh của chúng ta là chống lại những chính sách hà khắc của chính quyền Trung Quốc ở Tây Tạng...chống lại những ai tước bỏ tự do, công lý, phẩm giá và bản ngã của người Tây Tạng. "Không có 'chủ nghĩa xã hội' ở Tây Tạng. Chỉ có chủ nghĩa thực dân. Sự cai trị của Trung Quốc ở Tây Tạng là bất công và vô phương bào chữa." Sinh năm 1968 ra trong một gia đình người Tây Tạng lưu vong, ông Sangay chưa từng được về thăm Tây Tạng, nay thuộc Trung Quốc. Từng học trường cho con em các gia đình tỵ nạn Tây Tạng ở Ấn Độ và tốt nghiệp đại học Dehli, sau ông trở thành một chuyên gia về luật và cũng là nhà hoạt động nhân quyền. Được học bổng Fulbright để nghiên cứu tại Đại học Harvard, ông làm việc tại Hoa Kỳ lâu năm trước khi được mời về phục vụ cho chính phủ Tây Tạng lưu vong, đóng tại Ấn Độ. Ông cũng từng tổ chức hội thảo về Tây Tạng với sự tham gia của các học giả Trung Quốc nhưng quan điểm cứng rắn về 'chủ nghĩa thực dân Trung Quốc' ông nêu ra khi nhậm chức chắc chắn sẽ không làm quan hệ của ông với Bắc Kinh tốt lên. "Ở Tây Tạng không có chủ nghĩa xã hội mà chỉ có chủ nghĩa thực dân Trung Quốc"
  12. Lý thuyết nhân quả trong triết học Phật giáo và trong học thuyết siêu nghiệm của Kant. Lời bạt: Bài viết vừa được hoàn tất khi tin trận động đất và sóng thần tại vùng Fukushima Nhật Bản cùng với những thảm hoạ liên quan đến lò nguyên tử Fukushima được loan báo trên thế giới. Cảnh tàn phá và nỗi lo sợ mồn một xót xa trên màn hình. Liên cảm về khổ nạn làm nhói tim bởi kinh hoàng và bàng hoàng. Sự tình cờ (có lẽ không hẳn là tình cờ) bỗng thành thời sự: chính bài viết đang đặt vấn đề ý nghĩa chữ KHỔ như là nền tảng của Đạo đức học Phật giáo, trong chừng mực tìm lại bản chất đích thự của thái độ đạo đức. Trước tai hoạ do thiên nhiên và do chính con người,”KHỔ” đang càng lúc trở nên phổ quát không những cho con người mà cho cả thế giới chúng sinh. Câu hỏi “Làm thế nào để thoát khổ?” trở nên đòi hỏi bức thiết cần phải thay đổi lối sống, cách sống thế nào để được an lành. Những suy nghĩ trong bài viết này- dù chưa thấu đáo hết mọi khía cạnh- xin hướng về những nạn nhân của thảm hoạ kép với chia xẻ và cầu nguyện an lành. Huế tháng 3/2011 Nhà nghiên cứu Phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học, ông phát biểu rằng dù hai nhà tư tưởng lớn sống cách nhau hơn ngàn năm nhưng lời giải của họ lại gặp gỡ nhau, bởi vì cho mỗi câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng mà thôi. Bài viết sẽ trình bày những nét khác biệt giữa đạo đức học Phật giáo và đạo đức học của Kant khởi từ lý thuyết nhân quả.Từ đó ta có thể thấy được dù đi hai con đường khác nhau, từ hai lối nhìn và cách đặt vấn đề khác nhau, hai hệ thống tư tưởng này có thể gặp nhau trên những điểm cơ bản về ý nghĩa cũng như nội dung của thái độ đạo đức. I.Tương quan nhân quả trong lý thuyết siêu nghiệm của Kant: Kant phân biệt định luật nhân quả lý thuyết và định luật nhân quả thực hành. Định luật nhân quả lý thuyết còn được gọi là nhân quả tự nhiên: Tất cả những hiện tượng trong thiên nhiên đều nằm trong liên hệ nhân quả và cùng nằm trong qui luật định mệnh (Determinismus). Định mệnh ở đây trước hết có nghĩa, mọi “quả” đều có “nhân”, và nguyên nhân ấy nằm ngoài “quả”, định đoạt cho quả phát sinh. Quả thành tựu do nhân nhưng khác với nhân. Theo quan niệm thực nghiệm hàng ngày: củi là nguyên nhân của lửa, cơm là quả của gạo và nước+ hơi nóng, lửa là nguyên nhân của vết cháy bỏng trên da v.v. Kant gọi qui luật này là qui luật nhân quả thiên nhiên (natural) và xếp nó vào lãnh vực lý thuyết tri thức. Khác với triết gia thường nghiệm D. Hume2, Kant cho rằng định luật nhân quả có tính phổ quát tiên thiên chứ không phải là kết quả của sự quan sát những kinh nghiệm lặp lại thường ngày. Tính tiên thiên phổ quát này có từ giác tính linh hoạt của con người. Tuy nhiên định luật nhân quả tự nhiên chỉ áp dụng cho thế giới sự vật và con người như là những hiện tượng. Trên bình diện tri thức luận, con người cũng như tất cả mọi sự vật hay sinh vật trong thiên nhiên đều được đặt định, được chỉ định, tự nó không thể tự đặt định, tự thoát ra khỏi tương quan nhân quả tự nhiên. Tất cả mọi sinh và sự vật đều chỉ là hiện tượng (phaenomen), chứ không phải là vật tự thân (Noumenon, Ding an sich). Trước hết, con người không định đoạt được sự xuất hiện của nó trên thế gian. Sự ra đời, hiện hữu của con người là do cha mẹ tác thành, quả ấy trở thành nhân và quả tiếp theo.Như thế sự sinh thành của con người cũng như của mọi sinh vật trên thế gian đều do những yếu tố (người và vật) khác quyết định chứ chính con người không thể can thiệp được. Do đó, theo Kant, trên bình diện lý thuyết con người bị trói buộc trong nhân quả, chịu nhận qui luật tự nhiên, con người bị động trong tương quan nhân quả. Nhưng con người, theo Kant, khác với những sinh vật trong thiên nhiên, lại có thể tự mình sáng tạo, thay vì trong thế thụ động làm “quả” và “nhân” hiện tượng, con người có thể trở nên là một nguyên nhân độc lâp, vượt khỏi qui luật đặt định tự nhiên. Trên bình diện hành động thực tiễn, con người là kẻ tác tạo hành động, nhất là hành động đạo đức. Bản chất của đạo đức là tự chủ, là khởi động, không bị động. Theo Kant, hành động đạo đức thật sự- khác với tri thức lý thuyết,- nằm trong tính tự chủ, tự nguyện, không bị ép buộc, không chịu sự tác động ngoại tại. Độc lập với tác động bên ngoài, con người, khi hành động đạo đức, hoàn toàn tự do quyết định hành động ấy. Với ý chí tự do sáng tạo, con người trở nên kẻ xây dựng qui luật đạo đức. Trong hệ thống triết học siêu việt(Transzendentalphilosophie) của ông, Kant phân biệt hai lãnh vực: lãnh vực của thế giới cảm quan và lãnh vực thế giới giác tính. Ông cho rằng hành động đạo đức của con người không phụ thuộc vào thế giới cảm quan - bởi vì thế giới cảm quan là thế giới bị động (ví dụ cảm giác nóng lạnh tùy thuộc vào đối tượng tác động lên giác quan của con người) mà thuộc vào lãnh vực của giác tính, của linh hoạt tự động, của tự giác. Do đấy con người có thể thiết lập cho mình một tương quan nhân quả đặc thù: chính con người làm ra qui luật hành động cho chính mình. Qui luật đức lý này có nền tảng trong ý niệm tự do. Từ đó con người là nguyên nhân tác tạo. Căn cứ vào qui luật đạo đức, con người có thể đưa ra một qui luật có tính phổ quát cho mọi hành động đạo đức. Qua khái niệm tự chủ và tự do trên bình diện đạo đức, con người thoát khỏi qui luật tương quan nhân quả đang chế ngự thế giới tự nhiên, và hoạt động trên bình diện tương quan nhân quả của lý tính thực tiễn. Chính sự tự do này bảo đảm một thứ nguyên nhân mới trong hành động đạo đức và nâng con người lên ngang hàng với khái niệm chủ thể tuyệt đối trong triết học Tây phương: ý niệm Thượng đế. Khái niệm “tự do” làm nên điểm đặc thù của lý tuyết nhân quả do con người và cho con người trong hệ thống triết học của Kant. Trong lúc trên bình diện lý thuyết tri thức, tương quan nhân quả là phạm trù tiên thiên (một thứ đặt định tiền nghiệm), trong đo con người là một mắc xích bị động trong chuỗi nhân quả, thì trên bình diện hành động thực tiễn, con người quyết định hành động của mình và là nguyên nhân sáng tạo nên một thế giới theo qui luật đức lý. Kant cho rằng điểm cách mạng tiêu biểu trong triết học của ông không chỉ nằm trong lý thuyết siêu việt mà tác phẩm.”Phê phán lý tính thuần tuý” đã dày công xây dựng, mà nằm trong tác phẩm thứ hai “Phê phán lý tính thực tiễn”. Trong tác phẩm này, như ông đã hứa hẹn sau khi công bố tác phẩm thứ nhất, Kant muốn trả lại cho con người quyền tự chủ và sáng tạo như là chủ thể hành động đạo đức, ý niệm con người hầu như tương đương với ý niệm Thượng đế, ngược với thân phận giới hạn của nó trong tương quan nhân quả thiên nhiên. Đây cũng chính là lý do tại sao khi tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” ra đời, Kant đã bị giới nghiên cứu thần học và tập thể nhà thờ của thời ông phê phán gắt gao, và ông đã bị xem là kẻ vô thần. Những kẻ ủng hộ ông vừa ngạc nhiên vừa lo sợ trước tư tưởng táo bạo của ông. Quả thật trong đời sống thường nhật, Kant không bao giờ đi nhà thờ và đã là một trong những học giả khai sáng thế kỷ 18 phê phán giới lãnh đạo nhà thờ triệt để nhất ở điểm, tuân theo giáo điều là giết chết tính tự chủ và sáng tạo trong hành động đạo đức, sai khiến con người trở nên nô lệ cho quyền lực siêu nhiên (tiêu biểu trong tiểu luận “Khai sáng là gì?”) là vi phạm quyền tự chủ, bóp chết sự trưởng thành của con người Tuy nhiên tư tưởng cách mạng của ông vẫn còn chịu ảnh hưởng của tuyền thống tư tưởng đương thời. Prometheus, kẻ đánh cắp lửa trên trời đem về thế gian cuối cùng vẫn bị trừng phạt. Kant không bị trừng phạt, bởi vì chính ông tự nguyện công nhận ngoài ý niệm Tự do, ý niệm Thượng đế và linh hồn bất tử là những định đề hướng dẫn hành động đạo đức con người. (còn tiếp)
  13. Thiền và Tình Cảm Người ta đều có thất tình lục dục, ngay cả nhà Phật “tứ đại giai không” cũng không phủ nhận được. Dưới ngòi bút của các nhà thơ những tình cảm vui sướng, ưu sầu, đau thương, oán hận, hối hận, phẫn nộ, sợ hãi v.v…đều có sự bộc lộ đầy đủ. Nói đến vui sướng, Vương Duy đời Đường nói: “Hoa đón niềm vui đều biết cười”. Mạnh Giao đời Đường nói: “Gió xuân đắc ý ngựa phóng nhanh” thật là vui tươi thanh thản, tự nhiên biết bao. Nói về ưu sầu, Lý Bạch đời Đường nói: “Sầu như nước sông dài vạn dặm”. Tân Khí Tật đời Tống nói: “Mong lên cao lâu để tránh sầu”. Thật là nỗi sầu liên miên, sao tránh cho được. Kể đến đau thương, Cao Minh đời Nguyên nói: “Như nuốc kim chỉ, đâm ruột nhói lòng”. Tào Tuyết Cần đời Thanh nói: “Người thất ý gặp việc thất ý, vết thương mới đắp vết thương cũ”. Thật là đau đớn khó chịu, qua ngày tày năm. Kể đến oán hận, Bạch Cư Dị đời Đường nói: “Hồng nhan chưa già ân đã đứt”. Lý Dục đời Nam Đường nói: “Hận đời dài như nước dài”, thật là sầu hận thâm trầm có ai biết được? Những câu thơ mang sắc thái tình cảm phong phú này, thật ra đều là sự phản ánh tâm lý của con người trong hoàn cảnh đặc biệt. Nếu chìm đắm trong mối tình cảm nào mà không thể tự thoát, thì có thể tự khiến mình càng rơi càng sâu. Quá vui, sẽ đắc ý vênh váo; quá ưu sầu sẽ “trẻ đã bạc tóc”, quá đau lòng sẽ hại sức khoẻ. Vả lại, tình cảm cũng có thể chuyển biến, không nghe nói “vui quá hoá buồn” sao? Ý nghĩa sâu sắc của thiền chính là nói với người ta một cách không lộ dấu vết rằng: “ảo ảnh mơ mộng, biết quá khứ không gốc, đất nước, gió, lửa, ngộ vốn là không có”, theo cách nói của thiền: “Hỷ, nộ, ai, lạc” đều do vọng tưởng điên đảo mà sanh, thấu hiểu điều này thì có thể yên tâm không còn phiền não. Trên thế giới này, sự sung sướng không phải ai ai cũng có. Trái lại phiền não thì mỗi người đều có. Như phiền não của người nghèo là lo ăn lo mặc; phiền não của nhà giàu là sợ tài sản bị cướp, là suy nghĩ di sản phải phân chia như thế nào mới không để thân nhân trở mặt. Phiền não của người độc thân là tìm không được người bạn đời; phiền não sau khi kết hôn là có sự ràng buộc của gia đình…Phiền não phần nhiều là tình cảm chủ quan, có lúc là tự mình kết lấy phiền não. Trong “Đại Trí Huệ Của Phật Giáo Trung Quốc” có một mẫu chuyện tràn đầy lý thiền như sau: Ngày xưa, có một bà lão bất kể trời nắng cũng khóc, trời mưa cũng khóc, một năm có 365 ngày, hầu hết mỗi ngày đều sống trong sự khóc lóc, người ta gọi bà là: “Bà khóc”. Một hôm có vị Cao tăng hỏi bà:_Bà cả, tại sao bà khóc mỗi ngày không ngừng?_Bạch thầy! Tôi sinh được hai đứa con gái, đứa lớn gả cho người bán giày, đứa nhỏ gả cho người bán dù.Vị Cao tăng hỏi:_Đó không phải là rất tốt sao?_Thầy mà còn nói tốt! Tôi thật rầu muốn chết. Trời nắng dù của con gái nhỏ bán không được! Trời mưa ai mua giày của con gái lớn?_Bà cả, chớ rầu nữa! Bà hãy nghĩ như vầy: Khi trời nắng, tiệm giày của con gái lớn sẽ bán đắt; còn lúc trời mưa, dù của con gái nhỏ cũng bán chạy. Đó không phải rất tốt sao?_À…thì ra là vậy! Tại sao tôi không nghĩ ra? Bà lão được vị Cao tăng chỉ dạy, liền cảm thấy sung sướng, mặt mày vui tươi. Từ đó, bà không còn buồn rầu khóc lóc nữa. Ngày trời nắng, bà lão cũng cười, lúc trời mưa bà lão cũng cười. Vẻ buồn trên mặt bà đã mất hẳn. Như vậy, cùng một việc, bạn nhìn từ một góc độ khác nhau, bạn dùng cách tư duy khác nhau để nghiên cưu, thì sẽ có kết luận khác nhau. Bà lão đó trời nắng cũng khóc, trời mưa cũng khóc là tự mình chuốc lấy phiền não. Vị Cao tăng không có thay đổi hiện trạng, chỉ là đã điều chỉnh góc độ nhìn vấn đề của bà, khiến bà từ khóc trở thành cười, từ buồn trở thành vui. Chỗ kỳ diệu của thiền là tận sức thể nghiệm, thể nghiệm đời sống là tốt đẹp, đời sống là muôn màu, tương lai là sáng sủa, hãy đừng để cho phiền não vướng mắc. Đương nhiên cuộc sống khó tránh được vướng mắc của phiền não, vấn đề là làm thế nào thoát khỏi từ sự vướng mắc đó. Vả lại, phiền não cũng là một quá trình để rèn luyện con người. Phật Giáo cho rằng: “Phiền não tức Bồ đề”, đó là nói: phiền não là con đường tất yếu để đi đến trí huệ giác ngộ. Mỗi người chúng ta một hôm rơi vào phiền não sẽ cảm thấy phiền não bất an, và từ phiền não đi ra thì đã tỏ ra thâm trầm chính chắn. La Vĩ Quốc
  14. Nhận diện cái chết và hạnh phúc Giác Ngộ - Khi được sinh ra, có mặt trên thế gian này là chúng ta bị “lôi kéo” và “bắt buộc” một hành trình tìm kiếm, vậy ta tìm kiếm điều gì? Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình - Ảnh minh họa Ta tìm kiếm kiến thức, tiền tài, vật chất, hạnh phúc… Chúng ta nghĩ rằng những điều đó sẽ đem lại cho ta sự lợi ích, bởi chúng ta nghĩ ai mà không cần vật chất, chỗ ở, trang phục? Vâng! Như thế là chúng ta đang thương bản thân mình và phục vụ nó vì trách nhiệm cho kiếp sống này, thế nhưng mỗi ngày chúng ta luôn bận bịu vì điều đó! Chúng ta cứ nghĩ những thứ đó phục vụ mình. Nhưng thực tế thì sao? Chúng ta đang làm chủ hay làm nô lệ vật chất và làm nô lệ cho xác thân này? Chúng ta có địa vị, chúng ta kiếm thật nhiều tiền, nhưng để đạt được điều đó chúng ta phải bỏ ra thời gian, sức khỏe, có khi là gần cả cuộc đời, lúc đó có nhiều tiền nhưng chúng ta phải đối mặt với sự già nua, bệnh tật và cái chết… Chúng ta thường quan niệm rằng có nhiều tiền để có tất cả, vậy khi đó chúng ta bệnh thì chỉ phục vụ cho việc đến bệnh viện, thế chúng ta có thật sự có tất cả như ý niệm ban đầu của việc kiếm tiền, và chúng ta có thật hạnh phúc khi có nhiều tiền trong hoàn cảnh như thế? Suy nghiệm, để rồi tôi ngộ ra rằng: ta hãy đừng sống cho xác thân này mà hãy sống cho tâm và sống cho đời sống tâm linh của mình, bởi nếu chúng ta sống chỉ nghĩ và phục vụ cho xác thân này thì chúng ta sẽ đánh mất và lãng quên đi nội tâm - vốn là cái sẽ theo ta trong đời này, đời khác! Hãy ngồi xuống và nghĩ một chút về sanh tử luân hồi, có thể ta chưa đi sâu vào nhưng ta cũng nhận định và thấy được hai chữ “luân hồi” tức là chúng ta lại sinh ra nữa, lại loanh quanh, lại mệt mỏi và tìm kiếm vật chất cho cái xác thân này để rồi lại ra đi… Vậy đó có phải là hạnh phúc không? Tạm gọi và đặt vấn đề: hạnh phúc trong tâm ta và hạnh phúc ngoại cảnh thì đâu là điều cốt yếu? Hãy suy nghiệm một chút để ta nhìn rõ và để ta hiểu cái tâm mình hơn. Trong một kiếp người ta có vật chất ta cũng không thể mang theo lúc chết, không có gì là của mình ngoài nghiệp, điều lành, phước báu mình đã tạo. Hãy suy niệm về sự chết, đừng né tránh nó, hãy nhìn vào nó vì đến một lúc nào đó chúng ta cũng sẽ đối mặt với cái chết, khi đã quán xét thường xuyên thì chúng ta sẽ thấy được cái chết không đáng sợ. Khi nhìn thấy được cái chết rồi sẽ cận kề ta, ngay trong hơi thở này thì ta sẽ không còn muốn nuông chiều hay làm nô lệ cho cái xác thân này nữa. Mỗi ngày chúng ta hãy dành cho mình thời gian để quán niệm về hơi thở để biết mình đang trong hiện tại cùng chánh niệm về việc mình đang làm và biết mình đang làm gì… Cứ như thế rồi ta sẽ thấy nhẹ nhàng hơn rất nhiều và rồi ta cũng tìm về được với sự thanh thản và yên lặng cùng tâm mình! Đó chính là hạnh phúc thật sự của tôi, bạn ạ. Thiện Hạnh Trải qua những khổ đau chính là chất liệu giúp mình nhận diện con đường sáng đẹp để đi. Người gây cho mình khổ đau ấy vì thế trở thành thiện tri thức giúp mình đi đến bến bờ hạnh phúc, an nhiên...
  15. Đời người như trái bóng Có thể ví Cuộc Đời với cái gì? Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao. Thật ra, đời người là "vô thường", "vô ngã"; đời người là biết bao mưa nắng, sinh không mang đến, tử không mang đi. Hết một đời người, nếu như không để lại chút công, đức, ngôn; để lại chút gì có ý nghĩa, thì đúng là "đến tay không và đi tay không"! Có thể ví Cuộc Đời với cái gì? Có nên nhìn cuộc đời bi quan như thế? Xin đưa ra một sự so sánh tương đối: "Đời người như trái bóng"! Còn nhỏ thì học hành, phấn đấu lập nghiệp, cho đến khi thành gia thất, làm cha mẹ, khi ấy, trong mắt các con, cha mẹ giống như quả "bóng rổ". Bởi vì, bạn hãy xem, khi chơi bóng rổ, có phải người chơi tranh nhau dành bóng, ai cũng nói đó là "my ball" - quả bóng của tôi? Nhưng khi tuổi tác cha mẹ ngày càng nhiều thêm, con cái bắt đầu đùn đẩy trách nhiệm hiếu dưỡng cha mẹ, anh thứ nói đây là trách nhiệm của anh cả, anh cả nói em út phải phụng dưỡng, em út cho rằng nên phân chia trách nhiệm, thế là dưới sự sắp xếp của con cái, cha mẹ đành ở với đứa này một tháng, ở với đứa kia hai tháng, lúc này cha mẹ đáng thương giống như quả bóng chuyền, bị các con chuyền đi chuyền lại. Thậm chí, đến khi cha mẹ già yếu, họ bị coi như quả "bóng đá", con cái bận công việc, bận kiếm tiền, thấy cha mẹ tuổi cao sức yếu, chỉ hiềm nỗi không thể thuận chân đá đi mà thôi. Thật ra, cha mẹ cũng có thể không phải là "bóng chuyền", "bóng đá", chỉ cần bản thân họ có đạo đức, có học vấn, có tiền tiết kiệm, lúc đó cha mẹ lại giống như "quả tạ", dù muốn ném đi cũng không ném xa được, thậm chí con cái còn xem cha mẹ như quả "bóng bầu dục", ôm thật chặt, nhất định không thả ra! Cuộc đời "giống như cái gì"? Nếu tâm bạn như Bồ tát, tự nhiên mọi người sẽ sùng bái bạn; nếu bạn tự biến mình thành ma quỷ, đương nhiên mọi người sẽ xa lánh bạn. Vì thế, chúng ta có thể trù tính cuộc đời mình như "mặt đất" - nâng đỡ vạn vật, hay như "bầu trời" - chở che mọi sinh linh, như "đất đai" - cho con người trồng cấy, hoặc là "kho tri thức" - để mọi người dùng không hết. Liệu cuộc đời có đáng buồn như người ta vẫn nói? Có thể ví Cuộc Đời với cái gì? Chẳng phải đời người cũng giống như cơn gió mùa xuân, ánh nắng ngày đông hay sao?
  16. Đã gởi Linh Chú Giải Thoát đến Bạn sáng nay, hy vọng bạn sớm nhận được sự vi diệu của Linh chú.
  17. Xác nhận có 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của Nguyên Anh ủng hộ Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 12,014,000 đ + 200,000 đ = 12,214,000 đ (mười hai triệu hai trăm mười bốn ngàn đồng)
  18. Thằng ăn cắp Ở một làng nào đó bên xứ Ấn Độ, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn cường hào ác bá quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương. Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm. Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa. Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: “Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi bảng thông báo để trả lại cho người ta.” Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói:- Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con:- Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ đó phát sinh. Mẹ con mày chớ có dúng tay vào mà khốn!Bác cất cẩn thận vào rương, khóa lại.Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách.Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu:- Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sống trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa!Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên.Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi:- Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?Cụ già ngạc nhiên:- Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác?- Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này!Cụ già vẫn bình thản:- Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao? Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.”Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi:- Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa?- Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại.- Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì?Người thương gia trả lời:- Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường.Người nông phu nói:- Thế thì không phải túi đồ của bác.- Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ.Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia:- Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận.Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói:- Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn.Người nông dân ngạc nhiên:- Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền?- Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ. - Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Cũng như lòng yêu dân tộc, yêu tổ quốc không phải là cái cớ để được trả công. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp. Người thương gia không còn lý lẽ gì để nói thêm bèn khoác hành lý lên vai, bất thần vất gói vải đựng nửa số vàng lên bàn rồi bỏ chạy. Ý định của ông ta là bắt buộc bác nông dân phải nhận sự đền ơn, nhưng bác nông dân vội nhặt gói vàng rồi đuổi theo, miệng hô hoán:- Bớ người ta, thằng ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp.Dân trong làng nghe tiếng hô hoán liền đuổi theo bắt được người thương gia dẫn trở lại trước mặt bác nông dân, hỏi:- Hắn đã ăn cắp vật gì của bác?- Hắn định ăn cắp cái tâm công chính và chân thật mà tôi có được từ ngày tôi học Phật! Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều là những thằng ăn cắp…
  19. Đã có La kinh tại VP Trung Tâm TP HCM. Bạn liên hệ Anh Thiên Đồng số đt 08 38 486 867.
  20. Sự tích rằm tháng bảy và xuất xứ của hai tiếng Vu Lan Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng còn là ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không ? Và đâu là xuất xứ của hai tiếng " Vu Lan " ? Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ mà tìm thì thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tì. Thân hình tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ. Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh. Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không ? Không ! Ðây là hai lễ cúng khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại khái như sau : Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói : " Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên ". A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là " thả quỷ miệng lửa ", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành " tha tội cho tất cả những người chết ". Vì vậy, ngày nay mới có câu : " Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân ". Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên, một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông Thái văn Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête des Trépassés) là một. Còn lễ cúng cô hồn (fête des âmes errantes) và lễ xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính là một thì ông lại xem là hai (X. Les fêtes traditionnelles Vietnamiennes, B.S.E.I., t. XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây, hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan là để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết (Chúng tôi nhấn mạnh - HT) không còn phải đọa cảnh khổ nữa (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795, mục Vu Lan bồn). Nhưng đây không phải là " những người đã chết " nói chung vì như đã biết, đó chỉ là cha mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi. Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn với lễ báo hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là dạng tắt của Vu Lan bồn. Nhưng Vu Lan bồn là gì ? Sau đây là lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi : " Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ chữ Sanscrit Ullabana, là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều điều ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cõi sống rất khổ gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ hình là bị treo ngược (Sđd, tr. 795). Chúng tôi sẽ dựa vào lời giảng này mà tìm hiểu về xuất xứ của mấy tiếng " Vu Lan " và " Vu Lan bồn ". Lời giảng này có bốn điểm sai mà điểm sai thứ nhất thì chúng tôi vừa mới chỉ ra ở những dòng cuối của đoạn trên. Sau đây là điểm sai thứ hai : Nói bồn là cái chậu đựng thức ăn thì không đúng vì bồn chỉ là một yếu tố phiên âm (sẽ phân tích rõ ở phần sau) mà thôi. Nói rằng đó là " cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 " thì lại sai theo một kiểu khác nữa. Chậu là " đồ dùng thường làm bằng sành sứ hoặc kim loại, miệng rộng, lòng nông, dùng để đựng nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây v.v..." (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ. Thật ra, Phật đã dạy Mục Liên như sau : Phải toan sắm sửa chớ chầy Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu Lại phải sắm giường nằm nệm lót Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu Món ăn tinh sạch báu mầu Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng (Diễn ca kinh Vu Lan bồn) Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng trong dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt ... mà thôi. Còn thức ăn thì phải " tinh sạch báu mầu, đựng trong bình bát " đàng hoàng lịch sự, chứ có đâu lại đựng trong chậu. Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những học giả đã giảng như trên, chẳng hạn Ðoàn Trung Còn trong bộ từ điển lớn về Phật học hoặc Toan Ánh trong bộ sách dày về nếp cũ. Ðây là một cách giảng lệ thuộc vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn, đã giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau : " Nói lấy chậu đựng trăm thức để cúng dường chư Phật " (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư Phật). Ðiểm sai thứ ba là đã theo cái sai của những người đi trước mà giảng Vu Lan thành " cứu nạn treo ngược", vì thấy từ điển Trung Hoa giảng Vu Lan bồn là " cứu đảo huyền ". Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng hạn, giảng Vu Lan bồn thành " cứu đảo huyền " là đã mượn hai tiếng "đảo huyền " trong sách Mạnh Tử. Trong sách này, có cú đoạn " Dân chi duyệt chi do Giải đảo huyền dã" nghĩa là "như giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng vậy ". Chính Từ Nguyên cũng đã giảng " đảo huyền " là sự khốn khổ tột cùng (khốn khổ chi thậm). Vậy " cứu đảo huyền " không phải là " cứu nạn treo ngược " mà lại là " giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng ". Hai tiếng " đảo huyền " ở đây không còn được hiểu theo nghĩa đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa của chúng trong thành ngữ " đảo huyền chi tế " là tình cảnh khốn khó, chứ không phải là " cảnh bị treo ngược ". Ðiểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit "Ullabana " có nghĩa là " cứu nạn treo ngược ". Trước nhất, cần nói rằng từ Sanscrit này đã bị viết sai. Vậy không biết ở đây hai tác giả muốn nói đến danh từ Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đã thấy thì có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây : Ullambana hoặc Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất: Ullambana gồm có ba hình vị : ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi ! Từ Sanscrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc treo xuôi gì cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là "cứu nạn treo ngược" được.. Trở lên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai trong lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng "Vu Lan". Vậy đâu là xuất xứ và ý nghĩa đích thực của hai tiếng này ? Trước nhất, Vu Lan là dạng nói tắt của "Vu Lan bồn". Ðây là ba tiếng đã được dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng dạng phiên âm mới là "Vu Lan bồn", trong đó Vu thay thế cho Ô, lan cho lam và bồn cho bà + n (a). Vì "Vu Lan bồn" chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành "cái chậu đựng thức ăn" như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm là hoàn toàn không đúng. Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nói), căn tố động từ lambh và hậu tố ana. Xin nói rõ về từng hình vị : Không giống như trong Ullambana, ở đó nó chỉ sự vận động từ dưới lên. Trong Ullambhana, tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập, thí dụ : chad (che, bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn), đv ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói, buộc), đv un-nah (cởi trói) v.v... Trong những thí dụ trên, ud trở thành uc, ut, un do quy tắc biến âm samdhi. Còn các căn tố động từ thì được ghi bằng chữ in hoa theo truyền thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ lambh là hình thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt ... Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến ý nghĩa mà tiền tố và căn tố động từ diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là " Vu Lan bồn ". Vu Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy Vu Lan là sự giải thoát. Xuất xứ của nó là danh từ Sanscrit Ullambhana. Ðây là từ thứ hai trong hai từ mà chúng tôi đã suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa lại có liên quan đến hiện tượng " treo ngược " cả. Trở lên, dù sao cũng chỉ là ý kiến thô thiển của một cá nhân. Ðúng hay sai, xin được sự thẩm xét của các nhà chuyên môn, trước nhất là các nhà Phật học và các nhà Phạn học. An Chi (Huệ Thiên) (daitangkinhvietnam.org)
  21. VU LAN MÙA BÁO HIẾU Hỏi: Lễ Vu Lan xuất xứ thừ kinh nào? Đáp: Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: “Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo, các con thường nhớ nghĩ cúng dường cha mẹ mình. Hàng năm nhằm ngày rằm tháng bảy các con phải sinh lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đời này cũng như cha mẹ trong bảy đời quá khứ mà cử hành pháp hội Vu-Lan, cúng dường chư Phật và chư Tăng để báo đáp ân đức mà cha mẹ mình đã nuôi dưỡng mình”. Ngày Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật, thiết trai cúng dường mười phương tăng chúng, hồi hướng công đức về cho mẹ mình ở dưới địa ngục, khiến bà được thoát thân ngạ quỷ, vãng sinh tịnh độ. Hỏi: Ý nghĩa của chữ Vu Lan Bồn là gì? Đáp: Vu Lan Bồn là dịch âm từ chữ Phạn Ullambana. Ý dịch là cứu đảo huyền. Theo ngài Tông Mật, Vu Lan nghĩa là đảo huyền, ám chỉ cực mình bị treo (huyền) ngược (đảo) của chúng sinh trong địa ngục. Bồn tức là cái chậu, cái thau, tượng trưng cho vật cứu hộ những chúng sinh ấy. Do đó cách dịch thông thường của lễ Vu Lan là lễ “cứu đảo huyền, giải thống khổ” (Vu Lan Bồn Kinh Sớ quyển hạ). Hỏi: Làm sao cứu độ chúng sinh, cửu huyền thất tổ trong hạ giới? Đáp: Kinh kể lại rằng ngài Mục Kiền Liên dùng sức mạnh thần thông của cá nhân mình để thử cứu mẹ mình ở địa ngục mà thất bại. Do đó, muốn cứu độ chúng sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ, mình cần phải nhờ tới đạo lực của tập thể chư Tăng, những vị chân thực tu hành. Xưa kia, vào rằm tháng tư, đức Phật và chư Tăng kiết hạ, (nghĩa là an trụ một chỗ để tu hành, không ra ngoài khất thực để tránh phải dẫm lên côn trùng sâu bọ sinh sản đầy dẫy vào mùa mưa). Rằm tháng bảy, là ngày cuối cùng của mùa hạ, Phật và chư Tăng tề tựu để tụng giới, thuyết pháp. Bấy giờ chư Tăng sẽ dùng đạo lực thanh tịnh của mình để hồi hướng về chúng sinh đang chịu thống khổ trong cõi dưới. Hỏi: Trong lễ Vu Lan phải cúng dường ra sao? Đáp: Theo như Phật dạy, những ai muốn báo hiếu cho cha mẹ bảy đời thì phải đem thượng vị ẩm thực an trí nơi một cái chậu (hay đồ đựng) để cúng dường chư Tăng trong mười phương. Sở dĩ dùng chậu hay đồ đựng có dung tích lớn là muốn ám chỉ rằng tất cả đồ cúng dường là dành cho tập thể Tăng đoàn chớ không dành riêng cho vị Tăng đặc biệt nào. Tất cả đồ vật cúng dường ấy sẽ được phân phối đồng đều cho tất cả Tăng Ni. Hỏi: Lễ Vu Lan mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều tổ chức khác nhau, như vậy tổ chức thế nào thì tương đối phù hợp với tinh thần chánh pháp Phật dạy? Đáp: Vua Võ Đế vào năm Đại Đồng thứ tư (538 AD) đã từng tới chùa Đồng Thái để làm lễ trai Tăng, cúng dường. Sau rồi mỗi năm, trở thành thông lệ, các vua Hoàng Đế đều coi trọng lễ Vu Lan. Đời Đường, vua Đại Tông còn tổ chức cực kỳ long trọng, bằng cách cho thỉnh Tăng Ni, thiết bồn cúng dường ở trong hoàn cung. Về sau truyền thống phổ cập khắp nhân gian, nhiều màu mè sắc thái thế tục (như đốt vàng bạc, tiền giấy, cúng kiếng…), cũng như những phong tục nhân gian (đàn ca múa hát) được thêm vào, hoàn toàn không phải chân lý Phật dạy. Sau này vào đời nhà Thanh, có nhiều Tăng chủ trương làm lễ cung phụng Vu Lan Bồn, cúng dường Tam Bảo vào ban ngày, còn ban tối thì cúng cô hồn, siêu độ quỷ đói. Đối với người tại gia, tinh thần căn bản nhất mà lễ Vu Lan nhằm biểu hiện, nằm ở trong ba phương diện: 1. Trên phương diện căn bản làm người, thì lễ Vu Lan là cơ hội làm ta phản tỉnh: khiến mình biết hiếu thảo với cha mẹ còn sống và biết bổn phận phải giải cứu cha mẹ bảy đời xưa kia cũng như giải cứu tất cả ngạ quỷ, địa ngục chúng sinh. 2. Trên phương diện tu phước tu huệ, thì lễ Vu Lan là cơ hội để ta tu tâm chân thành: mình phải biết cung kính cúng dường chư Tăng, phụng sự Tam Bảo. 3. Trên phương diện giải thoát, thì lễ Vu lan là cơ hội để ta tu tâm đại bi: mình phải thấy sự thống khổ của mọi chúng sinh như là của chính mình. Bởi vì nội dung siêu độ vong linh là một công việc rất trang trọng, nghiêm túc. Do đó mọi sắc thái tiêu khiển, hướng ngoại đều không đem đến lợi ích chân thật và chắc hẳn sẽ không đem lại công đức, nếu không muốn nói là sẽ gieo trồng nhân khổ cho mai sau. Trích Báo Bồ Đề Hải, tháng 8/1997 HT Tuyên Hóa
  22. Xin gửi lời chia buồn sâu sắc đến Hải và tang quyến ! Xin thắp một nén nhang một niệm A Di Đà , mong linh hồn Cụ sớm được siêu thoát!
  23. ĐÂY LÀ HIỆN TƯỢNG CHÚNG TA CHỈ THẤY VÀ SỐNG TRONG ĐÓ MỘT LẦN TRONG ĐỜI MÌNH Lịch tháng Bảy, 2011 Chủ nhật haiBaTưNămSáuBảy 12345678910111213141516171819202122232425262728293031 Những bị đựng tiền Năm nay tháng Bảy có 5 ngày thứ Saú, 5 ngày thứ Bảy và 5 ngày Chủ Nhật. Điều này chỉ xuất hiện một lần trong 823 năm. Nó được gọi là những bị tiền. Do đó chuyển email này cho bạn bè thân thuộc sau bốn ngày thì tiền sẽ đến với mình. Kiểu phong thủy của China khá ly kỳ phải không? Đọc tiếp xem Năm nay có những ngày rất đặc biệt 1/1/11, 1/11/11, 11/1/11, 11/11/11 và thêm không kém phần ly kỳ nữa như sau... Lấy hai con số cuối cùng cuả năm sinh cuả bạn (ví dụ sinh năm 1980 thì lấy số 80) cộng với số tuối cuả bạn năm nay (sinh 1980 thì năm nay là 31 tuổi) Kết quả sẽ luôn luôn là 111 cho tất cả mọi người trên thế giới. (80+31=111) Tiền đó bạn. Theo truyền thuyết thì bạn gửi mail này cho 8 người bạn thân, tiền sẽ đến với bạn trong 4 ngày sau. Đó là thuyết phong thuỷ cuả Trung Quốc! Hehe Kỳ lạ phải không? thử coi sao, đâu có mất cái gì! Chúc mọi người may mắn nhé ! ----------------------------------------------------------------------------------------------------------- GOOD LUCK !
  24. Xác nhận có 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) của Vi Tiểu Bảo đóng góp cho Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 11,714,000 đ + 300,000 đ = 12,014,000 đ (mười hai triệu không trăm mười bốn ngàn đồng) Cám ơn lời chúc của VTB, chúc em thăng tiến trong công việc an lạc trong cuộc sống !