wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Xác nhận có 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) của cattrang ủng hộ Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 4,000,000 đ + 500,000 đ = 4,500,000 đ (bốn triệu năm trăm ngàn đồng)
  2. Nếu quả thật như hình ảnh trên đây thì "Tinh suy vận nước cũng suy" ! Chỉ còn biết ngữa mặt xin TRỜi cho dân Việt đừng gánh họa lầm lỗi xúc phạm hồn thiêng !
  3. Lương y Yên được tiếp tục chữa bệnh (NLĐO) – Ngày 9-8, UBND tỉnh Bình Phước cho biết đã có văn bản đồng ý để lương y Võ Hoàng Yên (SN 1975, người thường được những bệnh nhân tại một số tỉnh, thành gọi là “thần y”), được tiếp tục chẩn, chữa bệnh trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Bệnh nhân đang chờ đến lượt được “thần y” chữa bệnh Theo đó, UBND tỉnh chấp thuận cho ông Võ Hoàng Yên tiếp tục chữa trị bệnh nhân thuộc nhóm câm điếc, bại liệt, thoái hóa cột sống đã đăng ký hoặc đã được điều trị từ 1-3 lần. Hội Đông y tỉnh trực tiếp theo dõi, giám sát quá trình chữa bệnh của ông Yên tại chùa Quang Minh, phường Tân Đồng, thị xã Đồng Xoài và 1 điểm tại thị xã Phước Long.Bên cạnh đó, chấp thuận các đề xuất của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật như vận động ông Yên vào thành viên Hội Đông y tỉnh Bình Phước để ông có pháp nhân đăng ký thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh. Hội đồng khoa học tỉnh bổ sung thêm danh mục đề tài nghiên cứu khoa học “Dùng phương pháp xoa bóp day ấn huyệt để phục hồi chức năng một số bệnh câm điếc, bại liệt, thoái hóa cột sống” vào nhóm đề tài nghiên cứu được xét duyệt trong năm 2011 (thực hiện đề tài từ 6 tháng đến 1 năm). Người dân đang đăng ký để “thần y” khám chữa bệnh Lương y Võ Hoàng Yên (đứng, bên trái) đang chữa bệnh cho bệnh nhân câm, điếc Sau khi nghiệm thu đề tài, UBND tỉnh chỉ đạo cho ngành y tế có thẩm quyền cấp phép cho ông Yên được điều trị bệnh lâu dài tại tỉnh. Khi có pháp nhân, ngoài việc điều trị cho bệnh nhân tại các cơ sở y tế công lập, cơ quan chức năng sẽ cho phép ông Yên được phối hợp với các cơ quan chức năng vận động thành lập Trung tâm khoa học điều dưỡng phục hồi chức năng cho người già, người tàn tật tại tỉnh.Tin - ảnh: T.Tiến
  4. Lưu ý : Wild được biết (nguồn đáng tin cậy) Lương Y Võ Hoàng Yên (cùng 1 số cộng sự) người được nhắc đến nhiều trong thời gian vừa qua sẽ có buổi khám và chữa trị cho bệnh nhân mang những chứng : Liệt, Bại xuội, thoái hóa và gai cột sống đặc biệt "câm điếc" có kết quả cho một số trường hợp. Nay thông báo đến ACE sinh hoạt diễn đàn ai có thân nhân mang chứng bệnh như trên liên hệ VP Trung Tâm số 08 3 8486 867 để kết hợp tập trung đi vào ngày 18/12.2011 lúc 13g. Vì lịch làm việc duy nhất chiều chủ nhật. Địa điểm Quận 12 cụ thể chi tiết cho biết sau.
  5. SÁU THÂN TRUNG ẤM Sự hiện hữu của chúng sinh đã bị điều kiện hóa bởi sự sinh, sự chết, và sự chuyển tiếp từ cái chết sang sự tái sinh. Sức khởi động không ngưng nghỉ của nghiệp lực đã làm cho đời sống vô thường. Chúng ta liên tục luân hồi xuyên qua những trạng thái khác nhau của hữu thể, và trong pháp môn p’howa thì cách hữu dụng nhất để hiểu chúng là trong cách phân loại của sáu thân trung ấm, tức là các trạng thái trung gian. Thân trung ấm nơi sinh (birthplace bardo) bắt đầu từ khoảnh khắc chào đời, và kết thúc khi từ trần. Nó chỉ cho kiếp sống của chúng sinh, và với kiếp người thì đây là cơ hội tối thắng để tu tập - có khả năng để làm thanh tịnh các nghiệp xấu và thu thập công đức và sự giác ngộ nhằm giải thoát khỏi luân hồi và hướng dẫn các chúng sinh khác tới giải thoát. Thân trung ấm nơi sinh trong cõi người thường xen lẫn bởi hai thân trung ấm khác, thân trung ấm chiêm bao (dream bardo) và thân trung ấm của thiền định (bardo of meditative concentration). Cả hai thân này dung chứa tiềm năng cho các trạng thái thâm sâu của tâm thức, mặc dù với hầu hết mọi người chúng chỉ giữ trong khoảng thời gian ngắn. Hệt như thân trung ấm nơi sinh, chúng có thể được vận dụng cho sự tiến bộ tinh thần. Tiến trình chết xảy ra trong thân trung ấm của khoảnh khắc lìa đời (bardo of the moment of death), nó tiếp cận với hơi thở cuối cùng và sự hợp nhất vào luân xa quả tim của các năng lực nam và năng lực nữ nguyên thủy của chúng sinh đó. Thân trung ấm này có thể rất ngắn ngủi; nếu người này gặp cái chết chưa đúng thời bởi vì tai nạn hay vì bạo lực, hay là nó có thể được kéo dài, nếu người này chết vì căn bệnh dằng dai. Thân trung ấm của khoảnh khắc lìa đời là chặng chuyển tiếp chủ yếu trong chu kỳ luân hồi, bởi vì đó là lúc pháp môn p’howa có thể thành tựu được và sự giải thoát vào cõi tịnh độ có thể đạt được dễ dàng. Tuy nhiên, để thành tựu p’howa, học nhân nên tu tập kỹ lưỡng khi còn trong thân trung ấm nơi sinh, bởi vì tâm thức hỗn loạn thường gây mê mờ vào thời điểm chết. Đối với hầu hết mọi người, thân trung ấm của chân tánh của vạn pháp (Anh ngữ: bardo of the true nature of phenomena; Tây Tạng ngữ: chos nyid; Phạn ngữ: dharmata) khởi đầu khi họ rơi vào màn tối đen, sau khi các năng lực nam và nữ hợp nhất trong quả tim. Các thiền sư vĩ đại nào có thể duy trì tỉnh thức trong suốt thời chuyển tiếp của cái chết sẽ không rơi vào màn tối đen này. Trong thời khoảng này, các phẩm chất của tâm được buộc vào trong tự tánh bất khả hủy diệt, vào trong tận nguồn vi tế nhất của tâm thức và sự hồn nhiên. Các phẩm chất của tâm về tánh biết - tám phương diện của ý thức - thì hiện hữu như là quả cầu cốt yếu của ý thức. Đặc tính di động của tâm thì hiện hữu như là các năng lực nghiệp thức cực kỳ vi tế (tức là “các gió”; Tạng Ngữ là lung), các lực này quấy động các phần tử của ý thức. Sự quấy động nhẹ này làm mê mờ ý thức, và ánh sáng trong suốt của thật tánh của vạn pháp khởi lên như một trạng thái bất nhị, bất khả diễn tả của Tánh Biết. Tất cả chúng sinh, từ bất kỳ cảnh giới nào của đời sống, có một kinh nghiệm chớp nhoáng về tia sáng trong suốt khi họ chết, nhưng đối với hầu hết, nó qua đi trong khoảnh khắc mà không được ghi nhận. Chỉ có các đại thiền giả - những người đã chứng nhập cái nhìn cao nhất qua các pháp thiền của Đại Toàn Thiện, Đại Thủ An, Trung Quán - có khả năng để tìm giải thoát vào pháp thân, để thành đạt giác ngộ, xuyên qua việc chứng nhập ánh sáng trong suốt. Đối với những người khác, sự giải thoát bị ngăn trở bởi một sự thúc giục về hướng “đầu thai” và một nỗi sợ bị hư vô hóa. Các phương diện vi tế của ý thức, bị quấy động thêm nữa bởi các năng lực tế vi, dẫn khởi lên các hiện tướng thanh tịnh của Tánh Biết, sự xuất hiện các vị Thánh hiền hòa và hung dữ. Ánh sáng khởi lên, cùng với các âm thanh cuồng nộ. Và rồi các hình tướng xuất hiện từ ánh sáng đó, trước tiên hiện ra như các vị Thánh đầy giận dữ cùng với tiếng cười gây kinh hãi. Mỗi vị mặc trang phục riêng đặc biệt và được đi kèm bởi một đoàn hội chúng dầy đặc tới đầy khắp không gian. Rồi các vị Thánh hiền hòa xuất hiện - trong đó có các vị bổn tôn của pháp môn p’howa là Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, và Phật Vô Lượng Thọ (1) - sáng rực và đầy kính ngưỡng. Bất kỳ ai đã tu tập pháp quán tưởng, những ai đã thấy vị bổn tôn chỉ là hóa hiện tự tâm mình, có thể giải thoát được vào cảnh giới Báo thân. Đối với những người khác, sự hóa hiện của các vị Thánh hiền hòa và hung dữ sẽ chớp qua đi. Những người khác sẽ lùi xa khỏi khối sáng rực đó, và những hình ảnh và âm thanh của các vị bổn tôn sẽ biến dạng. Bây giờ xuất hiện một chuỗi bốn chùm ánh sáng màu, mỗi chùm là hai độ rực rỡ, tập trung trên đầu như một chiếc dù - trước tiên là màu trắng, rồi xanh-đen, vàng, và đỏ. Sau khi chuỗi ánh sáng này hiển lộ, ánh sáng mang nhiều hình dạng khác nhau. Rồi một hình ảnh khởi lên như một sơ đồ thế giới, với các mạn đà la của tam thân (Pháp thân, Báo thân, Sắc thân - ND) và dưới các mạn đà la, là sáu cõi chúng sinh. Sơ đồ này rất trong sáng và chi tiết, và nếu có ai thấy được bản tánh của tam thân, thì người đó giải thoát. Nếu chúng sinh nào tránh né khỏi các tia sáng chói lọi và bị thu hút về các tia mờ, nếu chúng sinh nào không thấy bản tánh của mạn đà la tam thân và bị thu hút về sáu cõi, thì các hình ảnh nhạt dần, và thân trung ấm của thực tánh của vạn pháp chấm dứt. Thân trung ấm của sự trở thành (Anh ngữ: bardo of becoming; Tạng ngữ: sidpa bardo) thì như một giấc mơ. Nếu có ai đã tập thiền trong kiếp trước của mình đủ vững vàng để nhớ tới vị thầy của mình hay vị bổn tôn đã chọn, thì sự giải thoát vào sắc thân [Phật] vẫn có thể thành tựu. Nếu chúng sinh này đã quên đi niềm tin trước đó của mình, và không có thể tái thiết lập thiền định, thì đau đớn lớn xảy ra. Thân trung ấm của sự trở thành là một nơi hoang vắng, nơi bầu trời mang mầu xám, không có mặt trời hay mặt trăng, không có nước hay lương thực, và chúng sinh trải qua đủ loại kinh nghiệm hãi hùng, như bị rượt đuổi bởi các nhóm thù nghịch hay là thú rừng, hay là rơi từ các đỉnh núi khi chúng biến thành các trận tuyết lở. Chúng sinh trải qua những kinh nghiệm này dường như chúng sinh này đã mang thân người và không có ký ức gì về sự hấp hối, không có ký ức gì về thân trung ấm của giây phút lìa trần, cũng như về thân trung ấm của bản tánh thật của vạn pháp. Chúng sinh vào thân trung ấm của sự trở thành trong một thân thần-thức (mental body). Năng lực của 5 phần tử (ngũ uẩn-ND) hòa lẫn với các phương diện vi tế của ý thức và các năng lực vi tế của thân thần-thức, làm cho nó dày đặc hơn. Năm uẩn phát triển tới điểm mà các thân trung ấm có thể nhìn thấy, và được nhìn thấy bởi các thân trung ấm khác và bởi các vị trong các cảnh giới khác có khả năng thần thông. Các bộ phận cảm quan (của thân trung ấm-ND) hình thành, và cần có dưỡng chất, điều này được tiếp nhận trong hình thức mùi hương. Các thân trung ấm không bao giờ ở lâu một nơi, bởi vì, trong trạng thái không cân nặng này, các thân trung ấm tức khắc được mang tới bất cứ nơi nào mà họ mong muốn. Thoạt tiên, họ có thể cảm thấy một cảm giác có sự khoan khoái và quyền lực lớn trong trạng thái này, nhưng khi mong muốn của họ đi nơi này và nơi kia và họ bị buộc phải theo, và khi những mong muốn này bị ngăn trở, các thân trung ấm càng lúc càng dao động và bực bội. Họ tụ họp ở các cây xưa, nhà cũ, và các nơi hoang vắng, và loài người cảm nhận các thân trung ấm đó là ma. Khi các uẩn dày đặc hơn, thì sự mong muốn, sự ghen tị và sự giận dữ của các thân trung ấm càng tăng. Họ nhìn thấy chúng sinh nơi 6 cõi, và muốn những gì mà các chúng sinh đó có. Khát vọng tìm một hình tướng trở thành khẩn cấp, và điều này lôi cuốn họ gần thêm tới cõi phù hợp với nghiệp lực của họ. Nếu ý thức của họ mang sự căm thù và giận dữ giết chóc, thì những cảm xúc này, được triển nở đầy đủ, dẫn tới tái sinh trong cảnh giới địa ngục. Nếu nhiều khát vọng và tham lam, khuynh hướng này khi phát triển đầy đủ sẽ dẫn tới tái sinh trong cõi quỷ thần. Sự ngu dốt và trực giác mù quáng dẫn tới tái sinh trong cảnh giới thú vật. Tính ghen tị và tính cạnh tranh, kết hợp với vài đức hạnh, dẫn tới tái sinh trong cõi bán thiên (demigod realm), trong khi sự hãnh diện hay mê luyến niềm vui thiền định, cùng với đức hạnh, dẫn tới các tầng chư thiên cõi dục giới. Thiền định bị mê luyến vào sự trong sáng - viễn kiến, tiên tri và tương tự - dẫn tới tái sinh trong cảnh giới sắc tướng của chư thiên. Thiền định bị mê luyến bởi sự ổn định dẫn tới tái sinh trong cõi trời vô sắc. Tái sinh trong cõi người là do kết quả tổng hợp của công đức, kết tập từ các việc làm từ bi, và các điều xấu, khởi lên từ ngũ độc. Hoàn cảnh tái sinh vào cõi người - hoặc là người này sẽ giàu hay nghèo, khỏe hay yếu, thông minh hay khờ khạo, tất cả các cực này và khoảng giữa chúng - tùy thuộc chính xác vào tổng hợp nghiệp thiện và nghiệp ác của người đó. Các biến đổi cũng vô tận, bởi vì ảnh hưởng nghiệp thức thì không ngưng nghỉ. Mệt mỏi vì sự xáo động của thân trung ấm của sự trở thành, thèm khát sự ổn định của một thân xác, một thân trung ấm có nghiệp tái sinh vào cõi người sẽ bị lôi kéo về cảnh giao hợp của bố mẹ tương lai. Nếu trung ấm này sẽ tái sinh làm người nam, thì sẽ bị lôi kéo về phía người mẹ, và ghen với người cha; nếu sẽ tái sinh làm nữ, thì bị lôi kéo ngược lại. Vào khoảnh khắc thụ thai, thì cái tâm thức vô tướng đó, bị thúc đẩy bởi các năng lực vi tế không ngưng nghỉ, kết hợp với tinh trùng và trứng của bố mẹ. Thân trung ấm của sự trở thành giữ tiếp trong khoảng hơn 9 tháng, cho tới khi ra đời, điều cho thấy rằng bánh xe luân hồi đã xoay đủ một vòng tròn. Một kiếp người lại bắt đầu. CHÚ THÍCH(1) Bản Anh văn ghi tên ba vị là Amitabha, Avalokiteshvara và Amitayus. Hai vị đầu dịch ra Việt ngữ là A Di Đà Phật, và Quan Thế Âm Bồ tát. Nhưng chữ “Amitayus” lại có nghĩa là “Vô Lượng Thọ,” một danh hiệu khác của Phật A Di Đà. Trong khi theo kinh điển Tịnh độ thì vị thứ ba phải là Đại Thế Chí, tức Anh ngữ phải là Mahasthamaprapta. Tuy nhiên, bản Việt dịch sẽ giữ hoàn toàn trung thực với nguyên tác Anh ngữ, và sẽ ghi các chỗ nghi vấn.Cần phải ghi nhận thêm rằng cuốn Tử thư Tây Tạng, The Tibetan Book of the Dead - bản Anh dịch và chú giải của Francesca Fremantle và Chogyam Trungpa, ấn bản 2000 của NXB Shambhala, trang 46 - ghi rằng lúc đó “Phật A Di Đà sẽ xuất hiện trước người chết từ hướng Tây phương Cực lạc, toàn thân màu đỏ, tay cầm hoa sen và ngồi trên ngai trên lưng chim công, ôm người bạn đạo là Pandaravasini. Ngài được đi kèm theo bởi hai nam Bồ tát là Quan Thế Âm và Văn Thù và hai nữ Bồ tát là Gita và Aloka, để 6 hình tướng Phật xuất hiện từ không gian của ánh sáng cầu vồng.” Có lẽ, chỉ nên xem các mâu thuẫn nơi đây như là các ngón tay dị biệt đang cùng chỉ về một mặt trăng, và có khi chỉ là mang tính ẩn dụ, chứ không có gì sai lạc cả. Nguyên Giác dịch Chagdud Khadro
  6. Sự tích khăn tang Ngày xưa, có vợ chồng nhà phú hộ nọ sinh được năm người con gái. Nhà giàu nhưng lại không con trai, nên bao nhiêu tình thương họ đều dồn vào những cô con gái. Lần lượt năm cô lớn lên, ai nấy đều lập gia đình ra ở riêng, vì các con lấy chồng xa, nên hai ông bà phú hộ cảm thấy nhớ con quá. Một hôm bà bảo chồng: Sắp tới, ông chịu khó trông nhà cửa cho tôi đi thăm chúng một lượt, sau đó tôi lại về trông để ông đi...- Phải đó - ông đáp - nhưng bà phải đi nhanh nhanh lên mới được, đừng bắt tôi đợi lâu! "- Không được đâu, tôi tính ở lại với các con đứa nào ít nhất cũng một tháng, năm đứa vị chi là năm tháng, cộng đi đường tổng cộng độ vài ba chục ngày, như vậy cũng mất ngót nửa năm rồi ông ạ!- Thôi được, thế th́ bà nó đi đi, bà nhớ đừng để cho đứa nào quấn quýt quá rồi ăn dầm nằm dề ở đó làm cho tôi mỏi mòn trông đợi.Rồi người vợ cùng con hầu ra đi. Nhưng chỉ được vài tháng đă thấy bà trở về, vẻ mặt buồn so. Thấy thế, ông liền hỏi dồn:- Cơn cớ làm sao mà bà về nhanh như vậy? Có gặp điều gì khó khăn dọc đường hay không mà vẻ mặt bà không được vui? Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó đều mạnh khỏe cả. Tôi về sớm là ý tôi muốn ông khỏi trông. Ông cứ đi một lần cho biết.Thấy vợ nói úp úp mở mở, ông phú hộ chẳng hiểu gì nên cuối cùng cũng sắm sửa hành lý ra đi. Ông ghé nhà người con gái thứ nhất. Chàng rể tiếp đón niềm nở làm ông hài lòng, nhưng con gái ông lại không được như thế, nó chỉ chuyện trò giả lả được đôi câu rồi quay vào công việc của nó. Đến khi chồng nó ra đồng trông coi thợ cày cấy, thì con gái ông lúi húi lo việc bếp núc, cha con chẳng có dịp chuyện trò. Măi đến gần trưa, ông cảm thấy bụng đói cồn cào, định bảo nó dọn cho mình ăn trước như khi còn ở nhà, nhưng rồi lại nghĩ thầm: “Để xem nó đối đăi với cha nó ra sao cho biết?!”. Ông thấy con gái chờ chồng về mới dọn cơm ra. Chàng rể của ông lúc ấy tuy đă về rồi mà vẫn còn bận một số công việc nên ông phải đợi tiếp. Đến khi thấy quá trưa, con gái ông mới gọi chồng: Mình ơi, hăy để đó vào ăn cơm đi, cho ông già ăn với! Nghe con gái nói thế, ông cảm thấy không được vui. Chiều hôm ấy và liên tiếp những ngày sau cũng vậy. Ông nghiệm ra rằng con gái ông chăm sóc cho chồng nó chứ không phải cho ông: “Thì ra bây giờ nó coi cha nó chẳng ra gì. Nếu chồng nó không ăn thì có lẽ ḿnh cũng phải ngồi nhịn đói” Ở chơi được ít ngày, thấy con gái không được vồn vă đằm thắm như xưa, ông liền từ giă vợ chồng nó mà đi đến nhà đứa khác xem sao. Lần này vừa đi ông vừa lẩm bẩm: “Chắc thế nào những đứa sau cũng phải khác chứ, chẳng lẽ đứa nào cũng như vậy cả sao? Vợ chồng ta trông cậy chúng nó rồi đây sẽ chia nhau về phụng dưỡng một khi bố mẹ tuổi già kia mà!” Nhưng khi đến nơi, ông thấy đứa thứ hai cũng chẳng khác đứa đầu. Nghe bố đến thăm cũng tiếp đăi gọi là cho có bổn phận rồi lại loay hoay vào công việc nhà chồng, bỏ mặc ông chẳng chút quan tâm. Lần lượt ông đi thăm đủ cả năm cô con gái yêu quý nhưng chẳng đứa nào là không say mê với công việc của nó, chẳng đứa nào quan tâm chăm sóc đến ông như lúc ở nhà. Sau cùng, ông chép miệng:- Vậy là con gái một khi bước về nhà chồng thì chẳng còn là con mình nữa. Nó xem chồng trọng hơn bố mẹ nó nhiều. Nghĩ vậy nên ông quày quả trở về. Ông tính lại thời gian thăm con cả đi lẫn về c̣n ngắn hơn cả bà. Khi về, ông gọi vợ lại bàn rằng:- Thế là mấy đứa con gái có cũng như không, chẳng hy vọng gì vào chúng nó đỡ đần mình tuổi già nữa rồi. Bây giờ bà để tôi đi kiếm một đứa con nuôi đặng mai sau nó săn sóc chúng mình lúc mắt mờ chân chậm. Bà nó nghĩ sao? Vợ phú hộ trả lời: Thôi ông ạ! Đừng có đi mà mất công lại nhọc xác. Con đẻ rứt ruột ra mà chúng không đoái không hoài thì con nuôi có làm được gì?. Phú ông liền bảo: Trên đời này có kẻ tốt người xấu, đâu phải ai cũng như ai, bà đừng ngại. - Được rồi, ông cứ đi đi, cố tìm một đứa con ngoan phụng dưỡng, mọi việc ở nhà mặc tôi lo liệu. Phú hộ bèn đóng vai một ông già nghèo khó rồi ra đi từ làng này đến làng khác, đến đâu ông cũng rao: ai mua cha không ? Có ai mua cha? ra mà mua! Mua ta về làm cha chỉ mất năm quan tiền thôi...Mọi người nghe ông già rao như vậy thì tưởng ông điên. Có người còn vui miệng nói :- Mua lăo ấy để về nhà mà hầu ư ? và để rồi đây lăo ta trăm tuổi qua đời có được đồng nào còn phải lo tống táng nữa sao ? Thà là nuôi một người đầy tớ còn hơn. Tuy có nghe nhiều lời mỉa mai cười cợt, phú ông vẫn không nản chí, vẫn đi hết xóm này đến ấp kia, miệng rao không ngót:- Có ai mua cha không này? Bấy giờ ở làng nọ có hai vợ chồng một nông phu nghèo, nghe có người đi bán ḿnh làm cha, chồng bảo vợ :- Hai vợ chồng ḿnh mồ côi từ thuở bé, chưa bao giờ được hưởng tình cha con, lại chưa có mụn con nào, thật là buồn. Thôi thì ta mua ông già này về thủ thỉ với nhau khuya sớm cho vui cửa vui nhà. Thấy vợ đồng tình, anh chàng chạy ra đón ông già vào và nói : ">- Ông định bán bao nhiêu tiền?- Năm quan không bớt. Anh chồng liền thưa: - Thú thật với ông, nhà tôi nghèo quá, muốn mua ông nhưng không sẵn tiền. Vậy ông ngồi chơi để tôi bảo nhà tôi đi vay xem.Phú hộ ngồi chờ hồi lâu, thấy chị vợ chạy đi một lát rồi lại quay về, nhưng số tiền vay được cùng với tiền nhà gom lại cũng chỉ có hai quan. Anh chồng liền nói:- Thôi thì ông thông cảm cho, hai ngày nữa mời ông trở lại, chúng tôi sẽ có đủ tiền. Hai ngày sau, vợ chồng anh nông phu trao tiền cho ông, mời ông vào nhà “cha cha, con con” rất thân t́hiết. Phú hộ thấy đầu tóc người vợ bây giờ biến đi đâu mất liền hỏi:- Này con ơi, tại sao đầu tóc của vợ con lại cắt cụt đi như vậy ? Anh chồng tần ngần đáp: Chẳng giấu gì cha, nhà con quá nghèo không đủ tiền mua, mà nếu không mua thì ít có dịp nào tốt hơn. Vì vậy, vợ con phải cắt tóc đi bán mới có đủ số tiền năm quan đó. Từ ngày có người cha nuôi, hai vợ chồng nông phu tỏ ra rất niềm nở và chịu khó chăm sóc hầu hạ ông không biết mệt. Phú ông vẫn không cho biết gốc tích quê quán thật của mình, hằng ngày vẫn cứ ăn no ngủ kỹ, đôi lúc lại kêu váng đầu mỏi lưng, bắt họ phải xoa bóp hoặc tìm thầy chạy thuốc.Mặc dầu vậy, hai vợ chồng vẫn cơm nước săn sóc không bê trễ. Cứ như vậy được vài tháng sau, nhà họ đă nghèo lại càng mạt thêm Hai vợ chồng phai cố gắng làm thêm để nuôi cha, có bữa phải nhịn đói để nhường cơm cho ông già. Tình cảnh như vậy kéo dài nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều mà trong nhà gạo tiền đă kiệt. Tuy vậy, họ vẫn không hề lộ vẻ mỏi mệt, cố làm vui lòng cha già. Một hôm, hai vợ chồng ngủ dậy đă thấy người cha nuôi khăn gói chỉnh tề, ông bảo họ:- Các con hăy đốt cái nhà này rồi đi theo ta! Vợ chồng anh nông phu trố mắt nhìn nhau, tưởng ông phát điên, nhưng sau đó lại thấy ông phú hộ giục bảo:- Làm con thì phải vâng theo cha mẹ, chớ có sai lời. Cha đă bảo các con đi theo cha kiếm ăn thì cứ việc đi, cái nhà này ọp ẹp chẳng đáng bao nhiêu đừng tiếc nữa. Vợ chồng nghe thế, biết ông nói thật, không dám căi, đành nhặt nhạnh một vài món đồ buộc thành một gói, rồi châm lửa đốt nhà. Đi theo ông già, họ thấy ông ban ngày lần hồi xin ăn, tối tối lại vào nhà người xin ngủ nhờ, họ vẫn vâng lời, không chút phân vân. Ba người đi xin ăn như thế được năm ngày, cuối cùng đến trước một ngôi nhà ngói tường vôi, ông mới vui vẻ bảo họ: - Các con ơi, đă đến nhà ta rồi! Bà phú hộ bước ra cổng đón vào, ông tươi cười bảo vợ:<- Bà nó này, đây mới thật là con của chúng ta đấy! Bấy giờ vợ chồng anh nông phu mới ngớ người ra, biết được cha mẹ nuôi ḿnh là một nhà giàu có. Phú hộ bảo anh nông phu lấy theo họ mình, và từ đó hai vợ chồng bước vào một cuộc đời sung sướng. Ít lâu sau, phú hộ lâm bệnh nặng. Biết mình sắp gần đất xa trời, ông bèn làm tờ di chúc để phần lớn gia tài cho đứa con nuôi, đoạn ông gọi vợ đến trối rằng:- Sau khi tôi chết, bà nhớ đừng cho năm đứa con gái biết tin đấy! Ông nói tiếp:- Nếu chúng nó có nghe ai mách mà về đây, chưa biết chừng tôi sẽ “bứt néo” trổi dậy cho mà coi. Việc để tang đứa con trai cứ theo cổ tục, cắt tóc, đội mũ, quấn rơm trên đầu để chứng tỏ mình chịu cực chịu khổ với cha mẹ thì thôi cũng được, nhưng đứa con dâu th́ì bà bảo nó khỏi cắt tóc,vì tôi chưa bao giờ quên được cái việc nó đă hy sinh mái tóc dài của nó để mua cha, vậy nó chỉ cần đội khăn tang là đủ. Nhưng khi khâm liệm cho chồng xong, bà phú hộ vì nặng lòng nên cũng cho người lén báo tin cho năm đứa con gái biết. Khi chúng về, bà đón ở cổng, thuật lại lời trối của cha chúng cho nghe và bảo chúng đừng có vào nhà, kẻo có sự chẳng lành. Năm đứa con gái hối hận lắm, nhưng việc đă rồi biết làm sao? Khi đưa linh cữu cha, chúng đòi đi đưa cho bằng được. Khuyên can con măi không xong, cuối cùng bà buộc ḷng phải xé cho chúng ngoài khăn tang ra còn thêm mỗi đứa một vuông vải cho chúng che mặt lại để mong linh hồn bố chúng khỏi biết. Từ đó, người ta bắt chước để tang theo cách gia đình này đă làm: “Con trai cắt tóc vành rơm, mũ mấn, dây lưng chuối như cổ tục, con dâu được miễn cắt tóc, chỉ đội khăn tang, lại miễn cả che mặt. Còn con gái ngoài khăn tang còn có một mảnh vải che mặt.”
  7. Cái may hay không may là hầu hết "thanh niên" hiện nay chả bao giờ muốn phục hồi cái ý tưởng Quái quại này vào dịp lễ Tết hay giao lưu văn hóa mà đơn sắc chỉ có số ít khư khư bám giữ như 1 sự mụ mị lâu dài nói theo Đức Phật đó là bức màn vô minh mang tính hủy hoại cả 1 dân tộc.
  8. Thời nay lô cốt đầy đường như rươi, kẹt xe như bọ lấy ngõ nào cho "Công bằng" nó có lối đi? đòi hỏi công bằng thì lại sửa Luật !!!?? !!!
  9. Giấc mơ đôi khi là điềm báo nhưng cũng đôi khi chỉ là sự ghi nhận của não bộ và lập lại trong mộng, trường hợp này gọi là "mộng mị". theo tôi thì chẳng thể có mối lương duyên nào tác hợp được khởi sanh từ những giấc mơ.
  10. Cách "HiỂU" của Bác Thiên Sứ đã mang tính hợp lý và khoa học, tôi khâm phục cách lý giải của Bác bởi khi đọc bài trên, tôi tôn trọng tính truyền thống của cổ tích nhưng chỉ cảm thấy sự hợp tình hợp cảnh chứ chưa hợp lẽ. Trân trọng cám ơn trí tuệ tuyệt vời của Bác!
  11. Phát minh mới của New Zealand, tiện ích, hiện đại : http://martinjetpack...eo-gallery.aspx
  12. Xác nhận có 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) của Nguyên Anh ủng hộ Quỹ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 3,800,000 đ + 200,000 đ = 4,000,000 đ (bốn triệu đồng).
  13. Đi chùa Hương nhớ Nguyễn Nhược Pháp Gần đất xa trời mới về chùa Hương Đâu còn xuân thì gì Mà guốc mộc cao cao, vấn đầu soi gương Mà có người làm cái đuôi. Hôm qua đi chùa Hương Hoa cỏ mờ hơi sương... Lần theo câu thơ Nguyễn Nhược Pháp Tôi tìm ngày cũ hương xưa Đâu tìm người thương, Mà tìm mùi hương ký ức Về trong suy tư thao thức... Chùa Hương, hương của ngày xưa Quyện trong nắng mới tôi ưa tịnh thiền.
  14. Chiếc bè Một người đang đi trên con đường xa dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi. Vùng nước dài rộng, nhưng không có thuyền để vượt qua, và cũng không có cầu bắc từ bờ này qua bờ bên kia. Anh ta suy nghĩ: “Ðây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn”. Nghĩ rồi, rồi anh ta bèn thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, anh ta suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn”. Và, tri ân chiếc bè như thế, không ngần ngại, anh ta đội chiếc bè trên đầu và tiếp tục cuộc hành trình của mình, mặc người đời xì xào, bàn tán! (Kinh Trung bộ, tập I, kinh Ví dụ con rắn - Alagaddùpama sutta. HT.Thích Minh Châu Việt dịch) ========================================================================Bàn thêm: Tri ân là điều đáng quý, nhưng tri ân theo kiểu anh chàng trong câu chuyện kể trên thì thật ngốc. Bởi, sở dụng của chiếc bè là đưa người qua sông, qua vùng nước để đến bờ bên kia - đáo bỉ ngạn. Bờ bên này là chỉ cho thân kiến, sự chấp chặt vào bản ngã, tham đắm các dục - các dục vui ít, khổ nhiều, đầy chướng ngại, hiểm nguy và kinh hãi. Bờ bên kia là Niết bàn, tịch tịnh an vui, đoạn trừ tham ái chấp thủ. Chiếc bè là pháp tu, là Bát chính đạo. Người tu tập rõ biết vô minh, tham ái, chấp thủ chính là đầu mối của khổ, là nguyên nhân của sinh tử luân hồi. Cần phải chân chính nhận rõ cái “tôi”, cái “của tôi” và “tự ngã của tôi”, diệt trừ tham ái, chấp thủ. Các pháp tu chính là phương tiện giúp chúng ta có được cái nhìn chân chính ấy. Nhưng khi chúng ta đạt được mục đích cũng chính là lúc chúng ta từ bỏ phương tiện, vì còn nắm giữ (dù là pháp hay phi pháp), cũng đều là trạng thái chấp thủ, bất an và kinh hãi như Đức Phật đã dạy. Trong nhà thiền phân biệt hai cách tu: một là dùng pháp, và hai là pháp dùng. Dùng pháp tức là nương vào các phương pháp tu tập (phương tiện) để tu trì, như tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật, ăn chay, giữ giới v.v… để đoạn trừ tham ái, chấp thủ, vô minh, thấu rõ được các pháp vốn là giả hợp, tự tại trước vô thường, trút sạch được cái “tôi”, đạt đến cứu cánh niết bàn. Cái tôi và cái của tôi được trút sạch, không còn bám giữ, tức “xả pháp”, thì cũng đâu còn bám vào phương tiện. Còn pháp dùng, tức cũng giống kẻ ngu đội chiếc bè trên đầu kia, bị phương tiện trói buộc, không thể đạt đến cứu cánh. Bởi tự thân các phương pháp tu tập không phải là mục đích, nó là “ngón tay chỉ trăng” chứ không phải “mặt trăng”. Người tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền… mà còn nghĩ mình làm thế để được làm Phật là người bị pháp dùng chứ không phải dùng pháp.Người dùng pháp phải hiểu rõ rằng đó chỉ là những phương tiện để chúng ta thấy rõ được bản tâm của mình. Một khi còn bị cái “tôi” sai sử trói buộc, tức chúng ta còn đầy dẫy những sự mê lầm, không thể có được cái nhìn chân chính. Chúng tôi xin mở ngoặc để đưa ra một ví dụ dễ hiểu. Như ở đời, người ta dùng tiền làm phương tiện trao đổi. Nỗ lực "chính mạng" làm ra tiền để phục vụ cho đời sống là dùng tiền. Còn khi vì bất chấp thủ đoạn, lường gạt, chèn ép để đạt được tiền bằng mọi cách, hay vì tiền mà làm bất kỳ điều gì là bị tiền dùng, bị sai sử bởi đồng tiền. Người như thế thật đáng thương! Chúng ta vẫn thuờng nghe: Được cá thì quên nơm, được ý thì quên lời, nên phải nương nơi lời mà đạt ý. Đạt ý mà vẫn còn chấp lời thì chưa thể gọi là liễu ngộ. Đức Phật vì muốn diễn bày thật nghĩa nên phải dùng vô số phương tiện; chúng ta phải nương theo phương tiện để ngộ lẽ chân thật chứ không phải khư khư ôm lấy phương tiện và mắc kẹt vào đó. Những người chỉ biết đem phương tiện (pháp) ra để hý luận, tranh cãi mà không biết nương vào đó để tu tập thì không những không đạt được chút ích lợi nào, mà ngược lại còn bị vướng vào muộn phiền, khổ não. Do đó, Phật dạy: Pháp còn phải bỏ huống hồ phi pháp!
  15. Danh sách ACE đóng góp Phúng Viếng: 1- Nick Chau : 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) 2- " AChau : 300,000 đ (Ba trăm ngàn đồng) 3- " Công Minh: 300,000 đ (Ba trăm ngàn đồng) 4- Phật Tử Ái Hòa : 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) 5- Phật tử Quảng Thọ : 300,000 đ (Ba trăm ngàn đồng) 6- Thiên Đồng : 100,000 đ (một trăm ngàn đồng) 7- Wildlavender : 200,000 đ (hai trăm ngàn đồng) 8- Thiên Sứ : 100,000 đ (một trăm ngàn đồng) 9- Vu Song Anh : 140,000 đ ( một trăm bốn mươi ngàn đồng) Đại Đức Thích Trí Anh đã chuyển lời cảm niệm đến toàn thể ACE có tên trên danh sách này, riêng Wild lần nữa cảm ơn Vu Song Anh đã thay mặt đồng thời làm tốt vai trò VP Đại Diện Trung tâm Tại Đà Nẵng.
  16. Xác nhận có 1,000,000 đ (một triệu đồng) của Chị Thủy (Khách của Sp) ủng hộ Từ Thiện. Quỹ hiện có : 2,800,000 đ + 1,000,000 đ = 3,800,000 đ (Ba triệu tám trăm ngàn đồng)
  17. DƯA LEO Tài liệu về quả dưa leo này đã được đăng tải trên tờ The New York Times vài tuần trước đây, một tờ báo thường giới thiệu những phương pháp khá sáng tạo và lạ lùng, để giải quyết những vấn đề thông thường. Sau đây là những khám phá thú vị về quả Dưa leo : 1/ Dưa leo chứa rất nhiều loại sinh tố mà chúng ta cần mỗi ngày như Vit. B1, B2, B3, B5, B6, Calcium, Iron, Magnesium, Phosphorus, Potassium, and Zinc. 2/ Khi cảm thấy mệt mỏi vào buổi trưa, quí vị hãy để qua một bên các loại thức uống có cà phê, và hãy chọn lấy một quả dưa leo. Dưa leo có các loại Vitamin B, và Carbohydrates, có khả năng làm quí vị hưng phấn trở lại được vài giờ đồng hồ. 3/ Khi chiếc gương trong phòng tắm bị mờ đi vì hơi nước, quí vị hãy dùng một lát dưa leo, thoa dọc theo gương, chỉ trong chốc lát,gương sẽ trong lại và tỏa ra một mùi thơm tựa như quí vị đang ở trong phòng tắm hơi. 4/ Khi loài ấu trùng và ốc sên đang hủy hoại những luống cây ngoài vườn nhà, quí vị hãy đặt vài lát dưa leo vào trong một lon đồ hộp nhỏ, vư Lý do là vì những hóa chất trong dưa leo phản ứng với chất nhôm của lon đồ hộp, sẽ tỏa ra một mùi hương mà con người không thể cảm nhận được, nhưng lại khiến cho các loài côn trùng khiếp sợ và bỏ chạy khỏi vườn. 5/ Quí vị đang muốn tìm một cách nhanh chóng và dễ dàng nhất để loại trừ những tế bào mỡ trên da (cellulite) trước khi vào hay bước ra khỏi hồ tắm ? Hãy thoa một hay hai lát dưa leo trên những vùng da quí vị muốn. Các hóa chất thực vật sẽ khiến cho lớp collagen trên da trở nên săn chắc và do đó, khiến cho cellulite trên da khó nhìn thấy. Cách này cũng tác dụng rất tốt trên các nếp nhăn nữa. 6/ Quí vị muốn tránh cảm giác choáng váng hay nhức đầu dữ dội sau khi uống rượu chăng ? Hãy ăn vài lát dưa leo trước khi đi ngủ. Khi thức dậy, quí vị sẽ thấy tỉnh táo và hết nhức đầu. Dưa leo chứa một lượng đường vừa đủ, các loại vitamin B, và các chất điện giải để tái bổ sung những tinh chất sinh tố cần thiết mà cơ thể đã bị mất đi, hầu tái lập sự cân bằng, xua tan cảm giác choáng váng hay nhức đầu. 7/ Quí vị muốn tránh một bữa ăn trưa, hay ăn tối thịnh soạn chăng ? Dưa leo đã được dùng hàng thế kỷ nay, ngay cả bởi những người giăng bẫy thú rừng, các nhà buôn, các nhà khai phá Âu châu khi muốn có một bữa ăn nhanh, họ đã ăn dưa leo để không còn cảm giác đói bụng nữa. 8/ Quí vị sắp có một cuộc họp quan trọng, hay một cuộc phỏng vấn tìm việc làm, nhưng lại không đủ thời gian để đánh bóng đôi giầy của mình. Hãy thoa một lát dưa leo tươi lên giầy, hóa chất của dưa leo sẽ khiến giầy bóng lên, tuy không thật hoàn hảo nhưng cũng có tác dụng chống thấm nước. 9/ Trong nhà quí vị không có loại dầu chống rỉ sét WD 40, nhưng lại đang cần loại trừ tiếng kẽo kẹt từ bản lề của cửa ra vào. Hãy dùng một lát dưa leo chùi chung quanh bản lề đó, cửa sẽ không còn tiếng kẽo kẹt nữa. 10/ Quá căng thẳng nhưng lại không có thời gian để massage hay ghé vào spa, quí vị hãy cắt hết một quả dưa leo, cho vào một bình nước sôi, rồi hé mở nắp đậy, để cho hơi nóng thoát ra ngoài. Các hóa chất và dưỡng chất từ dưa leo sẽ tác dụng với nước sôi và tỏa ra một làn hương làm dịu đi sự căng thẳng, và tạo ra một cảm giác rất thoải mái 11/ Quí vị vừa xong một bữa ăn trưa với các đồng nghiệp, và chợt nhớ mình không có chewing gum hay kẹo the. Hãy cắt một lát dưa leo, rồi đặt sát vòm miệng trên chỉ độ 30 giây thôi, hơi thở sẽ thơm tho như ý muốn, vì các hóa chất thực vật của dưa leo sẽ tiêu diệt các loại vi trùng, vốn là nguyên nhân gây nên bệnh hôi miệng. 12/ Quí vị muốn lau chùi muỗng nỉa, sinks, hay các đồ dùng kim loại không rỉ sét ? Hãy dùng một lát dưa leo lau chùi các vật dụng trên, không chỉ làm mất đi những vết lu mờ lâu năm và làm sáng bóng trở lại, mà còn không để lại các vết sọc, và cũng không làm hư hại ngón tay cũng như móng tay của quí vị vì việc lau chùi nữa. 13/ Quí vị đang viết bút mực và bị lỗi khi viết. Hãy lấy lớp vỏ dưa leo, và nhẹ nhàng tẩy vết mực muốn tẩy. Cũng rất công hiệu khi tẩy vết bút chì, và những vết mực mầu trang trí mà các trẻ em vẽ lung tung trên tường. Đây là những phương cách hiệu quả và an toàn, giải quyết được những vấn đề hàng ngày. Qúi vị hãy áp dụng và giới thiệu cho những người quen biết của mình nhé. Thụy Trinh sưu tầm.
  18. Giáo sư thiên văn gốc Việt nói về 'ngày tận thế' Giao lưu với sinh viên Đại học FPT (tại Hà Nội) tối 8-12, Giáo sư gốc Việt nổi tiếng thế giới về lĩnh vực thiên văn Trịnh Xuân Thuận, chia sẻ quan điểm về ngày tận thế, cũng như cung cấp nhiều thông tin bổ ích về khoa học vũ trụ. 2012 - năm tận thế: “Tôi không tin!” Trong buổi giao lưu, nhiều bạn trẻ hỏi vị Giáo sư Thuận chủ đề ngày tận thế. Trước câu hỏi “Các nhà tiên tri nói 2012 là năm tận thế, ông có tin không?” Giáo sư Thuận nói: “Tôi không tin vào tin đồn này. Tôi cho rằng, đó là tín ngưỡng chứ không phải khoa học. Tôi từng nghe câu chuyện ở thời điểm nào đó các hành tinh sẽ nằm trùng trên đường thẳng, nhưng ít nhiều con người có thể tính toán được ảnh hưởng của nó tới trái đất. Nhiều người nói năm 2000 là năm tận thế, nhưng điều này không xảy ra và chúng ta vẫn đang ngồi đây”. Có bạn trẻ dẫn ý kiến của nhiều nhà khoa học về vũ trụ giãn nở, dần dần các ngôi sao chết hết, hình thành lỗ đen. Khi đó, vũ trụ sẽ lạnh hơn, chỉ còn bóng tối bao phủ... Giáo sư Thuận khẳng định: Ngày tận thế của Trái đất nói riêng và vũ trụ nói chung là câu chuyện quá xa xôi. Tương lai của vũ trụ phụ thuộc vào vật chất và năng lượng trong vũ trụ. Về sự tồn tại của Trái đất liên quan tới những thiên thạch, Giáo sư Thuận nêu quan điểm: Trên cơ sở những bức ảnh nghiên cứu về sự thay đổi của bầu trời, tính toán về quỹ đạo của những thiên thạch có ảnh hưởng tới Trái đất, mọi người yên tâm, trong tương lai gần không có thiên thạch nào sẽ đổ vào hay gây nguy hiểm cho Trái đất. Nếu giả sử có đi chăng nữa với kiến thức khoa học hiện đại con người cũng sẽ có những biện pháp làm nổ thiên thạch hoặc di chuyển đường đi để thiên thạch không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Điều đáng quan tâm hiện nay chính là sự biến đổi khí hậu do chính con người gây ra. Trái đất đang nóng lên, băng tan ra là câu chuyện đáng quan tâm trong 50 năm nữa. “Đây mới là điều cần thiết phải quan tâm hơn là cái chết của vũ trụ trong hàng tỷ tỷ năm nữa” – Giáo sư nhấn mạnh. Tin vào kiếp luân hồi Trong buổi giao lưu, GS Thuận còn chia sẻ về thông tin ông cũng là một phật tử. Giữa Phật giáo và khoa học có những mối liên hệ tương đồng. “Giáo lý cơ bản của Phật giáo là vô thường, trùng khoa học” – Giáo sư Thuận cho hay. Ông giải thích, vô thường trong Phật giáo nghĩa là mọi thứ đều thay đổi, vận động. Đó cũng là đề tài của khoa học thế kỷ 20. Trước kia, người ta tưởng vũ trụ là bất biến, theo quan điểm của Aristotle. Nhưng sau này, khoa học đã chứng minh, vũ trụ thay đổi. Và trong vũ trụ, mọi vật đều thay đổi. Mỗi một thứ đều được sinh ra, sống cuộc đời của nó rồi chết đi. Thứ hai, Đức Phật cũng nói rằng, mọi sự vật trên thế gian đều hiện hữu dưới hình thức các mối quan hệ. Giáo sư Thuận cho biết, ông tin vào kiếp luân hồi. Bởi luân hồi là sự biểu hiện của những mối liên hệ với nhau. Đó là mối liên hệ giữa loài người với loài người, với các sự sống trên Trái đất. Luân hồi không phải là vật chất. Còn khoa học chỉ giải thích vật chất; tâm linh không tồn tại trong khoa học. Khoa học có thể dự đoán được, nhưng khoa học là không đủ, con người chúng ta phải biết sống minh triết, sống có tâm linh thì mới giữ gìn được chính vũ trụ của chúng ta…” - Giáo sư Trịnh Xuân Thuận nói. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận (sinh năm 1948) là nhà khoa học người Mỹ gốc Việt trong lĩnh vực vật lý thiên văn, là nhà văn viết nhiều sách có giá trị cao về vũ trụ học và về những suy nghĩ của ông trong tương quan giữa khoa học và Phật giáo. Ông còn là nhà thơ, một triết gia, một Phật tử và một nhà hoạt động cho môi trường và hòa bình.Ông đã nhận nhiều giải thưởng trong lĩnh vực thiên văn và trong lĩnh vực văn hóa xã hội: Giải Moron 2007 của Hàn lâm viện Pháp; Giải Kalinga 2009 của UNESCO về các đóng góp trong việc đại chúng hóa khoa học. Mai Xuân Tùng ( Tiền Phong)
  19. Bác Phúc Anh đã ngưng sinh hoạt diễn đàn lâu lắm rồi! Bạn ới chỗ khác đi nhe!
  20. Cô đã gởi đến Tuấn Diệp và Đai Bang hôm nay ngày 9/12/2011.
  21. Happy Birthday 2011 Sói Con hết mùa dzễ thương! Thành đạt. Hạnh Phúc. May Mắn!
  22. Bệnh viện quá tải: Đau đớn riêng của bà Bộ trưởng? Thôi thì lúc này, mỗi người dân phải tự đào tạo mình thành lương y, thành nhà giáo dục để chữa bệnh cho gia đình mình, dạy con cháu mình sống lương thiện tử tế. Bởi thời nào cũng vậy, mọi an toàn về thân thế, tài sản có lẽ nào không liên quan gì đến lòng trong sạch và lương tâm nơi mỗi con người. Ngày 28/11, sau khi thị sát ba bệnh viện lớn tại TP.Hồ Chí Minh (gồm Bệnh viện Ung Bướu, Nhi Đồng 1 và Chấn thương Chỉnh hình), Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã phải than rằng:"Nhìn thấy bệnh nhân nằm trên, nằm dưới, nằm hành lang, một giường dồn 2-3 người, tôi cảm thấy đau đớn". "Tự cầm dao...đâm bụng mình"? Rất nhanh chóng, "đau đớn" ấy của bà Bộ trưởng làm cho dư luận xã hội xôn xao. Nhiều ý kiến cho rằng phải đẩy mạnh xã hội hoá y tế, xây thêm nhiều bệnh viện, đầu tư vật chất kỹ thuật cho các bệnh viện tuyến dưới... Theo tin từ Bộ Y tế, Việt Nam nằm trong danh sách 33 quốc gia có tỷ lệ giường bệnh thấp nhất trên thế giới, 1 giường bệnh/1.000 dân. Định lượng là như thế, còn định tính thì thế nào? Chẳng hạn ít giường bệnh/ số dân, nhưng ít người bệnh, ít người nằm bệnh viện, ít bệnh viện quá tải, thì đó có là điều đáng mừng không? Hơn nữa, xã hội hoá y tế thế nào, khi mở thêm nhiều bệnh viện, phòng khám đa khoa... nhưng cũng vẫn quanh quẩn với các vị giáo sư, bác sĩ trong các bệnh viện công tới khám, chữa (theo lịch "chạy sô")? Niềm tin nào để dân đến với bệnh viện tư, bệnh viện tuyến dưới? Có phải do thiếu đất để xây bệnh viện, thiếu bác sĩ... hay còn thiếu điều gì khác? Câu chuyện bỗng được mở rộng ra khi người ta so sánh giữa việc các sân golf mọc lên như nấm và tình trạng quá tải của các bệnh viện (hầu hết ở tuyến trên). So sánh này có vẻ như khập khiễng, vì xây bệnh viện thì chẳng cần đến đất ruộng như xây sân golf. Tuy nhiên, so sánh ấy có phần chạm đến các giá trị nhân văn, công bằng trong đời sống ứng xử. Trong một bài báo, KTS Trần Huy Ánh nói: "Chúng ta không nên học đòi phát triển sân golf bởi nó không đem lại một nền tảng gì về văn hóa, xã hội cũng như về mặt tình cảm giữa con người với nhau. Trong một đất nước còn nghèo, chúng ta không có lý do gì để dành những hec ta đất màu mỡ, đang trồng lúa, đang nuôi bao nhiêu người nghèo để làm sân golf". Quả đúng như vậy, thực tế như quốc gia Philippine đã phải trả giá vì sân golf. Có không ít người ví rằng, một đất nước từng có tham vọng sản xuất lúa gạo lớn như Philippine không hiểu sao lại "tự cầm dao đâm vào bụng mình" khi phá ruộng để xây sân golf. Nếu gặp khủng hoảng lương thực, điều đó gần như là "tự sát tập thể". Do tầm nhìn chiến lược giới hạn, Việt Nam đang phải bán dần tài nguyên thiên nhiên hữu hạn của mình đã đành. Nhưng chẳng lẽ cũng đang cố gắng bán nốt công sức của người nông dân nghìn đời (mới tạo nên nổi một lớp đất canh tác màu mỡ) để mua về một vài hình ảnh của cái gọi là "công nghiệp", "giàu có", "đẳng cấp" ư? Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến (thứ tư từ phải qua) trong buổi thị sát hoạt động khám chữa bệnh tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 - TPHCM ngày 28-11. Ảnh: NLĐ "Căn bệnh nan y" to đùng: Quy hoạch Đói, bệnh, thất học, mất an toàn về thân thể là những hình ảnh chân thực nhất của nghèo đói, kém văn minh. Không cải thiện được những hình ảnh này, thì càng mọc thêm nhiều sân golf (phục vụ cho một thiểu số giàu có) càng phản cảm, càng làm giảm đi giá trị của công bằng trong xã hội. Mới đây, khi tiếp xúc cử tri ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, bệnh viện thiếu mà sân golf nhiều, nhà trẻ thiếu mà khu công nghiệp để đất trống, rồi chuyện sân bay, cảng biển... thì đó là vấn đề ở quy hoạch. Phát biểu của ông Tổng Bí thư đã bắt giùm cái bệnh "đau đớn" cho bà Bộ trưởng. Có nghĩa rằng, không chỉ bà Bộ trưởng Y tế (và ngành y tế) mà các ngành khác cùng đang bị bệnh, đang rất cần chữa trị kịp thời. Bởi mới từ chuyện ba người bệnh nằm chung một giường mà đã chạm đến một căn bệnh nan y to đùng đó là QUY HOẠCH. Ngoài cái bệnh "tư duy nhiệm kỳ", bệnh "lợi ích nhóm" ra, còn có cái bệnh thiếu tầm nhìn "quy hoạch". Những bệnh này đã được nói, bàn rất nhiều và từ rất lâu, sao không thấy ai lên tiếng nhận trách nhiệm? Vậy thì phải tìm cho ra ai là người làm "quy hoạch"? Viện Chiến lược Phát triển trực thuộc Bộ Kế hoạch- Đầu tư? Hay những ai ai có trách nhiệm chuyện này, sao không thấy lên tiếng? Lắng nghe lời than cũng không kém phần đau đớn của bà Bộ trưởng: "Cả xã hội bức xúc về tình trạng quá tải bệnh viện nhưng cuộc sống phải cân bằng giữa cho và nhận. Có cho (ngành y tế) cái gì đâu mà đòi nhận nhiều. Không đầu tư, xây dựng bệnh viện mà dịch vụ đòi tốt thì vô lý, bất công vô cùng" (Theo Thanh Niên). Với quan niệm về "cho" và "nhận" ấy, phải chăng bà Bộ trưởng đã bắt ra cái bệnh "lót tay", cái bệnh "y đức"? Đúng là cuộc sống phải tự cân bằng giữa "cho" và "nhận", giữa "cung" và "cầu"... Nhưng ngành y tế dù có "nhận" ít thì cũng nên phục vụ người dân cho tốt chứ. Nếu chưa có đủ tinh thần vì nhân dân phục vụ ấy thì xây thêm bệnh viện liệu có ổn không? Bởi ngành y tế là người "nhận", nhưng đồng thời cũng là người "cho". Thiết nghĩ, "cho" người khác một cách đàng hoàng thì sẽ "nhận" về những điều tương xứng. Nhưng người ta thông cảm với câu nói này của bà Bộ trưởng. Vì câu nói của bà không chỉ bắt đúng bệnh của ngành y tế, mà còn bắt bệnh đúng bệnh cho ngành giáo dục. Rằng chúng ta được giáo dục thế nào để vì không được "nhận" nên đừng mong tôi "cho" (tốt)... Buồn ơi... ít tiền ơi... không lót tay ơi... chào nhé! Ngành nào cũng lao vào ...chữa? Thực tế, những bệnh viện tuyến trên đang quá tải. Muốn chữa bệnh quá tải là phải xây thêm bệnh viện, phải nâng tỷ lệ phần trăm bác sĩ, giường bệnh lên... Nhưng có làm nhiều đi nữa cũng chỉ là chữa bệnh cấp thời, bở hơi tai trong rượt đuổi với bệnh tật. Ngành cứu hỏa có câu: "Phòng cháy hơn chữa cháy". Ngành Y tế cũng có câu: "Phòng bệnh hơn chữa bệnh"... Đều là triết lý cả! Vậy tai sao chúng ta lại đi chọn giải pháp kém là "chữa"? Đây không chỉ là lỗi "quy hoạch" mà còn là lỗi "hệ thống" (từ dùng của nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An). Vì gần như ngành nào cũng phải lao đầu vào việc "chữa", "chạy chữa" cả. Nhưng nếu có phải "chữa", thì cũng nên chữa cái gốc bệnh trước, thay vì cứ nhằm cái ngọn mà chữa. Thực tế, một đất nước mà bệnh nhân quá tải, bệnh viện liên tục phải xây thêm mà vẫn không đủ cung ứng thì đó là một đất nước bệnh tật. Chất lượng công dân, chất lượng giống nòi thuộc dạng "có vấn đề", nếu không muốn nói là tiềm ẩn những nguy cơ "nan y". Như thế thật chẳng vui vẻ, hạnh phúc gì. Trong ba bệnh viện mà bà Bộ trưởng khảo sát, chúng ta có thể nhìn ra những bệnh quá tải sau: Các loại bệnh ung thư (Bệnh viện Ung Bướu). Các loại bệnh do tai nạn giao thông, tai nạn lao động... (Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình). Các loại bệnh sơ sinh, nhiễm trùng, hô hấp, tiêu hoá, truyền nhiễm (Bệnh viện Nhi Đồng). Rõ ràng các loại bệnh này không phải do Bộ Y tế đẻ ra. Vậy nó đến từ đâu? Vì sao tỷ lệ các bệnh ung thư, tim mạch, béo phì, tiểu đường, bệnh nhi.... đều gia tăng? Vì sao người dân khi lao động, khi tham gia giao thông... ngày càng mất an toàn về thân thể, tính mạng? Cần chữa cái gốc của bệnh Cần phải nhìn sự "quá tải" của các loại bệnh này trong tổng thể TƯƠNG QUAN. Thiết nghĩ, để chữa các căn bệnh này, cần phải quay về với giáo dục, với tầm nhìn của khoa học xã hội và nhân văn, và cả tôn giáo nữa. Cần nghiên cứu một lối sống tích cực, thân thiện với môi trường, nâng cao khả năng tự chăm chóc sức khoẻ, phát huy mạnh mẽ các giá trị nhân văn, tử tế, yêu thương trong cộng đồng. Đó mới là chữa cái gốc của bệnh. Một đất nước không biết yêu động vật, rừng núi sông suối, đến nỗi không kể to nhỏ, con vật gì, tài nguyên gì hở ra cũng bị xẻ thịt, vậy thì làm gì có tương quan giữa con người và môi trường sống. Cảnh quá tải thường thấy ở các bệnh viện Giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu. Vậy "ông" giáo dục đã dạy người ta thế nào để nên nỗi khi họ thành tài, có tiền, có quyền, không ít người lại làm những chuyện như vậy với chính người dân của mình, đất nước mình? Chúng ta giáo dục ra những công dân như thế nào để "sáng tạo" thì ít, "copy" thì nhiều, để đụng vào đâu cũng thấy hoạnh họe, làm gian, làm giả, bòn rút, lọc lừa, gây ô nhiễm, thải các chất độc hại ra môi trường? Vì đâu sự tử tế của con người chúng ta với nhau càng ngày càng vơi dần đi, khi thực phẩm ăn uống hàng ngày, đụng vào đâu cũng thấy phun, tẩm hoá chất độc hại? Người dân không mất an toàn về thân thể, tài sản sao được khi tham nhũng và tai nạn giao thông trở thành quốc nạn nhức nhối? Vì sao xây sân golf, xây khu công nghiệp lại không thể chọn những chỗ thích hợp khác mà cứ nhắm vào đất ruộng, đất rừng màu mỡ mà "quy hoạch" một cách ít nhân văn đến thế? Vậy bệnh viện quá tải chỉ đơn giản là do ít bệnh viện, ít giường bệnh thôi ư? Bệnh viện quá tải còn do người dân bị vô số những cái "bất lương" kia làm cho mắc bệnh ngày càng nặng nữa chứ. Một hộ có người mắc bệnh nặng thì chất lượng sống sẽ bị kéo xuống thấp và nhanh chóng tái nghèo. Nhìn vào sự tương quan rộng lớn, làm sao bà Bộ trưởng Bộ Y tế phải khiến những ông bộ trưởng khác cũng phải hiểu cái "bệnh" ấy để họ đau chung cùng với ngành y. Với vấn đề này, chắc chắn người dân mong, không chỉ ông Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Bộ Giáo dục, Bộ Giao thông Vận tải... mà ông "Bộ" chống tham nhũng, lạm quyền cũng nên chia sẻ nỗi đau bệnh tật này với ngành y tế. Nếu không thì mọi sự vận hành vẫn sẽ tiếp tục "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" dài dài. Vấn đề sức khoẻ, tính mạng liên quan trực tiếp đến lương tâm, sự tử tế, lòng tích thiện, tích phúc của con người với nhau. Nhưng thấy giữa Quốc hội, một số vị đại biểu trả lời chất vấn xong, khuôn mặt cứ như... thoát nạn. Có vẻ như cái "nhóm" của ông, không còn liên quan gì đến "nhóm" khác... Thôi thì lúc này, mỗi người dân phải tự đào tạo mình thành lương y, thành nhà giáo dục để chữa bệnh cho gia đình mình, dạy con cháu mình sống lương thiện tử tế. Bởi thời nào cũng vậy, mọi an toàn về thân thế, tài sản có lẽ nào không liên quan gì đến lòng trong sạch và lương tâm nơi mỗi con người. Tác giả: NAM QUỐC Bài đã được xuất bản.: 07/12/2011 05:00 GMT+7 tuanvietnamnet ===================================================================== Bà Bộ Trưởng này phát biểu cứ như người cung trăng xuống chơi trần gian nhỉ? Hay bây giờ đứng đầu ngành mới được cảm thán cho dân tình, Cảnh tình này người nhà quê chưa lên tp bao giờ cũng rõ như nắng cháy da mưa mát mặt ????
  23. Bạn ở gần Vp Trung tâm có thể đến nhận tại chỗ, gặp anh Thiên Đồng thường trực tại TT.
  24. CHUYỆN TRONG ĐỜI Thưa Thầy, cho phép tôi được hỏi:Tôi đang đi tìm Phật,nhưng không biết Phật có ở trong chùa chăng?- ---- Không. - Phật có trong chợ chăng?- Không. - Phật có trong nhà chăng?- Không. - Phật có trong kinh điển chăng?- Không. - Phật có trong tâm chăng?- Không. - Phật có trong hang động, sông biển, non núi chăng?- Không. - Vậy Phật ở đâu?- Phật ở ngay trước mắt, trước mặt ông đó. - Sao tôi không thấy? À, chắc là Thầy ngụ ý: Thầy là Phật chứ gì? Sao Thầy cống cao ngã mạn quá vậy hử?Chán quá! Đời nay khó kiếm vị chân tu! Thôi! Tôi phải về nhà lạy Phật trên bàn thờ nhà tôi thôi! - Sở dĩ ông không thấy, bởi ông thường dùng cặp mắt trần đời,cặp mắt bằng thịt (nhục nhãn). Muốn “thấy” Phật, ông phải dùng con mắt thứ ba.- Thế nào là con mắt thứ ba? - Khi nào tâm con người bình thường,không nổi cơn tham, không nổi cơn sân, không nổi cơn si, ý nghĩ, hành động, lời nói đầy đủ từ bi & trí tuệ không kẹt bên trái, không kẹt bên phải,lúc đó con người sẽ thấy PHẬT HIỆN TIỀN. - Con đã ngộ rồi. Con đã hiểu rồi. Kính đảnh lễ Thầy đã từ bi khai thị cho con mở được con mắt trí tuệ. Thành tâm sám hối đã xúc phạm đến bậc chân tu Ngay trước mắt mà con không nhận ra. SUY NGẪM: Từ dung (gương mặt từ bi) củacác tôn tượng Phật và Bồ Tát,đều có viên kim cương ở giửa cặp mắt thiền định. Đó chính là tượng trưng cho con mắt thứ ba - con mắt trí tuệ (tuệ nhãn) Nghĩa là: người tu theo Phật không cần phải đi chùa, không cần phải tụng kinh gỏ mõ cho chuyên nghiệp,(để khỏi phô trương, hay chỉ đi cúng đám kiếm tiền) không cần phải thần tượng cá nhân một vị Thầy nào,(để khỏi u mê) chỉ cần phát triển: TÂM TỪ BI & ÁNH SÁNG TRÍ TUỆ
  25. Quặt quẹo kiếm sống còn chưa có năng lượng để hồi phục sức khỏe lấy sức đâu mà ra đánh golf đây Bác ? phát triển cho mấy Star Hollywood qua hưởng thụ đó Bác !