-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Những con “cáo” mượn oai… thời hiện đại Trong một lần nói chuyện với một cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu, tôi được nghe ông phàn nàn về một gã đàn ông đã từng mượn cái oai của ông để làm lợi cho gã và hù doạ người khác. Chuyện ấy mãi sau này ông mới biết. Ông buồn và giận lắm. Ông là một cán bộ liêm khiết, nhưng thực tế ông đã phải chịu tai tiếng. Buồn hơn là khi ông nghỉ hưu rồi, cái gã đàn ông mượn cái oai của ông thẳng thấy mặt mũi đâu nữa. Tôi cười bảo ông rằng: Gã đàn ông ấy là một con cáo mượn oai hùm. Thời nay, những kẻ như gã không giảm đi mà còn tăng lên trong xã hội. lịch sự hơn và tinh vi hơn. Vào những năm 80 mươi của thế kỷ trước, khi thuốc lá còn là một mặt hàng còn khan hiếm. Có một gã luôn luôn mang trong túi một bao thuốc lá loại sang. Đến những nơi mà gã định làm một cái gì đấy thì gã thường lấy bao thuốc ra mời mỗi người một điếu và nói: Các anh hút thuốc đi, thuốc của cụ A đấy. Hôm qua cụ gọi tôi lên có việc cần hỏi. Nhà cụ thuốc nhiều lắm mà cụ có hút đâu. Lúc nào tôi lên cụ lại nhét đầy túi cho mình về mà hút. Sau này, tôi gọi gã là Gã thuốc lá. Cụ A ở đây là một cán bộ cao cấp. Ông là một người thường tiếp xúc với các tầng lớp trí thức để có thể nghe từ họ những ý kiến hay giúp nước. Thế nhưng có những kẻ đã lợi dụng danh của ông. Thủ trưởng tôi thấy gã quen thân với cụ A quá thì nể và sợ gã lắm. Không ít những thủ trưởng cấp dưới sợ thủ trưởng cấp trên vì thế mà sợ cả những gã được thủ trưởng cấp trên cho bao thuốc. Nhiều lúc tôi thấy họ mơ hồ sợ cả cái bao thuốc vô tri vô giác kia Ở Việt Nam, do truyền thống văn hoá và do quan điểm lấy dân làm gốc mà quan hệ giữa những người lãnh đạo cao cấp của đất nước với quần chúng nhân dân khác hẳn với các nước khác. Một quan hệ thân mật như người thân, như bạn bè. Tôi nhớ khi xưa, trong Hịch Tướng Sỹ, Trần Hưng Đạo viết: Tướng sỹ một lòng phụ tử/Hoà nước sống chén rượu ngọt ngào. Chính thế mà ông cha ta xưa mới đánh bại quân Nguyên, đội quân làm cả Châu Âu khiếp hãi. Đấy là một sức mạnh. Nhưng đấy cũng là một điểm yếu để những kẻ như Gã thuốc lá lợi dụng làm những điều đáng hổ thẹn. Ngôn ngữ thực sự của việc mời thuốc lá của gã tạm dịch ra là: Ta quen thân với ông ấy đấy, các người hãy liệu chừng. Muốn tốt lành thì đừng làm trái ý ta. Có Gã thuốc lá lại có Gã ảnh chung. Gã ảnh chung nhiều hơn cả Gã thuốc lá. Những gã này do những lý do thật đơn giản mà có được một tấm ảnh chụp chung với một đồng chí lãnh đạo cao cấp. Những tấm ảnh chụp chung ở hội nghị hay hội thảo thì là chuyện bình thường. Đấy là những tấm ảnh kỷ niệm đẹp của nhiều người. Tôi cũng có một tấm ảnh chụp chung với một đồng chí lãnh đạo cao cấp treo trong phòng khách. Chẳng người lãnh đạo nào lại nỡ từ chối của một người dân muốn chụp ảnh chung với mình. Nhưng những gã kia lại có được những tấm ảnh chụp chung với một đồng chí lãnh đạo cao cấp nào đó tại nhà riêng của đồng chí ấy. Thế là những Gã ảnh chung luôn luôn mang những tấm ảnh này trong người. Những gã này sẽ đưa bức ảnh chụp chung đó ra vào những lúc cần thiết. Tệ hơn là các gã bịa đặt ra lý lịch bức ảnh đó rằng là: Chủ nhật vừa rồi cụ cho thư ký gọi mình đến nhà riêng ăn cơm với cụ. Rằng là: Cụ có hỏi mình về mấy vấn đề của cơ quan này cơ quan nọ. Rằng là: Cụ gọi mình đến bảo mình chuẩn bị đi công cán cùng cụ vài nơi. Nhưng mình xin lỗi cụ vì đang bận quá. Tôi cũng vô tình mà có một hai tấm ảnh chung với một lãnh đạo cao cấp. Nhưng tôi cũng chỉ giữ lạinhư một kỷ niệm của mình chứ không dùng những bức ảnh ấy như là “Thượng phương Bảo kiếm” để mà dọa thiên hạ. Có Gã ảnh chung rồi lại có Gã bút tích. Những gã này luôn luôn thủ trong cặp một văn bản nào đó của gã mà lại có bút tích của một đồng chí lãnh đạo cao cấp. Ví dụ: Tôi thấy đây là một công trình tốt, các ngành nên giúp đỡ. Hoặc là cụ thể: Bộ A, Tổng cục B nên ủng hộ. Thế là cái công trình kia, một công trình hầu như hết sức cá nhân sẽ được thực hiện. Nếu ai chần chừ thì những Gã bút tích sẽ nói: Để tôi trình lại cụ là các anh không thực hiện được. Nói thế thì gay quá. Chẳng lẽ một việc nhỏ như thế cấp trên đã có ý kiến lại không thực hiện. Thế là thực hiện. Việc một đồng chí lãnh đạo ghi như vậy là chuyện rất bình thường. Ngay cả đối với một việc xin xỏ hết sức cá nhân mà không ảnh hưởng gì đến luật pháp hay công việc chung thì người Việt Nam ta đã quen biết nhau đều có thể giúp nhau. Luật nào thì luật cũng phải có cái tình người chứ. Nhưng các đồng chí lãnh đạo đâu biết, những gã này không dừng lại ở đó. Các gã đi qua giới hạn. Các gã lợi dụng uy tín và vị trí của các đồng chí để làm lợi cho cá nhân thậm chí vi phạm cả luật pháp. Đã có Gã bút tích lại sinh ra Gã điện thoại. Một ông bạn tôi chứng kiến một gã rút điện thoại di động ra trong khi đang ngồi với mấy ông lãnh đạo ở một cơ quan bấm bấm rồi gọi: Anh X đấy ạ, em Y đây, việc anh bảo em làm em đã làm xong rồi. Mồng 6 tháng này giỗ mẹ em, anh chị về lúc mấy giờ. Mười một giờ mới về được ạ. Em chờ anh. Mọi người ngồi quanh đó xanh mắt mèo. Vì anh X là một lãnh đạo cao cấp mà ai cũng biết. Có người cả đời chẳng bao giờ gặp được ông. Thế mà cái Gã điện thoại lăng phăng này lại có thể gọi cho ông dễ dàng đến thế. Rồi gã lại tỉnh bơ nói rằng: Điện thoại này là của anh X, anh ấy đưa mình dùng để lúc nào việc gì thì anh ấy gọi cho tiện. Ông bạn tôi kể chuyện này cho nhiều người. Không ít những người nghe câu chuyện đó kêu lên: Gã ấy cũng đã nhiều lần gọi như thế rồi. Nhưng có người lại phát hiện ra là điện thoại di động của gã chưa bao giờ có card. Nghĩa là những cuộc gọi đó chỉ là gọi giả vờ mà thôi. Những cũng có Gã điện thoại có quen thân một đồng chí lãnh đạo cao cấp nào đó từ thuở hàn vi. Không vì đồng chí ấy nay giữ vị trí quan trọng của đất nước lại quên ông bạn thuở trước. Thế là ông bạn thuở hàn vi lấy uy tín cũng như vị trí của bạn ra mà ngầm doạ người khác và làm không ít những việc tư túi. Nếu đồng chí lãnh đạo kia biết ông bạn của mình đã làm những gì thì đồng chí sẽ buồn biết bao. Việc lợi dung uy tín và vị trí của một số đồng chí lãnh đạo để làm những việc có lợi cho cá nhân của một số nhân vật như trước đây sẽ bị tội chém đầu. Bởi vô tình những gã này đôi khi làm ảnh hưởng uy tín đến các đồng chí đó. Trăm người nghe các gã nói trên khoe mẽ, hù doạ để thực hiện những lợi ích cá nhân thì đại đa số nói rằng : Đồng chí ấy chẳng bao giờ là người ủng hộ cái gã mua thần bán thánh này. Nhưng ít ra cũng có những người sợ thật. Sợ vì nể trọng và có người sợ vì sợ ảnh hưởng đến bản thân. Tất nhiên có người lại muốn lợi dụng những gã này để tìm cơ hội và quyền lợi cá nhân mình. Những gã này chắc chắn không thể là những người bạn tốt. Vì yêu bạn, kính trọng bạn thì phải giữ gìn uy tín cho bạn. Đằng này các gã lại mang lòng tốt của bạn ra mà bán rẻ lấy mấy cái lợi ích cá nhân cho riêng mình. Đa số những gã như vậy cũng biết khôn khéo. Lợi dụng uy danh của một số đồng chí lãnh đạo để đạt được một vài quyền lợi nào đấy nhưng cũng biết giữ gìn một chút thì cũng đỡ. Đằng này có một số luôn mồm khoe anh X anh Y là người thân quen mình để công khai doạ nạt cơ quan này, cán bộ nọ hòng làm lợi cho mình thì thật đáng nguyền rủa. Vì họ có hay ho gì đâu. Đi đâu, làm gì cũng để lại tai tiếng. Họ là kẻ có tội với những người bạn hoặc người quen của họ vốn là những người có uy tín cao trong xã hội. Cũng có người khoe mẽ quen thân đồng chí này hoặc đồng chí kia. Nhưng đấy chỉ là cái tính thấy Quan sang bắt quàng làm họ thôi. Họ cứ rằng là: Mình thi thoảng đến nhà riêng anh ấy ăn cơm. Anh ấy làm to thế mà giản dị lắm. Rằng: Mình có chai rượu anh X anh Y cho, hôm nào đến nhà mình nhậu. Nhưng họ chỉ nói thế thôi chứ cũng không lợi dụng anh X anh Y làm chuyện gì không hay. Thậm chí rượu ấy là rượu họ mua hay do một người bạn nào đó cho chứ chẳng phải của anh X anh Y nào cả. Tính họ thế. Họ chỉ là những người đáng thương chứ không đáng trách. Quen thân với những người danh tiếng và những người có uy danh trong xã hội đáng tự hào chứ. Một người bạn tôi có quen với một đồng chí Bộ trưởng. Không biết bạn tôi làm gì mà đồng chí Bộ trưởng đã nói với vợ con ông rằng anh bạn tôi là ân nhân của ông. Bạn tôi bảo vì ông là người hiểu biết nhiều và không quên ơn của bất cứ ai dù người đó chỉ tìm hộ cho ông một cuốn sách cũ. Nhưng khi ông đang làm Bộ trưởng thì bạn tôi chẳng bao giờ đến nhà ông và cũng không gọi điện cho ông. Khi ông về hưu rồi bạn tôi mới đến thăm ông. Ông trách bạn tôi sao chẳng đến thăm ông. Bạn tôi bảo: khi anh đang làm Bộ trưởng thì tôi không đến. Vì anh bận quá nhiều việc. Hơn nữa tôi mà đến thì thư ký anh hoặc có ai đó người nhà anh cứ tưởng tôi đến nhờ vả hay xin xỏ anh cái gì đấy. Ngượng lắm. Nay anh nghỉ hưu, tôi đến xem anh có khoẻ không. Ông Bộ trưởng xúc động vô cùng. Ông ngẫm thấy đúng thật. Có những người khi ông đương chức thì săn đón ông. Thế mà sau đôi ba năm ông nghỉ hưu chẳng thấy người ấy đâu. Có lúc ông tự hỏi: Hay là cậu ấy mất rồi mà mình không biết. Thưa ông, cậu ấy không mất. Cậu ấy đang mất thời gian để tìm cách quen một ông bộ trưởng khác. Những Gã thuốc lá, Gã bút tích, Gã điện thoại... thuộc loại người như thế nào? Có người cho rằng đó là những kẻ cơ hội. Có người cho đó là những kẻ lừa thiên hạ. Có người thì cho rằng các gã đó chính là một loại tội phạm mới. Các gã ấy phạm tội lợi dụng uy tín và vị trí người khác để mưu cầu lợi ích cá nhân. Đôi khi các gã còn làm cho uy danh của những người lãnh đạo đất nước bị ảnh hưởng ít nhiều. Tôi nhớ có một vị Hoàng đế Trung Hoa thời xưa, có lần đi kinh lý ghé thăm một người bạn thuở thiếu thời. Người ngày xưa thường giấu bánh bột ngô trong tay áo để mang cho ông ăn mà thoát qua những năm đói rét. Ông dành riêng một buổi tối ở trong ngôi nhà tranh chật chội với bạn, nằm gác chân lên nhau hàn huyên cho tới sáng. Thấy bạn vẫn ngèo khó như xưa thì ứa nước mắt và sai cắt đất và tặng vàng bạc cho ông. Người bạn nhận tất cả nhưng sau đó ông dùng tiền bạc để giúp người vùng đó đào mương dẫn nước và dùng đất Hoàng đế tặng mà chia cho những người nghèo khác cấy cày. Ông nói với người dân vùng đó rằng tiền bạc đất đai là của Hoàng đế ban cho họ. Dân vùng đó từ ấy thoát khỏi đói kém và ca tụng đức sáng của Hoàng đế. Vị Hoàng đế nghe được chuyện đó ứa nước mắt mà nói: Ông ấy quả là Đại trượng phu. Ông ấy là một kẻ nông phu mà biết lấy đức hiền của mình làm thành đức sáng của Vua. Dân hiền như vậy làm sao Vua lại không sáng được. Vua sáng tôi hiền thì thiên hạ hỏi còn gì lo đến oan khuất, loạn lạc nữa. Đức Huy nguồn vietimes
-
Bệnh tình của Chị Nga có lẽ điều trị lâu dài , khả năng của chúng ta có hạn , ngoài sự đóng góp của hội viên Diễn Đàn còn những anh chị em gần xa cũng đã có lời kêu gọi và qua trang web Lyhocdongphuong.org.vn nhiều khách bên ngoài ủng hộ đã đến tận nơi tặng quà đông viên Chị Nga sớm khỏi bệnh . Hy vọng việc làm này của chúng ta mỗi ngày nâng được thể trạng và đẩy lùi bệnh tật cho Chị . Và cụ thể Chú Thiên sứ can thiệp Phong thủy cho gia đình Chị đã sớm có hiệu ứng . Chúng ta đã làm và đang tiếp tục làm những việc này để giúp đồng loại thoát cảnh bất hạnh của từng số phận mà trên đường đời ta gặp .
-
Bác Thiên Sứ ra thông báo sáng chủ nhật mà không biết mấy giờ thì anh em lại lề mề đợi nhau đấy ạ ! Nên có ý kiến 8h15 , XE LĂN BÁNH được không ạ ?
-
Mặt trời có vầng hào quang: Điềm xấu? 14:00' 19/09/2008 (GMT+7) - Khoảng 11-12g trưa 15/9 và 18/9, ở Đà Nẵng xuất hiện hiện tượng lạ: Mặt trời có vầng hào quang như cầu vồng bao quanh... Theo Viện Vật lý địa cầu, đây là hiện tượng hiếm gặp nhưng không ảnh hưởng tới mùa màng, thiên nhiên... Trao đổi với phóng viên VietNamNet vào ngày 19/9, TS. Lê Huy Minh, Phó Viện trưởng Viện Vật lý địa cầu đã cho biết, hiện tượng lạ: Mặt trời có vầng hào quang rất hiếm gặp ở Việt Nam. Bản chất của hiện tượng là do khúc xạ gần giống như hiện tượng cầu vồng. Mặt trời có vầng hào quang như 7 sắc cầu vồng (Ảnh: VTC) Do khi ánh sáng mặt trời truyền qua khí quyển, gặp những điều kiện hơi nước, ánh sáng bị tán sắc thành 7 màu rực rỡ. Hào quang nhìn được này do bầu khí quyển, xảy ra trong tầng khí quyển xung quanh mặt trời chứ không phải do tự thân mặt trời toả ra. Trước đó, khoảng 11- 12g trưa 15/9, 18/9, ở TP Đà Nẵng xuất hiện hiện tượng lạ: Mặt trời có vầng hào quang như 7 sắc cầu vồng bao quanh. Suốt thời gian gần 1 tiếng, đường kính vòng tròn hào quang và bề dày của nó luôn thay đổi. Rất nhiều người dân chứng kiến ánh sáng lung linh đẹp mắt lạ lẫm này. Hiện tượng lạ này xuất hiện nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, hiếm khi quan sát được. Thời gian gần đây nhất, người dân ở Huế có chứng kiến cảnh tương tự. Hiện tượng này dù hiếm gặp nhưng hoàn toàn bình thường, không ảnh hưởng gì tới mùa màng, thiên nhiên, thời tiết... Cũng giống như hiện tượng quanh mặt trăng có quầng sáng mờ mờ hơi nước đôi khi chúng ta vẫn gặp. Nhưng vì mặt trăng có màu nhạt dịu nên khi khúc xạ không cho màu lung linh như cầu vồng được Ông Minh cho biết, cũng có trường hợp bùng nổ sắc cầu trên mặt trời, tạo nhiều vầng hào quang đẹp ở khu vực đĩa mặt trời nhưng chỉ có thể quan sát được hiện tượng này bằng kính thiên văn, kính viễn vọng trên các con tàu vũ trụ chứ mắt thường không thể nhìn thấy. Khác với hào quang do khúc xạ nói trên, hiện tượng hào quang xảy ra ở đĩa mặt trời mà quan sát được bằng mắt thường thì báo hiệu trái đất sẽ có bão từ rất lớn. Thu Hương ( nguồn vietnamnet )
-
Trang sức kim loại gây đau lưng, dị ứng Nếu bạn bỗng nhiên bị đau lưng hoặc phát ban, mẩn ngứa không rõ nguyên nhân, hãy nghĩ đến những món đồ trang sức kim loại mà bạn đang đeo trên người. Đau lưng Các đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay và đặc biệt là khuyên tai có thể là thủ phạm gây đau lưng mãn tính. Đó là nhận định của chuyên gia trị liệu thần kinh cột sống người Anh - Simon King. Theo cách lý giải của King thì đối với một số người, việc đeo đồ trang sức bằng kim loại gây kích thích lên các vùng da xung quanh. Khi hệ thần kinh nhận được tín hiệu này, nó sẽ phản ứng bằng cách cố dịch chuyển các phần cơ thể bị kích thích tránh xa khỏi vị trí của các đồ trang sức. Simon King cho rằng phản ứng này cũng tương tự như việc ta rụt tay lại khi chạm phải vật nóng. Đó là phản xạ tự vệ của mọi cơ thể sống trước các tác động bất lợi của môi trường. Các nhóm cơ trong vùng dịch chuyển sẽ làm căng các nhóm cơ khác, từ đó gây ra hiện tượng nhức mỏi kéo dài mà không một phương pháp luyện tập hay thư giãn nào có thể chữa khỏi. Theo nghiên cứu của Simon King, khuyên tai kim loại là thủ phạm của nhiều trường hợp bệnh nhân đau vùng cổ, gáy và lưng mà không tìm được nguyên nhân bệnh lý. Các đồ trang sức khác như vòng cổ, vòng tay, đồng hồ hay thậm chí các mảng kim loại dùng để trám răng cũng có thể gây ra vấn đề tương tự. Với những ca như vậy, việc đầu tiên mà King khuyên bệnh nhân là tháo hết các trang sức kim loại. Sau đó, nếu cần thiết sẽ áp dụng một số phương pháp trị liệu của chuyên ngành thần kinh cột sống. Một số người chỉ cần bỏ đồ trang sức thì cơn đau đã chấm dứt mà không cần điều trị gì thêm. Dị ứng Ngứa ngáy, sưng, nổi ban đỏ và mụn nước là những dấu hiệu thường gặp ở người bị dị ứng đồ trang sức kim loại. Trong đa số trường hợp, thủ phạm là niken. Do nhiều tính chất ưu việt như bề mặt bóng đẹp, không bị ôxi hóa nên niken được sử dụng phổ biến trong chế tác đồ trang sức. Một số người khi đeo các đồ trang sức bằng vàng tây (14K) mà bị dị ứng thì là do niken. Dị ứng niken hay gặp ở phụ nữ hơn nam giới. Dấu hiệu dị ứng xuất hiện ở ngay những vùng da tiếp xúc với đồ trang sức, nhưng cũng có thể ở cả những vùng da khác. Người bị dị ứng niken nên thận trọng trong việc lựa chọn đồ trang sức kim loại. Có thể chọn trang sức bằng thép không gỉ (inox, tuy cũng chứa niken nhưng liên kết phân tử rất chặt chẽ nên niken không thoát được ra ngoài để tác động lên da), bạc pha hoặc vàng có độ tinh khiết cao. Trả lời chúng tôi, BS Nguyễn Thành, trưởng khoa Khám, Bệnh viện Da liễu T.Ư, cho biết: “Tại Việt Nam, những trường hợp bị dị ứng do vàng có độ tinh khiết cao rất ít. Chủ yếu các trường hợp bị dị ứng đồ trang sức đưa vào bệnh viện là do dị ứng kim loại (một số trường hợp bạc có lẫn kim loại cũng gây ra dị ứng, nhưng không nhiều). Trong kim loại có niken khiến cho người sử dụng bị dị ứng với các biểu hiện như ngứa ngáy, sưng, nổi ban đỏ... Đối với những trường hợp này, người sử dụng phải bỏ luôn đồ trang sức đang sử dụng. Trong trường hợp bị nặng sưng đỏ, ngứa nhiều... người sử dụng nên đến bệnh viện sớm để được tư vấn và điều trị. Các bệnh nhân bị dị ứng do đeo đồ trang sức nên tuân thủ theo phác đồ điều trị của các bác sĩ da liễu. Theo Hương Tiên Khoa học & Đời sống
-
Tào Tháo vì sao muốn giết Hoa Đà? (Phần I) Thứ hai, 15/9/2008, 07:00 GMT+7 Tam Quốc diễn nghĩa </I>chép: Tào Tháo mắc bệnh đau đầu, mời danh y là Hòa Đà đến chữa trị. Hòa Đà nói với Tào Tháo, rằng căn nguyên của bệnh đau đầu của ngài chính là do “phong diên”, nó lớn dần lên trong não. Chỉ còn cách là dùng “ma phí tán” sau đó dùng rìu bổ đầu ra mới có thể lấy “phong diên” ra ngoài mới có thể trị triệt để căn bệnh đau đầu của ngài được. Tào Tháo vốn đa nghi vừa nghe qua phương án trị bệnh của Hoa Đà lập tức nổi giận. Ông ta cho rằng Hoa Đà muốn báo thù cho Quan Vũ nên tính mượn cơ hội dùng đao phẫu thuật để giết mình. Trong cơn thịnh nộ, Tào Tháo lập tức sai nhốt Hoa Đà vào ngục tối rồi giết Hoa Đà. Sự kiện này nhờ Tam Quốc diễn nghĩa, một trong tứ đại kỳ thư và hàng loạt những sách bình luận, điện ảnh, phim truyền hình đã lưu truyền rất rộng, không ai là không biết. Nhưng việc Hoa Đà bị giết có thực sự giống như Tam Quốc diễn nghĩa đã ghi chép hay không? Nếu như những gì được ghi lại trong Tam Quốc diễn nghĩa không phải là sự thực lịch sử vậy Hòa Đà rốt cuộc vì sao lại bị Tào Tháo giết? Hoa Đà Trong cái chết của Hoa Đà có một bước ngoặt rất quan trọng mà mọi người đã bỏ qua chính là Tào Tháo đã triệu Hoa Đà đến để trị bệnh cho mình. Nếu như Tào Tháo không triệu Hoa Đà đến khám bệnh, thì Tào Tháo và Hoa Đà, một anh hùng thời loạn, một thầy thuốc tứ phương, anh cứ làm thừa tướng, tôi cứ việc chữa bệnh cho bách tính, không ai xâm phạm đến ai, Hoa Đà tuyệt nhiên không thể bị Tào Tháo giết được. Vì thế muốn biết nguyên nhân vì sao Tào Tháo giết Hoa Đà trước tiên phải lý giải vì sao Tào Tháo lại triệu Hoa Đà đến xem bệnh cho mình?Trong Tam Quốc chí – Hoa Đà truyện và Hậu Hán thư – Hoa Đà truyện có ghi chép về khả năng chữa bệnh thần kỳ của Hoa Đà rồi sau đó mới nói “Thái tổ nghe tiếng mới triệu Hoa Đà”. Nhưng sự kiện cuối cùng trước khi “Thái tổ nghe tiếng mới triệu Hoa Đà” được ghi chép trong Tam Quốc chí và Hậu Hán Thư đều là sự kiện cái chết của Thái thú Quảng Lăng Trần Đăng. Cái chết của Trần Đăng là nằm trong dự đoán của Hoa Đà rằng sau ba năm ông ta sẽ phát bệnh (Bệnh này sau ba năm sẽ phát, nếu gặp lương y mới mong chữa được,… Lúc ấy mà Đà này không ở đó, sẽ như lời mà chết). Sau đó mới thấy đoạn “Thái tổ nghe danh mới triệu Hoa Đà”. Vì thế với hai truyện ký về Hoa Đà được ghi lại trong Tam Quốc chí và Hậu Hán thư, có thể thấy rõ rằng việc Tào Tháo triệu Hoa Đà vào phủ chữa bệnh có 3 khả năng: Một là Tào Tháo nghe y thuật thần kỳ của Hoa Đà mà cho triệu kiến. Hai là nghe nói Hoa Đà đã dự đoán chính xác về cái chết của Thái thú Trần Đăng mà cho triệu kiến. Ba là Tào Tháo vì cả hai điều trên mà cho triệu kiến Hoa Đà. Tình huống thứ nhất là hoàn toàn có thể. Tào Tháo và Hoa Đà vốn là đồng hương, y thuật siêu việt của Hoa Đà mà Tào Tháo không nghe mới là chuyện không bình thường. Còn trong tình huống thứ hai thì chắc chắn là Tào Tháo và Trần Đăng có mối quan hệ . Trần Đăng là một người rất được Tào Tháo tín nhiệm. Cha con họ Trần đã làm cho Tào Tháo hai việc lớn vì thế rất được Tào Tháo coi trọng. Một là cha của Trần Đăng là Trần Khuê đã ngăn cản quan hệ thông gia giữa Viên Thuật và Lã Bố. Lã Bố và Viên Thuật không kết được thông gia, cũng không thể liên thủ điều này có vai trò rất quan trọng trong quá trình thống nhất phương Bắc của Tào Tháo. Hai là Trần Đăng đã can ngăn trước khi Lã Bố đến bái kiến Tào Tháo, bí mật nói với Tào Tháo rằng: Lã Bố là người hữu dũng vô mưu, có sữa thì là mẹ, phản trắc bất thường nên sớm diệt trừ. Tào Tháo nghe xong cảm thấy rất vui. Bởi vì Tào Tháo luôn nghĩ rằng Lã Bố là kẻ tất nhiên phải trừ khử vì thế Tào Tháo đã ngay lập tức phong cho Trần Khuê, cha của Trần Đăng chức quan 2.000 thạch, còn Trần Đăng thì được phong làm thái thú Quảng Lăng. Khi chia tay Trần Đăng, Tào Tháo còn cầm tay Trần Đăng nói: “Việc ở phía đông, phải giao phó cho ông”. Chuyện ở phía Đông đều giao phó cho ông là việc gì? Đó chắc chắn là việc Trần Đăng sẽ làm nội ứng cho Tào Tháo trong quân Lã Bố . Câu chuyện Hoa Đà muốn bổ đầu Tào Tháo chữa bệnh rất phổ biến Trần Đăng đã không phụ lòng gửi gắm của Tào Tháo. Sau khi Lã Bố thấy Trần Đăng từ chỗ của Tào Tháo trở về, Trần Khuê, Trần Đăng đều được phong quan cao bổng hậu trong lòng lo lắng không yên muốn trở mặt với Trần Đăng. Trần Đăng chỉ nói một câu đã làm lay động Lã Bố. Trần Đăng nói: Sau khi tôi đến gặp Tào Tháo, nói Lã Bố là một mãnh hổ, chỉ có thể cho hắn ăn no thì ngài mới có thể dùng được. Tào Tháo nói, ngươi nói không đúng. Lã Bố là một con đại bàng hung dữ, chỉ cần cho hắn đói một chút hắn mới có thể phục vụ cho ta. Nếu như cho ăn no rồi, hắn sẽ cất cánh mà bay mất. Lã Bố vừa nghe Trần Đăng nói Tào Tháo khen mình là đại bàng, rất cao hứng quên luôn cả mối hiềm nghi của mình .Vì thế có thể nói trong lòng Tào Tháo, Trần Đăng là một công thần có dũng có mưu. Do đó, khi Trần Đăng bị bệnh và được Hoa Đà chuẩn đoán chắc chắn là thông báo cho Tào Tháo biết: Loại bệnh này ba năm sau sẽ tái phát. Nếu như lúc đó mà gặp được thầy giỏi có thể trị được. Ba năm sau bệnh của Trần Đăng quả nhiên bạo phát, khi ấy Hoa Đà không còn ở đó nữa, Trần Đăng cũng vì thế mà chết. Cái chết của Trần Đăng ngay lập tức truyền khắp thiên hạ.Tào Tháo coi trọng Trần Đăng như vậy hẳn nhiên cái chết của ông ta sẽ gây ra một chấn động lớn. Sau khi Trần Đăng chết, Tào Tháo cho triệu kiến Hoa Đà nguyên nhân đương nhiên là khả năng thứ hai. Bởi theo Hoa Đà truyện y thuật thần kỳ của Hoa Đà đều là những việc chữa trị cho dân thường và quan chức cấp thấp. Những người này đối với Tào Tháo chẳng quan trọng gì. Trần Đăng không như vậy. Ông ta là người được Tào Tháo tín nhiệm và coi trọng. Cái chết của Trần Đăng có hai điểm làm kinh động Tào Tháo: Một là thời gian Trần Đăng phát bệnh. Hai là vì không có Hoa Đà ở đó mà Trần Đăng bị chết. Trước là chẩn đoán, sau là trị liệu. Cái chết của Trần Đăng đã chứng minh Hoa Đà trong cả việc chẩn đoán và trị bệnh đều rất có quyền uy. Một vị thần y như vậy, Tào Tháo đương nhiên rất cần. Còn như khả năng thứ ba là hiện thực nhất. Có những lời đồn trong dân chúng lại thêm cái chết của Trần Đăng đương nhiên địa vị của Hoa Đà trong Tào Tháo sẽ được nâng cao. Vì thế Tào Tháo mới nghĩ đến việc mời Hoa Đà về trị bệnh. Đương nhiên vẫn còn một điểm đó chính là nhu cầu của Tào Tháo. Nếu Tào Tháo không có bệnh thì mời một danh y như Hoa Đà làm gì? Tào Tháo mắc bệnh đau đầu. Một khi bệnh này phát, Tào Tháo tâm loạn mắt mờ vô cùng khó chịu. Tào Tháo triệu Hoa Đà trị bệnh cho mình, các điều kiện khách quan và chủ quan đều đầy đủ. Một người sở trường trong việc chữa các bệnh nan y như Hoa Đà vừa nhìn thấy Tào Tháo đau đầu, lập tức châm cứu cho Tào Tháo. Châm cứu xong hết đau, vô cùng công hiệu. Nhưng khi đó quan hệ giữa Tào Tháo và Hoa Đà là “thường ở bên cạnh” để lỡ Tào Tháo có phát bệnh thì có thể lập tức trị liệu. Nhưng “thường ở bên cạnh” hoàn toàn không phải là ngày ngày theo hầu Tào Tháo. Sự dựa dẫm của Tào Tháo vào Hoa Đà không phải là quá lớn. Sau đó, Tào Tháo còn tự mình xử lý việc quốc gia đại sự (Thái tổ thân lý – Thái tổ tự xử lý việc quốc gia đại sự) rất bận rộn mà bệnh tình ngày càng trầm trọng vì thế mới dùng Hoa Đà làm thầy thuốc của riêng mình (sử Đà chuyên thị - dùng Hoa Đà chuyên coi việc sức khỏe cho mình). Hoa Đà học y thuật “Chuyên thị” và “thường ở bên” không hề giống nhau. “Thường ở bên” là khi cần thì cho gọi, còn “chuyên thị” thì Hoa Đà đã trở thành một thầy thuốc “riêng” hầu hạ cho Tào Tháo.Vậy “Thái tổ tự mình xử lý việc quốc gia” là vào thời gian nào? Vào năm Kiến An nguyên niên (tức năm 196) Tào Tháo đón Hiến Đế về Hứa Xương. “Phụng sự thiên tử để lệnh cho thiên hạ”. Khi đó Tào Tháo đã có quyền thế khuynh đảo thiên hạ. Năm Kiến An thứ 5, xuất binh đánh bại Viên Thiệu, đến năm Kiến An thứ 7 Viên Thiệu mắc bệnh mà chết. Đến năm Kiến An thứ 9 Tào Tháo đánh bại Viên Thượng định đô ở Nghiệp Thành. Tháng 1 năm Kiến An thứ 10, Tào Tháo tấn công giết Viên Đàm. Tập đoàn họ Viên cuối cùng đã bị đập tan. Đương nhiên nói sự diệt vong của tập đoàn Viên Thiệu chính là nói Tào Tháo bắt đầu “thân tự xử lý” những việc trọng đại trong triều. Việc triều chính bận rộn đã khiến bệnh đau đầu của Tào Tháo phát tác. Chính lúc đó, Tào Tháo mới quyết định để Hoa Đà thành bác sĩ “riêng” của mình. Hoa Đà từ thân phận một lang trung du hành khắp nơi chưa bệnh trong quá khứ đã bị hạn chế tự do hành động. Đây là một điểm quan trọng. Nhưng mà Hoa Đà ở bên cạnh Tào Tháo một thời gian liền xin về quê nghỉ phép. Lấy cớ gì để xin nghỉ phép đây? Trong hai cuốn sử đã dẫn ở trên có chép: Một là về quê lấy thuốc (Hậu Hán thư), hai là nhận được thư của gia đình (Tam Quốc chí). Nhưng không kể là lý do nào, Tào Tháo đều đồng ý. Tào Tháo vì sao lại đồng ý? Một là về nhà lấy thuốc thì không thể không đồng ý. Không đồng ý làm sao có thuốc trị bệnh? Hai là muốn thu phục nhân tâm. Nhận được thư của gia đình mà không cho về chẳng phải Tháo đã đánh mất lòng trung nơi thần y sao? Nhưng lý do xin nghỉ phép thực sự của Hoa Đà là gì? Hậu Hán thư – Hoa Đà truyện nói tới bốn lý dó: Một là Hoa Đà tính cách cổ quái (vi nhân tính quái), hai là Hoa Đà ở chỗ Tào Tháo không được như ý muốn (nan đắc ý), ba là cảm thấy xấu hổ vì nghề y (sỉ sĩ y kiến nghiệp), bốn là nhớ nhà (khứ gia tư quy). Tam Quốc chí thì chỉ nói đến một lý do: nhớ nhà (cửu viễn tư gia quy). Hoa Đà về nhà lấy lý do là bệnh của vợ chưa khỏi cứ kéo dài thời gian nghỉ mà không trở lại phủ Tào Tháo. Tào Tháo nhiều lần viết thư còn sai quan chức địa phương đến thúc giục nhưng không làm Hoa Đà lay chuyển. Vì sao Tào Tháo thúc bách Hoa Đà như vậy mà ông ta không lay chuyển? Tam Quốc chí nói là “Đà ỷ năng khánh thực sự” còn Hậu Hán thư nói: “ỷ năng khánh sự”. Cả hai cuốn sử này đều nói giống nhau rằng, Hoa Đà dựa vào y thuật cao siêu của mình không muốn làm một thầy lang hầu hạ riêng cho Tào Tháo. Tào Tháo biết rằng mình thúc giục mà không lay chuyển được Hoa Đà, lập tức nổi giận truyền người trước sau điều tra phát hiện rằng vợ của Hoa Đà giả bệnh. Vì thế Tào Tháo cho bắt Hoa Đà, giải về giam tại nhà ngục ở Hứa Đô (nay là Hứa Xương Hà Nam). Thông qua tra khảo, Hoa Đà xác nhận mình phạm tội “lừa dối”. Mưu sĩ lớn nhất của Tào Tháo là Tuân Húc nói với Tào Tháo rằng: Y thuật của Hoa Đà là rất cao, sự sống còn của ông ta có quan hệ đến sinh mệnh của rất nhiều người nên miễn tội cho ông ta. Nhưng Tào Tháo nghe xong không vừa ý, nói với Tuân Húc rằng: Không cần phải lo, trong thiên hạ này lẽ nào lại không tìm được một thầy thuốc như vậy hay sao? Kết quả một ngôi sao lớn đã rơi, thần y Hoa Đà đã bị Tào Tháo giết. Tào Tháo là người rất yêu người tài, tiếc người tài và trọng người tài. Hòa Đà cũng là một vị thần y hiếm có vậy tại sao Tào Tháo lại muốn giết Hoa Đà? Về phía Tào Tháo, Tào Tháo muốn Hoa Đà chuyên tâm điều trị bệnh cho mình đồng thời đối với việc vợ của Hoa Đà bị bệnh, ông ta cũng đã đối xử thấu tình đạt lý. Tào Tháo còn hứa sẽ tặng cho Hoa Đà 40 mươi hộc đậu (từ thời Tống trở về trước, 10 đấu gọi là một hộc), dễ dàng cho phép ông về quê thăm gia đình. Cách làm này của Tào Tháo rõ ràng là để thu phục nhân tâm nhưng làm được việc này đối với Tào Tháo cũng không đơn giản, chí ít nó cũng nói rõ rằng Tào Tháo rất cần Hoa Đà. Nhưng Hoa Đà lại chẳng hề cảm kích cũng không chịu nghe theo mệnh lệnh của Tào Tháo mà về chữa trị cho ông ta, còn lấy việc bệnh tật của vợ để lừa Tào Tháo, không vào phủ chữa bệnh. Tào Tháo đương nhiên nổi giận. Đối với một vị tể tướng triều Đại Hán đang năm mọi quyền sinh sát trong tay, Hoa Đà chỉ làm một phương kỹ (từ dùng chỉ chung các nghề y, bói toán, xem tướng,… thời xưa), tức là kẻ tiểu nhân mà thôi. (Còn nữa) Hy Văn ( dịch từ China.com )nguồn vietimes
-
Tào Tháo vì sao muốn giết Hoa Đà? (Phần II) Thứ tư, 17/9/2008, 07:00 GMT+7 Trong quan niệm của người Trung Quốc thời cổ đại, “thượng y y quốc, kỳ thứ tật nhân” (y học cao siêu là chữa bệnh cho đất nước, y học thấp mới là thứ y học chữa bệnh cho người). Là một người đọc sách, làm quan trị nước mới được người ta coi trọng, một lang trung lang thang khắp nơi như Hoa Đà không được người ta coi trọng. Tào Tháo đã “thân lý quốc chính” (tự thân xử lý việc nước), vì thế ông ta đương nhiên có quyền sinh sát, có thể dùng pháp lệnh nhà nước đàng hoàng mà giết người. Huống chi người chọc giận ông ta chỉ là một lang trung, địa vị rất thấp, giết cũng đâu phải là vấn đề. Vì thế Tào Tháo vì tức giận mà xử sự cảm tính, đó chính là điều dẫn đến hai nguyên nhân Tào Tháo giết Hoa Đà. Một là, có thể giết. Hai là không có ảnh hưởng gì lớn. Nhưng đây chỉ là nguyên nhân bề mặt. Nguyên nhân chân chính khiến Tào Tháo giết Hoa Đà chính là vì Tào Tháo trước nay không coi Hoa Đà là “người”. Đương thời chế độ pháp luật bảo vệ cho quyền uy của Tào Tháo chứ không mảy may bảo về quyền sống của Hoa Đà. Về phía Hoa Đà mà nói, việc ông ta không chịu “vung dao mổ” là một cái cớ để Tào Tháo giết. Thứ nhất, ông ta không muốn làm thầy lang cho riêng Tào Tháo, mà muốn làm một lang trung lang thang khắp nơi chữa bệnh cho bách tính chứ nhất định không chịu phục vụ cho một người. Vì thế làm một thị y (thầy thuốc hầu) cho Tào Tháo không phải là mong muốn của Hoa Đà. Vì thế, chức thị y này Hoa Đà không hoàn toàn nghĩ tới. Hoa Đà lấy lý do là vợ có bệnh để không đến Hứa Đô. Nhưng mà Hoa Đà cũng là một con người, ông ta cũng có quyền lựa chọn đi hay không đi! Thứ hai, nhớ nhà. Hoa Đà truyện trong Hậu Hán thư và Tam Quốc chí đều nói rằng thời gian Hoa Đà trị bệnh cho Tào Tháo rất lâu, xa nhà, nhớ nhà đến sốt ruột. Vì nhớ nhà mà không muốn phục vụ Tào Tháo nữa. Lựa chọn ai để phục vụ là quyền lợi chính đáng của Hoa Đà, điều này đâu phải là tội? Thứ ba, không hiểu đầy đủ về Tào Tháo. Hoa Đà đã không hiểu đầy đủ về một nhân vật gian hùng thời loạn như Tào Tháo, càng không hiểu đầy đủ về quyền sinh sát mà Tào Tháo đã chế độ chuyên chế ban cho. Hoa Đà từ chối không đi với lý do là vợ bị bệnh nhưng lý do này rất dễ bị người ta phát hiện . Nếu bị Tào Tháo phát hiện ra thì sao ? Điều này Hoa Đà dường như không nghĩ tới, không hề có phương án để đối phó. Giống như Hoa Đà là một danh y nổi tiếng, nhưng trong con mắt Tào Tháo ông ta chỉ là một kẻ “tiểu nhân”. Không chỉ là Tào Tháo, những quan lại thời đó đều không coi những người không phải là quan là con người chứ đừng nói đến nhân tài. Chúng ta nói Tào Tháo là kẻ yêu tài nhưng mà Tào Tháo không hề yêu người có tài. Vì thế những kẻ thống trị chuyên chế đều khu biệt “nhân” và “tài”, chỉ yêu “tài” chứ không yêu “nhân”. Đây cũng là cách nhìn nhân tài của chế độ chuyên chế. Hoa Đà trở thành một danh y nổi tiếng, được nhiều người tôn kính là do những thường dân bách tính, là những người bệnh trong nhân dân.. Vì thế, Hoa Đà muốn lấy lý do vợ mình mắc bệnh để không làm thầy lang hầu hạ Tào Tháo là một suy nghĩ giản đơn và ấu trĩ. Tào Tháo có lý do để giết Hoa Đà, Hoa Đà lại không suy nghĩ thấu đáo mọi chuyện, vì thế ông ta chẳng phải cũng có một phần trách nhiệm trong cái chết oan uổng của mình hay sao? Cả Tam Quốc chí và Hậu Hán thư đều không ghi chép việc Hoa Đà đề xuất mổ đầu Tào Tháo để trị bệnh. Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung ghi chép về cái chết của Hoa Đà là thuần túy hư cấu. Nhưng những hư cấu của Tam quốc diễn nghĩa cũng không phải là hoàn toàn vô căn cứ, nó cũng có nền tảng hiện thực của nó: Một là Hoa Đà có thể dùng “Ma phí tán” để phẫu thuật bụng. Hai là Hoa Đà giết là sự thực. La Quán Trung muốn ca ngợi Hoa Đà mới có chuyện Hoa Đà đề nghị Tào Tháo mổ đầu chứ không hề có chuyện này. Tam Quốc diễn nghĩa là một trong bốn bộ tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng của Trung Quốc, Hoa Đà cũng là một danh y trong truyền thuyết người Hoa. Vì thế việc ông ta muốn dùng rìu sắc mổ đầu Tào Tháo để lấy “phong diên” mới được lưu truyền rộng rãi nhưng hoàn toàn không phải là sự thực về cái chết của Hoa Đà. Liên quan đến cái chết của Hoa Đà, gần đây người ta đưa ra một nguyên nhân: Hoa Đà dựa vào y thuật cao siêu của mình muốn đòi Tào Tháo ban quan chức, kết quả bị Tào Tháo giết. Luận điểm này là gì? Một là “tâm lý bất bình”. Hoa Đà vốn là một người đọc sách, đến cuối đời vẫn là một thầy thuốc bình thường nên tâm lý hay bất bình. Đặc biệt là sau khi danh tiếng của ông ta ngày càng nổi, càng tiếp xúc nhiều hơn với quan lại quý tộc, nhìn thấy những người này làm quan, nội tâm càng cảm thấy bất bình. Vì thế Hậu Hán Thư – Hoa Đà truyện, mới nói Hoa Đà là “người ghét việc ác, khó mà có được”. Hoa Đà vì không thể làm quan nên tính cách càng ngày càng quái dị không thể xử sự giống như người khác . Hai là “giữ bệnh để làm mình trở nên quan trọng”. Tào Tháo sau khi giết Hoa Đà, công khai nói với mọi người rằng: Hoa Đà có thể trị được căn bệnh đau đầu của ta nhưng có ý không muốn trị, mà chỉ muốn mượn cớ đó để nâng cao giá trị của mình. Ta không giết hắn hắn cũng không chữa dứt hẳn căn bệnh đau đầu cho ta. Ba là “khuếch đại bệnh tình”. Tào Tháo chỉ bị đau đầu nhưng Hoa Đà nói là bệnh này không thể trị dứt được, kiên trì trị bệnh lâu dài mới mong sống thêm được vài năm. Tôi cho rằng ba lý do này đều không tồn tại. Bởi vì bề ngoài thì có lý nhưng bên trong thì rất vô lý. Đầu tiên là “tâm lý bất bình”. Hoa Đà có thích làm quan không? Trần Khuê đề cử ông ta làm Hiếu liêm nhưng ông ta từ chối. Thái úy Hoàng Uyển mời Hoa Đà, Hoa Đà cũng từ chối không đến. Hiếu Liêm và Trưng Tích là hai con đường lớn để bước vào hoạn lộ thời Đông Hán nhưng Hoa Đà đều không muốn đi theo. Bởi vì Hoa Đà sinh ra vào thời loạn, không muốn làm quan. Một người không muốn làm quan vì sao phải lợi dụng Tào Tháo để đòi một chức quan? Hoa Đà tâm lý bất bình có thể là sự thật nhưng Hoa Đà vẫn nhận lời Tào Tháo đến trị bệnh, đồng thời còn “thường ở bên cạnh”. Nếu muốn cầu quan nơi Tào Tháo thì sao không kéo dài thời gian trị bệnh cho ông ta? Sau đó lại còn lấy lý do vợ bị bệnh để không vào phủ chữa bệnh cho Tào Tháo, rõ ràng là không muốn nhận sự biết ơn của Tào Tháo, cũng không muốn bị giam cầm trong cái lồng của Tào Tháo. Nói “giữ bệnh” và “dứt căn” thực ra là cường điệu. Nếu như Tào Tháo lấy việc “giữ bệnh” để thêm tội cho Hoa Đà, thì sao Hoa Đà không “trị dứt căn” để thoát khỏi sự trị tội của Tào Tháo. Có thể thấy, Hoa Đà nhận lời mời của Tào Tháo, thuần túy là trị bệnh chứ không phải là có ý cầu làm quan. Bỏ Tào mà đi là vì không thể trị dứt bệnh chứ không phải là không muốn chữa. Vì thế luận về cái chết của Hoa Đà tất nhiên phải luận về vấn đề: Hoa Đà vui thú với nghề y hay xấu hổ với nghề y? Hoa Đà không muốn làm quan thời loạn là điều nhất quan từ trước tới sau. Trước không muốn người tiến cử, sau không muốn phụ giúp Tào Tháo. Bởi vì tư tưởng chính thống ở Hoa Đà rất sâu. Tào Tháo, là “kẻ lấy danh nghĩa thiên tử để ra lệnh chứ không tự coi là thần”. Đối với một người có tư tưởng chính thống như Hoa Đà đương nhiên không hợp. Hoa Đà là một lương y, ông ta có nguyện vọng cứu xã hội. Thậm chí thân bị giam trọng ngục tối vẫn muốn viết sách để lưu truyền hậu thế, hy vọng y thuật của mình có thể cứu giúp được nhiều người hơn nữa. Ông đã truyền Ngũ cầm hý để rèn luyện thân thể và dạy châm cứu để trị bệnh. Có thể thấy là Hoa Đà vui với nghề y chứ không xấu hổ với nghề y. Vì sao một người lấy nghề y làm vui như Hoa Đà lại vẫn có tư tưởng “thân là nhân sĩ, lấy nghề y để dựng nghiệp, thường cảm thấy tự ân hận”. Điều này đối với nhận định Hoa Đà vui với nghề y chẳng phải là mâu thuẫn lắm sao? Hoa Đà cũng là một người đọc sách “thông hiểu các kinh”, đương nhiên bản thân cũng muốn làm quan. Nhưng Hoa Đà sinh ra vào cuối thời Đông Hán, chính trị cực kỳ hỗn loạn, Hoa Đà lại không có người giúp đỡ, không có hoàn cảnh vì thế đọc sách làm quan đối với Hoa Đà đó là một tham vọng quá cao . Không thể làm quan, nhưng con người ta vẫn phải sống nên Hoa Đà mới làm nghề y. Dùng nghề y để mưu sinh đối với người có y thuật cao siêu như Hoa Đà là không thành vấn đề. Vì thế Hoa Đà mới trở thành thầy thuốc du hành tứ phương để cứu người. Đồng thời trên đường hành nghề, y thuật của Hoa Đà cũng được nâng cao, cảm thấy sâu sắc rằng: Bách tính nhân dân trong đời loạn như thế này rất cần những danh y như Hoa Đà. Chính vì nhu cầu xã hội và y thuật cao siêu của Hoa Đà phối hợp mới tạo thành một thần y Hoa Đà vui vì bốc thuốc chữa bệnh cứu người như vậy. Tuy Hoa Đà phải lấy nghề y làm sự nghiệp, cũng cảm thấy bất bình nhưng trải qua nhiều năm tháng hành nghề y, Hoa Đà biểu hiện một nhiệt tình thực sự đối với nghề này. Trên đường hành nghiệp, Hoa Đà từng gặp một bệnh nhân bị nghẽn yết hầu, rất muốn ăn một thứ gì đó nhưng không thể ăn được. Người nhà dùng xe kéo anh ta đi tìm thầy thuốc. Hoa Đà nghe thấy anh ta kêu đâu mới dừng xe lại xem bệnh. Xem xong, Hoa Đà nói với người nhà anh ta rằng: Vừa rồi tôi gặp trên đường một tiệm bánh, trong bánh có rất nhiều tỏi và giấm. Đi mua lấy 3 thăng hai loại đó, uống vào, bệnh tự nhiên sẽ khỏi. Người nhà bệnh nhân y lời làm theo, mua giấm và tỏi cho bệnh nhân uống. Uống xong bệnh nhân cảm thấy buồn nôn rồi nôn ra một con giun, bệnh cũng vì thế mà khỏi. Lúc đó Hoa Đà đã đi mất, người bệnh bèn treo con giun vào bên xe, tự mình đến nhà Hoa Đà để cảm tạ. Hoa Đà không vẫn chưa trở về, con của ông vẫn đang chơi ở cửa, nhìn thấy người tới, ngay lập tức tự nói với mình, chắc chắn là đến gặp cha ta, bên xe treo một con giun chứng tỏ điều đó. Người bệnh nhân này tiến đến gần nhà của Hoa Đà mới thấy trên bức tường phía bắc nhà Hoa Đà có treo đến chính mười con giun. Ví dụ này rất điển hình. Người bệnh rên rỉ, Hoa Đà nghe tiếng rên mà tới, chủ động tìm bệnh nhân để trị bệnh, nói cách trị bệnh cho bệnh nhân rồi đi. Người bệnh tìm đến nhà để cảm ơn, con của Hoa Đà nhìn thấy bên xe của bệnh nhân có treo con giun đũa thì biết là người đã được cha mình chữa khỏi. Bệnh nhân nhìn bức tường của nhà Hoa Đà mới biết Hoa Đà là người chuyên chữa loại bệnh này. Lại nói đến điều thứ hai, “giữ bệnh để tăng sự quan trọng của mình” Đây là câu nói của Tào Tháo sau khi giết Hoa Đà. Vì thế không loại trừ nhân tố là Tào Tháo dùng câu nói này để tự bào chữa cho mình. Đồng thời, nhân tố này là rất quan trọng. Hoa Đà là một danh y. Khi Tào Tháo quyết định giết Hoa Đà thì mưu sĩ quan trọng nhất của Tào Tháo là Tuân Húc đã ra sức can gián... Vì vậy sau khi giết Hoa Đà, Tào Tháo cũng vì thế mà nhận sự phê phán gay gắt của dư luận. Do đó cách nói “giữ bệnh của ta để làm tăng sự quan trọng của mình” là rất khó tin. Trên sự thực, bệnh đau đầu của Tào Tháo là rất khó chữa. Nhưng cũng cần chú ý đến một phương diện khác, Tào Tháo là một người bệnh toàn tâm muốn được chữa khỏi, Hoa Đà là một thầy thuốc trị bệnh không phân biệt người bệnh. Nhưng giữa hai người lại rất khó để hiểu nhau. Hoa Đà cho rằng căn bệnh của Tào Tháo khó trị khỏi được, còn Tào Tháo lại cho rằng Hoa Đà “giữ bệnh để làm tăng sự quan trọng của mình”. Cuối cùng là điều thứ ba, “khuếch đại bệnh tình” Cái gọi là khuếch đại bệnh tình, theo ý tôi là sự thẳn thắn. Bệnh “phong diên” là một loại bệnh rất khó chữa. Bệnh này tuy chỉ là đau đầu nhưng rất khó trị khỏi. Khi phát tác người bệnh đau dữ dội. Đồng thời bệnh có biến chứng. Biến chứng ở Tào Tháo chính là tâm hoảng loạn, mắt mờ. Tôi cho rằng Hoa Đà nói với Tào Tháo rằng bệnh này khó chữa khỏi là thực sự cầu thị, nói thực về bệnh tình của ông ta. Lời nói thẳng thắn này không phải là bắt buộc. Bởi vì nguyên nhân chân chính của cái chết Hoa Đà là đã mạo phạm đến cơn đại nộ của Tào Tháo. Mà Tào Tháo cũng không coi Hoa Đà là một con “người”, cũng không hề tôn trọng sự lựa chọn cuộc sống của Hoa Đà. Lưu Vũ Tích, một thi nhân nổi tiếng đời Đường trong bài Hoa Đà luận có một câu nói nổi tiếng rằng: “Chấp chính giả chi huệ, chân khả úy chư”. Chính là muốn nói Tào Tháo “năm quyền” sinh sát mà xử sự cảm tính như vậy thật chẳng phải là rất đáng tiếc hay sao? Hy Văn (Vietimes) dịch từ China.com
-
Nếu Em là mảnh vỡ Nếu tin rằng nhân quả nơi đây Thì mảnh vỡ chỉ là cái cớ Cho sự đổi thay hình hài kim cổ Con tạo xoay vần duyên số mà thôi. Em ứơc mình như mảnh vỡ giữa đời Cho tiền kiếp ta gặp nhau thành duyên nợ Ảo ảnh trở về lung linh màu nhớ Kiếp phong trần trong cõi nhân gian. Mk thu hanoi
-
Hỏng có tự túc được đâu Thiên Đồng ơi ! Tự góp : suất xe + suất ăn + suất uống + suất quà = CHIA ĐỀU theo nhân khẩu tham gia . Học thì Miễn phí ! Do vậy Thầy có công giảng giải , thầy có quà đặc biệt đem về . Ai đồng ý đăng ký với Thiên Đồng ! VẬY ĐƯỢC HÔNG TA ?
-
10 bảo vật quốc gia HỒNG PHÚC Nguồn: www.tuoitre.com.vn TTCT - Ngoài những giá trị văn hóa - lịch sử - khoa học tiêu biểu, đáng trân trọng là 8/10 bảo vật đều do người dân Quảng Trị tự nguyện tặng cơ quan chuyên môn. Trong mười bảo vật này có năm bảo vật mang phong cách kiến trúc Chăm, còn lại mang phong cách kiến trúc Việt. Trong đó có những bảo vật rất tiêu biểu như tượng tròn Uma Dương Lệ. Khi nghiên cứu pho tượng này, giáo sư Lương Ninh - Viện Khảo cổ học Việt Nam - nhận xét: “Đây có thể là pho tượng tròn vào loại đẹp nhất của nghệ thuật Chăm”. Thạc sĩ Lê Đức Thọ - phó giám đốc Bảo tàng Quảng Trị - cho rằng: “Tượng Nguyễn Ư Dĩ là độc nhất vô nhị tại Việt Nam, những giá trị không đâu có được”. Ông Lê Đức Thọ cho biết 10 bảo vật quốc gia có niên đại sớm nhất 2.500 năm, muộn nhất gần 300 năm. Phù điêu lá nhỉ Trà Liên 1 Có niên đại từ nửa cuối thế kỷ 9, cao 1,21m, dày 20cm, đường kính đáy 1,54m, làm bằng đá sa phiến thạch. Nội dung phù điêu chạm hình thần mặt trời Surya và hai trợ thủ. Thần Surya đứng giữa, đầu đội một Kirita-mukuta hai tầng gần giống mũ của thần Visnu, toàn thân khoác áo dài kẻ sọc dày. Khuôn mặt nghiêm nghị, lông mày rậm, mũi cao, miệng rộng, hai tai đeo đồ trang sức to nặng, hai tay cầm búp sen giơ lên cao. Hai trợ thủ ngồi hai bên phía dưới chân của thần, mỗi vị cầm một cái trượng trên tay, khuôn mặt tươi tắn, miệng rộng, môi dày. Bên dưới phù điêu có hình bảy đầu ngựa tượng trưng cho bảy ngày. Phù điêu lá nhỉ Trà Liên 2 Có niên đại từ nửa cuối thế kỷ 10, cao 1,2m, rộng 2,1m. Nội dung của bức phù điêu thể hiện ở ba mảng. Hai mảng chính thể hiện bởi hai tượng thần Siva và Uma được chạm nổi trong hai khung hình bán nguyệt, một mảng phụ thể hiện hình tượng cây vũ trụ chạm chìm nằm ở phía trên đầu giữa hai mảng chính. Thần Siva ngồi trên một chiếc bệ, dáng thư thái, miệng hé cười, hai cánh mũi nở. Hình tượng Uma ngồi trên bệ cao, nửa thân trên để trần lộ ra hai vú căng tròn, hai cánh tay thon thả, ở cánh tay và cổ tay có đeo vòng trang sức. Bức phù điêu hình bán nguyệt làm bằng đá sa thạch. Bò thần Nan Din Kim Đâu Có niên đại từ thế kỷ 10, cao 0,6x0,35m được đặt trên bệ cao 0,46x0,29m, bằng đá sa thạch. Xung quanh bệ là dải hoa văn hình cánh sen. Bò Nan Din là vật cưỡi của thần Siva và nữ thần Paravati.Bò thần Nan Din Quảng Điền Cao 0,52x0,34m, có niên đại khoảng cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10.Cụm vò bán sứ Đường làng Dương Lệ 5/7 vò còn ngyên vẹn. Vò lớn nhất cao 0,57m, đường kính miệng vò 0,21m, vò nhỏ nhất cao 0,11m. Cả mặt trong và ngoài vò đều được phủ men màu vàng nhạt. Xương gốm tinh có màu trắng sữa. Cụm vò được chế tác theo phương pháp bàn xoay, có niên đại từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 10. Trống đồng An Khê Có niên đại cách nay 2.500 năm. Trống có tang phình, thân eo, đế thẳng, xung quanh có bốn quai, trống cao 0,26m, đường kính mặt trống 0,30m. Trên mặt trống có hình ngôi sao tám cánh và có sáu vành hoa văn được trang trí các họa tiết. Bản khoán ước làng Phú Kinh Bản khoán ước hình chữ nhật, dài hơn 2m, rộng 0,6m được làm bằng gỗ lim, có niên đại năm 1774. Toàn bộ khoán ước có khắc gần 5.000 chữ Hán ở mặt trước. Nội dung bản khoán ước bao gồm những qui định trong đời sống xã hội như giải quyết vấn đề phân chia ruộng đất, giáo dục, khuyến học, giữ gìn phong thủy, tang ma, cưới xin của làng.Tượng UMa Dương Lệ Pho tượng tròn, cao 0,65m, được làm bằng đá sa thạch, tạc nữ thần đang tọa trên bệ đài. Chân nữ thần đặt chéo lên nhau, hai tay đặt ở phần đùi trong tư thế thiền định. Đây là biểu tượng của thần Uma, vợ hay chính là hóa thân của nữ thần Siva. Tượng Uma có niên đại cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10.Trống đồng Trà Lộc Trống có hình dạng thân thon, đế choãi, tang phình, mặt trống được trang trí hình sao 10 cánh, xen giữa cánh sao là hình chữ V, có bảy vành hoa văn với các họa tiết như vòng tròn tiếp tuyến có chấm giữa, chim mỏ dài có mào, đuôi dài bay ngược chiều kim đồng hồ. Vòng chủ đạo mặt trống có bốn hình thuyền, chân trống choãi có năm vành hoa văn được trang trí hình bò u nổi, hình chấm dải. Trống có niên đại cách nay 2.500 năm.Tượng Nguyễn Ư Dĩ Tượng được đúc dưới thời chúa Nguyễn, cao 0,62m, phần vai rộng 0,30m. Nhân vật được tạc tượng là Nguyễn Ư Dĩ - cậu ruột chúa Nguyễn Hoàng. Nguyễn Ư Dĩ là người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn xây dựng cơ đồ ở Đàng Trong, nhất là thời gian 68 năm của chúa Nguyễn Hoàng đóng dinh ở đất Quảng Trị. Tượng đồng Nguyễn Ư Dĩ được đặt một nơi không an toàn, đã hai lần bị kẻ xấu lấy cắp. Người dân làng Trà Liên, xã Triệu Giang phải dùng máy rà kim loại rà tìm mất mấy ngày, cuối cùng phát hiện bức tượng bị kẻ xấu chôn ở bờ sông Thạch Hãn. Có lẽ kẻ xấu đợi đêm xuống bỏ lên thuyền chở đi tiêu thụ vì bức tượng nặng mấy tạ, không gánh đi xa được.
-
Wild nhận tin của Chồng chị Nga , chiều ngày 13/9/09 , Nhân viên văn phòng Cty TNHH Chi nhánh Manulife văn phòng đặt tại Plaza Quận 7 , qua trang web của chúng ta , họ biết hoàn cảnh Chị Nga , họ đã trực tiếp đến thăm tặng tiền và quà gồm 1 phong bì có 1.100.000 đ , 2 thùng mì , và đồ dùng học tập cho 2 cháu bé con Chị Nga .
-
Phép thiêng của một bà mẹ Việt Tình mẫu tử là thứ nước mắt chảy ngược vào trong, nó bào nát ruột gan ra và biến thành máu để bắt cơ thể con người ta làm việc, thành nghị lực sống để con người ta gồng mình vượt qua những khiếm khuyết trong cuộc đời. Tôi mò mẫm đi tìm góc cạnh của thứ tình cảm thiêng liêng ấy khi mọi “dấu vết” của dư luận về câu chuyện người mẹ đã ở vậy phục hồi chức năng bại não thành công cho đứa con trai duy nhất cách đây 30 năm trời gần như không có. Người mẹ ấy giờ đã ở tuổi 50, mái tóc pha những sợi bạc trắng thời gian ngậm ngùi nói với tôi: “Những ngày phục hồi chức năng cho cháu, tôi không cho ai biết cả. Tôi sợ mọi người sẽ bình luận, dự đoán sự tiến triển bệnh tình của cháu, dù là tốt hay xấu… Hai mẹ con cứ chốt cửa chặt trong phòng mà tập luyện”. Tôi tìm đến gặp người mẹ ấy vào giữa buổi sớm thanh đạm của những ngày đầu thu Hà Nội và kêu tên bà – cái tên thật dịu dàng yêu thương Nguyễn Thị Mỹ Hiền như chính tình yêu thương tha thiết của bà dành trọn vẹn cho đứa con trai máu mủ Trần Hà Nguyên. Cái tên gợi nhớ một “bà tiên giám đốc” nhân hậu đã được khắc sâu vào trong tim hàng trăm trẻ em nhiễm chất độc màu da cam năm nào của Làng trẻ em Hoà Bình, Thanh Xuân, Hà Nội. Người mẹ ấy, bà Nguyễn Thị Mỹ Hiền, từng là giám đốc của làng trẻ em Hoà Bình trong vòng 10 năm, 1991 – 2001 và đã đem lại biết bao nhiêu may mắn cho trẻ em nhiễm chất độc màu da cam khi bà lặn lội đi xin tài trợ của những tổ chức nước ngoài để tạo điều kiện cho các em được học tập, lao động. Giờ đây, khi đã về nghỉ, bà vẫn là chiếc cầu nối để các cá nhân và tổ chức nước ngoài muốn trao gửi những món quà từ thiện cho những hoàn cảnh trẻ em và gia đình đặc biệt khó khăn ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng… Ánh mắt bà lấp lánh niềm vui khi kể cho tôi nghe câu chuyện về Làng trẻ em tật nguyền Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang đã được xây dựng năm 2002 do một người bạn Nhật Bản của bà bỏ tiền ra tài trợ, hay mới đây, tháng 5 / 2008, một tổ chức của Mĩ đã cùng bà trao tặng các hộ gia đình khó khăn ở Bắc Giang 4 suất quà, mỗi suất 3 triệu đồng, và tháng 10 tới, những người bạn của bà sẽ lại quay trở lạiViệt Nam, cùng bà đi đến một số tỉnh miền Bắc để làm từ thiện. Tất cả những hoạt động ấy, không một báo đài nào đưa tin, và cũng không ai biết ngoài chính quyền sở tại và những số phận may mắn được nhận những món quà ấm áp tình thương bởi “Làm từ thiện là cái việc xuất phát từ trong tim. Làm để cái tâm mình được vui, được thanh thản thì cớ gì phải rùm beng lên?” Thủ thỉ, tâm tình, bà Mỹ Hiền cứ nắm chặt tay tôi mà kể những câu chuyện không đầu đề nhưng chuyện nào bà cũng nhớ đến từng li từng tí. Mái tóc thoang thoảng mùi hương nhu ngòn ngọt gội buổi sáng sớm cùng với ánh mắt luôn lấp lánh những yêu thương của bà khiến một đứa con gái 22 tuổi như tôi cảm thấy gần gụi như chính người mẹ của mình. Cách đây hơn 30 năm, mẹ được hưởng cái hạnh phúc lớn lao nhất của một người phụ nữ đó là hạnh phúc được làm mẹ. Ngắm nhìn đứa con trai đầu lòng kháu khỉnh bụ bẫm cất tiếng khóc oa oa chào đời, mẹ vui mừng đến trào nước mắt. Thế nhưng niềm vui không trọn vẹn, khi con được 4 tháng tuổi mẹ nhận được tin ba con hi sinh trên mặt trận Quảng Trị năm 1973. Nỗi đau mất chồng chưa nguôi ngoai bởi bằng dự cảm của một bác sĩ y khoa, mẹ phát hiện ra con mình mắc chứng bệnh bại não - một chứng bệnh mà không có phương thuốc nào chữa trị được. “Con đẹp như thiên thần… Thế nhưng con không có cử động, co duỗi chân tay được như những đứa trẻ bình thường khác. Bắp thịt con mềm nhũn.”. Con người ta 3 tháng biết lẫy, 7 tháng biết bò, 9 tháng lò dò biết đi, nhưng đứa con trai của mẹ thì không được như thế. Mọi cử động cơ của bé Hà Nguyên đều khó khăn, ngượng nghịu. Nhìn đứa con trai cười hồn nhiên trong vòng tay âu yếm của mẹ, nhưng cơ thể thì nhỏ bé, yếu ớt, nước mắt mẹ cứ trào ra không thôi. Phải làm gì cho con để khi con trai lớn lên, con sẽ hoà nhập mọi hoạt động của mình với bạn bè và giống như bao người bình thường khác? Không thể, không thể để con nằm bất lực như thế. Thế rồi, bằng kiến thức đã và sự hiểu biết của một bác sĩ, mẹ bắt đầu tập luyện cho con bằng cách xoa bóp chân tay cho Hà Nguyên ngay từ nhỏ. Ngày ngày, mẹ đều đặn nắm tay con tập cho con co duỗi các cơ, tập cho con cầm nắm các vật dụng đơn giản nhất. Ngày ấy, vì phải dạy học ở Đại học Y Thái Nguyên, nên con trai thì ở cùng ông bà ngoại và các dì ở Hà Nội, mẹ lại ở xa con gần trăm cây số. Thế nhưng cứ cuối tuần hay dịp nghỉ lễ tết người ta lại thấy người phụ nữ có đôi mắt lúc nào cũng đậm vẻ lo âu, tất tả vội vàng bắt xe ô tô về Hà Nội về với con, tập cho con. May mắn vào những dịp hè, mẹ lại đón con lên ở khu tập thể với mẹ để hai mẹ con có thể tập luyện thường xuyên. Trần Hà Nguyên - Ảnh: Hà Giang Thế nhưng, năm lên 4 tuổi, con trai thân yêu của mẹ vẫn chưa biết đi, thậm chí chỉ là những bước chập chững. Nhìn cơ thể con nhỏ bé, khổ sở co duỗi chân tay, mẹ bặm môi, nước mắt cứ trực trào ra, rồi dứt khoát mẹ bế thốc con chạy sang nhà thày giáo của mình là bác sĩ Chu Tùng khi ấy là chủ nhiệm khoa của Đại học Y Hà Nội để hỏi về bệnh tình của con. Con biết không, thày Chu Tùng nhìn mẹ đầy thương cảm mà nói đừng nên hi vọng quá nhiều ở khả năng trở thành người có hoạt động bình thường của con. Là người học y, mẹ cũng tự biết rằng, đứa trẻ nào mắc chứng bại não thì gần như không có khả năng hoạt động bình thường như bao người khác, thậm chí là tê liệt cả về trí óc. Nhưng bế con quay trở về nhà, nhìn gương mặt con sáng ngời, thông minh, nghe con gọi bà, gọi mẹ, mẹ lại quyết tâm tập luyện cho con. Mẹ nghỉ dạy ở Thái Nguyên để có thời gian chăm con. Mẹ bắt đầu tìm đọc sách để có xây dựng cho con một bài tập hoàn chỉnh. Sách trong nước ít lắm. Mẹ mần mò đọc và dịch sách nước ngoài. Rồi mẹ được Bộ Y tế cử đi làm học sinh cao cấp đi du học ở Tiệp 3 năm học ngành Siêu vi trùng. Mẹ vui mừng khôn tả vì đây cũng chính là cơ hội để mẹ ra nước ngoài tìm hiểu và học hỏi cách thức phục hồi chức năng bại não cho con. Các bác sĩ và chuyên gia nước ngoài nói nhiều về chứng bệnh của con và càng nghe, càng đọc, mẹ càng có hi vọng rằng những bài tập mà mẹ học được sẽ giúp con trai của mẹ làm được những động tác thông thường nhất. Con yêu, mẹ luôn có một niềm tin rằng con trai của mẹ sẽ có quyết tâm và ý chí, vì con rất giống ba của con. Người cha đã không kịp nhìn thấy khuôn mặt thông minh, đáng yêu của con trước khi người hi sinh trong khói lửa bom đạn chiến tranh. Có nhiều người đàn ông tử tế khác đến với mẹ. Người ta nói người ta sẽ coi con như chính con đẻ của họ và sẽ cùng mẹ dạy dỗ con. Nhưng mẹ đã khước từ, mẹ muốn dành tất cả những thời gian rảnh rỗi của mẹ để cùng con phục hồi chức năng vận động của cơ thể. Mẹ sợ, nếu mẹ sánh đôi cùng ai đó khác ngoài cha con trong cuộc sống này, sẽ có lúc dù là vô tình, mẹ sẽ xao nhãng việc tập luyện cho con. Mẹ sợ, sẽ có lúc con cảm thấy bị cô đơn trên thế gian này. Mẹ ở vậy nuôi con, con yêu. Khi về nước, mẹ được phân làm người quản lí Làng trẻ em Hoà Bình khi ấy là một tổ chức phi chính phủ do Thụy Điển tài trợ. Công việc của mẹ bận bù đầu. Thời gian của mẹ là công việc ở làng trẻ với những em nhỏ chất độc màu da cam và tập luyện cho con. Quay trong vòng tròn ấy, mẹ luôn thấy mình hạnh phúc vì có con ngoan. Ông trời không cho mẹ đứa con khoẻ mạnh ngay từ khi sinh ra nhưng ông trời lại thương mẹ, cho con một trái tim biết yêu thương và vâng lời mẹ. Những năm đi học, con luôn làm mẹ vui và hạnh phúc bởi những danh hiệu học sinh giỏi mà con liên tục đạt được. Trần Hà Nguyên: "Tôi là cả công trình của mẹ"... - Ảnh: Hà Giang Tôi gặp Trần Hà Nguyên và trò chuyện cùng anh tại sảnh của toà nhà 65 Văn Miếu – nơi anh công tác với cương vị là Trưởng phòng kế hoạch tổng hợp, Viện chiến lược và phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nhìn anh, thành đạt và lịch lãm, tôi ngỡ ngàng và không thể tin rằng hơn 30 năm về trước, anh là cậu bé quay quắt với chứng bại não. Anh nói: “Tôi là cả công trình của mẹ. Thứ công trình duy nhất và thiêng liêng nhất trên cõi đời này bởi nó được xây dựng bằng mồ hôi nước mắt và tình yêu thương, ấp ủ trong suốt cuộc đời mẹ.” Lần mẹ bị ốm, nằm liệt giường mấy ngày trời. Mẹ cứ lo rằng con sẽ không biết tự phục vụ bản thân. Thế nhưng, con đã làm được tất cả mọi sinh hoạt cá nhân mà không có mẹ giúp đỡ, con tự nấu cơm ăn và tự giặt quần áo cho mẹ dẫu mọi thứ còn dở dang, không hoàn tất. Mẹ đến trào nước mắt vì sung sướng khi con tự tay nấu cháo thịt băm tía tô cho mẹ, dẫu cho những miếng thịt không được băm nhỏ vì tay con vẫn còn rất yếu. Và mẹ biết con đã cố gắng và làm mọi cách để nó nát ra như người ta vẫn từng làm và nấu cháo cho người bệnh. Mẹ chỉ cần có thế thôi là đủ. Cuộc sống của mẹ là được nhìn thấy hình hài con, niềm hi vọng của mẹ là nghị lực và niềm tin của con vào tương lai con sẽ dần khỏi bệnh. Mẹ hì hụi cắt những lốp xe cũ đã bỏ đi làm dây chun để buộc vào một chiếc móc sắt mẹ tự uốn, một đầu cố định vào lan can cầu thang, đầu kia để con nắm tay và kéo. Mẹ bảo với con rằng, con hãy kéo ra kéo vào như thế này hàng ngày, lặp lại nhiều lần như thế. Mẹ bảo con rằng, con hãy nắm bàn tay mẹ để mẹ dắt con đi. Mẹ bảo con rằng, con hãy vịn tay vào lan can cầu thang và đi khi mẹ không có ở nhà để dắt con. Mẹ ơi! Tay con đau đến tê dại, con không thể kéo được cái dây chun kia dãn ra. Chân con buốt lắm, con không đứng vững được khi không có mẹ dắt con. Con đau và khóc oà lên. Đầu gối con ri rỉ máu, chân con chi chít những vết bầm vì vấp ngã liên tục khi tập đi. Không một buổi tập nào, nước mắt mẹ không rơi vì thương con, không một buổi tập nào con không oà khóc vì đau đớn và hờn tủi. Mẹ đã nâng con dậy, lau nước mắt cho con, con nhìn ánh mắt mẹ, ánh mắt mẹ yêu thương và kiên cường. Mẹ bảo con, con hãy tập luyện để đi đứng vững vàng, để mai này, bờ vai của con có thể vững chắc để làm chỗ dựa cho những người thân yêu của con. Lúc đó, con mới 4 tuổi, con chỉ biết thương mẹ, nhưng bây giờ, khi con đã là một người chồng, một người cha của 2 đứa con trai kháu khỉnh, con hiểu hơn ai hết lời nói của mẹ năm nào. Chiều chiều, mẹ chở con ra Bờ Hồ bằng chiếc xe đạp cọc cạch và dạy con đếm từng gốc cây. Ngày hôm nay con mẹ dạy con đếm 3 cây, ngày hôm sau 4 cây và những ngày sau nữa, mẹ kiên trì đạp xe vào mỗi buổi chiều bất kể những ngày giông tố mưa bão hay rét mướt để rèn luyện trí nhớ cho con. Mọi vật diễn ra xung quanh con đều được mẹ miêu tả thật kĩ lưỡng. Con lắng nghe mẹ chăm chú như một chú chim sẻ non vừa mới tách vỏ trứng thô cứng chào đời rồi ngày hôm sau, con lại kể lại cho mẹ nghe những gì con đã quan sát được. Mọi hình ảnh và ý nghĩa của cuộc sống mẹ đều khắc vào trong tâm trí con một cách chi tiết, tỉ mẩn như người thợ chạm khắc miệt mài để lưu lại những đường nét của cuộc sống vào sản phẩm nghệ thuật. Thế rồi, những bước đi của con sau hơn 1 năm tập luyện đã bắt đầu chập chững. Con may mắn hơn những đứa trẻ mắc chứng bệnh bại não khác, bởi trí óc con lại phát triển rất bình thường và thậm chí là nhận thức bài học nhanh hơn những bạn khác. Lên lớp 1, con bắt đầu bước đi được từng bước dứt khoát thế nhưng con vẫn không thể tự đi bộ đi học bởi chỉ cần ai đó chạy ngang qua người con hoặc có một cơn gió mạnh, con lại xiêu vẹo, chênh vênh rồi đổ ngã. Tháng ngày qua đi, con người ta vừa học vừa vui chơi, nhưng con trai của mẹ thì miệt mài với những động tác kéo tay, co chân, tập đi, tập nắm. Lên cấp 2, con đã tự đi học bằng chính đôi chân của mình. Thế nhưng, các bạn của con, không ai dám chạm vào người con hoặc nô đùa xung quanh con, bởi con có thể ngã bất kì lúc nào. Giờ thể dục, con được miễn và ngồi nhìn các bạn tập nhảy cao. Mẹ ơi, con muốn đôi chân con cũng cứng cáp để được bật nhảy cao, nhảy xa như thế. Con nhìn các bạn chạy mà thèm đến cồn cào ruột gan… Và từ ngày đó, con mím chặt môi, quyết tâm cùng mẹ tập dù có đớn đau đến mấy. Một ngày có 365 ngày, con trai của mẹ không bỏ sót một phút rảnh rỗi nào để tập đi và tập chạy. Vấp ngã liên tục, 2 đầu gối con đến chai sần vì những vết bầm tím. Nhưng nghĩ đến những lúc ánh mắt mẹ lấp lánh hạnh phúc khi nhìn thấy con bước được những bước đi đầu tiên, nghĩ đến một ngày bờ vai con có thể trở thành chỗ dựa vững chắc cho những người thân yêu, con lại gồng mình tập những bài tập của mẹ soạn ra cho con. Và tập luyện trở thành một hoạt động tất yếu trong cuộc sống của con, giống như hàng ngày người ta phải ăn cơm và uống nước. Sự tiến bộ của con, nhích dần, nhích dần trong suốt 20 năm giống như những bánh xe lăn từ từ vượt qua mọi vật cản và chông gai trên đường đi để đến phía cuối chân trời xanh thẳm. Con biết cầm nắm mọi vật, con biết đi, rồi biết chạy… Chao ôi! Hạnh phúc xiết bao, khi bước chân vào Đại học Kinh tế Quốc dân với số điểm cao thứ nhì khoa Kinh tế, con đã cầm trong tay được chiếc vợt cầu lông và chơi thể thao với bạn bè cùng trang lứa. Các bạn, không ai có thể ngờ rằng, tuổi thơ, con là đứa trẻ chỉ nằm bẹp dí trên giường và có thể ngã gục xuống bất khi lúc nào khi chịu tác động của lực dù là rất nhẹ ở môi trường bên ngoài. Mẹ ơi, con tự tin đi trên sân trường và tung tăng nhảy chân sáo, trong lòng con vui rộn rã khi nghĩ đến mỗi buổi sáng con có thể đèo mẹ đi chợ bằng chiếc xe "ba bét nhè" ở thời điểm ấy đã là sang lắm rồi. Con đã biết đi xe đạp và đạp xe khắp thành phố như một kẻ cuồng dại vì sung sướng. Con chưa bao giờ đạp xe được nhanh như thế. Chân tay con đã cứng cáp và làm được tất cả những động tác khó. Con đạp nhiều vòng quanh Hồ Gươm và đếm lại những gốc cây sần sùi in dấu thời gian. Những gốc cây có những lời yêu thương và hình ảnh mẹ của con. Tuổi thơ của con, cuộc sống của con và mẹ gắn liền với làng trẻ em Hoà Bình kể từ khi toà nhà của làng trẻ vẫn còn là những đống gạch đổ nát cho đến khi được các tổ chức nước ngaòi tài trợ và xây dựng một cách hoàn thiện. Đi học về, con lại vào thăm các bạn nhỏ nhiễm chất độc màu da cam. Con tự thấy mình may mắn bởi con còn có khả năng phục hồi, trong khi biết bao nhiêu trẻ em nhiễm chất độc màu da cam khác vẫn phải câm lặng chấp nhận những khuyết tật trên cơ thể do di chứng của khói lửa chiến tranh. Hạnh phúc của con được nhân lên gấp bội khi con được cùng mẹ sẻ chia và giúp đỡ những em nhỏ trong sinh hoạt và học tập. Những lần mẹ đưa các em nhỏ sang bệnh viện của Đức để phẫu thuật chỉnh hình trong dự án từ thiện của nước ngoài, thì làng Hoà Bình thực sự là mái nhà của con. Các bạn nhỏ tật nguyền là những anh em của con. Và mẹ chính là người mẹ hiền của chúng con. Năm 1999, đám cưới của con được tổ chức ngay tại làng trẻ em Hoà Bình. Đám cưới của con không linh đình nhưng có nụ cười và vòng tay ấm áp của những người bạn mà con đã gắn bó, san sẻ những yêu thương... Tôi gặp Trần Hà Nguyên và trò chuyện cùng anh tại sảnh của toà nhà 65 Văn Miếu – nơi anh công tác với cương vị là Trưởng phòng kế hoạch tổng hợp, Viện chiến lược và phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư . Nhìn anh, thành đạt và lịch lãm, tôi không tin rằng hơn 30 năm về trước, anh là cậu bé mắc chứng bại não. Anh nói với tôi “Tôi là cả công trình của mẹ. Thứ công trình duy nhất và thiêng liêng nhất trên cõi đời này bởi nó được xây dựng bằng mồ hôi nước mắt và tình yêu thương, ấp ủ trong suốt cuộc đời mẹ.” Hà Giang nguồn vietimes
-
Thứ Bẩy, 13/09/2008 - 7:54 AM Lại phát hiện rùa hai đầu (Dân trí) - Một con rùa “nhí” đang chứng minh rằng 2 thực sự tốt hơn 1. Trong khi các anh chị em của nó phát triển bình thường thì sinh vật này lại lớn nhanh hơn hẳn. Lý do cho sự phát triển vượt trội đó là con rùa nhí sở hữu tới hai đầu, thay vì một đầu như thông thường. Điều này cũng có nghĩa là nó có khả năng ăn gấp đôi so với những con rùa bằng tuổi khác. Các nhân viên của khu nuôi thuỷ sản Water World ở thị trấn Wuwei thuộc tỉnh An Huy, phía đông Trung Quốc đã phát hiện ra con rùa hai đầu đặc biệt khi một lứa rùa con được chuyển về từ một trang trại gần đó.Phát ngôn viên Water World Jimmy Hu nói: “Chúng tôi nhận được con rùa 2 tuần trước. Ban đầu, nó chỉ nặng 17g nhưng giờ thì đang lớn rất nhanh, có thể là bởi sinh vật kỳ lạ này ăn gấp 2 lần so với những con rùa khác”. “Rùa hai đầu rất hiếm. Chúng có kế hoạch giữ nó lại và nuôi nó cẩn thận để phục vụ nghiên cứu trong tương lai”, ông Hu nói thêm. Lưu Ly Theo Dailymail nguồn dantri.com
-
Bí ẩn Chiếc Bàn Xoay Dù để mặt bàn ở đâu thì bàn đều xoay như ý muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa. Trong chuyến vào TP Đà Lạt năm 2006, tình cờ tôi gặp ba chiếc bàn xoay và được biết chúng xuất xứ từ một gia đình người làng An Hòa, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Điều lạ lùng là khi một mình tôi đặt tay lên chiếc bàn xoay tại nhà số 30A đường Khe Sanh thì bàn không xoay dù tôi đã ra lệnh. Phải hai người đặt tay bàn mới xoay. Nhưng khi đến khu du lịch đồi Mộng Mơ, một mình tôi đặt hai tay lên mặt bàn ra lệnh thì bàn xoay. Bấy giờ có mươi khách tham quan đang đứng vây quanh bàn. Một du khách kêu lớn: "Ông này ghê quá!". Tôi nảy ra ý định thử tìm hiểu vấn đề này. Không chuyên về hiện tượng siêu nhiên mà có người gọi là "Ngoại cảm", "Đặc dị công năng", "Tâm linh"… tôi chỉ gặp gỡ trong một vài cuốn sách trên bước đường nghiên cứu các tín ngưỡng và tôn giáo. Tôi biết với sức lực và tri thức một mình tôi thì không thể nghiên cứu tương đối khoa học về vấn đề này. Tôi cũng không có mục đích nghiên cứu khoa học thật sự đề tài này, chẳng qua một chút hiếu kỳ lúc có cơ hội. Đầu năm 2007, trong một dịp trở lại Đà Lạt, nhân ngày chủ nhật rảnh rỗi, tôi dự định làm một cuộc trắc nghiệm bàn xoay, dùng 4 nam 2 nữ, có người đã kết hôn, người chưa kết hôn, người có trình độ sau đại học... Đáng tiếc đến chiều thì Đà Lạt đổ mưa chỉ còn tôi và một nam tài xế taxi tên là Nguyễn Anh Tuấn đi nghiên cứu. Nhờ một cán bộ khoa Đông Phương giúp đỡ, tôi được Tạ Hoàng Giang, Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ giúp đỡ tận tình. Nếu không có anh việc nghiên cứu khó lòng được như đã làm. Kế hoạch của tôi là trắc nghiệm từng cá nhân đặt một tay, hai tay, một ngón tay lên bàn xoay. Tay đặt sấp ngửa, nam nữ thay nhau để kiểm tra khả năng có tác dụng âm dương hay không. Đo đạc và cân mặt bàn để tìm hiểu lực cản. Đo tốc độ di chuyển của bàn nhanh chậm. Nhưng việc đo tốc độ không thực hiện được vì thiếu trợ lý. Những chiếc bàn xoay đều là đối tượng khai thác khách tham quan nên không thể tiếp tục nghiên cứu làm ảnh hưởng kinh doanh của chủ nhân chiếc bàn. Thời gian nghiên cứu dài nhất là chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ. Cả 3 chiếc bàn được tôi chọn trắc nghiệm đều cùng một mô thức: 3 chân nhỏ đỡ thân bàn là một trụ gỗ tròn mà đầu trụ đút vào một lỗ tròn dưới mặt bàn làm trục cho mặt bàn xoay. Cả 3 bàn đều như thế và mặt bàn đều là ván ghép chứ không phải một tấm gỗ tròn nguyên vẹn. Dưới mặt bàn đều có 2 thanh gỗ dài nhỏ ghép đỡ mặt bàn và cùng hai đoạn gỗ ngắn cấu tạo thành một ô tứ giác, trong đó có lỗ trục hình tròn. Độ tròn 3 mặt bàn đều không hoàn toàn chuẩn nhưng không sai số lớn nên nhìn mắt thường đều tròn. Theo nhìn nhận của tôi thì 3 chiếc bàn cùng một loại gỗ đen sẫm thớ rất mịn, không biết gỗ gì nhưng có lẽ không phải gỗ tạp mà cũng không phải tứ thiết. Khác biệt chăng là bàn cao thấp khác nhau, đường kính mặt bàn khác nhau, độ dày mặt bàn khác nhau. Kích thước cụ thể của chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ như sau: cao 87cm, đường kính mặt bàn 74cm, mặt bàn dày 1,7cm, mặt bàn cân nặng 8,5kg. Lần lượt trắc nghiệm 4 người: đặt 1 tay, 2 tay, úp bàn tay và ngửa bàn tay, dùng suy nghĩ khiến bàn xoay quay trái phải nhanh chậm dừng, không cần nói to thành lời. Hiệu quả là tất cả các trường hợp trắc nghiệm: mặt bàn đặt trên trục bàn, mặt bàn úp sấp trên ghế nhựa, mặt bàn để ngửa trực tiếp trên sàn gạch men, mặt bàn đặt nghiêng trên sàn gạch men thì bàn đều xoay như ý muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa. Về chiếc bàn xoay nhà bác Trần Mến, anh Tạ Hoàng Giang nói: Bàn xoay này do bác Trần Mến, 47 tuổi, cổ đông sáng lập Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ mang đến. Bác Trần Mến là người xã Hoài Phú, gần thị trấn Tam Quan, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định mua bàn xoay ở xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Bác Mến lập nghiệp bằng bàn xoay. Hiện tại, nhà bác còn một chiếc bàn xoay nhỏ hơn. Nguyễn Anh Tuấn và tôi tiến hành trắc nghiệm kết quả giống như chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ. Chúng tôi đến nhà bác Lưu Xuân Ưởng ở số 30A đường Khe Sanh. Bác 60 tuổi, người xã Trực Thành, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định thuê gian nhà này để kinh doanh bàn xoay. Bác cho biết, bác mua chiếc bàn xoay này của ông Nguyễn Tại thôn An Hòa, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Bác Ưởng biểu diễn để mặt bàn lên ghế nhựa cho xoay. Do khó khăn về thời gian và người giúp việc nên tôi chỉ trực tiếp trắc nghiệm nhiều lần chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ, trắc nghiệm một vài lần ở hai bàn xoay sau, còn lại là do chủ nhân các bàn xoay và Nguyễn Anh Tuấn tiến hành. Các cuộc trắc nghiệm còn ở dạng quá thô sơ và vì nhiều lý do nên chưa thực sự kỹ càng. Tôi thừa nhận trắc nghiệm chưa đủ giá trị khoa học. Nhưng dù vậy, tôi nhận thấy: Quả có một năng lượng từ trong thân thể tôi phát ra và tôi điều khiển được bàn xoay một mình theo ý muốn của tôi. Luồng năng lượng đó thắng được trọng trường 8,5kg (trọng lượng mặt bàn xoay) và hướng tác động vào bàn xoay tùy thuộc ý chí của tôi. Điều này giống như khi tôi điều khiển con lắc. Để con lắc cách bàn tay trái một người nam vài xăng-ti-mét thì nó quay vòng tròn khi úp sấp bàn tay, lắc dọc khi đặt ngửa bàn tay; với tay phải nam giới thì lắc dọc khi úp sấp, xoay tròn khi lật ngửa bàn tay; đối với nữ thì ngược lại… Điều này đã có tài liệu nói đến. Nghĩa là hướng con lắc di động tùy theo âm hay dương của bàn tay và nam hay nữ; tuy nhiên tôi cũng có thể khiến cho con lắc đứng yên theo ý chí của tôi. Nhưng trường hợp bàn xoay thì không phân biệt âm dương. Đáng tiếc, tôi đã không mang theo con lắc khi trắc nghiệm bàn xoay. Nhưng có lẽ con lắc và bàn xoay là hai hiện tượng khác nhau? Chúng chỉ giống nhau ở một điểm là ý chí con người có thể điều khiển được sự vận động của cả bàn xoay lẫn con lắc. Bàn xoay cũng có hiện tượng người trắc nghiệm vô tình đẩy khi bàn đã xoay đưa cánh tay chạy ra xa mà người trắc nghiệm chưa kịp bước theo; hoặc giả người trắc nghiệm cố ý đẩy bàn xoay. Không phải ai cũng một mình điều khiển được bàn xoay. Theo chủ nhân của 3 chiếc bàn xoay thì số người như thế không ít, nhưng đa số phải 2 người mới điều khiển được bàn xoay. Hơn 40 nam nữ sinh viên năm thứ nhất Khoa Hàn Quốc học thuộc Trường Đại học Đà Lạt không ai một mình điều khiển được bàn xoay. Năm 2006, tôi không điều khiển được bàn xoay nhà 30A Khe Sanh nhưng ngay sau đó đến đồi Mộng Mơ thì một mình tôi điều khiển được chiếc bàn xoay ở đây. Như vậy là có vấn đề sức khỏe của người trắc nghiệm. Lái xe Nguyễn Anh Tuấn là một thanh niên cường tráng đã tình cờ thành người trắc nghiệm chính của tôi. Anh cho biết thường xuyên đưa khách tham quan bàn xoay và lần nào một mình anh cũng điều khiển được bàn xoay. Đã có một số sách báo viết về loại năng lượng này. Nói chung, tôi đọc không nhiều và không chuyên. Các tác giả sách báo đó đề cập đến hào quang con người, nhân điện, trường sinh học, trường năng lượng con người, trường năng lượng vũ trụ (ESP), năng lượng sinh học, bioplasma… khá phức tạp và trắc nghiệm khoa học với máy móc tinh vi, đưa ra những trị số khác nhau của năng lượng đó. Nhưng không có điều gì giải thích hiện tượng bàn xoay và cũng chưa đề cập đến hiện tượng này dù có bàn về Psychokinesis (PK tức Viễn di sinh học).Tôi đề nghị các nhà nghiên cứu chuyên về lĩnh vực tiềm năng con người tổ chức một dự án nghiên cứu kỹ càng hiện tượng bàn xoay một cách tỉ mỉ, khoa học, phối hợp nhiều nhà chuyên môn nhiều lĩnh vực hữu quan. Các hiện tượng cận tâm lý (Parapsychology) đều cận khoa học đều là hiện tượng siêu việt (Paranormal) đã được tiền nhân cảm nhận như trong Yoga, Khí công, Thiền định, Cầu cơ… nay cần trắc nghiệm khoa học. Vì là hiện tượng siêu việt nên dễ bị người ta lừa gạt kẻ cả tin. Những trắc nghiệm ở Trung Quốc tiến hành mươi năm gần đây đã chứng minh điều đó. Nghiên cứu nghiêm túc, khoa học, hợp tác chân thành thì hiện tượng bàn xoay sẽ có đóng góp cho việc nghiên cứu cái mà nay gọi hỗn tạp là Ngoại cảm (ESP). Theo PGS Nguyễn Duy Hinh Nguồn Tintuconline.vietnamnet.vn. Wildlavender sưu tầm. Bài viết của THIÊN SỨ Nhân dịp chị Wildlavender đưa lên đây hiện tượng chiếc bàn xoay, làm tôi nhớ lại ngày tôi còn nhỏ, được tiếp xúc với một cái bàn rất kỳ lạ. Ngày ấy tôi đặt cho nó một cái tên là "cái bàn lộc cộc".Cái bàn này rất lạ, mặt bàn hình tam giác đều và có ba chân. Toàn bộ sơn màu đen sì. Chiếc bàn này của ông ngoại tôi để trước ban thờ. Trên mặt bàn thường phủ vuông vải đỏ. Khi cần biết điều gì, người ta gỡ vuông vải đó và cần có ba người, mỗi người đặt một bàn tay lên góc bản. Một người muốn hỏi khấn một câu gì đó và giao ước với cái bàn: Nếu việc này được thì bàn kênh tay tôi, không được thì bàn kênh tay anh, chị A....Khấn xong chiếc bàn rung lên, chân bàn gõ xuống đất lộc cộc. Bởi vậy tôi gọi là "cái bàn lộc cộc". Một lúc sau, chiếc bàn nghiêng một chân báo hiệu trả lời. Sự trả lời rất linh nghiệm. Ấy là nghe người lớn nói vậy. Ngày ấy, nghe mẹ tôi nói: "Loại bàn này chỉ có ông phó Lựu (*) phố Hàng Quạt đóng được thôi. Nhưng rất đắt tiền và không phải ai ông cũng đóng cho". Sau này ông Phó Lựu chết thì không còn ai biết đóng loại bàn này nữa. Từ đó đến nay đã hơn 50 năm trôi qua, "chiếc bàn lộc cộc" chỉ còn trong ký ức của tôi. Hy vọng rằng, quí vị nào có tin tức gì về chiếc bàn lộc cộc này sẽ giới thiệu về nó. Tôi nghĩ đây cũng là một hiện tượng bí ẩn rất đáng quan tâm. Thiên Sứ ------------- * Chú thích: Tên ông thợ mộc này tôi nhớ không chính xác.__________________ Chiếc bàn xoay bí ẩn Wildlavender quan tâm vấn đề này đã lâu , bởi vì Chính Lavender là người được tham dự đặt đôi bàn tay cùng 1 số anh em trong gia đình trong dịp đi du ngoạn Dalat , ko biết chiếc bàn này là chiếc nào nhưng nhớ rõ là cạnh đó có 1 ngôi chùa , sau khi tham quan ngoi chùa xong được hướng dẫn xem chiếc bàn xoay của nhà dân đối diện . Điều đặc biệt quan tâm là ,: Có nhiều khách nước ngoài họ cũng thích thú thử nghiệm và họ điều khiển bằng ngôn ngữ của chính họ , nó vẫn xoay theo hiệu lịnh : Ví dụ người Pháp bạn đi cùng lavender họ gọi to < À Droite bàn sẽ xoay về phía bên phải và À Gauche xoay về phía trái > và còn nhiều du khách của nhiều nước khác nhau . Thế thì ngoài sự bí ẩn ra , chiếc bàn còn nhận biết được nhiều ngôn ngữ khác ngoài tiếng Việt ? Rất mong được nghe bình luận của các cao thủ .__________________ Trên trang giấy trắng , như sa mạc trắng , Chữ làm xe tải đạo tới muôn phương . http://www.vietlyso.com/forums/newreply.ph...ply&p=88699 http://www.vietlyso.com/forums/newreply.ph...ply&p=88699 http://www.vietlyso.com/forums/post_thanks...add&p=88699 #4 Wildlavender thân mến . Tuy cách phát âm bởi ngôn ngữ khác nhau, nhưng ý niệm giống nhau: sang phải , hoặc sang trái. Nhưng cái bàn thì quay theo ý niệm của người đặt tay lên nó. Nên dù là tiếng nước nào, thì cái bàn vẫn xoáy. Thiên Sứ
-
Mỗi mùa xuân sang Sói con già thêm một tuổi ! Mùa xuân này Sói con Vương Trưởng và thành đạt ! TO U : Happy and lucky always !
-
Vĩnh biệt một “bác học tướng” Thứ tư, 10/9/2008, 11:41 GMT+7 8h sáng 8/9/2008, vị tướng tài năng, đức độ và liêm khiết, giáo sư, nhà giáo nhân dân Hoàng Minh Thảo đã từ trần tại Bệnh viện Quân y 108 (Hà Nội). Sự ra đi đột ngột của ông đã để lại rất nhiều sự tiếc thương trong lòng gia đình và bạn bè. Nhà thơ, chiến sĩ Trương Vĩnh Tuấn, Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ – người con nuôi có nhiều năm gắn bó với Thượng tướng ở chiến trường Tây Nguyên vẫn lưu giữ rất nhiều kí ức đẹp đẽ về người cha nuôi của mình. Đến tận giờ phút này, ông vẫn không tin sự ra đi của ba nuôi là sự thật. “Một nhà binh thư lỗi lạc” Thượng tướng Hoàng Minh Thảo và cha tôi là bạn chiến đấu với nhau từ kháng chiến chống Pháp. Cha tôi mất sớm nên Thượng tướng coi tôi như con, tôi gọi ông là Ba. Tôi vào chiến trường từ năm 1965 và rất may mắn sau này, được hoạt động trong đơn vị của ông, và trực tiếp phục vụ ông. Trong những lúc làm việc, ông coi tôi như một sĩ quan giúp việc và đối xử như những người lính khác.Trong công việc, ông hết sức nghiêm khắc. Đó là tinh thần hết mình cho công việc của một vị tướng. Khi đang làm việc, tất cả mọi chuyện khác ngoài công việc đều phải gác sang một bên. Nhưng ông cũng là người hết sức biết lắng nghe. Những công việc khi đem ra cho anh em bàn bạc thì có thể bàn “tới số”, thậm chí có thể phản biện lại ý kiến của ông, miễn sao để đạt được hiệu quả cuối cùng. Ngay trong chiến dịch Đăk Tô, trước giờ diễn ra chiến dịch, địch có bắt được của ta một đồng chí trinh sát. Tôi hỏi ông nên làm thế nào bởi không thể để cả một đội quân phải lo lắng, chờ đợi vào một đồng chí đang ở trong tay địch. Nếu không may, bị đánh đau quá có thể khai ra và làm hỏng cả chiến dịch lớn. Lúc đó ông đã quyết định phải nổ súng trước 2 ngày để đảm bảo toàn thắng. Và quả thực, chiến dịch Đăk Tô 1967 là một chiến dịch cực kì thành công và chiến thắng này rất quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nó mở ra một bước ngoặt, chúng ta đã chủ động tấn công giặc Mỹ, gọi Mỹ đến nơi cửa ngõ của ta để đánh và giành thế chủ động. Chiến dịch Đăk Tô là chiến dịch lần đầu tiên có chuyện đó. Nó đã mở ra nhiều thắng lợi sau này và mở đường cho thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên. Chiến dịch năm 1967, lần đầu tiên chúng ta đem DKB vào chiến trường. Ông đã quyết định đặt DKB ngay trên nóc của Bộ Tư lệnh. Nhiều người nói rằng làm như thế không khác nào gọi máy bay địch đến ném bom, không khác nào tự sát. Ông nói rằng ở mặt trận, chỗ nào yên tĩnh nhất là chỗ nguy hiểm nhất. Và trận đánh đó chúng ta đã thawsng giòn giã. Tôi có thể nói rằng, ông là một nhà binh thư lỗi lạc. Ông là người làm việc rất quyết đoán nhưng hết sức dân chủ. Đó là một người có tài thao lược nhưng cũng thương yêu lính của mình hết lòng. Khi ông vào chiến trường Tây Nguyên, việc đầu tiên ông làm là cho bộ đội trồng sắn. Tất cả bộ đội khi đi qua các vùng đều phải trồng 5 gốc sắn. Bộ đội đi đến đâu cứ lấy sắn mà ăn. Trong những năm 1969 – 1970 cực kì khó khăn nhưng bộ đội vẫn có đủ lương thực để ăn. Bao dung và nhân từ Tựa cuốn sách Thơ - Tác phẩm và dư luận của Trương Vĩnh Tuấn do Thượng tướng - GS Hoàng Minh Thảo viết. - Ảnh: Tuấn Hải Trong thời chiến, ông đau nỗi đau của một người cha khi những người lính của mình phải ngã xuống. Đến thời bình, ông lại đau đáu việc tìm lại hài cốt của chiến sĩ. Tôi nhớ năm 2000, khi biết tôi đi tìm mộ đồng đội, ông gọi tôi đến và dúi cho tôi tiền đi đường, ông dặn tôi khi nào đưa hài cốt đồng đội ra Hà Nội thì báo cho ông để ông đến thắp cho chiến sĩ của mình một nén nhang. Khi hoàn thành công việc, tôi về Hà Nội lúc 4h sáng, không muốn đánh thức ông nên tôi đã đưa thẳng cậu ấy về quê, ông đã giận tôi rất lâu sau đó ông nói rằng: “Tôi có một nguyện vọng nhỏ thế thôi mà anh cũng không cho tôi thực hiện”. Ở ông còn là một tấm lòng bao dung và rất đỗi nhân từ. Tôi làm trợ lý cho ông nên tất cả mọi việc trước khi chuyển tới ông đều phải qua tôi. Lúc bấy giờ lính biếu ông hai con ngỗng. Tôi đã cầm đầu đám lính bày trò để được ăn thịt ngỗng vì rất thèm. Tôi tắt hết máy móc liên lạc không làm nữa. Trong chiến trường mà không có thông tin liên lạc chỉ hai mươi phút thôi thì thật kinh hoàng. Lúc đó, ông gọi điện ngay cho tôi và hỏi về tình hình máy móc. Tôi nói với ông rằng do hôm trước dính nước mưa nên máy bị hỏng không hoạt động được, bây giờ cần dầu để lau nhưng không có dầu máy khâu chuyên dụng. Lúc đó ở chiến trường thì lấy đâu ra dầu máy khâu. Tôi liền gợi ý, có thể dùng mỡ gà thay thế. Không chần chừ ông hỏi luôn có thể dùng mỡ ngỗng thay đế được không, tôi nói được và ngay lập tức ông cho mang hai con ngỗng đem thịt để lấy mỡ. Khi biết chân tướng ông mắng tôi: “Mày là thằng láu cá, muốn ăn thì bảo tao cho chứ việc gì mà phải làm thế. Lần sau đừng bao giờ làm thế”. Đang ở giữa mặt trận ông gọi tôi lên và hỏi: “Đồng chí Tuấn, đồng chí có dám hy sinh cho cách mạng không ?”. Tôi đứng bật dậy và nói “Con sẵn sàng”. Ông giao cho tôi nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm: Tìm cách luồn lại phía sau lưng của địch để nổ súng nghi binh, đánh lạc hướng của địch để cho ông có thể thực hiện chiến thuật của mình trong chiến dịch Đăk Tô. Và tôi đã hoàn thành được nhiệm vụ. Khi trở về, ông nói với tôi: “Con về đến đây ba mừng quá”. Tôi còn nhớ mãi, có một lần ông nói với tôi: “Tôi nói cho anh biết, tôi có thể chết ở chiến trường nhưng anh nhất định phải sống để ra ngoài bắc với mẹ anh”. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ như in khoảnh khắc ấy. Sau này, tháng nào ông cũng yêu cầu tôi đến ăn cơm với ông ít nhất một lần. Ông là người ảnh hưởng đến tôi rất nhiều nhất là cách cư xử khi mình ở cương vị cầm quân. Ông dạy tôi rằng: Lúc nào nóng nhất lấy răng cắn lưỡi lại. Lúc nào vui nhất lấy tay bịt miệng lại. Lúc nào buồn nhất thì nằm sấp xuống. Với cấp dưới phải biết lắng nghe để có thể thấu hiểu hết tâm tư, tình cảm của họ. Có như thế mới có thể làm tốt cương vị lãnh đạo của mình. Khiêm nhường và giản dị Thượng tướng Hoàng Minh Thảo là một con người vô cùng uyên bác nhưng lại rất khiêm nhường và giản dị. Đã có 4 người viết hồi kí về ông. Đó là nhà văn Vũ Ngọc Phan, nhà văn Khuất Quang Thụy, chú Hùng và Phạm Vũ Quỳnh nhưng chỉ có cuốn hồi ký của Phạm Vũ Quỳnh là thành công bởi ông không bao giờ nói về bản thân mình. Bao giờ cũng phải là cái chung, cái tập thể phải được đặt lên trên hết. Ông luôn nói rằng, ông có được ngày hôm nay là do nhân dân, nhờ nhân dân cưu mang. Tôi đã từng hỏi ông: Điều gì ảnh hưởng lớn nhất nhất tới binh nghiệp của ba? Ông nói với tôi rằng đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh và cách đánh giặc của tổ tiên, của nhân dân. Ông rất sùng bái nghệ thuật quân sự của Trần Hưng Đạo, với ông Trần Hưng Đạo là một tài năng quân sự của Việt Nam mà lúc nào ông cũng học tập nghệ thuật quân sự của Trần Hưng Đạo. Bên cạnh sự mạnh mẽ của một người lính, ông còn là người rất tình cảm. Tôi còn nhớ năm 1969, ngày nào ông cũng yêu cầu mọi người thông tin đầy đủ về tình hình sức khỏe của Bác do Trung ương điện vào. Khi bác mất, ông ngồi lặng lẽ một mình trong phòng và không cho ai vào. Sau này, dù hành quân đi bất cứ nơi đâu, ông cũng mắc võng và nằm hướng đầu về phía thủ đô Hà Nội, nơi có bóng hình bác. Những tác phẩm của ông để lại là một kho tàng vô giá. Ông đã để lại một binh thư trong cuộc chiến tranh hiện đại. Ông đã nâng tầm những chiến thuật quân sự lỗi lạc của cha ông. Ông tổng hợp cách đánh du kích và cách đánh hiện đại, giữa chiến tranh nhân dân và chiến tranh hiện đại. Đó là một danh tướng, một bác học tướng. Tất cả những gì ông để lại cho đời ông đã viết ra thành những tác phẩm lý luận quân sự. Tài năng của ông mọi người đã biết rồi. Nhân cách của ông mọi người cũng biết rồi. Ông là một vị tướng mà không một người lính nào có thể chê trách. Tôi có nhiều kỉ niệm vô giá đối với ông. Tôi viết rất nhiều thơ về ông bằng tất cả tình cảm của tôi. Tới đây, tôi sẽ viết về Những ngày bình thường của Tướng Hoàng Minh Thảo. Từ khi cha tôi mất, tôi coi ông là cha và ông cũng coi tôi như con. Sự ra đi của ông khiến cho tôi vô cùng hụt hẫng. Đó mà một sự mất mát không thể nào bù đắp được. Tôi xin dành những vẫn thơ đẹp nhất để nói về ông – Thượng tướng Hoàng Minh Thảo: Dấy quân vùng Đông Bắc Trấn thủ ải Tây Nguyên Học cách tổ tiên ta đánh giặc Ông huyền thoại của cháu con Nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn (Tuấn Hải ghi) nguồn vietimes
-
Duyên tình một chữ đâu phải dễ ! Chín kiếp tu hành mới gặp nhau !
-
Qua bài này tôi xin kể 1 câu chuyện có thật mà tôi từng là quen biết : Cô này vốn là một ME Đài , Bố mất trong chiến tranh , cũng vừa lúc tốt nghiệp tiểu học , lưu lạc ly quê gia đình khăn gói vào Đồng Nai xin đất của Nhà Thờ cất nhà và cả nhà xin tự nguyện trở thành Chiên của Chúa .Cô vừa 18t ngụ gần khu công nghiệp Đồng Nai , được người hàng xóm mãnh tầm phò lanh chanh giới thiệu cho một doanh nhân Đài Loan lớn hơn cô giáp rưỡi . Gia đình cô gật đầu vì ông ta có trong tay 1 xưởng inox và một mãnh đất 10 ngàn m2 ở khu công nghiệp Long Thành . Cuộc đổi đời chợt mở Cô cũng sớm thích nghi , cô trở thành doanh nhân trẻ với mức tiêu xài đẳng cấp, tiền hàng của cô mỗi ngày phải tập hợp anh chị em trong gia đình về đếm ( vì ngày xưa chưa có tiền mệnh giá lớn và ít giao dịch qua ngân hàng ) ngày ngày phải vận chuyển tiền bằng xe tải nhỏ . tất cả đều được thuê người , từ tài xế đến văn thư rất hệ thống , chẳng phải cô cao kỳ gì lắm mà chỉ vì cô chỉ đọc được mà không viết được nên lúc nào cô cũng có văn thư đi theo kể cả chốn ăn chơi . Đường giao tiếp cũng rộng mở , Cô có nhiều mối quan hệ mà tưởng chừng như mơ không có được , Tiền bạc thường rút ngắn mối liên minh ma quỷ đến gần nhau , Cô thường tiệc tùng qua lại với những Đại gia mà tên tuổi có một thời sốt lên vì nổi tiếng và thời sau đó cũng sốt lên vì án tử . Từ chốn này Cô chớp luôn mối quan hệ Chú ....này, Anh .... kia Ôi không tả được danh bạ điện thoại của Cô ấy toàn là ấn chỉ . Chằng chịt mãi , Cơ hội cũng đến , Cô đặt chân đến dinh cơ cao nhất nước , lãnh đạo cao nhất nước với danh nghĩa cháu ngoại Cụ .....đến lúc này cô mới quay ngươc lại các mối quan hệ với sự rỉ tai khiêm tốn , từ lâu nay cô là con gái của X cháu của Cụ Y mà chúng ta không biết ...... Khi vững chắc với danh nghĩa ấy ! Cô phát huy Oai Hùm , Cô can thiệp chuyện trong nhà lan ra chuyện ngoài phố , xin xỏ được việc này , tác động được việc kia , cũng có việc đươc , việc không , nhưng mấy ai đong đếm được hiệu quả việc cô làm . Nhưng có một điều chắc chắn mà Cô đạt được là dễ vay mượn , vay mà không than khó ! vay như người nhỡ nhàng vay ngắn hạn ! cô dùng tiền đó để mua tiếp những mối quan hệ mới phù hợp với sự cải cách ! quan hệ của cô với các quan chức phát triển nhanh đến độ đẩy kho hàng của cô vào cảnh trống vắng hoang tàn . Để hợp thức hóa , cô bây giờ không sản xuất mặt hàng trong xây dựng nữa mà đường hoàng là đại gia bất động sản tên tuổi ở Đồng nai , thi thoảng cô mời một vài nhà giàu mới một vài cán bộ hưu trí có tí tiền nhàn rỗi ngủ yên ở ngân hàng đi xem đất , sẵn trên xe có một thầy Phong thủy tài danh để đứng trước một miếng đất đẹp chỉ trỏ ! Thầy cho biết đất này xây bệnh viện có hợp hướng ? Đất kia xây trạm xăng có chỗ dừng chân với nhà hàng hoành tráng có phát không ạ ? Thầy thì ....thấy đất mênh mông quá , dự án cũng tầm cỡ quá ! Thầy cũng choáng .... gật gù bảo : đưa Thầy bản vẽ . Dù lúc đó Thầy ra quẻ " Cảnh xích khẩu " là cuộc đi chơi có ăn uống có chuyện trò trao đổi - nhưng thầy chờ mãi mà chẳng có bản vẽ nào và hôm nay nghiệm ra quẻ Thầy đúng ơi là đúng! Chả có miếng đất nào của cô cả ! Chỉ là cuộc đi chơi nói chuyện cho vui. Nhưng động tác đó của cô lại tác động đến số vốn của các vị trên xe di chuyển vào túi cô một cách tự nguyện , không hẹn ước , không hợp đồng cam kết gì cả ! Con bà X cháu ông Y mà LO GÌ ! Tầm cỡ đó đi đâu mà mất ! Là thế thật ! tiền thì không mất ! còn lưu thông đâu đó trong xã hội ! Chỉ có cô ấy là biến mất khỏi sự tìm kiếm của các nạn nhân . Từ sự ngưỡng mộ ban đầu dành cho cô ấy , tôi rút ra được bài học về lòng tin, về sự hào nhoáng, như một đỉnh cao của tác phẩm SIÊU LỪA ! Và đây là một trong những con Cáo mượn Oai hùm thời hiện đại !
-
Bạn cảm nhận gì về cuộc đời Với bài trắc nghiệm này, bạn sẽ có cơ hội được khám phá chính mình và tìm hiểu phần nào tương lai của chính bản thân. Hãy tưởng tượng, bạn bỗng đi lạc vào một cánh rừng rậm rạp. Và: 1. Khung cảnh hiện ra trước mắt bạn như thế nào? a. Cánh rừng đầy ánh nắng ban mai, cảnh vật thật tươi sáng và rực rỡ. b. Cảnh tượng thật u ám, đáng sợ và tăm tối. Mọi vật như bao phủ trong màn đêm tĩnh lặng. c. Đó là một buổi chiều muộn, mặt trời sắp lặn mất rồi. 2. Phía trước mặt, bạn nhìn thấy một con đường dài? a. Đúng, phía trước có một con đường. b. Chẳng có con đường nào cả. 3. Bạn lặng lẽ đi xuyên qua cánh rừng. Bất ngờ, bạn nhin thấy một chiếc cốc nằm trên vệ đường. Hình thù nó ra sao? a. Chà, chiếc cốc trông sáng loáng, rất có giá trị đây. b. Uhm, chiếc cốc cũ mèm và chả có chút giá trị nào. 4. Bạn lại gần chiếc cốc, và: a. Một vật vô giá trị, chả đáng quan tâm. Bạn bỏ qua và tiếp tục đi. b. Bạn nhặt nó lên, xem xét, và sau đó vất nó xuống đất. c. Bạn dùng nó một lần, sau đó ném đi. d. Chà, chiếc cốc ắt sẽ có giá trị và bạn sẽ phải cần đến nó. Bạn nghĩ như vậy và bỏ nó vào túi. 4. Bạn tiếp tục hành trình của mình. Bỗng dưng, bạn lắng tai nghe thấy tiếng nước chảy. Ngay sau đó, bạn phát hiện ra, đó là một: a. Chỉ là một vũng nước mưa nhỏ thôi. b. Đó là một cái ao nhỏ. c. Một dòng suối trong lành. d. Ôi, đó là một con sông. e. Một cái hồ phẳng lặng, yên tĩnh. f. Biển, ta đã tới biển rồi. 5. Và, thử quan sát xem điều gì đang diễn ra? a. Dòng nước chảy xối xả, ầm ào. b. Mặt nước lăn tăn gợn sóng. c. Mặt nước yên ả, không hề gợn sóng. 6. Độ sâu của cái ao(hồ, sông… ) ấy thế nào? a. Rất nông, có thể nhảy qua được mà. b. Có thể lội được. c. Không thể lội qua được. d. Sâu quá, phải tìm một cách nào đó để băng qua. 7. Bạn phải vượt qua dòng nước ấy để đi tiếp, vậy thì bạn: a. Nhảy qua, hoặc là bơi sang bờ bên kia. b. Thật đáng sợ, phải đi vòng thôi để tìm đường bộ. c. Chắc chắn quanh đây phải có cái cầu chứ nhỉ? d. Phải tìm thuyền để đi qua thôi. 8. Cuối cùng, trở ngại đầu tiên đã lùi ra phía sau. Bạn tiếp tục hành trình. Bất ngờ, một con gấu xồ ra trước mặt bạn. Trông nó: a. Nó chỉ là một con gấu nhỏ đáng yêu thôi. b. Ôi, một con gấu to lớn thật sự đang tiến về phía bạn. 9. Con gấu làm gì? a. Con gấu không hề thấy bạn. b. Con gấu đáng yêu có những cử chỉ thật ngộ nghĩnh. c. Con gấu nhìn thấy bạn, nhưng chẳng thèm để ý. d. Con gấu nhìn bạn bằng cái nhìn đe dọa. e. Con gấu tiến về phía bạn đầy thân thiện. 10. Bạn phải phản ứng chứ, và đó sẽ là? a. Không, con gấu đáng yêu quá đi mất. b. Bạn bỏ qua nó và đi tiếp. c. Bạn chạy khỏi đó trước khi chú gấu thấy mình. d. Bạn chạy tới một cái cây, trèo lên để ẩn nấp. e. Bạn đứng lại, bình tĩnh và chờ đợi. Bạn tin mình sẽ chiến thắng. f. Bạn chiến đấu lại con gấu và lãnh vài vết thương. g. Không có phương án giải quyết nào như trên. 11. Sau đó, bạn tiếp tục đi và tới một bãi tắm đẹp. Có bao nhiêu người ở đó? a. Rất đông, hàng trăm người ấy chứ. b. Gần 100 người. c. Chỉ có một hai người d. Bãi tắm chẳng có ai cả. 12. Những người mà bạn trông thấy ở xa hay gần? a. Họ ở ngay gần, có thể chạy tới và trò chuyện. b. Họ ở khá xa. c. Họ ở rất xa, không thể trò chuyện, hoặc chẳng có ai để trò chuyện cả. Giải đáp cho hành trình của bạn: a. Không, con gấu đáng yêu quá đi mất. b. Bạn bỏ qua nó và đi tiếp. c. Bạn chạy khỏi đó trước khi chú gấu thấy mình. d. Bạn chạy tới một cái cây, trèo lên để ẩn nấp. e. Bạn đứng lại, bình tĩnh và chờ đợi. Bạn tin mình sẽ chiến thắng. f. Bạn chiến đấu lại con gấu và lãnh vài vết thương. g. Không có phương án giải quyết nào như trên. 11. Sau đó, bạn tiếp tục đi và tới một bãi tắm đẹp. Có bao nhiêu người ở đó? a. Rất đông, hàng trăm người ấy chứ. b. Gần 100 người. c. Chỉ có một hai người d. Bãi tắm chẳng có ai cả. 12. Những người mà bạn trông thấy ở xa hay gần? a. Họ ở ngay gần, có thể chạy tới và trò chuyện. b. Họ ở khá xa. c. Họ ở rất xa, không thể trò chuyện, hoặc chẳng có ai để trò chuyện cả. Giải đáp cho hành trình của bạn: a. Không, con gấu đáng yêu quá đi mất. b. Bạn bỏ qua nó và đi tiếp. c. Bạn chạy khỏi đó trước khi chú gấu thấy mình. d. Bạn chạy tới một cái cây, trèo lên để ẩn nấp. e. Bạn đứng lại, bình tĩnh và chờ đợi. Bạn tin mình sẽ chiến thắng. f. Bạn chiến đấu lại con gấu và lãnh vài vết thương. g. Không có phương án giải quyết nào như trên. 11. Sau đó, bạn tiếp tục đi và tới một bãi tắm đẹp. Có bao nhiêu người ở đó? a. Rất đông, hàng trăm người ấy chứ. b. Gần 100 người. c. Chỉ có một hai người d. Bãi tắm chẳng có ai cả. 12. Những người mà bạn trông thấy ở xa hay gần? a. Họ ở ngay gần, có thể chạy tới và trò chuyện. b. Họ ở khá xa. c. Họ ở rất xa, không thể trò chuyện, hoặc chẳng có ai để trò chuyện cả. Giải đáp cho hành trình của bạn: 1. Khung cảnh cánh rừng mà bạn lạc vào, chính là cảm nhận của bạn về cuộc đời. Nếu đó là một cánh rừng đầy nắng ban mai, bạn hoàn toàn là con người lạc quan, yêu đời với tinh thần tràn đầy hạnh phúc. Nếu cánh rừng càng nhiều ánh nắng, chứng tỏ bạn càng hài lòng với chính mình. Ngược lại, nếu bạn chọn khung cảnh vào đêm, điều này cho thấy bạn mong muốn được thay đổi một vài điều trọng đại trong cuộc sống của mình, hoặc bạn đang không hài lòng, thậm chí mệt mỏi với những gì đang diễn ra. Nếu bạn chọn lựa khung cảnh chiều tà, rõ ràng bạn muốn được thay đổi một vài điều trong cuộc sống, hoặc đang chờ mong một điều gì đó. 2. Con đường mà bạn nhìn thấy trước mắt chính là cách tìm đến cách giải quyết vấn đề bạn gặp phải và những định hướng cho tương lai. Thông thường, ai cũng luôn thấy con đường của riêng mình. Nhưng nếu bạn không thấy cho mình lối đi, rõ ràng bạn đang thực sự bế tắc. 3. Chiếc cốc mà bạn phát hiện ra trên đường chính là biểu tượng của sự giàu sang và cách để bạn lại gần nó. Vậy thì, câu hỏi đề ra cho phép bạn tiếp cận vấn đề một cách đơn giản nhất và nhìn nhận sự giàu có giống như chiếc cốc. Chiếc cốc hình dạng thế nào? Chỉ là một chiếc tách uống trà nhỏ hay một cái cốc lớn? Ngoài ra, việc bạn đối xử với chiếc cốc cũng chỉ ra cho bạn thấy cách bạn cư xử với chính mình. Nếu bạn thấy chiếc cốc giá trị, điều đó cho thấy bạn biết cách chăm chút cho mình bằng những phần thưởng giá trị, và ngược lại. Cũng như thế, nếu bạn để chiếc cốc lại và đi tiếp, điều này cho thấy bạn không biết nắm giữ những cơ hội mang lại hạnh phúc cho mình và dễ bỏ qua nó. Để có được thành công cùng với sự giàu sang, chắc chắn bạn nghĩ mình phải làm việc, phấn đấu cật lực, chứ không dựa vào những may mắn bất ngờ. Ngược lại, nếu bạn nhặt chiếc cốc lên và mang nó đi, tức là bạn luôn biết tận dụng mọi cơ hội được mang đến để tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình. Bạn biết tận dụng những gì đang có một cách hữu dụng nhất. Nếu bạn dùng chiếc cốc để uống trà, sau đó bỏ đi, tức là bạn hơi thực tế, muốn tìm cách nhanh nhất để đến với thành công và có được phần thưởng của mình. Tính hiếu kỳ thúc giục bạn nhặt chiếc cốc lên, nhưng sau đó bạn lại bỏ đi, điều đó cho thấy bạn không hoàn toàn chỉ tin vào may mắn. Cuối cùng, nếu bạn mang chiếc cốc đi cùng mình, chắc chắn, bạn đánh giá cao giá trị chiếc cốc ấy. Tức là, bạn nhạy bén nắm bắt được các cơ hội của mình và đặt niềm tin, hy vọng vào nó. 4. Dòng nước chảy trước mặt bạn biểu trưng cho cảm nghĩ của bạn về chuyện ấy, lòng ham muốn và cả cách tiếp cận nó. Tốc độ dòng nước chảy mà bạn thấy, chính là lòng ham muốn của bạn trong chuyện ấy. Bạn thấy dòng nước chảy ào ạt, hay chậm rãi, êm đềm? Độ sâu của con suối (sông, ao…) chính là cách mà bạn nhìn nhận, cũng như mong muốn trong chuyện ấy. Ngoài ra, cách mà bạn vượt qua con suối cũng cho thấy cách để bạn đón nhận chuyện ấy. Nếu bạn bước qua dòng nước dễ dàng, bạn hoàn toàn cởi mở, thoải mái với những vấn đề xung quanh chuyện tình ái. Ngược lại, bạn là người kín đáo, dè dặt và thậm chí có phần hơi “cổ” trong suy nghĩ. 5. Chú gấu mà bạn gặp trên đường, chính là biểu tượng của những rắc rối bạn gặp trong cuộc đời, và cách bạn ứng phó với nó. Nếu đó chỉ là một chú gấu sinh động, đáng yêu, bạn không bị áp lực với cuộc sống và luôn tìm kiếm được sự cân bằng, dễ chịu cần thiết. Ngược lại, khi bạn thấy một con gấu lớn, tức là bạn đang chịu nhiều mệt mỏi. Việc bạn tìm cách giải quyết việc đối mặt chú gấu cho thấy cách bạn đối mặt với vấn đề. Vậy thì, bạn đối diện, trốn tránh, hay sẵn sàng lãnh nhận những tổn thương để giải quyết triệt để tất cả? 6. Bờ biển hiện ra trước mắt bạn và khoảng cách giữa bạn và những người ở bờ biển chỉ ra cách bạn quan hệ giao tiếp để gần gũi với mọi người. Số người mà bạn nhìn thấy, cũng chính là số người bạn quen biết và cảm nhận của bạn với tình bạn. Có thể, bạn là người thích đám đông, thích giao lưu, hoặc cũng có thể sống khép kín, không thích la cà bạn bè. Nếu bạn không thấy bất cứ ai, bạn thích một mình dù bản chất không phải là người ưa lặng lẽ. Nguyễn Hương nguồn ngoisao.net
-
Giữa sống và chết Amanda Ripley Tác giả cuốn 'Những Điều không tưởng: Ai Sống sót khi có Thảm họa - và Tại sao' Những người kiên quyết và quyết liệt có nhiều cơ hội thoát chết Nếu quý vị có cảm giác rằng thảm họa xảy ra ngày càng nhiều thì qúy vị đã đúng. Trong hơn 50 năm qua, con người đã tới nhiều nơi mà đáng ra không phải là chỗ phù hợp cho loài người sinh sống và vì thế bị ảnh hưởng nhiều bởi thảm họa. Chúng ta đã xây những thành phố lớn gần sông, biển, làm mất đi lớp bảo vệ tự nhiên của trái đất và làm chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi đủ loại khó khăn. Cùng lúc đó chúng ta cũng đã học được cách dự báo bão nhiều ngày trước khi chúng đến, xây dựng được những hệ thống cảnh báo sóng thần. Nhưng trong khi chúng ta tiến xa về mặt công nghệ, những gì mà chúng ta làm để giúp con người trở nên linh hoạt và dẻo dai hơn trong những tình huống khó khăn đang ngày càng ít đi. Không chỉ may mắn Đó là một sai lầm. Thảm họa sóng thần ở Châu Á là một trong những thảm họa gây chết chóc nhiều nhất Với tư cách nhà báo, tôi đã đưa tin về các cuộc tấn công khủng bố hôm 11 tháng Chín năm 2001 từ New York, Bão Katrina từ New Orleans và nhiều thảm họa khác và điều tôi có thể nói là những người bình thường đóng vai trò quan trọng hơn cả tại nơi xảy ra thảm họa. Hành vi của họ có thể làm thay đổi tình hình. May mắn không quan trọng tới mức như chúng ta nghĩ. Và như thảm họa sóng thần ở Đông Nam Á hồi năm 2004, những con người bình thường đã cứu phần lớn mạng sống . Sau đợt đánh bom khủng bố 7/7/2008 nhắm vào tàu điện ngầm và xe buýt ở London, ''bài học căn bản và bao trùm'' mà người ta rút ra được là các kế hoạch khẩn cấp được thiết kế theo nhu cầu của các quan chức cứu trợ chứ không phải cho dân thường. Vào ngày đó, người đi tàu không có cách nào báo cho lái tàu biết là có vụ nổ. Họ cũng gặp khó khăn khi thoát ra ngoài vì cửa tàu không được thiết kế để hành khách có thể mở được. Và cuối cùng các hành khách cũng không tìm được hộp cứu thương để chữa trị cho những người bị thương. Hóa ra là các đồ cứu thương được giữ trong văn phòng của những người quản lý tàu điện ngầm chứ không phải ở trên tàu. Vụ tấn công tàu điện ngầm và xe buýt ở London làm 52 người thiệt mạng và 770 người bị thương Các kế hoạch khẩn cấp cần đặt người dân làm trung tâm và khi các đợt diễn tập diễn ra, người dân cũng phải đóng vai trò trung tâm. Và quan trọng hơn hết là chúng ta cần hiểu xem điều gì thực sự xảy đến với chúng ta trong những tình huống tồi tệ nhất. Não của chúng ta phản ứng ra sao khi chúng ta hoảng sợ tột độ? Tại sao chúng ta mất một số khả năng và lại có thêm các khả năng khác? Và làm sao chúng ta có thể học để ứng xử tốt hơn trong các tình huống hiểm nghèo. Giờ phút khó tin Tính cách của chúng ta trong lúc thảm họa xảy ra không giống như tính cách của chúng ta trong các tình huống bình thường. Phản ứng thường xảy ra nhất trong các thảm họa không phải là sự hoảng sợ mà là điều ngược lại. Người ta đều biết rằng khi thảm họa xảy ra, não bộ thường đi qua ba giai đoạn: bác bỏ, cân nhắc và quyết định. Giai đoạn đầu tiên có lẽ là giai đoạn cần biết trước nhất. Những người sống sót trong các vụ cháy, tấn công khủng bố hay đắm tàu đều nói với tôi rằng giai đoạn bác bỏ, không tin vào những gì đang diễn ra có sức mạnh cũng thật khó tin. Trên boong tàu Estonia bị đắm ở Biển Baltic hồi năm 1994, một người đàn ông vẫn điềm nhiên hút thuốc. Một nhóm khác ngồi bất động trong lúc nước tràn vào tàu. Phản ứng thường xảy ra nhất trong các thảm họa không phải là sự hoảng sợ mà là điều ngược lại. Bản năng đầu tiên của chúng ta là bình thường hóa tình huống. Người ta sẽ nghĩ ra đủ các cách lý giải đầy sáng tạo để tự trấn an khi khói dần dần xuất hiện trên trần nhà hay khi mặt nạ ô-xy rơi xuống từ trần máy bay. Trong Trung tâm Thương mại Thế giới hôm 11 tháng Chín năm 2001, khoảng 1000 người vẫn còn tắt máy trước khi sơ tán. Tính trung bình người ta mất khoảng sáu phút để bắt đầu rời đi. Khi họ đã tới cầu thang, họ đi với tốc độ khoảng một phút một tầng, chậm gấp đôi so với các kỹ sư dự tính. Có nhiều cách giải thích tại sao chúng ta lại phản ứng như vậy và hầu hết các lý do nằm ở sự tiến hóa của con người. Tính trung bình người ta mất khoảng sáu phút để bắt đầu rời Tòa Tháp đôi Và chúng ta có thể cải thiện cách chúng ta ứng xử trong các tình huống khó khăn và rèn luyện cho não của chúng ta làm việc tốt hơn trong các tình huống như vậy. Khi chúng ta biết chúng ta thường hành động chậm chạp trong giai đoạn ngay khi xảy ra thảm họa, chúng ta có thể học để có phản ứng nhanh hơn. Các khu nhà và máy bay có thể được chế tạo theo cách để chúng ta nhanh chóng hiểu được điều gì đang xảy ra và tìm cách thoát thân. Cũng đã đến lúc chúng ta ngừng chuyện chỉ biết thất thần nhìn vào thiệt hại và đổ lỗi cho chính phủ hay Thượng Đế. Đã đến lúc chúng ta chấp nhận mỗi một chúng ta có khả năng thay đổi tình thế và chúng ta có thể ứng xử linh hoạt để làm cho mỗi người có sức bền tốt hơn.
-
Điều gì quan trọng nhất đời bạn ? Khi những tình huống dưới đây xảy ra đồng thời, bạn sẽ giải quyết việc gì trước tiên? Hãy nhanh chóng đưa ra kết quả, và sau đó bạn sẽ khám phá được chính tính cách con người bạn. 1. Em bé khóc quấy. 2. Trời bắt đầu mưa, và quần áo đang phơi. 3. Từng hồi chuông điện thoại reo lên gấp gáp 4. Chuông cửa réo ầm ầm, có ai đó đang đợi bạn mở cửa. 5. Nước đang chảy lênh láng . Mỗi lựa chọn cho thấy những điều bạn ưu tiên nhất và đặt lên trên hết trong cuộc đời mình: 1. Khi bạn quyết định chạy tới dỗ dành em bé, điều đó cho thấy trong trái tim bạn, gia đình luôn ở vị trí quan trọng nhất. Bạn sẵn sàng hy sinh sự nghiệp để có được những giây phút đầm ấm bên người mình thương yêu. 2. Bạn bỏ mặc tất cả và bước ra ngoài rút quần áo để tránh cơn mưa? Vậy thì, với bạn, chuyện tình cảm luôn được đặt lên hàng đầu. Chỉ cần tình yêu vẫy gọi, bạn sẵn sàng hy sinh tất cả để chạy theo tiếng gọi ái tình. 3. Bạn bước tới và nhấc điện thoại lên? Không thể phủ nhận được bạn luôn mải mê với sự nghiệp, công việc. Đối với bạn, thành công, thăng tiến là phần thưởng quan trọng nhất của cuộc đời. 4. Tiếng chuông làm bạn nông nóng chạy ra mở cửa? Bạn quả thực rất đề cao tình bạn, các mối quan hệ xã hội và sẵn sàng vì nó mà thực hiện bất kể điều gì. 5. Mối bận tâm của bạn là phải tắt ngay vòi nước? Vậy thì bạn rất quan tâm đến tiền bạc và luôn muốn đồng tiền mình làm ra sinh sôi. Bạn thích được giàu có và luôn vì thế mà phấn đấu hết mình. Nguyên Hương Ngoisao.net
-
Duyên trầu cau Tục ăn trầu đã trở thành một nét văn hoá không phai nhoà trong tâm hồn người Việt. Nên năm tháng có qua, miếng trầu vẫn không thể thiếu trong các đám cưới, trong các món đồ lễ của các bà, các cô dâng lên bàn thờ tổ tiên, cầu khấn thần phật với tấm lòng thành kính. Nguồn: www.vanhoahoc.edu.vn Từ thời xa xưa, khi người Việt Nam chưa biết làm duyên bằng son phấn thì cái duyên trầu cau đã làm đẹp cho bao cô gái, bao người thiếu phụ và cả những bà già mắt mờ chân chậm. Lớp trung niên bây giờ mấy ai dễ quên hình ảnh những cụ bà ngồi trâm ngâm lơ đãng nhìn trời mưa, tay cầm chiếc cối đồng nhỏ xíu, thong thả nghiền miếng trầu cho nhuyễn, móm mém đảo trầu, nghe tháng năm râm ran chạy từ chót lưỡi lên đôi má. Và trong phút chốc, tuổi trẻ như vãn hồi trong chút ửng hồng trên gương mặt già nua. Tục ăn trầu đã trở thành một nét văn hoá không phai nhoà trong tâm hồn người Việt. Nên năm tháng có qua, miếng trầu vẫn không thể thiếu trong các đám cưới, trong các món đồ lễ của các bà, các cô dâng lên bàn thờ tổ tiên, cầu khấn thần phật với tấm lòng thành kính. Theo thời đại của những người răng trắng, tục ăn trầu đã biến cách. Chỉ còn là những miếng trầu têm cánh phượng gói trong giấy hồng báo hỷ nhỏ xíu. Chỉ còn buồng cau nõn nường một vài trăm trái được tết giấy trang kim lấp lánh nằm xoã dài trên quả cưới chú rể mang đến nhà ba mẹ cô dâu xin cưới con gái người ta. Trầu, cau, vôi,vỏ, tất cả nếu đứng riêng lẻ thì mỗi thứ chỉ là cây, lá trái, là đá, lá lá. Nhưng khi chúng hợp lại, hoà quyện, cộng sinh vào nhau, được ấp ủ trong môi miệng con người thì tất cả bỗng biến đổi. Trở nên đằm thắm, trở nên rực rỡ. Và trầu cau đã là nơi khởi đầu cho bao mối lương duyên. Mai này không biết chúng ta có còn được trông thấy những người đàn bà thong thả nhai trầu. Mắt họ long lanh, môi họ thắm đỏ. Và một màu hồng nâu say say ửng trên đôi má. Ấy là khi trầu đã bén duyên cau. Và vôi, và vỏ, và chút thuốc lào gợn dưới vành môi. Làn môi của người đàn bà ăn trầu được nhẹ cong lên một chút, như mọng hơn, như hờn dỗi, để làm lung linh thêm cái duyên nghĩa trầu cau. Phan Thị Mến nguồn vietnamnet
-
Khi hai người cùng làm một hành động , họ sẽ không có cùng một nghiệp quả . Đức Phật so sánh việc tạo nghiệp ác của hai người với bỏ một muổng muối vào ly nước hay bỏ xuống sông hằng . Ly nước muối sẽ không uống được nhưng nước sông hằng có gì thay đổi đâu . Cũng thế, với người có cả một " dòng sông thiện " thì một hành đông sai trái cũng không ảnh hưởng nhiều . nhưng nếu ta chỉ có một " ly nước phúc " thì chỉ một hành động sai trái cũng đủ làm cay đắng cả cuộc đời . Vì ta không biết mình tạo tác ra những gì ở kiếp trước , tốt hơn hết là giả thuyết rằng phúc của ta chỉ đầy một ly nước . Đôi khi ta thường tự hỏi tại sao có những người làm bao điều ác mà vẫn sống hạnh phúc . Gia đình , tiền bạc , sức khỏe đều tốt lành. Tại sao họ không bị trừng phạt ? họ chưa bị trừng phạt đó thôi . họ sẽ lãnh những hâu quả của việc họ làm . Không có gì gọi là tai nạn hay may rủi . Không có gì xảy ra ngẩu nhiên trong vũ trụ này . Trăng , sao , mặt trời - mọi việc đều đi theo một định luật . trái đất ta đang sông cũng thế . Nghiệp của ta cũng thế . trích từ VÔ NGÃ VÔ ƯU (bestseller của Ni Sư AYYA KHEMA )
-
Lễ xây chầu ở Nam bộ . TT- - Xây chầu là một lễ quan trọng và rất phổ biến trong các cuộc tế lễ ở Nam bộ. Hầu như trong các cuộc tế lễ thần thánh nào cũng có tục xây chầu, từ lễ hội cúng đình, lễ hội nghinh Ông… cho đến lễ vía bà Chúa Xứ. Xây chầu còn gọi là khai tràng, khai thiên lập địa, khai thông thái cực. Lễ này vốn bắt nguồn từ lễ Đại Bội, diễn ra trong cung đình nhà Nguyễn, có ý nghĩa cầu an, nhắc nhở dân làng phận sự làm người, tôn kính trời đất để mong đất trời phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân dân được yên ổn làm ăn. Mà muốn được như thế thì phải tuân theo sự vận hành của trời đất, trong đó kim chỉ nam là Kinh Dịch, với thuyết âm dương, bát quái, ngũ hành. Việc xây chầu nằm trong nguyên tắc ấy. Làng xã là vũ trụ nhỏ nằm trong vũ trụ lớn. Xây chầu có nghĩa là dùng tiếng trống chầu đánh rõ từng tiếng để đổi mới đất trời. Trống phải được sơn màu đỏ, mặt trống có hình âm dương. Người đánh trống phải là người có đạo đức tốt, được dân làng kính nể, đồng thời phải có sức khỏe tốt, dẻo dai để thực hiện được xuyên suốt các thao tác đánh trống. Người đánh trống được gọi là vị Cổ quan, thay mặt cho dân làng nên phải hội đầy đủ tư cách về tinh thần, thể chất, gia cảnh. Trước khi đứng xây chầu, giữ mình trong sạch, ăn chay càng tốt, không được gần vợ. - Từ lúc càn khôn hỗn độn đến mở đầu Thái cực tượng trưng là cái trống. - Thái cực sinh âm và dương (lưỡng nghi), lưỡng nghi sinh tứ tượng. - Tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh ngũ hành, ngũ hành tác động qua lại, sinh ra vạn vật, muôn loài. Những câu chữ Nho mà người xây chầu đọc lên nhằm nhắc nhở những nguyên tắc ấy và dĩ nhiên có chút ít “bùa phép”, như viết chữ “Thạnh” (thịnh vượng) trên mặt trống, chân thì viết tượng trưng chữ “sát quỷ” (giết ma quỷ tránh xui xẻo). Người xây chầu viết bằng ngón chân rồi đạp lên như để xóa, trấn áp. Có trường hợp dùng roi chầu (dùi trống) vẽ bùa tứ tung ngũ hoành của ông Khương Thượng ngày xưa. Lắm khi người chấp sự (trực tiếp đánh trống) xá bàn thờ thần, trở ra sân khấu, nơi đặt cái trống, bày ra lễ nhỏ, như dùng nhánh cây nhúng vào tô nước lạnh, rảy nước, tượng trưng cho sự tẩy uế sân khấu. Sau khi vẽ bùa, viết chữ “sát quỷ” thì bắt đầu đánh dùi thứ nhất, gọi là nhứt kích cổ. Mỗi tiếng trống phải tròn, rõ, đánh theo điệu “tiền bần hậu phú” - mấy roi đầu đánh nhỏ, lơi, đến những roi gần cuối to dần và nhanh hơn. Điều đó có ý nghĩa là tình hình làm ăn của dân làng trước còn nghèo, sau nhờ thánh thần phù hộ gần cuối năm lại giàu lên. Người đánh trống phải đánh đủ ba hồi. Hồi thứ nhất đánh 20 roi, khi dứt, đánh thêm hai dùi nhỏ tiếng hơn, như là dư âm. Người đánh xướng thật to: “Trừ hung thần ác sát”, ngụ ý đuổi ma quái ra khỏi làng. Hồi thứ nhì đánh 40 roi, dứt rồi điểm hai dùi nhỏ tiếng nhưng không xướng khẩu lệnh. Hồi thứ ba đánh 60 roi, dứt thì điểm hai tiếng nhỏ, sau đó đánh ba hồi dùi, nhạc trỗi lên để bắt đầu vào đại bội. Đại bội nhằm trình diễn một số hoạt cảnh, giải thích nguồn gốc của con người trên trần thế, nhằm đề cao trời đất. Con người may mắn được ở giữa trời đất, cùng với hoa trái, chịu ảnh hưởng của gió, mưa, sấm, sét, cầu mong gió thuận mưa hòa. Các hoạt cảnh này do các diễn viên chuyên nghiệp ở các đoàn hát bội thực hiện. Trong lễ xây chầu, họ phải trình diễn sáu lễ theo sự điều hành của quan viên cầm chầu. - Lễ khai thiên tịch địa: Do một kép nam đóng ông già râu dài, tượng trưng cho ông Bàn Cổ, tay cầm nắm nhang, làm động tác gọi là “điềm hương”, gợi ý nhờ phát minh ra lửa, nhờ âm dương mà có sự phân chia trời đất. Khí âm và dương tương sinh tương khắc, sinh ra muôn loài. - Lễ sang nhật nguyệt: Một diễn viên nam tay cầm cái chén có bịt vải đỏ tượng trưng cho Mặt trời (Nhật) bước ra sân khấu múa hát: Thiên khai nhật ảnh chiếu huy hoàng, Địa tịch hành phong võ lộ đoan. Hỗn độn sơ khai chơn khí tượng, Càn khôn giao thới thế gian quang. Diễn viên nam hát xong thì diễn viên nữ tay cầm cái chén có bịt vải trắng, tượng trưng cho Mặt trăng (Nguyệt) bước ra sân khấu múa hát: Nguyệt phách tinh quang thông thế giới Âm dương tương khắc thị bình bang Nam Bắc tương phân chơn bách lý Đông Tây phối hiệp tứ thập giang. Cứ như thế sau ba lần hát, ba lần hai chén chạm nhau (gọi là sang mặt) để thể hiện âm dương giao hòa, sinh muôn vật. - Lễ tam tài: Ba diễn viên đóng ba ông già Phước, Lộc, Thọ (tam tinh). Ông Phước mặc áo xanh, râu dài, bồng đứa trẻ, có nghĩa là nhà đông con cháu để nối dõi, gìn giữ gia sản cha mẹ. Ông Lộc mặc áo quan, tay bưng hoa quả tươi, ngụ ý được dân đền ơn, quà cáp (lương bổng thời xưa không nhiều, quà cáp là món mà vị quan có thể nhận được). Ông Thọ sống dai, còng lưng chống gậy. Ba ông múa bát xướng, nối hồi, hát khách: Vững tựa Nam san phúc lộc thọ Nhơn gian vĩnh phước tăng huê xứ Thế thượng thùy nhơn chiều mãn đường. - Lễ tứ thiên vương: Bốn kép nam thủ vai võ tướng, mặt trắng, đầu đội kim khôi, chân đi hia, lưng mang cờ lệnh, lần lượt múa chung với nhau, cùng hát: Đông phương giáp ất Mộc Thiên vương Mã lê Thanh Tây phương canh tân Kim Thiên vương Mã lê Bạch Nam phương bính đinh Hỏa Thiên vương Mã lê Hồng Bắc phương nhâm quý Thủy Thiên vương Mã lê Thọ. Lễ này bắt nguồn từ huyền thoại Ấn Độ, bốn vị này tượng trưng cho mưa, gió, sấm, sét, hòa hợp với nhau, tạo cho mưa thuận gió hòa. Họ múa đủ bốn cửa rồi trụ lại, dâng bốn tấm liễn ngắn ghi “Thiên hạ thái bình”, “Phong điều vũ thuận”, “Quốc thái dân an”… Ban tế lễ đứng gần sân khấu nhận bốn tấm liễn và thưởng cho các nghệ nhân một số tiền tượng trưng trong phong bì đỏ, rồi đem liễn để lên bàn thờ thần. - Lễ đứng cái: Năm diễn viên tham gia. Một cái - Mã Viên (vườn đất) diễn viên nam, đứng giữa, mặc áo vàng hành thổ. Bốn con do bốn diễn viên nữ đứng bốn bên, mặc xiêm y sang trọng tượng trưng cho Xuân, Hạ, Thu, Đông hoặc Kim, Mộc, Hỏa, Thủy, hát theo giọng bình dân: Âu vàng vững đặt báu ngôi, Trên vua khai rạng, dưới tôi trung thần… Làu làu tiết chói Nghiêu thiên, Hây hây Thuấn nhật, vua Lê trị đời… Người Cái bước ra, mặt trắng, đội mão, tượng trưng cho Thổ (đất), có ý nghĩa người làm ruộng có đất ruộng. Xuân, Hạ, Thu, Đông tuy quan trọng nhưng cũng đủ phục vụ cho cho đất. Năm diễn viên này múa hát chúc tụng đất nước, chúc tụng nhân dân, chúc tụng trời đất muôn loài, từ ngũ hành mà nên. - Lễ bát tiên chúc thọ: Tám diễn viên nam đóng tám ông tiên, múa hát chúc tụng thánh thần, chúc thọ dân làng. Múa hát xong, bát tiên dâng lễ dân làng. Dân làng tiếp nhận lễ, đặt lên bàn thờ hội đồng. Sau khi dân làng thưởng tiền bát tiên thì lễ chấm dứt. Xây chầu và đại bội là quá trình diễn tấu văn nghệ, do những nghệ nhân dân gian trình diễn, trong những không gian thiêng liêng dân dã, phục vụ cho dân làng thưởng thức. Nó đáp ứng được nhu cầu tâm linh của dân làng trong việc thờ thần và vui chơi trong mỗi kỳ lễ tết, theo nhịp thời gian vụ mùa. Theo TRẦN KIỀU QUANG (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần) nguồn tuoitreonline
-
Cũng như ..... Cái khôn danh lợi là khôn dại Cái dại thương người là cái dại khôn