wildlavender

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    6.007
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    103

Everything posted by wildlavender

  1. Dân số VN hiện trên 80 triệu người, loại trừ 40 tr người già, trẻ em, và người dân tộc thiểu số, trừ thêm 20 tr người không quan tâm thời sự chính sự còn lại 20 tr trong đó gồm các giới chức có liên quan khoa học cùng các đại diện, mà phản ứng chưa đến 100 ý. Một con số quá nhỏ nhoi cho một sự kiện, chẳng qua cái tít "Dị nhân..." gây chú ý quá mức chứ kể ra việc dự báo của Lý học này đã từ đúng cho đến hoàn toàn chính xác lâu lắm rồi...chứ không thể chung chung theo kiểu " thời tiết hôm nay có mưa vừa và to và rải rác vài nơi, mà nơi nào không rõ :D " riêng xác suất của Dự báo thời tiết người nghe đã miễn nhiễm cũng xưa lắm rồi. Chán!
  2. Huyền bí à nha! Nhưng ko rõ bạn muốn hỏi gì?
  3. KHÔNG! Ồn ào thế thôi! Vì đụng đến tôn giáo bị tranh cãi lùm xùm lắm!
  4. Phàm đạt được 4/10 và giác ngộ thêm quá bán là chuyển hóa công phu rồi.
  5. Vào ngày 5/9/2010 đã chi tặng 5,185,000 đ (năm triệu một trăm tám mươi lăm ngàn đồng) cho quà Trung Thu. Quỹ hiện có:14,949,000 đ - 5,185,000 đ = 9,764,000 đ(chín triệu bảy trăm sáu mươi bốn ngàn đồng)
  6. Rộ tin đồn ngôi chùa 'oán' tình nhân “Bạn mình mấy cặp đang yêu dắt nhau lên chùa cầu an nhưng sau đó vài tháng lần lượt chia tay. Giờ mình cũng thấy sợ không dám dẫn người yêu lên đó nữa”, Thu Phượng, nhân viên Marketing tại quận 10, TP HCM, kể. Theo lời Phượng, trước đây chị nghe mọi người đồn ngôi chùa Châu Thới Sơn ở tỉnh Bình Dương có lời nguyền “khắc” tình nhân, hễ cặp nào đến đó cầu duyên về đều chia tay. Tuy nhiên vốn cứng lòng nên chị không tin và quyết định rủ các bạn trong nhóm lên đây để kiểm chứng. Chị còn nhớ như in chuyến đi hơn 7 tháng trước, cả nhóm gồm 14 người, trong đó có 5 cặp yêu nhau lặn lội leo hơn 200 bậc thang đến quỳ dưới chân Bồ Tát để cầu an. “Không biết tại sao lại đúng như những gì tụi mình được nghe truyền miệng, chỉ 3 tháng sau đã có 4 đôi chia tay mà trước đây không hề có dấu hiệu rạn nứt tình cảm. Còn một đôi kia không vào bái Phật mà chỉ đứng ở sân chùa cũng mới chia tay cách đây một tháng. Trước đây mình vốn không tin và cho rằng ai đó ác ý đồn thổi nhưng giờ thấy rồi nên không thể không xiêu lòng. Cũng may là hôm đó mình không dẫn người yêu đi cùng”, Phượng quả quyết. Vài người bạn đi cùng với Phượng hôm đó cũng khẳng định sự việc chia tay của đôi lứa mình là có thực. Tuy nhiên các bạn này cho rằng thời gian chia tay của họ chỉ là tình cờ trùng khớp với lời đồn. “Nhưng có thờ có thiêng có kiêng có lành, tốt nhất đừng đưa người yêu cùng lên đây kẻo lại chia tay thì đau khổ lắm”, Hoàng, bạn thân của Phượng kết luận. Ngôi chùa mang tiếng “oán” tình nhân tên là Châu Thới Sơn nằm chót vót trên đỉnh núi Châu Thới cao 85m tại tỉnh Bình Dương. Không gian tĩnh mịch với nhiều cây cối rậm rạp, núi rừng âm u, tiết trời lành lạnh, những cơn mưa rào lất phất đầu tháng 9 càng khiến cho ngôi chùa trở nên huyền ảo. Đứng từ xa, người ta dễ dàng nhận ra ngôi chùa này với bức tượng Quan Âm cao 22,5m, nặng hơn 100 tấn được đặt trên đỉnh núi vào năm 2007. Với 220 bậc thang bằng xi măng, chùa Châu Thới Sơn đã được xây dựng mới và trùng tu nhiều lần theo kiểu kiến trúc cổ của Trung Quốc. Chùa gồm có nhiều pho tượng Phật, Quan Thế Âm lớn được đúc bằng đồng hoặc đá cẩm thạch. Đặc biệt ở đây còn lưu giữ 3 pho tượng Phật bằng đá cổ và một tượng Quan Âm bằng gỗ mít (lấy từ cây mít được trồng ở chùa hơn 100 năm). Đỉnh mái chùa có 9 con rồng lớn nhìn ra nhiều hướng với những nét điêu khắc sinh động. Ngoài ra ở đây còn có các tác phẩm làm từ gốm sứ như Tứ linh, Thủ quyền và tượng Đức Phật giáng sinh có 9 con rồng phun nước. Chị Trịnh Thị Hương Trà, nhà ở gần chùa cho biết, từ lâu chị đã nghe tiền nhân kể lại về hiện tượng nhiều cặp tình nhân lên chùa cầu kinh khấn Phật nhưng sau đó trở về lại chia tay nhau mà không biết lý do tại sao. Bậc đá dài uốn lượn là nơi các đôi tình nhân ưa thích dừng chân ngắm cảnh, trò chuyện. Ảnh: Hinh Trần Nghe đồn trước kia trên núi có hai vợ chồng sống với nhau không mấy hòa thuận. Trong một lần hai vợ chồng xô xát, người chồng đã lỡ tay đẩy người vợ xuống vực. Linh hồn người vợ ở lại trên núi để oán trách người chồng. Mỗi khi thấy có đôi tình nhân nào lên núi là người vợ lại nhập vào một trong hai người và chia cắt tình cảm của họ”, chị Trà chầm chậm kể về câu chuyện được truyền miệng qua nhiểu đời của dòng họ. Tuy nhiên, khi được hỏi về nguồn gốc của sự tích thì chị chỉ cười và cho rằng không có sử sách nào ghi chép lại. Song nhiều người địa phương cũng ngại dẫn bạn tình nên núi vì e đến lượt mình chia phôi. Theo quan sát của chị Trà, hàng ngày vẫn có nhiều người lặn lội lên chùa Châu Thới Sơn để cầu an, trong đó có không ít cặp tình nhân do chưa nghe tin đồn hoặc không tin vào lời nguyền nên vẫn đến đây quỳ dưới chân Phật Tổ khấn vái cầu duyên. Tuy nhiên anh Đặng Công, nhà ở Bình Dương, cũng thường xuyên lên viếng chùa thì cho rằng, những lời đồn trên chỉ là trò ác ý của một số người hoặc vì mê tín dị đoan chứ hoàn toàn không có thật. “Yêu nhau và chia tay là do mình chứ làm gì có chuyện lên chùa về là chia tay. Tôi và người yêu vẫn thường cùng nhau lên đây cầu Phật nhưng có xảy ra chuyện gì đâu. Nếu lên đây mà chia tay chắc ngôi chùa này bị bỏ hoang từ lâu rồi chứ làm gì nhiều Phật tử và khách tham quan đến đây như thế này”, anh nói. Quả chuông này được gọi là chuông nguyện ước, dán kín những tờ giấy ghi các điều cầu nguyện của lứa đôi. Ảnh: Hinh Trần Theo một số tài liệu do một số vị sư ở đây cung cấp thì chùa Châu Thới được Hòa thượng Thành Nhạc khai sơn khoảng năm 1681. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, chùa đã từng có 6 đời trụ trì và được truyền thừa theo dòng kệ “Đạo Bổn Nguyên thành Phật tổ tiên”. Hiện tại, Hòa thượng Thích Minh Thiện là trụ trì tại đây. Cùng trăn trở trước tin đồn này Hòa thương Thích Minh Thiện trụ trì chùa Châu Thới Sơn bày tỏ: “Những người tung tin đồn này hoàn toàn vô lý và chưa hiểu gì về giáo lý của đức Phật. Trong giáo lý của Phật có đạo luật Hàn Thuyên, hai người yêu nhau mà đưa nhau đến trước cửa Phật thì sẽ được chúc phúc cho suất đời hòa thuận, làm ăn phát tài. Phật dạy phải chung thủy, không tà dâm nên không thể nào có chuyện lên cửa Phật về sẽ chia tay hay ly dị như nhiều người thường nói”. Vị sư trụ trì còn cho biết, ở đây có nhiều người không quen biết đã bén duyên khi lên tới cửa Phật. Có một cặp Phật tử khi cùng quỳ xuống bái lạy Phật, người con trai vô tình làm rơi chiếc kính mắt xuống đất, người nữ quỳ bên cạnh thấy thế nhặt lên dùm, họ cảm mến nhau và đã nên duyên vợ chồng. Nhiều cặp khác hôn nhân trục trặc có ý định chia tay nhưng khi lên chùa về lại làm hòa rồi sống bên nhau hạnh phúc đến già. “Khi lên chùa là trong tâm có Phật, có Phật là biết luật nhân quả của nhà Phật nên người ta sợ sau này phải gặp quả báo nên sẽ quay về với nhau”, vị Hòa thượng nói. Hinh Trần Nguồn VnExpress ------------------------------------- Nếu đây không phải là lời đồn đãi, mặt tích cực cho điều ngược lại những đôi lứa muốn giải phóng một nữa kia của mình hãy viếng thử ngôi chùa này xem hư thực thé nào? Theo tôi đã là Chùa nơi an nhiên thiêng khí, thì chẳng bao giờ mang điều bất hạnh đến cho mọi người !
  7. Lớp Cơ Bản là dành cho người chưa biết gì có nghĩa ABC, chỉ cần sự ham hiểu biết và ưa thích của môn PT.
  8. Xôn xao chuyện những ngôi chùa 'oán' tình nhân. “Vợ chồng tớ đi trăng mật ở Huế và đến chùa Thiên Mụ. Thế là ngay trong năm đầu tiên lấy nhau chồng tớ đã ngoại tình. Cho đến giờ tớ vẫn không thể nào hiểu tại sao chuyện đó xảy ra với nhà mình”, Havy tâm sự trên diễn đàn. > Rộ tin đồn ngôi chùa 'oán' tình nhân Tin đồn về những ngôi chùa có lời nguyền chia ly uyên ương đang được bàn tán sôi nổi trên các blog cá nhân và diễn đàn mạng, thu hút khá đông thành viên tham gia. Nhiều địa danh nổi tiếng như: Chùa Thiên Mụ (Huế), Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), đền Bà Đế (Hải Phòng)…cũng có tên trong danh sách này. Nhiều người còn khẳng định tin đồn là sự thật và chứng minh bằng những trải nghiệm của người trong cuộc: “Bản thân mình có từng nghe chuyện tình nhân cầm tay nhau đi chùa rồi về chia tay. Lúc đầu mình không tin nên dắt tay anh ấy đi chùa, và cùng quỳ lạy nữa. Thế là về nhà vài tháng sau thì chia tay, mặc dù trước đó không nghĩ sẽ có ngày như thế”. Một thành viên khác đang sống ở Huế cũng chia sẻ: “Em nghe bố mẹ kể là yêu nhau mà lên chùa Thiên Mụ là về chia tay liền nhưng mà chưa có khi mô thử tìm hiểu hoặc kiểm chứng hết. Các ông bố bà mẹ ở Huế vẫn nói với con cái rằng những đôi trai gái yêu nhau không nên đến chùa này vì như thế sẽ không đến được với nhau”. Trên một diễn đàn, nickname TruongNam cho rằng những cặp đôi đã lỡ lên chùa "bị nguyền" rồi phải ngay lập tức đi thêm một lần nữa để giải lời nguyền. “Cách đây 4 năm, tớ và 4 người bạn cùng đi Huế, trong đó có một cặp yêu nhau. Bọn tớ không những đến thăm chùa Thiên Mụ và còn lên núi Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng. Sau chuyến đi đó về cặp tình nhân này đã tan rã”. TruongNam còn khẳng định đã lên ngôi chùa này thì 10 đôi tình nhân sẽ có 9 đôi chia tay, đôi còn lại sẽ bị tai nạn chết. Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là Linh Mụ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây. Chùa được khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời Chúa Nguyễn Hoàng, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Đây có thể nói là ngôi chùa cổ nhất và là niềm tự hào của người dân Huế. Trên trang nhật ký cá nhân, blogger nvnghiem cho biết, chùa Thiên Mụ gắn liền với một câu chuyện tình bi thương mà đến nay vẫn còn lưu truyền. Người dân Huế thường lấy đó để lý giải nguyên do tại sao những đôi tình nhân thường ít khi cùng nhau tới đây để cầu khấn. Câu chuyện này kể rằng, vào thời Nguyễn, có một cặp trai gái yêu nhau thắm thiết. Cô gái là con nhà danh giá, còn chàng trai thì mồ côi, nghèo khổ. Bị gia đình nhà gái ngăn cách, hai người ra sông Hương trầm mình tự vẫn. Tuy nhiên chỉ có chàng trai chết còn cô gái trôi dạt vào bờ và được các ngư dân cứu sống. Thời gian trôi qua cô gái đi lấy chồng, oan hồn chàng trai nằm dưới đáy sông Hương chờ mãi không thấy người yêu, hận cho số phận uất trắc của mình, liền "nhập" vào chùa Thiên Mụ nguyền cho những đôi tình nhân đến đây cầu duyên đều bị chia tán đôi đường đôi ngả. Từ đó những ai đang phòng đơn gối chiếc đến đây thành tâm khấn vái nhất định sẽ sớm gặp được người trong mộng. Nhưng đã có người yêu rồi mà dắt nhau tới chùa, ắt sẽ đứt sợi tơ duyên. Tương tự, đền Bà Đế ở Hải Phòng cũng bị "mang tiếng" đem đến sự chia ly cho các cặp tình nhân do vô tình hay cố ý đặt chân đến. Một bà mẹ ở Hải Phòng khẳng định đa phần đôi lứa nào cùng nhau đến ngôi đền Bà Đế sẽ rơi vào cảnh chia ly. "Bà Đế là một người con gái bị chúa Trịnh phụ tình, mang theo đứa con trong bụng gieo mình xuống dòng sông. Xác bà trôi theo dòng sông, ra biển và dạt vào bãi biển Đồ Sơn. Dân trong vùng lập đền thờ bà bên vách núi trông ra biển Đông Bắc. Sau này, có một số cô gái bị phụ tình cũng ra đền Bà Đế thắp hương, rồi gieo mình xuống vách núi mà chết", người mẹ viết. Trước tin đồn chưa rõ thực hư thế nào, nhiều bạn trẻ tỏ ra lo ngại và chọn giải pháp tránh đi cùng người yêu đến những địa điểm này vì tâm lý phòng bệnh hơn chữa bệnh. “Đi chùa mà đang yêu nhau thì cũng được nhưng không được khấn nguyện cùng. Chuyện này có gì mà lạ, nó là mẹo dân gian có từ lâu rồi. Bọn em hồi chưa yêu có đi chùa cùng nhau thì cũng chỉ là mỗi người một chỗ và khấn vái theo lượt. Em tin lắm chuyện này, dù biết không có cơ sở nào cả nhưng thôi, kiêng kỵ vẫn tốt hơn”, nick name thuxua viết. Xuất phát từ tinh thần Phật giáo, Hòa thượng Thích Nguyên Chân, chùa Linh Quang, huyện Mê Linh, Hà Nội cho rằng, tất cả mọi vật trong trời đất nếu hội đủ nhân duyên thì sẽ "thành" còn không đủ sẽ "tán", điều này còn được chi phối bởi quy luật nhân quả. Hơn nữa tinh thần căn bản của đạo Phật luôn hướng đến phổ độ chúng sinh, cầu an cho mọi người. Vì thế không thể có chuyện đến chùa mà bị chia cắt tình duyên. Liên quan đến các truyền thuyết dân gian, vị hòa thượng cũng cho biết thường những câu chuyện này do nhân gian hư cấu nên hoặc thêu dệt từ một sự việc có thật nhưng được thêm thắt để thần thánh hóa chúng. “Tuy nhiên trên thực tế một việc không có thật mà được bàn tán nhiều cũng tác động đến tâm lý và tạo ra hiệu ứng tương tự. Ở đây các đôi tình nhân dẫn nhau tới chùa mà bị ám ảnh bởi những chuyện tình ngang trái sẽ tạo ra những suy nghĩ bi quan về chuyện tình của chính mình rồi dẫn đến tan vỡ. Đó chỉ là một qui luật thông thường trong diễn biế́n tâm lý của con người”, Hòa thượng Thích Nguyên Chân khẳng định. Ngoan Ngoan
  9. 8 điều nên tránh khi bài trí tượng Phật. Thờ cúng và bài trí tượng Phật trong nhà cũng cần biết những điều cấm kỵ giúp gia đình đạt được bình an và phú quý. Thông thường, trong mỗi gia đình theo Phật giáo đều có bàn thờ Phật, tranh Phật hay bài trí tượng Phật để cầu xin bảo hộ bình an, phát tài. Tượng Phật rất linh thiêng, vì vậy chúng ta nên chú ý đến những điều kiêng kỵ để tránh mang lại những điều không may đến cho gia đình. 1 - Sau khi mua tượng Phật, tuyệt đối không được khóa trong két bạc hay cất trong tủ kín giống các đồ quý khác như vàng, bạc, đá quý... Hành động này bị coi là bất kính nhất đối với tượng Phật. Nếu để tượng trong két bạc còn làm cho nhà xảy ra rất nhiều chuyện không hay, nhất là trẻ em hay bị ốm. 2 - Phòng ngủ là không gian riêng tư của gia đình. Vì vậy, không được bài trí tượng Phật hay vứt bùa phù hộ có hình tượng Phật lung tung trong căn phòng này, vì điều đó sẽ dẫn đến việc ngủ không ngon, hay mộng mị. 3 - Không nên mua tượng Phật một cách ngẫu hứng, tùy tiện. Trong nhà chỉ nên thờ nhiều nhất là ba vị và phải sắp đặt chung một bàn, càng nhiều tượng Phật thì người sống trong nhà càng cảm thấy phân tâm, bất an. 4 - Nếu tượng Phật trong nhà quá cũ, để lâu năm thì không được vứt hoặc ném vào một góc nào đó mà cần mua tượng Phật mới để thay và mang tượng Phật cũ lên chùa, miếu hoặc có thể đốt cùng tiền vàng (vào mùng 1, ngày rằm để tiễn tượng Phật quy vị). 5 - Nếu tượng Phật không may bị vỡ, không nên dùng chổi quét và vứt tùy tiện mà phải dùng giấy vàng gói lại, vào ngày mùng một, ba, năm, bảy, chín đốt dưới nắng, tiễn tượng Phật quy vị. Nếu ngón tay tượng Phật bị gãy thì nên dùng giấy đỏ cuộn lên rồi lắp vào, nếu thân Phật có vỡ, nên dán lại bằng giấy đỏ. 6 - Khi đặt tượng Phật lên bàn thờ, dưới tượng phải để một đĩa có giấy đỏ nhằm tỏ lòng thành kính và trang trọng đối với Phật. 7 - Trong khi thờ Tam thế Phật, phải sắp đặt chung một bàn. Nếu tượng lồng kính thì nên đặt ngay thẳng, không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to, cái bé; còn với tượng gỗ, tượng đồng, tượng sành, thì để ngang hàng đồng bậc, không nên để tầng trên, cấp dưới. 8 - Bàn thờ Phật không được bày theo hứng mà phải đặt chính giữa nhà. Bàn thờ ông bà thì nên thờ một bên. Nếu nhà cao tầng thì thờ Phật ở tầng trên. Tại bàn thờ Phật thì không nên để tạp vật nào khác, ngoài bình bông, lư hương, chân đèn và đĩa quả. Những vật này, mỗi ngày cần được săn sóc lau quét sạch sẽ. Ngoài ra, những tranh in hình Phật tuyệt đối không được cuộn lên, bởi làm như vậy sẽ gây đau đầu cho những người sống trong gia đình. Khi mắt, ngón tay của tượng Phật trong tranh bị hỏng thì phải sửa chữa hoặc vẽ lại, nếu không vẽ lại như cũ thì người sống trong nhà dễ bị mắc bệnh đối ứng chỗ tượng Phật. Theo ARCHI nguồn tintuconline
  10. Thưa thật với anh, Wild cũng như mọi người chả tin gì nếu chỉ đọc qua một vài bài báo thêm cái tít "dị nhân..." Nhưng ở đây nó tổng hợp được cả hồn thiêng sông núi cùng sự phò trợ của Anh Linh Tổ Tiên và cụ thể nhất là mong mỏi của toàn dân thì "nhất hô" của anh cùng "bá ứng' của mọi người cũng đủ cho Mây phải nhịn để dành tối Mưa mát đường thôi anh ạ! Truyền rằng "Ngàn năm Thăng Long hiền tài xuất hiện nên đã có một Ngô bảo Châu và biết đâu còn nữa là ai? Chờ xem vậy!"
  11. Các bài comment trên Vietnamnet đều phản ảnh đúng cả! Vì có căn cứ đâu mà họ tin? Nhưng có vội vàng quá không khi những bình luận gia đã bức xúc dùng những lời lẽ thách thức chỉ trích nặng nề đến như vậy? Kết quả của lời tiên đoán này còn ở phía trước kia mà! Thời nay đang có quá nhiều hiện tượng mà các nhà khoa học dần công nhận và tìm cách giãi mã. Không cần nắng đẹp chỉ cần không mưa vào ban ngày đủ nói lên cái vi diệu của LVĐT mà ở đây ACE đã từng ứng dụng nhiều dịp. Giá như Bác Thiên Sứ đừng ĐÙA đưa ra cái giá 7 tỷ 150 và cũng không cần đưa ra giá nào cả, cứ đưa ra lời dự báo kèm danh dự của 1 công dân có trách nhiệm với Đại lễ của dân tộc là đủ. Sau 7 ngày trời quang mây trắng Bác sẽ nhận được những trọng trách tiếp theo mà không thể mặc cả được bằng giá trị vật chất. Khi ấy ơn vua lộc nước trãi đường cho việc Vinh danh nền văn hiến Việt được ngắn lại.
  12. “Nhất Sĩ” trong tứ đại phú . Những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ở Sài Gòn nổi lên bốn nhà cự phú, giàu có nức tiếng. Họ không chỉ giàu nhất Sài Gòn mà còn là giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh và cả giàu nhất Đông Dương. Bởi thế mới có câu Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xương, tứ Định (*) truyền tụng cho đến mãi ngày nay. Trước hết, chúng ta hãy "tiếp cận" với nhân vật được xếp hạng "số một": Huyện Sĩ. Tượng bán thân Ông Huyện Sĩ. Ngày nay, nếu có dịp đi qua góc đường Tôn Thất Tùng - Nguyễn Trãi (Q.1, TP.HCM), bạn sẽ thấy tọa lạc ở đây là một nhà thờ uy nghiêm, cổ kính. Đó là nhà thờ giáo họ Chợ Đũi, tuy nhiên dân gian vẫn quen gọi là Nhà thờ Huyện Sĩ nhằm tưởng nhớ người đã bỏ 1/7 gia sản của mình ra để xây dựng và cung hiến, dần dần tên gọi "Nhà thờ Huyện Sĩ" trở thành tên gọi chính thức của ngôi thánh đường này. Tiểu sử của Huyện Sĩ đến nay vẫn còn khá giản lược nhưng di sản và tiếng tăm của một dòng họ "trâm anh thế phiệt" đến nay vẫn lưu truyền. Huyện Sĩ tên thật là Lê Phát Đạt (1841-1900), thuở nhỏ có tên là Sĩ. Ông sinh tại Cầu Kho (Sài Gòn) nhưng quê quán ở Tân An (Long An) trong một gia đình theo đạo Công giáo, tên thánh là Philipphê. Do vậy, ông được các tu sĩ người Pháp đưa sang du học ở Pénang (Malaysia). Ở đây, Sĩ được học các ngôn ngữ: La Tinh, Pháp, Hán và quốc ngữ (chữ Việt mới sơ khai), rồi do trùng tên với một người thầy dạy nên Sĩ đổi tên thành Lê Phát Đạt. Khi về nước, Lê Phát Đạt được Chính phủ Nam Kỳ bổ dụng làm thông ngôn, rồi làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (từ năm 1880). Tuy nhiên, dù đã đổi tên nhưng bà con lối xóm vẫn gọi ông bằng cái tên cúng cơm: Sĩ. Theo học giả Vương Hồng Sển trong Sài Gòn năm xưa (NXB TP.HCM, 1991) thì cái sự "lên hương" của Lê Phát Đạt chẳng qua là... ăn may: "Tương truyền buổi đầu, Tây mới qua, dân cư tản mác. Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận, giá bán rẻ mạt mà vẫn không có người đầu giá (chú thích: "Hồi Tây qua, nghe nói lại, những chủ cũ đều đồng hè bỏ đất, không nhìn nhận, vì nhận e nỗi quan và triều đình Huế khép tội theo Pháp. Vả lại, cũng ước ao một ngày kia Tây bại trận rút lui. Chừng đó ai về chỗ nấy, hốp tốp làm chi cho mang tội... Không dè bởi đất không ai nhìn, nên Pháp lập Hội đồng Thành phố, Ủy ban Điền thổ rồi đưa nhau đi khám xét từng vùng. Đến chỗ nào địa thế tốt, thì những ủy viên bản xứ nhận là của mình: "Ùy" (Oui) một tiếng! Đến chỗ nào nẻ địa thì lắc đầu, tiếp theo nói "Nông" (Non) cũng một tiếng! Chung quy chỉ học hai tiếng "Ùy", "Nông" mà có ông lập nghiệp truyền tử lưu tôn. Trận bão năm Giáp Thìn (1904), đất Gò Công bỏ hoang vô số kể, ai đủ can đảm chịu ra mặt đóng thuế thì làm chủ chính thức, mà có ai thèm đâu..."). Thế rồi, nài ép ông, ông bất đắc dĩ phải chạy bạc mua liều. Nào ngờ vận đỏ, ruộng trúng mùa liên tiếp mấy năm liền. Ông trở nên giàu hụ, trong nhà có treo câu đối dạy đời: "Cần dữ kiệm, trị gia thượng sách/Nhẫn nhi hòa, xử thế lương đồ". Tương truyền ngôi nhà lầu đồ sộ của Huyện Sĩ tại Tân An (nằm gần ngã ba sông Tân An và Bảo Định) được cất trên thế đất hàm rồng nên gia đình ông trở nên giàu có, danh vọng bậc nhất thời đó. Nhiều tài liệu nói rằng khi đang xây nhà thờ Chợ Đũi (tức nhà thờ Huyện Sĩ), theo yêu cầu của giáo dân vùng Bảy Hiền, người ta đã cắt bớt một gian giữa của nhà thờ này để lấy tiền đó xây nhà thờ Chí Hòa; con trai của Huyện Sĩ là kỹ sư Lê Phát Thanh cũng bỏ tiền ra xây nhà thờ Hạnh Thông Tây (góc Quang Trung - Lê Văn Thọ, Gò Vấp). Tất cả những ngôi nhà thờ này đều xây trên đất của Huyện Sĩ. Ngày nay, nếu đi bằng xe máy từ nhà thờ Huyện Sĩ đến nhà thờ Hạnh Thông Tây phải mất gần một tiếng, đủ thấy "lãnh thổ" của Huyện Sĩ mênh mông chừng nào. Không chỉ có thế, các con của Huyện Sĩ như bà Lê Thị Bính (mẹ của Nam Phương hoàng hậu), Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân... đều là những đại điền chủ có rất nhiều đất đai ở Tân An, Đức Hòa, Đức Huệ và Đồng Tháp Mười... Riêng trưởng nam của Huyện Sĩ là Lê Phát An được vua Bảo Đại phong tước An Định Vương, là người duy nhất trong lịch sử Nam Kỳ thuộc hàng dân dã, không là "hoàng thân, quốc thích" được lên ngôi vị cao quý nhất của triều đình (vương, công, hầu, bá, tử, nam - NV). Năm 1934, nhân dịp gả cô cháu gái về Huế làm Hoàng hậu, Lê Phát An đã tặng cho Nguyễn Hữu Thị Lan 1 triệu đồng tiền mặt để làm của hồi môn (1 triệu đồng lúc bấy giờ giá vàng khoảng 50 đồng/lượng, vị chi món quà này tương đương 20.000 lượng vàng - NV). Gia đình Nguyễn Hữu Hào (cha của Nam Phương hoàng hậu, rể của Huyện Sĩ) giàu hơn Bảo Đại. Trong đời làm vua của mình, vị hoàng đế thích ăn chơi Bảo Đại xài tiền của vợ nhiều hơn của hoàng gia. Nam Phương Hoàng Hậu (cháu ngoại của Huyện Sĩ) Huyện Sĩ mất năm 1900, hai mươi năm sau vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài cũng tạ thế. Người ta đưa xác hai ông bà vào chôn ở gian sau cung thánh nhà thờ Huyện Sĩ như một nhà mồ... Người viết đã may mắn quen biết với một người là thành viên của Hội đồng giáo xứ nhà thờ Huyện Sĩ nên đã nhờ ông dắt vào tận nơi (đây là khu vực đặc biệt, không phải ai muốn vào cũng được). Phía bên trái là tượng bán thân bằng thạch cao của ông Huyện Sĩ, kế đến là phần mộ bằng đá cẩm thạch được trang trí hoa văn (nghe nói là chôn nổi). Trên mộ là tượng toàn thân của ông Huyện Sĩ (cũng bằng đá cẩm thạch) nằm kê đầu lên hai chiếc gối, đầu chít khăn đóng quay mặt về phía cung thánh, mình mặc áo dài gấm có hoa văn rất tinh xảo, hai tay đan vào nhau trước ngực, chân đi giày. Phía bên phải, ở những vị trí đối xứng là tượng bán thân của vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài (1845-1920), rồi đến mộ và tượng toàn thân của bà: búi tóc, cũng nằm kê đầu lên hai chiếc gối, hai tay nắm trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài. Phía trong cùng còn có tượng bán thân của con trai và con dâu của ông bà là Lê Phát Thanh (bên trái) và Đỗ Thị Thao (bên phải)... Đứng bên phần mộ của những con người đã từng có một thời giàu có và tiếng tăm nhất nước này, mới thấy kiếp người phù sinh. Tuy nhiên, phải thừa nhận phần mộ có tạc tượng của ông bà Huyện Sĩ xứng đáng là công trình nghệ thuật tuyệt tác. Hà Đình Nguyên. nguồn thanhnienonline.
  13. Trần Trinh Trạch - thân phụ của công tử Bạc Liêu Nhà Hội đồng Trạch ở Bạc liêu. Sau đây là những nhân vật được xếp vào hạng “tứ”. Họ tuy không sinh trưởng tại Sài Gòn - Chợ Lớn nhưng dân gian vẫn cho rằng câu “nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ...” bao gồm cả khu vực Nam Kỳ lục tỉnh (tứ Trạch, tứ Hỏa). Trần Trinh Trạch (1872-1942) do từng là thành viên của Hội đồng Tư mật Nam kỳ (Conseil Preivé), nên thường được gọi là Hội đồng Trạch. Ông cũng gốc người Minh Hương, tổ tiên ông theo Trần Thượng Xuyên vào Cù lao Phố (Biên Hòa - Đồng Nai) lập nghiệp rồi phiêu dạt về ấp Cái Dầy (xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu), Trần Trinh Trạch được sinh ra tại đây. Nhà nghèo, ông đi làm mướn cho một địa chủ đã nhập quốc tịch Tây. Theo lệ thời đó, con cái của dân “Tây tịch” phải đi học tiếng Pháp và thế là Trần Trinh Trạch được mướn đi học thế cho con địa chủ. Nhờ vậy (có chữ nghĩa) nên sau này Trần Trinh Trạch được bổ làm công chức ở Tòa Bố (tòa hành chánh) tỉnh Bạc Liêu. Ông cưới người con gái thứ tư của Bá hộ Bì (Phan Hộ Biết), người có ruộng đất nhiều nhất tỉnh Bạc Liêu. Được cha vợ chia cho một sở đất riêng và giúp vốn để ông mua thêm nhiều ruộng đất khác nên ông mau chóng phất lên. Nhờ kiến thức hiểu biết về luật pháp khi còn làm việc ở Tòa Bố nên lần lượt thu mua tài sản, đất đai của những địa chủ thất vận. Ngay cả sau khi Bá hộ Bì chia ruộng đất cho các con, dâu rể khác thì do máu mê cờ bạc họ lại cầm cố tài sản cho chàng rể thứ tư để ông này lần lượt thâu tóm... Hồi đó, ở xứ Bạc Liêu, ai được ông Hội đồng Trạch mời tới nhà chơi đều... vừa mừng vừa lo. Mừng là đâu phải ai cũng dễ kết thân với một gia tộc quyền thế bậc nhất này, còn lo là sợ phải... đánh bạc. Là một tay cờ bạc sành sỏi, Hội đồng Trạch thường tổ chức đánh bạc trong nhà, ai không có tiền ông bảo gia nhân mở két bạc, đưa cho cả xấp bạc, kèm theo câu nói nhẹ hều: “Lấy tiền của ông mà chơi, tính toán gì, miễn khách vui là gia chủ mừng !”. Vậy đó, nhưng rồi đã có biết bao nhiêu đất đai, ruộng vườn được “sáp nhập” vô gia sản của Hội đồng Trạch từ hình thức “được” vay tiền để đánh bạc. Theo nhiều tài liệu thì Hội đồng Trạch có 70.000 mẫu ruộng, gần 100.000 mẫu ruộng muối (toàn tỉnh Bạc Liêu có 13 sở muối thì riêng ông Trạch có 11 sở). Tuy sống trên núi tiền nhưng vợ của Hội đồng Trạch không ăn được thịt cá, hễ đụng đến các món này thì bà ói ra mật xanh, mật vàng nên suốt đời bà chỉ “nước mắm kho quẹt... muôn năm !”. Ông Trạch lại sống cần kiệm và rất chung thủy với vợ (ngược hẳn với cậu con trai Trần Trinh Huy ăn chơi bạt mạng, với danh xưng “Công tử Bạc Liêu” nổi như cồn). Ngoài hai dãy phố lầu ở Bạc Liêu, ông Trạch còn có một dãy phố lầu ở đường La Grandière ở Sài Gòn (nay là đường Lý Tự Trọng). Ông được xem là một trong những đồng sáng lập ngân hàng đầu tiên do chính người Việt Nam sáng lập và điều hành, đó là Ngân hàng Việt Nam, trụ sở đặt tại Sài Gòn (1927), do ông làm Chánh hội trưởng. Ở Sài Gòn ông còn hiến tiền để xây một bệnh viện nhưng vì những lý do “trời ơi” mà việc xây dựng cứ bị trì hoãn. Xin đọc một bài báo có tựa là Ông Trần Trinh Trạch không chịu... do cụ Phan Khôi viết trên báo Thần chung (Sài Gòn) số 186 ra ngày 1 và 2.9.1929: “Nhắc lại năm kia ông Trần Trinh Trạch là một nhà triệu phú Nam kỳ, có bỏ ra một số tiền 100.000$ để lập một cái nhà thương cho người An Nam... Món tiền 100.000$ ấy đã nộp cho thành phố Sài Gòn rồi, bây giờ chắc nó nằm trong nhà băng... Từ ông Trần làm việc nghĩa, chẳng những hạng dân nghèo ở thành phố cứ nghĩ sau này mình đau sẽ có chỗ nằm mà cám ơn ông; cho đến các người quyền quý sang trọng, nhứt là quan Thống đốc Nam kỳ, ông Đốc lý Sài Gòn cùng các ông nghị viên, ai nấy đều nức nở khen ông Trần là người hiếu nghĩa. Khen thì khen, nhưng làm thế nào cho có một cái nhà thương cất lên tại Sài Gòn thì không ai chịu làm... Chẳng lẽ ông Trần Trinh Trạch đã chịu mất tiền rồi, còn bắt ổng phải nai lưng ra cất lấy nhà thương nữa!... 100.000$ mà dựng một cái nhà thương thì được, song đã có nhà thương thì mỗi năm tiền tiêu phí ở trong phải hết sáu chục ngàn, mà số tiền ấy không biết lấy ở đâu, nên người ta toan dẹp lại, không cất nhà thương nữa... Nghe chừng như toan đem 100.000$ của ông Trần Trinh Trạch mà đóng giường và sắm đồ vặt cho các nhà thương khác... Thiên hạ đồn rằng ông Trần Trinh Trạch không chịu làm như vậy. Mà ổng không chịu là phải chớ. Ông cúng tiền để cất nhà thương chớ chẳng phải để sắm giường sắm chõng chi hết !... Cứ thẳng mà nói, nếu món tiền ấy bởi thành phố tới tịch nhà ông Hội đồng Trạch mà lấy, thì thành phố muốn làm gì thì làm. Song cái này là của ông cúng ra lập nhà thương và thành phố đã nhận lấy thì phải lập. Bằng không lập nhà thương thì phải trả lại cho ổng là phải. Đem một số tiền to mà làm không nên công việc gì thì sau còn ma nào dám cúng cho thành phố nữa! Thế rồi đừng trách nhà giàu An Nam sao có bủn xỉn !”. Ông Trạch mất tại Sài Gòn năm 1942 vì bệnh suyễn. Con trai út của ông là cậu Tám Bò (Trần Khương Trinh) nghĩ ra một “chiêu độc”: xác ông Hội đồng được đeo kiếng đen, đặt ngồi ngay ngắn trong chiếc xe hiệu Chevollet đưa về Bạc Liêu. Khi đến địa phận tỉnh này, tá điền hai bên đường cứ cúi đầu cung kính vì ngỡ ông Hội đồng đi thăm ruộng. Đến khi gia tộc phát tang mới bật ngửa. Linh cữu ông Trạch quàn ở dinh thự của ông bên sông Bạc Liêu (xây năm 1919 - nay là khách sạn Bạc Liêu), rạp che từ mặt tiền nhà cho tới mé sông. Đám tang kéo dài bảy ngày, bảy đêm. Bất kỳ ai đến cũng được đãi ăn tử tế, tá điền đến viếng và để tang được cho một cắc (tương đương một giạ lúa)... Hà Đình Nguyên Sau khi Hội đồng Trạch mất, bà vợ sống cô độc giữa một tòa nhà đồ sộ. Chịu hết nổi, bà sang Pháp ở với cô Hai Lưỡng (con đầu của “Công tử Bạc Liêu” Trần Trinh Huy với bà vợ lớn). Cô Hai Lưỡng lấy một viên quan người Việt nhưng sau ly dị rồi qua Pháp lấy một viên thị trưởng. 5 năm sau khi qua Pháp, bà Hội đồng Trạch qua đời, viên thị trưởng người Pháp tẩm liệm bà trong một chiếc quan tài có nắp bằng kính và thuê máy bay chở về an táng tại cố quận. Lần đầu tiên một chiếc quan tài có nắp đậy bằng kính xuất hiện ở Việt Nam. Dân Nam kỳ lục tỉnh đổ xô về cái xứ Cái Dầy (Bạc Liêu), cố dòm cho được khuôn mặt của bà Hội đồng được dồi phấn rực rỡ hiển hiện sau tấm kính. Quả là chuyện hy hữu!
  14. Nguyễn Tri Phương và tam Xường, tứ Định Francis Ganier. Ở bài viết về nhân vật “nhì Phương”, chúng tôi đã nêu vấn đề nhiều người hay nhầm lẫn Tổng đốc Phương là danh tướng Nguyễn Tri Phương. Sau đây, xin lược ghi tiểu sử của Nguyễn Tri Phương và thân thế của 2 nhân vật “tam Xường, tứ Định”... Vị đại thần can trường Nguyễn Tri Phương sinh năm 1800, người tỉnh Thừa Thiên, làm quan qua 3 đời vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Ông từng giữ chức tổng đốc ở Nam kỳ lục tỉnh: An Hà (An Giang, Hà Tiên), Long Tường (Vĩnh Long, Định Tường), Biên Hòa và Gia Định, rồi làm Kinh lược sứ Nam kỳ... Khi quân Pháp xâm chiếm nước ta, ông được triều đình Huế cử làm Tổng chỉ huy quân đội triều Nguyễn chống lại quân Pháp ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873). Năm 1860, ông lập đại đồn Kỳ Hòa (thực ra là Chí Hòa nhưng người Pháp đọc trại thành Kỳ Hòa) ở Gia Định để chống quân Pháp. Đại đồn thất thủ, ông bị thương, em trai ông là phò mã Nguyễn Duy tử trận. Trong suốt 10 năm sau đó, Nguyễn Tri Phương là Khâm mạng Đại thần chuyên lo đánh dẹp giặc giã ở Bắc kỳ. Năm 1873, nhân có chuyện tranh cãi giữa tay lái buôn Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) với quan nha nhà Nguyễn ở Bắc kỳ, soái phủ Nam kỳ là đô đốc Dupré cử đại úy Francis Garnier ra Bắc trên hai pháo hạm với khoảng 200 quân. Tiếng là ra Bắc để điều đình nhưng khi tới nơi, Garnier đưa tối hậu thư buộc Nguyễn Tri Phương giao thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương không trả lời. Đêm 19, rạng 20 tháng 11 năm 1873, Garnier đánh úp thành Hà Nội. Gươm giáo không thể địch lại súng ống và cả đại bác nên chỉ hơn một giờ giao tranh, quân Pháp đã treo cờ Tam tài trên vọng lâu thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương bị thương nặng, con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm tử trận. Quân Pháp chữa vết thương cho ông nhưng ông phun thuốc ra, tuyệt thực gần một tháng rồi mất, thọ 73 tuổi. Thi hài ông và con trai được đưa về quê an táng. Đích thân vua Tự Đức viết văn tế khóc chung ba vị công thần Nguyễn Lâm, Nguyễn Duy và Nguyễn Tri Phương. Tam Xường “oai thấu trời” Nhân vật được xếp hạng ba về sự giàu có thời Sài Gòn - Chợ Lớn mới hình thành là bá hộ Xường. Ông tên thật là Lý Tường Quan, tự Phước Trai, gốc người Minh Hương (tức những Hoa kiều trung thành với nhà Minh, không chịu thần phục nhà Thanh và sang tị nạn ở nước ta), theo đạo Công giáo và gia nhập Việt tịch với tên thường gọi là Xường. Ông Xường được theo học trường thông ngôn nên thông thạo tiếng Pháp và tiếng Hoa, được chính quyền Pháp ở Sài Gòn trọng dụng. Để biết các thầy thông ngôn thời đó (bây giờ gọi là thông dịch viên) “oách” như thế nào, hãy xem một đoạn trong Sài Gòn năm xưa của cụ Vương Hồng Sển: “Xưa thầy “thông ngôn” oai lắm: chức làm “interprète” khi “đứng bàn ông Chánh” (thông dịch viên của Tham biện chủ tỉnh) thét ra khói, khi “đứng bàn ông Phó”, làm tay sai và thông dịch viên cho Phó tham biện, hét ra lửa. Ngày sau thầy thông ngôn có đủ năm làm việc thì được (làm) một (nhiệm) kỳ nữa rồi được bổ làm Huyện, lên Phủ, rồi Đốc phủ sứ, làm Chủ quận, đại diện cho quan Pháp trong một vùng, “oai thấu trời”, “oai hơn ông ghẹ”!” (ông Sĩ - Lê Phát Đạt cũng đi lên từ ngạch thông ngôn rồi được phong hàm “huyện”, nên người dân gọi là Huyện Sĩ). Quan phục của Nguyễn Tri Phương do quân Pháp lấy được khi chiếm thành Hà Nội, được trưng bày tại Bảo tàng Quân sự Les Invalides - Ảnh: tư liệu Giàu có và oai phong như vậy nhưng đến năm 30 tuổi, bá hộ Xường từ bỏ địa vị mà nhiều người mơ cũng không có được ấy để bước vào thương trường. Lĩnh vực kinh doanh mà ông nhắm đến là dịch vụ cung cấp lương thực, thực phẩm (lúa gạo, thịt cá...) cho Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Gặp thời điểm xuôi chèo mát mái, lại biết khôn khéo lấy lòng các quan Tây để được họ che chở, nâng đỡ, chẳng mấy chốc bá hộ Xường trở thành nhà trọc phú quyền uy, nhất là trong lĩnh vực lương thực - thực phẩm lúc bấy giờ. Dinh thự của ông nguy nga bề thế, tọa lạc trên đường Gaudot (nay là đường Hải Thượng Lãn Ông) nhưng sau khi ông qua đời, tài sản của ông bị con cháu ăn xài, phung phí hết. Trước năm 1975, mộ của ông vẫn còn ở Gò Vấp, nhưng nay không tìm ra dấu tích. Tứ Định phất nhờ thời Người xếp hạng tư là bá hộ Định, tên thật Trần Hữu Định. Xuất thân là chủ tiệm cầm đồ (hóa ra thời ấy đã có dịch vụ “cầm, cắm”), rồi được chính quyền Pháp cho làm Hộ trưởng (bấy giờ, Chợ Lớn là một tỉnh riêng biệt gồm 20 hộ, độc lập cùng với tỉnh Gia Định) kinh doanh đất đai, xuất nhập khẩu vải sợi. Ông phất lên nhanh chóng nhờ biết nắm thời cơ những lúc hàng khan hiếm. Trần Hữu Định có biệt thự ở nhiều nơi, và cũng như bá hộ Xường, danh xưng bá hộ Định (hoặc Hộ Định) là do dân Chợ Lớn thấy ông giàu có nên gọi như vậy. Sau khi ông mất, con cháu không biết giữ của, tiêu xài và xóa sạch vết tích của nhà cự phú này. Năm 1960, trong tác phẩm Sài Gòn năm xưa, cụ Vương Hồng Sển mô tả cơ ngơi của Trần Hữu Định như sau: “Nhà ở khoảng giữa đường Trần Thanh Cần, gần dốc cầu Palikao một đầu và chợ Quách Đàm một đầu. Ngôi nhà năm căn trệt chạm trổ thật khéo, cột cẩm lai bóng ngời ngó thấy mặt; trong nhà từ cái bàn, cái ghế, cái đôn sành đều có vẻ cũ xưa. Mấy năm trước chính mắt tôi còn thấy làu làu vững chắc tuy khuỷnh vườn sân trước đã bị cắt xén sát mặt tiền nhường chỗ làm thềm và đường cái mở rộng nên lấp kênh. Gần đây, vì đất chợ cao giá nên tuy nhà lập làm phần hương hỏa mà con cháu đã bán và dỡ đi. Thay vào đó là một dãy phố lầu tiệm buôn khách trú. Phần hoa lợi tuy có thêm, nhưng thiệt hại về cổ tích từ đây và cứ theo đà này, đô thành Sài Gòn ngày một mất dần những dấu vết xưa...”. Hà Đình Nguyên
  15. “Nhì Phương” trong tứ đại phú Tổng Đốc Phương (ảnh qua tư liệu) Cho đến nay, vẫn còn nhiều người nhầm lẫn Tổng đốc Phương là danh tướng Nguyễn Tri Phương lừng lẫy. Thực ra chính cái hàm tổng đốc đã khiến nhiều người ngộ nhận... Tổng đốc Phương tên thật là Đỗ Hữu Phương sinh năm 1841 tại Chợ Đũi (Sài Gòn), cha ông là Bá hộ Khiêm (gốc Minh Hương) lấy con gái của một quan tri phủ ở Nam kỳ gốc Quảng Nam. Đỗ Hữu Phương biết chữ Hán và nói được một ít tiếng Pháp. Sau khi Pháp chiếm đại đồn Kỳ Hòa (1861), ông nhờ Cai tổng Đỗ Kiến Phước dẫn đến giới thiệu với Tham biện hạt Chợ Lớn là Francis Garnier (là viên đại úy Pháp sau này đã tấn công và chiếm thành Hà Nội do Nguyễn Tri Phương chống giữ. Chỉ ít lâu sau đó, y cũng đền tội do bị quân Cờ Đen phục kích ở Ô Cầu Giấy, Hà Nội). Bước đầu, Garnier cho Đỗ Hữu Phương làm hộ trưởng (bấy giờ Chợ Lớn gồm 20 hộ). Từ đó, Đỗ Hữu Phương cộng tác đắc lực cho Pháp, nhất là trong việc dọ thám và kêu gọi những lãnh tụ nghĩa quân ra hàng. Tuy thế, Phương rất khôn ngoan, chỉ trực tiếp tham gia vài trận cho người Pháp tin cậy như trận đánh vào lực lượng Trương Quyền (con của Trương Định) ở Bà Điểm và truy nã ông này đến tận Bến Lức (tháng 7.1866). Ba tháng sau, Đỗ Hữu Phương và Tôn Thọ Tường đi Bến Tre chiêu dụ hai con trai của Phan Thanh Giản (Phan Tôn và Phan Liêm). Tháng 3.1868, ông xuống Rạch Giá dẹp cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực. Nghĩa quân chống trả quyết liệt, Phương suýt chết... Nhờ đó Đỗ Hữu Phương được cất nhắc lên các chức vụ: Tri huyện, Tri phủ rồi Đốc phủ sứ Vĩnh Long (tháng 7.1868)... Từ năm 1872, Đỗ Hữu Phương được chỉ định làm ủy viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn, rồi trở thành phụ tá Xã Tây Chợ Lớn (1879). Thời gian giữ các chức vụ này, Đỗ Hữu Phương thường ngầm làm trung gian để giới thương gia người Hoa “đi đêm” (hối lộ) cho các viên chức khác, nhờ đó ông giàu lên mau chóng. Cơ ngơi, sản nghiệp “nứt khố đổ vách”, uy danh đến nỗi quan Toàn quyền Paul Doumer khi vào Nam công cán cũng ghé vào nhà Đỗ Hữu Phương thăm và dự tiệc thết đãi. Có lẽ nhờ dịp này mà quan toàn quyền ban đặc ân cho Phương được khẩn trưng một sở đất ruộng lên đến 2.223 mẫu tây. Học giả Vương Hồng Sển viết trong Sài Gòn năm xưa: “Sự nghiệp (của ông Phương) trở nên đồ sộ nhứt nhì trong xứ, phần lớn do tay phu nhân Trần thị gây dựng. Bà giỏi tài đảm đang nội trợ, một tay quán xuyến trong ngoài, làm của đẻ thêm ra mãi, lại được trường thọ, mất sau chồng...”. Chính bà vợ của Tổng đốc Phương đã bỏ tiền ra xây trường Collège de Jeunes files Indigènes, tức trường Áo tím (Gia Long) mà bây giờ mang tên trường Nguyễn Thị Minh Khai (nằm trên đường Điện Biên Phủ, Q.3, TP.HCM) và cúng dường trùng tu một ngôi chùa khác. Tuy nhiên, những “việc thiện” này không đủ khỏa lấp “thành tích” của Đỗ Hữu Phương trong quan hệ với Thủ khoa Huân. Nguyễn Hữu Huân và Đỗ Hữu Phương vốn là bạn từ thời thơ ấu. Ông Huân sinh năm 1830 và đỗ đầu khoa thi Hương năm Nhâm Tý (1852) nên được gọi là Thủ khoa Huân. Khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ (có Định Tường quê ông) thì ông cũng giống như nhiều sĩ phu khác: tham gia kháng Pháp. Ông từng sát cánh chiến đấu bên các lãnh tụ nghĩa quân Trương Định, Vũ Duy Dương (tức Thiên hộ Dương), Âu Dương Lân... Năm 1864, ông bị Pháp bắt và kết án khổ sai, đày đi Cayenne (thuộc địa của Pháp tại Nam Mỹ). Ở tù được 5 năm, Thủ khoa Huân được Pháp ân xá nhờ Đỗ Hữu Phương bảo lãnh và xin chứa chấp ở trong nhà để giám sát, đồng thời đề nghị phía Pháp cho ông Huân làm giáo thụ dạy các sinh đồ vùng Chợ Lớn để lôi kéo họ về phía Pháp. Lợi dụng hoàn cảnh, trong suốt 3 năm, Thủ khoa Huân đã bí mật liên lạc với các Hoa kiều trong Thiên Địa hội, họ mua một thuyền vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa nhưng việc vỡ lở, Thủ khoa Huân trốn khỏi nhà Đỗ Hữu Phương về Mỹ Tho cùng với Âu Dương Lân tiến hành khởi nghĩa lần thứ ba (1872). Hai năm sau, Đỗ Hữu Phương và Trần Bá Lộc đưa quân Pháp truy bắt Thủ khoa Huân. Ông chạy thoát, nhưng 3 tháng sau thì bị Pháp bắt. Ngày 19.5.1875, Pháp cho tàu chở Thủ khoa Huân xuôi dòng Bảo Định về Mỹ Tịnh An và hành quyết ông lúc 12 giờ trưa (Âu Dương Lân sau đó cũng bị Trần Bá Lộc bắt sống và xử tử)... Cụ Vương Hồng Sển bình: “...Tiếng rằng “hiền”, là hiền hơn hai ông kia (Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Tấn), chớ xét ra một đời mâu thuẫn: lấy một tỉ dụ là đối với Thủ khoa Huân. Che chở cũng y (Đỗ Hữu Phương), đem về nhà bảo đảm và cấp dưỡng cũng y, mà rồi bắt nạp cho Tây hành hình cũng y nốt...”. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam thì Đỗ Hữu Phương được Pháp thưởng Tam đẳng bội tinh, triều đình Huế phong hàm tổng đốc. Trước năm 1975, Sài Gòn có đường Tổng đốc Phương ở quận 5, sau này, đổi thành đường Châu Văn Liêm. Người viết có quen với chị H. là chủ một khách sạn ở đường Phạm Viết Chánh gần bùng binh Ngã sáu (TP.HCM). Qua vài lần tiếp xúc mới biết chị là dâu của dòng họ Đỗ Hữu. Chị H. còn đưa người viết đến Đỗ Hữu từ đường (còn gọi là đền Bà Lớn, nằm trên đường Điện Biên Phủ, P.1, Q.3, TP.HCM). Ngôi từ đường này được xây cất từ năm 1904, dùng làm nơi an táng và thờ cúng của dòng họ Đỗ Hữu. Ngôi từ đường hơn 100 tuổi này nay đã xuống cấp trầm trọng nhưng không được tu sửa bởi có sự tranh chấp với địa phương. "Chị H. còn cho người viết xem gia phả của dòng họ Đỗ Hữu. Cuốn gia phả rất dày, tên Việt chen lẫn tên Tây (ông Đỗ Hữu Phương nhập quốc tịch Pháp từ năm 1881), có cả ảnh những thế hệ con cháu mang hai dòng máu Pháp -Việt. Ở phần những người con của Tổng đốc Phương, có Đỗ Hữu Chẩn (đại tá Quân đội Pháp), Đỗ Hữu Trí (chánh án), Đỗ Hữu Vị (đại úy không quân và là người Việt Nam đầu tiên lái máy bay chiến đấu, tham gia Thế chiến thứ nhất trong quân đội Pháp). Con gái: Đỗ Thị Nhàn có chồng là Hoàng Trọng Phu (con Hoàng Cao Khải) là Tổng đốc Hà Đông, gia phong Thái tử Thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ. Và Đỗ Thị Dần có chồng là Lê Nhiếp, Tri phủ Vinh Tường (Vĩnh Yên)…" Hà Đình Nguyên
  16. Bác TS định thoát Mẹ Ngỗng phải không Bác? Em giúp cho(nói nhỏ thôi).
  17. Giờ này tôi vẫn được quẻ Tử Tốc Hỷ cho câu hỏi của bạn. Có thể luận như sau: bạn sẽ không đạt được điều mong muốn tuy nhiên bạn có thể chậm hoặc cơ hội kế tiếp bạn trãi qua một cuộc phỏng vấn may ra bạn thành công. lần này tôi lại mong răng mình đoán sai cho trường hợp của bạn. Chào thân ái.
  18. Đây là nội dung bạn nvtuan trả lời bạn.
  19. bạn là thành viên mới tham gia? liêu bạn có theo kịp các bạn ko?
  20. Hơn 80 năm chữa vô sinh. Cụ Hà Thị So (Bản Muống, Quan Sơn, Thanh Hóa) đã bước sang tuổi 104, nhưng hằng ngày cụ vẫn lên rừng tìm kiếm các cây cỏ chữa bệnh vô sinh. Hơn 80 năm qua, cụ So đã trở thành mẹ nuôi của nhiều đứa trẻ trong bản và các vùng xung quanh... Bài thuốc từ một giấc mơ Cụ So kể, sau 5 năm vợ chồng cụ chung sống mà không có mụn con nào. Trong giấc mơ về một lần đi chài lưới, cụ gặp ông bà tổ tiên và được dặn dò là muốn có con thì phải đi tìm ít nhất 9 loại cây cỏ trong rừng sâu. Tìm được thì xào cô lại để ăn, sắc các vị thuốc với nhau để uống. Thuốc này dùng cho cả vợ và chồng để kích thích sinh dục thì cái gì nở ra sẽ nở, cái gì chưa nở thì nở hết. Cụ Hà thị So trong nhà của mình. Mặc dù lúc đầu cụ không tin lắm vì các vị thuốc này chỉ là cây cỏ bình thường, nhưng khi làm theo hướng dẫn của tổ tiên thì ứng nghiệm ngay. Hai vợ chồng cụ uống thuốc được gần 1 tháng thì cụ So mang thai đứa con đầu tiên... Trước khi đi lấy thuốc trong rừng cụ So thường phải khấn vái tổ tiên, xin tổ tiên cho cụ đi lấy thuốc để chữa cho người bệnh. Người đến chữa bệnh phải có tâm nguyện chân thành muốn có con thì cụ mới cắt thuốc. Với 9 loại "thần dược", cụ So phân ra thành các loại thuốc khác nhau. Thuốc dùng ăn uống trực tiếp, có thể cho vào ống nứa, nấu lên theo kiểu cơm lam để cả hai vợ chồng cùng ăn, hay trộn lẫn các vị thuốc rồi đun sôi lên để uống. Cụ So tâm sự: "Nếu nói về các thành phần của thuốc này thì rất tự nhiên, 9 vị thuốc này chủ yếu là cây lá có sẵn trong rừng... Chỉ có điều cần phải chọn đúng thời điểm thích hợp để hái và không phải ai lấy về uống là có thể sinh con được. Loại thuốc này chữa được bệnh vô sinh nhờ một phần chỉ bảo của tổ tiên...". Ân nhân của những người hiếm muộn. Bà Lữ Thị Uyên (bản Khằm, Hồi Xuân, Quan Sơn) vẫn nhớ như in thời gian cùng chồng băng rừng lội suối sang bản Muống xin cụ So cắt thuốc chữa bệnh vô sinh. Bà Uyên kể lại, trải qua 10 năm chung sống với nhau mà không có mụn con nào, vợ chồng bà đi khám, chữa trị nhiều nơi nhưng vẫn không có kết quả gì. Tình cờ bà được người quen giới thiệu đến nhà cụ So ở bản Muống để xin cụ cắt thuốc. Vợ chồng bà Uyên mang theo lễ vật gồm 2 cái áo của hai vợ chồng, trầu cau, và một ít tiền... đặt lên bàn thờ, xin tổ tiên cụ So cắt thuốc chữa bệnh vô sinh. Cụ So đưa ra một bó cỏ, cụ bảo đây là 9 vị thuốc khác nhau, khi nấu lên cả vợ chồng cùng uống sẽ có tác dụng. Ban đầu vợ chồng bà Uyên không tin lắm bởi cũng đã đi nhiều nơi chữa trị, uống nhiều thuốc của các thầy giỏi còn khó có con, huống hồ mấy loại cây cỏ này. Nhưng nghe cụ So dặn dò cẩn thận, trong lòng vợ chồng bà thấy yên tâm hơn. Các vị thuốc của cụ So cho vợ chồng bà Uyên uống không có vị gì cả, cứ nhạt như nước lã, vợ chồng bà uống hàng ngày như để thay nước. Thế mà gần hai tháng sau, họ đã nhận được tin vui khi bà bắt đầu có hiện tượng ốm nghén. Niềm vui càng nhân đôi khi chín tháng sau ra đời một cháu bé kháu khỉnh. Mặc dù đã chữa khỏi bệnh vô sinh cho hàng trăm người trong bản và các vùng lân cận, nhưng cụ So không lấy bất cứ một khoản phí nào. Cụ So không biết chữ nên cũng không ghi vào sổ sách số người đến nhờ chữa bệnh vô sinh. Hiện nay, cụ So đã dạy lại bài thuốc bí truyền này cho người con dâu của mình là chị Hà Thị Khiến, với mong muốn dù sau này mình có mất đi thì bài thuốc này vẫn còn lưu giữ cho con cháu, để người thân của mình có thể chữa bệnh được cho nhiều người hơn nữa. Theo KH&ĐS online.
  21. :D :D
  22. Bác có còn là tình nhân đâu mà ứng? Cặp của Bác mà lên đây Phật cột 2 bác thêm kiếp nữa..hi! :D
  23. Các cháu đang nhận bánh từ anh em...trong trật tự, vì số lượng cho quá ít so với người nhận. Nhiệm vụ cuối cùng nhận lời cám ơn từ người phụ trách, và tôi cũng đã cám ơn lại Cô nữ y tá dễ thương đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho chúng tôi có được chuyến đi tặng quà hoàn hảo.
  24. Sáng chủ nhật vào lúc 9h15 ACE Lý Học Đông Phương đã tổ chức tặng quà Trung Thu cho các bệnh Nhi Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Nguyên Nhân có sự thay đổi điểm tặng quà do ngay từ cổng chúng tôi vấp phải qui định "muốn tặng Bánh phải qua kiểm nghiệm và xin phép trước từ Ban Giám Đốc" Bệnh viện Ung Bướu. ACE đã thống nhất chuyển qua Nhi Đông 2 và trao tặng theo danh sách trẻ em nghèo ở các khoa, Họ đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi tận tay trao những phần quà nhỏ bé này đến các em. Chúng tôi đang sắp xếp vào Phòng tiếp nhận của Bệnh Viện. Chị Khương(ngoài Diễn Đàn) Thuthu1101, Yeuphunu giơ cao chữ TÂM, Wild, AnThanh, và cặp đôi Khanh&Hoang. Thiên Đồng và An Thanh. Y Tá trực người đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi được trao tận tay các em diện đặc biệt khó khăn vì số lượng quà của chúng ta quá ít so với số trẻ em đang điều trị tại đây. Ảnh này chỉ thay Kh Hoang là Anh Thiên Luân. (còn nữa)