-
Số nội dung
6.007 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
103
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by wildlavender
-
Nhị hợp này hơi sớm đó! 89 và 92 có sự nghiệp học hành tốt ko đã! Lấy bây giờ e rằng Nhị cách ly ....
-
Chúc mừng Sinh Nhật Rin86. Hạnh Phúc và May mắn trong cuộc sống!
-
Tên gọi hoặc sử dụng trong giao tiếp có giá trị pháp lý sẽ là cái tên mang vận số cho bạn.
-
Hôm nay Wild đã nhận được sự hổ trợ 500,000 đ (năm trăm ngàn)của Bác Thiên Sứ cho việc sữa chữa căn nhà của Chị Phước. Quỹ hiện có:567,000đ + 500,000đ=1,067,000 đ(một triệu không trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) Và 10,000 yen(mười ngàn yên nhật)
-
Đúng là tên họ có ảnh hưởng đến vận cách. Khi thay đổi cũng góp phần thay đổi số phận. Thường ngày nay có những người cẩn thận họ đã chọn một loạt tên cho đứa bé sắp sinh với mong muốn con mình có ngoại vận tốt. Nhưng cũng có người đã quyết một cái tên cho con, sau đó mới hỏi xem vận số.
-
Biên nhận Chùa Kỳ Quang sau khi nhận tặng Phẩm của Trung tâm.
-
Chị Phước ký nhận số tiền 5,500,000 đ(năm triệu năm trăm ngàn đồng).
-
Tuyệt đối hoá một tư tưởng, tư tưởng khác sẽ tháo lui Dành đặc quyền, tuyệt đối hoá một tư tưởng (tức là vi phạm quan điểm vô ý) thì những tư tưởng khác sẽ chảy ngược trở lại, sẽ tháo lui; tư tưởng được tuyệt đối hoá sẽ trở thành độc tôn, tự nó sẽ tạo ra hệ thống cho nó, từ đó trở thành trường phái, bè phái. Minh triết tam giáo trong văn hoá Việt Thử bàn về "tứ vô" của Khổng Tử Phan Bội Châu đặc biệt quan tâm đến tư tưởng "vô ngã" của Khổng Tử (xem Khổng học đăng, thượng thiên về "Luận ngữ trích lục diễn giải"). Hải Lượng (pháp danh của Ngô Thì Nhậm) trong viêc đánh giá Hàn Dũ (tự xưng là Hàn Xương Lê) lấy "tứ vô" của Khổng Tử làm chuẩn: "Đồ đệ bạch với thầy (Hải Lượng) rằng: Xương Lê đã đến bậc nhất của phù đồ chưa? Thầy đáp: Mới đến bậc ba, bậc bốn. Xương Lê cũng theo ý và tất, chẳng bằng "vô ý", "vô tất" mới thật tốt" (Ngô Thì Nhậm, "Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh"). Luận ngữ, chương IX, tiết 4 có câu: "Tử tứ tuyệt: vô ý, vô tất,vô cố, vô ngã", được Nguyễn Đức Lân dịch nghĩa là: "Phu tử có bốn điều tuyệt nhiên không mắc phải:...". Hiểu như thế nào đây "vô ý", "vô tất", "vô cố", "vô ngã"? Tôi thiên về cách hiểu, phân tích, diễn nghĩa của François Jullien [1]. Những ý kiến được trình bày dưới đây chủ yếu được tham khảo từ công trình của F.Jullien đươc dẫn ở chú thích 2. Vô ngã là muốn nói không có một cái ngã đặc biệt. Ảnh: amthuc.com Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến mà có nghĩa là: không có ý kiến nào được dành đặc quyền, được tuyệt đối hoá khiến cho ta không nhìn thấy những điều hợp lý,khả thủ của những ý kiến khác, kể cả những ý kiến đối lập. Vô tất có nghĩa là không định trước những điều thế tất, ắt phải như thé này, ắt phải như thế kia, không áp đặt những mệnh lệnh tất phải thế này, tất phải thế kia. Vô cố có nghĩa là không cố chấp một quan điểm nào, một lập trường nào. Vô ngã là muốn nói không có một cái ngã đặc biệt. Có liên quan mật thiết giữa 4 cái vô. Dành đặc quyền, tuyệt đối hoá một tư tưởng (tức là vi phạm quan điểm vô ý) thì những tư tưởng khác sẽ chảy ngược trở lại, sẽ tháo lui; tư tưởng được tuyệt đối hoá sẽ trở thành độc tôn, tự nó sẽ tạo ra hệ thống cho nó, từ đó trở thành trường phái, bè phái. Để duy trì địa vị độc tôn, để đối phó với những tư tưởng khác, nó buộc phải định trước những sự tất yếu (không tránh khỏi phiến diện) và đưa ra những mệnh lệnh chủ quan (vi phạm quan điểm vô tất). Tư tưởng độc tôn dẫn đến sự cố chấp trong quan điểm,lập trường(vi phạm quan điểm vô cố). Tư tưởng độc tôn,cố chấp quan điểm, lập trường cùng với những thành kiến ,định kiến cố hữu tạo ra một cái tôi (ngã) đặc biệt (moi particulier). Cái tôi đặc biệt là cái tôi khép kín trong sự phiến diện, bị định hình một cách cứng nhắc, không mở ra được đặng khai thông với những mặt khác của thực tại, của cuộc sống, của nhận thức... bao giờ cũng vô cùng sinh động và phong phú. Vô ý, với ý nghĩa là không tuyết đối hoá một tư tưởng nào,quan tâm đúng mực mọi tư tưởng (cũng như mọi phương diện, mọi khả năng của thực tại) là một tư tưởng cơ bản trong minh triết của K.T. Quan tâm đúng mực mọi tư tưởng giống như mở ra mọi cánh cửa, thấy được mọi ngả đường. Còn như tuyệt đối hoá một tư tưởng thì giống như có một cánh cửa được mở toang ra nhưng những cánh cửa khác thì bị khép lại, có thể nhìn xa hơn, thấy rộng hơn theo một ngả đường nhưng trả giá cho lợi thế này có khi là sự mù trước những ngả đường khác. Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến, không có tư tưởng;quan điểm vô ý ngăn ngừa sự độc quyền hoá của một tư tưởng. Câu nói của K.T. "Quân tử chu nhi bất tỷ, tiểu nhân tỷ nhi bất chu" (Luận ngữ ,II,14) được F.J. hiểu như sau: "Người quân tử bao quát tổng thể, không thiên vị một phía nào, kẻ tiểu nhân thì ngược lại", (bản dịch của Đ.T.C: "Bực quân tử xử được với tất cả mọi người vì chẳng có lòng tư vị, kẻ tiểu nhân vì tư vị cho nên chẳng xử được với mọi người"). Trong Kinh Dịch về quẻ Càn có câu: "Kiến quần long vô thủ, cát". Dịch: Thấy bầy rồng không có đầu, tốt (6 vạch ngang liền nét đều ngăn ngắt trong hình tượng quẻ Càn được hình dung như một bầy rồng không đầu).Vương Phu Chi (1619-1692) đã bình giảng câu này theo quan điểm vô ý của K.T. Bầy rồng không đầu có nghĩa là không có con rồng nào có đầu nhô ra, thòi ra, nổi hơn những con khác. Những con rồng được coi trọng ngang nhau, có nghĩa là những ý kiến, những tư tưởng, những phương diện khác nhau của thực tại được coi trọng ngang nhau. Như vậy cách nhìn minh triết là cách nhìn bao quát, thấy được và quan tâm mọi mặt, mọi khả năng của thực tại, không vì thiên lệch một phía mà ngoảnh lưng với những phía khác. Nhưng vô ý không có nghĩa là không dấn thân, không đứng về phía nào (trong hành động). Người minh triết quyết định dấn thân, đứng về phía nào, chọn khả năng nào là do đòi hỏi của tình thế, chứ không xuất phát từ những giáo điều có sẵn định trước phải gạt bỏ khả năng này, phải chạy theo khả năng nọ, phải ủng hộ phía này, phải chống lại phía kia... Để làm sáng tỏ tư tưởng này tác giả dẫn câu nói của K.T.: " Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích dã, vô mạc dã, nghĩa chi dữ tỷ" (Luận ngữ, IV, 10) mà Đ.T. còn dịch là: "Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người cố ý làm, không có việc gì người cố ý bỏ, hễ hạp nghĩa thì làm" (tôi tô đậm.H.N.H.); bình giảng câu này, F.Jullien có nêu lên một nghĩa cổ của chữ nghĩa là: đòi hỏi của tình thế và ông đã giảng hạp nghĩa là hạp với đòi hỏi của tình thế (chúng ta có thêm một cứ liệu ngôn ngữ học để hiểu chữ nghĩa của Khổng giáo). Minh triết có nhiều phương diện,biểu hiện ở nhiều đức tính. Ảnh: lieuquanhue.com Như vậy, người minh triết không phải là không có chủ kiến, duy có một điều đây không phải là chủ kiến có sẵn, được định trước cho mọi khả năng, mọi tình thế, mà đây là chủ kiến được đề ra từ những đòi hỏi của tình thế (cụ thể). Có thể hiểu rõ hơn quan điểm vô ý qua lời bàn sau đây của một nho gia: "Khi cần giàu thì giàu và khi cần nghèo thì nghèo, khi cần sống thì sống và khi cần chết thì chết". Như vậy, giàu hay nghèo, sống hay chết là những khả năng được coi trọng ngang nhau, chọn khả năng nào là tuỳ theo đòi hỏi của tình thế, người minh triết không cố chấp hoặc gạt bỏ trước (a priori) bất cứ khả năng nào. Trong Luận ngữ (XVIII, 8) K.T. có phân biệt ba loại thánh nhân. Họ đều bỏ công danh phú quý, đi ở ẩn nhưng họ có những phong độ ứng xử rất khác nhau. Loại thứ nhất như Bá Di, Thúc Tề "chẳng khuất chí mình, chẳng nhục thân mình" [bất giáng kỳ chí, bất nhục kỳ thân], không thể chê trách vào đâu cả; loại thứ hai như Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, kém hơn, "phải khuất chí mình, phải nhục thân mình". Tuy vậy, lời nói của họ "hợp luân lý" [ngôn trúng luân], việc làm của họ "hợp lòng mong nghĩ của dân" [hành trúng lự]; loại thứ ba như Ngu Trọng, Di Dật "ở ẩn nơi xa vắng và ăn nói rất tự do, phóng túng" [ẩn cư, phóng ngôn]nhưng "giữ mình đúng lẽ thanh khiết và biết bỏ phế đúng lẽ quyền biến" [thân trúng thanh, phế trúng quyền] (điều đáng chú ý là ngay ở loai thứ hai và loại thứ ba, trong phong độ có những chỗ có thể chê trách K.T. vẫn nhận ra ở họ sự chân chính và những phẩm giá đáng trọng, vẫn xem họ là thánh nhân). Sau khi nêu ba loại thánh nhân và không sắp mình vào một loại nào, K.T. hạ một câu: "Còn ta thì khác ở chỗ chẳng có gì là được hoặc không được" - tức là chẳng có gì là thích hợp với ta hoặc không thích hợp với ta [Ngã tắc dị ư thị vô khả, vô bất khả] (tôi tô đậm.H.N.H.). Trong ba loại người nói trên loại thứ nhất và loại thứ hai là hai thái cực đối lập với nhau, loại thứ ba xem như nửa này, nửa kia.K.T. không thuộc về loại thứ nhất, chẳng thuộc về loại thứ hai, càng không phải là loại thứ ba. Tử có thể là loại người này cũng như có thể là loại người kia, đó là tuỳ theo tình thế. Tử không phải là người cố chấp, cũng chẳng phải là người không cố chấp. Vì chưng Tử có thể cố chấp như những người cố chấp nhất, khước từ mọi sự nhân nhượng mà cũng có thể thoả hiệp hoàn toàn với người đời, miễn sao có cơ giúp ích cho đời. Người minh triết là người "không định ra được phẩm chất" (sans qualification) với ý nghĩa là không có phẩm chất như là thuộc tính "cố hữu", "bản chất", "bất biến", mà có phảm chất này hay phẩm chất kia là do đòi hỏi của tình thế. Ở Khổng Tử đức thời trung là đức hạnh của mọi đức hạnh Về đức hạnh của Khổng Tử, Mạnh Tử nói: "Lúc nên (khả dĩ) làm quan thì làm quan. Lúc nên (khả dĩ) bỏ chức thì bỏ chức. Cần (khả dĩ) làm quan lâu thì làm quan lâu. Cần (khả dĩ) ra đi gấp thì ra đi gấp. Đó là cái hạnh của đức Khổng vậy" (Khả dĩ sĩ, tắc sĩ. Khả dĩ chỉ, tắc chỉ. Khả dĩ cửu tắc cửu. Khả dĩ tốc, tắc tốc. Khổng Tử dã.), (Mạnh tử,. II,A, 2). Cái khả dĩ gắn với tình thế (cụ thể) và tình thế gắn với thời điểm (moment). Cái khả dĩ (possible) đồng thời là cái chính đáng (légitime) vì phù hợp với tình thế (cụ thể) và thời điểm, tức là phù hợp với thời và thế. Tiêu chuẩn của tính chính đáng cũng như của những phẩm chất đạo đức khác gắn một cách nội tại với tình thế và hoàn cảnh cụ thể. Cái chính đáng (vốn gắn với tình thế cụ thể) được đề lên thành quy tắc khái quát chung cho mọi tình thế không tránh khỏi trở thành vũ đoán. Đã đành người minh triết không chấp nhận những tư tưởng cá biệt quá (gắn với cái ngã đặc biệt) mà những tư tưởng khái quát quá cũng không tin vì loại tư tưởng này không tính đến đặc điểm của mỗi thời, sự khác biệt giữa những thời khác nhau. Minh triết có nhiều phương diện, biểu hiện ở nhiều đức tính. Có người là bậc thánh về phương diện này, có người là bậc thánh về phương diện nọ... Như nhận định của Mạnh Tử "ông Bá Di là bực Thánh có dức thanh khiết (Bá Di thánh chi thanh giả giã), ông Y Doãn là bậc thánh có đức trọng nhiệm (YDoãn thánh chi nhiệm giả giã), ông Huệ xứ Liễu là bậc thánh có dức ôn hoà (Liễu Hạ Huệ thánh chi hoà giả giã). Đức Khổng tử có đức thời trung (Khổng tử thánh chi thì giả giã "(tôi tô đậm.H.N.H.)". (Mạnh tử,V,B,1).Đức thời trung (chữ của Đoàn Trung Còn) là cái đức tuỳ theo thời và thế mà thanh khiết như Bá Di hoặc trọng nhiệm như Y Doãn hoặc ôn hoà như Liễu Hạ Huệ... Như vậy K.T. không phải là sự hiện thân của một nét "nhất thành bất biến" nào của minh triết mà tuỳ thời, tuỳ tình thế (cụ thể) K.T. thực hành phương diện này hay phương diện nọ của minh triết. Nhấn mạnh sự tập đại thành nhiều đức tính ở Khổng tử có thể che lấp đức thời trung ở Tử. Kết luận rằng Khổng Tử có đủ mọi đức tính không quan trọng bằng nhận định Khổng Tử đúng thời, đúng lúc (thời trung) thực hiện đức tính này hay đức tính nọ. Ở Khổng Tử đức thời trung là đức hạnh của mọi đức hạnh. Tuỳ thời thế chọn khả năng Bản thể là một khái niệm cơ bản của triết học phương Tây. Minh triết phương Đông không phải không biết đến bản thể nhưng mối quan tâm chủ yếu của minh triết là quá trình. Trung dung là tâm pháp để đièu tiết các quá trình.Mỗi quá trình trong sự tự tại của nó có sự tự điều tiết. Trung dung là sự gia công vào sự tự điều tiết này và phải dựa vào nó. Ý kiến của Mạnh Tử phê phán thái độ chấp trung, thái độ chấp nhất hết sức quan trọng để hiểu tinh thần của trung dung. Mạnh Tử nói rằng: "Dương Tử giữ lấy chủ nghĩa vị ngã, tức là chủ nghĩa của kẻ chỉ chuyên lo cho mình mà thôi. Dẫu nhổ một mảy lông trên mình mà lợi ích cho cả thiên hạ ông cũng chẳng chịu làm. Mặc Tử thi hành chủ nghĩa kiêm ái, thương tất cả mọi người như mình. Dẫu mòn nát tấm thân từ đỉnh dầu cho chí gót chân, mà có lợi ích cho cả thiên hạ, ông ấy cũng vui lòng hy sinh. Tử Mạc bảo thủ chủ nghĩa chấp trung, cốt giữ cho vừa vặn phần mình và phần người. Chủ nghĩa chấp trung gần với dạo lý. Nhưng nếu chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chẳng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời, như vậy cũng như chấp nhất, tức là khư khư câu nệ một bề vậy thôi. Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến làm hại đạo lý. Kẻ cử động theo một bề thì bỏ hỏng cả trăm bề" [H.N.H.tô đậm] (Mạnh tử. VII, A.26). Như vậy chấp trung là đứng ở giữa hai thái cực đối nghịch (vị ngã cực đoan và kiêm ái tột độ). Hiểu như vậy, chủ nghĩa chấp trung gần với quan niệm của Aristote về đạo đức: đức hạnh là trung độ đúng mực (juste milieu) ở giữa hai tính trái ngược, giữa sự bất cập và sự thái quá, chẳng hạn như can đảm là trung độ đúng mực (juste milieu) giữa sự nhút nhát (bất cập) và sự táo tợn (thái quá). Mạnh Tử không chê trách chủ nghĩa chấp trung ("...chấp trung gần với đạo lý"). Tuy nhiên nếu như chấp trung chỉ thiên về giữ trung độ cho đúng mực, loại trừ bất kỳ sự thái quá nào thì như vậy là trái với tinh thần của trung dung. Bởi vì trung dung không có nghĩa là nửa vời, lưng chừng, không nóng không lạnh... Trung dung có khi đòi hỏi sự nỗ lực, sự hy sinh cao nhất, chấp nhận những nỗi đau lớn và những niềm vui tràn trề... Thông thường trung dung là mức độ trong sự nghiêm khắc nhưng cũng có khi trung dung cho phép một sự nghiêm khắc tột độ, nghiêm khắc đến mức tàn nhẫn. Không chê trách thái độ chấp trung, MạnhTử bài bác gay gắt thái độ chấp nhất: Sở ố chấp nhất giả, vị kỳ tặc đạo giã (Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến thiên lệch làm hại đạo lý). Chấp nhất là "chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chẳng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời", là "khư khư câu nệ một bề vậy thôi". Như vậy chấp nhất là khư khư bám lấy một trung điểm, không dám chênh về phía này hoặc lệch về phía kia, có nghĩa là trong xử sự chỉ tính đến một khả năng,tự trói mình vào một khả năng.Và như vậy, nói như Mạnh Tử,là "cử động theo một bề (một khả năng)"mà "bỏ hỏng cả trăm bề (trăm khả năng)". Theo đúng tinh thần của Khổng - Mạnh, trung dung là đứng giữa (chứ không phải là khư khư bám lấy một trung điểm) và tự dành cho mình quyền tính đến và lựa chọn trong cả trăm khả năng, kể cả quyền đi tới cùng phía thái cực này hoặc phía thái cực kia. Lựa chọn khả năng nào là tuỳ theo thời và thế. Mời độc giả đón đọc tiếp kỳ cuối. Tác giả: Hoàng Ngọc HiếnBài đã được xuất bản.: 20/02/2010 08:30 GMT+7
-
Hình ảnh đầu tiên khi chúng tôi đặt chân vào nhà Chị Phước Wild và Thiên Đồng thăm hỏi bệnh tình của Chị. Chipchip trao tặng số tiền 5,500,000 đ tận tay Chị. Con trai Út của Chị bên di ảnh cha, chồng Chị cũng vừa mất chưa được 2 năm. Phía trước căn nhà của Chị hoàn toàn thoái khí. Chúng tôi có một tấm ảnh ngay khoảng trước sân nhà Chị cùng cậu con trai của Chị. Chuyến từ thiện đầu năm của chúng tôi đã mang đến cho gia đình Chị Phước chút tình người ấm áp. Với hiện thực căn nhà, AE Lý học đông phương lại có ý muốn cải tạo phần khí của ngôi nhà với mong muốn Chị sớm qua được căn bệnh hiểm nghèo và biết đâu với sự can thiệp của phong thủy lạc việt một lần nữa cứu được một con người, một gia đình thoát cơn hoạn nạn? Vì vậy chúng tôi mong muốn nhận được tiếp sự đóng góp để hoàn thành xây sửa 1 phần căn nhà của gia đình Chị.
-
Ngay trước giờ lên đường Wild nhận được sự đóng góp của Chị Nam Hồng số tiền 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) tặng cho hoàn cảnh của Chị Phước "Mẹ chết con thơ không có Tết" Quỹ hiện có: 5,567,000 đ + 500,000 đ = 6,067,000 đ (sáu triệu không trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) Đã trao tặng Chị Phước 5,500,000 đ (năm triệu năm trăm ngàn đồng) Quỹ hiện còn : 6,067,000 đ - 5,500,000 đ = 567,000 đ (năm trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) Và 10,000 Yen(mười ngàn yên nhật)
-
Chiều qua mùng 6 tết, chúng tôi gồm A Chau, Phongphongthay, Thiên Đồng, Chipchip đã đến thăm Chị Phước ở xã Xuân thới Thượng huyện Hóc Môn. Đường đi không khó để tìm đến nhà Chị, Chúng tôi đã chuyển giao số tiền 5,500,000 đ (năm triệu năm trăm ngàn đồng) tận tay Chị, ở cạnh Chị còn có cậu bé trai con út của Chị năm nay đã được 14 tuổi, nhưng cháu không được đi học do gia cảnh Cha mất sớm, Mẹ lại mắc bệnh hiểm nghèo. Dịp này A Chau và Thiên Đồng đã phát hiện ra căn nhà của Chị hoàn toàn bế khí đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tai họa bệnh tật dồn dập đến với gia đình Chị, phía bên ngoài căn nhà lại thoái khí. Chúng tôi cũng đã mời 1 thợ xây dựng cùng xóm để trao đổi việc can thiệp cải tạo môi trường sống cho gia đình Chị. Tấm lòng của ACE đóng góp ủng hộ Chị chữa bệnh đã được trao tay, nay phát sinh thêm việc xây sữa một vài điểm cần thiết để hổ trợ sức khỏe cũng như nâng nguồn sinh khí cho gia đình Chị. Chúng tôi chờ đợi những tấm lòng của ACE tiếp tục giúp đỡ để có điều kiện cứu giúp kịp thời một mãnh đời đi vào ngõ cụt. Phần hình ảnh và biên nhận chúng tôi sẽ post lên sau bài này.
-
Giải rượu-giải nhiệt bằng sắn dây TNTT>) Việc ăn uống không điều độ trong những ngày Tết khiến cơ thể bị nóng nhiệt và tổn hại do rượu. Hãy tự chữa trị cho mình bằng sắn dây, một loại thảo dược có rất nhiều công dụng. Sắn dây còn gọi là sắn cơm, bạch cát, bẳn mắn kéo (Thái), khau cát (Tày), tên khoa học là Pueraria thomsonii Benth., thuộc họ đậu (Fabaceae). Rễ củ sắn dây gọi là cát căn (Radix Puerariae), các hiệu thuốc đông y còn gọi là can cát (sắn dây khô). Nếu muốn chế biến thành bột sắn dây, khi đào rễ củ lên phải chế biến ngay, không để quá 5 ngày, vì tinh bột sẽ kém phẩm chất do mặt vỏ bị chuyển màu. Hoa (cát hoa), thân và lá của cây sắn dây dùng để làm thuốc, có nơi dùng lá để nuôi gia súc. Trong rễ củ sắn dây tươi có 12% tinh bột (nếu củ khô có đến 40% tinh bột), saponosid và isoflavon (puerarin, daidzin, daidzein…). Trong dây và lá khô có chứa các chất protein 16,3%; lipid 1,8%; glucid 31,1%; cellulose 31,3%; các axít amin (asparaginic, glutamic, adenin, prolin, leucin…). Giải rượu và giải nhiệt Theo đông y, sắn dây có vị ngọt, tính bình. Tác dụng giải cơ, sinh tân dịch, trừ phiền nhiệt, thông đại tiểu tiện, làm ra mồ hôi, giải độc. Thường dùng trong các trường hợp tiêu khát (đái tháo đường), cơ thể nóng nực, ngực bụng nóng bức muốn phát cuồng, nôn mửa, lỵ ra máu, tiểu trường không thông lợi và ngộ độc rượu. Ngoài ra, còn dùng chữa cảm sốt phong nhiệt, nhức đầu, mụn nhọt, và phòng ngừa các loại rôm sảy do thời tiết quá nóng bức. Ngày dùng 12 -30gr sắn dây khô, sắc uống. Hoặc dùng 10 -16gr bột, pha với nước sạch để uống. Hiện nay, sắn dây còn được sử dụng trong điều trị cao huyết áp, chống thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp tim, làm thuốc cai rượu. Người Nhật Bản gọi sắn dây là koudzou, dùng chữa rối loạn tiêu hóa. Nấu cháo (gồm 30-40gr sắn dây với gạo tẻ) để bổ trợ cho việc điều trị đái tháo đường. Người bị say rượu có thể giải rượu bằng cách cho uống nước vắt từ củ sắn dây (đã gọt vỏ và rửa sạch), thêm ít muối. Hoặc dùng bột sắn dây khuấy với nước sôi, thêm ít muối để ăn. Hoa sắn dây thu hái vào cuối thu, đầu đông, khi chưa nở. Theo đông y, hoa sắn dây gọi là cát hoa, có vị ngọt, mát, không độc; dùng chữa sốt cao, khát nước, nôn mửa, đi cầu ra máu. Đặc biệt, hoa sắn dây là vị thuốc giải rượu rất có hiệu quả. Ngày dùng 12-16gr, sắc uống. Nếu giải độc rượu nên dùng khoảng 30-40gr, sắc đậm đặc, cho bệnh nhân uống sẽ làm cơ thể nôn ra hết, dần dần tỉnh lại. Những người nghiện rượu mạn tính, nếu quyết tâm cai rượu, hằng ngày nên uống nước vắt từ củ sắn dây, khoảng 20-30gr, cùng với việc giảm dần số lượng rượu cho đến khi có thể bỏ hẳn. Uống liên tục 6-8 tuần sẽ có kết quả. Người Trung Quốc thường kết hợp sắn dây với hoa hòe trong một thang thuốc có tên là Cát hoa thang (sắn dây 12-16gr, hoa hòe 12-16gr), nấu với 1 lít nước, sắc còn 700ml, dùng uống giải khát, giải khí độc do thử thấp (khí nóng và ẩm) gây ra, phòng ngừa các bệnh ngoài da khi thời tiết oi bức (rôm sảy, mụn nhọt, ghẻ ngứa…), dùng giải độc rượu và rất tốt cho người bị đại tiện ra máu, cao huyết áp, đái tháo đường. Những lợi ích khác Thanh niên nam, nữ bị mụn trứng cá, mụn nhọt, hoặc uống nhiều rượu mà đi cầu ra máu, có thể dùng củ sắn dây 40gr, đậu xanh 20-30gr, hai thứ rửa sạch, nấu nước để uống hằng ngày. Trẻ em bị rôm sảy do nhiệt độc của mùa hè, dùng bột sắn dây pha nước sôi cho chín, để nguội rồi cho uống giải khát hằng ngày. Lá sắn dây tươi rửa thật sạch, nhai nuốt nước hoặc giã nát, vắt lấy nước uống, còn bã dùng đắp trị vết thương chảy máu, rắn cắn. Thân cây sắn dây dùng trị mụn nhọt sưng đau, viêm họng. Ngày dùng 12-16gr, sắc uống. Nếu dùng ngoài thì đốt tồn tính, tán bột, bôi vào chỗ đau hoặc hoà với nước sạch ngậm chữa viêm họng. Khi mua bột sắn dây nên chọn loại được chế biến bảo đảm vệ sinh an toàn, nếu không rất dễ bị nhiễm khuẩn. Lương y Đinh Công Bảy nguồn thanhnienonline
-
Bạn nên viết có dấu, vừa dễ cho người xem vừa không phạm quy nhé!
-
Ngẫm câu nói người xưa Nhấp một chén rượu quê Hát một bài hát cũ Đêm nay thời khắc giao thừa Lời người xưa Tụ khí đất trời Vần vũ thời gian Xâu chuỗi mọi kiếp người Nở vun những đóa hoa vạn thọ Uy linh trên bàn thờ tiên tổ Chén rượu quê Xác tín ngọn nguồn Tinh lọc nhọc nhằn Thơm thảo tấm lòng chân chất Tri âm đến bạn bè Hội ngộ về đây gia tộc Vây quanh bên xôi nếp, dưa hành Bài hát cũ Bao nhiêu người đã hát Trầm bổng con đường nhân gian Thấm vào máu thịt Lớn lên khát vọng Xoãi cánh hướng về phía trước Âm vang cung bậc xuân tràn Ma joan
-
Công dụng trị bệnh của hạt bí (Dân trí) - Hạt bí không chỉ là món ăn vặt vui miệng, béo bùi trong dịp Tết cổ truyền mà còn cung cấp rất nhiều lợi ích sức khỏe. Bảo vệ tuyến tiền liệt Chúng hỗ trợ sức khỏe của tuyến tiền liệt và làm giảm đi những khó khăn trong tiểu tiện do phì đại tuyến tiền liệt. Cải thiện chức năng bàng quang Trong một số nghiên cứu, chiết xuất từ hạt bí có thể giúp cải thiện chức năng bàng quang. Điều trị trầm cảm Do chứa L-tryptophan, một hợp chất tự nhiên giúp chống trầm cảm hiệu quả. 50g hạt bí sẽ cung cấp 1/3 nhu cầu kẽm của cơ thể. Hạt bí bổ dưỡng nhất là ở dạng tươi. Ngừa loãng xương Do rất giàu chất kẽm nên hạt bí là một trong những nhà bảo vệ tự nhiên chống lại bệnh loãng xương. Cơ thể thiếu kẽm là nguyên nhân làm nguy cơ loãng xương tăng. Chất kháng viêm tự nhiên Hạt bí giúp giảm viêm mà không gây tác dụng phụ như các loại thuốc kháng viêm. Ngừa sỏi thận Chúng ngăn chặn sự hình thành can-xi oxalate trong thận. Điều trị các bệnh nhiễm ký sinh trùng Chúng được nhiều nền văn hóa trên thế giới sử dụng như một trong những loại thuốc tẩy giun tự nhiên cũng như các loại ký sinh khác. Các nghiên cứu cũng cho thấy chúng chống lại sán máng, một loại ký sinh trùng sống ở sên. Nguồn ma-giê dồi dào Nửa cốc hạt bí chứa tới 92% lượng ma-giê hằng ngày. Giảm cholesterol Hạt bí chứa phytosterol, hợp chất giúp giảm nồng độ cholesterol “xấu”. Minh Thu Theo HD nguồn dantri.com
-
KNTL - Chúng tôi cho trích giới thiệu bài báo “Linh Hồn và Cõi Âm” của GS TS Bùi Duy Tâm (sống tại Francisco, CA 94122, USA) đã đăng trong Giai phẩm Thời luận số Xuân Mậu Tý 2008. Từ chỗ chưa có cơ sở để tin cậy vào sự tồn tại vong linh con người, GS Tâm đã rất kiên trì tìm hiểu vấn đề tâm linh và cuối cùng đã rút ra kết luận chắc chắn rằng: sự sống sau cái chết là có thực! LINH HỒN VÀ CÕI ÂM Người ta đã sinh ra thì tất sẽ chết. Nên mọi người đều rất quan tâm và đa số sợ chết. Do đó sinh ra các triết nhân và triết thuyết về cái chết, các thánh nhân và tôn giáo về thiên đàng, địa ngục, các mê tín dị đoan về ma quỷ. Chúng tôi cũng như mọi người thường suy nghĩ về Cái chết, về Linh hồn, về Cõi đời sau khi chết, nhưng hơi nhiều hơn mọi người. Tôi, Bùi Duy Tâm, sinh ra trong một gia đình ba đời theo Đạo Thiên Chúa, đã đọc Thánh Kinh (Cựu Ước và Tân Ước) ba lần, đi nhà thờ rất đều mỗi sáng chủ nhật cho đến năm 30 tuổi. Sau này làm bạn tâm giao với cố Linh mục Bửu Dưỡng và Hoà thượng Thích Mãn Giác, nên tôi có điều kiện đàm luận về Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo. Tôi đã được hiểu cái tinh tuý của Lý Dịch và Đạo Nho với cố Bác sĩ Nguyễn Văn Ba. Tôi đã đọc rất kỹ các cuốn Tử Thư của Ai Cập và Tây Tạng cũng như nhiều sách khác cùng loại. Tôi đã sang Ai Cập, Ấn Độ, Tây Tạng... để tìm hiểu thêm về Huyền Bí Học và Siêu Hình Học. Nhưng tất cả đều mù mờ về “Linh hồn” và “Cõi đời sau khi chết”. Không có đủ chứng cứ cụ thể có thể thuyết phục tôi. Tôi không chấp nhận các giáo điều của chính trị và tôn giáo. Tôi không yên tâm với tín ngưỡng và chán ngấy các loại sách viết huyên thuyên xích đế chẳng có gì cụ thể. Tôi trở thành một người theo phái bất khả tri: “Con người nhận biết thế giới và vũ trụ với khả năng rất giới hạn nên không thể biết được sự tuyệt đối về Thượng Đế, Linh hồn và Cõi đời sau khi chết”. Và như vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu sự hiện hữu của Linh hồn và Cõi Âm của tôi chưa đi đến đâu cả, chưa thấy một sự kiện gì đủ thực tế để bấu víu. Đầu thế kỷ 21, tình cờ cầm tờ Y Tế Nguyệt San số 5, tháng 5, 2001 của Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ và đọc bài viết “Thế giới vô hình và việc tìm kiếm mồ mả ở Việt Nam” của Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên (nguyên Phó thủ tướng đặc trách Văn hoá, Giáo dục, Y tế, Xã hội thời Việt Nam Cộng Hoà). Trong bài báo, Bác sĩ Viên tả lại việc tìm mộ gia đình của Kỹ sư Trần Lưu Cung (nguyên Tổng giám đốc Giáo dục kỹ thuật và Thứ trưởng Đại học thời Việt Nam Cộng Hoà) do hướng dẫn của các nhà ngoại cảm (ông Ngà, cậu Liên, cậu Nguyện...). Các nhà ngoại cảm tìm mộ đều nói chính vong linh của người quá cố đã chỉ cho họ những chi tiết để hướng dẫn gia đình tìm mộ. Đặc biệt trong bài báo, Bác sĩ Viên còn đề cập đến bài tự thuật “Tôi đi gặp người thân đã mất (vong) tại nhà cô Phương ở Bắc cầu Hàm Rồng tỉnh Thanh Hoá” của Trung tướng Nguyễn Hùng Phong, nguyên Phó tư lệnh chính trị và Bí thư Đảng uỷ Quân khu 1. Ông Phong đã tường thuật lại việc ngày 16-12-1999 đến nhờ cô Phương giúp cho được gặp lại vong linh của vợ là bà Vũ Thị Hạnh, nguyên Trưởng phòng Giáo dục quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, đã mất đột ngột tại nơi làm việc tháng 3 năm 1999 do bệnh tim... Sau khi đọc xong bài báo, tôi mừng quá, liền gọi điện thoại ngay cho ông Trần Lưu Cung. Ông Cung xác nhận sự kỳ diệu của việc tìm mộ và còn gửi cho tôi xấp tài liệu riêng của gia đình kèm theo rất nhiều hình ảnh. Như vậy là đề tài “Linh hồn và Cõi âm” đã có cơ hội hé mở sau bao thất vọng. Còn đợi gì nữa mà không về Việt Nam, đến cầu Hàm Rồng để tìm gặp cô Phương cho ra nhẽ? * * * * * Tháng 10 năm 2003 tôi về Hà Nội để làm lễ Cửu Tuần Đại Thọ cho mẹ tôi. Tới Hà Nội đêm hôm trước, thì sáng sớm hôm sau tôi lên đường đi Thanh Hoá để gặp cô Phương. Tôi mời mẹ tôi đi cùng, lấy cớ đưa mẹ đi Sầm Sơn để ôn lại các kỷ niệm xưa. Trước khi rời Hà Nội, mẹ con tôi ghé lại tiệm may áo dài. Tôi mang từ Mỹ về xấp vải nhung đỏ để may cho mẹ một áo dài mặc trong lễ Cửu Tuần Đại Thọ sắp tới. Trên đường đi Thanh Hoá, tôi ghé vào em Bùi Duy Tuấn nhằm cầu xin cha tôi (mất năm 1990 tại Sài Gòn) về điện cô Phương, cầu Hàm Rồng để các con và mẹ được gặp cha. Chúng tôi không dám nói với mẹ mục đích của chuyến đi vì mẹ tôi sùng Đạo Chúa (Tin Lành), không chấp nhận những chuyện “ma quỷ” như vậy. Khi đến nơi, hai anh em tôi thấy quang cảnh đúng như trong bài báo của Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên: Khoảng 30-40 người ngồi im lặng, nghiêm chỉnh, có vẻ lo âu chờ đợi trước một cánh cửa đóng kín. Một người đàn bà (sau này tôi biết là chị chồng cô Phương) dáng mập ngồi chắn trước cửa, thỉnh thoảng hô lên “Nhà ai có vong tên... thì vào”. Thế là vài ba người hay dăm bảy người mừng rỡ hấp tấp đi vào... Chúng tôi mời mẹ vào ăn sáng tại một nhà nghỉ khá lớn ở ngay trước điện cô Phương (nhà nghỉ này của nhà chồng cô Phương tiếp các khách ở xa đến phải chờ đợi vong nhà mình có khi tới ba ngày, cả tuần lễ hay đôi khi thiếu may mắn không gặp được vong, đành phải ra về tay không). Hai anh em tôi lén đi thắp nhang trước điện để cầu khẩn cha tôi về theo thủ tục như mọi người. Thỉnh thoảng cửa hé mở để dăm ba người đi ra. Người thì tỏ ra hớn hở. Người thì nước mắt sụt sùi. Tôi sốt ruột đi hỏi xem có phải đăng ký hay làm thủ tục gì nữa không, thì mọi người đều xác nhận không phải làm gì cả, mà cứ kiên nhẫn ngồi chờ. Khi vong nhà mình về thì người ta gọi vào. Tôi thắc mắc là tôi chưa khai tên của cha tôi thì ai biết mà gọi. Mọi người cười, chế nhạo tôi là hỏi thật ngớ ngẩn! Chúng tôi chờ từ 10 giờ sáng đến ba giờ chiều thì người đàn bà ngồi trước cửa đứng lên nói to: “Cô Phương nghỉ làm. Xin mời quý vị ngày mai trở lại”. Thế là anh em tôi ngao ngán cùng với vài ba chục người đứng dậy ra về. Chúng tôi đưa mẹ ra Sầm Sơn nghỉ ngơi và thăm lại cảnh xưa chốn cũ. Thật cảm động khi trở về nơi mà tôi đã sống những ngày thơ ấu cách đây hơn nửa thế kỷ (gần 60 năm). Sáng hôm sau chúng tôi trở lại điện cô Phương. Lần này chúng tôi phải thú thật với mẹ chuyện hai anh em đang làm. Mẹ tôi dẫy nảy lên: “Đến chỗ ma quỷ! Tao không vào đâu!”. Chúng tôi lại phải đành mời mẹ ngồi ăn sáng ở nhà nghỉ như ngày hôm trước. Lần này tôi sốt ruột lắm rồi. Tôi đi ra đi vào, hỏi chuyện người này người nọ. Tôi gặp bố mẹ chồng cô Phương. Ông Nghinh (bố chồng) mời tôi uống nước, đang kể chuyện cô Phương thì bỗng nghe có tiếng gọi: “Bà Tỉnh đâu, người nhà ông Tỉnh đâu?” (cha tôi tên là Bùi Văn Tĩnh, nhưng vì nói giọng Thanh Hoá nên nghe gọi tên là Tỉnh). Phải gọi đến vài ba lần thì anh em tôi mới biết là gọi mình. Tôi chạy tới cánh cửa. Em Tuấn chạy ra hối hả gọi mẹ: “Mợ ơi, Cậu về gọi mợ đấy!”. Mẹ tôi hốt hoảng đứng bật dậy chạy theo em tôi, quên mất lập trường chống ma quỷ của mình. Qua cánh cửa, chúng tôi bước vào một căn phòng khá rộng rãi, trống rỗng. Ngoài cái bệ trên tường để trái cây và các phong bì (chắc là tiền thưởng), thì không có bàn thờ hay trang trí gì khác của một cái am, cái điện. Cô Phương ăn mặc diêm dúa như các cô gái Hà Nội, mặt hoa da phấn, đang ngồi tỉnh táo trên chiếu cùng với một gia đình đông trên chục người. Cô cất tiếng: “Gọi mãi mà các bác không vào, nên vong nhà khác tranh vào trước. Thôi, các bác vui lòng ngồi chờ nhé!”. Thế cũng tốt, chúng tôi có dịp được quan sát thêm. Cô Phương gọi tên hết người này đến người nọ trong gia đình ngồi chung quanh cô. Khi gọi trúng tên ai thì giơ tay thưa: “Dạ, con đây (hay em đây, cháu đây...)”. Và người đó nói chuyện với vong (qua miệng cô Phương). Tôi nghe thấy đa số trả lời: “Dạ, đúng vậy...” có vẻ cung kính lắm. Có một chuyện cười ra nước mắt. Vong gọi: “Thằng Thanh đâu?”. Một thanh niên chừng 25 tuổi đứng bật dậy: “Dạ, con đây!”. Vong nói: “Mày không biết thương vợ con. Mày tằng tịu với con Mai ở cùng cơ quan”. Chàng thanh niên sợ hãi líu ríu nhận tội. Người phụ nữ ngồi cạnh (chắc là vợ) oà lên khóc nức nở. Sau gần một giờ, gia đình đó mới kéo nhau ra. Bỗng cô Phương nhìn chằm chằm vào mẹ tôi rồi kêu to lên: “Mợ ơi! Con của Mợ đây! Thắng đây! (Thắng là đứa em út của chúng tôi, mất lúc chưa đầy một tuổi.) Mẹ tôi vừa xúc động vừa ngạc nhiên: “Trời ơi! Con tôi... Nhưng con mất từ hồi mới... tám tháng...”. Vong nói qua miệng cô Phương: “Bây giờ con lớn rồi. Hôm qua con biết Mợ và hai anh đến, nhưng con phải đi mời Cậu. Cậu không chịu về. Con phải nói: Mợ già yếu, còn anh Tâm ở xa về nên Cậu mới chịu. Cậu và Ông Nội cũng về đây với con”. Rồi quay sang phía hai anh em tôi, cô Phương nói: “Hai anh chẳng nhớ gì đến em. Hai anh chỉ khấn Cậu thôi!”. Đúng vậy! Chúng tôi đâu có nghĩ đến thằng em út đã mất từ lúc tám tháng. Thật bất ngờ cho chúng tôi. Quay trở lại mẹ tôi, cô Phương nói: “Con thích tên là Bùi Duy Thắng như các anh con là Bùi Duy Tâm, Bùi Duy Tuấn. Sao Mợ lại đặt tên con là Bùi Tất Thắng?”. Mẹ tôi luống cuống: “Tại bố con đấy! Hồi đó Cụ Hồ mới về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nên bố con cao hứng, đã đặt tên con là Tất Thắng”. (Hồi đó cả nhà trách bố tôi vì đặt tên thằng út là Tất Thắng. Tất còn có nghĩa là hết, tức là chết. Nên nó mới mất sớm. Nhân tiện tôi nói thêm là việc đặt tên rất quan trọng, còn quan trọng như thế nào thì tôi không biết. Nhưng tôi có biết ông Đỗ Trí ở Sơn Tây có tài chỉ cần đọc tên là ông biết con người ấy như thế nào, như xem chỉ tay hay số tử vi vậy.) Vong em tôi nói tiếp qua cô Phương: “Thôi, Mợ đã khắc tên con trên bia mộ rồi!”. Đúng thế. Tên em tôi đã được khắc trên bia mộ, nằm cạnh ông bà ngoại tôi trong nghĩa trang Bất Bạt. Đến lượt bố tôi vào. Vong bố tôi qua thân xác cô Phương nắm tay mẹ tôi, rồi nói: “Hơn mười năm rồi mới gặp lại bà. Tôi nhớ bà lắm...”. Mẹ tôi khóc nức nở. Chúng tôi cũng khóc. Bố tôi bỗng trách đùa mẹ tôi: “Bà diện lắm! Mới đi may áo đỏ...”. Trời ơi! Sao bố tôi biết nhanh thế? Trong gia đình tôi đã có ai biết chuyện may áo đỏ của mẹ tôi đâu! Tôi mới về Hà Nội tối hôm trước thì sáng hôm sau trên đường đi Thanh Hoá ghé qua tiệm may, bỏ xấp vải nhung đỏ để may áo cho mẹ kịp mặc vào Lễ Đại Thọ. Mẹ tôi đương líu ríu chống chế thì bố tôi bồi thêm một câu đùa yêu tiếp: “Bà còn muốn tô son đánh phấn nữa!”. Mẹ tôi rên rỉ: “Cái gì ông cũng biết! Đúng rồi! Tôi vừa xin con cháu Trinh Hương, con gái anh Minh, một chút son phấn để hôm Lễ Đại Thọ thoa một chút. Mặt mũi răn reo quá, sợ thằng con trai cả của ông nó ngượng với bạn bè”. (Chuyện này mẹ tôi giấu kín mọi người, trong khi anh em tôi không hay biết gì, thế mà bố tôi cũng biết!)” Rồi cô Phương quay sang tôi: “Tâm ơi! Cậu buồn quá vì chuyện con Hà nhà con. Nó lôi thôi với chồng nó thì chỉ khổ cho ba đứa con thôi”. (Hà là con gái tôi. Chuyện của nó mới xảy ra trước khi tôi về Hà Nội. Vợ chồng tôi nghe phong phanh, nhưng chưa có dịp trao đổi với nhau. Thế mà mọi chuyện người Âm đều biết, không giấu giếm được!) Một lúc sau thì ông nội tôi về. Qua miệng cô Phương: “Tao là Bùi Văn Khanh, ông nội đây. Cả bà nội Nguyễn Thị Ngọt cũng về đây!”. Tôi vội thưa: “Thưa Ông, con nghe anh Đại con cô Hai nói tên Ông là Khánh, nhưng lâu ngày trên giấy khai sinh của Bố con mất dần dấu sắc, nên đọc là Khanh” (cô Hai là chị ruột bố tôi.) Ông nội tôi gắt lên: “Tên tao là Khanh, chứ không phải là Khánh”. Rồi quay sang mắng mẹ tôi: “Chị về làm dâu nhà tôi mà không đoái hoài mồ mả tổ tiên nhà chồng. Từ ngày cưới chị, chị chỉ về quê nội có một lần!”. Mẹ tôi sợ hãi chống chế: “Gia đình con ở Hà Nội, Hải Phòng. Quê nội ở mãi Bái Đô, Lam Kinh - Thanh Hoá, nên đi lại khó khăn. Và, con sinh con đẻ cái đều đều ba năm hai đứa nên không về thăm quê được. Con xin nhận tội với ông bà”. Cứ như thế trong 90 phút vui buồn, khóc lóc... Hai anh em tôi và mẹ hớn hở ra về. Có lẽ vì cao hứng nên chúng tôi ghé thăm nhà thơ Hữu Loan, người bạn cũ ở Thanh Hoá. Đáng nhẽ về thẳng Hà Nội, nhưng chắc còn luyến tiếc những giờ phút quý báu xúc động buổi sáng đó nên chúng tôi quay trở ngược lại cầu Hàm Rồng để chụp ảnh với cô Phương. Kỳ này mẹ tôi không phản đối nữa mà còn hăm hở muốn gặp cô Phương. Cô Phương vui vẻ cho biết thêm: “Cụ ông lại vừa về cho biết đã đăng ký chỗ dạy học cho bà rồi”. Lại thêm một ngạc nhiên: Mẹ tôi vốn là một giáo viên hồi hưu. Ngày xưa, mẹ tôi là người đàn bà Tây học. Khi lấy chồng, sinh con thì ở nhà. Khi các con khôn lớn thì bà mới đi dạy lại vì sự khuyến khích của bố tôi. Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là vong linh của bố tôi rồi! Lúc nào bố tôi cũng muốn mẹ tôi sử dụng cái tri thức của mình. Ngày hôm đó là ngày trọng đại của đời tôi. Tôi thấy cụ thể sự hiện hữu của Linh hồn và cõi Âm. Dù cho sau này cô Phương có nói bậy gì đi nữa, các cô gọi hồn khác, các nhà ngoại cảm khác đôi khi có nói bậy vì mưu sinh thì kết quả của ngày hôm đó vẫn không thể chối cãi được, nếu không nói là được tuyệt đối chấp nhận. Khác nào như ta cố gắng gọi điện thoại cho người thân, đường dây rất khó khăn, rất xấu, nhưng chỉ một lần thôi ta nghe rõ tiếng người thân trò chuyện với ta về những chuyện gia đình mà người ngoài không thể biết được, thì cũng khá đủ cho ta biết rằng người thân của ta vẫn tồn tại. Tuy ta không nhìn thấy được vì giới hạn của ngũ quan, nhưng người thân quá cố của ta vẫn tồn tại với các ký ức, với các kỷ niệm dưới một dạng nào đó mà ta không biết, ta tạm gọi là “Linh hồn”, trong một thế giới nào đó mà ta cũng không biết, tạm gọi là “cõi Âm” (để phân biệt với cõi Dương mà ta đang sống) hay theo kiểu Tây Phương gọi là “Cuộc đời sau khi chết” (“Life after deth”). Sau này mỗi lần về thăm quê hương, tôi đều đưa mẹ tới gặp cô Phương. Lần sau cùng mẹ tôi gặp cô ấy là cuối năm 2005. Khi đó mẹ tôi vẫn còn khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Trước khi ra về, cô Phương nói nhỏ với tôi: “Cụ ông nhớ bà lắm. Cụ ông sắp đưa bà về rồi. Một cách bình yên”. Ít lâu sau, mẹ tôi mất rất nhanh. Sau này tôi có gặp nhiều nhà ngoại cảm khác ở Việt Nam, họ cũng có khả năng như cô Phương - cô Bằng, cô Thao, cô Mến trên đường từ Hà Nội qua Hải Dương đến Hải Phòng. Tôi cũng đã gặp các nhà ngoại cảm tìm mộ như Cậu Liên, anh Nguyễn Khắc Bảy, cô Phan Thị Bích Hằng... Tôi cũng đã gặp các nhà khoa học nghiên cứu về tâm linh như TS Nguyễn Chu Phác, GS Ngô Đạt Tam, GS Phi Phi, TS Ngô Kiều Oanh... làm việc ở các cơ quan khác nhau. Tôi đã được đọc câu kết luận của một tài liệu ở Việt Nam (không phổ biến công khai) như sau: “Thế giới tâm linh là có thật. Đó là một thực tế khách quan cần được các nhà khoa học nghiên cứu nghiêm túc. Chúng ta hãy bình tĩnh, khách quan lắng nghe những lời nhắn nhủ từ thế giới tâm linh để có cuộc sống nhân ái hơn, lương thiện hơn”. VIỆT LINH Sưu tầm và giới thiệu __________________ nguồn giaoluututuong.com
-
Ăn ít no dai mới hay 10/02/2010 13:04 Quan trọng hơn nữa là đừng tuân thủ thói quen “ngày ba bữa, đúng giờ hơn đồng hồ Thụy Sĩ”, vì người già không nên ăn quá no. Nếu chỉ dựa vào tuổi đời, có thể tạm chia người cao tuổi vào ba nhóm:- Nhóm “mới lão” bao gồm quý ông, bà trong độ tuổi từ 65 đến 75. - Nhóm “lão lâu năm” là những đối tượng đã đếm được hơn 75 mùa Xuân. - Nhóm “lão làng” với các cụ đã ngoài... 85. Cả 3 nhóm đều có chung một điểm tương đồng với cường độ tiệm tiến thấy rõ theo độ tuổi. Đó là nhóm nào cũng có hệ tiêu hóa muốn nhanh chân “về hưu” nên dù có khi vẫn ăn nhiều được nhưng lại không khỏe vì không... tiêu! Không có gì khó hiểu. Song song với tình trạng thiếu nước do cơ thể dễ mất nước hơn lúc còn thanh xuân thì ở người già dịch tiêu hóa cũng không được bài tiết dồi dào như lúc trẻ. Thêm vào đó là dấu hiệu khô miệng do thiếu nước bọt ở tối thiểu 1/4 người lớn tuổi. Tình trạng này càng đáng nói hơn nữa ở nước mình - nơi nhiều người lớn tuổi có thói quen ăn trầu, hút thuốc, uống trà đậm, nhưng lại ít uống nước. Do đó, sau khi rà lại chất lượng của hàm răng người già, khẩu phần cần được thiết kế sao cho thích hợp với khả năng tiêu hóa của người cao tuổi. Nếu ép người lớn tuổi uống nước cho nhiều thì đó là một biện pháp tuy đúng về mặt lý thuyết nhưng không có giá trị thực tiễn, vì nhiều người không thể uống nước nếu không khát. Nhưng đợi đến khát mới uống thì quá muộn nếu muốn bảo vệ tế bào. Thay vì biện pháp uống nước, nên có khẩu phần lúc nào cũng có món lỏng như canh, cháo và nhất là trái cây, để người lớn tuổi vừa dễ ăn vừa ăn mà như... uống! Quan trọng hơn nữa là đừng tuân thủ thói quen “ngày ba bữa, đúng giờ hơn đồng hồ Thụy Sĩ”, vì người già không nên ăn quá no. Lượng thức ăn quá nhiều trong đường tiêu hóa là đòn bẩy cho phản ứng lên men trong khung ruột khiến gia chủ mau mệt, đầy hơi, khó tiêu sau bữa ăn. Ngược lại, nên chia thành nhiều bữa nhỏ với lần nào cũng có rau quả để cung cấp chất xơ đều đặn cho khung ruột. Không những thế, nhờ nhiều bữa ăn nhỏ mà bớt gánh nặng cho tim. Tại sao phải ăn thật no để rồi mệt cầm canh? Tại sao không ăn theo kiểu “liệu cơm gắp mắm” để miếng nào đáng tiền miếng nấy về mặt biến dưỡng? Có một điều chắc chắn: Nhờ vào nhiều công trình nghiên cứu gần đây về bệnh lý của người cao tuổi mà khẳng định được chế độ dinh dưỡng phù hợp với hệ tiêu hóa của người già là yếu tố quyết định để giảm thiểu nguy cơ của bệnh tim mạch, ung thư... Tuổi càng cao miếng ăn càng quan trọng. Cho nên báo hiếu không có nghĩa chỉ trong mùa Vu Lan! Theo Người Lao Động
-
Ngẫm lại câu ca dao tình ái 15/02/2010 6:02 (TNTT>) Nghe âm vang, êm ái, dịu dàng, thanh lịch... Nghe dễ đồng cảm như dưa với muối. Đó là ca dao tình ái Việt Nam. Đi vào trong máu thịt ngàn đời bất biến của dân tộc Việt theo tôi vẫn là ca dao, tục ngữ. Đọc ca dao, người ta có thể hình dung ra cả một tiến trình lịch sử của một dân tộc. Đọc tục ngữ, người ta có thể thâu tóm hết tinh hoa của phép ứng xử, suy nghĩ về triết học... của một dân tộc. Ủa? Sao lại quả quyết như thế? Thưa, đất nước hơn bốn ngàn năm tự chủ, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, “còn cái lai quần cũng đánh” thì bản sắc văn hóa của một dân tộc làm thế nào để có thể lưu giữ dưới vó ngựa, trong tiếng gươm khua, giữa tầm đại bác? Bằng văn bản chữ viết chăng? Thoạt nghe thế, cụ Phan Huy Chú bảo: “Nhưng trải qua bao cuộc bể dâu, nhiều phen binh lửa, cuối đời nhà Trần bị nạn giặc Minh, sách vở đã mất một lần trước - do Trương Phụ lấy cả sách vở cổ đưa về Kim Lăng... Từ Trung hưng trở về sau, tuy cố tìm tòi, nhưng sau khi sách vở đã bị tan nát đi, thu thập lại cũng khó”. Bằng bia đá, khắc vào đá chăng? Thoạt nghe thế trong dân gian vọng lên tiếng nói: “Ngàn năm bia đá cũng mòn...”. để tồn tại trên một mảnh đất luôn có nhiều biến động, để mở mang bờ cõi, cha ông ta phải làm gì? Phải đi. Sực nhớ, từ “ăn” trong tiếng Việt rất phong phú. Sao ta không nhấn mạnh đến “ăn đi” và giải thích hóm hỉnh rằng “ăn” để rồi tiếp tục… “đi”? Đi để tồn tại. Đi cũng là đổi mới. Đi về phương Nam là khát vọng của người Việt. Và chỉ khi vượt qua được đèo Hải Vân, có được Quảng Nam thì hành trình ấy mới thật sự mở ra một tiền đồ rộng lớn và có khả năng trở thành hiện thực. Phải vượt, bằng mọi cách phải vượt qua đèo Hải Vân, Đá Bia, Cù Mông... để vào tận phương Nam xa tít. Theo cụ Nguyễn Văn Hầu, chặng cuối cùng của cuộc Nam tiến là đất Tầm Phong Long - một vùng đất chạy dọc theo sông Tiền, sông Hậu xuống tới Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu - do chúa Chân Lạp Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn vào năm 1757. Trên bước đường Nam tiến, hầu hết các phụ nữ và trẻ em đi ghe bầu bằng đường biển. Đàn ông trai tráng đi bằng đường bộ. Đường biển dù thuận lợi hơn, nhưng sóng gió, bão táp, cá kình, đói rét... đã cướp đi biết bao thân phận. Biết bao nhan sắc từng gạt lệ, từ bỏ cố hương để đi theo “đầu ấp tay gối” với sự thủy chung rất mực “đói no cho thiếp theo cùng” cũng chìm xuống trùng dương sóng vỗ. Chính vì thế, khi vào đến vùng đất mới, những cuộc hôn nhân dị chủng của đàn ông trai tráng Việt đã diễn ra như một lẽ tự nhiên. Và cũng như một lẽ tự nhiên, những lời ca tiếng hát trên bước đường thiên lý vạn dặm cũng bật nghe khỏi lồng ngực của họ. Mà này, tiếng hát ấy nghe ra rất đỗi trúc trắc trục trặc, khúc kha khúc khuỷu, gập ghềnh khấp khểnh. Không còn cách nào khác. Địa lý của từng vùng miền ảnh hưởng đến hình thức của câu ca dao. Không ai có thể chối bỏ. Trong hàng triệu giọt mồ hôi đã thấm ngàn đời qua ca dao, nay đọc lại tưởng chừng như còn nghe phảng phất cái vị mặn chát, cái vị đắng đót, ta chọn lấy câu ca dao nào? Tôi xin chọn: Hòn đá cheo leo Con trâu trèo con trâu trợt Con ngựa trèo con ngựa đổ Anh thương em lao khổ Tận cổ chí kim Anh thương em khôn kiếm khó tìm Cây kim luồn qua sợi chỉ Sự bất đắc dĩ phu mới lìa thê Nên hay không nên anh ở em về Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương Trời! sao mà nhớ mà thương. Sao mà tình mà tội. Sao trong từng câu mà sự ngắt nhịp lại vọng lên tiếng nấc? Sự ngắt nhịp ấy ngoắt ngoéo, ngoằn ngoèo tưởng chừng như không thể ngắt ra được. Chao! Từ “cheo leo” đã vội qua “trèo”, nhưng chưa kịp “trèo” đã “đổ” thì em ôi “lao khổ, tận cổ”! Có gì trắc trở hơn không? Tưởng rằng họ sẽ bỏ cuộc, nhưng không, ngay kế tiếp lại là một âm bằng đến nhẹ nhàng da diết là “kim” là “tìm” nghe rất lim dim. Nhưng chỉ là một khoảnh khắc. Ngay sau đó lại trắc trở, trục trặc với những âm trắc níu vào nhau “sợi chỉ” rồi “bắt đắc dĩ”, không thể tách rời. Đố ai tìm ra một âm bằng trong cái lúc tưởng chừng như tình tôi dành cho em đã tù mù tuyệt vọng? Đấy! Trên bước đường Nam tiến, câu ca dao đã ra đời như chính nhịp thở, bước chân đi của chính dân tộc Việt. Ngoảnh lại “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”, thì hình thức của câu ca dao ở đấy đã ổn định. Viên cuội đã được lớp sóng thời gian bào mòn đến nhẵn thín. Đã đạt đến sự cổ điển”. Đêm qua mới gọi là đêm Ruột xót như muối, dạ mềm như dưa Nghe âm vang, êm ái, dịu dàng, thanh lịch... Nghe dễ đồng cảm như đêm là đêm, như dưa với muối... Trong khi đó, cái tình yêu của người Việt ở vùng đất mới lại mới não nề làm sao, than thở làm sao. Cũng là thương, cũng là nhớ nhưng cách biểu hiện của nó không chỉ một tiếng thở dài, ẩn phía sau còn là trách móc, còn là nước mắt, còn là bùi ngùi tưởng chừng như không dứt: Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc Đất nào dốc cho bằng đất Nam Vang Một tiếng anh than ôi hai hàng lụy nhỏ Có một mẹ già biết bỏ ai nuôi? Câu ca dao chỉ một giọng “trắc” như thế này quả là một sáng tạo. Bởi nó đã phá đi hình thức cổ điển đã định hình, tưởng chừng bất biến. Tại sao phải thay đổi? Chính tâm trạng của người trong cuộc buộc họ, có như thế mới bày tỏ hết nỗi lòng của họ. Họ yêu thì yêu, nhưng còn phải đi. Đi như một lẽ tự nhiên của số phận dân tộc Việt. Phải đi về phương nam xa tít. Đi để tồn tại. Đi cũng là đổi mới. “Ra đi là sự đã liều”. Biết còn có ngày quay về? Rồi mẹ già, chữ hiếu? Sự phân vân tột cùng ấy đã làm câu ca dao ướt đẫm “hai hàng lụy nhỏ”. Tưởng chừng như đến nay giọt lệ nồng nàn tình ái ấy vẫn chưa khô... Lê Minh Quốc nguồn thanhnienonline
-
Ghi nhận sự đóng góp của anhnt 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) ủng hộ cho Quỹ Từ thiện.Quỹ hiện có: 5,267,000 đ+300,000 đ = 5,567,000 đ (năm triệu năm trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) Và 10,000 Yen nhật (mười ngàn yên)
-
Ghi nhận sự đóng góp của Xi Trum 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) ủng hộ cho Quỹ Từ thiện. Quỹ hiện có: 4,767,000 đ+500,000 đ = 5,267,000 đ(năm triệu hai trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) Và 10,000 Yen nhật (mười ngàn yên)
-
Vì sao gọi Hổ là "Ông Ba mươi"? Ngày xửa ngày xưa, trên Trời có một người khỏe lạ lùng. Những việc dời núi lấp biển, đội đá bẻ cây ông làm băng băng không một ai bì kịp. Ông còn có tài thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị thần trên Thiên đình. Đặc biệt ông có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ. Vốn tính nghịch và hung hăng quen thói từ hồi trẻ, Phạm Nhĩ không mấy khi ngồi yên. Ông thường hay gây sự đánh nhau với những kẻ mà ông thù ghét. Nhưng người ta đều tránh né ông, chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng hảo hán không chịu nổi một cú đấm, cái gạt của ông. Thấy mọi người đều thua tài, Phạm Nhĩ ngày một tỏ ra kiêu căng tự phụ. Ông cho rằng các vị thần xung quanh Ngọc Hoàng chẳng có tài nghệ và sức khỏe gì. Ông lấy làm bực mình vì sao bấy lâu danh tiếng mình nổi như cồn mà vẫn không được Ngọc Hoàng trao cho một chức vị xứng đáng. Mỗi ngày lòng kiêu căng tự phục của ông một lớn thêm mãi. Cho đến lúc Phạm Nhĩ đâm khinh nhờn cả Ngọc Hoàng, tự nghĩ mình nên làm vua nhà Trời mới phải. Thế rồi chẳng bao lâu ông đã tụ tập xung quanh mình một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người, thành một đội quân bất trị. Đội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên đình. Cuối cùng, Phạm Nhĩ cầm đầu đội quân của mình tiến đến thiên cung đòi hạ bệ Ngọc Hoàng để cho mình trị vì thiên hạ. Nghe tin chẳng lành, Ngọc Hoàng vội sai các bậc tướng lĩnh đem quân nhà Trời ra ngăn chặn. Có đến mười tám vị tướng, vị nào cũng lục trí thần thông, miệng thét ra lửa, tay bẻ gãy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu. Không đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về. Ngọc Hoàng lại sai năm mươi lực sĩ hầu cận, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ. Những cũng chẳng mấy chốc ông đã làm cho bọn này nếm mùi thất bại chua cay. Quân đội Nhà Trời vốn đông như kiến cỏ, nhưng kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy toán loạn như ong vỡ tổ. Thừa thắng, Phạm Nhĩ thúc quân, tiến lên vây chặt Thiên cung. Thấy thế Ngọc Hoàng hết sức lo lắng. Ngọc Hoàng vội sai Bắc Đẩu cầu cứu Đức Phật. Nghe tin báo cấp, Đức Phật sai Chuẩn Đề đi bắt Phạm Nhĩ. Nhưng Đức Phật không ngờ Chuẩn Đề tài phép cao cường là thế, cũng lại bị ăn đòn nặng nề của Phạm Nhĩ đến nỗi lê lết chạy về, xiêm giáp tả tơi. Cuối cùng, Đức Phật đành phải ra tay. Trong lúc Phạm Nhĩ đương hung hăng múa may, chửi bới Ngọc Hoàng và bọn triều thần bất tài bất lực, thì Đức Phật đã xuất hiện. Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ sa ngay vào túi thần của Đức Phận, toàn thân co rúm không động chân, động tay được nữa. Thế là Phạm Nhĩ bị bắt. Bộ hạ của Phạm Nhĩ như rắn mất đầu, không ai bảo ai, tẩu tán khắp nơi. Trước khi ra về, Đức Phật giao Phạm Nhĩ cho Ngọc Hoàng xử trí. Ngài căn dặn Ngọc Hoàng phải làm cho Phạm Nhĩ hối lỗi chứ đừng giết hại. Ngọc Hoàng bèn quyết định đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp vật. Trước hết để tước bớt sức mạnh của Phạm Nhĩ, Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông ta để ông ta không thể bay về Thiên đình làm loạn. Ngọc Hoàng còn lo Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện của bốn phương ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm. Bởi vậy, để làm giảm bớt trí nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép, bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín lại, Tuy nhiên, thể theo lời dặn của Đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm Nhĩ làm Chúa tể sơn lâm. Từ khi xuống trần, tài phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn cánh mà bay. Mặc dầu vậy, ông vẫn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh hiệu Chúa tể sơn lâm mà Ngọc Hoàng phong. Cho đến này, dòng dõi như ông vẫn nối nhau làm Chúa sơn lâm. Ngay loài người cũng phải kiềng ông, không dám gọi cái tên "Hổ", mà chỉ gọi tránh là "Ông Ba Mươi". Tại sao lại gọi là "Ông Ba Mươi"? Đó là vì khi có người nào săn được hổ thì nhà vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con thú hung ác. Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu 30 roi để cho vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa. Người xưa có câu: "Trời sinh ra hùm có vây, Hùm mà có cánh, hùm bay lên Trời" để nhớ cuộc náo động Thiên cung của Phạm Nhĩ xưa kia. Phú Bình (Mẹ và bé)
-
Võ Nguyên Giáp - Thiên tài quân sự. Cập nhật lúc 07:13, Thứ Bảy, 13/02/2010 (GMT+7),Năm 1992, Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh vinh danh 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại, trong đó có hai vị tướng kiệt xuất của Việt Nam: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điều đặc biệt, trong số những người được vinh danh, duy nhất Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn sống. Nhân dịp Đại tướng bước sang tuổi 100, VietNamNet xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của tác giả Hồ Ngọc Sơn về thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp. Để được tôn vinh thiên tài quân sự qua mọi thời đại của nhân loại thật không dễ. Thế nhưng, với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không chỉ nhận được sự đồng thuận rất cao của giới quân sự, kể cả với những người bình chọn “khó tính” nhất, ông còn nhận được sự ngưỡng mộ, kính trọng của nhiều nguyên thủ quốc gia, chính khách, học giả, nhà sử học, nhà báo, nhà văn và đông đảo nhân dân thế giới. Dưới ánh sáng đường lối kháng chiến của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đằng sau những thắng lợi mang tính thời đại của nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, Võ Nguyên Giáp là một động lực. Những chiến tích vĩ đại mà ông đã góp phần cống hiến xuất sắc, ít người sánh kịp, đã nâng ông lên tầm một vị tướng huyền thoại, để lại một dấu son rực rỡ trong lịch sử quân sự thế giới. Nghiên cứu về con người và sự nghiệp của ông, thế giới không chỉ ca ngợi tài thao lược kiệt xuất, mà thường phân tích sâu 5 yếu tố cơ bản nhất và đó cũng là 5 bài học có giá trị lớn nhất làm nên một thiên tài quân sự.1. Trước hết, ông được đánh giá là một chuyên gia lỗi lạc hàng đầu về đường lối chiến tranh nhân dân của phong trào giải phóng dân tộc trong nước và trên thế giới. CeciB.Curry, một chuyên gia nghiên cứu lịch sử quân sự hiện đại có tên tuổi của Mỹ, đã viết cuốn sách “Võ Nguyên Giáp, một thiên tài quân sự”, xuất bản ở Mỹ năm 1997. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những người giúp việc. Từ phải qua: nhà văn Hữu Mai, trung tướng Hồng Cư, đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà văn Phạm Chi Nhân, ông Bùi Đình Kế. Cuốn sách được dịch ra tiếng Pháp năm 2003 ấn hành ở Paris và cũng được dịch ra tiếng Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh, trích lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Chiến lược chiến tranh của chúng tôi không phải chỉ liên quan đến những công việc thuần túy quân sự. Chiến tranh phải là một chiến lược tổng thể kết hợp nhiều yếu tố khác nhau. Mục đích chính trị là căn bản. Quân đội không phải chỉ có nhiệm vụ chiến đấu, mà phải tuyên truyền, giáo dục dân chúng. Như vậy, mọi người đều là lính. Tất cả, mỗi làng, mỗi quận (huyện) là một pháo đài và cả nước chúng tôi là một chiến trường rộng lớn. Chúng tôi tập trung lực lượng ở vùng này hay vùng khác tùy thuộc vào điều kiện chính trị chiếm ưu thế từng thời kỳ trong từng giai đoạn. Điều này là một nguyên tắc chiến lược rất quan trọng để tiến hành chiến tranh toàn dân…” (Nguyên văn của dịch giả Nguyễn Văn Sự). Đường lối chiến tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã nêu rõ phải tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; xây dựng LLVT với 3 thứ quân gồm: Dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực, trong đó bộ đội chủ lực làm nòng cốt, yếu tố vũ khí rất quan trọng nhưng yếu tố con người và chính trị tinh thần đóng vai trò quyết định; tiến hành chiến tranh du kích kết hợp với chiến tranh chính quy, lấy yếu địch mạnh, lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng tinh thắng số lượng đông; tập trung kết hợp phân tán linh hoạt v.v.. Không chỉ quán triệt sâu sắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiến hành đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam một cách hết sức sáng tạo. Ông coi trọng trước hết việc rèn luyện vững chắc bản lĩnh chính trị cho quân đội. Tình yêu nước nồng nàn, lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng, tinh thần vì nhân dân quên mình, đoàn kết quân dân cá nước luôn được truyền lại và thấm sâu đến từng chiến sĩ. Các LLVT luôn ra sức luyện tập tinh thông kỹ thuật, chiến thuật, làm tốt công tác dân vận. Ông kết hợp rất khéo léo, chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa… đạt kết quả toàn diện trên cả hai mặt trận: Kháng chiến và kiến quốc. Ở tuyến trước, quân dân Việt Nam thực hiện linh hoạt phương châm quân sự “2 chân, 3 mũi” (2 chân quân sự, chính trị song song, 3 mũi tấn công vũ trang, đấu tranh chính trị của quần chúng và binh địch vận), đánh địch khắp ba vùng chiến lược: Rừng núi, đồng bằng, đô thị. Còn ở tuyến sau, luôn xây dựng, củng cố vững chắc căn cứ địa cách mạng và hậu phương, chi viện đắc lực cho tiền tuyến. Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự. Đường lối ưu việt của cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, kháng chiến trường kỳ đã đánh bại và làm phá sản đường lối tốc chiến, tốc thắng và các chiến lược của những đế quốc hùng mạnh nhất thế kỷ 20. 2. Tư duy khoa học của Võ Nguyên Giáp về xây dựng lực lượng quân sự rất độc đáo, sáng tạo và toàn diện. Bắt đầu từ con số 0, ông đã có và có tất cả những đơn vị chiến đấu, phục vụ chiến đấu đáp ứng được nhu cầu chiến tranh trong hoàn cảnh đất nước nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn trăm bề. Ông hội tụ được một đội ngũ cán bộ ưu tú các cấp, có khả năng độc lập, tự chủ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở những địa bàn tinh nhuệ được xây dựng thành một binh chủng chính quy. Ngành quân y và cái bếp mang tên người Anh hùng Hoàng Cầm, được triển khai đến tận đại đội trong chiến đấu. Ông là người đề xuất mở đường Trường Sơn, về sau mang tên huyền thoại đường Hồ Chí Minh và còn phát triển thêm “Con đường mòn” trên biển. Bộ đội hành quân bộ hàng trăm, hàng nghìn cây số ra mặt trận. Mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông vận tải quá thô sơ. Bảo đảm hậu cần bằng gồng gánh, thồ xe đạp, mang vác trên vai hơn 50kg vượt qua biết bao sông suối, núi đèo, đói rét, bệnh tật, thú dữ, đạn bom. Một nền hậu cần thời trung cổ đã thắng một nền hậu cần hiện đại, khổng lồ nhất thế giới của quân đội Pháp, Mỹ. 3. Võ Nguyên Giáp là một vị tướng sắc sảo nhất về nghệ thuật khoét sâu chỗ yếu của địch. Lãnh đạo báo VietNamNet chúc mừng sinh nhật Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông rất cẩn trọng trong so sánh tương quan lực lượng đôi bên, không bao giờ đánh giá thấp đối phương. Cách đánh tập trung quy mô nhỏ. Chỗ yếu lớn nhất của địch là chiến tranh phi nghĩa, không có được các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Việt Nam thì ngược lại, với cuộc chiến tranh toàn dân, đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ đều là chiến sĩ, làm cho quân địch luôn lo sợ cái chết rập rình. Chúng lo sợ cả gỗ, đá, thân tre, lá lúa đều biến thành chông, bẫy, gươm, dao. Địch tập trung lớn, ta biết tránh đối đầu trực diện, làm cho chúng không tìm thấy đối phương, hiệu suất chiến đấu rất thấp. Chúng ta biết linh hoạt phân tán và tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh vào chỗ sơ hở, điểm yếu và hiểm yếu của địch, gây cho chúng thiệt hại nặng nề. Võ Nguyên Giáp là vị tướng luôn chủ động bắt buộc đối phương bị động thay đổi thế cờ, đánh theo cách đánh của ông, vì thế mà phá sớm về chiến thuật, chiến dịch, chiến lược, dẫn đến thất bại hoàn toàn. 4. Về tài thao lược, thế giới xem ông là bậc thầy về chiến lược, chiến thuật quân sự. Hơn 30 năm chỉ huy quân sự, Võ Nguyên Giáp chưa bao giờ phạm sai lầm về chiến lược. Ngược lại, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tập thể Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp đã buộc 10 danh tướng Pháp, Mỹ mắc sai lầm về chiến lược và thua trận, trong đó có 7 đại tướng Pháp: Philippe Leclerc, Eátienne Va lluy, C.Blaijot, M.Cargentier, Delattre De Tassigny, Raoal Salan, Henri Navarre và 3 đại tướng Mỹ: Westmoreland, C.Abrams và F.C.Weyand. Các thiên tài quân sự thường truyền lại binh thư, binh pháp. Võ Nguyên Giáp đã dốc tâm trí nghiên cứu học thuyết quân sự của giai cấp vô sản và tư bản, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Liên Xô, chiến tranh chống Nhật của Trung Quốc, lý luận quân sự của Clausewit , những trận đánh của Napoléon, truyền thống đánh giặc của tổ tiên, những trận đánh thắng và không thắng của ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đúc kết thành những nguyên tắc quân sự độc đáo của Việt Nam. Các sách quân sự và các tác phẩm văn học của ông đã giúp nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự trên thế giới hiểu biết về cuộc chiến tranh toàn dân và tự giải đáp được nguyên nhân vì sao thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Võ Nguyên Giáp không qua một trường quân sự nào, ông học trong thực tế là chính. Chiến tranh luôn ẩn chứa nhiều yếu tố ngẫu nhiên không thể biết và lường trước được hết. Ông không xử trí chiến thuật quân sự bằng những "giải pháp quân sự cố định học đường", mà luôn xuất phát từ thực tế chiến trường để giải quyết mọi tình huống ngoài dự kiến và lật ngược thế cờ. Lý luận về "trận đánh quyết định" trong học thuyết quân sự của ông được giới quân sự chú ý và nghiên cứu. Ông cho rằng, ta có thể đánh thắng địch trong khi chúng đông quân nhất, nhiều vũ khí nhất và ngay cả khi chúng cho là ta không thể thắng chúng, miễn là ta có cách đánh đúng và thích ứng với thực tế... Ông đã hoàn toàn đúng với học thuyết về "trận đánh quyết định" ở Điện Biên Phủ, "Điện Biên Phủ trên không" và chiến dịch Hồ Chí Minh. Với bài báo "Tướng Giáp suýt thua trong trận đánh Điện Biên Phủ như thế nào?" đăng trên tờ "Người quan sát mới", nhà sử học Pháp Boudarel đã phản biện đại ý: Tướng Giáp đã hai lần tấn công thất bại "Con nhím Nà Sản". Lần thứ nhất, dùng chiến thuật "Đầu nhọn đuôi dài"... bị tổn thất mà không thắng. Lần thứ hai, sớm nhận ra Tướng Giáp sẽ chỉ đạo thay đổi chiến thuật, dùng cách đánh "Khoanh chặt để bắt sống con nhím", Navarre đã rút bỏ Nà Sản; ta đã giải phóng được địa bàn nhưng thất bại ý đồ chính là tiêu diệt sinh lực địch; Tướng Giáp dám "Khoanh chặt để bắt sống con nhím khổng lồ Điện Biên Phủ" là ông ta dám thế chấp sinh mạng chính trị của mình cho trận đánh, vì nếu thua thì ông sẽ mất hết, dù ông còn sống thì đó cũng chỉ là sự tồn tại. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng thống Thụy Sĩ Pascal Couchepin. Phải có một bản lĩnh lớn, ông mới thuyết phục được các cố vấn Trung Quốc từ bỏ ý định "Đánh nhanh, thắng nhanh, với chiến thuật đầu nhọn, đuôi dài nở hoa trong lòng địch". Và mọi người đã đồng thuận chấp nhận cách đánh của ông - cách đánh của Việt Nam - cách đánh Bác Hồ luôn căn dặn, đó là "Đánh chắc, tiến chắc; dùng chiến thuật bao vây đánh lấn theo kiểu bóc vỏ, xẻ múi, nghiền hạt". Tướng Giáp đã bắt sống con nhím khổng lồ Điện Biên Phủ, không cho nó xổng chuồng. 5. Võ Nguyên Giáp là vị tướng có một nhân cách phi thường. Nét đẹp cao quí tập trung nhất về nhân cách của ông là tinh thần "Dĩ công vi thượng". Ông tâm niệm, làm theo lời răn dạy đó của Bác Hồ suốt cả đời mình. Với ông, Tổ quốc, dân tộc và Đảng là trên hết, không gì thiêng liêng, cao cả hơn. Trước sóng gió trên mặt trận quân sự và cả trong cuộc sống, ông tỉnh táo lạ thường, tỉnh táo đến sáng suốt tuyệt vời. Ông luôn gạt cá nhân mình sang một bên, đặt sinh mạng chính trị của đất nước, nhân dân lên trên hết, tìm cách thu hẹp mọi bất đồng, mâu thuẫn; nhằm khắc phục những khuyết điểm, sai lầm gây nguy hại cho quốc gia, dân tộc. Ông luôn tỏ rõ là một vị tướng tài đức song toàn, có uy tín cao và tròn vẹn, là chỗ dựa tinh thần và nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân, cán bộ, đảng viên. Ông rất mực khiêm tốn: Công trạng của ông vô cùng to lớn nhưng ông không nói về mình, luôn đề cao công lao thành tích của nhân dân, quân đội, Đảng và Bác Hồ. Tháng 2/1989, ông thay mặt Chính phủ tiếp kiến Thống chế Méhra - người thống lĩnh chỉ huy lực lượng không quân và các lực lượng phòng không toàn Ấn Độ dẫn đầu đoàn đại biểu quân sự cấp cao Ấn Độ sang thăm nước ta. Thống chế Méhra không ngớt lời ca ngợi ông là một vị tướng huyền thoại. Ông cảm ơn và từ tốn đáp lời: "Nếu không có một tập thể lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, nhân dân và quân đội anh hùng, tướng lĩnh chúng ta dù tài giỏi đến đâu, cũng không thể làm nên công trạng, thành tích". Thống chế Méhra rất tâm đắc lời ông. Tháng 11/1998, John Kennedy (con trai Tổng thống Mỹ Kennedy) cho đăng trên tạp chí George cuộc phỏng vấn ông. John Kennedy hỏi: "Ai là vị tướng người Việt giỏi nhất?". Không một phút suy nghĩ, ông trả lời ngay: "Nhân dân Việt Nam", John Kennedy rất bất ngờ và thú vị. Học và làm theo Bác, ông rất chuộng lối sống giản gị, thanh cao. Căn phòng tiếp khách của ông đã đón tiếp không biết bao nhiêu người có địa vị xã hội cao ở nhiều nước, nhưng không có đồ vật gì sang trọng cả. Ông đi tàu hỏa về thăm quê hương. Ông đi máy bay dân dụng lên thăm Điện Biên Phủ. Ông chan hòa tình cảm với nhân dân, cán bộ, chiến sĩ rất hồn nhiên, vui vẻ. Trên lĩnh vực quân sự, nhân cách của ông tỏa sáng rực rỡ tinh thần quyết đoán, dân chủ, nhân hậu. Trước những quyết định khó khăn, đòi hỏi người chỉ huy phải dũng cảm, trí tuệ. Về điều này, trong lịch sử quân sự thế giới, ít người sánh kịp. Ông cho rằng, những thắng lợi trên chiến trường, xét cho cùng là do những người trực tiếp chiến đấu quyết định. Vì vậy, ông rất coi trọng phát huy dân chủ. Ông luôn chịu khó lắng nghe, chọn lọc và trân trọng những sáng kiến, cách đánh hay của cán bộ, chiến sĩ và trong nhân dân, tạo nên một khối đoàn kết vững chắc, một sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh toàn dân. Ông rất nghiêm minh về kỷ luật nhưng cũng rất bao dung, nhân hậu. Ông xem cán bộ, chiến sĩ như anh em trong một đại gia đình cách mạng. Ông hết lòng yêu thương chiến sĩ và không ít lần đã khóc trước thương vong của bộ đội, nhân dân trong chiến tranh. Đặc biệt, ông quí từng giọt máu của người lính. Ông tâm sự với đội ngũ cán bộ thuộc quyền rằng: Chiến tranh không phải là vấn đề thể diện, không được phiêu lưu, mạo hiểm, không cho phép đánh đổi bằng bất cứ giá nào. Một người chỉ huy giỏi là một người đánh thắng kẻ thù nhưng ta thương vong thấp nhất, đổ xương máu ít nhất. Sinh mạng của con người là vô giá và không gì có thể bù đắp được nỗi đau mất mát trong chiến tranh. Dĩ công vi thượng, khiêm tốn, sống giản dị, thanh cao, quyết đoán, dân chủ và bao dung, nhân hậu -Đó là nhân cách Võ Nguyên Giáp - một thiên tài quân sự. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của vị chỉ huy tối cao Hồ Chí Minh và tập thể Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, những chiến thắng vĩ đại mà Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp góp phần làm nên, đã tác động mạnh mẽ vào dòng chảy lịch sử, làm thay đổi bộ mặt thế giới thứ ba và số phận một số nước trên thế giới, thúc đẩy sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Nhân dân Ấn Độ gọi ông là “Một con người Việt Nam đã thuộc về toàn thế giới”. Còn khắp năm châu, ông không chỉ được tôn vinh là một vị tướng huyền thoại, mà còn là một thiên tài quân sự của mọi thời đại. Điều này, không có gì khó hiểu. Vì ông là một trong những người học trò xuất sắc nhất và là bạn chiến đấu gần gũi, thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị Đại tướng của nhân dân, người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Và có lẽ, chính những tên gọi giản dị này lại ghi đậm trong ta những ấn tượng đẹp đẽ, sâu sắc nhất, những bài học quí giá cần được chiêm nghiệm mỗi khi ta nghĩ đến con người và sự nghiệp của ông đã hiến dâng cho nhân dân, đất nước ta. Hồ Ngọc Sơn (Bài viết đăng trên báo Quân đội nhân dân)
-
Ghi nhận sự đóng góp của Cô Châu Quyên (thân chủ của anh TS) 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) ủng hộ cho Quỹ Từ thiện. Quỹ hiện có: 4,267,000 đ+ 500,000 đ = 4,767,000 đ(bốn triệu bảy trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) Và 10,000 Yen nhật (mười ngàn yên)
-
Thanh long giảm béo, chữa ho Theo Đông y, quả thanh long (trường tiên) có vị ngọt, chua, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, nhuận phế, chỉ khái, hoá đàm. Ảnh: Rau hoa quả Việt Nam Thân cây có tác dụng thư cân hoạt lạc (giúp gân cốt co duỗi khoẻ khoắn và làm thông suốt các kinh lạc) và giải độc. Hoa có tác dụng bổ phế, trừ ho.Đặc biệt, chất nhầy trong quả thanh long giúp làm giảm cholesterol của thức ăn và muối mật. Do đó, người mập phì, người có hàm lượng cholesterol huyết áp tăng cao nên ăn thanh long. Thanh long còn thích hợp với người bệnh đái tháo đường, cao huyết áp, táo bón kinh niên. Thân cây thanh long gọt bỏ vỏ và gai, rửa thật sạch với nước muối loãng, giã nát lấy nước bôi hay dùng bã để đắp chữa bỏng lửa, bỏng nước sôi, viêm tuyến mang tai, đinh nhọt, gãy xương. Hoa khi nở có màu trắng đẹp như hoa quỳnh, được dùng chữa viêm phế quản, viêm hạch bạch huyết thể lao, giải độc rượu. Liều dùng 15 - 30g tươi, sắc uống hoặc 10 - 12g khô sắc uống, hãm trà để uống. Có thể nấu hoa thanh long với thịt heo nạc để làm món súp bổ dưỡng, chữa tình trạng phổi yếu hay bị ho đàm. Thanh long là nguồn vitamin C cần thiết cho cơ thể giúp chữa một số chứng bệnh do thiếu vitamin C. Theo BS Hương Trà Bee.net
-
Rubi có quà vội khi đưa lời tạm biệt Diễn Đàn, rất nhiều ace còn yêu quí Rubi. Sự đóng góp của Rubi vẫn được đón nhận. Đôi lúc Cô chợt nghĩ mỗi người là một cá thể phát kiến sáng tạo đều đáng cho ta học hỏi. Vài lời tiếc nuối nếu Rubi vẫn giữ ý ra đi hãy cho Cô biết lý do xác đáng.