wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. TeTpy làm tốt công tác từ thiện hơn cả mong muốn của Wild. Thật lòng ghi nhận công sức này của TeTpy và gia đình(Ba của TeTpy) đã hổ trợ. Ngay cả hình ảnh cũng rất pro! Cám ơn Vusonganh!
  2. Ai ôm xác? Tác giả: Phan Thị Vàng Anh Bài đã được xuất bản.: 30/11/2009 12:30 GMT+7 Làm sao từ trường hợp của ông Vân mà Kim Dung có thể quy về chứng Necrophilia nhỉ? Và bạn lấy đâu bằng chứng để nói việc "ôm" đồng nghĩa với "làm tình"? LTS: Xung quanh chuyện một người đàn ông ôm xác vợ suốt 7 năm liền đang được tranh luận nhiều chiều. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin đăng ý kiến của nhà thơ Phan Thị Vàng Anh để mọi người cùng tranh luận tiếp. Sau đây là nội dung bài viết: VNN, 27. 11. 09, Kim Dung có bài " Ôm xác vợ 7 năm liền: Một hiện tượng bệnh lý", trong đó tác giả cho rằng trường hợp ông Vân là bệnh lý và có thể có liên hệ với chứng Necrophilia - Tình Dục với Tử thi - và yêu cầu đưa ông và con ông đi chữa trị. Bạn Kim Dung, Tôi thắc mắc làm sao từ trường hợp của ông Vân mà bạn có thể quy về chứng Necrophilia nhỉ? Bạn biết người đàn ông này làm gì với bức tượng trong có đựng cốt vợ mà dám đưa đoạn tài liệu "Tình Dục Tử Thi" lên để người đọc tham khảo và dễ dàng liên hệ với việc của ông? Bạn có tìm được tài liệu nào về việc làm tình với một bộ cốt không? Và bạn lấy đâu bằng chứng để nói việc "ôm" đồng nghĩa với "làm tình"? Bạn hiểu biết thế, vậy Tổng thống Peron ướp xác vợ là bà Evita rồi kè kè mang theo, chải tóc mỗi ngày thì có thuộc loại này không? Và những dạng ướp xác khác? * Mỗi người có cách riêng để yêu người đã chết. Chúng ta thuộc cách thông thường, là nhớ thương nghi ngút rồi càng ngày càng... vơi. Ông Vân và con ông thuộc dạng khác chúng ta. Nhưng ở đời không phải cứ "khác" là bệnh lý. Và nếu có là bệnh lý thì cũng phải do những người có thẩm quyền về y tế kết luận, chứ không phải để bạn phán xét một cách hồ đồ trên mặt báo đông người đọc như thế. Trong vụ này, chúng ta có thể nói về việc vệ sinh môi trường, về quy định mai táng ... Nhưng còn về tình cảm của người khác, dù ta không chấp nhận được cách "yêu" của người ta, cũng nên coi như một trong vô vàn cách sống, miễn không phạm luật. Ta có thể chê cười, có thể lánh xa, có thể sợ hãi, nhưng đừng nhân danh cái "bình thường" để làm nhục người khác, khi thấy người ta khác thường. * Nhớ trong kết thúc bài viết, tác giả Kim Dung nói chắc nịch: "Ngày nay, trong thế giới hội nhập này, mọi vui buồn, khổ đau, hạnh phúc, thậm chí bệnh tật của một cá thể người, không còn là việc của riêng ai." Tự khoác lên mình một nhiệm vụ "đại đồng" như thế, Kim Dung cho phép mình "đóng cả ba vai chèo": từ chuyên gia y tế, tới nhà đạo đức, tới chính trị viên. Với thế kiềng ba chân vững vàng, tác giả tha hồ xúc phạm người khác, mà không hiểu rằng mình đã đi ngược lại bản chất của cái "thế giới hội nhập" mình đang viện dẫn. Lý tưởng ra, đó là thế giới của thông cảm và giải pháp. Còn thế giới của cách ly, điều trị, "phải bình thường" tôi tưởng phải được đem chôn lâu rồi chứ, sao Kim Dung lại moi lên mà ôm ấp thế này? * Vẫn biết báo chí nên có nhiều chiều, nhưng trong trường hợp này, tôi vẫn băn khoăn sao Vietnamnet lại đưa đoạn Tình dục với Tử thi trong bài của Kim Dung lên như thế. Con người nói chung là định kiến, và ở nông thôn, định kiến lại càng nặng. Báo của các bạn đông người đọc, và tôi không biết, con trai ông Vân tuần tới đi học sẽ bị bạn bè ở làng quê đối xử ra sao. Chẳng lẽ lại mong cả làng đó không ai đọc VNN? nguồn tuanvietnamnet
  3. Ăn cà ri tốt cho sức khỏe 30/11/2009 16:14 Cây cà ri có nguồn gốc từ Ấn Độ và Sri Lanka. Ở nước ta cây được trồng nhiều tại Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Phân tích trong 100 gram lá cà ri có chứa 66,3% nước, 6,1% protein, 1% chất béo, 16% carbohydrat và 4,2% khoáng tố vi lượng gồm canxi, photpho, sắt và một ít vitamin C. 1. Điều trị rối loạn tiêu hóa: 1-2 muỗng dịch ép tươi từ lá cà ri, thêm một muỗng dịch ép trái quất và một ít đường chữa chứng đau bụng, buồn nôn và nôn mửa do ăn không tiêu hoặc ăn quá nhiều chất béo. Lá cà ri nghiền mịn thành bột trộn với vài muỗng hỗn hợp bơ sữa, ăn lúc bụng đói trị rối loạn tiêu hóa, đầy hơi. Lá cà ri nấu chín còn chữa được tiêu chảy, kiết lỵ và bệnh trĩ, ăn không hoặc trộn thêm mật ong... 2. Bệnh tiểu đường: mỗi buổi sáng ăn 10 lá tươi (chọn lá không non không già), ăn liền trong ba tháng có tác dụng ngừa bệnh tiểu đường. Ở các bệnh nhân béo phì, lá cà ri có tác dụng làm giảm lượng triglycerid và cholesterol toàn phần trong máu, giúp người bệnh giảm cân. 3. Tác dụng chống oxy hóa tế bào: Các nhà nghiên cứu dược phẩm Anh đã phát hiện lá cà ri có khả năng ngăn ngừa ung thư nhờ tính chất chống oxy hóa tế bào, bảo vệ tế bào gan và tăng cường thải độc cho gan. Dịch chiết từ rễ cây cà ri còn có tác dụng bổ thận, chữa các chứng đau và các rối loạn có liên quan tiết niệu và sinh dục. 4. Tóc bạc sớm: Lá cà ri được xem như nguồn dinh dưỡng tốt cho cơ thể giúp ngăn ngừa bệnh tóc bạc sớm. Theo các nghiên cứu, lá cà ri nuôi dưỡng chân tóc, giúp tóc mới mọc khỏe hơn và sắc tố trở lại bình thường. Có thể ăn lá bằng cách trộn giấm, nước xốt hoặc xay sinh tố với một ít bơ và sữa. Chú ý: không nhầm lẫn cây cà ri với một cây khác cũng được gọi là cà ri hay điều nhuộm, trái màu đỏ to như trái chôm chôm, người ta dùng để lấy sắc tố đỏ làm màu tự nhiên trong thực phẩm. Theo DS Lê Kim Phụng / Tuổi Trẻ
  4. 2 bài cho một trường hợp ? HoangTrang & NguyenQue ? 85 & 87 ? Tháng Giêng cuới ? Có cần như vậy không?
  5. Sắp tới đây chưa biết chính xác ngày nào, Sư Phụ ra Hà Nội. Wild có nhận chuyển giúp 1 Vang Pháp gởi SP đem đến đưa PTH để làm gì? chả biết ? Cám ơn hay gì gì đó Wild không rõ. Người gởi ? wild cũng được yêu cầu giấu nick luôn. Cứ sử dụng đúng mục đích và chức năng của Vang nhé PTH. Biết thế thôi nhá !
  6. Ai mà không đọc thì " bất nhã"
  7. Sinh năm 84, Giáp Tý. Những tuổi Thân Tý Thìn phạm tam tai vào những năm Dần Mão Thìn. Sang năm 2010 là năm Dần, hạn đầu của tam tai.
  8. Sống chung với hài cốt trong pho tượng? 28/11/2009 1:26 Ông Vân bên bức tượng được cho là chứa bộ hài cốt của người vợ - ảnh: V.P.T Câu chuyện một người đàn ông ở Thăng Bình (Quảng Nam) tự đào mộ vợ, đem bộ hài cốt giấu trong pho tượng và sống chung suốt nhiều năm liền đang khiến dư luận xôn xao... Nghe đọc bài Nửa đêm, một mình đào mộ vợ Thay cho sự e dè như trong suy nghĩ của chúng tôi, ông Lê Vân tiếp khách lạ bằng thái độ khá tự tin trong căn nhà nhỏ thấp tè nằm ở tổ 12, thị trấn Hà Lam (Thăng Bình). Nhiều năm qua ông sống chung với bộ hài cốt của vợ, được đóng kín trong bức tượng thạch cao có kích thước và hình thể của một phụ nữ. “Cũng không hẳn là vì tui yêu bả dữ đâu mà làm vậy. Hồi xưa lấy bả, tui đâu có yêu mà giao hết chuyện vợ con cho mẹ tui quyết định”. Đáp lại câu hỏi tò mò của chúng tôi về tình yêu của ông đối với vợ, người đàn ông 56 tuổi này nói: “Bây giờ vợ chồng sống với nhau mấy mươi năm, có 6 mặt con, bảo không thương là không phải, nhưng chuyện tui mang bả về ở không riêng vì lẽ đó”. Sau một hồi kể những câu chuyện rời rạc, ông lý giải cho hành động khác thường của mình: “Thấy mọi người sống với nhau bạc bẽo quá, chẳng thà ở với người chết còn hơn!”. Ông Vân kể lại cách mình đào huyệt vợ Bà Phạm Thị Sang, vợ ông, mất đột ngột khi ông đang đi làm ở Đắk Lắk. Ông kể, 4 giờ sáng ông về đến nhà nhìn mặt vợ lần cuối thì ngay chiều hôm đó đã phải mang chôn. Ngày đó, quá ngỡ ngàng trước cái chết của vợ nên ông một mực chưa cho đem bà đi chôn, nhưng mọi người trong gia đình không đồng ý. Từ đó, trong suy nghĩ ông cứ cho rằng vợ mình bị “sát hại”, dù rằng thời điểm đó, bà đang ở nhà với 3 đứa con nhỏ và người con trai đã lập gia đình. Người nhà kể lại tối đó, sau khi bà chơi với mấy đứa cháu thì vào tắm rửa đi ngủ, rồi ra đi vĩnh viễn. Vợ chết ngày 25 tháng giêng năm 2003, đến tháng 11 âm lịch năm 2004, mọi người tá hỏa khi phát hiện ông đào mộ vợ. Thời gian đầu thấy trên mộ bà Sang phủ tấm bạt cùng đất, đá bên cạnh, mọi người nghĩ gia đình xây, sửa mộ. Nhưng rồi một hôm, mấy đứa trẻ chăn trâu dở tấm bạt đó lên thì thấy dưới mộ là lỗ trống, thấy cả quan tài. Mọi chuyện vỡ lở, gia đình vận động, chính quyền can ngăn, đấu tranh mãi, cuối cùng, ông chấp nhận lấp lại huyệt mộ. Cứ nghĩ mọi việc đã êm xuôi, bởi ông đi làm, sinh hoạt bình thường thì sau đó 4 tháng (tháng 2 âm lịch năm 2005), người nhà thêm một lần hoảng hốt khi thấy ông mang về một bức tượng được làm bằng thạch cao, có chỗ đúc xi măng, chỗ bọc giấy, dán keo, bảo “ta đem mẹ tụi bay về ở”. “Đêm xuống, tui lén tới mộ vợ, đào quan tài và mang hài cốt bỏ vào bức tượng. Tui âm thầm làm từ trước rồi khèn kín lại, mang về ở cùng”, ông Vân kể. Ông vui vẻ dẫn chúng tôi vào căn buồng tối om, chỉ được thắp sáng bởi 1 bóng điện lờ mờ, nơi ông để “vợ”. Chứng kiến cảnh tượng một bức tượng được nặn theo khuôn một người phụ nữ, khuôn mặt được sơn vẽ hồng hào, người mặc áo bà ba trắng, quần đen mà chúng tôi không khỏi nổi da gà... “Vợ” ông được đặt nằm cách biệt trên chiếc giường nhỏ để sát cửa sổ, bên cạnh là chiếc giường ông và cậu con út Lê Quốc Hoàng Tuấn (12 tuổi) ngủ hằng đêm. “Cứ nửa tháng tui thay đồ cho bả thơm tho, đàng hoàng”. Hỏi, dư luận cho rằng trước đây ông còn đào hầm dưới mộ để đêm đêm đến ngủ cùng vợ, ông lắc đầu quầy quậy, bảo đó là tin đồn nhảm nhí. Ông Vân còn nhiệt tình dẫn chúng tôi đến mộ vợ ông, rồi kể lại tường tận cách ông đào mộ, đưa quan tài lên, lấy xương cốt ra làm sao. Điều làm chúng tôi không khỏi thắc mắc là ngôi mộ của bà Sang được xây cất khá đàng hoàng. Xung quanh huyệt được xây bằng tường gạch kín, chỉ chừa khoảng trống nhỏ trên miệng chiều ngang 40 phân, chiều dài gần 2 mét thì làm sao ông Vân làm được công việc này. Và kỳ lạ là tất cả những việc này ông đều làm một mình, vào ban đêm. Bí ẩn cần làm sáng tỏ Qua trò chuyện với ông Vân suốt cả buổi chiều, chúng tôi để ý thấy thỉnh thoảng ông có những câu nói, biểu hiện không bình thường. Đáng lưu ý, qua tiếp xúc với rất nhiều người thân của ông thì không ai khẳng định tận mắt chứng kiến việc ông đem hài cốt của người vợ quá cố cất trong bức tượng. Tất cả chỉ là câu chuyện được ông tuyên bố với mọi người, và cũng chỉ một mình ông biết rõ nhất. Nhưng câu chuyện ông đào quan tài vợ lên là có thật, chuyện này đã bị công an, chính quyền lập biên bản. Khi chúng tôi đặt vấn đề: Nhiều người cho rằng không có chuyện có hài cốt trong bức tượng, ông chỉ cười: “Tùy mọi người thôi, chỉ cần bây giờ đào cái mộ bả lên là biết!”. Cũng từ ngày đưa “vợ” về, ông trở thành người dị biệt với gia đình và hàng xóm. “Cả nhà can ngăn mãi mà đành bất lực, vì ba không chịu nghe”, bé Oanh, cô con gái thứ 4 của ông buồn rầu kể. Hai năm đầu khi mang “vợ” về, ông bị hàng xóm xa lánh, cô lập. “Hai năm đầu ngày mang bả về, ngày đám giỗ bả nhưng chỉ có bà con thân thiết mới tới”, ông Vân nói. Hàng xóm người thì thẳng thừng từ chối quan hệ với ông, người thì ái ngại. Con cái sau nhiều lần khuyên can, thậm chí căng thẳng, mâu thuẫn và cả xô xát nhưng cũng đành bất lực. Còn ông, thái độ của con cái cũng khiến ông thêm bức xúc, bất mãn. “Mọi người cũng không biết làm sao. Chị Sang vốn bị cao huyết áp phải uống thuốc thường xuyên, nên khả năng đây là nguyên nhân dẫn đến cái chết. Từ hồi chị Sang mất đến giờ, tâm tính ổng cũng không được bình thường. Tui đến nhà chơi thì cũng chỉ ở phòng khách, chứ chưa bao giờ vào chứng kiến cái tượng ấy, vì thấy sợ sợ”, chị Út Phương, em ruột ông Vân bộc bạch. Còn ông Thành, hàng xóm của ông Vân nói: “Mọi người trong xóm này ai cũng biết chuyện đó cả. Nhưng cũng biết vậy rồi e ngại, chứ có ai biết chắc thật hay không”. Câu chuyện về “bức tượng mang bộ hài cốt” đã cùng ông Vân sống suốt mấy năm nay không biết độ thật hư bao nhiêu, nhưng sự xôn xao trong dư luận thời gian qua là có thật. Chưa kể việc những đứa con sống chung với ông, đứa nhỏ nhất mới chỉ 12 tuổi, sẽ bị ảnh hưởng về mặt tâm lý từ hành động của người cha... Vì thế, cách tốt nhất hiện tại là các cơ quan chức năng cần có lời giải để làm sáng tỏ ẩn số trên! Trao đổi với PV Thanh Niên, Trưởng công an H.Thăng Bình (Quảng Nam), đại tá Lương Tấn Tài, cho biết: "Sau lần lập biên bản xử lý chuyện ông Vân đào mộ vợ lên, thấy ông Vân đồng ý nghe theo sự thuyết phục, vận động nên mọi người cứ nghĩ là yên rồi. Nếu thực sự là trong bức tượng đó có hài cốt thì bằng mọi cách, chúng tôi phải đưa bức tượng đó ra khỏi nhà của ông Vân để đảm bảo phong tục của người Việt cũng như vấn đề môi trường". Đại tá cũng khẳng định: "Ngay trong sáng 28.11, chúng tôi sẽ có biện pháp để kiểm tra bức tượng trong buồng nhà ông Vân xem thật sự có hài cốt của bà Sang trong đó hay không để trả lời dư luận". Vũ Phương Thảo nguồn thanhnienonline
  9. Người ôm xác vợ mắc hội chứng “Ái tử thi” Ông Lê Vân ở Quảng Nam, người tự cho mình đã sống với hài cốt của vợ trong suốt 5 năm qua, có thể bị mắc hội chứng “ái tử thi”. Y văn thế giới đã nhiều lần đề cập hội chứng này. >> Công an vào cuộc vụ ôm xác vợ suốt 5 năm Nhiều người hiếu kỳ đến nhà ông Lê Vân để xem tượng có chứa xương người (ảnh: NLĐ) Trong những ngày qua, báo chí thông tin liên tục về việc ông Lê Vân ở thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam sống cùng với hài cốt vợ trong 5 năm. Việc này làm tôi nhớ đến chuyện một nữ bác sĩ ở Anh giữ thi thể người mẹ suốt 29 năm liền trong tủ lạnh mà người ta mới phát hiện cách đây mấy ngày (25/11/2009). Hai dạng “ái tử thi” Người mắc chứng “ái tử thi” là người có xu hướng bị hấp dẫn bởi xác chết. Năm 1895, tập san y khoa Lancet có 2 bài ngắn mô tả hiện tượng giữ xác người thân đã qua đời trong nhà. Nhưng tại sao muốn giữ xác tử thi trong nhà? Năm 1989, một bài báo nổi tiếng của Rosman và Resnick đã mô tả 34 trường hợp với hội chứng “ái tử thi” cho thấy những lý do sau đây: Họ muốn giữ một người bạn đời, có thể là bạn tình, trong tình trạng không kháng cự (68%), muốn sum họp với người tình cũ (21%), vì lý do dục tính (15%) và để tránh cảm giác cô đơn (15%). Trong y văn quốc tế cũng từng nói qua vài ca hội chứng “ái tử thi” trước đây, phần lớn là cách đây 30 năm và là những công trình đăng trên các tập san y học và pháp luật. Nhà tâm lý học nổi tiếng Sigmund Freud từng viết trong bài Mourning and Melacholia mô tả hai dạng hội chứng necrophilia. Dạng thứ nhất gọi là inhibited necrophilia (ái tử thi kiềm chế) và dạng thứ hai là morbid necrophilia (bệnh ái tử thi). Dạng thứ nhất có thể xem là “nhẹ” (pseudonecrophilia), mà theo đó, người mắc chứng này có xu hướng lưu luyến chồng/vợ mới qua đời, muốn ngủ chung, âu yếm với xác người quá cố. Dạng thứ hai nặng hơn và được xem là bệnh vì người mắc bệnh có xu hướng quan hệ tình dục với tử thi, thậm chí có hành động được xem là ác dâm như cắn xé, ngấu nghiến với thân xác người quá cố. Mặc dù kết luận như thế, nhưng điểm qua y văn, các chuyên gia tâm thần nhận thấy các trường hợp “ái tử thi” thường có triệu chứng rối loạn tâm thần, một số mắc bệnh động kinh hoặc có những rối loạn cá tính trong cuộc sống. Một số ca bệnh có rối loạn nhân cách ngay từ lúc mới lớn. Trường hợp của ông Lê Vân được báo chí mô tả có lẽ là một ca đặc thù về hội chứng pseudonecrophilia (dạng nhẹ). Dù ông nói là “chuyện của tui” nhưng ông thật sự cần được sự chăm sóc của bác sĩ tâm thần. Những ca “ái tử thi” điển hình Một trường hợp khá trầm trọng về hội chứng “ái tử thi” khác là ông John Price ở Anh. Sau khi người vợ đầu của ông qua đời, ông tái giá. Nhưng thi thể người vợ quá cố được ông ướp và giữ cùng một giường với người vợ mới. Sau khi người vợ thứ hai qua đời, ông cũng ướp xác và giữ thi thể bà trong cùng một giường. Đến bà vợ thứ ba thì bà này không chấp nhận thói quen dị hợm đó, nhưng ông vẫn ngủ với hai thi thể kia cho đến ngày ông qua đời. Một trong những trường hợp “ái tử thi” nổi tiếng được mô tả trong chương trình “giảo nghiệm tử thi” (autopsy) của đài truyền hình HBO vài tháng trước đây hé lộ cho chúng ta biết về đặc điểm của hội chứng này. Vào thập niên 1930 ở Florida (Mỹ), bác sĩ Carl van Cassel điều trị một bệnh nhân trẻ đẹp mắc bệnh lao tên là Maria Elena Oyoz. Bác sĩ Carl van Cassel yêu bệnh nhân này tha thiết, nhất định tìm mọi cách để cứu sống người yêu nhưng ông thất bại. Sau khi chôn cất cô gái, bác sĩ Carl van Cassel lập tức bốc mộ và cho đúc một khuôn mặt giống y như mặt của người quá cố, với ý định giữ nét đẹp đó vĩnh viễn. Còn thi thể thì để trong một lăng, cao hơn mặt đất ở nghĩa trang. Ông đến thăm mộ người yêu mỗi ngày, nhưng sau khi thấy người chung quanh để ý đến những chuyến đi khác thường đó, ông quyết định dời thi thể về nhà, cho mặc áo cưới và đặt mặt nạ trên khuôn mặt của người quá cố. Ông còn bao bọc thi thể bằng sáp pha với nước hoa để giữ thịt và xương không bị tan rã. Hết năm này sang năm khác, ông phải giữ xương gắn liền nhau bằng những cọng dây đàn piano và hằng ngày phải dùng sáp và nước hoa mới. Nhưng mặc cho bao nhiêu nỗ lực giữ thi thể, ông không thể nào xóa được mùi hôi thối và láng giềng bắt đầu phàn nàn. Điều lạ lùng là ông vẫn viết thư tình cho người quá cố. Sau này, khi gia đình Maria Elena phát hiện, họ rất giận dữ và thưa ra tòa. Tòa án ra lệnh ông phải giao trả thi thể của Maria Elena cho gia đình để an táng ở một địa điểm bí mật. Mặc dù, câu chuyện “ái tử thi” của ông nghe thật kinh tởm nhưng bản thân ông là một người rất bình thường, nhẹ nhàng và dễ mến. Cần an táng người quá cố Điểm qua các trường hợp trên, có thể nói ông Lê Vân ở Quảng Nam mắc chứng “ái tử thi” dạng nhẹ. Cũng như bác sĩ Carl van Cassel, ông Lê Vân lén bốc mộ đem thi thể vợ về nhà và cũng như John Price, ông ngủ chung với thi thể trên giường. Hành động của ông Vân, bác sĩ Carl van Cassel, và John Price đều xuất phát từ tình yêu nhưng cách họ thể hiện chẳng những không phù hợp với quy ước xã hội mà còn có thể gây ô nhiễm môi trường, có hại đến sức khỏe của chính họ. Chính quyền địa phương cần phải giải thích cho ông Lê Vân biết rằng việc làm của ông không phù hợp với văn hóa, vệ sinh môi trường và cần phải an táng cho người quá cố, nếu đó là hài cốt người. GS - TS. Nguyễn Văn Tuấn Báo Người lao động
  10. Bạn muốn xem tử vi hay tư vấn số mệnh? bạn link lá số và đưa vào Topic Tử vi, cung cấp những sự kiện trong cuộc sống. hỏi khơi khơi vậy chẳng hiểu bạn muốn gì?
  11. Vừa không dấu tiếng Việt vừa tắt như thế này thì email riêng với nhau tốt hơn! Post bài đầu tiên đã phạm quy rồi !!
  12. Lạ nhỉ Út Canh Thân mà cháu trai hư 1996 vậy là sao? cháu trai hư 1996 ai là út ?
  13. Không có tuổi nào làm cho tuổi khác chết được đâu bạn ạ! Chỉ có mấy ông Thầy mò làm chia uyên rẽ thúy rồi các cháu nó suy nghĩ tiêu cực rồi tìm đến cái chết để tội lại cho Thầy. Mọi việc đều có cách giải quyết tùy thuộc vào cách nghĩ của mình cho chính cuộc đời mình, thế nên mới có câu "Đừng chết vì thiếu hiểu biết" cho mọi trường hợp trong cuộc sống.
  14. : MOTHER = MẸ nghĩa là : M…Million là hàng triệu điều mẹ trao cho con, O…Old nghĩa là mẹ sẽ vì thế mà ngày càng già đi, T…Tears là những giọt nuớc mắt mẹ đã đổ vì con, H…Heart là trái tim vàng của mẹ, E…Eyes là đôi mắt mẹ luôn dõi theo con, R…Right là những gì đúng đắn mẹ hay khuyên bảo. Nếu bạn thương mẹ bạn và mong mẹ bạn trẽ mãi ko già thì hãy yêu mẹ mình hơn nữa và gửi messenger này cho tất cả các nguời trong list và mình nữa nhé!
  15. Chỉ có khói điềm lành là các Cụ chứng đấy! Nếu có lửa là điềm báo cho con cháu việc sắp tới.
  16. Những bài thuốc đông y chữa viêm họng Sunday, November 29, 2009 Chắc không ai trong số chúng ta lại không bị viêm họng bao giờ. Để điều trị căn bệnh này, bác sĩ thường chỉ định dùng thuốc kháng sinh hay thuốc sunfanilamit. Nhưng không phải ai cũng chịu được thuốc Tây. Trong trường hợp này, tốt nhất nên dùng thuốc đông y. Xin giới thiệu cùng các bạn một vài bài thuốc y học dân tộc chữa trị chứng bệnh này. - Khi mới bị viêm họng, tốt nhất nên ngậm một vài lát chanh mỏng. Sau đó kiêng ăn mọi thứ trong một giờ để tạo điều kiện cho tinh dầu chanh và axit citric phát huy tác dụng đến niêm mạc cổ bị viêm. - Sáp ong là loại thuốc trị viêm họng có hiệu quả nhất ở mọi thời kỳ. Chỉ sáp ong chất lượng cao mới có tác dụng nhanh, khi ngậm trong miệng nó làm cho lưỡi có cảm giác rát bỏng và hơi tê. Để điều trị bệnh viêm họng, sau bữa ăn, chỉ cần nhâm nhi miếng sáp ong có kích thước bằng ngón tay út. Mỗi ngày ăn khoảng 5 g sáp ong. Nếu đây là sáp ong thật thì bệnh viêm họng sẽ khỏi hẳn sau 2-3 ngày ăn. - Mài củ cải trên bàn xát và ép lấy một cốc nước rồi cho thêm một thìa to giấm làm bằng rượu vang hay táo. Dùng dung dịch này súc miệng cho đến khi khỏi hẳn bệnh. - Khi bị viêm họng, bạn có thể nhai một chút nhựa thông tươi sẽ rất tốt, chỉ sau một ngày sẽ khỏi hẳn. - Giã nhỏ 3-4 nhánh tỏi hòa với một cốc sữa nóng, hãm từ 10-15 phút, lọc lấy nước uống trong vòng 30 phút. Mỗi ngày uống 2-3 cốc. - Đun nóng một cốc nước chanh vắt rồi uống nhâm nhi từng ngụm nhỏ. Cứ 30 phút thì súc họng một lần từ 3-5 phút, làm cho tới khi khỏi hẳn viêm họng. - Khi bị viêm họng bạn nên uống nước hành tây khô và táo ép (với tỉ lệ 1:1), cứ 2 giờ uống một lần và một lần uống 2 thìa to. - Vắt nước chanh vào chiếc ly bằng bạc để ở nơi râm mát chừng một ngày và cách 1 giờ uống 1 thìa nhỏ. Phương pháp này chống chỉ định đối với người bị bệnh thận. - Cho 2-3 thìa to mật ong vào cốc nước cà rốt tươi ép rồi khuấy đều lên. Pha loãng hỗn hợp này theo tỉ lệ 1:1 với nước đun sôi để nguội và súc họng 3-5 lần/ngày, mỗi lần từ 5-7 phút. - Súc họng mỗi ngày một vài lần bằng nước khoai tây ép tươi cũng rất tốt khi bị viêm họng. - Hòa 2 thìa to bột cây nhĩ thảo (cây ban) vào một cốc nước đun sôi rồi hãm trong bình kín chừng 15 phút, để ở nơi thoáng mát độ 15 phút rồi chắt lấy nước súc họng từ 3-5 lần/ngày và mỗi lần từ 5-7 phút. - Pha loãng nước ép củ cải cay với nước theo tỉ lệ 1:1 để làm nước súc họng hằng ngày khi bị viêm họng sẽ rất tốt. - Đối với những người hay bị viêm họng, có thể áp dụng phương pháp khác đơn giản hơn: Mỗi ngày dành từ 8-10 phút ngồi dưới ánh nắng mặt trời, há rộng miệng và nhắm mắt lại. Mỗi đợt kéo dài từ 2-3 tuần. Theo DS Kim Chung/NLĐ (Bệnh viện Đống Đa - Hà Nội) nguồn thanhnienonline
  17. Ra quẻ Hưu Đại An, Người nữ anh Hùng này chác chắn thoát được tai ách, nhưng còn lắm gian nan để thay đổi một bản án Thấu Lý đạt tình. Tôi tin tưởng vào quẻ lạc Việt độn toán này cũng như tin vào sự công minh của luật pháp.
  18. Bạn có lấy nhầm lá số không mà âm nữ ?
  19. Những lợi ích từ dầu ô liu Dầu ô liu giàu axit béo có lợi cho cơ thể hơn bất cứ dầu thực vật nào. Đây cũng là loại dầu có nhiều vitamin A, D, F, K và chất chống oxy hoá nên khả năng hấp thụ vào cơ thể rất lớn. Một số nghiên cứu gần đây cho biết trong dầu ô liu có nhiều axit béo, vitamin tốt cho sức khỏe, giúp cơ thể ngăn ngừa ung thư. Bên cạnh đó, dầu ô liu còn có tác dụng làm thuốc đặc trị chữa một số bệnh như: Dầu ô liu giàu axit béo có lợi cho cơ thể hơn bất cứ dầu thực vật nào Thúc đẩy tuần hoàn máu Dầu ô liu có thể phòng ngừa các chứng bệnh như xơ cứng động mạch, cao huyết áp, tâm lực hao tổn, thận suy yếu, xuất huyết não. Nghiên cứu mới đây cho thấy axit béo omega-6 trong dầu thực vật có thể làm cho động mạch thu co, từ đó làm cho tim phải gánh vác thêm nhiều công việc, gây ra cao huyết áp nhưng axit béo omega-3 trong dầu ô liu có thể tăng thêm lượng nitric oxide - một chất hoá học quan trọng, có thể làm “giãn nở” động mạch, giúp ngăn ngừa thương tổn động mạch do cao huyết áp gây ra. Ngoài ra, axit béo omega-3 còn có thể phòng chống máu vón cục nhờ khả năng làm giảm mức độ kết dính của máu, làm cho máu cục và chất xơ protit không dễ “ luẩn quẩn” vào nhau. Ngoài ra, axit béo omega-3 còn giúp giảm lượng gốc protit chất xơ, tức là có thể giảm bớt đi nguy cơ hình thành các khối máu. Cải thiện chức năng tiêu hoá Trong dầu ô liu giàu axit béo có lợi cho cơ thể hơn bất cứ một loại dầu thực vật nào. Đây cũng là loại dầu có có nhiều vitamin A,D, F, K, chất carotine, vitamin dung hoà chất béo và chất chống oxy hoá nhưng lại không có cholesterol, nên khả năng hấp thụ vào cơ thể là rất lớn. Dầu ô liu có chức năng làm giảm, ngăn chặn nguyên nhân gây ra bệnh viêm dạ dày và bệnh viêm loét 12 đốt đường ruột, đồng thời có thể kích thích dịch mật bài tiết, làm cho chất mỡ giảm thấp và “hoà tan”, để niêm mạc đường ruột hấp thụ, từ đó tránh gây ra bệnh viêm túi mật và sỏi mật. Củng cố chức năng nội bài tiết Dầu ô liu giúp tăng cường chức năng trao đổi chất cũ, mới trong cơ thể. Đó là vì trong dầu ô liu hàm chứa hơn 80% axit béo và axit béo omega-3. Khi hàm lượng acid béo trong mạc tế bào càng cao thì số lượng kết hợp tế bào kép càng nhiều, và tính linh hoạt càng mạnh. Chất DHA giúp tăng độ nhạy của insulin, khi cơ thể dung nạp một lượng axit béo thích hợp, chức năng trao đổi chất - cũ mới sẽ làm việc càng “thông suốt”, từ đó giảm được nguy cơ gây ra béo phì và bệnh tiểu đường. Có ích cho hệ xương Chất chống ô xy hoá thiên nhiên và axit béo omega-3 trong dầu ô liu đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ khoáng chất như canxi, photpho, kẽm của cơ thể, từ đó thúc đẩy hệ xương phát triển, duy trì mật độ cho xương, giảm bớt nguy cơ hình thành loãng xương do các gốc tự do gây ra. Phòng bệnh tim mạch Dầu ô liu giúp giảm viêm, tổn thương thành động mạch nhờ khả năng lọc bỏ axit amino Cysteine (Cys, C). Chất squalene trong dầu ô liu giúp tăng cường hàm lượng cholectrole tốt và giảm lượng cholestrole xấu trong cơ thể. Tác dụng chống ung thư Axit béo omega-3 kết hợp với omega-6 tranh hoạt chất xúc tác cần thiết cho sự trao đổi để các tế bào ác tính phát triển thành khối u ở các bộ phận như vú, tuyến tiền liệt, đại tràng, tử cung…. Ngoài ra, axit béo omega-3 còn có thể làm tăng thêm tác dụng hóa trị và xạ trị, giúp tăng mức độ công kích của các hóa chất, tia xạ để hủy hoại các tế bào ác tính. Theo Quang Ken
  20. Sách cổ: Kẻ thản nhiên vứt bỏ, người đỏ mắt đi tìm Cập nhật lúc 11:48, Thứ Bảy, 28/11/2009 (GMT+7), - Những tài liệu Hán Nôm cổ mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lịch sử, văn hóa nước nhà, cũng như là bằng chứng về ranh giới lãnh thổ dân tộc, đang dần mất đi. Tác phẩm chữ Nôm Phạm Công Cúc Hoa vừa được phát hiện có tên tác giả là Dương Minh Đức Thị, chứ không phải khuyết danh như được biết bấy lâu nay. Đây là một trong những kết quả đáng giá của hoạt động sưu tầm, phục chế tài liệu Hán Nôm thời gian qua được công bố tại hội thảo Tài liệu Hán Nôm - bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc ở TP.HCM. Những phát hiện quý giá Phạm Công Cúc Hoa do linh mục Joseph Nguyễn Hữu Triết công bố tại hội thảo được xem là bản xưa nhất với đầy đủ thông tin về tác giả, nhà xuất bản và thời gian ra đời. Theo đó, Phạm Công Cúc Hoa do tác giả Dương Minh Đức Thị biên soạn, Thiên bảo lâu Thư Cục xuất bản năm 1880, Minh Chương Thị đính chính và hiệu sách Quảng Thạnh Nam, Chợ Lớn phát hành. Một tài liệu đặc sắc khác cũng được công bố là bản Kiều chép tay gồm 58 trang từ câu 2313 đến câu 3254. Bản Kiều được Tiểu Tô Lâm Nọa Phu chép tay tại Tây hiên Bộ Công trong triều đình Huế vào ngày 19/8 năm Canh Ngọ (tức 14/9/1870) dưới triều vua Tự Đức, dùng để đính chính một số chữ Nôm trong các bản Kiều khác. Đặc biệt, bản Kiều này có bài văn lễ chữ Nôm của Kim Trọng làm lễ Thúy Kiều bên sông Tiền Đường, được xem là rất quý hiếm. Bản Phạm Công Cúc Hoa của tác giả Dương Minh Đức Thị, in năm 1880. Người cung cấp bản Truyện Kiều quý kể trên - nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân, cho rằng việc lưu giữ, sưu tầm càng nhiều văn bản cổ, thì các nhà nghiên cứu càng có nhiều cơ sở để tìm hiểu sâu rộng hơn về tác phẩm. Theo ông Nguyễn Quảng Tuân, việc tìm kiếm bản gốc của tác phẩm để nghiên cứu là hết sức cần thiết, bởi chúng mang nhiều dấu ấn riêng giúp xác định được những thông tin văn hóa, xã hội, con người liên quan. Có khá nhiều văn bản cổ bị tam sao thất bản mà không có bản gốc để xác định chính xác. Truyện Kiều là ví dụ điển hình, với 5 dị bản chữ Nôm và 9 dị bản chữ quốc ngữ, được xem là một trong những văn bản cổ có nhiều dị bản nhất. "Chết" vì thiếu hiểu biết Hiện nay, ngoài việc được lưu trữ tại các thư viện, viện nghiên cứu, trong các bộ sưu tập tư nhân, văn bản Hán Nôm cổ còn lưu lạc trong dân gian khá nhiều. Ông Nguyễn Xuân Thanh - Giám đốc Thư viện tỉnh Thanh Hóa cho rằng: "Thanh Hóa là một trong những vùng đất có nhiều văn bản Hán Nôm cổ, rất nhiều trong số đó nằm rải rác ở ngoài dân gian. Nếu chúng ta không đẩy nhanh tiến trình sưu tầm, bảo quản, tài liệu cổ có nguy cơ biến mất với rất nhiều nguyên nhân: thời gian, thiên tai, không biết cách bảo quản, hoặc vứt bỏ do không biết giá trị...". Ông Thanh cho biết nhiều gia đình vì vài triệu đồng đã bán đi những bản sắc phong cổ. Ngược lại, một số gia đình lại giữ sắc phong khư khư, xem như bảo vật của dòng họ, xin sao chụp lại cũng không được nên việc sưu tầm gặp khó khăn. Mà người dân thì không đủ điều kiện bảo quản nên nhiều văn bản cổ quý hiếm theo thời gian hư hại, mai một dần. Bản Kiều chép tay quý hiếm từ thời Tự Đức.Nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân đưa ra giải pháp rằng phải đẩy nhanh tốc độ sưu tầm, dịch thuật các văn bản Hán Nôm cổ trước khi chúng biến mất: "Ai có điều kiện thì phải làm nhanh, lớp chúng tôi đã quá già rồi. Nếu không làm ngay từ bây giờ, tôi e vốn di sản quý giá này sẽ không còn có người đọc, hiệu đính và hiểu thấu đáo được”. Khó khăn lớn là hiện có quá ít người đủ khả năng tiếp cận, đọc, dịch văn bản Hán Nôm cổ, lại càng không được tập hợp cùng nhau để "hành động". Người đủ khả năng đã có tuổi, lớp kế cận thì chẳng có mấy ai. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng không có lớp kế thừa là vì nếu theo đuổi nghiên cứu Hán Nôm thì chẳng thể nào đủ ăn và sống được với nghề. Theo TS Đoàn Lê Giang, mỗi năm Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM vẫn tuyển sinh ngành Hán Nôm, sinh viên được miễn học phí nhưng cao nhất cũng chỉ có chừng 20 sinh viên/khóa. Do những hạn chế đặc thù, sinh viên học ngành này ra trường khó có việc làm để đảm bảo cuộc sống, nên khó có thể đi theo hướng nghiên cứu, dịch thuật Hán Nôm. Công tác sưu tầm, dịch thuật, bảo tồn tài liệu Hán Nôm vướng phải nghịch lý thừa người biết tiếng nhưng vẫn thiếu người dịch thuật. Cần hành động cấp quốc gia Ngay cả một nơi có điều kiện như Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, cũng chưa dịch và giới thiệu rộng rãi một phần trong 5.038 đầu sách, 30.000 đơn vị tư liệu phim, ảnh, bản rập các bài văn khắc trên đá, chuông đồng, khánh đá, biển gỗ... đang được lưu giữ tại đây. Có ý kiến cho rằng tài liệu quý chưa được dịch là vì người đang giữ chúng không muốn công bố, trao đổi với đơn vị khác. Họ muốn duy nhất mình có tài liệu độc, nếu đưa ra, chúng sẽ mất đi một phần giá trị! Bà Chu Tuyết Lan - Giám đốc Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm (Viện KHXH Việt Nam) giải thích là vì chưa có sự ràng buộc về việc trao đổi thông tin, tài liệu hay một chương trình nghiên cứu hệ thống mang tầm quốc gia. Bà Lan cho biết thêm, ngay cả khi đối tác nước ngoài gửi sang những tài liệu Hán Nôm quý, với lời đề nghị trao đổi tài liệu qua lại, viện này cũng hết sức đắn đo. Đã có nhiều cách bảo tồn tài liệu Hán Nôm quý từ cổ điển đến hiện đại được nhiều nơi áp dụng như: tăng cường trao đổi tài liệu giữa các viện nghiên cứu, các nhà sưu tập tư nhân; sưu tầm, phục hồi văn bản bằng công nghệ Microfilm kết hợp với phương pháp số hóa... Nhưng tài liệu Hán Nôm cổ vẫn chịu cảnh manh mún, thiếu hệ thống, không tập trung và... biến mất dần. Ông Bùi Xuân Đức, Giám đốc Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM cho rằng, cần thiết phải có một chương trình hành động đồng bộ, mang tầm quốc gia, đặc biệt là cần đẩy nhanh việc trao đổi, ký gửi các văn bản Hán Nôm cổ tại các thư viện, viện nghiên cứu nếu tài liệu đó thuộc tài sản cá nhân. Chỉ có hành động cấp thiết, thì những tài liệu Hán Nôm cổ mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lịch sử, văn hóa nước nhà, cũng như là bằng chứng về ranh giới lãnh thổ dân tộc, mới được bảo tồn, phát huy giá trị. Lê Tám nguồn vietnamnet.vn
  21. Thật lạ khi bạn cần một người khác cho quẻ thì Wild lại ngẩu hứng với câu hỏi củ của bạn, và cũng thật kỳ diệu quẻ hôm nay cũng trùng hợp mà không thể luận khác được. Đó là tính ưu việt của Bát môn Lục Nhâm và tính quyết định của số mệnh, mà tôi tin bạn sẽ trãi qua như tôi cảm nhận. Lần này Quẻ ứng là: thương tốc hỷ....khai xích khẩu....hưu tiểu cát. Không khác mấy lần trước??? Có thể chuyện giật gân đến với bạn lần này tôi khẳng định chuyện không như ý vì lần này là Thương tốc Hỷ, thay vì kinh tốc hỷ. Và kết luận: bạn xem lại lời luận đoán trước. Tôi thật sự mong chờ sự kiểm chứng từ nơi bạn.
  22. Mê tín dị đoan và tôn giáo Bạn đọc nghĩ sao khi tôi kể là ở một số vùng quê của Trung Hoa, khi người cha đi vào rừng săn bắn thì không ai ở nhà được vẽ hình hay vạch lằn trên đất cát vì làm như vậy thì người đi săn trong rừng sẽ bị lạc đường? Hay là ở Ấn Độ, nếu một người đàn bà bị khó khăn khi lâm bồn mà uống một chén nước đã được bà mẹ chồng của cô ấy nhúng ngón chân cái vào thì sẽ sanh được nhanh chóng? Chắc chắn sẽ có một số bạn đọc nghĩ là những người nầy sao lại mê muội một cách buồn cười. Làm sao mà những vết vẽ trên đất cát ở nhà lại có thể làm người đi săn trong rừng lạc lối được? Cũng như làm gì có chuyện ngón chân cái của bà mẹ chồng có thể làm cho con dâu sanh nhanh được!? Vậy mà nếu có chổ, và thời gian, tôi có thể kể ra hàng trăm những tập tục lạ lùng khác mà quí bạn đọc cũng sẽ có những nhận xét tương tự. Những tập tục nầy xảy ra ở những lục địa khác, những quốc gia khác, hoặc trong một thời điểm khác. Tôi xin kể thêm một vài tập tục nữa. Thí dụ như nếu lỡ làm đổ muối trên bàn ăn thì phải lấy thêm một nhúm nữa và thảy qua vai bên trái ra phía sau lưng mình, nếu không thì sẽ gặp điều không may mắn. Thí dụ nếu như một cái móng ngựa được treo trước cửa nhà mình ngửa lên giống hình chữ U thì nó sẽ mang đến may mắn; còn nếu treo chổng ngược đầu xuống thì nó sẽ mang đến xui xẻo.Cũng như thí dụ nếu ai lỡ làm vỡ tấm gương soi mặt của mình thì sẽ bị nhiều rủi ro trong 7 năm. Không ít độc giả chắc đã nghe qua ít nhất một hay hai tập tục ở trên rồi; tuy không chắc là có tin hay thực hành chúng. Những tập tục nầy rất phổ thông trong xã hội Tây Phương ngay cả ngày hôm nay. Nhờ phương tiện truyền thông và di chuyển dễ dàng, nhiều phong tục tập quán trong đời sống Tây Phương đã trở thành khá quen thuộc với một số lớn người Á Đông. Thêm một vài thí dụ nữa. Có một số ngày như ngày thứ năm, thứ mười bốn và thứ hai mươi ba trong mỗi tháng âm lịch được coi là những ngày không may mắn nếu khai trương tiệm quán hay đi chơi xa, cưới hỏi, v.v. Ngày, giờ và năm sinh của mỗi người có ảnh hưởng đến tương lai, sự nghiệp, tình cảnh gia đình và cả tuổi thọ của người ấy. Khi hai người nam và nữ sinh ra vào những năm “kỵ” với nhau, nếu lấy nhau làm vợ chồng thì không thể nào hạnh phúc được; trong những trường hợp nghiêm trọng thì một trong hai người sẽ chết sớm hơn “tuổi thọ” của họ nếu hai người không lấy nhau. Trong những đám tang, hay lễ cúng, người ta đốt những hình tượng quần áo, giày dép, tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, v.v. làm bằng giấy để cho người chết ở một cõi khác có thể xử dụng được. Đến đây thì tôi chắc là hầu hết độc giả Việt Nam đều đã nhận ra những tập tục kể trên. Có khi chính một số chúng ta cũng thường xuyên tuân hành theo những tập tục nầy trong đời sống hàng ngày. Những thí dụ vừa rồi, và những thí dụ kể trên, cũng như bao nhiêu thí dụ khác mà tôi không thể nào kể hết ra được ở đây đều giống nhau ở một điểm: chúng đều là mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan, theo định nghĩa, là niềm tin rằng một hiện tượng xảy ra vì là hậu quả của một hiện tượng khác, trong khi thật ra không có mối liên hệ nguyên nhân hậu quả gì giữa những hiện tượng nầy. Trong thực tế, người ta thường làm (hoặc tránh làm) một hành động gì đó để một sự việc gì khác xảy ra (hoặc không xảy ra) trong khi thật sự là hành động nầy không tạo thành hay sinh ra bởi sự việc nầy. Voltaire cho rằng một người mê tín cũng như một kẻ nô lệ bị trói buộc bởi những nỗi lo sợ vô cớ do chính mình áp đặt lên cho mình. Trên thế giới có hai nhóm người rõ rệt: một nhóm không mê tín, một nhóm mê tín; và phần đông ai cũng nghĩ là mình thuộc về nhóm thứ nhất. Tùy một người là ai mà họ thấy cái gì là mê tín, cái gì là không. Một người Pháp chẳng hạn, khi đi qua nước Ý sẽ thấy hầu như mọi thứ chung quanh ông ta đều có dính dáng đến mê tín dị đoan. Như đã thấy ở trên, khi một người Á Đông đọc về những mê tín của Tây Phương chẳng hạn, họ sẽ cười mà cho rằng những dân tộc nầy quả thật là chậm tiến và mê muội. Cũng tương tự như khi một người Tây Phương đọc về những mê tín dị đoan của Đông Phương. Nhưng khi đọc bảng liệt kê những mê tín dị đoan của loài người, không bao lâu sau, hầu hết ai cũng sẽ nhận ra ngay rất nhiều thứ mà chính họ đang thực hành hằng ngày. Khi một đứa trẻ mới sinh ra, trong người của nó không có sẵn một chút mê tín dị đoan nào cả. Nhưng khi lớn lên, đứa trẻ từ từ học được những hành động, những phản ứng, những cách suy nghĩ nầy qua gia đình và xã hội chung quanh. Đại đa số những tập tục mê tín trong gia đình của cha mẹ sẽ được truyền qua gia đình của con cái trong tương lai, cộng thêm (hay trừ bớt) một số những mê tín khác mà những đứa con nầy thu lượm từ kinh nghiệm trong đời sống của chúng. Những người có nghề nghiệp càng nguy hiểm, càng bấp bênh, càng tùy thuộc vào thiên nhiên thì thường càng có nhiều thủ tục mê tín gắn liền vào cách thức, lề lối sinh sống hàng ngày của họ. Mê tín trở thành những thói quen phiền toái, tốn kém. Tuy vậy đây là những thiệt thòi người ta sẵn sàng đánh đổi để cho họ cảm thấy an tâm và “an toàn” hơn. Người ta tin tưởng một cách nghiêm cẩn và chăm chỉ về những hiện tượng huyền bí “nho nhỏ” nầy, tuy rằng không ai thật sự hiểu rõ nguồn gốc hay cách vận hành của chúng ra sao. Họ lý luận rằng thà là tuân theo những luật lệ siêu nhiên “nho nhỏ” nầy còn hơn là “lỡ có gì thì sao?” Mê tín dị đoan sinh ra và tích lũy lại từ sự thiếu hiểu biết của con người trong những niên đại mà khoa học chưa được lập thành hay phát triển. Bản năng tự nhiên, và nhu cầu sinh tồn, của con người thúc đẩy họ phải tìm ra những giải thích “thỏa đáng” cho chính họ về những hiện tượng xảy ra chung quanh. Tại sao khi thì săn bắt được nhiều thú rừng, khi thì không? Tại sao năm nay cây trái mùa màng lại thấp kém hơn những năm trước? Tại sao nếu sáng nào bà X vào mua hàng đầu tiên ở cửa tiệm của mình rồi thì suốt ngày đó sẽ buôn bán ế ẩm? Tại sao cái computer trong văn phòng của mình lại hay bị hư khi mình mặc áo màu đen đi làm? Sự sợ hãi về các hiện tượng thiên nhiên và “siêu nhiên” vẫn còn tác động mãnh liệt trong tiềm thức con người ngày nay không khác gì trong ông cha họ lúc còn ăn lông ở lỗ. Mê tín có thể phát xuất từ những luật lệ trong xã hội ngày xưa, nhưng lâu ngày rồi ý nghĩa của những luật lệ nầy bị quên lãng đi và người ta chỉ còn biết rằng “không được làm việc đó, nếu làm sẽ đem lại hậu quả xấu”. Thí dụ như trong phong tục Việt Nam, nếu bị “đòn vông” của những nhà hàng xóm đâm chỉa vào hướng nhà của một người thì gia đình người ấy sẽ gặp nhiều điều kém may mắn. (Trong lối kiến trúc xưa của một căn nhà thông thường trong dân gian, đòn vông là thanh gỗ nằm cao nhất trên nóc, dọc theo chiều dài của nhà). Thuở xưa khi làng xóm, quận lỵ mới được thành lập, vì muốn cho nhà cửa nằm tương đối có thứ tự lớp lang, vua quan ra lệnh là dân chúng phải xây cất nhà làm sao cho đòn vông của nhà hàng xóm không đâm xỉa vào nhà mình. Dần dần rồi người ta quên mất đi lý do trên và biến đổi luật lệ thực dụng nầy ra thành một mê tín vẫn còn thông dụng ngày nay. (Và trong những trường hợp không tránh được đòn vông của láng giềng xỉa vào nhà mình thì ngày nay người ta thường treo một tấm gương lên đầu tường hướng ngược lại phía cây đòn vông để “phản chiếu vận xui đi nơi khác”!) Có người tin rằng nhiều mê tín dị đoan ngày nay là dấu tích của những tín ngưỡng tôn giáo trong thời xa xưa. Thí dụ như nhiều người tin rằng Thứ Sáu mười ba là một ngày rất xui xẻo. Một trong những cách giải thích là theo Kinh Thánh, ngày thứ Sáu là ngày Eva dụ Adam phạm tội, cũng như là ngày trận Hồng Thủy bắt đầu, cũng như là ngày Jê-Su bị đóng đinh; kết hợp với việc trong buổi ăn cuối cùng của Jê-Su có 12 người tham dự, với người thứ 13 là Ju-da, kẻ đã phản bội Jê-Su. Một thí dụ khác là người Tây Phương hiện nay vẫn thường buột miệng nói “Xin Chúa ban ơn!” sau khi thấy một người nhảy mũi. Vào thế kỷ thứ 6, người ta tin rằng khi nhảy mũi thì ma quỷ trong người sẽ bị văng ra ngoài. Về sau, khi có bệnh dịch lan tràn, nhiều người bị nhảy mũi dữ dội khi bị nhiễm bệnh, Đức Giáo Hoàng đương thời ra lệnh phải xin Chúa độ ơn khi thấy một người vừa nhảy mũi (vì với trình độ y khoa sơ đẳng của thời ấy, rất nhiều người sẽ chết khi bị nhiễm dịch). Theo tôi, nếu nhìn từ một phương diện khác thì mê tín dị đoan và tôn giáo đều được bắt đầu từ một nguồn gốc chung. Cả hai đều có những đặc điểm rất tương đồng với nhau như sau: - Cả hai đều được thành hình từ nhu cầu cần thiết để cố gắng giải thích về những hiện tượng khó hiểu chung quanh con người. - Cả hai đều gán ghép những liên hệ nguyên nhân hậu quả vào một số hiện tượng mà không hề chứng minh rõ ràng được về những mối liên hệ nầy. - Cả hai đều dựa lên một nền tảng chung để truyền bá và vận hành, đó là sự sợ hãi. - Cả hai đều chỉ có giá trị giới hạn trong một tập thể, một địa phương nào đó. Bên ngoài biên giới của những tập thể hay địa phương nầy, cả hai đều có thể bị coi là vô căn cứ, chậm tiến hay thậm chí mê muội, mù quáng. Để dẫn giải cho nhận định trên, tôi sẽ lấy thí dụ về một người có tôn giáo (nhất là các tôn giáo độc thần như Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo). Người nầy răm rắp thi hành những điều luật mà Thượng Đế của họ đặt ra vì nếu không thì họ sẽ bị trừng phạt; trong khi chính họ không thể giải thích hay chứng minh rõ ràng được về nguồn gốc, tính chất của những Thượng Đế nầy. Để lấp vào lỗ hổng đó, họ dùng cái gọi là “đức tin” để biện hộ cho hành động của họ. Một thí dụ nữa là tín đồ nầy tin rằng có một nơi chốn gọi là “thiên đàng” để ban thưởng họ sau khi chết, cũng như có một nơi chốn gọi là “địa ngục” để trừng phạt những kẻ không tuân lời Thượng Đế, kể cả những kẻ “ngoại đạo”. Dĩ nhiên là không ai biết hay tin chắc chắn là có những nơi chốn như vậy. Nếu không thì tại sao các tín đồ Thiên Chúa giáo chẳng hạn, khi mắc bệnh hiểm nghèo thì họ lại cầu nguyện để được sống lâu thêm trên cái trần gian đầy đau khổ nầy thay vì được mau đưa về Thiên Đàng an hưởng đời đời với Thiên Chúa? Nếu tin ở Hỏa Ngục thì tại sao lại có vô số người rất sùng đạo lại vẫn cố tình phạm những tội lỗi mà Thượng Đế của học đã nghiêm cấm không được làm? Một nhận xét khá lý thú là ngay chính tôn giáo cũng nhìn nhận sự hiện hữu của mê tín dị đoan, và phần lớn công khai bài bác những tập tục “mê muội, mù quáng” nầy. Có điều là chữ “mê tín” trong tôn giáo thường được dùng đồng nghĩa với “những lễ nghi, giáo điều, tín ngưỡng, v.v. của các tôn giáo khác”. Nếu một hiện tượng không giải thích được xảy ra trong một tôn giáo, người theo tôn giáo ấy cho đó là một “phép mầu”; nếu một hiện tượng giống như vậy xảy ra trong tôn giáo khác, theo họ đó là “điều huyễn hoặc”. Mỗi tôn giáo đều tự cho rằng tôn giáo mình không mê tín vì họ có “bằng chứng” để hỗ trợ cho những lễ nghi, giáo điều, tín ngưỡng, v.v. của họ. Và “bằng chứng” duy nhất và tối quan trọng nhất là “đức tin” của họ. Như đã nói ở trên, với “đức tin”, họ không cần phải giải thích được bằng kiến thức khoa học hiện thời về bất cứ điều gì. Phương cách nầy rất tiện lợi và hữu dụng, nhưng lại có một khuyết điểm rất lớn. Đó là hầu như mỗi tôn giáo, mỗi nhóm phái đều có một đức tin khác nhau, và nhiều khi hoàn toàn đối nghịch nhau. Điều nầy gây ra nhiều sự rối loạn trong hàng ngũ của các tôn giáo. Nếu lại lấy Thiên Chúa giáo làm thí dụ, thì ngay những nhóm người cùng coi mình là con chiên của Jê-Su cũng đã luôn có những quan điểm khác nhau khi nói về mê tín. Trong Thiên Chúa giáo, hình như không ai đồng ý với ai về việc cái gì là mê tín, cái gì là không. Khi viết về mê tín dị đoan, Voltaire nói "mê tín dị đoan phát sinh từ tục lệ trong nhân gian hoặc những đạo đa thần, nhập vào Do Thái giáo rồi lan truyền sang toàn thể Thiên Chúa giáo ngay từ thời buổi ban đầu. Tòa Thánh luôn luôn chê trách pháp thuật, nhưng lúc nào cũng tin vào phép mầu. Tất cả những linh mục trong Tòa Thánh, không ngoại trừ bất cứ ai, đều tin vào huyền lực của phép mầu". Voltaire cũng nhận xét thêm rằng ở thời ông ấy thì "Ngài Tổng Giám Mục của địa hạt Canterbury cho rằng Ngài Tổng Giám Mục của địa hạt Paris là mê tín, nhóm Tin Lành cho rằng Ngài Tổng Giám Mục của Canterbury là mê tín trong khi chính họ cũng bị những người Quakers cho là mê tín. Trong khi đó, nhóm Quakers lại bị coi là những người mê tín dị đoan nhất bởi mọi nhóm khác trong Thiên Chúa giáo". Tình trạng đó cũng vẫn không khác gì mấy ngày nay. Đạo Tin Lành vẫn cho rằng những thánh vật, sự hiện thân của Đức Mẹ Đồng Trinh, sự cầu nguyện cho người chết, nước thánh, v.v. cũng như hầu hết những nghi lễ của Công Giáo đều là mê tín dị đoan. Đối với họ, mê tín là lấy những việc không cần thiết mà thực hành như những việc tối cần thiết. Ngay trong Công Giáo cũng có những nhóm đã gạt bỏ bớt đi nhiều hình thức rườm rà mà nhiều người Công Giáo khác cho là thiêng liêng và cần thiết. Tuy vậy, nhóm nầy thường không công khai đả kích những người vẫn đeo giữ những thủ tục cổ hủ, vì theo họ thì những lễ nghi nầy "cũng không có gì nguy hại hay tội lỗi cả". Trong cái gọi là Phật giáo ngày nay, chúng ta cũng có thể kể ra một lô dài bất tận những thủ tục, nghi lễ nằm đúng hoàn toàn trong cái định nghĩa của mê tín dị đoan ở trên. Tôi tin rằng điều nầy cũng có thể áp dụng cho tất cả các tôn giáo Đông Phương khác từ Ấn Độ giáo, Hồi giáo cũng như những tôn giáo nhỏ như Cao Đài, Hòa Hảo, v.v. Những tôn giáo nầy (trừ Hồi giáo) thường không kình chống lẫn nhau công khai và có khi đầy tính cách bạo động như trong trường hợp của Thiên Chúa giáo. Tuy vậy trong nhóm tôn giáo Đông Phương, các nghi lễ, phương cách tụng niệm, hình tượng của một tôn giáo cũng vẫn thường bị xem là mê tín dị đoan bởi người trong những tôn giáo khác. Có người cho rằng nhóm phái nào có ít nghi lễ nhất thì có lẽ là ít mê tín nhất. Nhưng theo tôi thì nói như vậy đâu có khác mấy với nói rằng "con mèo nào có đuôi càng ngắn thì càng có ít tính chất 'mèo' hơn". Chúng ta hãy áp dụng cái định nghĩa của mê tín dị đoan ở trên vào những tính chất đặc thù của tôn giáo. Khi phân tích những thí dụ ở trên, chúng ta thấy rõ ràng là trong tôn giáo, người ta làm (hoặc tránh làm) những hành động gì đó chỉ vì để được tưởng thưởng (hoặc không bị trừng phạt) bỡi một đấng Tối Cao. Trong khi đó, người ta thật sự không có cách nào biết rõ về sự hiện hữu của nhân vật Tối Cao nầy, chớ đừng nói gì đến có thể giải nghĩa thích đáng được về sự liên hệ giữa những hành động và sự thưởng phạt nầy. Yếu tố nầy chúng ta đã thấy nằm trong trường hợp của mê tín dị đoan. Từ những nhận xét trên, nhiều người không khỏi đi đến kết luận rằng tôn giáo chỉ là những tập hợp của một số mê tín đã được hệ thống hóa lại. Nói chung, tôn giáo thường là các tổ chức có chính sách truyền bá với kế hoạch và quy củ chặt chẽ trong khi mê tín dị đoan thường chỉ là những “kiến thức” truyền miệng trong dân gian. Yếu tố khác biệt nầy làm cho nhiều người trong chúng ta không thấy được là cả hai đều liên quan rất mật thiết với nhau từ nguồn gốc cho đến cách vận hành. Tôn giáo thay đổi với thời gian. Những thay đổi trong tôn giáo thường cần thiết để đáp ứng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, với nhu cầu đời sống của xã hội, và có khi với áp lực chính trị bên trong cũng như bên ngoài tổ chức tôn giáo. Nhờ có luật lệ, quy củ rõ rệt, những thay đổi trong tôn giáo thường xảy ra tương đối nhanh chóng. Thí dụ như sau nhiều thế kỷ truyền dạy theo lời Kinh Thánh rằng mặt đất là một mặt phẳng, khi phải đối diện với bằng chứng khoa học không thể chối cải được, Tòa Thánh đã ban lệnh là từ đó mọi người phải tin rằng mặt đất thật ra có dạng một quả cầu. Thí dụ như hôn nhân đã từng được coi là một giao kèo bất di bất dịch giữa hai người trước mặt Thiên Chúa; sự ly thân của hai vợ chồng, bất cứ vì lý do gì, là một tội nghiêm trọng không thể tha thứ được. Ngày nay, với lề lối sinh sống và quan niệm tình cảm hiện đại của đa số tín đồ, Tòa Thánh cũng đã phải sửa đổi cái nhìn về vấn đề nầy; nhờ vậy mà ly dị không còn là một tội lỗi đáng bị trừng phạt bởi Thiên Chúa nữa. Mê tín dị đoan, trên mặt khác, thường ít thay đổi; hoặc nếu có thì cũng chỉ với một tốc độ rất chậm. Như đã nói, mê tín dị đoan thường chỉ được thực hành ở lãnh vực cá nhân hơn là một cách tập thể, công khai, với văn bản, luật lệ hẳn hoi như trong trường hợp tôn giáo. Người ta thường dễ dàng chấp nhận hơn nếu một mê tín không chạy theo kịp kiến thức khoa học kỹ thuật hay quan niệm xã hội. Vì không có tổ chức, cơ cấu, ban điều hành, v.v. như tôn giáo, mê tín dị đoan thường không cần lo lắng đến việc có thể bị chỉ trích công khai bởi báo chí, dư luận, nhà cầm quyền, v.v. Vì không có những áp lực chính trị nầy, mê tín dị đoan tương đối được “bỏ lơ” để tồn tại không thay đổi mấy từ thế kỷ nầy qua thế kỷ nọ. Mê tín dị đoan có thể gây ra phiền phức, tốn kém cho cá nhân và xã hội. Những phiền phức, tốn kém nầy thường tương đối nhỏ hẹp và giới hạn. Tuy nhiên, vì tôn giáo thường có tổ chức công khai, cơ cấu chặt chẽ, hàng ngũ rõ rệt, tài chính dồi dào, uy quyền to lớn nên ảnh hưởng của tôn giáo có thể nghiêm trọng và sâu rộng rất nhiều cho cá nhân và xã hội. Có người nói “tôn giáo vô hại cho đến khi có kẻ trở thành mù quáng vì nó”. Rất ít trường hợp một cá nhân hay tập đoàn tàn sát một cá nhân hay tập đoàn khác vì họ bất đồng ý với nhau về ý nghĩa của một điều mê tín gì đó. Tuy nhiên, lịch sử đã có biết bao nhiêu trang đẫm máu chỉ vì những bất đồng ý kiến về cách giảng giải khác nhau về vài chi tiết trong kinh sách tôn giáo. Nói chung, tùy một người tin vào những gì mà một hành động, một hiện tượng đối với người đó có thể là mê tín dị đoan hay tín ngưỡng chính đáng. Trình độ giáo dục, bằng cấp văn hóa, kiến thức kỹ thuật không chắc có thể đem đến khả năng chống cự lại ảnh hưởng của mê tín dị đoan. Chúng ta đã từng thấy bác sĩ, kỹ sư, bác học, triết gia, v.v. cũng vui vẻ tuân theo các điều mê tín không khác gì những người buôn bán, chạy xe ôm hay ăn xin ngoài đầu chợ. Viên chức cao cấp trong tổ chức chính trị hay lãnh tụ quốc gia cũng không miễn nhiễm trong vấn đề nầy. Tất cả đều ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp công khai thi hành những thủ tục “cần thiết” nầy hàng ngày mà không hề thắc mắc. nguồn dactrung.net
  23. Ăn cho đủ máu SGTT - Tận dụng cách đưa thuốc vào cơ thể bằng phương pháp ẩm thực, có thể giúp cải thiện đáng kể tình trạng thiếu máu. Gan động vật rất tốt để cải thiện tình trạng thiếu máu. Ảnh: Thanh Hà Có nhiều nguyên nhân gây ra thiếu máu nhưng thường gặp hơn cả vẫn là do ăn uống: ăn chế độ kiêng khem lâu dài, ăn những thực phẩm không chứa hoặc chứa hàm lượng sắt quá thấp, tỷ lệ dinh dưỡng khi ăn không phù hợp... Thiếu máu nhẹ thường không thấy rõ, thiếu máu nặng hơn sẽ xuất hiện các triệu chứng như da trắng nhợt, thở gấp, tim đập nhanh, choáng váng, hoa mắt, ù tai, trí nhớ suy giảm, mất sức, chán ăn và xuất huyết… Khi bị thiếu máu, điều đầu tiên là phải xác định cho được nguyên nhân để có biện pháp xử lý triệt để, đồng thời cần tích cực điều trị triệu chứng và nuôi dưỡng hợp lý nhằm đem lại sự hồi phục nhanh chóng nhất cho người bệnh. Trong y học cổ truyền, thiếu máu thuộc phạm vi các chứng hư lao, huyết chứng, nội thương phát nhiệt... Ngoài dùng thuốc đơn thuần, các danh y xưa và nay còn rất chú trọng sử dụng phối hợp dược phẩm và thực phẩm để tạo thành các món ăn cho dược thiện tốt, nhằm điều trị hỗ trợ và duy trì một cách tích cực đủ lượng máu nuôi cơ thể. Sau đây là những món ăn cho thuốc dùng được cả cho người lớn và trẻ em bị thiếu máu. Tuỳ điều kiện mà lựa chọn sao cho thích hợp, hiệu quả và thuận tiện nhất. Gà hầm tam thất: thịt gà 150g, tam thất 10g, gừng tươi 10g. Thịt gà chặt miếng nhỏ, tam thất thái mỏng, gừng giã nát. Tất cả cho vào tô, đổ đủ nước, đậy kín miệng rồi đem hấp cách thuỷ trong hai giờ. Nêm đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Gan heo xào nấm mèo đen: gan heo 400g, nấm mèo đen 80g, dưa chuột 100g. Hành, gừng, bột nêm, bột năng, dầu mè mỗi thứ vừa đủ. Nấm mèo đen ngâm nở, để ráo nước. Gan heo rửa sạch, bỏ màng, thái lát. Dùng bột năng, bột nêm trộn đều với gan. Dưa chuột rửa sạch, thái lát xéo, hành cắt đoạn, gừng thái sợi. Đổ dầu vào chảo, chờ dầu nóng, thêm hành và gừng vào xào thơm. Đổ nấm mèo đen vào xào chín. Sau đó đổ gan heo vào đảo đều, thêm bột nêm, dưa chuột, xào lại rồi rưới dầu mè lên. Canh bong bóng cá thu: bong bóng cá thu 10g, đương quy 10g, hồng táo 10 quả. Tất cả sắc thành canh. Uống mỗi ngày hai lần, uống dài ngày. Thịt heo cốt lết xào nấm hương: nấm hương 100g, thịt cốt lết 200g, cà rốt 100g. Gừng, hành, bột nêm, bột năng và bột tiêu mỗi thứ vừa đủ. Nấm hương ngâm nở, thái sợi. Thịt cốt lết thái miếng vừa ăn. Cà rốt gọt vỏ, thái sợi. Gừng và hành thái sợi. Đổ dầu vào chảo, chờ dầu nóng cho hành, gừng vào phi thơm, sau đó đổ thịt vào xào đều, rồi thêm nấm hương. Xào chín, thêm cà rốt, bột nêm, bột tiêu. Dùng bột năng làm xốt. Cháo gan: gan động vật tuỳ thích 50g, rửa sạch, thái miếng nhỏ. Gạo nếp 50g, cho nước vào nấu thành cháo nhừ cùng gan. Cháo sánh là ăn được. Cháo gà nấu hoàng kỳ: gà mái một con khoảng 500g, hoàng kỳ 15g, gạo tẻ 100g. Gà mái làm sạch, đun lấy nước đặc. Sắc hoàng kỳ lấy nước riêng. Sau khi trộn hai thứ nước này, nếu thiếu cho thêm nước, rồi cho gạo vô nấu thành cháo. Ăn nóng vào sáng và tối. Chè mộc nhĩ đen: mộc nhĩ đen 15g, hồng táo 20 quả. Mộc nhĩ đen ngâm cho nở. Sau đó cho mộc nhĩ và hồng táo vào tô, đường phèn một chút, đem hấp cách thuỷ sau một giờ là được. Chè đậu xanh táo đỏ: đậu xanh 50g, táo đỏ 50g, đường vừa đủ. Đậu xanh ngâm nước khoảng hai giờ, táo đỏ rửa sạch. Bắc nồi lên bếp, thêm nước, đổ đậu xanh và táo đỏ vào, nấu lửa nhỏ cho đến khi đậu nở, táo đỏ phình đầy, nêm đường. Chè hà thủ ô trứng gà: hà thủ ô 50g, trứng gà hai quả, đường vừa đủ. Cho hà thủ ô và trứng gà vào nồi đun nhỏ lửa trong 30 phút, sau đó bóc vỏ trứng rồi lại cho vào đun tiếp khoảng 60 – 90 phút, thêm đường vào. Lưu ý khi chế biến, da gà chứa nhiều chất mỡ, trước khi nấu tốt nhất loại bỏ hay sau khi nấu thì vớt váng trên bề mặt. Ngoài ra, gan động vật nói chung và gan heo nói riêng, tuy chứa nhiều chất sắt, giúp tạo ra tế bào hồng cầu nhưng cũng chứa khá nhiều cholesterol, vì vậy người đang bị cao mỡ máu, bệnh mạch vành nên chọn cách khác để trị thiếu máu. Khi chế biến gan cần làm cho chín. ThS.BS Võ Thị Thu - Bộ môn đông dược, học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam
  24. Nguồn ở đâu vậy Thiên Đồng ?