-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Da cóc trị... ung thư di căn? Thứ năm, 13/11/2008, 10:30 GMT+7 Thịt cóc là thực phẩm đặc biệt hiệu quả trị chứng còi xương, suy dinh dưỡng và biếng ăn ở trẻ em. Cóc cả con sấy khô tán nhỏ là thành phần chủ yếu của cao dán mụn nhọt nổi tiếng dân gian, Linh đan Thiềm ô châu - bột cóc toàn tính (làm thịt đúng kỹ thuật) đốt cháy bằng than củi là bài thuốc trị ung thư của ông giáo Chung và kỹ sư địa chất Vũ Văn Nghi thử nghiệm thành công hơn hai năm trước dưới sự chỉ dẫn của dược sỹ, lương y Đào Kim Long. Qua cuộc trò chuyện trong cuộc gặp tình cờ với vợ chồng KS Vũ Văn Nghi sáng Chủ nhật, 21/9 vừa rồi, tại cơ sở chữa bệnh của DS, lương y Đào Kim Long (Phường Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội), tôi may mắn biết thêm tác dụng chữa bệnh mới của "Cậu ông trời'': Da cóc làm tiêu khối u ác tính Hodgkin! Vợ ông Vũ Văn Nghi (Phường Bình An, Quận 2, TP Hồ Chí Minh) thật thà kể về sự cố Hodgkin xảy ra với chồng mình, hồi giữa tháng tám vừa qua: Sáng hôm ấy thấy ông tự mình không thể ngồi dậy khỏi giường ngủ, tôi đã can ngăn, khuyên ông hủy chương trình bay ra Hà Nội để về quê Nam Định ăn giỗ họ nhưng không được". Khác với tất cả bộ phận còn lại của con cóc như xương thịt, gan ruột, phổi, tim... chỉ duy nhất da cóc có chất phát quang (tan trong cồn phát quang vàng khi gặp ánh sáng cực tím) Tôi không ngạc nhiên khi biết ông Nghi hủy chuyến đi, bởi hơn một năm trước, trong quá trình thu thập tài liệu viết bài phóng sự trên, tôi đã chứng kiến ông có nghị lực chiến thắng bệnh tật phi thường thế nào. Chỉ tính trong thời gian chưa đầy 4 năm (đến thời điểm tôi được tiếp nhận hồ sơ bệnh án của ông, tháng 9/2007), cơ thể người đàn ông ngấp nghé tuổi 60 đã phải gánh chịu những tai họa hiếm người có thể vượt qua: Một cuộc đại phẫu lồng ngực, một liệu trình xạ trị, hai liệu trình hóa trị (mỗi liệu trình 5 đợt, 21 ngày/đợt) và ba lần ung thư di căn! Tháng 8/2004 ông Vũ Văn Nghi đã phải phẫu thuật cắt thùy sau, buồng phổi trái vì ung thư. Tháng 3/2005 con bệnh quái ác di căn (xét nghiệm chiếu chụp phát hiện nhiều trong ổ bụng), mặc dù trước đó đã được hóa trị và xạ trị sau phẫu thuật. Sau khi thăm khám, các bác sỹ điều trị buộc phải quyết định áp dụng liệu pháp hóa trị lần hai. Chưa đầy 12 tháng sau, đầu năm 2006, cổ ông tự nhiên cứng nhắc, không thể cử động bình thường, đau ê ẩm. Trên phim chụp xét nghiệm sau đó thấy rõ trên xương cổ những vết đen đậm - nhạt loang lổ. Bác sỹ chẩn đoán: Con bệnh đã "ăn" lên cổ. Người thấy thuốc nói ra, song theo kinh nghiệm nhiều năm hành nghề, cuộc sống của bệnh nhân ung thư phổi đã di căn lên cổ chỉ có thể kéo dài tối đa 2-3 tháng. Lý do: Con bệnh không bị tiêu diệt, cho dù đã áp dụng cả ba phương pháp hữu hiệu nhất và tiên tiến nhất, mà ngành Tây y nước nhà đang sở hữu (Phẫu thuật cắt bỏ khối u; Hóa trị - tiêu diệt tế bào ung thư bằng hóa chất và xạ trị - tiêu diệt tế bào ung thư bằng tia phóng xạ). Tây y bó tay, trong bước đường cùng - theo lời mách bảo của ông Lý Văn Vọng, bạn thân từ thời học đại học ở CHDCND Triều Tiên, những năm 60 thế kỷ trước, tháng 3/2006 với tấm thân da bọc xương và cái đầu trọc lốc, ông bay ra Hà Nội tìm gặp lương y Đào Kim Long, chủ yếu với hy vọng "kéo dài cuộc sống ngày nào hay ngày ấy". Sau 3 tháng châm cứu và uống thuốc tự sắc, kết quả xét nghiệm cho thấy các chỉ số ung thư tụt xuống rất thấp. Cổ hết đau, tóc mọc kín đầu, sức khỏe hồi phục, ông trở lại công việc giám đốc công ty. Được gần một năm sức khỏe bình thường, tháng 2/2007 ông Nghi bỗng cảm thấy chân tay rã rời, khó ngủ, hay nhức đầu và tệ hại hơn - trên hộp sọ lác đác xuất hiện những khối u cỡ quả nhãn, quả vải. Vào bệnh viện khám, các bác sỹ kết luận: Bạo bệnh đã di căn lên đầu! Mặc dù lương y Đào Kim Long thay đơn bốc thuốc và áp dụng giải pháp đắp lá cái lên những khối u, song kết quả không được như mong đợi. Các khối u có mõm đi, song toàn thân vẫn rã rời, đau đầu, mất ngủ. Đối với nguy cơ tử thần cận kề trong khi tất cả "vũ khí" truyền thống của lương y Đào Kim Long đã không thể phát huy tác dụng, ông Nghi đành nghĩ đến giải pháp cuối cùng lưu truyền trong dân gian, nhưng hết sức mạo hiểm - Linh đan Thiềm ô châu đã được thầy giáo cũ của vợ mình - ông Chung (ung thư gan di căn, đang sống ở TP.HCM) áp dụng thành công một năm trước, dưới sự chỉ dẫn của chính ông Long. Bài thuốc chế biến con cóc đốt thành than cầu kỳ, mất thời gian đã mang lại cuộc sống nhiều tháng gần như bình thường cho ông Nghi, thế nhưng theo lời kể của vợ ông - do tham công tiếc việc (ngày 12 làm việc với đối tác ở Đồng Nai, ngày 13 làm việc ở Vũng Tàu), sáng 14 thức giấc, phải nhờ bà nâng hộ cái đầu, ông Nghi mới đứng dậy được khỏi giường. Cái cổ lại cứng nhắc. Đau thấu xương vì khối u to gần bằng quả nhót mọc trên cổ, ngay dưới dái tai bên trái. Bất chấp lời can ngăn của vợ, ông vẫn quyết ra Hà Nội để về quê Nam Định, theo đúng kế hoạch. Tính ông vẫn thế - đã định cái gì bao giờ cũng làm bằng được. Cũng may chuyến bay hôm đó vắng khách, bà dễ dàng tìm được chỗ cho ông nằm ngả lưng thoải mái. Ra đến Hà Nội, bà lập tức liên lạc, đưa ông đến nhà lương y Đào Kim Long để châm cứu. Cổ đỡ đau, nhúc nhắc cử động được, ông bà lên đường về quê giỗ họ. Ngày 16, trước khi bay trở lại TP.HCM, ông được châm cứu thêm một lần nữa. Bay về nhà lần này, vợ chồng ông mang theo bài thuốc mới của lương y Đào Kim Long để giải quyết khối u quái ác mới nhú trên cổ. Ngay khi khối u kịp khô sau 7-8 giờ đắp lá cái (hỗn hợp lá cái chế biến bằng cối xay sinh tố trộn một chút nước lã đun sôi để nguội), bà dùng điếu ngải cứu (lá ngải cứu khô cuộn như điếu xì gà) lên miếng da vừa bóc từ con cóc đang sống khỏe mạnh úp mặt trong vào khối u. Chầm chậm di điếu ngải lên bề mặt khối u, đến khi miếng da cóc tươi rói bay hết hơi, khô cong là được. Cứ sau mỗi lần đắp lá - "cứu" da cóc, khối u nhỏ đi một chút. Hết đúng cái da cóc thứ 10, khối u biến hẳn, thành cổ phẳng lỳ. Cảm giác cứng đơ, đau đớn chỉ còn phảng phất. ... Mới về nhà được hơn một tháng, sáng 21/9, lại thấy ông ngồi như tượng trên chiếc ghế nhựa châm cứu trong phòng khám nhà ông Long, kim cắm đầy người, tôi ngạc nhiên, hỏi ông lý do vì sao không làm ở TP.HCM - vừa đỡ tốn tiền xe cộ, vé máy bay, vừa đỡ mất thời gian? Ông Nghi nhoẻn miệng đáp: "Tôi cũng muốn thế, mà không được". Rồi ông dẫn giải: "Bệnh cái cổ của tôi bắt buộc phải châm cứu. Sống ở TP.HCM hơn 20 năm, bạn bè nhiều, quen biết rộng, đã mời mấy thầy châm cứu nổi tiếng, song không thầy nào làm được như thầy Long. Cổ đang cứng đơ, đau nhức - thấy nhẹ hẳn, chỉ sau một lần châm cứu. Vì thế tuần này tôi ra Hà Nội, để thầy Long điều trị dứt điểm cái cổ sau khi đã giải quyết xong khối u bằng bài thuốc đắp lá cái kết hợp với "cứu" da cóc. Cách làm của thầy Long có hiệu quả đặc biệt chính là nhờ vào phương pháp Thần châm độc đáo do chính thầy nghĩ ra. Mà không chỉ châm cứu, ngay trong chẩn đoán và điều trị bệnh thầy Long cũng phát hiện ra không ít nguyên lý gây bệnh và giải pháp chữa trị hết sức sáng tạo, mang lại hiệu quả cực cao" - Ông Nghi khẳng định. "Tôi có thằng cháu trai con chú em ở Nam Định - Ông Nghi kể tiếp - Ba năm trước, đang tuổi "bẻ gẫy sừng trâu", cao gần mét bảy, bỗng nhiên đi tiểu ra máu. Nghĩ con trai viêm đường tiết niệu, bố mẹ cho uống thuốc kháng sinh đặc trị - không khỏi. Gia đình lo lắng, đưa ngay đi khám - nhưng cả ở địa phương và một số bệnh viện lớn ở Hà Nội, không đâu xác định được nguyên nhân. Mẹ cháu cho rằng, vì dốc sức học thi vào lớp 10 trường chuyên, cơ thể suy nhược sinh bệnh. Riêng ông Long - thăm khám xong, đã khẳng định: "Cơ thể cháu không may bị mất khả năng thống huyết và nhiếp huyết (cơ chế thu hồi và điều tiết máu ở bể thận bị rối loạn). Máu tự thoát qua bể thận, thậm chí cả trong trường hợp không có nước tiểu. Ông kê đơn, bốc cho cháu 7 thang thuốc theo thuật Kỳ môn y pháp. Cháu đỡ hẳn ngay khi uống hết thang thứ ba và khỏi hẳn - khi hết thang thứ sáu!". Với câu hỏi: Vì sao "bệnh cái cổ" của ông Nghi bắt buộc phải châm cứu và lý do chỉ có Thần châm do chính tay tác giả thực hiện mới phát huy hiệu quả, lương y Đào Kim Long giải thích: "Do hậu quả ung thư phổi di căn, vùng cổ ông Nghi bị thiếu máu trầm trọng. Các mô cơ bắp, cơ trơn... không được cung cấp máu đầy đủ làm cho cổ bị cứng, rất đau đớn và khó cử động. Châm cứu truyền thống nhằm điều hòa thần khí dựa trên lý thuyết huyệt mạch không giải quyết được tình trạng này. Riêng kỹ thuật Thần châm của tôi vận dụng năng lượng nội sinh xuất hiện do kết quả phản xạ thần kinh tự nhiên và khả năng loại dị vật của cơ thể để phục hồi khả năng cung cấp máu bình thường cho khu vực này của cơ thể đã phát huy được hiệu quả". Trở lại bài thuốc "cứu" da cóc trị khối u Hoghkin lương y Đào Kim Long mới truyền cho ông Nghi cách đây không lâu, lương y Long điềm đạm lý giải: "Bài thuốc chữa đi tiểu ra máu không rõ nguyên nhân và thuật Thần châm là kết quả nhiều năm nghiên cứu của tôi; Riêng bài thuốc "cứu" da cóc trị khối u Hoghkin là tác phẩm của cụ Tuệ Tĩnh, ông Tổ Y học dân tộc cổ truyền Việt Nam (1330 - 1400). Cụ chính là thầy thuốc đầu tiên chữa trị ung thư ở nước ta. Dựa vào nguyên lý "lấy độc trị độc", cụ đã tận dụng một cách sáng tạo tác dụng trị bệnh của cây ngải cứu kết hợp với các chất độc tiềm ẩn trên da cóc tươi để hóa giải chứng bệnh nan y này. Các khối u mọc trên cột sống và trên hạch Hoghkin có lẽ là chứng bệnh ung thư đầu tiên mà cụ Tuệ Tĩnh chữa trị thành công. Trong tác phẩm Nam dược thần hiệu vĩ đãi của mình, cụ còn ghi lời dặn hậu thế về khối u thuộc dạng bệnh này: "Hậu bối (khối u mọc trên cột sống) sẽ gây tử vong, nếu không được "cứu" trong thời gian bẩy ngày, vì con bệnh đã ăn vào tủy xương". "Tôi chữa bệnh theo y văn, song không giáo điều, máy móc - DS. lương y Đào Kim Long nói tiếp - Trong hoàn cảnh có thể, bao giờ tôi cũng cố gắng khám phá bí quyết thành công của bài thuốc. Trước khi hướng dẫn ông Nghi áp dụng giải pháp "cứu" da cóc trị khối u ác tính Hoghkin của cụ Tuệ Tĩnh, tôi đã tiến hành hàng loạt thí nghiệm nhằm tìm hiểu các thành phần sinh hóa của da cóc. Được sự giúp đỡ tận tình của hai nhà khoa học - TS Phan Quốc Kinh và TS Hà Huy Kế, chúng tôi đã tiến hành hàng loạt nghiên cứu phức tạp tại phòng thí nghiệm. Kết quả thật bất ngờ. Khác với tất cả bộ phận còn lại của con cóc như xương thịt, gan ruột, phổi, tim... chỉ duy nhất da cóc có chất phát quang (tan trong cồn phát quang vàng khi gặp ánh sáng cực tím). Chất phát quang kỳ lạ (tồn tại không đổi, ngay cả sau khi tinh luyện) tập trung nhiều nhất ở vùng da lưng - cóc càng già và to (cóc cụ), lượng chất này càng nhiều. Qua thực tế khỏi bệnh của ông giáo Chung, ông Nghi và một số bệnh nhân khác nhờ dùng linh đan Thiềm ô châu và kinh nghiệm, mà cụ Tuệ Tĩnh đã đúc rút thành bài thuốc "cứu" da cóc trị các khối u hạch và hậu bối, tôi kết luận: Chất phát quang có trong da cóc chính là yếu tố quan trọng giúp hệ miễn dịch của cơ thể chiến thắng các tế bào ung thư và càng vững tin, khi giới thiệu cho ông Vũ Văn Nghi" - DS lương y Đào Kim Long bộc bạch. Lương y Đào Kim Long, khám ở Hà Nội vào các ngày thứ 6, thứ 7 và chủ nhật Địa chỉ: Ngõ 409, nghách 7, nhà số 7 đường An Dương Vương Điện thoại: 0321.3494594 - 0983611220 Nguồn tintuconline
-
(Chào chị, Lãng tử xin được đóng góp chút ít chia sẻ khó khăn với gia đình chị Minh và cháu Bảo Ân. Ngày 13-11-2008 Lãng tử đã gửi 1tr VND vào tài khoản VCB TRAN ANH TUYET, 0071001527081 Nhờ chị làm ơn kiểm tra lại và chuyển số tiền trên tới gia đình chị Minh giúp lãng tử. Xin cảm ơn chị và chúc chị một ngày tốt lành! Lãng tử.) Xin phép được chuyển thư của Lãng tử từ Pm của Wild lên chủ đề . Hôm nay Wild nhận được trong tk số tiền 1.000.000vnd của Lãng tử giúp Chị Nga Minh. ghi nhận tấm lòng của Lãng tử, Wild sẽ chuyển đến Chị vào đợt 2. Chúc LT có nhiều may mắn trong cuộc sống !
-
Trưa ngày 13/11/08 Wild nhận được điện thoại từ số 0543687125 của chị Nga Minh ở Thừa thiên Huế, nói lời cám ơn Trung Tâm Lý Học Đông Phương sau khi nhận được thư chuyển tiền. Wild cũng chúc chị và cháu Bảo ân sớm vượt qua bệnh tật từ sự đóng góp nhỏ nhoi của các thành viên và cũng vì quan niệm chữa bệnh như chữa cháy nên Wild thực hiện chuyển sớm đến tay Chị , dù số tiền không lớn nhưng Wild hy vọng các tấm lòng của ACE vẫn và tiếp tục hướng về hoàn cảnh của Chị.
-
Trưa ngày 13/11/08 Wild nhận được điện thoại từ số 0543687125 của chị Nga Minh ở Thừa thiên Huế, nói lời cám ơn Trung Tâm Lý Học Đông Phương sau khi nhận được thư chuyển tiền. Wild cũng chúc chị và cháu Bảo ân sớm vượt qua bệnh tật từ sự đóng góp nhỏ nhoi của các thành viên và cũng vì quan niệm chữa bệnh như chữa cháy nên Wild thực hiện chuyển sớm đến tay Chị , dù số tiền không lớn nhưng Wild hy vọng các tấm lòng của ACE vẫn và tiếp tục hướng về hoàn cảnh của Chị.
-
Tiếc quá ! Wild vừa tổng hợp và gởi đến gia đình Chị Nga Minh trưa nay. Tuy nhiên Wild sẽ dành cho đợt sau, Và cách gởi của Crescent không an toàn đâu ! nếu có lòng Crescent chịu khó ra ngân hàng đi nhé !
-
Dưới đây là chứng từ: Trong đó, phí dịch vụ chuyển tiền do thầy Thiên Sứ chịu.
-
Arigato : 50.000vndChipchip : 100.000vnd HoaiChau2.078.000vnd TittyNguyen : 200.000vnd -------------------------------- 2.428.000vnd + Arigato : 100.000vnd ThngDiep : 100.000vnd Minhminh : 1.000.000vnd --------------------------------- 3.628.000vnd Trưa nay Wild sẽ đi bưu điện gởi số tiền đến Chị Nga Minh và post chứng từ gởi lên Diễn đàn.
-
Chào chị Wildlavender, (trích từ PM của Thngdiep gởi Wild) Ngày hôm qua tôi mới gia nhập diễn đàn và tình cờ đọc được bài viết về hoàn cảnh của cô giáo Nga Minh và những nỗ lực của chị, chú Thiên Sứ và các anh chị em trên diễn đàn để giúp gia đình cô giáo. Tôi muốn gửi một chút tiền nhỏ để ủng hộ cô giáo và có viết hỏi chị để khằng định lại là chỉ cần chuyển tiền vào tài khoản của chị Trần Ánh Tuyết nhưng có lẽ do chưa thành thạo việc liên lạc trên diễn đàn nên chị không nhận được tin. Chiều qua tôi đã chuyển vào tài khoản của chị Trần Ánh Tuyết 100,000 VND để ủng hộ gia đình cô giáo. Xin thông báo với chị để chị được biết và rất cám ơn chị vì đã đứng ra làm đầu mối để giúp đỡ gia đình cô giáo. Chúc chị, chú Thiên Sứ và các anh chị em trên diễn đàn bằng an. Thngdiep Wild đã nhận của Thngdiep 100.000vnd (một trăm) Arigato : 100.000vnd (một trăm) Minhminh : 1.000.000vnd (một triệu) Thay mặt gia đình Chị Minh cám ơn sự đóng góp của các thành viên.
-
Vâng ! bạn cứ gởi theo tk đã post ở trên, sau khi kiểm tra Wild sẽ thông báo nhận .
-
Wild xin tổng kết tài chính để sớm chuyển giao đến Chị Trần thị Nga Minh là Mẹ của cháu bé bị xơ gan tại Thừa Thiên Huế. Wild cũng đã liên hệ gặp Thầy hiệu trưởng theo địa chỉ dưới bài. Sau khi trao đổi Thầy Hiệu trưởng đã xác nhận trường hợp của chị Nga và hiện đang là Giáo Viên của Trường. Wild được hướng dẫn cách chuyển sự giúp đỡ này qua THƯ CHUYỂN TIỀN có hồi đáp cho tên người nhận là Chị Minh. Quỹ từ thiện hiện có nhận sự đóng góp của các thành viên sau đây ; Arigato : 50.000vnd Chipchip : 100.000vnd HoaiChau: 2.078.000vnd (Wild đã nhận được trưa nay của HC) TittyNguyen : 200.000vnd -------------------------------- 2.428.000vnd Trong thời gian chờ đợi sự đóng góp thêm nữa của các thành viên Wild sẽ chuyển trước số này đến gia đình Chị Minh . Và Wild thêm vào cho tròn số là 2.500.000vnd.
-
Wild vừa nhận được 200.000vnd của Titty nguyen đóng góp vào mục đích giúp đỡ gia đình Chị Trần thị Nga Minh.
-
Chào cô Wildlavender Minhminh là thành viên mới của lyhocdongphuong nhưng cũng đã biết đến cô và chú Thiên Sứ từ lâu qua diễn đàn vietlyso. minhminh thấy việc lyhocdongphuong có quỹ từ thiện dành cho những mảnh đời cần cứu giúp là một việc rất tốt đẹp và hết sức có ý nghĩa. Vì vậy Minhminh cũng muốn đóng góp 1 phần nhỏ với hy vọng làm được việc có ích. Minhminh dự định sẽ chuyển số tiền 1.000.000 đồng vào tài khoản của cô tại VCB theo số tài khoản công bố trên diễn đàn. Nhờ cô xác nhận lại khi tiền chuyển vào tài khoản nhé. Chúc cô sức khoẻ và hạnh phúc. ( trích từ hộp thư của Wild) Wild xin phép Minhminh được chuyển PM này lên Diễn đàn để sau khi nhận được, Wild sẽ thuận lợi hơn trong việc công khai tài chính ! thay mặt trung tâm ghi nhận tấm lòng của Minhminh !
-
Bạn đã hiểu sai tính chuyên đề của Trang web chúng ta rồi ! Thông tin cập nhật cũng trong phạm vi Lý Học và kiến thức cần thiết thôi ! Chúng ta không nên đề cập những đề tài hay chủ trương mang tính chất gay cấn của pháp luật. Để tạo uy tín khách quan cho trang web, thì chúng ta tránh để tạo kẻ hở cho cơ hội . Vài thiển ý mong bạn hiểu sâu sắc hơn !
-
Có đi nhiều, sẽ thấy nhiều, biết nhiều nhưng đừng chai sạn !
-
Thứ năm, 2/10/2008, 7:14' Luồng khí xanh lè từ ngôi mộ cổ Sau khi khai quật "chữa cháy" ngôi mộ Kiệt Thượng 1, ông Hoành khẳng định sẽ còn một ngôi mộ nữa, bởi ông biết rằng, mộ thuyền thường “có đôi”. Và quả thực, không lâu sau, ông cùng đồng nghiệp đã lại quật lên mộ thuyền Kiệt Thượng 2, ngay cạnh đó, cũng đẹp và hoàn chỉnh không khác gì ngôi Kiệt Thượng 1. Kỳ tiếp theo của loạt bài: "Kỳ nhân ở nghĩa địa mộ cổ", VTC News sẽ cùng độc giả khám phá một ngôi mộ khác, gần như độc nhất vô nhị này. Từ hai ngôi mộ đặc biệt này, các nhà khoa học có thể dựng lại khá chi tiết đời sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng của con người thời đó. Còn các nhà nhân chủng học, với bộ xương nguyên vẹn, có thể miên tả, phục dựng khá chi tiết hình dáng người Việt cách nay 2.000 năm. Qua hai ngôi mộ ở Kiệt Thượng, có thể thấy kỹ thuật, mỹ thuật đúc đồng, cũng như văn hóa của người Việt thời Đông Sơn đã đạt trình độ khá cao, không kém gì những nền văn minh đương thời trong khu vực. "Đống gạch đỏ" gây chấn động Nằm sau những rặng tre, những đống gạch vữa, đất cát cao chất ngất, ở một góc khuất nẻo mà khách tham quan không thể nhìn thấy (nếu không có bác bảo vệ chỉ dẫn) của bảo tàng Hải Dương là một… đống gạch đỏ chót khổng lồ. Lại gần và quan sát kỹ mới thấy đống gạch đó là một… lâu đài cổ. Tóm lại, không ai biết đó là cái gì ngoài những nhà khảo cổ, nếu lần đầu được trông thấy. Nằm khuất nẻo sau rặng tre tại Bảo tàng Hải Dương là một "tuyệt tác khảo cổ": Mộ Hán. Ấy vậy mà, cái “đống gạch” có hình thù lạ đó từng là phát hiện chấn động, gây sửng sốt cả thế giới chứ chẳng phải chơi: mộ Hán. Người phát hiện, bảo tồn và khiến cho các nhà khảo cổ trên thế giới phải sửng sốt suốt một thời gian dài ấy, không ai khác, chính là “nhà khảo cổ tỉnh lẻ” Tăng Bá Hoành. Gò đất kỳ lạ Chuyện về ngôi mộ Hán khổng lồ này bắt đầu từ cuối tháng 6 năm 1996. Khi đó, tại khu vực Đống Dom (thôn Vũ Xá, Ái Quốc, Nam Sách, Hải Dương), một doanh nghiệp của Đài Loan chăng biển hiệu hoành tráng, với rất đông người, để chuẩn bị cho lễ động thổ công trình. Đúng lúc đó thì ông Tăng Bá Hoành đi qua. Ông thấy gò đất khổng lồ, rộng hàng ngàn mét vuông, mà ông vẫn để ý, nghi ngờ có ngôi mộ Hán, nằm lọt vào giữa công trường của doanh nghiệp Đài Loan kia. Ngay lập tức, ông cùng các đồng nghiệp với các thiết bị thăm dò xuống hiện trường. Quả thực, khi chiếc gầu sắt khổng lồ cắm xuống gò đất sâu chừng hơn mét, đã móc bật lên những viên gạch đỏ tươi có hình thù lạ. Các cán bộ của bảo tàng đều bất ngờ. Trước đó, họ xuống công trình theo lệnh giám đốc, chứ đâu có tin vào lời đoán mò của ông. Sau này, mọi người mới hiểu, những phán đoán của ông đều có cơ sở, là kinh nghiệm đúc rút từ mấy chục năm làm khảo cổ, mà chủ yếu là đào mồ mả cổ. Sau khi phát hiện có mộ cổ, ông kiên quyết yêu cầu doanh nghiệp này ngừng công việc giải phóng mặt bằng để ông báo cáo tỉnh. Báo cáo gửi đi, ông nhận được công văn của vị Phó Chủ tịch tỉnh với nội dung đại để: cứ để cho họ phá, nếu có di vật thì đến nhặt về… Ông bức xúc đánh công văn gửi cho vị Phó Chủ tịch nọ, với những viện dẫn từ Luật Di sản đầy sức mạnh. Thế là doanh nghiệp kia phải ngừng thi công, giao hiện trường cho các nhà khảo cổ học. Ông Hoành bảo rằng, đã có rất nhiều ví dụ về những ngôi mộ Hán tuyệt đẹp bị người ta dùng máy ủi san phẳng. Các doanh nghiệp khi giải phóng mặt bằng, gặp mộ cổ, không bao giờ họ báo cáo theo đúng Luật Di sản, bởi ngoài việc tò mò kiếm chác cổ vật, họ không muốn dự án phải ngừng trệ nhiều ngày. "Tòa lâu đài" kỳ vĩ dưới lòng đất Giữa cái nóng như nung của những ngày tháng 7, ông Giám đốc Bảo tàng Hải Dương Tăng Bá Hoành trần lưng lăn lộn ngoài công trường cùng các nhà khảo cổ và hơn 30 dân công thuê của địa phương. Bản thân ông cũng đào xới, vác đất rất vất vả cùng mọi người. Gò đất này cao 5-7m, rộng khoảng 1.000m2. Mấy chục con người phải đào bới suốt 1 tháng trời ròng rã, ngôi mộ Hán khổng lồ mới lộ thiên. Ngay trên nóc ngôi mộ Hán này, có cả một nghĩa địa của nhân dân, với hơn trăm ngôi. Sau khi hàng vạn khối đất được bóc ra, cả một tòa lâu đài nguyên vẹn, kỳ vĩ có diện tích rộng hàng trăm mét vuông hiện ra. Ông Hoành: "Ngôi mộ như một tòa lâu đài dưới lòng đất". Đó là một ngôi mộ Hán, được xây bằng gạch cổ, với 3 vòm cuốn, mỗi vòm cao 2,8m. Thật lạ lùng, nắp hầm bật mở, một luồng khí xanh lè phụt ra. Ông Hoành hô mọi người chạy càng xa càng tốt. Màu khói xanh lè là ô xít đồng. Ngôi mộ gần 2.000 năm trong lòng đất tích tụ rất nhiều yếm khí, nên nếu không thận trọng, hít phải là toi mạng như chơi. Hàng vạn người "phát sốt" Sau khi nắp hầm mở, ông vinh dự là người đầu tiên đặt chân vào hầm. Những đường hầm ngoằn nghèo, thông nhau sâu hun hút, gợi cảm giác như đang đi trong một ngôi đền linh thiêng, chứ không phải một ngôi mộ. Ông mường tượng ra cảnh 2.000 năm trước, ngôi mộ này có cả quân lính canh giữ để một vị “đại quan” nào đó được an giấc ngàn thu. Ngồn ngộn trong những căn phòng trong ngôi mộ Hán khổng lồ này là cổ vật, chủ yếu là vũ khí, đồ gốm và các vật dụng thời kỳ ấy. Chiếc quan tài còn đó, hình thù bộ xương của chủ nhân ngôi mộ này vẫn còn, nhưng động vào là mủn ra thành bột. Khi ngôi mộ Hán hiện ra giữa thanh thiên bạch nhật, có người khẳng định đó là một ngôi đền, có người cho rằng đó là cung điện. Họ suy luận, cách đây hàng thiên niên kỷ, người Việt chúng ta ở vùng đất này, chỉ sống trong những ngôi nhà tranh vách đất, chết được bó bởi những manh chiếu sờn, chứ lấy đâu ra một công trình huyệt mộ hoành tráng đến vậy. Hàng vạn người dân phát sốt vì tin nóng, từ khắp các miền tổ quốc nườm nượp đổ về xem mộ, quay phim, chụp ảnh suốt ngày đêm. Các nhà khoa học, các nhà báo thi nhau phán đoán theo ý riêng của mình, người thì bảo đây là lăng mộ thời Trần, người bảo là đền thờ thời Lý... Riêng ông Tăng Bá Hoành thì quá rõ ràng, bởi nó đúng là một ngôi mộ Hán, tức của quan lại người Hán. Ông biết, mảnh đất ông đang sống và dày công nghiên cứu mấy chục năm nay là nơi "đóng đô" của người Hán khi họ sang cai trị dân ta. Viên gạch cuối cùng và chữ có râu Sau một tháng khai quật ngày đêm, tận thu hiện vật, những viên gạch được bóc gỡ cẩn thận xếp lên xe chở về bảo tàng Hải Dương. Ông Hoành tính toán tỉ mẩn, thấy rằng, ngôi mộ này tốn kém đúng 45m3 gạch. Một điều kỳ diệu xảy ra. Khi viên gạch cuối cùng được nhấc lên do chính tay ông, ông sung sướng đến phát khóc, vì viên gạch đó có... chữ Hán, ghi niên đại xây ngôi mộ này. Ông Hoành dịch ngay mấy chữ như sau: "Vĩnh Kiến tứ niên thất nguyệt". Như vậy, ngôi mộ này được làm vào năm 129 sau Công nguyên. Sau này, GS sử học nổi tiếng Hà Văn Tấn cũng dịch lại với nội dung không khác gì. Trên viên gạch đó hiện vẫn còn 3 chữ không thể đọc được. Đây là chữ Hán cổ, có râu ria, hay còn gọi là chữ Lệ (chữ Hán gồm nhiều loại: Chân, Thảo, Triện, Lệ...), là loại chữ Hán khó đọc nhất. Ông Hoành đã nhờ rất nhiều GS, TS của Trung Quốc, Đài Loan, song cũng không ai đọc được 3 chữ này. (còn nữa)
-
Thứ Hai, 10/11/2008, 05:37 (GMT+7) Còn ai làm sách lá? TT - Có một loại sách mà những trang giấy chính là những chiếc lá, được gọi sách lá buông hay còn gọi là satar. Nhưng câu chuyện về việc chép kinh trên sách lá dường như đang dần khép lại...Hiện tất cả ngôi chùa Khơme đều có giữ sách lá, riêng chùa Xvayton ở thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang được Trung tâm sách kỷ lục VN xác lập kỷ lục “Ngôi chùa lưu giữ nhiều bộ kinh lá nhất VN” vào năm 2006 với số lượng lưu trữ hơn 100 bộ kinh lá. Trong đó rất nhiều bộ có tuổi đời trên thế kỷ nhưng vẫn còn nguyên không bị mối mọt, chữ viết nhìn vẫn còn sáng màu mực. Cách bảo quản hiện nay của các sư trong chùa Xvayton là dùng vải quấn lại từng bộ và lưu giữ trong tủ kính có chống ẩm. Sư cả chùa Xvayton cho biết: “Phần lớn số kinh lá này hòa thượng Chaoty viết từ năm 1963. Từ ngày vị sư này tạ thế, vùng Bảy Núi-An Giang chỉ còn duy nhất hòa thượng Châu Ty, chùa Prêyveng, biết làm loại satar này”. 10 năm đợi lá Hòa thượng Châu Ty, 62 tuổi (chùa Prêyveng, Tri Tôn, An Giang), kể: “Cây buông còn có tên slắt krúth giống như cây cọ, cây thốt nốt, lá dài 3m, bề rộng giữa lá 4m. Sở dĩ gọi là cây buông bởi khi muốn biến lá thành sách phải buộc lá lại, đợi đến một năm đủ ngày mới mở, tức buông giấy ra. Cây buông có nguồn gốc từ Campuchia do một vài nhà sư mang về, chủ yếu trồng để lấy lá làm sách, trồng tại một vài chùa Khơme ở An Giang, Bạc Liêu và Trà Vinh”. Cũng theo sư Châu Ty, một cây trồng 10 năm mới ra đọt. Khi đọt cây còn non, người ta lấy giấy buộc để sau này lá không bị cong, và cũng để lá có màu vàng nhạt rất bắt mắt. Nếu không buộc lại, lá sẽ có màu xanh, chữ hiện lên không đẹp. Buộc khoảng gần một năm, đốn xuống, tháo giấy ra rồi dùng ván ép lại thật chặt từng chiếc lá một, xong đem phơi nắng, đợi đến khi nào lá héo mới đem cắt đều thành từng khúc, sau khi đã bỏ xương lá, thường mỗi lá được 3- 4 khúc, mỗi khúc có chiều ngang 6cm, dài 60cm, tương ứng với một trang giấy. Công phu chữ viết Sư Châu Ty cũng cho biết thêm bút và cách viết cho loại sách này khá đặc biệt. Sư nói: “Dùng mũi sắt mài thật nhọn, hoặc dùng mũi kim làm ngòi bút, khắc từng chữ trên lá. Viết xong, lấy than đập dập ra thành bụi pha với dầu lửa, dầu chai, rồi lấy khăn vải nhúng vào hỗn hợp trên chùi lên chữ. Có người dùng muội đèn dầu lửa pha với dầu chai thoa lên rồi đem phơi, khi khô dùng dầu lửa chùi sẽ thấy chữ hiện rõ. Đơn giản là vậy nhưng việc viết chữ trên lá buông rất công phu, tỉ mỉ, sơ ý một chút là coi như tấm lá buông đó hỏng hoàn toàn”. Tuy nhiên sư Châu Ty cho rằng điều quan trọng là ở chữ viết: “Không giống như viết trên sách thông thường, chữ viết trên lá buông phải dùng chữ cổ xưa, có kích cỡ lớn hơn chữ thường nên mỗi lá kinh chỉ có thể ghi được năm hàng. Vì thế khi chép phải cân nhắc chọn lựa từng từ sao cho nghĩa súc tích, đầy đủ. Điều này đòi hỏi người viết phải uyên thâm chữ nghĩa. Trung bình mỗi ngày viết được 5-6 lá”. Thưa cây, thiếu người Theo sư cả chùa Xvayton: “Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, số người làm được loại satar khá nhiều, nhưng hiện ở ĐBSCL chỉ còn 2-3 người và đều ở tuổi trên dưới 60”. Hòa thượng Châu Ty lý giải: “Do kinh lá dùng chữ cổ nên hiện giờ ít sư nào viết được, với lại cây buông cũng rất khó trồng, từ năm 1990 ở An Giang không còn loại cây này. Vì thế muốn hướng dẫn cách làm cho thế hệ sau rất khó”. Trước đây ông từng ươm nhưng có lẽ do thổ nhưỡng không thích hợp nên không cây nào sống nổi. Hiện giờ để có lá buông viết phải cất công qua Campuchia mua về. Và cũng theo ông, loại cây này ở nước Campuchia cũng đang thưa dần. Riêng ĐBSCL cây buông chỉ còn vài cây ở một vài ngôi chùa tại Trà Vinh, Bạc Liêu. Hòa thượng Châu Ty bắt đầu viết kinh lá lúc 22 tuổi. Sư Châu Ty học với một sư cả, hiện số sách satar mà vị sư này viết được trên 200 cuốn. Sư Châu Ty tâm sự:“Tôi đang lên kế hoạch để truyền cách làm sách lá buông, trước hết người viết phải biết chữ cổ rồi sau đó sẽ chỉ dẫn cách làm sách. Tôi sẽ liên lạc với những chùa còn trồng được loại cây này như ở Trà Vinh tìm hiểu vì sao cây sống được, để tìm cách gây giống cây. Chứ để mai một dần, dẫn đến mất đi một loại hình truyền thống mà ông cha đã tạo ra thì rất có lỗi với tiền nhân”. Minh Tâm (tuoitreonline)
-
CÂU HỎI DÀNH CHO THƯỢNG ĐẾ . Ai cũng biết về câu chuyện Adam và Eva, cô gái được tạo ra từ chiếc xương sườn của đàn ông. Nhưng ít người biết rằng chiếc xương sườn đó nằm ở vị trí nào và tại sao thượng đế lại chọn vị trí ấy? Sau một lúc tìm kiếm thông tin trên Google tôi đã có kết quả: Thượng đế đã lấy chiếc xương cụt của Adam để tạo ra người phụ nữ xinh đẹp nhất ở mọi thời đại. Tại sao Ngài lại lấy chiếc xương sườn này mà không lấy chiếc xương sườn thứ 2, 3 hoặc thứ 4? Chắc tôi phải đi gặp thượng đế một phen mới hòng tìm ra câu trả lời. (Ngủ trưa một tí... Khò, khò, khò, khò...). Trong giấc ngủ chập chờn, tôi thấy mình đang bay lơ lửng trên mây, trên đầu tôi là một vầng sáng chói loà. Tôi chưa kịp định thần thì chợt một bản nhạc (có vẻ như được mix khá bài bản) với giai điệu lạ lẫm và ra vẻ huyền bí (thấy sợ) và theo sau đó là một âm vực rộng, trầm, đục... nhưng có lúc lại trong vắt như tiếng pha lê chạm vào nhau bất ngờ vọng đến tai tôi: "Chào sinh linh bé nhỏ, cho hỏi cậu đang làm gì ở nơi thượng đế đang trú ngụ?". Tôi giật nảy mình, ngó quanh quất, chẳng thấy ai. Vía tôi thầm nhủ: "Hay là mình nhảy đại từ mây xuống, ở đây ớn quá!". Nói là làm, tôi ngó lên trời lần cuối để quan sát rồi nhảy cũng không muộn. Híc!Mắt tôi chạm phải mắt của một ông già tóc trắng, râu trắng, mũi cao (có quặp một ít), hai lỗ tai có hình tam giác cân. Ông đang bay lơ lửng trên đầu tôi. Hèn gì nãy giờ tìm hoài mà chẳng thấy. Ông cho biết ông là người hầu cận thân tín nhất của thượng đế, tên ông là "Cứ Nhìn Lên Là Thấy". Ông bảo cái tên này tựa như ID trong Yahoo vậy, còn tên thật của ông thì chỉ có mỗi Thượng Đế biết và gọi thôi. Hix, thì tôi tạm biết tên ông như vậy. Tôi mạnh dạn hỏi ông một câu: "Con có thể gặp Thượng Đế không vậy?". "Gặp để làm gì?"- Mắt của ông "Cứ Nhìn Lên Là Thấy" cau lại. Dạ, con muốn hỏi Ngài vài câu, mấy câu này chỉ lấy của Ngài ấy 10-15 phút thôi, vì con biết thời gian đối với Thượng Đế là quí hơn cả nhiều sinh linh như con cộng lại. Nghe êm tai, ông cận thần của Thượng Đế dắt tôi bay qua 8,49999999 (gần 8,5) tầng mây nữa mới đến cổng của Thiên Đường. Gặp Thượng Đế, tôi cung kính quì chào. Ngài trông uy nghiêm với đôi mắt quắt sáng như soi thấu tận tâm hồn của một sinh linh bé nhỏ như tôi. Ngón tay Ngài dài và gầy, hẳn những ngón tay này từng giây, từng phút và từng khoảnh khắc mây bay đã và đang bôn ba cho toàn nhân loại con người. Và cũng chính những ngón tay này đã tạo nên một Eva lưu tiếng cho hậu nhân. Tôi mạnh dạn mở đầu câu chuyện. - Con thưa Ngài, Ngài có thể bó ít thời để nghe vài lời của con không ạ?. -Hôm nay ta rất sảng khoái, con muốn hỏi gì cứ mạnh dạn, ta không bắt tội. - Tại sao Ngài lại lấy chiếc xương sườn cụt của cụ tổ Adam để nặn ra cụ tổ bà Eva mà lại không lấy một trong những chiếc xương sườn còn lại? - Đầu tiên ta xin nói cho con biết thế này, Thượng Đế dịu dàng như thể là cha ruột của tôi vậy (Mà cũng đúng, Ngài là cha của muôn loài mà). Đó không phải là ý của ta, mà là ý của Adam. Chính Adam đã đề nghị ta nên lấy chiếc xương sườn cụt (thật ra trước đó nó không cụt) để làm ra người vợ của chàng. - Tại sao Adam lại có suy nghĩ như thế nhỉ? - Ta cũng đã từng thắc mắc và đã nhận câu trả lời của chàng: "Thưa Ngài, theo lời Ngài nói thì mỗi chiếc xương sườn của con đều có thể tạo ra một người phụ nữ. Vậy là con có thể nhờ Ngài tạo ra hai người phụ nữ từ hai chiếc xương sườn khác nhau. Nhưng con đã không làm vậy, con muốn người phụ nữ mà Ngài tạo ra cho con là người phụ nữ đầu tiên cũng là cuối cùng. Và con muốn Ngài sử dụng chiếc xương cuối cùng này để chứng minh rằng sẽ không bao giờ có người phụ nữ thứ hai xuất hiện trong cuộc đời con". - Vậy con đã hiểu phần nào, Adam luôn muốn chung thuỷ với người phụ nữ của mình. Nhưng con chưa hiểu thấu "Tại sao Ngài lại không lấy hết chiếc xương sườn kia để nặn ra cụ tổ bà?". - Àh, Cái đó là ý của ta, ta tặng cho Adam một đặc ân để có thể nhờ ta bất cứ lúc nào biết 1/2 chiếc xương sườn sót lại thành một phụ nữ khác nếu Eva bỏ đi. Nhưng ta đã chờ cả mấy triệu năm rồi mà chẳng thấy Adam đòi hỏi gì cả. Hẳn là họ đã có một cuộc sống hạnh phúc, dù khó khăn hay gian khổ vẫn bên nhau mãi mãi. Người phụ nữ của Adam quả là tuyệt vời. - Hèn gì con cháu Adam tụi con vẫn còn mang mãi chiếc xương sườn cuối cùng cụt ngủn. Chiếc xương sườn chung thuỷ muôn năm. Tôi giật mình tỉnh giấc trưa. Đưa tay phải quệt vệt mồ hôi đang rịn ra trên trán. Tiện thể tôi lấy tay trái sờ xem chiếc sương xườn cùn của mình. NGUYÊN HOÀNG (mực tím )
-
Phần trên Rin86 nói : Xem như 99% là vô vọng ! Nhưng câu hỏi lại là : Tại sao mình lại được đi Anh? Câu hỏi này đã mang tính khẳng định, mình được đi Anh. Ra quẻ Hưu vô vong, Wild luận : Khi đặt câu hỏi Rin đã lấy 1% hy vọng để hỏi . Như vậy có nghĩa 1% này của Rin sẽ chấm dứt sự chờ đợi hy vọng . Nếu như bạn hỏi tại sao mình KHÔNG được đi Anh? May ra .....khẩu linh của câu hỏi lật ngược tình thế ! vài hàng luận bàn .
-
Nghiệp chướng nhân quả thời nay thật nhãn tiền. Câu chuyện này tôi được chứng kiến thời thiếu niên, gia đình tôi sống trong một khu lao động ở Quận ven. Nhà nhà san sát nhau, nhà này thấu chuyện nhà kia, mà chẳng cần bước qua đã ới ới thăm hỏi nhau như một nhà. Vì thế có đi hết ngõ cũng chưa nấu xong nồi cơm bát canh. Xéo nhà tôi có một gia đình đông con, thời đấy 4,5 con chưa gọi là đông mà gia đình này được xem là đông con vì tôi không nhớ hết, dù biết Chị Gái, Anh trai, anh Ví, Chị Dù đều là con của bác ba Đen, do da bác và cả bác Gái đều đen nhẻm, và tất nhiên một lũ con cũng đứa màu da quạ, da dơi cả. Ai ai cũng biết bác ba Đen chuyên ăn thịt chó, quanh năm không bắt chó đi lạc, cũng thịt chó bệnh của hàng xóm để cả gia đình ăn. hôm nào vật vả lắm cũng ra quán cầy tơ mua cho mình bác đĩa dồi và xị rượu trắng, bác cứ thế nhâm nhi suốt buổi. Hình ảnh sống của gia đình bác luôn là nổi ám ảnh của tôi vì bác luôn đập đầu Chó trong một bao tải và thui rơm um khói cả xóm. Cho đến một ngày văng vắng Bác, nghe đâu bác ốm không dậy nổi. Cả xóm vận động Bác đi nhà thương thí (ngày xưa nhà thương không phải đóng tiền thường gọi thế) Cơm cháo mỗi ngày được các con bác xin từ những láng giềng quen đùm bọc nhau đem vào nuôi bác. và nghe đâu bác chẳng ăn gì từ những gà mên cơm tình nghĩa đó, bác vẫn thèm thịt chó ! Thế là những ông bợm cùng chiếu với bác cũng góp tiền mua cho bác một tí thịt cầy + lá mơ len lén đem vào tận giường đút cho Bác, Nhưng oái oăm thay ! Thèm là thế mà có ăn được đâu ! Mắt cứ long lên nhìn rồi chảy dãi dù đưa vào mồm vẫn lắc đầu. Ngày qua tháng lại chả tìm ra bệnh, người cứ quắt queo, mà lạ hơn nữa là bác không nằm chỉ ngồi mà không tựa lưng vào thành giường, chỉ ngồi chổm chống tay thở dốc như người bệnh suyển. Ngán ngẩm kiểu nuôi bệnh mà không tìm ra bệnh, bác gái quyết đưa về để nhỡ có bề gì thì mất tại nhà còn nhìn mặt các con. Những ngày ở nhà tôi lại có dịp tận mắt trông thấy biểu hiện và tư thế của bác trong những ngày đau đớn cuối đời. Ngày Bác ngồi tư thế 2 tay chống đất, tối chảy dãi ở miệng và tru những tiếng dài nghe rợn người. Sau có vị Hòa thượng gần đó đã đến gia đình đọc kinh giải nghiệp cho Bác vì một lẽ bác đã sát sinh quá nhiều. Có dấu hiệu giảm tiếng tru trong đêm, nhưng bác vẫn không đổi tư thế ngồi (dù là ngồi đât). Cho đến một ngày Vị Hòa thượng yêu cầu các con đông đủ để gặp Thầy, Việc trước tiên tìm cho thầy 5 con chó với 5 màu lông khác nhau. Đem về tắm rửa, chăm bẳm nâng niu, lấy vải dầy lót cho chúng ngồi, đút cho chúng ăn, nấu sữa cho uống, mua ngũ vị về xông nhà trong 3 ngày, Trong khi đó lời kinh tụng niệm của thầy vang đều cho 3 ngày. Bác Ba Đen từ từ gập ngừoi lại và ngã vật ra thở hắt xuôi tay . Xong một kiếp người , nghiệp chướng oan gia. Thầy đã ra tay cứu độ để giải thoát . Tôi chỉ tổng hợp từ người lớn kể lại với một phần trí nhớ của tuổi thơ. Có lẽ từ câu chuyện này tôi chẳng bao giờ muốn nếm thử món thịt chó dù có câu : Sống trên đời này không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?
-
Chủ Nhật, 09/11/2008, 00:01 (GMT+7) Chống tham nhũng - “Tam giác thần kỳ” TTCT - 1.500 người, cả thường dân lẫn viên chức chính phủ tề tựu tại thủ đô Hi Lạp suốt bốn ngày chỉ để nói với nhau và cho nhau: “Tham nhũng là gì ở chỗ tôi, và có thể làm gì để chống lại tham nhũng?”. Tham nhũng có thể là, trong bối cảnh toàn cầu hóa, một trong những cái được “toàn cầu hóa” nhanh chóng nhất qua những hành vi như chuyển tiền từ trong nước ra nước ngoài đến những “thiên đàng thuế vụ”, nơi mà bất kỳ ai cũng có thể mở tài khoản gửi tiền. Tất nhiên là đồng tiền bẩn rồi! Chỉ cần vài thao tác bàn phím là tiền tỉ ung dung ra đi. Tham nhũng cũng vẫn còn đó dưới dạng “cổ lỗ sĩ” của những rào cản dựng lên, nhân danh một quy định nào đó, mà mục đích là... moi tiền của dân chúng; vẫn còn nhân danh phát triển và tăng trưởng để biến tài nguyên quốc gia thành cơ hội trục lợi cho cá nhân. Chính vì thế, chủ đề của Hội nghị quốc tế chống tham nhũng (IACC) lần thứ 13 này là “Minh bạch toàn cầu: chống tham nhũng vì một tương lai bền vững”. Phương trình tham nhũng là gì? Có một công thức mà tại hội nghị được nhiều lần nhắc đến như một quy luật phổ quát: C=M+D-A C: Corruption - tham nhũng. M: Monopoly - độc quyền (quyền lực, luật lệ, kinh doanh, tài chính...) D: Discretion - sự che chắn kín đáo của các quan chức. A: Accountability - trách nhiệm giải trình Tham nhũng xảy ra khi hoạt động của xã hội mang tính độc quyền, lại được che chắn kín đáo, nên cứ tha hồ “làm ăn” mà chẳng cần giải thích với ai. Từ góc nhìn này, mọi hoạt động của các công ty đều phải được công khai hóa. Điều này có thể thấy qua các bản cáo bạch cho cổ đông (không còn xa lạ gì lắm ở VN). Trong các xã hội ấy chủ yếu là các công ty tư, tất nhiên, huống hồ là các công ty nhà nước! Từ góc nhìn đó, có thể thấy việc công chúng chẳng được hay biết gì về giá thành của xăng dầu, điện, nước, điện thoại... chính là một bức màn bí mật không thể tồn tại mãi. Khi không ai được biết các công ty ấy “làm ăn” như thế nào, khi tất cả đều là “mật” thì không có chỗ cho sự công khai, minh bạch và chính đó là “đất đai màu mỡ” cho tham nhũng hoành hành. Công khai và giải trình (thay vì che chắn và “vô tư” khỏi phải giải trình) chính là điều kiện cơ bản cho việc phòng chống tham nhũng. Thế còn độc quyền là gì? Trả lời câu hỏi đó cũng chính là trả lời câu hỏi: “Chống tham nhũng là việc của ai?”. IACC, với 25 năm hoạt động như là một hội nghị toàn cầu của những thường dân, là một điển hình cho khái niệm chống tham nhũng là việc của cả xã hội chứ không chỉ của các cơ quan nhà nước. Từ lâu rồi, khi hoạt động của các nền kinh tế (thị trường) là của tư nhân thì các nhà nước không còn vai trò “làm ra của cải” qua các “công ty nhà nước” nữa. Cái gọi là cổ phần hóa ở đây ở kia chính là để đưa nhà nước ra khỏi vị trí “vừa đá bóng vừa thổi còi” và chỉ giữ vai trò “thổi còi” thôi. Từ đó, giới tư nhân đóng vai trò “làm ra của cải” bằng chính đồng vốn của họ bỏ ra. Của đau con xót, họ luôn tự bảo vệ tài sản của mình trước những động thái “thổi còi” của nhà nước. Do các nhà nước tồn tại bằng tiền thuế của người dân và tiền thu từ việc bán hay cho thuê các tài nguyên quốc gia cho các tập đoàn nước ngoài khai thác, tỉ như mỏ dầu, đất đai, bãi biển..., nên giới chủ nhân ở các nước ấy chính là đối tác đối thoại với nhà nước, để kỳ kèo thêm bớt một hai những lợi ích của mình. Ở các nền kinh tế thị trường 100%, còn gọi là tư bản, như sách vở đã nêu, nhà nước chỉ là công cụ của giới tư nhân, nếu không được việc, kỳ sau không bầu cho nữa... Thế nhưng, nếu chỉ có nhà nước và giới (chủ) tư nhân nói chuyện với nhau thì sẽ dẫn đến thỏa hiệp, cấu kết khai thác tài nguyên đất nước, và dân chúng, kẻ vắng mặt, là nạn nhân của sự toa rập này. Bởi thế mới có thêm một vai trò thứ ba gọi là xã hội dân sự, mà theo lời thẩm phán Barry O’Keefe, là không do nhà nước dựng ra, để “thổi còi” cả hai phía nhà nước và chủ nhân. Đại diện các tổ chức chống tham nhũng ở châu Phi - một khu vực luôn được xem là bán đất đai, bán mỏ... tham nhũng bậc nhất - ngày càng trở nên sôi nổi hơn trong vai trò “thổi còi” của mình. Đó đây đã có những thành quả ban đầu trong việc quản lý tài nguyên địa phương, như Phyllis Muema của Kenya với các dự án giám sát tài nguyên nước. Những chuyển động tích cực này không chỉ ở châu Phi. Tiến sĩ Vugar Bayramov đến từ Azerbaijan, một nước mà 20 năm trước còn là kinh tế chỉ huy, cũng thuật lại bối cảnh “nhà giàu mới” nở rộ ở đất nước dầu hỏa này, và quá trình “thổi còi” buộc công ty dầu hỏa nước này phải công khai tài chính như thế nào, rốt cuộc là phải “ói ra” 555 triệu USD bốc hơi từ ngân sách... Thế nhưng, không phải lúc nào xã hội dân sự cũng “thổi còi” được. Một trong những đại diện Philippines là bà Evita Jimenez của Tổ chức “Center for People Empowerment in Governance” nêu vấn đề: tại sao các tổ chức quốc tế lại cứ thích “làm việc” với các cơ quan nhà nước để rồi tất cả những thuyết phục “sạch sẽ giùm đi” trở thành công cốc? Thực tế đáng buồn này cũng được Adrian Fozzard của Tổ chức StAR, một tổ chức chuyên tìm cách thu hồi tài sản quốc gia bị đánh cắp, mô tả như sau: “Một số chính phủ bảo với tôi: Hãy giúp chúng tôi chống tham nhũng! Thế nhưng, tôi không hiểu họ có thật sự muốn chống hay không!”. Do lẽ hằng năm có đến 40 tỉ USD công quỹ các nước đang phát triển bị “ăn cắp” và tẩu tán ra nước ngoài. Để dân được nói Thông cáo chung của hội nghị đã nhấn mạnh: để bớt tham nhũng, phải bớt cơ hội phát sinh tham nhũng. Cơ bản là để cho người dân có đươc cơ hội cất lên tiếng nói của mình. Nếu người dân không nói lên được ý kiến của mình, ai muốn làm gì cũng được. Mặt khác, không thể cứ tiếp tục ngần ngại xử lý hình sự đối với tội phạm tham nhũng. Không thể chỉ kêu gọi đạo đức suông do lẽ khó có thể quy chuẩn đạo đức một cách cụ thể, trong khi đó với luật pháp, có thể rạch ròi phân biệt điều gì cấm hay không cấm. Thành ra xây dựng một văn hóa liêm chính cũng chính là xây dựng một văn hóa (tuân thủ) pháp lý. Danh Đức (tuoitre cuối tuần)
-
TTCT - Ông chủ mỏ lái chiếc xe ngựa quý mới thay bóng lộn của mình đi hóng mát trên quốc lộ, đến gần thị trấn huyện thì bị chặn lại trước barie của một trạm thu phí khai trương ngày đầu tiên. Cô gái có khuôn mặt non choẹt thò đầu ra khỏi cửa sổ thu phí yêu cầu ông nộp mười đồng lộ phí.Ông chủ mỏ là một nhà tỉ phú, giàu nhất huyện này, mười đồng đối với ông không là gì. Nhưng trước kia khi xe con của ông đi qua các trạm thu phí khác trong huyện đều được miễn thu phí. Đặt barie thu lệ phí trên quốc lộ thường bị người ta mắng nhiếc, bòn rút của dân, nuôi béo nhà quan, nhưng ông lại rất có cảm tình đối với việc này: trong khi các xe khác bị chặn lại thu phí, xe của mình cứ việc ung dung đi qua, ông cảm thấy tự hào khó tả. Còn hôm nay xe của ông cũng bị chặn nên ông không muốn bỏ ra mười đồng. - Cô không biết ta là ai thì cũng nên nhận ra xe của ta chứ? Từ nông thôn xa xôi cô gái mới được tuyển vào, lần đầu tiên đi làm không biết ông là ai, cũng không nhận ra xe của ông, chỉ biết nghiêm chỉnh chấp hành quy chế của trạm và chỉ thị của cấp trên: - Lãnh đạo của chúng cháu nói chỉ trừ xe con của lãnh đạo huyện... Thực tình ông không coi trọng mười đồng bạc nhỏ nhoi, ông vốn đã móc túi lấy tiền, nhưng nghe cô gái nói thế, ông lại bỏ tiền vào. - Lãnh đạo huyện không trả tiền, tại sao bắt ta phải trả? - Đây là quy định của trạm thu phí, thưa ông! - Quy định ư? - mép ông nhếch sang một bên khinh miệt - Cô nên biết toàn bộ số người ăn lương nhà nước của huyện này, mỗi năm có đến sáu tháng do ta nuôi sống họ! Tiền thuế ông giao nộp cho nhà nước hầu như chiếm một nửa số tiền thuế của huyện nghèo rớt mồng tơi cấp nhà nước này. Do đó ông có tư cách tỏ ra vênh váo nói như vậy. Cô gái nghe không hiểu, vẫn cố tình không cho qua lại còn đem văn bản đóng dấu đỏ chót ra giải thích. Ông chủ mỏ chả thèm nghe, rút ra tờ một trăm đồng đưa cho cô, bình thản nói: - Trả lại tiền thừa. Trả lại tiền thừa là chuyện đương nhiên, cô gái hiểu. Sau khi trả lại tiền thừa, sự việc coi như chấm dứt. Nhưng ông chủ mỏ cứ ấm ức trong lòng. Hơn 20 năm trước, ông vẫn còn là thứ cặn bã xã hội sống qua ngày bằng cách ăn cắp chó, bắt trộm gà, thuận theo “khí hậu” với thủ đoạn hãm hại lừa gạt. Bây giờ ông chủ mỏ không chỉ là một “tài chủ địa phương” giàu nứt vách mà còn là tổng giám đốc xí nghiệp lớn nhất huyện, trên đầu đội toàn những chiếc “mũ đỏ” đếm không xuể, như “ủy viên”, “đại diện”, “ban chấp hành”..., hay nói một cách khác đã trở thành một nhân vật mà ngay đến ông chủ tịch huyện nhìn thấy cũng phải vồn vã chào hỏi là người anh em. Do đó, ông chủ mỏ cho rằng qua trạm có thu phí hay không hoàn toàn không phải chuyện tiền nong mà là vấn đề thân phận, vấn đề địa vị xã hội, con người thuộc tầng lớp nào của xã hội. Chặn đường thu phí là sự khinh bỉ và coi thường đối với địa vị của mình, là một thứ nhục mạ và bức hại tinh thần. Nếu lúc đó ông gọi điện thoại cho chủ tịch huyện, trạm thu phí sẽ miễn phí cho xe qua ngay, không có chuyện gì. Nhưng ông chủ mỏ không làm như thế. Đối với ông, há mồm xin xỏ người khác đã trở thành “lịch sử” từ lâu. Kẻ cầu xin và người được cầu xin đã thay đổi vị trí từ bao giở bao giờ. Ông phải dùng một phương thức khác, chứng tỏ tài năng quát gió gọi mưa và bản lĩnh nghiêng sông dốc biển của mình, nhằm ra oai và củng cố địa vị xã hội để bù lại “sự tổn thất tinh thần”. Ông chủ mỏ lái một vòng hóng gió rồi lại trở về trạm thu phí, liếc mắt hỏi: - Còn thu tiền nữa không? Cô gái vẫn tươi cười đáp: - Cảm ơn sự hợp tác của ông, vẫn là mười đồng, thưa ông! Ông chủ mỏ lại móc ra tờ một trăm đồng đưa trả, vẫn bình thản nói: - Trả lại tiền. Nhận xong tiền thừa, ông chủ mỏ lái chiếc xe ngựa quý ra khỏi trạm thu phí, dùng điện thoại di động gọi cho chánh văn phòng mỏ: - Ra lệnh cho tất cả các loại xe ngừng vận chuyển bình thường, lái đến trạm thu phí quốc lộ, cứ mười phút đi về một lần, qua lại như con thoi. Tiền chi qua trạm do các lái xe lên phòng tài vụ mỏ tạm ứng, sau về thanh toán một thể. Ông đặc biệt nhấn mạnh: - Tiền tạm ứng qua trạm thu phí dứt khoát đều phải là loại tiền có mệnh giá một trăm đồng! Trong chốc lát, gần một trăm xe con xe tải của mỏ ầm ầm kéo qua trạm thu phí như mắc cửi. Lái xe nào cũng đưa tiền to một trăm đồng bắt trả lại. Trạm thu phí lập tức bị dồn vào thế không có tiền lẻ. Không có tiền lẻ trả lại, xe buộc phải ùn tắc tại chỗ, nhoáng một cái tắc đường những mười mấy kilômet. Thế là một tuyến quốc lộ bằng phẳng thênh thang bị tê liệt, một huyết quản của cả nước đã bị “tắc động mạch”. Cách trạm thu phí không xa có một ao cá, ông chủ mỏ và một lũ nhân viên dưới quyền hiện đang ngồi câu cá, cười nói rôm rả... Sau chuyện này, ông chủ tịch huyện đã thân chinh đến tận nơi xin lỗi chủ mỏ, trả lại toàn bộ số tiền đã thu của ông chủ mỏ và cánh lái xe chi trả hôm đó. Ông chủ tịch huyện vừa cười vừa nói đùa: - Tôi chẳng đào đâu ra tiền lẻ để trả lại người anh em! Cô gái của trạm thu phí bị thanh lý hợp đồng trở về nhà quê làm ruộng. Từ đó trở đi, chiếc xe ngựa quý của ông chủ mỏ cứ việc ung dung phóng như bay trên quốc lộ, không hề bị ách tắc. VŨ CÔNG HOAN dịch (Theo Vi hình tiểu thuyết tuyển san, Trung Quốc)
-
Giải mã cây cầu chó thường nhảy tự tử ở Anh Cầu Overtoun (Ảnh: Mymultiplesclerosis). (Dân trí) - Cầu Overtoun gần thị trấn Dumbarton, phía tây của Scotland từ lâu được người dân biết đến với tên gọi “cây cầu tự tử của chó”. Kể từ những năm 1950 đã có hơn 50 con chó chết do nhảy cầu, đều không rõ nguyên nhân, khiến những người nuôi chó vô cùng sợ hãi. Hầu hết những con chó đã sang thế giới bên kia thuộc giống chó mõm dài. Chuyện chó tự tử xảy ra ở tất cả các mùa nhưng một điều dễ nhận thấy là thường vào những ngày trời quang đãng - điều hiếm thấy ở Scotland vì kiểu thời tiết điển hình ở đây là ẩm ướt và xám xịt. Tất cả những con chó đều nhảy từ một bên cầu. Dân tình đồn đại rằng đây là nơi thường diễn ra những hành động mờ ám, thảm kịch và mê tín. Trước đây đã từng có một người đàn ông ném con qua cầu vì ông ta tin rằng đứa trẻ thuộc về quỷ dữ. Trong vài năm gần đây, con số chó chết do nhảy cầu tăng vọt với 5 con trong 6 tháng. Sự việc kỳ lạ này tiếp tục thu hút sự quan tâm của báo giới, khiến người ta tin rằng những con chó này biết tự tử. Tòa nhà Overtoun Tòa nhà Overtoun và khu vực xung quanh, trong đó có cầu Overtoun, từ lâu đã nổi tiếng là nơi diễn ra những hiện tượng không thể giải thích nổi. Trong thần thoại Hy Lạp, Overtoun được biết đến là một nơi “mỏng manh”, nơi thiên đường và trái đất rất gần nhau. Một số người nói rằng những con chó nhạy cảm bị một thế lực nào đó ngụ tại cây cầu “ám”. Nhiều người cho rằng loài chó có thể không cảm nhận được năng lực siêu nhiên nhưng giả thuyết chúng có giác quan thứ 6 không phải quá khó tin. Nhà sinh vật học, tiến sĩ Rupert Sheldrake, đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu về khả năng siêu nhiên của loài chó, vốn vẫn là điều bí ẩn với khoa học. Thí nghiệm nổi tiếng nhất của ông đã được một đội làm phim người Úc ghi lại. Trong thí nghiệm này, người ta cho một camera quay con chó tại nhà, một camera khác theo chủ của nó. Những chiếc máy quay này được đồng bộ hóa vì vậy mã thời gian trên 2 máy là như nhau. Cô chủ của con chó được yêu câu quay trở về nhà tại một thời điểm ngẫu nhiên. Cô gái sẽ đi về nhà bằng taxi để tránh gây ra những âm thanh của ô tô mà con chó đã quen. Khi cô gái bắt đầu lên taxi, con chó đang nằm lặng lẽ ở góc nhà, ngay lập tức đứng dậy và chạy đến ngồi cạnh cửa sổ, nó ngồi đó trong vòng 15 phút đúng bằng quãng thời gian cô chủ đi taxi về nhà.Đây dường như là một phản xạ thần giao cách cảm, hay nói cách khác là giác quan thứ 6. Chó có thể cảm nhận được cảm xúc của chủ nên đã hình thành các rối loạn bệnh tâm căn (neurosis) như lo âu, ám ảnh, phân ly… Phải chăng chúng đã phản ứng với chứng trầm cảm của con người khi đang đứng tại cây cầu nên đã tự tử? Câu trả lời là không, dù chúng có thể bị trầm cảm nhưng sự khác nhau giữa não của con người và loài chó là sự ý thức được tương lai. Loài chó không ý thức được tương lai. Do đó, nếu những con chó không thực sự tự tử, nguyên nhân gì khiến chúng kết liễu cuộc đời mình tại cầu Overtoun? Loài chó có thể nghe được rất nhiều âm thanh mà con người không thể nghe. Vì vậy một đội bao gồm các chuyên gia âm học đến từ Glasgow đã chế tạo ra một thiết bị tinh vi để ghi lại tất cả những âm thanh lạ. Tuy vậy họ đã không tìm được điều gì bất thường. Chồn vizon Theo David Sexton, tác giả của cuốn sách Động vật Hoang dã Scotland, hiện có 3 loài động vật chính đang sống trong khu vực: chuột, sóc và chồn vizon. David Sands, nhà tâm lý học chuyên nghiên cứu về loài chó đã thực hiện một thí nghiệm nhằm kiểm chứng xem mùi hương của loài nào kích thích chó nhất. Kết quả cho thấy, 7 trong số 10 con chó tiến thẳng tới nơi có mùi chồn vizon. Chồn vizon không phải là động vật bản xứ của Anh, chúng không bị các con khác ăn thịt và tỏa ra mùi thơm rất mạnh. Chồn vizon du nhập vào Anh từ những năm 1920 nhưng mãi cho đến những năm 50, chúng mới được nhân giống rộng rãi. Tại sao là Overtoun chứ không phải những cây cầu khác? Hình ảnh cầu Overtoun từ tầm nhìn của chó. Cầu Overtoun bắc qua một thung lũng sâu. Lan can của cầu dày 20 cm và độ sâu từ cầu tới đáy thung lũng là 15m. Để hiểu được đặc điểm độc nhất vô nhị của cây cầu, ta cần xem xét nó từ tầm nhìn của chó. Từ một vị trí trên cầu, tất cả các con chó sẽ nhìn thấy những bức tường đá (lan can), và nếu nó bị mùi của chồn vizon kích thích, bản năng tò mò sẽ thúc giục nó phải đi điều tra. Khứu giác của loài chó sẽ mách bảo chúng rằng mùi vị tuyệt vời phát ra từ phía bên kia lan can, vì vậy nếu quá hưng phấn, con chó sẽ nhảy qua lan can để kiếm tìm và kết cục như thế nào thì có lẽ ai cũng đoán ra. Vậy là người ta đã giải mã được nguyên nhân chó thường chết tại cầu Overtoun. Đàm Loan Theo Mymultiplesclerosis
-
Nếu HC có sự tín nhiệm Wild cũng thay mặt Trung tâm cố gắng chuyển đến người cần giúp ! Thế mới biết người cho và người nhận cũng có nhân duyên hay không nữa. Như một lần Anh Thiên Sứ đã trò chuyện với Wild ! Ví như : Mình có tâm nguyện tặng 1 cái hòm cho người chết không có hòm, nhưng em cứ chờ xem bao giờ gặp trường hợp không có hòm để tặng, còn tùy phước duyên của em có không để thực hiện đựoc tâm nguyện đó ! Anh đã có lý khi đưa ra ví dụ này .
-
Vòng luân hồi: Những bí ẩn khoa họcThứ ba, 4/11/2008, 12:05 GMT+7 Thế giới luôn ẩn chứa vô vàn những điều kỳ bí mà con người không thể giải thích nổi. Cho đến tận bây giờ khoa học vẫn chưa có lời giải thích chính xác nào về cuộc sống và cái chết của con người. Về có hay không linh hồn, có kiếp luân hồi hay sự đầu thai thật không?... Luân hồi Theo quan điểm của nhiều người, cuộc sống chưa kết thúc khi con người qua đời, mà linh hồn sau khi thể xác chết đã đầu thai trở lại một kiếp sống khác theo bánh xe luân hồi, cứ mãi như thế cho đến khi nó đi được đến cõi Niết Bàn. Cuộc sống của con người trên trần thế thực ra chỉ là một "kiếp", thân xác chỉ là nơi cư trú của linh hồn mà thôi. Điểm chú ý là không phải chỉ có đạo Phật mới có thuyết luân hồi và ý niệm về sự đầu thai, trong nhiều tôn giáo khác cũng tồn tại điều này tuy ở những dạng khác nhau. Ý niệm về sự luân hồi xuất hiện trong đạo Hồi, trong quan điểm của người Hi Lạp cổ đại, hay một số vùng miền trên thế giới. Tại các quốc gia phương Tây, các nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều thời gian và công sức nhằm tìm ra lời giải đáp cho hiện tượng này, nhưng vẫn chưa thể đưa ra lời giải thích cuối cùng. Kiếp trước bạn là ai? - (Ảnh minh họa) Có thể thấy tiêu biểu nhất cho sự đầu thai và kiếp luân hồi chính là việc chọn Đại la Lạt Ma hay Ban thiên Lạt Ma. Người ta thường chọn người kế nhiệm vị trí này thông qua việc tìm kiếm đứa trẻ nào sinh ra đúng vào thời điểm những nhân vật này chết đi, và bằng những dấu hiệu và kiến thức đặc biệt để xác định xem đứa trẻ đó có phải do chính người đã mất đầu thai vào không. Người ta cũng tin rằng có một sợi dây vô hình như gắn chặt giữa hai số kiếp đó lại với nhau. Khó có thể giải thích nổi tại sao những người ở "kiếp sau" lại có cách cư xử thói quen, và biết cả những bí mật của những người ở "kiếp trước". Mặc dù một số người cho là một số sự kiện nhớ lại kiếp sống trước đã được ghi chép lại và thử nghiệm một cách khoa học, khoa học chưa chính thức chấp nhận đầu thai như là một hiện tượng chứng minh được. Bí ẩn chưa có lời giải Ngày 29/4/2005, vợ chồng anh Chaudhary sống tại Ahmedabad (Ấn Độ) đã vô cùng đau xót khi đứa con trai 13 tuổi tên là Rakesh bị tai nạn xe máy và mất 5 ngày sau đó. Vài giờ trước khi Rakesh qua đời, vợ anh Chaudhary là cô Minaben bắt đầu có ảo giác, cô nói với chồng là Rakesh về nhà và muốn tạm biệt mẹ và hứa sẽ quay lại. Một năm sau đó, vào ngày 22/4/2006, cô Minaben sinh hạ một bé trai và đặt tên con là Rakesh. Rakesh và người anh đã mất giống nhau như đúc, và có cách cư xử giống hệt nhau. Điểm đặc biệt hơn là cậu biết tất cả những chỗ anh trai mình để đồ chơi, nhận ra những người họ hàng chưa bao giờ gặp. Không chỉ có vậy, khi được đưa về quê của anh Chuadhary ở Palanpur, cậu bé cũng biết luôn tên của người chị họ Anila mới gặp lần đầu, cô bé này vốn ngày xưa là bạn thân của người anh trai đã mất của cậu. Rakesh cũng rủ cô bé chạy ra cái cây nơi 2 người thường chơi với nhau ngày xưa. Trường hợp của Rakesh không phải là trường hợp duy nhất, cô bé Samlini Permac sinh năm 1962 ở Colombo, Sri Lanka vô cùng sợ nước và ô tô. Mỗi lần phải tắm cô đều la khóc dữ dội. Cô bé sau đó kể lại quãng đời "kiếp trước" của mình, khi đi mua bánh mì vào thời điểm phố xá ngập lụt, bỗng có một chiếc xe buýt đi sát bên cạnh đã hất em xuống nước. Em chỉ kịp giơ tay lên cầu cứu và hét lên "Mẹ ơi" rồi chìm hẳn vào giấc ngủ. Gia đình của cô bé rất bất ngờ và họ bắt đầu tìm hiểu thêm về những vụ việc tương tự như thế đã từng xảy ra ở đâu, và sau một thời gian hai người biết được câu chuyện một cô bé 11 tuổi từng chết đuối trong hoàn cảnh như thế, tất nhiên là từ khi Samlini chưa ra đời. [ Bí ẩn trí nhớ về kiếp trước - (Ảnh minh họa) Một sự việc nữa cũng khiến khoa học đau đầu, đó là sự việc diễn ra tại làng Nathul, phía Bắc Miến Điện. Cô gái M Tin Aung Myo sinh ngày 26 tháng 12 năm 1953 trong một gia đình có 3 chị em gái. Ngay từ nhỏ, cô bé luôn tỏ ra mình là con trai, và luôn miệng nói rằng mình là người lính Nhật đã bị quân đồng minh bắn chết cách ngôi nhà của cha mẹ cô bé gần 100m. Cô bé rất sợ máy bay, nhất định không chịu mặc đồ con gái, nói tiếng Miến Điện rất khó khăn, thích ăn và nấu các món ăn theo khẩu vị của Nhật, và cô luôn tỏ ra buồn bã vì nhớ quê hương Nhật Bản của mình. Ma Tin Aung Myo cho biết gia đình "kiếp trước" của cô ở miền Bắc nước Nhật, trước khi nhập ngũ, "cô" là chủ một cửa hiệu nhỏ nhưng khi vào lính thì làm đầu bếp. Nhưng cô bé không nhớ một tên tuổi hay địa danh nào cả và cũng không chịu kết hôn, bởi theo cô, cô là một người đàn ông và chỉ kết hôn với phụ nữ mà thôi. Chaokun Radzh-sutadzharn, sinh ngày 12/10/1908 ở miền Trung Thái Lan. Cha của cậu là Nai Pae, mẹ là Nang Rieng, tên thường gọi là Choti. Ngay từ khi biết nói, cậu bé đã cho mọi người biết mình là Nai Leng, người bác ruột đã mất khi cậu bé ra đời. Đáng chú ý là cậu có cách gõ bàn hệt như ông bác, có thể nói và đọc được các thứ tiếng mà ông bác lúc sinh thời từng học, và ngoài ra biết chính xác từng chi tiết một trong cuộc đời ông bác ruột của mình. Sau này Choti đi tu ở một ngôi chùa ở Băng Cốc và sau đó xuất bản cuốn sách về sự luân hồi này. "... khó có thể giải thích nổi tại sao những người ở "kiếp sau" lại có cách cư xử thói quen và biết cả những bí mật của những người ở "kiếp trước". Mặc dù một số người cho là một số sự kiện nhớ lại kiếp sống trước đã được ghi chép lại và thử nghiệm một cách khoa học, khoa học chưa chính thức chấp nhận đầu thai như là một hiện tượng chứng minh được... Sau khi chết con người có thể trở lại sống một kiếp khác hay không? Đây là một câu hỏi vẫn chưa có lời giải và được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, trong lúc chờ các nhà khoa học đưa ra được kết luận cuối cùng, những hiện tượng "đầu thai" vẫn tiếp tục xuất hiện làm mọi người kinh ngạc và đặt câu hỏi "Có kiếp sau hay không?".
-
Sức sống mãnh liệt của lục bát Thứ hai, 3/11/2008, 07:00 GMT+7 Nếu chọn một loài cây Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn phải là cây tre. Nếu chọn một loài hoa Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là hoa sen. Nếu chọn một trang phục Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là chiếc áo dài. Nếu chọn một nhạc khí Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là cây đàn bầu… Cũng như thế, nếu chọn trong nền thơ ca phong phú của ta một thể thơ làm đại diện dự cuộc giao lưu thơ toàn cầu, hẳn đó phải là lục bát. Người Âu Tây tự hào về thể sonnê, người Trung Quốc tự hào về thất ngôn Đường luật, người Nhật Bản tự hào về thơ haiku v.v… thì người Việt Nam có quyền tự hào về thể lục bát. Lục bát là niềm kiêu hãnh của thơ Việt ! Nếu tâm hồn một dân tộc thường gửi trọn vào thơ ca của dân tộc mình, thì lục bát là thể thơ mà phần hồn của dân Việt đã nương náu ở đó nhiều nhất, sâu nhất. Gắn với tiếng Việt, gắn với điệu tâm hồn Việt, thơ lục bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này. Có thể nói, người Việt sống trong bầu thi quyển lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao duyên, than thân trách phận, tranh đấu tuyên truyền chủ yếu bằng lục bát. Và dân ta hát ru các thế hệ, truyền nguồn sữa tinh thần của giống nòi cho lớp lớp cháu con cũng chủ yếu bằng lục bát… Lục bát là phương tiện phổ dụng để người Việt giải toả tâm sự, kí thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn … Lục bát thực sự là một điệu hồn Việt. Lục bát thực sự là một điệu hồn Việt Lục bát có tự bao giờ ? Người ta đã cố gắng tìm câu trả lời. Nhưng mọi trả lời đến nay vẫn chỉ là giả thuyết. Bởi cách sinh tồn của lục bát xa xưa là sống trong trí nhớ, sống qua đường truyền miệng của bao thế hệ người Việt, ít khi nằm im lìm trên trang giấy. Nên tìm kiếm văn bản đầu tiên về lục bát, kể cả dạng manh nha, dạng tiền thân của thể loại, để xác định niên đại của nó là việc dường như bất khả thi. Tuy nhiên, cội nguồn bao giờ cũng là mối băn khoăn khôn cầm của nhân gian. Cội nguồn của lục bát cũng thế. Nó vẫn luôn là một bí mật đầy hấp dẫn, luôn mời gọi những cuộc khám phá đầy phiêu lưu của các nhà thi học, đặc biệt là “lục bát học”. Chắc chắn sẽ còn nhiều cuộc lội ngược về ngọn nguồn của tiếng Việt, lội ngược về cái vùng được xem là tiền sử của văn học và thơ ca Việt để mà khảo sát, tìm kiếm, lục lọi, để truy tìm bằng được khởi thuỷ của thể loại này. Mà cuộc tìm kiếm như thế, lắm khi, cũng oái oăm như cái điều mà một câu lục bát đã nói đến : Đem vàng đi đổ sông Ngô / Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Tương… Chỉ có hai câu, mười bốn tiếng, mà một cặp lục bát tiềm tàng những khả năng biểu hiện vô tận. Nó luôn dư sức trần thuật: Đêm qua tát nước đầu đình / Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen (Ca dao) Này chồng này mẹ này cha / Này là em ruột này là em dâu (Nguyễn Du) Đang trưa ăn mày vào chùa / Sư ra cho một lá bùa rồi đi / Lá bùa chẳng biết làm gì / Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày (Đồng Đức Bốn). Nó vô cùng dồi dào năng lực trữ tình: Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần (Ca dao) Nghe đi rời rạc trong hồn /Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi (Huy Cận), Ngày qua ngày lại qua ngày / Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng (Nguyễn Bính) Mái gianh ơi hỡi mái gianh / Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương (Trần Đăng Khoa)… Nó dôi dả năng lực triết luận: Trăm năm trong cõi người ta / Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau… Có tài mà cậy chi tài / Chữ tài liền với chữ tai một vần (Nguyễn Du) Xin chào nhau giữa con đường /Mùa xuân phía trước miên trường phía sau… Hỏi tên rằng biển xanh dâu / Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa (Bùi Giáng), Mẹ ru cái lẽ ở đời / Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn…Ta đi trọn kiếp con người / Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru… Có gì lạ quá đi thôi/ Khi gần thì mất xa xôi lại còn (Nguyễn Duy)… Nó đáp ứng mọi yêu cầu trào tiếu: Một rằng thương hai rằng thương / Có bốn chân giường gãy một còn ba… Anh đi công tác Plây / ku dài dằng dặc biết ngày nào ra… Ối giời ơi nõn nà chưa / Bột trinh bạch đấy giời vừa rây xong…Thương đùng đùng nhớ đùng đùng / Yêu nhau quẫy nát một vùng chiếu chăn… Chỉ có hai câu, 14 tiếng, với áp lực lớn về tiết tấu chẵn, mà nhịp lục bát vẫn biến hoá vô chừng. Nó có thể dàn đều nhịp: Năm năm tháng tháng ngày ngày / Lần lần lữa lữa rày rày mai mai… Mình đi có nhớ những nhà / Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. Nó có thể kéo dài những trùng điệp, tạo nên một chuỗi đồng nhịp liên khúc: Còn tình yêu của đôi ta / Đến đây là đến đây là là thôi… Nó có thể đăng đối nhịp: Người lên ngựa kẻ chia bào… Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường… Nó có thể đảo nhịp: Cái gì như thể nhớ mong /Nhớ nàng, không, quyết là không nhớ nàng… Thác, bao nhiêu thác cũng qua / Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời (Tố Hữu)… Nó có thể tràn nhịp: Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng… Con xin ngắn lại đường gần / Một lần rồi mẹ lại dần dần đi (Trúc Thông)… Nó có thể vắt hàng: Trời cao xanh ngắt. Ô kìa /hai con hạc trắng bay về Bồng lai (Thế Lữ)… Chỉ có 14 tiếng, với hai câu chật chội, mà lục bát vẫn có cách dùng chữ với những chùm đôi, chùm ba, thậm chí, chùm bốn uyển chuyển phóng túng lạ lùng: Nắng thoai thoải nắng / chiều lưng lửng chiều… Thật thà lúc lắc đong đưa thật thà… Ở đây có những người con / Mang theo cái nõn nòn non lên ngàn… Ễnh ềnh ệch hõn hòn hon thùi lùi … Ngon lành gió lửng mưa lơ / vô tư như thực như mơ như gì… Ngấp nga ngấp ngoáng kêu ma / hóa ra ta gặp bóng ta trên tường… Chỉ có 14 tiếng, với đắp đổi bằng trắc khắt khe, dễ sa vào đơn điệu, thế mà trên thực tế, lục bát vẫn có những cách dàn xếp bằng trắc thú vị và hấp dẫn: Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh (Nguyễn Du), Ngã ba ngã bảy về đâu / Cái ngáng làm cớ cho nhau chuyện trò (Hữu Thỉnh)… Đến đây gió cũng đi vòng / ngoằn theo khoeo núi ngoèo trong khuỷu rừng … Thường, mỗi cặp lục bát là một khúc thức chỉ tải vừa một giọng, ví như giọng ngợi ca: Nhớ ông cụ mắt sáng ngời / Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường… Nhưng, cũng trong phạm vi hẹp của một khúc thức thế thôi, mà lục bát vẫn có thể chuyển làn qua hai giọng mau lẹ, tạo hiệu ứng trào phúng kì thú: Bác Thành có chiếc quần nâu / Bác rất giản dị bạ đâu cũng ngồi…Hoan hô đồng chí Hà Đăng / Ấn vào tàu chạy băng băng như rùa (ca dao mới)… Khả năng hình thức của một cặp lục bát là vô tận, làm sao có thể khai thác hết. Từ xưa đến nay, lục bát vẫn song hành hai phong cách: lục bát dân gian và lục bát cổ điển. Không thể nói đằng nào hơn đằng nào kém. Đó là hai vẻ đẹp lục bát. Cả hai song hành chuyển hoá và bổ sung cho nhau. Về tổ chức lời thơ, lục bát cổ điển theo điệu ngâm (coi trọng tính uyên súc của ý, cú pháp của văn viết, chất liệu ngôn từ nghiêng hẳn về thực từ), còn lục bát dân gian theo điệu nói (coi trọng việc biểu hiện xúc cảm trực tiếp, cú pháp của văn nói, ngôn từ với phổ rộng gồm thực từ và rộng rãi hư từ, thậm chí, hết sức ưa dùng khẩu ngữ). Cùng viết về một cảnh tương tự nhau, cùng bộc lộ những cung bậc cảm xúc gần gũi nhau, nhưng cặp lục bát này: Buồn trông cửa bể chiều hôm / Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa là điệu ngâm, còn cặp này: Anh đi đó anh về đâu / Cánh buồm nâu cánh buồm nâu cánh buồm rõ ràng là điệu nói. Mỗi cặp là một vẻ đẹp riêng, không thể nào đánh đổi, mỗi cặp là con đẻ của mỗi phong cách lục bát đó. Nếu thành tựu nổi bật nhất của lục bát dân gian là ca dao, thì lục bát cổ điển được viết bởi những cây bút bác học và kết tinh chói ngời là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Những giai đoạn sau, trong bước phát triển nào của thơ, người ta cũng luôn thấy song hành hai phong cách này. Ví như đầu thời Thơ mới, là cặp Tản Đà và Á Nam Trần Tuấn Khải, đằng nghiêng về cổ điển, đằng nghiêng về dân gian. Giữa thời Thơ mới là cặp Nguyễn Bính – đượm chất dân gian và Huy Cận - đậm màu cổ điển… Đến thời sau này thì hai phong cách ấy thường hoà vào nhau, mà chất dân gian thường trội hơn, đồng hoá cả chất cổ điển. Nổi lên nhiều cây bút sáng giá: Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Trần Đăng Khoa, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ… Cứ thế, qua các thời, lục bát luôn như một dòng sông, mà các dòng chảy của nó cứ song hành và hoà quyện để làm giàu cho nhau, làm nên cái diện mạo bền bỉ mà luôn mới mẻ của lục bát. Trong thời buổi hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, dường như đang có hai thái độ trái ngược đối với lục bát. Lắm kẻ thờ ơ, hoài nghi khả năng của lục bát. Họ thành kiến rằng lục bát là thể thơ quá gò bó về vần luật, về thanh luật, về tiết tấu; nó đơn điệu, nó bằng phẳng. Họ vội cho rằng lục bát chỉ biểu hiện được những cảm xúc quen thuộc của người Việt truyền thống. Còn tâm sự của người hiện đại thì lục bát khó chuyển tải. Họ lầm tưởng rằng lục bát sẽ khó thể hiện được những suy tư tinh vi phức tạp, khó theo kịp nhịp biến hoá đầy bấn loạn của tư duy thơ hiện đại. Thậm chí, có người còn coi lục bát như một rào cản đối với những lối tư duy nghệ thuật tân kì. Và, họ từ chối lục bát để một mực chạy theo những thể khác. Thực ra, mọi vẻ đẹp cùng bíến thái mơ hồ nhất của thiên nhiên, mọi biến động phức tạp khôn lường của đời sống, mọi tầng sống sâu xa huyền diệu nhất của tinh thần cá thể, mọi khuynh hướng tư duy nghệ thuật, dù truyền thống hay tân kì, đều không xa lạ với lục bát. Vấn đề là người viết có đủ tài để làm chủ được lục bát hay không. Vì thế mà có xu hướng ngược lại, nhiều người đã nhận thấy ở lục bát những ưu thế không thể thơ nào có được. Họ đã tìm về lục bát. Họ ý thức rõ, từ xưa đến nay, lục bát luôn là thể thơ đầy thách thức. Sự gò bó có thể là một khó khăn bất khả vượt đối với ai đó, nhưng nó là một thách thức đầy hấp dẫn đối với những tài năng thơ thiết tha với tiếng Việt, thiết tha với điệu tâm hồn Việt. Họ nâng niu, chăm chút. Họ làm mới, họ cách tân, để gửi gắm tấc lòng của con người hôm nay vào thể thơ hương hoả của cha ông. Họ dùng lục bát như một phương tiện tâm tình gần gũi, để nói những gì sâu sắc nhất của tâm tư. Đọc thơ lục bát thế kỉ XX, có thể thấy rõ rệt, càng về sau, hơi thở lục bát càng hiện đại hơn so với hồi đầu. Điều đó là bằng chứng khẳng định lục bát vẫn trường tồn, lục bát vẫn gắn bó máu thịt với tâm hồn Việt. Chừng nào tre còn xanh, sen còn ngát, chừng nào tà áo dài còn tha thướt, tiếng đàn bầu còn ngân nga, chừng ấy những điệu lục bát vẫn tiếp tục sinh sôi trên xứ sở này. Lục bát mãi mãi là một tài sản thiêng liêng của nền văn hoá Việt. Chừng nào thế giới còn chưa thấu tỏ vẻ đẹp của lục bát, chừng ấy họ chưa thực sự hiểu vẻ đẹp của thơ Việt. Và, chừng nào ta còn chưa làm cho thế giới tiếp nhận được vẻ đẹp của thơ lục bát, chừng ấy nền thơ Việt còn chưa thực sự làm tròn sứ mạng của mình. Chu Văn Sơn nguồn vietimes