wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Cô đã gởi đến tất cả các bạn sáng nay.
  2. Chính xác là Tuổi người đang bị hạn, chứ không phải tuổi của người đi làm từ thiện đâu CCB ơi! Thứ nữa là vật phẩm từ thiện mang tính chay tịnh chứ không nhất thiết là 50 kg muối thì đúng như CCB băn khoăn! Ví như họ vừa gặp hạn vừa nghèo nữa thì sao? Chẳng cần 50 thùng mì mà là 50 gói mì v.v.....50 gói bột nêm loại nhỏ kèm trong gói mì ví dụ vậy....hiểu ý Cô chứ?
  3. Đây có phép tắc nào gọi họ là những người tri thức không? Ứng xử của họ thật cao cả giữa những khó khăn đời thường!!! http://nld.com.vn/20120128091329457p0c1002/chuyen-chua-ke-ve-2-nguoi-trung-so-doc-dac.htm
  4. Văn minh nhân loại toàn cầu thường hay vinh danh những con người hay người con trí thức nhưng họ quên rằng ngay cả người nông dân làm ra hạt lúa cũng có tri thức chuyên môn trong canh tác tri thức công bằng xã hội "Chồng cày, vợ cấy, con trâu ra đồng" tri thức ứng xử quy tắc "Hiếu ,Lễ,Nghĩa" làm đầu. Tôi lo sợ cho cái trí thức "công danh quên bạn, Bố Mẹ già bất kính, phụ nghĩa tào khang" họ lại có cả sàng kiến thức để bao biện an toàn cho cái bất nghĩa vô nghì của mình đối với cội nguồn văn hóa dân tộc hay mùi hương của đất tổ quê cha. Và tôi cũng cảm thán cho những cái nhìn xa trông rộng và vì thế họ thường què quặt thương tổn bởi lỗ chân trâu ngay cửa nhà mình. Một chút cảm nhận của riêng tôi, người chưa từng được đứng trong hàng ngũ "trí thức".
  5. Có thể thứ hai ngày 30/1/2011 Cô sẽ thực hiện gởi lại cho quangnh 5 bản chú với dạng CPN, tất cả các bạn đính kèm số đt bao giờ cũng đảm bảo cho việc nhận thư.
  6. Cám ơn Bạn đã nhớ đến quẻ luận ngày trước! Tuy nhiên bạn muốn thỉnh nhận bao nhiêu Thần Chú Wild không rõ số lượng? Khởi tâm ấn tống rất tốt nhưng nên xem lại các bài viết trước Wild đã giãi trình việc này nhiều lần khi nhiều người có cùng mong muốn như bạn.
  7. Sống thiện chết lành.. (Good life, Good death) Rinpoche Nawang Gehlek Chúng ta là ai ? Lần đầu tiên tới Hoa kỳ tôi do dự khi nói về sự tái sinh bởi vì tôi nghĩ mọi người không thích thú gì về điều ấy hoặc có thể chưa thể hiểu đựơc điều ấy. Tôi e ngại họ nghĩ rằng đó là các câu chuyện thần tiên hoặc là một loại tẩy não tôn giáo. Nhưng khi tôi nói điều này, tôi ngạc nhiên thấy nhiều người gật đầu tán đồng, như thể họ chấp nhận và thích thú với điều ấy. Tại sao họ chấp nhận nó một cách dễ dàng như thế trong khi một người như tôi, một lạtma tái sinh đã từng bỏ cả một đời cố gắng tìm hiểu điều ấy, mà có lúc rất khó khăn để chấp nhận nó? Tại sao một số người Hoa kỳ ngồi xuống để lắng nghe một người lạ từ Tây tạng thuyết giảng về sự tái sinh lại tìm thấy điều ấy đơn giản và dễ dàng chấp nhận? Đó là một câu hỏi lớn đối với tôi. Tôi suy ngẫm về điều này và trao đổi với một số người. Tôi được biết họ thích thú điều này bởi vì đó là một cái gì “bí hiểm“. Có thể họ nghĩ rằng qua sự tái sinh họ có thể trở lại nhân thế trong cùng con người cũ với đầy đủ sự hiểu biết cuả kiếp trứơc. Tôi ngờ rằng đó là lý do nhiều người chấp nhận nó mà chẳng hề biết nó là cái gì. Một hệ lụy cuả ý tưởng ấy là sự tiếp tục tồn tại cuả kiếp người làm cho người ta dễ dàng chấp nhận nó, ít nhất là trên ngôn từ, nếu chưa có sự thông hiểu. Vậy mấu chốt là gì? Như tôi am hiểu, có một bất ngờ lớn. Bất ngờ là sự tồn tục cuả một cá nhân rất tinh tế. Ký ức thì không. Đời sống con người không tồn tục như thế. Sự tái sinh cuả chúng ta có thể là một cơn lốc xoáy cuồng điên không thể kiểm soát đựơc mà trong đó chúng ta bị thổi tung lên giống như những chiếc lá vàng mùa thu không biết sẽ rơi vào nơi đâu. Một trong những đại đệ tử cuả Đức Phật là ngài Mahakatyayana, khi đi ngang qua một khu rừng với một đám đệ tử. Khi ho tới một cái hồ, một người đàn ông, một ngừơi đàn bà, và đứa con nhỏ cuả họ đang ăn một con cá vừa bắt đựơc. Trong lúc con chó cuả họ cũng đang sủa đòi ăn. Khi thấy cảnh này, Mahakatyayana dừng lại và bật cười. Mọi người muốn biết lý do. Ngài giải thích: “ Kiếp trứơc, đứa trẻ nhỏ mà bà mẹ đang ẵm cho bú là người đàn ông bị chồng cuả bà ta giết hại vì đã tấn công bà ta. Con cá họ đang ăn chính là ông cuả đứa bé và con chó đòi ăn chính là bà cuả vợ ông ta “. Sự tương tục Chúng thắc mắc chúng ta là ai, từ đâu đến, sẽ đi vè đâu, và đến đó bằng cách nào. Đây không phải là những câu hỏi mới. Hai ngàn năm trăm năm trước đây, Phật đã đựơc hỏi chúng ta ở đâu và khi nào bắt đầu cuộc sống và có hay không sự chấm dứt tái sinh. Câu trả lời cuả Phật là sự im lặng, bởi vì sự khởi đầu là không thể xác định đựơc. Không có một thần thức mới đựơc sinh ra, và cũng không từng có thần thức nào bị đoạn diệt. Mọi thần thức đều nổi lên trên mặt theo cách nào đấy. Đó là lý do chúng ta tiếp tục đi từ kiếp này sang kiếp khác. Tất cả chúng ta vẫn là cùng một con người, trong vô lượng thời gian. Đó chính là điều cơ bản giáo lý cuả Phật cho rằng mọi giống hữu tình từng là mẹ cuả ta. Đây có thể là một câu nói mâu thuẫn, và tôi chẳng thể chứng minh đựơc một cách khoa học. Thực ra, rất khó để minh chứng sự tái sinh. Nhưng đó là tiền đề cuả sự tái sinh : không có thức mới sinh ra; mọi người trôi lăn trong vòng luân hồi miên viễn từ sinh tới tử, rồi từ sinh tới tử. Mọi thần thức hiện có sẽ luôn tồn tại. Và mọi thần thức có tiềm năng trở thành trí huệ, có đầy đủ tự do để từ những cảm tính tiêu cực cùng dấu ấn cuả nó-- để trở nên có phẩm chất vô cấu nhiễm và trí huệ. Thần thức thay đổi hình dạng liên tục. Vì thế để xác định ai là ai là điều rất khó bởi vì sự thay đổi từ kiếp này sang kiếp khác rất đột biến. Nhận thức mọi người là sự tái sinh là nhận thức cuả Phật. Trong nền văn hóa Tây tạng cuả chúng tôi, thời tiền Cộng Sản, chúng tôi có phát triển một hệ thống để nhận dạng những sự sống như thế, một Lạt Ma hiện thân là người tiếp tục trở lại cho một mục tiêu đặc thù nào đó. Họ đựơc gọi là Tulkus--”Tul” có nghiã là thể hiện và “ku” là hình thức, hình dáng. Tulkus là những người đã giải thoát khỏi những xúc động tiêu cực (u minh) và có thể giúp đỡ người khác giải thoát. Hệ thống Tulkul --hay những người tái sinh được nhận diện-- bắt đầu là Karmapa, khoảng năm thế kỷ sau khi Phật giáo vào Tây tạng. Đến lần tái sinh thứ 16, người đã nhập diệt năm khoảng đầu thập niên 1980, mỗi lần tái sinh như thế Karmapa để lại 1 bức thư cho biết người tái sinh kế tiếp là ai. Không lâu sau đó là Đạt Lai Lạt Ma Panchen Lama, và hàng ngàn những vị khác đựoc xác nhận. Và trong một vài trường hợp sự tái sinh gấp bội cuả cùng một Tulku cũng đựơc xác nhận. Ở mức độ giác ngộ, khả năng thể hiện là không giới hạn. Đối với các vị Lạt Ma phát triển cao, đời sống cuả dĩ vãng và tương lai cũng bình thường như hôm qua và ngày mai vậy. Đôi khi họ nói chuyện với nhau về đời sống sắp tới như thể họ đã sắp đặt sẵn cả rồi. Tôi đã đựơc nghe kể về một Lạt Ma nổi tiếng bị bịnh liệt rung (Parkinson). Một ngày nọ, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thấy một người co giật rất mạnh, ngài bảo người đó, “Tôi sẽ không nói cho ông nghe những chuyện thông thường, như được sống lâu, như tiếp tục giúp đỡ chúng sinh, nhưng tôi nói rằng khi tôi thấy một em bé bảo tôi rằng “tôi là người có chiếc mũi lớn“ tôi sẽ hân hoan vì đã gặp lại ông tái sinh“. Vị Lạt Ma trở về nhà trong lòng thảnh thơi với cuộc đối thoại ấy, và chỉ ít lâu sau, ông ta chết. Có nhiều cách để nhận ra các Tulkus. Một trong các cách đó là Tulku tự xác định được hình tích cuả mình, một Tulku có thể khám phá ra mình ngay từ giai đoạn sơ sinh. Ngay sau khi vị Đạt Lai Lạt Ma đựơc sinh ra trong thế kỷ 16, ông mở to mắt, quay nhìn về hướng Tashi Lunpo, tu viện cuả Đạt Lai thứ nhất và bắt đầu cầu nguyện. Ông đọc thuộc lòng các câu mật chú ngay khi mới biết nói, được 3 tuổi, khi bị bà mẹ la rầy, ông hát bài hát nói với bà rằng “Con sẽ không ở lại nơi đây; con có một căn nhà đẹp hơn với nhiều phòng ốc ở Tashi Lunpo“. Mẹ ông tò mò hỏi “Con từ đâu lại đây ?“ ngài trả lời “Khi con chết, trong lúc người ta bó xác con bằng dây thừng mang con tới chỗ thiên táng, con thấy có vị hộ pháp Mahacala mặc áo giáp đi giầy sắt, mang mặt nạ dữ tợn đưa con tới đây”. Ông kể tên người đã buộc nhục thể ông. Khi lên 7 ông nhận ra vị hộ giáo già giúp việc cho ông khi còn ở tu viện và ông cầu chúc sức khoẻ cho vị này. Vị này bật khóc. Một hệ thống chung để nhận biết các vị Phật tái sinh, mà ngay cả Đức Đạt lai lạt ma thứ 14 đã đựơc nhận diện là nhận xét xem vị tái sinh đó có nhận biết được một số những trang dụng cá nhân trước đây cuả mình hay không, chẳng hạn như sâu chuỗi, kiếng đeo mắt, Rồi thời gian đựơc sinh ra cũng là một yếu tố. Vì còn có thể có những điềm triệu siêu nhiên đặc biệt mà nhiều người chúng kiến khi xẩy ra sự tái sinh đó nữa, chẳng hạnh như cầu vòng xuất hiện trên mái nhà cuả đứa trẻ vừa được sinh ra hoặc một bông hoa nở giữa mùa đông, có trường hợp một con quạ đậu trên ngọn phướn để canh gác ngày đêm cho đứa trẻ suốt 2 năm. Những giấc mơ tiên tri và linh thị là những điều thường thấy, đặc biệt nếu có nhiều em bé cùng được xác nhận bởi một điềm triệu thì sự chọn lựa sau đó đựơc xác định bởi một Lạt Ma tôn kính có khả năng linh thị. Tôi biết điều này nói ra nghe có vẻ kỳ quái nhưng ở Tây tạng đó là những điều bình thường như ở đây quí vị nghe tiên đoán thời tiết hàng ngày vậy. Sự tái sinh cuả một vài đại sư trước đây không đựơc công nhận một cách chính thức mặc dầu một số người biết rõ họ là ai. Đại sư Tashi Namgyal tái sinh là tôi là một ví dụ. Trước khi điều ấy xẩy ra, tôi đã lấn cấn nghĩ là mình có thể là Panchen Lạt Ma tái sinh hoặc một ai khác. Nhiều toán tìm kiếm tới nhà tôi để xem tôi có phải là đứa trẻ họ muốn tìm kiếm hay không. Để xác định xem tôi có phải là Panchen Lạt Ma, một phái đòan lớn đi bằng hai ba chục con ngựa đến gặp tôi. Khi đó tôi mới lên 3, và tôi nhớ lại đám đông đó nhiều người quá. Tôi mong muốn đựơc xác minh là Panchen Lạt Ma , vì nếu đựơc như vậy tôi sẽ có một địa vị trọng vọng như cha tôi, là người không những chỉ là Lạt Ma tái sinh mà còn đựơc sinh vào gia đình cuả Lạt Ma thứ 13. Sự kiện ông là một Lạt Ma được trọng vọng đã đưa tôi vào nhiều danh sách điều tra tái sinh khác nhau. Khi Tashi Namgyal chết, những người trong viện cuả ông và các vị hộ pháp đã đem phát tán hầu hết cuả cải và vật dụng cuả ông vì họ không mong đợi ông tái sinh. Họ chỉ còn giữ lại một tấm thảm và một chiếc hộp nhỏ lúc họ đi kiếm tìm sự tái sinh cuả ông. Họ mệt mỏi kiếm tìm và hi vọng sự việc sẽ qua đi. Cha tôi cũng không ít cơ hội nói rằng ông chẳng tin tôi là một Lạt Ma tái sinh, tuy ông cũng tin rằng bằng phương cách nào đó tôi có thể giác ngộ theo Phật. Ông nghi ngờ về toàn bộ hệ thống Tulku; ông cho rằng hệ thống có quá nhiều điểm xung yếu cho các hoạt động chính trị lợi dụng. Một vị Rimpoche đựơc tôn kính nói rằng sự tái sinh cuả Tashi Namgyal chắc hẳn là con trai cuả một vị lạt ma tiếng tăm ở tại Lhasa, điều ấy có vẻ ám chỉ đến tôi. Cha tôi đã tìm mọi cách để ngăn cản quá trình xác nhận này, tới mức độ ông chỉ đồng ý nếu tôi được nâng lên một cấp độ cao hơn, ông hi vọng đoàn khảo tra sẽ từ chối yêu cầu ấy mà cho tôi yên. Nhưng vị được trao phó cho việc xác nhận tái sinh cuả vị tiền thân cuả tôi lại trở thành quan nhiếp chính Tây tạng và ông đã nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ cuả mình. Một sự thực bất ngờ đối với cha tôi là tôi được phong tước và được xác nhận lúc tôi lên 4. Tôi được gởi tới nơi tu tập gần nhà với vị thầy đầu tiên, rồi sau đó vào tu viện Drepung khi lên 5. Trong buổi lễ tiếp nhận tôi ở tu viện, thầy tôi bảo “ Ta hi vọng con sẽ hoàn tất những bài học ở tu viện này càng nhanh càng tốt và ở lại Lhasa đễ giảng dạy cho hàng trăm ngàn người khác. “ Rằng tôi thực sự là hiện thân tái sinh cuả vị cao tăng có tên là Tashi Namgyal. Nếu không phải vậy, chắc hẳn họ đã không nói tôi là đứa trẻ ngoan và mong ước một đứa trẻ như tôi sau này hướng dẫn hàng trăm ngàn người. Yêu cầu này cho tôi thấy rõ ràng trách nhiệm cuả tôi với tha nhân, cũng như những mong đợi cuả người khác vào tôi vậy. Nó tạo nên trong tôi một định hướng chắc chắn, một chương trình cho cuộc đời tôi. Tôi ở lại Drepong tới năm tôi 19, khi tôi trốn thoát qua Ấn độ, nơi tôi còn tiếp tục tu hành thêm một ít năm nữa. Khi tôi 20, có một cuộc nổi loạn tuổi trẻ trong tôi, nghi ngờ rằng có lẽ tôi đã là trò giải trí trong tuổi trưởng thành qua vụ việc tái sinh, nỗi hoài nghi ấy nổi lên mạnh mẽ hơn bao giờ. Tôi đã đọc tự truyện cuả các vị lạtma tái sinh khác nhau. Rất nhiều người trong truyện hồi tưởng lại tiền kiếp cuả họ. Nhưng khi tôi cố gắng nhớ lại bất kỳ điều gì có kiên quan đến tiền kiếp cuả mình như bạn bè, những sự kiện đáng nhớ thì hoàn toàn là số không. Tôi hoang mang, Tôi là ai đây? Một kẻ khật khùng? Thời gian sinh sống tại Delhi trong thời gian 60-70, tôi đau khổ vô vàn. Khi một người bạn cuả gia đình tôi, cô ta lập gia đình với 1 gia đình dòng dõi hoàng gia ở Ladakh, bị chết ở Delhi. Cha cô nhờ tôi làm phép siêu chuyển thần thức cho cô, một phép tôi đã từ lâu không làm và tôi cũng chẳng có đủ công cụ để thực hiện phép này, chẳng hạn như hợp chất phải đặt vào chiếc miện đội vào đầu người chết. Thêm vào đó là nỗi nghi ngờ cuả tôi không biết phép này có kết quả hay không. Tôi đến gia đình người chết lúc 6 giờ chiều. Tôi ngồi một mình với thi hài người đàn bà đã chết và đọc một bài kinh rất chậm rãi với tất cả sự chú tâm cuả tôi. Khi tôi niệm chú chuyển thần thức, tôi tập trung toàn bộ trí lực vào công việc đang làm. Một trong những vị thầy cuả người chết là Bakula Rimpoche, là một thành viên trong quốc hội Ấn lúc bấy giờ. Ngay ngày hôm sau, ông ta bảo với tôi rằng người quá cố đã đến viếng ông vào khoảng 7 giờ chiều, đúng là khoảng thời gian tôi làm phép chuyển thần thức cho cô hợp nhất với trí huệ giác ngộ. Điều ấy càng làm cho tôi bối rối phân vân, nhưng đồng thời nó cũng đánh động sự hồ nghi cuả tôi. Nó chỉ ra rằng một điều gì đó đã xẩy ra, dù rằng tôi không thể khẳng định một cách trọn vẹn. Dĩ nhiên, tôi không phải là người duy nhất ở đó-- cũng có những Lạt Ma khác hiện diện--nhưng duy nhất có tôi với người chết trong lúc làm phép, và thời gian xẩy ra sự việc chứng tỏ có một việc làm nào đó có kết qúa. Tôi nhớ lại buổi thảo luận về sự hồ nghi cuả tôi với các thầy Ling và Trijang Rimpoche. Các vị đã chăm chú lắng nghe tôi . Những hiểu biết về sự tái sinh đến với tôi một cách tiệm tiến qua một qúa trình tu học những lời dậy cuả Phật tổ. Qua Kinh sách. Qua các cuộc thảo luận, qua các cuộc thực hành thiền định. Đến nay tôi có thể nói một cách khẳng định rằng tôi tin vào sự tái sinh. Điều ấy đến từ trong cõi tâm thức thẳm sâu, một loại toàn tri. Không có lời nói, một sự hiểu biết đến từ bên trong. Đó là lý do tôi tin vào sự tái sinh-- không những chỉ bởi Phật tổ đã nói như thế. Một số bạn bè bảo tôi rằng điều này chỉ xẩy ra với điều kiện ở Tây tạng, nhưng cũng có thể nói rằng vì phương Tây thiếu lòng tin vào điều ấy. Ở Tây tạng, chúng ta có thể nghe hoặc biết về những đứa trẻ tiếp nối câu chuyện dang dở với người lớn tuổi ngay ỡ nơi họ đã ra đi trong kiếp trước, thực hành các lễ nghi tôn giáo mà họ không thể biết đựơc, hoặc nhất định cho rằng họ đã sinh sống tại những căn nhà thuộc các thành phố mà họ chưa từng tới đó bao giờ, quen biết những người họ chưa hề gặp trong đời. Nếu tôi không tin vào sự tái sinh, dĩ nhiên những điều này là phi lý. Nhân và duyên (causes and condition) Điều tin tưởng của tôi đến từ sự chiêm nghiệm nhân và duyên, nhân và qủa. Khi nhìn vào thực tại, chúng ta có thể thấy rằng mọi việc không xẩy ra một cách tình cờ. Luôn có một nguyên nhân, và luôn có một cơ duyên. Có những nhân và duyên cho sự sinh, cho sự chết, cho đau ốm, cho mạnh khỏe, cho hạnh phúc, vui thú. Có những nhân và duyên cho tôi được nuôi day và tái sinh ỡ Tây tạng, cho tôi bị bắt buộc rời xa quê hương và cuối cùng đến Hoa kỳ. Phật tổ đã nhìn sâu vào nhân và duyên cuả mọi nguồn cội khó khăn và đã tìm ra lý do. Nhưng ngài đã phân biệt rạch ròi giữa nhân và duyên. Khi một người bị chết bất đắc kỳ tử, chẳng hạn như vì sự xụp đổ cuả một cây cầu, Đức Phật đã hỏi tại sao ngưiời đó lại bị chết, ngài đưa ra 2 câu trả lời khác nhau. Có một nhân cơ bản và có nhiều duyên tác hợp. Nhân căn bản là người chết đó đã gây tổn thương cho những người khác trong khoảng thời gian nào đó, bất kể vô tình hay cố ý. Câu trả lời thứ hai là trong một điều kiện nào đó đã làm cho cây cầu bị xập-- chẳng hạn một dòng nước chẩy xiết, một đà cầu bị gẫy, một chân cầu bị cuốn trôi. Phật gọi những điều kiện này là duyên.Từ nhãn quan tinh thần, khi bạn thắc mắc tại sao con người đau khổ, bạn sẽ thấy hai lý do khác nhau, một nhân cơ bản và những duyên tác động. Trong đời sống hàng ngày cuả chúng ta, chúng ta luôn gặp những hoàn cảnh khó khăn không mong đợi, ngay cả khi chúng ta chẳng công kích gây hấn với ai. Chúng ta bị tai nạn. Hoặc về tinh thần hoặc vật chất, chúng ta vật lộn với nó và cố gắng tìm ra lý do tại sao những điều ấy lại xẩy ra. Chúng ta cố tìm ra một câu trả lời bằng mọi cách. Chúng ta làm công việc khám nghiệm tử thi để tìm ra nguyên do cuả một cái chết. Hoặc khi 1 chiếc phi cơ ngộ nạn, chúng ta cố tìm ra điều gì sai sót đã xẩy ra, bằng cách tiêu những món tiền lớn và một khối lượng thời gian để tìm kiếm chiếc hộp đen. Chúng ta bị cuốn hút bởi các duyên. Nguyên nhân cơ bản thì chẳng bao giờ được lưu tâm có thể vì do khoa học chưa chấp nhận nó hoặc cho nó nói lên một lời giải thích. Ở Tây tạng, chúng tôi có lẽ thích tìm hiểu sâu vào nguyên nhân cơ bản-- đắm chìm như thể chúng tôi đang ở trong các viễn cảnh tâm linh--và không tìm đủ những duyên tác hợp. Nhân dân Tây tạng có thể đã quá bận tâm về đời sống tương lai cuả họ trong giai đoạn Trung cộng xâm chiếm. Còn những người cộng sản thì họ chắc chẳng bao giờ suy nghĩ đến nguyên nhân cơ bản khi họ đến xâm lăng đất nước chúng tôi. Là một người Mỹ gốc Tây tạng, tôi đã có cơ hội duy nhất để nhìn vào cả hai nền văn hóa. Sự bất lợi trong việc tiêu phí quá nhiều thời gian và tiền bạc trong việc tìm kiếm những cơ duyên kết hợp mà chẳng lưu ý tới nguyên nhân cơ bản, nguồn gốc cuả vấn đề. Bạn có thể có câu trả lời tạm bợ cho một tại họa đã xẩy ra, nhưng chừng nào nguyên nhân cơ bản chưa đựơc phát hiện thì bạn cũng chẳng thể nào ngăn chặn điều ấy không tái diễn. Không tìm ra nhân, ngay cả các duyên là đúng, sự việc vẫn chưa hiện thực. Như đất ẩm và mầu mỡ cũng chẳng thể nở hoa nếu không có hạt giống, tương tự như có hạt mà không có những điều kiện cây trồng thích ứng vậy. Vì là những người thực dụng, chúng ta thiết lập những nguyên tắc và những điều kiện an toàn--Rất nhiều điều che chở chúng ta khỏi những bất hạnh. Tất cả những điều này đựơc thực hiện để mong tránh cho chúng ta những khổ đau, và chẳng có vấn đề chúng ta có nên tiếp tục phòng ngừa những khổ đau trong những phương tiện chúng ta đang có. Tuy nhiên nên có những cuộc tìm kiếm sâu xa nguyên nhân cuả sự đau khổ, cuả sự sinh, lão, bịnh, tử trong đời sống mà chúng ta phải chấp nhận không có chọn lựa. Những nhà tâm lý điều tra nguyên nhân cuả sự đau khổ nhưng chỉ đạt được từ những nguyên nhân vật chất-- nhửng cơ duyên tác hợp. Những cố gắng đi đến phần thâm sâu cuả vấn đề, chúng ta khảo sát về thời thơ ấu, có đôi khi còn đi ngược tới giai đọan còn nằm trong bào thai cuả bà mẹ. Điều này có vẻ hữu ích, tái lập sự bình an tinh thần, một ý nghiã cuả sự an toàn, và lòng tự tin, vì nó có thể dẫn đến lớp sâu nhất trong nguyên nhân, và đôi khi nó còn tạo nên những vấn nạn sâu xa hơn. Nhìn lại cách đây hai ba chục năm, ngay cho cả quãng thời gian gần hơn mươi mười năm lại đây, thật là khó hồi tưởng lại chính xác những điều chúng ta đã trải qua. Thật khó mà hình dung lại điều gì đã xẩy ra mới hôm qua, thậm chí mới giờ trước đây thôi. Cố gắng hồi tưởng thường đưa tới những ước đoán. Một hồi niệm mơ hồ về sợ hãi có thể trở nên một đề tài để truy tìm. Do vậy, một người cha có bộ râu quai nón hoặc một ông chú có thể trở thành một tiêu điểm để điều tra về nguyên nhân cuả nỗi sợ hãi. Người ta bắt đầu tự hỏi “Ông ấy đã làm gì mình ? Tại sao tôi sợ? Có phải ông ấy đã từng đánh đập tôi? Có phải ông ấy từng sách nhiễu tình dục tôi? “Một vài mảnh vụn hồi ức nổi lên và chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta đã tìm ra kết qủa. Nhưng chẳng có cách nào xác định đựơc một điều gì đó có xẩy ra hay không. Một số người bị lạm dụng, hành hạ, một số người khác không. Điều ấy tạo thêm những nỗi khổ đau cho gia đình nói chung và đặc biệt giữa “ người có bộ râu quai nón” và người bị đau khổ. Như vậy chúng ta không nên điều tra các vấn đề cuả chúng ta hay sao? Đó không phải là câu trà lời. Nhưng nhất định đó không thể là cuộc điều tra tốt. Chỉ có một cuộc khảo sát thông suốt toàn bộ hơn. Đi tới tận cùng sự việc có nghiã là đi xa hơn điều gì đã xẩy ra từ thời thơ ấu. Nghiã là cần thiết phải tìm ra nguyên nhân cơ bản. Chúng ta đưa rất nhiều nỗ lực vào việc hoàn thành mục tiêu cuả chúng ta, nhưng chúng ta mới chỉ thực hiện được một nửa. Nếu chúng ta hoàn thành được hơn thế, chúng ta tự coi là đã may mắn lắm rồi. Trong thực tế, ngay cả khi chúng ta không thể làm được một nửa điều chúng ta muốn làm chính là dấu hiệu cuả sự thiếu tự do. Không những chúng ta thiếu tự do để hoàn thành mục tiêu do mình đặt ra, mà chúng ta thiếu cả tự do trong đau ốm, tuổi già và sự chết. Đó là chân lý cuả đau khổ, là điều Đức Phật đã nhìn thấy. Cái gì gây ra sự khổ đau ? Những thói quen cảm tính tiêu cực cuả chúng ta tạo ra sự khổ đau và ngăn chặn sự tự do cuả chúng ta. Tự do có thể là cuả chúng ta nhưng chúng ta đã không tạo ra những cơ duyên cần thiết để có thể đạt đựơc lợi ích cuả nó. Khi Đức Phật nói rằng ngài đã tìm ra con đường giải thoát khỏi khổ đau, chúng ta coi như ngài đã khám phá ra con đường đi tới tự do. Loại tự do nào? Tự do trong việc hình thành đời sống và cách sống cuả chúng ta. Những đạo sư truyền thống chỉ ta rằng mỗi người trong chúng ta đều thực hiện những hành động xấu và tốt trong kiếp này hay kiếp khác. Những hành động xấu đưa tới thêm những khổ đau và sự mất tự do, và đó là lý do tại sao chúng ta phải sửa chữa những thói quen cảm tính tiêu cực là điều quan trọng. Hành động tốt dẫn tới tự do và đời sống tốt đẹp. Đó là lý do tại sao chúng ta phải cấp thiết phát huy đạo đức, bởi vì chúng ta là các chuyên gia về sự tinh ranh, bịp bợm. Họ cũng chỉ cho chúng ta biết rằng sở dĩ chúng ta có cuộc sống phúc lạc hiện tại cũng là do những việc làm tốt chúng ta đã làm, và vì chúng ta nhẫn nhục, khoan dung, đạo đức trong kiếp trước. Đó là lý do tốt nhất cho chúng ta phát triển những đức tính ấy. Tôi đến đây không phải để thuyết phục các bạn về sự tái sinh. Đó là nền văn hóa cuả chúng tôi, hệ thống tín ngưỡng cuả chúng tôi-- không phải cuả các bạn. Tôi thực sự đơn giản là yêu cầu các bạn hãy tìm sự thích thú trong ý tưởng này trong đôi chút thời gian--cho ý tưởng ấy đôi chút hồ nghi rằng điều ấy có thể có hoặc không có và tìm xem nó sẽ thay đổi viễn quan cuả bạn về đời sống và cái chết ra sao. Các bạn có thể chẳng tìm ra một sự khẳng định nào trọn vẹn về sự tái sinh, nhưng chắc các bạn cũng chẳng thể nào loại trừ nó đựơc. Chưa có ai từng chứng minh rằng nó chưa hề xẩy ra. Nếu bạn cho phép một chút ít hồ nghi về sự tái sinh, câu hỏi ta là ai và ta từ đâu tới sẽ trở thành câu hỏi “Điều gì đã xẩy ra giữa kiếp trước và kiếp này?” Hoặc trong những tiền kiếp cuả chúng ta, khoảnh khắc chúng ta suy tư về điều ấy, viễn quan cuả chúng ta đã thay đổi. Các vị thầy giác ngộ đã tìm ra nguyên nhân chân thực cuả sự khổ đau, cuả những rắc rối, những ngăn trở tự do cuả chúng ta. Họ nhấn mạnh tới những cảm tính tiêu cực-- sự giận dữ, ràng buộc, ghét bỏ, và ganh tị-- “Đó là nguyên nhân cơ bản trói buộc chúng ta trong vòng luân hồi sống và chết. Từ những cảm tính tiêu cực đưa tới những hành động tiêu cực, từ hành động tiêu cực dẫn tới nghiệp xấu, và từ nghiệp xấu đưa tới luân hồi”. Khởi đầu cuả tự do trong chu kỳ cuả sự khổ đau là cách thừa nhận rằng, chúng ta đang có sự giận dữ, ràng buộc, ghét bỏ, và ganh tị. Chúng ta có trách nhiệm về hành động cuả mình. Đó là điều đúng đắn phải làm. Vì có nhìn thẳng vào các cảm tích tiêu cực, chúng ta mới gạt bỏ được chúng. Khi chúng ta nhìn thấy có rắc rối chúng ta có thể sửa chữa. Nếu không chúng ta sẽ phải trả giá các hành động tiêu cực cuả mình bằng thân thể và tâm linh cuả mình trong hiện tại hay trong hậu kiếp. Điều này chẳng có gì mới-- hậu qủa xấu cho những hành động xấu. Rất nhiều nền văn hóa đã dùng sự sợ hãi đễ kiểm soát con người. Tôn giáo thường dùng địa ngục để răn đe như là một phương cách kỷ luật.Trong thế giới Tây tạng cổ xưa, ngay cả trộm cướp cũng do dự khi giết người bởi vì họ tin rằng sẽ phải trả giá bằng sự đau đớn với chính da thịt thể xác cuả họ. Nhưng các bạn cũng đừng cho rằng tôn giáo chỉ dùng đe dọa để khuất phục con người. Các bạn hãy dùng chút ít thời gian để phân tích xem các cảm tính tiêu cực có thể làm cho chúng ta khổ đau và duy trì sự khổ đau từ kiếp này tới kiếp khác như thế nào. Hãy suy ngẫm về khả năng cuả các bạn. Nếu không suy ngẫm về các điều ấy, sẽ là một sự lãng phí qúa lớn, bởi vì là một con người chúng ta có một bộ não rất kỳ diệu. Điều chúng ta có thể làm là vô biên. Chúng ta có cùng khả năng như tất cả các vĩ nhân khác đã từng sống. Chỉ có sự khác biệt là họ biết tận dụng những cơ hội. Vậy hãy suy nghiệm về điều ấy và hãy để cho tâm trí ta thay đổi. Hãy sử dụng tốt nhất những khả năng cuả mình, đặc biệt là tâm trí. Chúng ta có thể đổi thay cách sống một lần cho mãi mãi. Vị thầy đầu tiên cuả tôi bảo rằng đời này giống như nơi ngã tư đường. Nó có thể đi theo nhiều hướng khác nhau, một trong những hướng đó đưa ta tới sự giác ngộ kỳ diệu. Tại sao chúng ta không sử dụng ? Không có thời điểm nào thuận lợi hơn lúc này. Huyền thọai Phật giáo Ấn độ có nói về một loại hoa có tên là Utamuwara, là loại hoa chỉ xuất hiện khi có một vị Phật sắp ra đời, và chỉ nở khi vị Phật này giác ngộ, rồi sau đó kéo dài theo thời gian cuả các bài giảng cuả Phật. Các Phật tử nói rằng chúng ta vẫn còn trong khoảng thời gian hoa nở. Khả năng cho mỗi chúng ta đạt tới toàn năng và giác ngộ vẫn còn. Ngay cả khi chúng ta không thể hoàn thành trong kiếp này thì chúng ta vẫn còn có thể tiếp tục trong kiếp kế tiếp. Ngô văn xuân - chuyển ngữ
  8. Sức mạnh của nội tâm HH Gyalwang Drukpa Cách chúng ta ứng xử trước một hoàn cảnh nhất định có thể chuyển hóa cái nhìn của chúng ta đối với hoàn cảnh ấy cũng như đối với cả thế giới 'Biết trân trọng và tri ân' là chìa khóa duy trì sự cân bằng trong cuộc sống. Khi con người ta may mắn có được thành công, ta không nên để cho sự thành công hay sự kiêu mạn xâm chiếm tri giác của mình, mà ngược lại hãy biết trân trọng và tận hưởng những điều ích lợi từ sự thành công ấy. Tương tự như vậy, khi gặp thất bại, hãy đừng để cảm giác buồn đau chi phối tri giác của mình, mà cũng lại phải biết trân quý những trải nghiệm và bài học rút ra được từ những thử thách ấy. Hãy nên tự nhủ rằng vì vạn sự vô thường nên những điều tồi tệ rồi cũng sẽ chuyển hóa trở thành tốt đẹp nếu chúng ta ứng xử tích cực trước mỗi khó khăn. Lý do chính khiến mọi người bị những thăng trầm chi phối là bởi vì chúng ta thiếu trí tuệ biết trân trọng và tri ân cuộc sống. Không có trí tuệ hiểu biết, chúng ta không thể biết trân quý và tri ân. Tôi không cho rằng thế giới này là một nơi xấu xa tồi tệ mặc dù vào những thời điểm khó khăn nhất định nhiều người có thể không đồng tình với ý kiến này. Sở dĩ tại sao tôi lại tin như vậy vì cách thức chúng ta ứng xử trước một hoàn cảnh có thể chuyển hóa cái nhìn của ta đối với hoàn cảnh ấy cũng như đối với cả thế giới này. Chẳng hạn như khi nền kinh tế ở trong giai đoạn phát triển thịnh vượng, chúng ta nên biết trân trọng niềm hạnh phúc mà mình đang được tận hưởng nhờ thặng dư tài chính. Điều căn bản mà chúng ta cần phải hiểu rằng niềm hạnh phúc đích thực đến từ việc chúng ta biết sẻ chia niềm vui, và nếu có thể là biết sẻ chia những gì mình có, và mang hạnh phúc đến với mọi người. Như thế, bằng cách khai triển nguyên nhân của hạnh phúc và trân trọng niềm hạnh phúc ấy, chính là chúng ta đang đầu tư vào hạnh phúc để càng them nhiều niềm vui và hạnh phúc nảy nở hơn. Ngược lại, nếu chúng ta không biết học cách tri ân thì điều đó lại trở thành cần phần nghèo nàn nhất trong cuộc đời và hạnh phúc mà con người ta có được từ sự thành đạt thế gian sẽ hoàn toàn bị uổng phí. Tôi tin tưởng rằng sự đầu tư cho một tương lai tốt đẹp hơn có thể được thực hiện một cách giản đơn thông qua trí tuệ biết trân trọng và tri ân. Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọng và tri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lực và căng thẳng cho chính bản thân mình. Stress hay sự căng thẳng là hệ quả của sự thiếu linh hoạt và không biết chấp nhận thực tại. Nói cách khác, stress gây ra bởi bám chấp và tham cầu mạnh mẽ. Khi hy vọng và mong cầu có mặt, thì đồng thời sẽ xuất hiện sự sợ hãi cái điều mình mong cầu ấy sẽ không trở thành hiện thực hoặc sẽ hiện khởi cảm giác bất an khiến cho con người ta lo sợ sẽ đánh mất những gì họ đang có, nghĩa là bất kỳ những gì họ mong đợi có thể sẽ không xảy ra như mong muốn. Vì thế stress không chỉ là tác nhân khởi đầu mà còn có sức ảnh hưởng rất lớn. Cũng có thể nói rằng do không biết trân trọng và tri ân, chúng ta không vững vàng trong cuộc sống và do đó chỉ toàn đánh cược với hạnh phúc của mình và cố gắng với trò chơi may rủi. Biết trân trọng và tri ân sẽ mang lại sự hài lòng biết đủ và nhờ vậy là niềm hạnh phúc. Rốt cuộc thì tất cả chúng ta đang sống trên thế giới này đều mưu cầu hạnh phúc, chẳng phải vậy sao? Mọi việc chúng ta làm đều tạo quả, và tôi tin rằng con người ta không nên hành động tùy tiện hay thiển cận chỉ nhắm tới những kết quả tạm thời chóng vánh mà thiếu đi trí tuệ hiểu biết nền tảng căn bản là biết trân trọng và tri ân; điều đó sẽ dẫn tới rất nhiều vấn đề rắc rối trong cuộc sống. Chẳng hạn như nếu chúng ta biết tri ân mẹ trái đất của mình, biết trân trọng chính chúng ta, tất cả mọi người và vạn vật, chúng ta sẽ không khi nào muốn hủy diệt phá hoại trái đất, làm hại bản thân mình, mọi người và vạn vật, mà ngược lại chúng ta sẽ trân quý bản thân, thế giới và mọi sinh linh trên trái đất này. Không có gì là không thể, vậy tại sao chúng ta không dồn tâm sức vào việc chuyển hóa những tiêu cực thành tích cực? Khi chúng ta có thể học được cách trân trọng và sống với yêu thương, thì món quà tặng sẽ che chở bảo vệ ta khỏi những thất bại và chắc chắn thành công và hạnh phúc sẽ đến với ta ở bất cứ nơi đâu và với bất cứ điều gì mình làm. Cho dù thế giới này có sụp đổ hay không cũng không phải là vấn đề vì sức mạnh nội tâm được tích lũy dồi dào nhờ trí tuệ hiểu biết cảm thông và trân trọng tri ân sẽ nâng đỡ chúng ta bình an vô sự, không mảy may thương tổn trước những thăng trầm thịnh suy trong cuộc đời. http://www.drukpavietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=624%3Asc-mnh-ca-ni-tam&catid=89%3Akinh-sach-tu-tp&Itemid=89〈=en
  9. Tôi sẽ gởi đến bạn vào thứ hai ngày 30/1/2012, hy vọng với tất cả sự tín tâm toàn gia bạn nhận được sự chuyển hóa!
  10. NHƯ LÀ MỘT ĐIỀU CẢNH TỈNH .... NHƯ LÀ MỘT ĐIỀU CẢNH TỈNH ... Hoa nở, rồi lại tàn…. Nét đẹp thiếu nữ rồi cũng phai tàn theo thời gian…. Tiền bạc, cơ ngơi sự nghiệp, của cải, vật chất: có đó – mất đó…. Sinh đó, diệt đó…. Hòa bình rồi lại chiến tranh, không ai biết được ngày mai…. Hiroshima năm nào, chớp mắt đã thành cát bụi…. Đừng tự hào với bất cứ cái đẹp giả tạo nào mà mình đang có trên thân thể này, vì chỉ cần 1 sự cố xảy ra, nó sẽ hư – xấu và bị hủy hoại hoàn toàn…Nó là giả! Đôi chân ấy có thể mất đi, đôi mắt ấy có thể mù lòa, trí não ấy sẽ không còn minh mẫn…. Ngay cả sự vật cũng không thể trường tồn với thời gian, huống chi thiên nhiên, con người, và lòng người…. 2 chữ “Ái Tình”… Đời người: Sinh – Lão – Bệnh – Tử, có gì vui ??? Trong thế giới tạm bợ, ngập tràn khổ đau này, loay hoay mãi, cuối cùng chỉ có thể tìm được cái gọi là “thanh thản” và “bình yên” khi an trú dưới ánh sáng Phật Pháp…. Để tránh bất hạnh khổ đau, hãy gắng sống tốt và theo sát lời Phật dạy. “Không làm các điều ác – Thường làm các việc lành”. Dù rằng Nhân quả – Nghiệp báo đã làm chủ cuộc đời, nhưng tu thân – tích đức HOÀN TOÀN CÓ THỂ GIẢM NHẸ TỘI – NGHIỆP để có 1 cuộc sống tốt đẹp hơn, tinh thần nhẹ nhàng thanh thản hơn. Đừng tiếp tục sa lầy. Đừng tiếp tục trì hoãn. Đời người sống nay chết mai. Hãy mau mau trở về dưới chân Phật…Trích dẫn: “Thân này là vô thường, là khổ, là vô ngã, thấy thân này là bất tịnh uế nhiễm, hôi thúi (đàm, nước tiểu, phân,máu,mủ,..), bệnh tật, khổ đau, thấy những người thân quyến thuộc là nhân quả, là những người vay nợ với nhau, không có chi là thường còn, vĩnh viễn, các pháp trong thế gian này không phải của mình nữa, là do duyên hợp, là đau khổ, là trói buộc, thương nhớ chỉ là một sự tạm bợ trong khi thân này còn sống, đến khi nó hoại diệt rồi thì sự thương nhớ kia cũng không còn, nó sẽ tan ra thành mây khói.”
  11. Thật thích thú khi nhìn tận mắt thực và động vật phát triển khả năng tạo hóa ban cho chúng.Nhà quay phim phải vất vả, kiên nhẫn lắm mới được những thước phim hiếm quý này cho chúng ta thưởng thức. http-~~-//www.youtube-nocookie.com/embed/xHkq1edcbk4?rel=0
  12. 20 ÐIỀU KHÓ TRONG CUỘC SỐNG Phật dạy làm người có 20 điều khó: 1. Nghèo nàn bố thí là khó. 2. Giàu sang học đạo là khó. 3. Bỏ thân mạng quyết chết là khó. 4. Thấy được kinh Phật là khó. 5. Sanh vào thời có Phật là khó. 6. Nhẫn sắc, nhẫn dục là khó. 7. Thấy tốt không cầu là khó. 8. Bị nhục không tức là khó. 9. Có thế lực không dựa là khó. 10. Gặp việc vô tâm là khó. 11. Học rộng nghiên cứu sâu là khó. 12. Diệt trừ ngã mạn là khó. 13. Không khinh người chưa học là khó. 14. Thực hành tâm bình đẳng là khó. 15. Không nói chuyện phải trái là khó. 16. Gặp được thiện tri thức là khó. 17. Thấy tánh học đạo là khó. 18. Tùy duyên hoá độ người là khó. 19. Thấy cảnh tâm bất động là khó. 20. Khéo biết phương tiện là khó. (Trích trong Kinh 42 chương).http://tuvahanh.com/...ngCuocSong.html
  13. Trong thân có bảy báu bố thí: - Một, con mắt chẳng tham các sắc đẹp, vật xinh, ấy là sắc bửu bố thí. - Hai, tai chẳng tham nghe tiếng vui đờn ca xướng hát, là thinh bửu bố thí. - Ba, mũi chẳng tham ngửi mùi thơm vật lạ, là hương bửu bố thí. - Bốn, lưỡi chẳng tham vị ngon béo ngọt, là vị bửu bố thí. - Năm, thân chẳng tham mặc áo quần tốt đẹp, là xúc bửu bố thí. - Sáu, ý chẳng tham danh lợi, ân ái dục tình, là pháp bửu bố thí. - Bảy, tâm chẳng đắm nhiễm dục lạc thế gian là Phật bửu bố thí. Nếu ai biết đặng trong thân mình có bảy báu bố thí thì đặng phước đức hơn là đem bảy báu trong thế gian như: Kim ngân, lưu ly, trân châu, mã não, san hô, hổ phách, trăm ngàn muôn phần đem bố thí cũng chẳng bằng một phần nhẫn đến không thể đem gì so sánh được bảy báu kia. Thực hành pháp bố thí nầy thì mau chóng qua bờ sanh tử.
  14. http://pf.kizoa.com/sflite.swf?did=2214769&k=S116396939&hk=1&ns=1&ob=1&origin=share
  15. Giếng Hàm Long với truyền thuyết chế ngự rồng dữ Tại thành phố Huế (tỉnh Thừa Thiên - Huế) có 1 giếng rất độc đáo mang tên Hàm Long (miệng của con rồng) trên quốc tự Báo Quốc với truyền thuyết gắn liền lịch sử của các vua triều Nguyễn (1802-1945). Theo truyền thuyết nhiều người xưa kể lại, khi vua Nguyễn từ Bắc vào Huế (xứ Thuận Hóa) định đô thì nhiều đêm liên tiếp có 1 con rồng gây ra mưa gió quấy nhiễu, vua bèn sai thầy địa xem phong thủy thì thấy trước mặt Kinh thành có 1 dãy núi thiêng với nhiều long mạch. Để chế ngự con rồng này cần phải mời bậc cao nhân về yểm long mạch. Sau khi mời các thầy về yểm tại nhiều điểm, quả nhiên sau đó không còn rồng quấy phá vua nữa. Từ đó, dãy núi đó được đặt tên là Bình An Sơn. Hiện vẫn còn hàng chục ngôi chùa được tại núi này. Điểm khởi đầu của các chùa là quốc tự Báo Quốc do thiền sư Giác Phong dựng lên vào cuối thế kỷ XVII. Khi thiền sư đến lập chùa đã có đào 1 cái giếng để lấy nước ngay dưới chân núi. Bỗng từ dưới giếng có mạch nước ngọt tỏa mùi thơm ngát phun ra liên tục như miệng con rồng phun nước nên đặt là giếng Hàm Long. Một sự tích khác là khi đào đúng viên đá dẫn lộ xuống mạch nước ngầm, vì đá quá giống miệng con rồng nên đặt tên Hàm Long. Giếng Hàm Long Bia đá của chùa và xóm Báo Quốc ghi sát giếng: “Giếng Hàm Long có tên chữ Hán là Hàm Long Tĩnh. Theo bộ Hàm Long Sơn Chí thì Giếng xuất hiện cùng thời với việc khai sơn chùa Báo Quốc khoảng năm 1674. Đáy giếng có đá như hàm rồng. Nước trong đá tuôn ra mát lạnh có vị ngọt nên ngạn ngữ có câu: Giếng Hàm Long trong lại ngọt. Anh thương em rày có Bụt chứng tri. Theo Đại Nam Nhất Thống chí: Buổi đầu khai quốc, các quan lại triều đình thường lấy nước giếng này để Vua dùng nên lại có tên nữa là Giếng Cấm”. Nhiều người dân ở xung quanh chùa Báo Quốc cho biết hiện nước giếng không có ai đến lấy uống nữa vì sợ là giếng cấm cho vua. Giếng chỉ được phục vụ cho mục đích thăm quan. Ngày xuân, nếu lên dạo cảnh, thắp hương tại chùa Báo Quốc, du khách hãy đến giếng “miệng rồng” để cầu nguyện cho những điều may mắn, sức khỏe, bình an cho gia đình. Dưới đây là chùm ảnh về giếng Hàm Long: Quốc tự Báo Quốc Giếng Hàm Long nằm ngay dưới chân núi dẫn lên chùa Báo Quốc Một đầu rồng dữ tợn được đắp nổi trước giếng Giếng có mực nước đầy quanh năm Nước giếng xanh vắt Có cá chép vàng bơi lội tung tăng dưới giếng Hàm Long. Liệu cá có hóa rồng trong vài trăm năm tới khi được sống tại giếng thiêng? Tương truyền các viên đá dưới đáy giếng có hình dạng giống miệng con rồng Người dân quanh vùng hay đến thắp hương trước giếng trong ngày lễ Phía sau giếng lúc xưa có 1 cây cổ thụ rất to nhưng giờ không còn nữa vì bị mối mọt ăn chết Du khách cầu nguyện nhiều may mắn, sức khỏe trong năm Nhâm Thìn ở giếng Hàm Long Vùng đất xung quanh giếng vẫn còn rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh năm Màu thời gian của giếng Không ai dám dùng nước giếng Hàm Long kể từ khi nước tại đây được tiến vua dùng vì độ ngọt và thơm kỳ lạ không giếng nào sánh bằng. Giếng đã được đậy lại kín bởi 1 tấm lưới sắt đan Hình tượng rồng rất nhiều gần giếng Hàm Long, trên các mái chùa ở dãy núi xưa nơi truyền thuyết kể từng có rồng dữ quấy phá nhà vu. Đại Dương(Dân trí)
  16. Thủy trong nhà Chú Hỏa Một trong những ngôi nhà ở nổi tiếng nhất Sài Gòn là nhà chú Hoả. Nhiều tài liệu để lại cho thấy ông Hui Bon Hoa – tên đầy đủ của chú Hoả – là một người giàu lên từ giới bình dân, nhưng ngôi nhà của ông lại là một kiệt tác kiến trúc bác học. Điều đó hoàn toàn khác với cái thông lệ chúng ta thường thấy… Nói không ngoa, chính ông đã tạo nên phong cách chuẩn mực cho nhà ở Sài Gòn trong một thời gian dài, dẫu rằng sau những năm 1930, Art Deco thoái trào. Nhà được xây vào năm 1920, gồm bốn tầng – một trệt, ba lầu, theo phong cách Art Deco rất hiện đại thời đó, ra đời và thịnh hành tại Paris trong những năm 1920. Giếng trời như là chiếc máy lạnh sạch thời kỳ này Khi du nhập phong cách này vào Việt Nam, người Pháp đã đồng thời xử lý tuyệt hảo các ngôi nhà trước cái nóng của xứ nhiệt đới thời chưa có máy lạnh. Với ngôi nhà của chú Hoả, thì cách xử lý này cũng vậy. Art Deco vốn là một phong cách dễ bị tẩu hoả nhập ma khi pha trộn các phong cách khác một cách thô thiển. Nhưng ngôi nhà chú Hoả được “chiết trung” tốt các phong cách giữa phương tây và bản địa. Nói “chảnh” một chút, hồi đó tuy chưa có điện nhiều, nhưng ngôi nhà đã bị “ô nhiễm” vì “quá dư” ánh sáng. Hoa văn trang trí, linh hồn của Art Deco, tạo ra sự mềm mại và thân thiện. Lối đi giữa các phòng với những hình khối bêtông thanh thoát. Không gian cầu thang và đèn trời cửa sổ kính lớn. Tự nhiên và ánh sáng tràn tự nhiên vào những “trùng thiềm” rất lớn này. Nó cho người ta cảm giác sống trong hẻm cao cấp, tĩnh lặng, trốn cái ồn của mặt tiền. Hẻm là môi sinh đặc trưng và muôn sắc của người Sài Gòn. Chú Hoả là nhà kinh doanh bất động sản hẳn “giác ngộ” được không gian sống hẻm này của xứ nhiệt đới hơn ai hết. Chi tiết hoa văn tay vịn cầu thang Bancông của ngôi nhà thiếu một cửa đầy trăm này được tận dụng để phô trương các hoa văn của sắt – chất liệu đến giờ vẫn đang còn đương đại Các hoạ tiết gốm địa phương được đưa vào ngôi nhà đi chung với những hình khối vòm gothique Mặt tiền của ngôi nhà gồm phong cách mái vòm tròn, vòm nhọn, mái cửa vào theo thức bản địa và lối đi hai bên không cho đâm thẳng vào nhà. Người ta có thế nhìn thấy nét “điệp ốc” theo thức trùng thiềm điệp ốc (hiên liền hiên, mái nhấp nhô san sát) của bộ mái nhà này. Bài: Khởi Thức - ảnh: Trần Việt Đức
  17. 66 câu Phật học 1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm. 2. Nếu anh không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho anh. Vì chính tâm anh không buông xuống nổi. 3. Anh hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình. 4. Anh phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương anh, anh phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực. 5. Khi anh vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi anh đau khổ, anh hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn. 6. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai. 7. Anh có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên. 8. Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định anh sẽ ân hận. 9. Khi nào anh thật sự buông xuống thì lúc ấy anh sẽ hết phiền não. 10. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành. 11.Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương, chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi người khác. 12. Anh đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, anh phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính anh. 3. Một người nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng họ sẽ không bao giờ được thanh thản. 14. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác. 15. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời, xin anh “ đa khẩu hạ lưu tình”. 16.Vốn dĩ không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa anh là ai? Giả sử anh bị chó điên cắn anh một phát, chẳng lẽ anh cũng phải chạy đến cắn lại một phát? 17. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ nhớ đến người anh không hề yêu thích. 18. Mong anh đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận. 19. Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao anh lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao anh phải chứa đầy những não phiền như vậy? 20. Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, chính vì anh hiểu nó quá ít, anh không có thời gian ở chung với nó. Nhưng rồi một ngày nào đó khi anh hiểu sâu sắc, anh sẽ phát hiện nó vốn không đẹp như trong tưởng tượng của anh. 21. Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại phát hiện có người không có chân. 22.Tốn thêm một chút tâm lực để chú ý người khác chi bằng bớt một chút tâm lực phản tỉnh chính mình, anh hiểu chứ? 23. Hận thù người khác là một mất mát lớn nhất đối với mình. 24. Mỗi người ai cũng có mạng sống, nhưng không phải ai cũng hiểu được điều đó, thậm chí trân quý mạng sống của mình hơn. Người không hiểu được mạng sống thì mạng sống đối với họ mà nói chính là một sự trừng phạt. 25. Tình chấp là nguyên nhân của khổ não, buông tình chấp anh mới. 26. Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn. 27. Khi anh thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối anh. 28. Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện. 29. Người âm thầm quan tâm chúc phúc người khác, đó là một sự bố thí vô hình. 30. Đừng gắng sức suy đoán cách nghĩ của người khác, nếu anh không phán đoán chính xác bằng trí huệ và kinh nghiệm thì mắc phải nhầm lẫn là lẽ thường tình. 31. Muốn hiểu một người, chỉ cần xem mục đích đến và xuất phát điểm của họ có giống nhau không, thì có thể biết được họ có thật lòng không. 32. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu. 33. Người không tắm rửa thì càng xức nước hoa càng thấy thối. Danh tiếng và tôn quý đến từ sự chân tài thực học. Có đức tự nhiên thơm. 34. Thời gian sẽ trôi qua, để thời gian xóa sạch phiền não của anh đi. 35. Anh cứ xem những chuyện đơn thuần thành nghiêm trọng, như thế anh sẽ rất đau khổ. 36. Người luôn e dè với thiện ý của người khác thì hết thuốc cứu chữa. 37. Nói một lời dối dang thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì khổ như vậy? 38. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm. 39. Quảng kết chúng duyên, chính là không làm tổn thương bất cứ người nào. 40. Im lặng là một câu trả lời hay nhất của sự phỉ báng. 41. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình. 42. Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả. 43. Đến là ngẫu nhiên, đi là tất nhiên. Cho nên anh cần phải “ tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng tùy duyên”. 44. Từ bi là vũ khí tốt nhất của chính anh. 45. Chỉ cần đối diện với hiện thực, anh mới vượt qua hiện thực. 46. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, anh dối người khác được nhưng không bao giờ dối nỗi lương tâm mình. 47. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác. 48. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì? 49. Đừng vì một chút tranh chấp mà xa lìa tình bạn chí thân của anh, cũng đừng vì một chút oán giận mà quên đi thâm ân của người khác. 50. Cảm ơn thượng đế với những gì tôi đã có, cảm ơn thượng đế những gì tôi không có. 51. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi. 52. Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cáng của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa địch thành bạn. 53. Thành thật đối diện với mâu thuẩn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình. 54. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó. 55. Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối. 56. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối anh nhất thời, nhưng nó lại gạt anh suốt đời. 57. Chỉ cần tự giác tâm an, thì đông tây nam bắc đều tốt. Nếu còn một người chưa độ thì đừng nên thoát một mình. 58. Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ này, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi. 59. Nếu anh có thể sống qua những ngày bình an, thì đó chính là một phúc phần rồi. Biết bao nhiêu người hôm nay đã không thấy được vầng thái dương của ngày mai, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành tàn phế, biết bao nhiêu người hôm nay đã đánh mất tự do, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành nước mất nhà tan. 60. Anh có nhân sinh quan của anh, tôi có nhân sinh quan của tôi, tôi không dính dáng gì tới anh. Chỉ cần tôi có thể, tôi sẽ cảm hóa được anh. Nếu không thể thì tôi đành cam chịu. 61. Anh hy vọng nắm được sự vĩnh hằng thì anh cần phải khống chế hiện tại. 62. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh. 63. Người khác có thể làm trái nhân quả, người khác có thể tổn hại chúng ta, đánh chúng ta, hủy báng chúng ta. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà oán hận họ, vì sao? Vì chúng ta nhất định phải giữ một bản tánh hoàn chỉnh và một tâm hồn thanh tịnh. 64. Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Anh muốn học tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn. 65. Thế giới vốn không thuộc về anh, vì thế anh không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta. 66. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.
  18. Rồng trong kinh điển Phật giáo Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại. Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thọai về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật, Phật hàng phục hỏa long, Long vương nghe kinh Thập thiện, Long nữ thành Phật… Rồng trong sự kiện đản sinh Theo kinh Qúa khứ hiện tại nhân quả, khi thái tử Tất đạt đa ra đời có Tứ thiên vương dùng lụa quý của cõi trời đỡ, Trời Đại Phạm thiên và Trời Đế Thích cầm lọng báu đứng hầu hai bên. Lúc này trên không trung có hai vị Long vương phun hai dòng nước ấm và mát tắm cho thái tử. Kinh chép như sau: “…Lúc mặt trời vừa mọc, bà (hòang hậu Ma Da) thấy trong vườn có một cây lớn tên là Vô Ưu, sắc hoa rực rỡ, mùi hương thơm ngát, cành lá bủa rất rộng rất đẹp, liền với tay phải muốn hái hoa kia. Ngay khi đó, Bồ tát từ hông phải bước ra. Lúc ấy, nơi gốc cây cũng hiện ra bảy hoa sen bảy báu (thất bảo) lớn như bánh xe. Bồ tát đứng trên hoa sen không cần người đỡ, tự đi bảy bước, đưa cánh tay phải lên, cất giọng như sư tử rống: “Trong tất cả trời người, ta là bậc tôn quý nhất; vô lượng sinh tử, hôm nay đã chấm dứt. Đời này ta sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh”. Vừa nói xong, bốn vị Thiên vương lấy lụa trời đỡ lấy Thái tử, đặt trên ghế báu, Thích Đề Hòan Nhơn và Đại Phạm Thiên Vương tay cầm bảo cái đứng hầu hai bên, Long vương Nan Đà, Long vương Ưu Ba Nan Đà ở trên hư không phun một dòng nước ấm, một dòng nước mát trong sạch tắm cho Thái tử. Thân Thái tử màu vàng ròng, có 32 tướng tốt, phóng ánh sáng rực rỡ chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Tám bộ Trời, Rồng ở trên hư không trỗi các kỹ nhạc, ca tụng khen ngợi, đốt các hương thơm, rải nhiều hoa báu, tuôn xuống như mưa các lọai y trời và anh lạc rực rỡ, không thể tính kể”. Trong kinh Đại Bổn và Vị tằng hữu pháp cũng có nói: Khi thái tử ra đời, thân không dính một chất dơ nào từ lòng mẹ, có bốn Thiên tử đỡ rồi đặt trước Hòang hậu và thưa: “Hòang hậu hãy hoan hỷ. Hòang hậu vừa sinh một bậc vĩ nhân”. Từ hư không có một dòng nước ấm và một dòng nước mát tắm gội cho thái tử. Còn trong kinh Phổ Diệu ghi rằng, lúc Thái tử đản sinh có chín con rồng từ trên hư không phun nước xuống tắm cho thái tử. Chín vì huyền thọai chín rồng phun nước mà sau này có câu kệ tán dương Đức Phật như sau: “Ngọc chất giáng hòang cung, cửu long phún thủy tề mộc dục” (Bản chất thanh tịnh, trong sạch, quý báu như ngọc giáng sinh ở chốn hòang cung, chín rồng phun nước đồng tắm cho thái tử) Rồng che mưa cho Đức Phật Theo Đại Phẩm của Luật tạng, vào tuần lễ thứ ba sau khi thành đạo, khi Đức Phật ngồi thiền định dưới gốc cây Mucalinda thì mưa to gió lớn nổi lên, một con rắn mãng xà đến quấn quanh mình Ngài và cất cao đầu lên che mưa cho Ngài. Trong Đức Phật và Phật pháp của Ngài Nàrada Mahà Thera (Phạm Kim Khánh dịch) ghi sự kiện này xảy ra vào tuần thứ sáu sau khi Phật thành đạo, thời gian Đức Phật chứng nghiệm hạnh phúc giải thóat. Trận mưa bão kéo dài suốt bảy ngày mới chấm dứt. Khi trời quang mây tạnh, con mãng xà tháo mình trở ra và hóa hiện thành một thanh niên chắp tay đứng trước Đức Phật. Đức Phật đã nói cho người thanh niên nghe một bài kệ có nội dung như sau: “Đối với hạng người tri túc, đối với người đã nghe và đã thấy chân lý thì sống ẩn dật là hạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, có thiện chí, người biết tự kiềm chế, thu thúc lục căn đối với tất cả chúng sinh là hạnh phúc. Không luyến ái người, vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá tan được ngã chấp quả thật là hạnh phúc tối thượng”.[/color] Câu chuyện rắn thần che mưa cho Đức Phật khi truyền sang Trung Hoa đã chuyển thành câu chuyện rồng thần che mưa cho Đức Phật. Chính vì thế mà trong nhiều chùa có tranh ảnh, phù điêu khắc họa hình ảnh Đức Phật ngồi nhập định dưới gốc cây giữa trời mưa to gió lớn, có rồng thần quấn quanh mình và cất cao đầu che mưa cho Ngài. Trong các huyền thọai về Đức Phật được ghi lại trong kinh điển, sau khi lưu truyền qua các nước Trung Hoa, Việt Nam..., hình ảnh rồng thần được thay cho hình ảnh rắn thần. Cũng như trong sự kiện trên (Rắn thần che mưa cho Đức Phật), trong sự kiện Đức Phật hàng phục độc xà (sẽ nói ở phần sau), các kinh điển Bắc truyền ghi lại hình ảnh một con hỏa long (rồng lửa) thay vì là một con rắn độc. Đối với người Ấn Độ thì rắn là con vật thiêng liêng trong khi ở các nước Trung Hoa, Việt Nam thì rồng là linh vật. Phật hàng phục hỏa long Trong kinh Qúa khứ hiện tại nhân quả có thuật lại rằng: Đức Phật muốn hóa độ ba anh em ông Ưu lâu tần loa Ca diếp và các đệ tử của họ, bèn đi đến bờ sông Hằng, nơi họ và các đệ tử trú ngụ. Khi Đức Phật đến nơi thì trời đã tối, Ngài bèn hỏi ông Ca diếp: “Tôi đi lỡ đường, xin ông cho tôi nghỉ nhờ một đêm”. Ông Ca diếp từ chối: “Rất tiếc, ở đây đồ chúng quá đông, không có chỗ nào để mời Ngài nghỉ lại”. Đức Phật nói: “Chỗ nào cũng được. Tôi chỉ xin nghỉ nhờ một đêm thôi”. Ông Ca diếp bèn chỉ về phía một hang động gần đó rồi bảo: “Nơi kia có thể nghỉ tạm được. Tiếc rằng trong đó có một con hỏa long rất dữ, người lạ vào e bị nó làm hại”. Đức Phật nói: “Không sao đâu. “Ngã nội thanh tịnh, ngọai tai bất nhập”(Bên trong ta thanh tịnh, tai họa bên ngòai không xâm hại được. Xin ông vui lòng để tôi ở lại nơi đó”. Đức Phật vào trong hang động, hỏa long nghe hơi lạ bèn bay ra, phun khói độc vào Ngài. Nhưng khi khói độc gần đến chỗ Phật thì bay ngược trở lại. Hỏa long bèn phun lửa, nhưng khi lửa gần đến chỗ Phật thì cháy ngược trở lại hỏa long. Đức Phật bèn nhập định Hỏa quang tam muội hóa lửa cháy sáng cả hang động, lửa của hỏa long bị đẩy lùi. Đức Phật từ bi bảo với nó: “Ngươi đã thấy phép thuật của ngươi còn thấp kém chưa?” Đức Phật bèn đưa bình bát ra và nói: “Ngươi hãy vào đây để tránh lửa”. Hỏa long vội thu mình bay vào trong bát của Đức Phật.Về sau, ba anh em ông Ca diếp và các đồ chúng nhận thấy thần lực và đức độ của Đức Phật không ai sánh bằng, họ đã xin quy y theo Phật. Long nữ thành Phật Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm thứ 12 Đề Bà Đạt Đa có nói sự kiện Long nữ, con gái Long vương thành Phật như sau: Lúc bấy giờ, Bồ tát Trí Tích, thị giả của Phật Đa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ tát Trí Tích: “Thiện nam tử, hãy chờ giây lát. Ở đây có Bồ tát Văn Thù, ông và Văn Thù có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về”. Ngay khi ấy, Bồ tát Văn Thù và các Bồ tát tùy tùng ngồi trên hoa sen lớn, từ nơi cung Rồng (Long cung) Ta kiệt la trong biển lớn bay lên hư không, rồi bay đến núi Linh Thứu, từ hoa sen bước xuống, đảnh lễ Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca, kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí Tích, sau đó ngồi qua một bên. Bồ tát Trí Tích bèn hỏi Bồ tát Văn Thù: “Ngài qua cung Rồng hóa độ được bao nhiêu chúng sinh?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Vô lượng. Nếu Ngài không tin, sẽ tự chứng biết”.Bồ tát Văn Thù nói chưa dứt lời thì có vô số Bồ tát ngồi hoa sen từ biển bay lên đến núi Linh Thứu, trụ trên hư không, tất cả đều do Bồ tát Văn Thù hóa độ. Bồ tát Văn Thù nói: “Ở biển, ta thường tuyên thuyết kinh Diệu Pháp”. Bồ tát Trí Tích hỏi: “Kinh này rất thâm diệu. Vậy có chúng sinh nào siêng tu theo kinh này mà mau thành Phật không?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Có con gái của Long vương, mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí đức, trong khỏanh khắc phát Bồ đề tâm, được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, từ bi rộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến Bồ đề”. Bồ tát Trí Tích không tin hỏi: “Chính Đức Phật Thích Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp tu tạo nhiều công đức, làm những hạnh khó làm mới thành đạo Bồ đề, làm sao tin được Long nữ trong chốc lát mà chứng thành Chánh giác”.Đàm luận chưa xong, Long nữ bỗng hiện ra, cung kính đảnh lễ Phật rồi đứng qua một bên, nói kệ xưng tán pháp thân và cho biết nhờ nghe được diệu pháp mà nàng đã thành Bồ đề, nhưng việc này chỉ Phật chứng biết mà thôi. Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Long nữ: “Thân gái nhơ uế, có năm điều chướng ngại, còn con đường Phật đạo xa diệu vợi, phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ mới đi hết, mà ngươi nói tu không bao lâu đã chứng được vô thượng Chánh giác. Làm sao tin được?” Long nữ bèn lấy một hạt châu hiến dâng Đức Phật Thích Ca, Đức Phật thọ nhận. Bấy giờ Long nữ hỏi Bồ tát Trí Tích: “Tôi hiến châu, Thế Tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng?” Bồ tát Trí Tích đáp: “Mau”. Bấy giờ Long nữ nói: “Ông hãy lấy thần lực của ông xem đây, tôi thành Phật còn mau hơn việc đó”. Chúng hội liền thấy Long nữ thọat nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ tát, qua cõi Vô cấu phương nam, ngồi hoa sen báu, thành bậc Đẳng Chánh giác”. Câu chuyện Long nữ thành Phật có ý nghĩa cao sâu: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, dù là lòai nào, nam, nữ, già, trẻ, bé, lớn đều có khả năng thành Phật nếu như đầy đủ trí tuệ và công đức phước báu, tu hành không thối chuyển, có tâm từ bi rộng lớn, có vô ngại biện tài. Cũng như Long nữ vốn là lòai rồng (súc sinh), lại mang thân nữ, chỉ mới tám tuổi thôi, nhưng nhờ tu tập, tích chứa công đức phước báu, có tâm tánh, ý chí của bậc nam nhi trượng phu quân tử (Long nữ biến thành thân nam), hội đủ điều kiện nhân duyên (thành tựu Lục độ vạn hạnh, chứng đạt tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền não (qua cõi Vô cấu) mà Long nữ đã thành bậc Đẳng Chánh giác. Theo kinh điển Phật giáo, Rồng là một trong Tám bộ chúng thường theo ủng hộ Phật pháp (Thiên long bát bộ): Thiên (Trời), Long (Rồng), Dạ xoa (Thần Dạ xoa, quỷ Dạ xoa), Kiền thát bà (Thần âm nhạc ở cõi trời, thường tấu thiên nhạc hầu vua trời Đế Thích), A tu la (Phi thiên, các chúng sinh này có phước báu như chư thiên nhưng kém đức, tâm thường sân hận và ưa tranh đấu), Ca lâu la (Kim sí điểu, lòai chim cánh vàng), Khẩn na la (Nhơn phi nhơn, hình dáng giống con người nhưng chẳng phải người, là vị thần đánh pháp nhạc cho trời Đế Thích nghe), Ma hầu la già (Thần mình người đầu rắn, bụng to). Trong các thời pháp của Đức Phật đều có sự tham dự của hàng Thiên long bát bộ. Phan Minh Đức
  19. Những giọt nước mắt của Tướng Giáp Thứ Tư, 25/01/2012 14:41 Ai đó đã cho rằng, trong cuộc đời nhiều vị tướng, nhất là tướng của những trận quyết chiến chiến lược, thường không có ước mắt, hay nói đúng hơn là không để rơi nước mắt. Một phút mềm yếu của họ rất có thể làm thay đổi cục diện chiến trường. Thế nhưng, có một vị "tư lệnh của các tư lệnh”- người đã đạt kỳ tích có một không hai: đánh bại 10 danh tướng thế giới (bảy Pháp, ba Mỹ), lại có nhiều phen rơi lệ trong đời. Những giọt nước mắt ấy đã góp phần làm nên một vị thống soái không bao giờ lạnh lùng với sinh mạng của mỗi người lính, không vô cảm trước những nỗi đau của đồng bào, đồng đội. Ông là Võ Nguyên Giáp. Chiến cuộc không phải ván cờ, càng không có nước “thí tốt” Trong dịp sinh nhật lần thứ 100 của vị Đại tướng lừng danh Võ Nguyên Giáp, khi ông đang nằm trên giường bệnh, chính tại căn nhà thân thương của ông, một vị đại tá 84 tuổi đã khiến mọi người rơi nước mắt. Ông là Hoàng Minh Phương, nguyên trợ lý cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông nói: "Riêng với các chiến sĩ Điện Biên Phủ, ân tình với Đại tướng lại càng sâu nặng. Nếu không có quyết định sáng suốt, đêm trắng suy tư để thay đổi cách đánh, từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc tiến chắc của Tổng tư lệnh thì hậu quả không biết đến thế nào. Có lẽ chúng ta ngồi đây đã hy sinh hết cả". Câu nói hôm ấy của Đại tá Phương khiến tôi giật mình nhớ đến câu chuyện xúc động của một ngày hè năm 2004. Năm đó cả nước rộn rã kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên. Ngày 20-4-2004, Điện Biên vui hơn rất nhiều các địa phương khác vì được đón một cố nhân đặc biệt trở lại chiến trường xưa. Tướng Giáp gặp lại đồng đội cũ (2006). Ảnh: Nhà báo - đại tá Trần Hồng Đại tướng và người lái xe lâu nhất của mình (2001). Ảnh: Nhà báo - đại tá Trần HồngVị tướng già 94 tuổi xuất hiện trong hội trường lớn của tỉnh Điện Biên trong tiếng vỗ tay vang dậy không ngớt. Ông bước đi chậm rãi giữa hai hàng danh dự của hơn 300 người lính Điện Biên năm xưa. Nhiều cựu chiến binh thua ông tới vài chục tuổi, nhưng mái tóc thì cũng đã bạc trắng như vị thống soái. Vị tướng già không đeo một tấm huân chương nào, nhưng mỗi tiếng vỗ tay của hàng trăm người đã vào sinh ra tử kia chẳng khác gì một tấm huân chương cao quý dành tặng Đại tướng. Tôi đồ rằng, chắc họ cũng nghĩ như Đại tá Phương: Nếu vị Tổng tư lệnh ấy không vật vã cân não để thay đổi cách đánh, thì chắc là phần đông số họ đã không còn được đứng ở đây ngày gặp lại. Ông bước lên bục, nói ngắn gọn, chậm rãi và đột nhiên cái đầu uyên bác của ông bật ra một câu thật giản dị mà thấm thía: "Chúng ta được gặp nhau đây là quý lắm rồi!". Nghe xong câu ấy, tất cả hơn 300 mái đầu bạc trong hội trường lặng phắc. Vị đại tá già quê Nghệ An ngồi bên cạnh tôi bất giác đưa cánh tay cụt đến gần khuỷu tay lên lau nước mắt. Đúng, những người ở hội trường này chỉ bằng một phần nhỏ chiến sĩ đã vĩnh viễn gửi thân mình vào đất mẹ. Thế thì được gặp nhau đây hẳn là quý lắm rồi. Trong lịch sử nhân loại, không ít vị tướng chấp nhận nướng quân, chấp nhận nhiều lần thí tốt trên bàn cờ chiến cuộc, nhưng Tướng Giáp không - nằm - trong - số - ấy. “Đại tướng không bao giờ coi một trận chiến đấu như một trận đánh cờ. Và chiến sĩ không phải là những con tốt trên bàn cờ. Đại tướng luôn cân nhắc để làm sao giành được thắng lợi cao nhất mà tổn thất về sinh mạng thấp nhất" - Đại tá Trịnh Nguyên Huân, người trợ lý có hơn 30 năm gắn bó với Tướng Giáp, khẳng định. Cố Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, đã thốt lên: “Võ Nguyên Giáp là Tư lệnh của các tư lệnh, Chính ủy của các chính ủy... Ông là một Tổng tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh”. Có mặt ở Điện Biên Phủ trong những tháng ngày gian khổ năm 1954, nhà văn Nguyễn Đình Thi từng nhận xét: "Một vị Tổng tư lệnh, đồng thời là người chỉ huy chiến dịch mà viết nhiều thư gửi chiến sĩ với những lời thân mật như anh em, quả là điều hiếm thấy trong chiến tranh các nước!”. Một vị tướng nhân bản, yêu thương binh sĩ như anh em như thế, thì không khó để hiểu: Tại sao trong đời, ông lại có nhiều lần rơi nước mắt. Chuyện kể về những giọt nước mắt Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, hôm đó là ngày 13-4-2004. Chắc chắn không có nhiều lễ mít tinh nghiêm trang nào mà lại có nhiều người khóc đến như vậy. Phát biểu đến đoạn phải nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ, Tướng Giáp tay run run lấy khăn lau nước mắt. Bàn tay nhăn nheo. Những giọt nước mắt chảy chậm trên gò má cũng đã nhăn nheo. Hình ảnh ấy khiến cho ngay cả những kẻ hậu sinh chưa từng có kỷ niệm, chưa từng mất mát bởi trận mạc như tôi còn phải nghẹn ngào chứ nói gì đến những người lính năm xưa đã từng vào sinh ra tử cùng Đại tướng. Đó là lần đầu tiên tôi thấy ông khóc. Sau này, tôi có nhiều dịp qua lại với các vị tướng, tá đã từng gắn bó với ông, họ đều khẳng định Tướng Giáp đã nhiều lần rơi lệ. Đại tá nhà báo, nhiếp ảnh gia Trần Hồng có một gia tài tới hơn 2.000 bức ảnh quý về Tướng Giáp. Một gia tài đủ để ông thanh thản và tự hào. 2.000 bức hình, tấm nào cũng quý, nhưng ông vẫn tâm đắc nhất hai khoảnh khắc chụp được phút rơi lệ của Đại tướng. Kể về giây phút đã trôi qua nhiều năm ấy, Đại tá Hồng vẫn còn rưng rưng giọng: “Đó là bức ảnh tôi chụp Đại tướng đứng bên cạnh tượng Bác Hồ. Buổi trưa hôm ấy, tôi bất chợt đi ngang qua văn phòng thì thấy Đại tướng đang đứng cạnh tượng Bác, mắt đỏ hoe. Tôi vội lấy máy, chụp được ba kiểu thì nước mắt Đại tướng tuôn rơi. Tôi cũng bỏ máy khóc theo. Bức ảnh được đặt tên là "Nhớ Bác" và chính anh Văn đặc biệt thích tác phẩm này”. Nhà văn Sơn Tùng, tác giả của cả một kho tàng về Bác Hồ, cũng được Đại tướng coi là một trong những người tri kỷ. Ông thực sự bất ngờ khi thấy vị Đại tướng bách chiến bách thắng ứa nước mắt. Nhà văn kể: “Trong dịp Tết Mậu Dần 1998, sau khi đến thăm trại thương binh nặng ở Thuận Thành (Bắc Ninh), gặp lại những chiến binh đã để lại một phần thân thể trên nhiều chiến trường khác nhau của đất nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã không cầm được nước mắt. Ông bùi ngùi xúc động bắt tay thăm hỏi từng người và đứng lặng hồi lâu trước những đồng đội thương binh nặng, tàn mà không phế”. Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, vị Tư lệnh Binh đoàn 559 huyền thoại của Trường Sơn năm xưa, cũng không thể nào quên được những giọt nước mắt của Tướng Giáp. Trong chuyến công tác về lại Trường Sơn, Đại Tướng đi thăm con đường 20 huyền thoại tại Quảng Bình, nơi đã phải hứng hàng ngàn vạn tấn bom đạn quân thù, nơi có đèo Phu La Nhích nổi tiếng quật cường, nơi có tám cô gái thanh niên xung phong bị bom vùi chôn sống trong hang đá. Đứng giữa khói hương, trong cái gió lồng lộng đại ngàn, Đại tướng không kìm được nước mát. Khoảnh khắc ấy được lưu lại vô cùng lay động trong những trang hồi ký của Tướng Nguyên: “Những giọt nước mắt dành cho những chiến sĩ vĩnh viễn nằm lại trên trọng điểm này của vị Tổng tư lệnh giữa chiều Trường Sơn thật sự thấm đậm tình người, lắng sâu trong tâm khảm chúng tôi, không thể nào quên được!”. Một tác giả người nước ngoài, TS Virginia Louise Morris, tác giả cuốn sách Đường mòn Hồ Chí Minh - con đường dẫn tới tự do, cũng không thể nào quên được cuộc trò chuyện với Đại tướng. Bà kể rằng Tướng Giáp không ngại ngùng khi nói mình thường khóc khi nhớ đến những gian khổ và mất mát của chiến sĩ Trường Sơn. “Tướng Giáp nói: Ngay bây giờ chúng ta có thể ngồi nghe với nhau những bài hát đó về Trường Sơn và cuộc kháng chiến gian khổ hào hùng của dân tộc Việt Nam. Trong những dịp như vậy, tôi đã khóc... và tôi nghĩ rằng nếu chị là một cô gái Việt Nam vào lúc đó, chị cũng sẽ đi Trường Sơn". Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến tâm sự rất thật của nhà văn Nguyễn Quang Lập, một đồng hương Quảng Bình của Đại tướng. Anh Lập chưa từng gặp Đại tướng nhưng đã khóc òa khi đến xem đoạn kết vở kịch Bài ca Điện Biên năm 1984. Hôm ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến xem kịch. Đoạn kết vở kịch đó, diễn viên sắm vai chính ủy, thay vì đứng trên sân khấu điện về cho chỉ huy sở báo cáo chiến thắng, thì đột nhiên chạy vụt xuống hàng ghế khán giả, nơi Đại tướng ngồi, giơ tay chào, dõng dạc: "Báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh mặt trận, chiến dịch Điện Biên Phủ đã hoàn toàn thắng lợi. Tướng Đờ Cát đang ở trước mặt chúng ta". Cả hội trường đứng lên vỗ tay như sấm rền trong 10 phút, còn anh Lập chạy ra ngoài khóc nức nở vì quá đã, vì hạnh phúc bởi cái kết sáng tạo đã nói hộ bao người: Võ Nguyên Giáp là Đại tướng vĩnh viễn, Đại tướng của nhân dân. Đại tướng để rơi nước mắt vì bao người, thì chẳng có gì khó hiểu nếu bao người rơi nước mắt vì Đại tướng. Xin được kết bài viết bằng đôi câu đối trác tuyệt của GS Vũ Khiêu viết tặng Đại tướng: Võ công truyền quốc sử Văn đức quán nhân tâm. Theo Bùi Ngọc Hải (Phụ Nữ TPHCM)
  20. Chuyên gia phong thủy bàn chuyện đầu tư năm Rồng Theo chuyên gia phong thủy Philip Chow, Nhâm Thìn là năm của "con Rồng nước", vì vậy các lĩnh vực liên quan đến Thủy và Mộc sẽ phát, chẳng hạn như vận chuyển,du lịch, nông nghiệp, thời trang và xi măng... Từ tháng 8 năm nay, dự kiến thị trường sẽ phục hồi mạnh mẽ (ảnh minh họa). Năm cũ Tân Mão đã khép lại mở ra những triển vọng cho năm mới Nhâm Thìn với biểu tượng con Rồng luôn được cho là hiện thân của những điều tốt đẹp, sự hùng mạnh, dũng mãnh của tự nhiên.Nhà đầu tư sẽ trở nên e ngại? Hay sẽ thành công hơn khi thị trường vốn khởi sắc trở lại, cùng với loài vật huyền bí “cất cánh” bay lên một tầm cao khác? Mới đây, chuyên gia phong thủy nổi tiếng Philip Chow thuộc Tập đoàn môi giới và đầu tư “Các thị trường Châu Á - Thái Bình Dương” (CLSA) của Hồng Kông đã tiết lộ những phát hiện thú vị về năm mới âm lịch này. Nhìn chung, năm vừa qua thị trường vấp phải nhiều khó khăn. Chow lý giải, nhiều cơ hội bị nhà đầu tư bỏ lỡ vì thỏ (năm Mão ở Việt Nam là năm Thỏ ở Trung Quốc) là loài vật có tính cách nhút nhát, sợ hãi. Ở đây, thầy phong thủy người Hồng Kông đề cập đến việc Trung Quốc hồi năm ngoái tuyên bố không thể cam kết đầu tư vào Quỹ ổn định tài chính châu Âu (EFSF) cho đến khi tình hình Hy Lạp được làm rõ. Đồng thời, Tân Mão cũng là một năm đầy “gánh nặng” bởi sự mất cân bằng của các nguyên tố và tiềm ẩn nguy hiểm khi dư thừa “Hỏa” và “Kim”. Năm Mão mệnh Mộc: Kim khắc Mộc và có thể trị Mộc, trong khi đó Mộc lại sinh Hỏa. Thị trường Trung Quốc năm vừa qua ảm đạm và không gặp nhiều điềm lành. Tuy nhiên, Rồng – loài vật duy nhất được hư cấu trong 12 con giáp – lại được tạo ra từ những chất liệu mạnh mẽ. Hơn nữa, năm 2012 lại không hề có “Hỏa” trong danh mục, và chỉ có một lượng rất ít là “Kim”, tạo nên sự suôn sẻ (năm Thìn mệnh Thủy). Mặc dù vậy, Chow cũng khuyến cáo, nửa đầu năm nay có vẻ sẽ còn một chút ít sự cố, khi mà “con rồng nước màu đen” vẫn còn đang giữ đầu trong nước.Những tháng hè sẽ bị nhiệt thiêu đốt, điều đó có nghĩa là thị trường trong 6 tháng đầu năm còn ảm đạm và tháng 7 sẽ chứng kiến viễn cảnh xấu nhất. “Hãy bán ra vào tháng 5 và rời bỏ thị trường” – Chow khuyên. Một điều đáng lo ngại khác trong năm nay theo nhìn nhận của chuyên gia phong thủy lại chính là Thủ tướng Đức Angela Merkel. Bà Merkel sinh năm Ngọ, mệnh Mộc (Ngựa gỗ) nên sẽ không hợp với năm của “một con Rồng nước”. Trên thực tế, Chow cho rằng, số tử vi của bà Merkel báo trước cho “một năm gây sốc”. Đặt giả thiết cuộc khủng hoảng khu vực đồng euro còn tiếp diễn cho đến hết năm nay thì có thể sẽ leo thang trong mùa hè này.Dù vậy, con Rồng, về bản chất là một người thay đổi cuộc chơi (gamechanger), mang đặc trưng của cả hai sự chuyển hướng ấn tượng và sự thịnh vượng vĩnh cửu. Theo đó, tháng 8 sẽ đóng vai trò như một điểm uốn, một bước chuyển giao khi con Rồng từ biển bay vút lên bầu trời. Quý III sẽ là giai đoạn thị trường hồi phục mạnh mẽ.Chuyên gia phong thủy Hồng Kông cũng cho biết, đối với Trung Quốc năm, tử vi của nhà lãnh đạo Tập Cận Bình sẽ mang lại nhiều điểm tốt lành cho quốc gia này. Tư vấn về hướng đầu tư, Chow cho rằng, năm nay, tất cả quy về hai yếu tốt “Thủy” và “Mộc”. Hay là những lĩnh vực liên quan đến nước như vận chuyển, du lịch và liên quan đến gỗ như nông nghiệp, thời trang. Ông khuyên, năm nay các nhà đầu tư nên quan tâm đặc biệt đến xi măng – một hỗn hợp giữa đất và nước. Người Trung Quốc có câu: Bạn không bao giờ có thể cùng lúc thấy cả đầu và đuôi con Rồng, đó là bởi vì nó di chuyển quá nhanh”, ông nhấn mạnh. Đồng thời cũng dự báo, tiến trình phục hồi của thị trường sẽ có xu hướng giảm dần đến tháng 12 và con Rồng lúc này có vẻ như nghỉ ngơi vào thời gian còn lại của năm âm lịch. Bích Diệp Theo Financial Times
  21. Quẻ này thưởng 1 vé đi! Mà không nói rõ vé về ai lo? Cung thê quản chặt phép to? Chi bằng thưởng cặp vé đôi khứ hồi? Vừa xong nhà mới Vừa vui đón kiều (Vịt kều) Năm nay phước bất trùng lai Bác đây bớt oải mà lo Sử Hùng.
  22. XUÂN CỬA THIỀN GN - Mỗi đêm chúng ta đều tụng Bát-nhã “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chiếu kiến ngũ uẩn của ai? Ngũ uẩn của mình. Như vậy là soi sáng, xét nét lại chính mình để biết rõ năm uẩn không thật, không có thực thể, từ đó mà qua tất cả khổ nạn. Thân đã không thật thì cảnh bên ngoài có thật được không? Không. Vậy mà con người luôn thấy thân tâm và muôn sự muôn vật lúc nào cũng có thật. Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đời là ảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh, mạnh dạn vượt qua ảo mộng. Có một sự tích liên quan đến đến việc gá thân mộng như thế này: Thiền sư “Đả Táo Đọa”, do đập bể ông táo mà thành danh. Ngài tu ở vùng núi Xuân Sơn bên Trung Hoa với một số đồ chúng. Một hôm Ngài dẫn chúng đi dạo núi, đến gần thung lũng thấy một miếu thờ, dân chúng làm thịt bò, trâu, heo, gà dâng cúng liên miên. Hỏi ra được biết vị thần Táo ở miếu này rất linh, cầu gì được nấy. Nghe rồi, Ngài cầm gậy vô miếu, thấy trên bàn thờ có để ba viên gạch, Ngài lấy gậy gõ vào đó nói:“Đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào ?” Nói xong, Ngài đập một gậy, ba viên gạch bể nát rơi xuống đất. Lát sau trên đường đi, gặp một vị áo xanh mũ xanh quì trước mặt. Ngài hỏi: - Ông là ai ? - Con là thần Táo trong miếu đến tạ ơn Hòa thượng. Ngài nói: - Ta đã làm gì mà ngươi tạ ơn ? - Nhờ ơn Hòa thượng nói lý vô sanh mà con tỉnh ngộ, thác sanh lên cõi trời, bỏ thân đọa đày trong bao nhiêu đời ở tại miếu này. Nói xong ông đảnh lễ rồi biến mất. Thị giả thấy vậy mới thưa: - Bạch Hòa thượng, con hầu Ngài đã lâu mà không được nghe nói lý vô sanh, thần Táo này có phước gì mà Hòa thượng mới nói một câu ông liền ngộ ? Ngài lặp lại câu nói trên cho thị giả nghe và hỏi: - Ông hội không ? - Dạ con không hội. Ngài nói: - Bể rồi! Bể rồi! Rơi rồi! Rơi rồi! Thị giả liền ngộ. Kể chuyện này để quí vị hiểu chỗ chúng tôi dùng chữ gá. Thần Táo gá vào đất gạch mà phải ở đó bao nhiêu năm. Còn chúng ta gá vào cái gì? Gá vào đất nước gió lửa, rồi chấp đó cho là mình, có đau khổ chưa? Cho là mình rồi thì giành hơn giành thua, chấp phải chấp quấy. Bao nhiêu tội nghiệp cũng từ đó mà ra. Nếu bây giờ nhớ thân này là cái mình gá, không có gì quan trọng hết, biết như vậy là biết được lý vô sanh. Thân này là giả tạm, là mộng, mộng thì có gì thật đâu. Trong khi mộng, sanh cũng mộng, tử cũng mộng, sanh không thật sanh, tử không thật tử. Nhận được như vậy thì lý vô sanh hiện tiền. Ngay thân này, nhận được lẽ thật thì thấy đạo, thấy đạo thì thoát ly sanh tử. Ngược lại, chúng ta cứ bám vào thân này cho là thật, là quí rồi xem cái khổ vui, hơn thua của nó là quan trọng, tức nhiên mình bị nó chi phối, không những trong hiện đời, mà cả lúc thọ thân sau. Cho nên ngay thân này chúng ta thức tỉnh, biết được nó là mộng thì tự nhiên có thể lần lần thoát ly, không bị nó cuốn lôi nữa. Do đó thần Táo chỉ nhờ nghe câu: “Đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào ?”, ông giựt mình thức tỉnh liền buông được cái gạch đất và sanh lên cõi trời. Chúng ta khi biết rõ thân này do đất nước gió lửa hợp thành, không phải thật mình thì sao ? Thật nhẹ nhàng biết mấy, nhưng không chịu buông, cứ bám vào đó mà hơn thua phải quấy. Có những đêm tôi ngồi ở ngoài, đuổi muỗi cắn, tôi rờ thấy xương, thấy thịt, một hồi tôi tức cười quá. Thân này thật không ra gì, gá vào nó cực quá. Gá từng khúc từng mảnh, mà cứ cho là mình, từ đó bao nhiêu cái dở phát sanh, kể không thể hết. Vậy mà cứ hài lòng, động đến là phản đối chống trả mãnh liệt. Chúng ta chỉ cần thức tỉnh thân này tạm gá mượn, lấy đó làm bè qua sông, đừng nghĩ nó là thật, cứ lo bồi bổ tô điểm đủ thứ mà chìm đắm, không qua sông được. Những điều tôi nói trên đây nhằm nhắc nhở cho cả Tăng Ni và cư sĩ. Nếu chúng ta thức tỉnh được điều đó thì chuyện thoát ly sanh tử không khó. Còn nếu chúng ta mê hoài thì không biết chừng nào ra khỏi biển sanh tử. Cho nên chủ yếu Phật dạy lý vô ngã là như vậy. Thấy rõ thân này không phải thật ngã thì tự nhiên thoát ly sanh tử. Nếu thấy là thật ngã thì ngàn đời không bao giờ ra khỏi sanh tử, dù tu hạnh gì cũng thế. Đó là một lẽ thật. Đối với người tỉnh, thương mình là phải tìm ra cái gì thật mình, cái gì không phải thật mình. Chúng ta xét xem nơi mình cái gì thật, cái gì không thật. Thân này thật không ? Không thật. Tạo sao? Vì thân vô thường, duyên hợp tạm có. Nhà Phật nói thân do bốn phần đất, nước, gió, lửa hợp lại thành. Chất cứng trong người là đất, chất ướt trong người là nước, chất động trong người là gió, hơi ấm trong người là lửa. Bốn thứ đó thiếu một thì không sống được. Khi bốn chất đó hợp lại thành thân rồi, muốn thân tăng trưởng lâu dài thì phải mượn đất, nước, gió, lửa bên ngoài bồi bổ thêm hoài. Như vậy nó mới còn, mới tăng trưởng. Như lỗ mũi chúng ta đang thở. Hít vô là mượn, thở ra là trả. Mượn trả, mượn trả… trả ra mà không mượn lại thì tắt thở. Nếu thân thật thì đâu cần mượn, mà mượn thì không thật. Đó là nói về gió. Đến nước, một lát mượn tách nước, mượn rồi trả. Rồi mượn cơm tức là mượn đất, mượn rồi cũng trả. Như vậy chúng ta sống an vui, khỏe mạnh là nhờ mượn trả suông sẻ. Nếu mượn trả trục trặc thì phải đến bệnh viện cứu cấp liền. Thế thì giá trị của con người ở chỗ nào? Chỉ là sự mượn trả, mà chúng ta cứ ngỡ mình thật, mình là chủ tất cả. Khi thấy được thân này vay mượn tạm bợ, chúng ta có bớt quí nó không? Giả sử ai chê, nói mình xấu quá ta có giận không? Đã là đồ vay mượn, xấu tốt có quan trọng gì. Sở dĩ người ta chê một câu mà mình nổi sân đùng đùng là do ta tưởng mình quí, tưởng mình tốt. Còn nếu biết mình là hư giả, người ta nói gì mình cũng cười thôi. Đó là người trí tuệ, ngược lại là kẻ si mê. Như vậy lấy cái tạm bợ làm cái chân thật của mình có được không ? Chắc chắn không được rồi. Đó là tôi nói về thân. Đến tâm, cái gì là tâm mình ? Vấn đề này tế nhị hơn. Lâu nay chúng ta quen cho nghĩ thiện nghĩ ác… là tâm mình. Tôi xin hỏi, từ khi cha mẹ sinh ta ra đến ngày nhắm mắt, mình là một hay trăm thứ tạp nhạp ? Tâm suy nghĩ thiện ác hơn thua phải quấy tạp nhạp, một ngày đổi thay cả trăm lần. Nếu tâm ấy là mình thì chúng ta tạp nhạp mất rồi. Nên phải biết tâm buồn thương giận ghét hơn thua phải quấy chỉ là những mảnh vụn, tạm bợ, chứ không phải thật tâm mình. Đạo Phật chỉ cho chúng ta cái gì là thật nơi mình. Như khi niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, tâm không còn suy nghĩ lăng xăng nữa, mới được đức Phật đón về Cực Lạc. Tại sao phải niệm tới chỗ nhất tâm? Vì tất cả những nghĩ suy đều là tạp nhạp hư dối, không phải thật mình. Lặng hết những thứ đó, tâm chân thật mới hiện bày. Tâm chân thật hiện bày nên Phật mới đến đón. Cho nên niệm Phật phải niệm tới nhất tâm là vậy. Người tu thiền để được định. Định những tâm lăng xăng lộn xộn mà lâu nay chúng ta mê cứ tưởng nó là mình. Những thứ giả dối tạm bợ ấy lặng rồi thì được định. Định tới chỗ cứu kính sẽ được Niết-bàn vô sanh. Như vậy, chủ trương đạo Phật dạy tu là dẹp tâm lăng xăng lộn xộn, trở về tâm chân thật sẵn có nơi mình. Lâu nay chúng ta quên nên cứ chạy theo những thứ lăng xăng thành ra chìm mãi trong sanh tử khổ đau. Năm cũ sắp tàn, bước qua năm mới, chúng tôi mong rằng quí vị tại gia nỗ lực làm đúng tinh thần học hiểu của mình. Còn giới xuất gia lập chí đúng tinh thần người xuất gia, để chúng ta chuẩn bị cho năm mới, cương quyết tiến tới mục đích mình đã định. Mong tất cả chuẩn bị cho năm mới đẹp đẽ hơn, mạnh mẽ hơn, cứng cỏi hơn để đạt được sở nguyện của mình. Đó là lời chúc xuân của tôi. HT.Thích Thanh Từ
  23. Giải nghi về nhân quả Một số người đặt câu hỏi thế này: “Người tu Phật có thể thay đổi được quả khổ của đời mình không?” Vì đa số Phật tử nghĩ mình tu thì bao nhiêu tội lỗi trước, những điều mình làm đau khổ cho người, đều do công đức tu hành mà tan biến hết. Nếu thay đổi được thì có trái với câu nhân nào quả nấy không? Trong kinh kể đức Phật tu hành đã thành Phật mà còn bị nạn kim thương, mã mạch, tức là vẫn thọ quả báo như thường. Nạn kim thương là chân Ngài bị mũi kiếm đâm lủng. Nạn mã mạch là Ngài phải ăn lúa ngựa hết ba tháng. Phật nói rõ lý do tại ngày xưa Ngài đã từng gieo nhân khổ cho người nên bây giờ tuy đã thành Phật nhưng cũng vẫn phải trả quả cũ. Đệ tử lớn của Ngài là Mục-kiền-liên nổi tiếng thần thông đệ nhất, khi già đi khất thực bị một số ngoại đạo vây đánh nhừ tử. Lúc bị đánh Ngài không dùng thần thông vì muốn trả hết nợ cũ, sau đó đau nặng rồi tịch luôn. Nếu các ngài tu chứng A-la-hán rồi, lẽ ra quả ngày xưa phải tiêu hết, tại sao vẫn phải trả?Do đó các thầy Tỳ-kheo thắc mắc hỏi Phật về việc này. Phật giải thích do trước Ngài đã tạo nhân giết hại nên ngày nay phải bị quả như vậy. Qua những câu trả lời đó chúng ta nghĩ sao? Nhân đã tạo phải chịu quả với những người chưa chứng đạo thì được, nhưng với các vị đã chứng đạo thì có người thắc mắc. Hoặc như trường hợp vua Kế-tân nghe lời ngoại đạo hại Tổ Sư Tử. Ông cầm cây gươm tới trước Tổ hỏi: “Ngài bảo thân năm uẩn đều không, vậy cho tôi cái đầu được không?” Ngài trả lời: “Thân năm uẩn đã không, sá gì cái đầu.” Thế là ông chặt đầu Tổ. Như vậy để nói rằng trước Ngài đã có ân oán với nhà vua trong nhiều đời, nên đến đời này Ngài phải trả. Tới Tổ Huệ Khả ở Trung Hoa, sau khi đắc đạo truyền bá một thời gian, Ngài gặp Tăng Xán truyền y bát rồi nói: “Ta còn một chút nợ phải trả.” Ngài đi tới xứ đó giảng đạo, có người tâu với tri phủ Ngài nói tà thuyết, gây rối loạn quần chúng, tri phủ liền bắt nhốt Ngài cho tới chết luôn. Chúng ta thấy từ Phật là vị tu hành đã hoàn toàn viên mãn rồi, đến ngài Mục-kiền-liên đã chứng A-la-hán, tới các Tổ cũng phải trả oan khiên đời trước. Vậy nói tu hành có thể thay đổi được nhân quả, đúng không? Đa số nói không được, nếu đổi không được thì người ta đặt nghi vấn, như vậy tu hành để làm gì? Đó là những nghi vấn đối với lý nhân quả thật khó hiểu. Vì vậy hôm nay tôi phải giải những nghi vấn ấy để tất cả quí Phật tử hiểu rõ, không còn ngờ vực thì trên đường tu mới tiến, đạt được lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Trong đạo Phật nói nhân quả là nói tới sự chuyển biến luôn trôi chảy không dừng. Cho nên từ nhân đến quả có thể thay đổi tùy theo sự chuyển biến ấy. Hoặc thay đổi ở chiều này, hoặc thay đổi ở chiều nọ, chớ không cố định. Nếu ai nghĩ nhân nào quả nấy cố định thì không đúng lẽ thật, phải thấy rằng nhân quả tùy duyên, tùy điều kiện thuận nghịch, nó luôn luôn chuyển biến. Đã là chuyển biến tức nhiên phải đổi thay chớ không thế nào nguyên vẹn trước sau như một được, phải xác nhận nhân quả cho rõ. Chúng tôi dùng một ví dụ để quí vị thấy dòng chuyển biến của nhân quả. Nhân là hạt hay cái ban đầu, quả là trái hay cái chót. Ví dụ như chúng ta đem gieo một hạt bắp xuống đất, từ hạt bắp đó nếu đủ đất, đủ nước, đủ ánh nắng, nó sẽ chuyển lần lần thành mầm bắp. Từ mầm bắp chuyển lần lần thành cây bắp con, từ cây bắp con chuyển lần lần thành cây bắp lớn. Từ cây bắp lớn dần dần thành trái. Như vậy một dòng chuyển biến từ một hạt nhỏ lần lần thành cây, rồi có quả có trái và cuối cùng rụi mất. Chúng ta thấy nó có dừng ở một chặng nào không? Từ nhân tới quả là một dòng chuyển biến không ngừng. Chúng ta có thể nói hạt bắp nhất định sẽ có trái bắp ăn không? Không hẳn. Có hạt bắp mà không xuống đất, không được nước, ánh nắng, được săn sóc thì nó không thành trái bắp. Có hạt bắp là có nhân, nhân đó có thể thành tựu được quả mà cũng có thể không thành tựu được quả. Phật pháp có cái nhìn hết sức thật. Nhìn đời, nhìn đạo, nhìn tất cả hành động của chúng ta, đều là một dòng thay đổi từ nhân tới quả. Trong khi thay đổi, nó còn có những nhân phụ trợ là nhân thuận để giúp thành hình hoặc nhân nghịch làm cho tiêu tan. Như có hạt bắp gieo xuống đất rồi, nhưng phải là đất tốt, được nước tưới đều thì hạt bắp mới nảy mầm. Khi nảy mầm rồi chúng ta phải săn sóc, bón phân, xem chừng sâu rầy có phá hay không, ta tạo duyên tốt để cây bắp tăng trưởng đều mới đạt được kết quả tốt. Nếu chúng ta để hạt bắp xuống rồi bỏ luôn, không tưới nước, không bón phân, không chăm sóc kỹ lưỡng thì cây bắp sẽ khô khan rồi chết, chớ không thành trái bắp được. Như vậy có nhân chưa khẳng định được sẽ có quả, còn những điều kiện phụ trợ nữa. Phụ trợ thuận thì tăng trưởng có kết quả. Ngược lại phụ trợ nghịch thì tiêu mòn hư mất. Đó là điều hết sức tế nhị, nếu không hiểu quí vị sẽ dễ thối tâm trên đường tu. Nhiều Phật tử tin gieo nhân nào được quả nấy, thấy ai nghèo đói ủng hộ giúp đỡ, sẵn sàng giúp đỡ những khó khổ của mọi người. Nhưng lâu lâu quí vị gặp một tai nạn xảy ra thì buồn trách “tôi làm lành, tại sao lại gặp quả xấu”. Điều này cần phải dè dặt, nếu gặp cảnh xấu không làm lành nữa, chúng ta sẽ thối Bồ-đề tâm thì không có cơ hội thành tựu giác ngộ giải thoát. Ngày xưa tôi có viết một bài đăng báo Từ Quang, tên là “Nhân hoa quả cỏ”. Sở dĩ tôi viết bài này vì lúc tôi bị bệnh phổi phải lên Phương Bối am của thầy Nhất Hạnh ở để trị bệnh và dưỡng bệnh. Lên đó tôi thích trồng một ít hoa chung quanh thất, nên có vài Ni cô trên Đà Lạt tới thăm, mấy cô mua giùm một ít hột hoa xuống cho. Tôi xới một thửa đất theo đúng qui tắc của người làm vườn, rải hạt hoa xuống, mỗi ngày tưới đều đều. Tôi đinh ninh trong bụng chừng nửa tháng hạt hoa lên đầy hết. Đúng vậy, nửa tháng sau tôi thấy lấm tấm thật nhiều, tôi mừng quá. Tới chừng nó lên cao một chút nhìn lại toàn là cỏ không, chẳng có cây hoa nào. Tôi ngạc nhiên, đi quanh luống hoa xem xét kỹ lưỡng, mới phát hiện ra mấy con kiến đi thành lằn giống như đường xe chạy. Chúng lội tứ tung trong mấy luống hoa và ăn hết hạt hoa của tôi. Chừng đó tôi mới vỡ lẽ ra rằng mình ương hạt hoa, tưới tắm đều đặn nhưng quên chăm sóc ngừa kiến, cho nên kiến tha hạt hoa đi hết, chừa lại hạt cỏ thôi. Mình cứ tưới, rốt cuộc hoa đâu không thấy, chỉ thấy toàn là cỏ. Nhân đó tôi viết bài “Nhân hoa quả cỏ”. Đó là sự thật tôi đã chiêm nghiệm. Sự thật đó đã làm cho tôi nghĩ ngợi nhiều. Ngày xưa đi giảng, Phật tử thắc mắc tại sao con làm lành mà cứ gặp tai nạn. Một Phật tử kể hai vợ chồng nọ có vài đứa con, làm ăn tương đối khá. Khi ông anh chồng vô, không biết tại sao hai ông bà chết hết, chỉ còn lại hai đứa con. Người thím dâu thấy thương đem về nuôi. Đó là nhân tốt. Bà nuôi lớn lên, cho đi học đàng hoàng, nhưng tới khi hai cháu ra trường, nó đối xử với bà rất lạnh nhạt. Bà buồn nên gặp chúng tôi, hỏi tại sao con làm tốt mà quả trả lại xấu. Tôi không trả lời được. Lúc ấy mới kêu mấy đứa nhỏ lại hỏi: “Sao thím tốt với tụi con mà tụi con lại xử sự như vậy?” Chúng trả lời thế này: “Buổi đầu thím thật tốt với chúng con, chúng con mang ơn lắm. Nhưng thưa Thầy, mỗi lần làm việc trong nhà, nặng là phần tụi con, còn nhẹ là phần mấy em. Khi đi coi hát thím cho em con mười ngàn, còn tụi con có năm ngàn.” Chúng kể ra đủ thứ chuyện đối xử không công bằng của người thím dâu. Tôi thấy nhân tốt ban đầu nếu chúng ta không khéo giữ gìn, nó sẽ mất. Đứa nhỏ biết nhưng khi còn yếu thế phải nương nhờ thì nó chịu, khi đủ khả năng tách ra rồi, nó lơ là vì cách đối xử của người thím không trọn vẹn thủy chung. Tốt ở ban đầu mà khoảng giữa không tốt, giống hệt như tôi trồng hoa vậy. Có lý do chớ không phải ngẫu nhiên. Chúng ta thấy rằng, đối với nhân quả nếu chỉ nhìn sơ qua thì không bao giờ thấy tường tận. Như người thím nếu thấy kỹ hành động của mình chắc không trách cháu. Cũng như tôi không thấy kiến nên khi cỏ lên tôi ngạc nhiên. Nếu tôi thấy kiến bò vô, tôi sẽ không ngạc nhiên. Có nhân mà không khéo bảo vệ, gìn giữ, giúp nó tăng trưởng thì quả sẽ mất, không nhất định thành quả. Nhân chúng ta đã gieo rồi, từ đó nó là một dòng chuyển biến liên tục. Trong dòng chuyển biến liên tục ấy chia ra hai phần: một phần chuyển biến theo sự tăng trưởng, một phần chuyển biến theo sự hư hoại. Cái gì giúp cho nó chuyển biến để tăng trưởng, nhà Phật gọi là thuận nhân hay thuận duyên. Ví dụ như hạt bắp có đủ đất tốt, có nước, có nắng cũng như sự săn sóc sâu bọ v.v... đó là thuận nhân giúp nó tăng trưởng. Nếu thuận nhân đủ thì bảo đảm hạt bắp sẽ tiến triển thành cây bắp, cho ra quả bắp. Ngược lại, nó không có đủ các thuận nhân thì sẽ bị sâu bọ ăn hoặc thiếu nước, thiếu nắng… mà chết. Nên tuy có nhân hạt bắp mà quả bắp không bao giờ có. Hiểu như vậy quí Phật tử phăng ra, sẽ tìm thấy được ý nghĩa của sự tu hành. Sự tu hành của chúng ta cũng là một dòng chuyển biến. Tại sao? Vì chúng ta tu là tu ba nghiệp của mình, tu ở thân, ở miệng, ở ý. Thân khẩu ý chúng ta luôn luôn khéo tu. Ví dụ Phật tử phát nguyện qui y Tam Bảo, gìn giữ năm giới, đó là gieo nhân tốt rồi. Nhưng từ khi qui y, quí vị cứ nghĩ mình đã qui y Tam Bảo, đã thành người hiền lành, không chịu tu sửa, đinh ninh rằng mình qui y rồi, nhất định Phật đón về Cực Lạc, đó là sai lầm. Nhiều Phật tử nghĩ rằng qui y là cốt sống được mạnh khỏe an vui, chết được theo Phật. Nhưng trên thực tế, quí vị qui y rồi có mạnh khỏe luôn không, nhắm mắt được theo Phật không? Như vậy qui y chỉ là nhân thôi. Từ đó cho tới ngày trăm tuổi là một dòng chuyển biến. Phật tử qui y là nhân lành, từ đó về sau thân miệng ý luôn luôn nghĩ lành, làm lành, nói lành thì nhân lành mới tăng trưởng. Ngược lại chúng ta được nhân lành mà nói dữ, nghĩ xấu, làm ác, thì nhân lành đó không tồn tại. Như vậy đừng tự mãn mình qui y rồi là mọi việc tốt lành, được như ý. Đừng bao giờ nghĩ như vậy. Chúng ta mới gieo nhân, còn phải tạo thuận duyên giúp đỡ cho nhân tăng trưởng. Đó là ý nghĩa của sự tu. Người cứ tự mãn qui y là xong việc thì chưa biết tu. Tôi nhắc thêm, nhiều vị có con hai ba tuổi, đem vô chùa qui y để nó mạnh giỏi. Qui y với ý niệm cho con mạnh giỏi, chớ không phải cho con tu. Do đó nên nhiều chùa có tập tục nuôi con nít. Thầy lên bàn Phật nhất là bàn thờ đức Quan Âm, để một miếng vải đỏ đội trên đầu, tụng chú thuật chi đó, kế thầy xé miếng vải nhỏ cột cho thằng bé. Như vậy bảo đảm nó mạnh giỏi. Thành thử ý nghĩa qui y để tu hành không còn nữa. Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực. Như Phật tử hồi trước làm điều xấu ác, bây giờ tu rồi có thể chuyển đổi được quả xấu do mình làm trước kia không? Tôi khẳng định rằng nếu chúng ta tu chân chánh có thể chuyển đổi được, còn hết hay không thì tùy, chớ có chuyển đổi. Tôi nói như vậy để quí vị hiểu rõ, không phải hồi xưa mình làm cho người khác khổ trăm phần, bây giờ tu suốt đời cũng bị trả quả khổ trăm phần như xưa. Như vậy tu làm gì? Cho nên nhất định phải có thay đổi nhưng thay đổi thế nào, đó là vấn đề khác. Ở đây để tường tận hơn, chúng tôi chỉ cho quí vị thấy ý nghĩa nhân quả mà lâu nay chúng ta chỉ hiểu một chiều. Ví dụ có người làm được việc lành, cứ nghĩ mình làm lành cho ai đó, mai kia sẽ được quả lành trở lại. Nhưng nếu quả lành không đến, vị ấy đâm ra thối tâm. Như vậy là chưa hiểu hết lý nhân quả. Trong nhà Phật nói nhân quả có hai trường hợp: một là tạo nhân tốt được quả tốt, hai là tạo nhân tốt nhưng không được quả tốt. Tại sao vậy? Ví dụ hồi xưa mình đã cư xử với người đó rất xấu, bây giờ thấy họ khó khăn mình giúp. Hồi xưa xấu trăm phần trăm, bây giờ giúp mới bốn năm chục phần trăm, mà nghĩ đã có ơn với người ta rồi. Khi thấy họ không thèm biết ơn, lúc đó mình tức tại sao giúp đỡ như vậy mà không biết ơn? Nhưng so với quá khứ mình xấu, cái tội cũ trả chưa đủ mà bây giờ đòi ơn, làm sao chấp nhận được? Cho nên tuy giúp mà người kia vẫn chưa thỏa mãn. Nếu hiểu được nhân quả chúng ta chỉ cười thôi, giận làm chi. Ngược lại có những người mình giúp họ một chút thôi, mà họ rất biết ơn, rất nhớ mình. Vì ta không nợ họ, nên giúp một chút họ cũng thấy mình tốt. Hiểu vậy, khi giúp ai ít mà người đó nhớ ơn, muốn tìm cách đền đáp lại, chúng ta biết mình với người đó chưa có nợ nần cũ. Còn người mình lo thôi là lo mà họ vẫn không thèm biết ơn, cũng không có gì trách, cười thôi. Hiểu được nhân quả như vậy quí Phật tử mới yên lòng tu. Nếu không nắm rõ lý nhân quả, chúng ta nhìn cuộc đời rất bực bội. Phật tử nào tu hành khá, khi tạo nhân liền được hưởng quả. Như quí thầy quí cô hoặc Phật tử giúp ai, không nghĩ họ phải trả ơn mình. Thấy người khổ cứ giúp, khả năng tới đâu giúp tới đó, miễn họ bớt khổ là mình mừng, họ vui mình vui, như thế đủ rồi, không mong cầu chi hết. Như vậy nhân mình tạo ra là giúp người bớt khổ, được vui. Thấy người vui mình vui theo, đó là gieo nhân gặt quả liền. Nhân quả có ngay hiện đời, không trông đợi xa xôi. Cả ngày mình giúp người này vui, người nọ vui. Họ vui bao nhiêu mình vui bấy nhiêu. Rõ ràng tạo nhân liền có quả. Nếu chúng ta trông chờ đền đáp, nhiều khi người ta đáp không như mình mong muốn thì dễ bực bội, hờn trách. Chỉ cần thấy người ta hết khổ được vui, mình vui theo đó là quả tốt rồi. Bởi vậy Bồ-tát giúp tất cả chúng sanh mà không chán. Vì chúng sanh hết khổ được vui thì Bồ-tát vui rồi, đâu có chờ đợi. Còn chúng ta giúp chúng sanh dễ chán lắm. Tại sao? Tại mình giúp ai thì muốn người ta biết ơn và đền ơn lại. Nếu họ không biết ơn đền ơn thì mình buồn, không muốn giúp nữa. Bồ-tát thấy chúng sanh đang đói, đưa miếng bánh mì cho họ ăn. Ăn xong họ cười là Bồ-tát vui rồi, khỏi cần nghĩ gì. Như vậy hai thái độ tạo nhân quả khác nhau, một cái mong có sự thù đáp, một cái không mong sự thù đáp dẫn tới hai kết quả khác nhau. Nhân quả không mong sự thù đáp là nhân quả của người biết đạo sâu xa. Tạo nhân quả như thế mới là lẽ chánh của người tu Phật. Nhân quả cũng có hai cách chuyển biến: thứ nhất là chuyển biến do tác động bên ngoài, thứ hai là chuyển biến do nội tâm. Ví dụ như hồi xưa mình ở địa vị cao, có những người phụ giúp mình ở địa vị thấp. Bấy giờ ta không nghĩ tới cái khổ của người dưới, nên hiếp đáp làm họ khổ. Vì họ ở dưới nên mình làm khổ, họ không dám nói, không dám tỏ thái độ oán hờn, nhưng trong lòng ôm ấp một trăm phần trăm oán hờn. Tới lúc nào đó thay đổi, họ có địa vị cao hơn mình, bấy giờ họ sẽ khởi niệm trả thù mình. Nhưng rất may, khi đó mình thức tỉnh học đạo và biết tu. Nhờ thế mình hiểu được luật nhân quả nên vui vẻ đón nhận những quả khổ do mình đã tạo ra lúc trước, không than van oán hờn người ta. Đó là một cách chuyển nhân quả. Quí vị Phật tử tụng kinh Bát-nhã “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” là thấy thân năm uẩn không thật, liền vượt qua tất cả khổ ách. Thân năm uẩn không thật thì lời khinh chê, chửi mắng cũng không thật. Hồi xưa mình khinh bỉ chửi mắng người ta một trăm phần trăm, bây giờ họ tìm tới trả thù, cũng khinh bỉ chửi mắng mình một trăm phần trăm. Nếu hiểu đạo, thấy thân năm uẩn không thật, khi bị chửi mắng mình thù giận hay cười? - Cười. Ngày xưa bị mình hành phạt họ khổ sở, bây giờ họ hành phạt mình cười không khổ, như vậy trả hay không trả? Trả hay không trả, không thể nói khẳng định được. Nếu không trả tại sao họ chửi mắng, hành phạt mình? Họ chửi mắng hành phạt mình là trả thù rồi. Đối với người kia họ thấy trả, nhưng đối với mình không thấy trả gì hết. Khi mê mình nói họ con bò, họ giận quá chừng. Bây giờ mình tỉnh, họ nói mình con bò, mình cười vì biết người ấy nói bậy. Như vậy là trả mà như không trả gì hết. Người thế gian chịu mê hay chịu tỉnh? Chịu mê. Bởi vậy Phật nói chúng sanh đáng thương. Tất cả chúng ta đau khổ là vì mê lầm. Từ mê lầm cứ liên miên chịu khổ những chuyện không đáng giận, không đáng buồn, không đáng khổ. Nếu tỉnh nghe người ta nói những lời sai lời bậy mình cười thôi, có gì buồn có gì khổ. Nhiều Phật tử nói, mình quấy họ chửi nhịn được, mình không quấy họ chửi làm sao nhịn. Tôi sẽ trả lời mình không từng quấy mà họ chửi, mình thương họ tại vì họ điên, không hiểu gì hết mới chửi như thế. Mình làm quấy người ta chửi, mình nhận để sửa. Mình không từng làm quấy, họ chửi mình thương họ. Như vậy có tu chưa? - Tu. Học đạo là học tỉnh giác, chớ đừng mê. Phật tử tuy học Phật mà gặp mấy cảnh trái nghịch chịu mê hơn chịu tỉnh. Đó là điều đáng thương. Trường hợp thứ hai, nếu ngày xưa mình làm người ta khổ nhiều, lẽ ra bây giờ họ có cơ hội trả thù lại, nghĩa là làm khổ mình, nhưng trong thời gian khổ họ đến với đạo và biết tu, nhờ thế họ thấy nếu trả qua trả lại thì tất cả oán hờn cứ chồng chập không bao giờ hết, hiểu vậy rồi họ liền hỉ xả, bỏ hết. Hồi xưa mình làm họ khổ, bây giờ có đủ cơ hội nhưng họ vẫn không làm mình khổ, đó là do họ biết tu. Tâm của người nhận oán hờn biết tu thì quả cũng bớt cho người gây oán hờn. Chúng ta biết tu thì ai thù oán, ta tha thứ hỉ xả. Ai tạo nhân khổ cho mình, ta không trả lại. Cũng như mình biết tu dù người khác muốn đến trả quả xấu, mình cũng vẫn an lành tự tại. Như vậy sự tu chuyển biến cả tâm hồn của người tạo quả và người trả quả, hai bên đều chuyển biến tốt. Ngược lại, nếu hai bên không biết tu thì trả đủ, hồi xưa vay một trăm phần trăm, ngày nay trả tới hai trăm, tại vì nó lớn theo thời gian, cũng như cho vay có lãi vậy. Như thế vay vay trả trả không cùng. Cho nên Phật dạy tu là phải hiểu thấu đáo đạo lý để gỡ bỏ những oán hờn, đau khổ. Chúng ta được an vui, người khác mới an vui. Tu là đem lợi lạc lại cho bản thân và mọi người. Nếu không biết tu, chúng ta cứ gay cấn người này người kia, vay trả trả vay, kiếp kiếp đời đời sống trong oán hờn thù hận, không bao giờ hết khổ đau. Đó là ý nghĩa nhân quả. Trường hợp khác, nhân quả có thể tiêu giảm mà không do nội tâm của người hoặc của ta. Như ngày xưa mình hung dữ, xử sự với một kẻ khác tàn nhẫn, bây giờ họ có thế lực muốn trả thù lại. Nhưng từ khi chúng ta thức tỉnh biết tu, làm lành, giúp người này người nọ, chung quanh ai cũng thương, cũng quí. Người kia tới trả thù, thì hàng xóm liền khuyên can vì thấy mình hiền tốt. Nhờ nhiều người khuyên can, kẻ kia giận mười cũng giảm còn năm bảy thôi. Đó cũng là nhân quả chuyển biến theo chiều giảm bớt. Nhờ tu quả khổ của chúng ta giảm, cho nên nhân quả luôn đổi thay, không cố định. Có khi đổi thay chiều thuận, có khi đổi thay chiều nghịch. Đứng về mặt nhân quả, chúng ta tin chắc nhân nào dù xấu mấy, nhưng nếu chúng ta cố gắng chuyển đổi nó cũng đổi thay đôi phần. Như ngài Mục-kiền-liên bị người ta đánh cho tới chết, Ngài nhớ đời trước đã từng hại họ, bây giờ họ trả thù. Ngài chịu đòn để trả hết mối nợ cũ, được giải thoát sanh tử, lúc đó Ngài buồn giận hay vẫn thản nhiên? Vẫn thản nhiên, đau mà không tức, không buồn vì biết đây là chuyến chót trả cho rồi. Như vậy trả nợ đối với Ngài là chuyện vui, trả mà không khổ. Như Tổ Huệ Khả khi bị nhốt trong khám, Ngài nói còn chút nợ phải trả chuyến này cho rồi. Quí Phật tử vay nợ của ai năm mười năm, tới bây giờ còn chút ít, nếu có tiền nên trả hay để thiếu nợ? Có tiền trả phứt cho rảnh tay. Cho nên đem tiền trả vui chớ không buồn giận. Vì vậy Tổ Sư Tử nói thân năm uẩn này không thật, sá gì cái đầu. Đối với các ngài nợ cứ trả, cười trả chớ không khổ như chúng ta. Càng học đạo quí Phật tử thấy càng vui. Bởi vì tất cả những gì đến, chúng ta thấy tường tận rồi cười, không buồn phiền. Người chưa hiểu đạo khổ đủ thứ, người ta nói hơn mình một tiếng là chịu không nổi, bị lấn lướt một chút chịu không nổi, bị khinh một chút chịu cũng không nổi. Cái gì cũng chịu không nổi hết, riết cả lồng ngực chứa đầy oán hờn thành ra bệnh tim, gần chết khổ sở vô cùng. Bây giờ hiểu rồi chúng ta nhìn mọi thứ chỉ cười thôi. Quí vị thấy chúng ta giận ai chứa trong lòng, mỗi khi đang ngủ ngon giấc, giật mình thức dậy nhớ lại chuyện oán thù thì ngủ không được nữa. Cứ trằn trọc nhớ sao họ làm như vậy, lăn qua trở lại mất ngủ, rồi mất ăn, đó là nhân của bệnh. Hiểu rồi mình cười thôi, cái gì qua cho qua luôn, hơi đâu phiền giận. Như vậy chúng ta thản nhiên tự tại, sống trong cuộc đời rất vui. Tu là như vậy, chớ không phải qui y để được mạnh giỏi. Nhiều Phật tử hiểu lầm tu là mọi tai nạn qua hết. Làm sao qua hết được! Tu là tu, còn chuyện hờn oán do mình gây ra từ trước, người ta vẫn hờn oán. Ngày xưa mình làm cho người đó khổ quá, họ giận mình. Bây giờ biết tu thì tâm mình an ổn thanh tịnh, nhưng người kia đâu có hết giận. Mai mốt gặp mình, họ xả ra một lần cho đã giận, nếu chúng ta biết tu thấy những việc ấy không có giá trị, chỉ đáng thương thôi thì mình không khổ. Như vậy mình sẵn sàng trả nợ, nhưng trả một cách nhẹ nhàng thảnh thơi. Tôi thường nói cuộc đời này đã dành sẵn cho chúng ta rất nhiều điều bất như ý. Muốn được an ổn chúng ta phải khéo tu, chỉ khéo tu mới thoát khỏi những điều đau khổ khi gặp bất như ý, chớ đừng có cầu nguyện. Phật tử hay cầu nguyện quá, cầu nguyện cho con hết phiền não, cho tai qua nạn khỏi. Cầu nguyện như vậy có được không? Nhiều khi tôi xấu hổ vì chỗ này. Phật tử tin tưởng, ai cũng muốn gởi tên cho thầy cầu an, mà thầy bệnh phải đi bác sĩ, không tự làm an cho mình được. Thành ra tôi rất xấu hổ không đủ sức làm cho Phật tử an. Tôi chỉ dạy giáo lý cho Phật tử hiểu, rồi tự quí vị giải cho mình an, mình tỉnh, chớ cầu an chưa chắc được an. Chừng nào suốt ngày suốt tháng suốt năm tôi không bệnh, không bất như ý tôi mới dám cầu an cho Phật tử. Chớ quí thầy còn bệnh, còn gặp những việc bất như ý thì cầu cho quí Phật tử khó quá. Đó là lẽ thật, mà lẽ thật nói ra đôi khi mếch lòng một chút. ho nên tôi xin nhắc cho quí Phật tử nhớ, chúng ta đã tu là phải tỉnh giác, thấy được lẽ thật, thấy được chân lý. Hiểu được lẽ thật rồi, mọi khó khăn chúng ta giải quyết một cách hết sức dễ dàng. Ngày xưa người ta hay nói do oan trái mới làm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh chị em… oan trái trong thù hận hay thương yêu. Những đứa con trái nghịch cha mẹ lại thương nhiều, còn mấy đứa hiếu thảo lại thương ít. Đó cũng là nhân quả, bởi vì thương mới trả hết nợ, còn ghét trả không hết. Cha mẹ phải thương những đứa con ngỗ nghịch, đuổi không đành để trả, trả chừng nào hết, không đuổi nó cũng đi. Còn những đứa con có hiếu là nợ cha mẹ, nên nó phải trả, nhiều khi cha mẹ không ngó ngàng tới nữa. Bởi vì nếu nó trả mà cha mẹ cứ săn sóc trở lại nhiều quá thì chừng nào hết nợ? Cho nên người nào trả mà cha mẹ không ngó ngàng nên mừng, như vậy mau hết nợ. Hiểu thế, gặp hoàn cảnh nghịch làm chúng ta đau khổ mình cũng cười, nợ thì phải trả không oán trách ai hết. Người có tâm tu hành là đã có nhân lành, quí Phật tử biết đến chùa, nghe quí thầy giảng là điều hết sức tốt. Bởi có sẵn nhân lành nên ngày nay tìm tới chỗ lành. Như vậy từ đây về sau quí vị phải khéo tạo những trợ nhân tốt để duyên lành của mình mãi mãi liên tục không dứt. Có thế quí Phật tử mới sống cuộc đời an vui tự tại, được nhiều điều tốt đẹp. Cho nên khéo tu là điều hết sức hệ trọng, chúng ta cần phải thực hành triệt để, chớ không thể nói suông. Càng tu càng hết khổ, càng tu càng tăng trưởng niềm vui, tăng trưởng sự an lạc. Ai tu không được như vậy là tu chưa đúng với Phật pháp. Để kết thúc, tôi nhắc quí Phật tử ráng tạo duyên tốt, làm tăng trưởng nhân lành của mình. Làm sao mỗi năm quí vị mỗi tỉnh giác sáng suốt, để trở thành người Phật tử chân chánh, sống cuộc đời an vui hạnh phúc, tự tại trong thế gian nhiều buồn khổ này. HT Thích Thanh Từ __._,_.___
  24. Khoai tây - Thuốc quý chữa nhiều bệnh Một số nước trên thế giới đã dùng khoai tây để chữa một số bệnh về tim mạch và tiêu hóa có kết quả như ở Nga, Ailen, Thụy Điển, Mỹ. Khoai tây có tên khoa học là Solanum tuberosum L., khoai tây chủ yếu được dùng làm lương thực, chế tinh bột dùng trong lương thực, công nghiệp chế cồn, hồ giấy, hồ vải, công nghiệp dược phẩm. Một số nước trên thế giới đã dùng khoai tây để chữa một số bệnh về tim mạch và tiêu hóa có kết quả như ở Nga, Ailen, Thụy Điển, Mỹ. Khoai tây chữa một số bệnh sau đây: - Sốt do say nắng: Dùng củ giã đắp hai bên thái dương và trán (kinh nghiệm Tuynidi). - Đau tim: luộc củ ăn thường xuyên (kinh nghiệm dân gian Nga). Một nhà nghiên cứu ở Ailen và Boston nghiệm thấy chế độ ăn nhiều khoai tây thì tỷ lệ bệnh tim là 29%, trong khi chế độ ăn không có khoai tây tỷ lệ bệnh tim là 42%. - Tăng huyết áp: hoa khoai tây sắc uống thay trà. - Nhồi máu cơ tim: tăng khoai tây trong khẩu phần ăn sẽ giảm được lượng cholesterol có hại trong máu, phòng được nhồi máu cơ tim, đồng thời giảm được nồng độ kali trong máu vốn là nguyên nhân góp phần làm nghẽn mạch. - Dạ dày nhiều dịch vị chua, ruột kém nhu động: Dùng củ khoai tây ép lấy nước uống thường xuyên. - Viêm dạ dày tá tràng; giải độc tiêu hóa: Bột khoai tây pha uống, hoặc liên tục ăn khoai tây cả vỏ. - Đau bụng: vỏ củ khoai tây 10g. Sắc uống. - Nhiễm khuẩn đường hô hấp: xông, hít hơi khoai tây luộc. - Bệnh trầm cảm: ăn nhiều khoai tây kích thích cơ thể tiết ra nhiều insulin và đưa tryptophan lên não dẫn đến tạo ra nhiều seretonin ức chế trầm cảm lo âu. Qua nghiên cứu tiến hành ở Thụy Điển và Mỹ phát hiện thấy những người tự tử là những người mắc chứng trầm cảm có hàm lượng seretonin ở não rất thấp. - Bỏng, eczema, chấn thương: củ khoai tây cắt lát dán, đắp. - Béo phì: ăn khoai tây 8 tuần liền, người béo phì có thể hạ tới 7 kg thể trạng. Theo Lương y Minh Chánh SK&ĐS