nhatnguyen52

Hội viên
  • Số nội dung

    150
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by nhatnguyen52

  1. C . Lịch sử họ HÙNG cổ và trung đại a . VONG QUỐC SỬ. 1. Thời nô lệ Hãn Quốc (25 – 220) Cuộc nổi loạn núi Lục Lâm mà lịch sử chỉ đích xác là “Lục Lâm thảo khấu” đắc thời nên trở thành cuộc phục hưng của các dân Man hay Mông. Hãn quốc được tạo lập, Đại Hãn đầu tiên là Lưu Huyền, thủ đô là Tây An ngày nay. Phàn Sùng và quân Xích Mi tôn Lý Bôn Tử lên ngôi vua, Hán sử không nói đến đế hiệu của vì vua con cháu Lý Bôn này, quân Xích Mi có kỷ luật nghiêm nhặt rất được dân chúng ủng hộ đã mau chóng phát triển và sau cùng tấn công Tây An giết chết Đại Hãn Lưu Manh. Lưu Tú một tướng lãnh của Tây Khả Hãn đang cai trị vùng bắc Hoàng Hà nay là Sơn Tây, Hà Bắc tuyên bố lập Đông hãn quốc và lên ngôi hoàng đế . Triều Đông Hãn là kế thừa chính thống của triều Tây Hãn đã diệt vong. Quang Vũ là tên hoàng đế khai quốc của Đông Hãn, thực ra danh vị này do Hán sử đặt cho ông ta. Quang là chữ viết sai của Quan là từ nom, nhìn Việt ngữ dịch sang hán ngữ ; danh hiệu Quan vũ chỉ nghĩa là Chúa phương Nam của người Man – Mông – Mãn – Minh . Lưu Tú biến âm tiếng Việt là “Lu Tối”; Đông Hãn kế tiếp Tây Hãn .Quan vũ tự nhận là cháu 5 đời của Hiếu Cảnh đế..., nhưng không có gì che mắt được thiên hạ dân gian có câu ...mập mờ đánh lận con đen... bia miệng ngàn năm vẫn còn trơ trơ và sự bịp bợm không còn gì che đậy được nữa . Ở một phần trước của thiên khảo luận này đã nói đến 2 “tiền quốc” của người Lu hay Liêu. - Đông bắc Hoàng Hà (hiện nay) là nơi sinh tụ của dân quan Liêu ngày nay là 2 tỉnh Sơn Tây-Hà Bắc. - Đông nam Hoàng Hà thuộc dân Từ Lu hay Tào Lao, nay là tỉnh Sơn Đông – Giang Tô, xưa gọi là bọn Hoài Di Từ Nhung. Phàn Sùng và chúa “Lý Bôn Tử” đã sai lầm chết người khi đóng đô ở Tây An tức thành đô của Lưu Manh nước Tây Hãn, lập tức họ bị dân Man triệt đường lương thực, quẫn bách phò Chúa chạy sang Cam Túc đất “truyền thống” của Hung Nô , Kết quả là thầy trò ôm cái bụng đói meo chạy về hướng đông lọt đúng vào cái bẫy Lưu Tối đã giăng sẵn, không còn cách nào khác ngoài việc xin hàng, Lưu Tú giở trò nhân nghĩa dẫn họ về Lạc Dương cấp đất để thầy trò sinh sống, chỉ vài tháng sau Phàn Sùng bị “làm thịt” vì tội mưu phản. Phải thừa nhận Lưu Tối, Quan Vũ là đại trí, đại dũng nhưng cũng đại lưu manh … chính ông ta là người đã xô dân họ HÙNG vào màn đêm tăm tối của kiếp nô lệ. Chính sử Trung hoa cố gắng đánh lừa thiên hạ nhập nhèm gọi triều Hiếu của Lý Bôn là nhà Tây Hán để Tây hán chuyển sang Đông Hán là sự tiếp nối bình thường hợp lẽ...cũng là Hán cả chỉ phân ra Tiền và Hậu mà thôi....thực tế : đây là sự sang trang của lịch sử ;Trung hoa từ một quốc gia độc lập biến thành nô lệ các đại hãn man phương. 2. Kẻ sĩ Nhiếp Chính Vương Mãn nhà Tân (Chu) tuẫn quốc nhưng toàn cõi lĩnh nam vẫn không chịu khuất phục, các Châu, Quận trở thành các vùng tự trị, ở Giao Chỉ Sỹ Nhiếp lãnh đạo nhân dân tự trị . Sỹ Nhiếp không phải là tên là họ, Sỹ Nhiếp nghĩa là ‘kẻ có học tạm nắm quyền’. Sử Việt trước kia rất trọng Sỹ Nhiếp, thời kỳ này coi như 1 chương của lịch sử, gọi là kỷ Sỹ Vương, các sử gia rất lúng túng khi thì coi như 1 thời kỳ độc lập của nước Việt, khi thì coi như là 1 thời trong chuỗi ngày nô lệ . Về mặt văn hóa cũng có nhiều điều không bình thường, trước đây sử học thường cho là: người Việt nhiễm văn hoá “Trung Hoa” từ thời này, Sỹ Nhiệp đã đem Tứ Thư, Ngũ Kinh, phong hóa Khổng Giáo truyền vào nước Việt , nhiều tư liệu cũng cho là chữ Nôm, thứ chữ riêng của người Việt đã có gốc từ thời này. Nương theo cái đà ấy các sử gia “đế quốc” phịa thêm: Sỹ Nhiếp đã dạy chữ Hán cho dân Việt, giúp đỡ để đôi nam nữ thành vợ thành chồng theo lễ nghi Trung Hoa, thậm chí dạy cho dân Việt cách cày bừa, trồng trọt. Với ý nghĩa chữ Sỹ Nhiếp là ‘kẻ có học tạm cầm quyền’… cho ta rõ là chủ quyền của quốc gia đã mất ở thủ đô, ở các địa phương kẻ sỹ nhiếp quyền để lãnh đạo nhân dân tự trị và tự lực, đấy cũng là lý do cho điều sử Việt Nam viết: ‘các quan lại, đại thần, danh sĩ nhà “Hiếu” rút về Giao Chỉ đều được Sỹ Nhiếp đón tiếp, đối đãi tử tế. Giao Chỉ giờ thành đất cực nam Trung Hoa, nơi tinh hoa Trung Hoa đổ về vì các miền đất khác đều bị khả Hãn man tộc lần lượt chiếm đóng. Sau cùng việc đến cũng phải đến, năm 39 Quan Vũ vua Đông Hãn sai Mã Diện (Viện) nghĩa là Mặt ngựa thống nhất quân thủy bộ tổng tấn công Giao Chỉ. Cuộc tổng tấn công này sử Việt lầm lẫn biến thành cuộc chiến chống lại cuộc khởi nghĩa 2 bà Trưng. … Khi Mã Diện chiếm Giao Chỉ năm 43 thì ở đây dân Việt: - Vẫn còn dùng trống đồng để tế lễ tổ tiên . Vẫn còn dùng luật Việt mà Mã Diện đã tâu về triều đình là khác luật Hán 10 điều. Hai điều trên chứng tỏ trước khi Mã Diện kéo quân đến thì sinh hoạt của dân chúng vẫn thuần “Việt” nghĩa là không nô lệ người Hán . Năm 43 (Quí Mão) Giao Chỉ thất thủ, Hãn Quốc Đông hoàn tất việc chinh phục Trung Hoa. Thành tích của Mã diện ở Giao Chỉ thì rất nhiều nhưng nổi tiếng nhất là truyền tích: Mã Vương ra lệnh thu tất cả trống đồng ở Giao Chỉ đúc thành 1 con ngựa dâng lên Quan Vũ vua Đông Hãn, và ra lệnh chôn một trụ đồng trên đó khắc hàng chữ: ‘đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt’, đến nay câu trên vẫn được dịch: trụ đồng gãy thì Giao Chỉ mất nước. Thực sự thì Mã Vương đâu có tốt đến thế, trụ đồng mà gãy thì phải đến cả trăm năm. Ta giải mã đoạn sử trên: trống đồng là đặc trưng văn hóa nước Văn Lang tức triều Chu của Trung Hoa, do công dụng tế tự tổ tiên, trống đồng trở thành linh khí nối thông quá khứ với hiện tai, tạo nên dòng linh lực vô tận tuôn đổ từ quá khứ ngàn đời nuôi sống tâm linh con cháu Trung Hoa. Việc nấu chảy trống đồng được mô tả là : trụ đồng của nền văn minh tâm linh Trung Hoa đã gãy. Câu này còn chỉ rõ 1 điều ít ai để ý : trống đồng bị nấu chảy đúc thành con ngựa là có ý nói : nền văn minh Văn Lang đã bị Quan vũ và Mã diện phù phép biến ra văn minh dân Man tức dân lấy ngựa làm gốc, ăn ngủ trên lưng ngựa, sống chết trên mình ngựa, tóm lại là nền văn minh lang thang du thủ du thực với ngựa, tạm gọi là văn hóa- văn minh ...Ngựa. Diệt quốc Trung Hoa, tráo đổi văn minh Trung Hoa chính là Quan Vũ, kẻ thực hiện chính là Mã Diện (Viện). Quan Vũ – Lu tối là Cao Tằng Tổ của Càn Long đế quốc Mãn Thanh sau này, kẻ đã diệt chủng Trung Hoa về văn hóa trong đợt đại hồng thủy “Tứ khố toàn thư”. Ta lưu ý; Đông Hãn sau khi chiếm Giao Chỉ đã hụt hơi không thể tiến xa hơn được, nên thiên hạ của Trung Hoa cũng còn 3 nước thoát ách chiếm đóng đó là phần đất thuộc các nước: Lỗ, Yên, Tề cũ sau lập thành các nước sử Hán gọi là Phù nam hay Bồ Nam ,Đốn Tốn và Lâm ấp là tiền thân của Xiêm La, Nam chiếu và Chiêm thành sau này . 3. Cuộc khởi nghĩa của 2 nữ vương (Ngày 5 tháng 2 năm Giáp Tý- 184) Đạo Giáo thời phục hưng do Trương Thiên Sư còn gọi là Trương Đạo Lăng lập nên, Lăng là biến âm của Lang vậy Trương Đạo Lang tương đương với chữ ‘giáo hoàng’ ngày nay. Đông Hãn đến đời Linh Đế thì trở nên cực kỳ hủ bại, vua chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, quan chỉ lo bóc lột dân, triều đình công khai rao bán quan chức, hoạn quan lộng hành nơi cung cấm, khống chế cả triều chính – bản chất của một triều đình đế quốc đã lộ rõ. Dân Trung Hoa đã bắt đầu nổi dậy, đáng kể là cuộc khởi nghĩa của Hứa Sinh ở Cối Kê đất tổ của Việt Vương Câu Tiễn xưa, Hứa Sinh lên ngôi xưng là Dương Minh Hoàng Đế, năm 174 quân khởi nghĩa bị đánh bại. Ở quận Cự Lộc có 3 anh em Trương Giác, Trương Lương, Trương Bảo (chữ Giác – Lương – Bảo chỉ có nghĩa là Thứ 1, Thứ 2, Thứ 3). Trương Giác tinh thông y thuật, tự coi là truyền nhân của Trương Đạo Lang đã lập nên Thái Bình Giáo vừa giúp dân cứu đời, sau 10 năm hoạt động Thái Bình Giáo đã truyền ra khắp nước, Hán Linh Đế và bọn tham quan ô lại vẫn vùi đầu ăn chơi. Đệ tử Thái Bình Giáo được tổ chức chặt chẽ thành 36 phương, ước hẹn vào ngày 5-3- giáp tý -184 sẽ đồng loạt khởi nghĩa phục quốc. Nhưng có kẻ phản bội, kế hoạch bị lộ, Trương Giác quyết định khởi nghĩa sớm 1 tháng tức 6-2-Giáp tý -184. Trương Giác xưng là Thiên Công Tướng Quân, Trương Lương là Nhân Công Tướng Quân và Trương Bảo là Địa Công Tướng Quân, vì quân khởi nghĩa dùng khăn vàng quấn lên đầu làm ám hiệu nên được gọi là Quân khăn vàng. Hãn quân do Hà Tiến và Tào Tháo chỉ huy đã đàn áp đẩm máu quân khởi nghĩa, sau 9 tháng chiến đấu ngoan cường không may thủ lãnh Trương Giác bị bệnh đột ngột từ trần, các em Trương Lương, cũng lần lượt hy sinh. Quân chủ lực khăn vàng bị đánh bại nhưng những cánh quân lẻ tẻ tiếp tục kháng chiến đến cả chục năm sau, Hãn quân vẫn chưa tiêu diệt hẳn được. Thực là 1 trang sử bi hùng, được sử Việt Nam lưu giữ dưới truyền tích khởi nghĩa của 2 bà Trưng : Trương Giác là bà Trưng Trắc, Trương Lương là Trưng Nhị. Do quan điểm văn hóa nên 2 dòng sử Việt – Hoa có sự khác biệt : Trung quốc với truyền thống trọng nam khinh nữ qúa đậm nét nên các sử gia đã không dám thể hiện một sự thực lịch sử : cầm đầu cuộc nổi dậy phục quốc là 2 hoặc cũng có thể là 3 vị nữ vương ; còn ở Việt nam hình ảnh các nữ vương cưỡi voi xông pha trận mạc đã trở thành hào khí dân tộc từ ngàn xưa đến tận ngày nay. Sử Việt đã lầm lẫn cuộc đàn áp quân khăn vàng của Hà Tiến và Tào Tháo năm 184 với cuộc tấn công diệt quốc Giao Chỉ của Mã Vương năm 39. Ngày nay ở Việt Nam hằng năm vẫn làm lễ kỷ niệm hai bà Trưng vào ngày 6 tháng 2 âm lịch nhưng lại cho là ngày 2 bà Trưng tuẫn quốc ở Hắc Giang – thực ra đó chính là ngày khởi nghĩa của quân khăn vàng ; so sánh các sự kiện của 2 cuộc khởi nghĩa ta thấy hai yếu tố chính là tên thủ lãnh và ngày tháng đều trùng hợp chứng tỏ đó chỉ là 1 sự kiện được thể hiện bởi 2 dòng sử khác nhau mà thôi . Cuộc khởi nghĩa của 2 bà Trưng được dân gian lưu truyền : 2 bà khởi binh để rửa hận cho nước, trả thù cho chồng có vẻ... không bình thường ; vì tên chồng của Trưng Trắc bị giặc Hán giết là THI SÁCH rất xa lạ với người Việt; rất có thể đây là lối dùng chữ để ám chỉ : Thi là Kinh Thi, là văn chương Trung Hoa, Sách là Kinh Thư là lịch sử Trung Hoa, 2 quốc bảo này truyền từ đời Chu đã bị quân xâm lược Đông Hán hủy hoại , Thi Sách (Thư) bị giết hại, cũng có nghĩa là kinh Thi –Kinh Thư bị chà đạp đồng nghĩa với sự vong quốc, con dân họ HÙNG quằn quại trong kiếp nô lệ giặc Hãn phương Man. 2 nhà khoa bảng Việt nam là : - Nguyễn Thực đi xứ trung Hoa cuối thế kỷ 16 và Ngô thì Nhậm năm 1793 đ̣ã tận mắt thấy và ngậm ngùi với những vần thơ nói đến đền thờ 2 bà Trưng ở Hồ nam . Gần đây bác sĩ Trần đại sỹ đã làm việc 1 thời gian dài và đã khảo sát rất công phu tường tận về đạo thờ vua Trưng ở khắp các tỉnh miền nam trung quốc . Những tư liệu mới này gợi lên nhiều điều băn khoăn suy nghĩ về cuộc khởi nghĩa của quân ‘Khăn vàng’. Theo chính sử Trung quốc thì dưới thời Đông Hán ngoài cuộc khởi nghĩa ‘hoàng cân ‘ hay ‘khăn vàng ‘ thì không có cuộc khởi nghĩa nào khác có quy mô toàn quốc cả , chỉ lẻ tẻ ở địa phương như Cối kê có cuộc khởi nghĩa của Hứa Sinh , Giao chỉ có khởi nghĩa của Trưng thị ... Vậy tại sao lại có đền thờ ‘ vua Bà’ khắp Hoa nam ? đúng theo Hán sử những đền thờ ấy phải thờ anh em Trương Giác thủ lãnh của cuộc khởi nghĩa Hoàng cân mới hợp lẽ ..?...điều bất thường này dẫn ta đến những gỉa thuyết : phải chăng 2 nhân vật Trương Giác thủ lãnh Hoàng cân và Trưng Trắc mà sử Tàu nói đã nổi dậy ở Giao chỉ là một ; chi tiết quân khởi nghĩa theo 2 bà Trưng đã chiếm được 65 thành trì càng củng cố lập luận này . quy luật phát triển sự vật theo dịch lý gồm 2 chuỗi chẵn và lẻ : - chuỗi số chẵn : 1 – 2 – 4 – 8....64 ( thái cực – lưỡng nghi – tứ tượng và 64 quẻ trùng ) - nếu thêm vào chuỗi trên 1 phần tử ở trung tâm gọi là nhân ta có chuỗi phát triển theo số lẻ 1 – 3 – 5 – 9....65 (thái cực – tam tài – ngũ hành và 65....thành trì ( ? ) ) Con số 65 trong dịch học có nghĩa là tất cả hay toàn thể , ở đây nó diễn tả sự thành công to lớn của nghĩa quân theo 2 bà Trưng đã chiếm lại được và làm chủ trọn vẹn lãnh thổ quốc gia , chiếu theo sự phân bố những đền thờ vua Bà hiện nay đã biết thì ta không thể nào nói khác hơn ...là : đất nước của người họ HÙNG thời đầu công nguyên ít ra cũng là toàn cõi Hoa nam ngày nay. Còn 1 điểm nữa rất quan trọng là như sử Trung Hoa đã ghi : ‘toàn quốc nổi dậy chống vua quan nhà Đông Hán’ ....còn cổ sử Việt thì ghi dứt khoát rõ ràng là ‘ hai bà Trưng khởi nghĩa để rửa hận cho nước trả thù cho chồng’ ... như vậy nhà đông Hán không thể nào là 1 triều đại của Trung Hoa , tính chất của cuộc nổi dậy này là 1 cuộc khởi nghĩa phục quốc chứ không phải chỉ để chống lũ bạo quân - tham quan như sử Trung quốc đã cố tình ghi chép . 4. Thời Lưỡng triều kháng Ngụy – (giặc giả năm 220 – 280) Sau cuộc khởi nghĩa khăn vàng, triều đình Đông Hãn đã lung lay tận gốc; dân tộc trung tâm của Đông Hãn là Quan – Liêu, hay Nam – Lu không còn làm chủ được đế quốc mênh mông nữa. Lịch sử thời này chắc chắn đã bị các sử gia Hán tộc cắt xén, sửa chữa rất nhiều khiến không thể hình dung được tình cảnh lúc đó ra sao; chỉ biết sau cơn hỗn loạn đến năm 220 nước Ngụy ra đời trên vùng đất dân Lu hay Liêu gồm cả Quan Lu và Từ Lu và vua đầu tiên là Tào Phi con của Tào Tháo, Tào Tháo là đại công thần triều Đông Hãn, tước Tào Vương. a. Năm 221 ở Xuyên Thục, Lý Bí sử Trung Hoa gọi là Lưu Bị lập nước Thục, năm 222 Tôn Quyền lập nước Ngô ở Giang Nam. Nước Thục và Ngô của người Trung Hoa, nước Ngụy của dân Man, thành phần chính là người Lu (Liêu). Như thế Trung Hoa đã phục quốc nhưng lại chia làm đôi. Lý Bí hay Lưu Bị là hoàng thất triều Hiếu hay Hưng Đế, khởi đầu nương nhờ người anh em họ là Lý Thiên Bảo, sử Trung Hoa gọi là Lưu Biểu ở Kinh Châu, Kinh Châu bị Tào Tháo chiếm, Lý Thiên Bảo và Lý Bí chạy về Quí Châu, ở đấy Lý Thiên Bảo xưng là Đào Lang Vương trên đất Dạ Lang , sử Việt Nam viết thành Dã Năng, Dạ Lang là đất của Họ Lửa người lửa còn nhiều tên khác: Lão, Liêu, Lý Lão … Hữu Hổ – ngày nay gọi chung là Ka Đai, sử Việt lầm lẫn viết là Động Dã Năng ở bên Lào thay cho nước Dạ Lang của người Lão... thực ra cả DẠ LANG và DÃ NĂNG đều sai , tên đúng là DÃ LANG nghĩa là đất của vua DÃ tức vua CHÀY - CỐI tên gọi khác của ÂM - DƯƠNG , vua tổ khai sáng vùng này còn được gọi là ÂM DƯƠNG hay AN DƯƠNG vương cũng là Chu văn vương tổ nhà Chu . Trong thời kỳ lịch sử này cổ sử Việt còn 1 lầm lẫn khác : vùng Điền trì nghĩa là cái ao ở xứ Điền Vân nam biến thành hồ Điển triệt ....được ức đóan là ở bắc Việt nam hiện nay . . Sau Lý Bí tiến chiếm vùng Tứ Xuyên ngày nay, xưa là đất Phát của Hùng Trịnh Vương – Hưng Đức Lang nên sử gọi là Hậu Lý Nam Đế (Lý Bôn là Lý Nam Đế) Sử Trung Hoa gọi Lý Bí là Chiêu Liệt Đế có nghĩa là chúa vùng tây nam (phương Dịch Lý) Chiêu = phía tây; Liệt là biến âm từ chữ Lạc, Lục tiếng Việt phát âm là Nác – Nước; chiêu và liệt là mã tin Dịch Lý chỉ phương tây nam đồng nghĩa với chữ Tứ Xuyên, Chân Định Xuyên Thục. Câu truyện kết nghĩa Đào Viên lừng lẫy trong lịch sử Trung Hoa của Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi đã trở thành điển tích trong văn hóa còn truyền đến tận ngày nay. Sử Việt đã ghi các sự kiện của 2 triều vua Lý Bôn và Lý Bí chồng lên nhau nên không có cơ sở nào để xác quyết là Lý Bôn hay Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, 1 quốc hiệu cực đẹp thể hiện sự trường tồn và hạnh phúc của dân tộc. b. Năm 222 Tôn Quyền xưng đế ở Giang Nam, sử Việt Nam gọi là Ngô Quyền; Tôn không phải là họ mà là tôn quí, cao trọng ý chỉ thủ lãnh. Tôn Quyền tôn trọng hiền tài nên được văn thần, võ tướng phò tá rất đông. Đối với Lưu Bị hay Lý Bí, Tôn quyền tỏ rõ sự hòa thân, cho mượn Kinh Châu để Lý Bí đứng chân, gả em gái để Lý Bí trở thành người một nhà với mình. Sử Trung Hoa chỉ nói những việc làm nhân nghĩa thông thường không hé lộ để người ta nhìn ra một liên minh dân tộc giữa Thục và Ngô. c. Năm 220 Tào Phi cướp ngôi Hãn của con cháu Quan Vũ, ngôi chúa chuyển từ người Quan Lu sang Từ Lu hay Tào Lao, Tào Phi lấy quốc hiệu là Ngụy – từ đó trong ngôn ngữ Trung Hoa ‘ngụy’ có nghĩa là ‘giả’, sử Việt Nam gọi đích danh triều này là Nam Hãn, như thế Đế quốc Hãn có 3 triều đại: Tây Hãn của Canh Thủy Đế Lu Huyền; Đông Hãn của Quan Vũ Lưu Tú, và Nam Hãn của họ Tào hay Từ. Lý Bí được một 1 văn thần kiệt xuất phò tá đó là Khổng Minh Gia Cát Lượng, đối sách liên minh dân tộc với Ngô để cùng chống cường địch là Nam Hãn hay Ngụy là tư tưởng xuyên suốt của ông thể hiện tầm vóc, và tầm nhìn rộng và sâu của bậc vỹ nhân, 1 đời cặm cụi và tận tụy vì dân vì nước, đến lúc chết còn làm cho vua Ngụy kinh hồn bạt vía. Ở Trung Hoa còn truyền tụng câu vè: “Gia Cát Lượng đã về trời còn làm Trọng Đạt rụng rời tay chân” Trọng Đạt là tên của Tào Phi tướng nước Đông Hán sau này là vua nước Ngụy. Vì ngụy là giả trá nên dân Việt Nam gọi là “giặc giả” chỉ thời giặc phương Man quấy phá quốc gia mình, sau giặc cỏ đến giặc giả ý nghĩa lịch sử rất rõ ràng, tại người đời sau không hiểu thấu mới bị kẻ gian xảo lừa gạt. Liên minh dân tộc Thục – Ngô có chiến công vang dội khiến cường địch là Lu Quốc của Khả Hãn phương Mun táng đởm kinh hồn, đó là trận thủy chiến trên sông Đằng, Việt Nam gọi là Bạch Đằng Giang, ‘Đằng’ là biến âm của Đường, Thường. Thương → Đường – Đằng là sông Trường Giang hay Dương Tử ngày nay, ta đã chỉ ra Dương Tử chỉ là từ dịch từ ‘Sông Thương’; chính xác phải là Dương Từ chứ không phải là Giang Tử. Sử Việt Nam gọi đây là thắng lợi hiển hách của Ngô Quyền chống Nam Hán. Sử Trung Hoa thì gọi là trận Xích Bích và xác định Xích Bích là một khúc sông trên Trường Giang. Thực ra Xích Bích là biến âm của ‘Thất Bát’ chỉ trận ấy quân Hãn của Tào Tháo 10 phần chết 7, 8 hay 70%, 80%. Sau này xích bích, thất bát còn có nghĩa trong nhiều thành ngữ như ‘Thất điên bát đảo’ hay ‘xất bất xang bang’. Tất cả đều chỉ sự đại bại, đòn đau quá đến độ quáng gà mất cả phương hướng. Xích bích còn là biến âm của ‘sạch bách’ có nghĩa là ‘chẳng còn gì’ chỉ sự thảm hại của Tào Tháo sau thất bại này. Sử Việt Nam chép trong trận Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán gọi Tào Tháo là Hoàng Tháo; chỉ có một chi tiết sai là Hoàng Tháo không bỏ mình trong trận Bạch Đằng Giang, ông ta vẫn còn sống và gây dựng đế nghiệp cho con cháu họ Tào; thực ra tào không phải là họ mà là ‘tộc danh’ của người Lu, Liêu phương đông. Từ → Tào. Đáng buồn là người Trung Hoa đã phục hưng nhưng lại chia đôi, khi thục và Ngô liên kết thì kẻ thù phương Bắc đại bại, sau chỉ vì những tỵ hiềm ân oán cá nhân làm hỏng đại sự, Thục và Ngô đánh nhau đến suy kiệt và kết quả là cả dân tộc Trung Hoa lại một lần nữa phải oằn oại dưới vó ngựa phương Bắc. 5. Thời nô lệ nước Tấn – người Hãn (Đế quốc đầu trâu mặt ngựa) Năm 265 Tư Mã Viêm lên ngôi Hãn thay thế họ Tào, viết như thế dễ lầm lẫn, Tào, Tư Mã cũng như Quan không phải là 1 họ của dân Man; các chữ Tào, Tư Mã là tộc danh của các dân tộc sống ở phương Bắc Trung Hoa; chính xác phải gọi là ‘dân Quan’ tức dân Liêu phương Nam; ‘dân Từ’ tức dân Liêu phương Đông và sau cùng ‘Tư Mã’ là dân Hung Nô ở phía Tây đất Mã, đất Mã là Sơn Tây ngày nay. Dân Việt Nam gọi bọn cướp nước thuộc tộc Tư Mã là bọn “đầu trâu mặt ngựa” vì tập tục chiến binh đội đầu trâu có 2 sừng khi lâm trận. Chữ Tư Mã gây nhiều hiểu lầm vì Trung Hoa có họ Tư Mã như Tư Mã Thiên V.v… họ Tư Mã Trung Hoa ban đầu là chức quan lo về binh bị trong ngũ quan như Tư Đồ, Tư Không, Tư Mã … chính chữ đồng âm Tư Mã này nên các sử gia Trung Hoa coi nhà Tấn là vương triều Trung Hoa. Thực ra họ là Hung Nô tức cũng là 1 Hãn như các Hãn trước, có sự kế tục của Tây Hãn, Đông Hãn, Nam Hãn rồi Tây Mã Hãn, người Trung Hoa phải chịu nỗi nhục vong quốc từ năm 23 đến năm 220 qua thời độc lập lưỡng triều Thục – Ngô lại mất nước. Từ năm 280 cho đến hết đời Tây Tấn năm 317, từ đời Đông Tấn năm 317 do tình thế bắt buộc các Hãn phải áp dụng chế độ nửa thuộc địa, người Trung Hoa phải chịu cảnh nửa nô lệ cho đến năm 557 thì vừng dương mới ló dạng ở triều đại Bắc Chu của Vũ Văn Giác sau đó là thời độc lập thống nhất huy hoàng với 2 triều Tùy – Đường. Từ năm 557 kéo dài đần đến năm 907, năm 907 trở về sau Trung Hoa lại chịu cảnh xâm lược, chiến loạn triền miên. Chiến tranh dành giật lãnh thổ giữa Trung Hoa và các dân tộc Man phương, con cháu các Hãn là trường kỳ tạo thành lịch sử khu vực, suốt chiều dài lịch sử có thể nói lịch sử Trung Hoa đồng nhất với lịch sử chiến tranh giữa Trung Hoa và các dân tộc phương Bắc (hiện nay), bắt đầu từ thời Tần trước Công Nguyên tới tận thế kỷ 20, thực là cuộc chiến khũng khiếp kéo dài 2.000 năm. Khi Trung Hoa thắng thì cảnh thái bình thịnh vượng bày ra, còn khi bị đánh bại thì phải chịu nỗi cơ cực tủi nhục của thân nô lệ, 2 kẻ thù truyền kiếp này quấn chặt vào nhau đến nỗi sử Trung Hoa ngày nay nhập chung 2 thành 1, Hoa và Hãn thống nhất thành 1 khối diệu kỳ : nước Trung Hoa nhưng lại là người Hãn. Tư Mã Viêm lập nước Tấn từ năm 265 nhưng phải đến năm 280 sau khi diệt Ngô thì đế quốc ‘Đầu trâu mặt ngựa’ mới thực sự làm chủ toàn bộ Trung Hoa. Tuy làm chủ Trung Hoa nhưng các triều đại của vua Man tức các Hãn cũng hãy còn vương vấn cái nếp của các bộ lạc du cư, chưa phải là sinh hoạt của 1 dân tộc định cư ỗn định lâu đời. Sự tổ chức và cai trị quốc gia của họ chưa thoát ra được kiểu tổ chức lãnh chúa và các tộc trưởng, nên chỉ vài năm ỗn định là đã có mầm mống nội loạn; đất Trung Hoa bị chia thành hàng tá các nước nhỏ, chỉ cần 1 tia lửa mồi là thùng thuốc súng bùng nổ, cuối thời Tây Tấn gọi là “Bát vương chi loạn”, chém giết nhau khũng khiếp. Mỗi vương liên kết với 1 sắc tộc người Man để tiến hành việc tranh quyền đoạt lợi, chỉ tội nghiệp người Trung Hoa, cuộc sống và nhân phẩm không khác gì loài vật, ai làm thịt cũng được. Năm 304 sau công nguyên , 8 tộc trưởng Hung Nô hợp lại bầu Lưu Uyên làm thủ lãnh, chiếm Lý Thành ở Sơn Tây xưng Đại Hãn, lập 1 Hãn quốc khác độc lập với Tây Mã Hãn (nhà tây Tấn), vài năm sau cơ cấu song Hãn quốc mới tổng tấn công Tây Mã Hãn và chẳng bao lâu Đại Hãn Lưu Thông (người kế nghiệp Lưu Uyên) đã chiếm hết miền Bắc Trung Hoa. Năm 317, Tư Mã Duệ lập quốc Đông Tấn đóng đô ở Kiến Nghiệp (Nam Kinh). Tư Mã Duệ một hoàng thân kém vai vế trong hoàng tộc Tây Tấn được phái xuống cai trị vùng Nam sông Dương Tử vào năm 307, lúc đó được coi là vùng gai góc vì dân thuần là người Hoa. Tư Mã Duệ khôn khéo theo đường lối dùng người Hoa trị người Hoa, guồng máy cai trị triều Tấn cộng tác với thành phần có máu mặt người Hoa, hình thành kiểu chính quyền liên hiệp: Hãn – Hoa, vì thế Tư Mã Duệ đã thành công trong việc giữ yên phương Nam. Thực chất của nhà Đông Tấn không còn giống nguyên mẫu đế quốc Tấn, nó trở thành dạng chính quyền liên kết Hãn – Hoa, dân Hoa được hưởng 1 phần của quyền làm người, được tham gia công vụ 1 cách giới hạn. Dĩ nhiên thẩm quyền tối cao vẫn thuộc về Hãn và dân tộc của ông ta. Thời này văn hóa Trung Hoa cũng khởi sắc đôi chút, dân Hoa cũng dễ thở nên chủ yếu chăm lo làm ăn nuôi thân, không nghĩ đến việc “cứu quốc”. Đã có lúc với sự đứng đầu của Chu Hy tưởng đâu sĩ phu phương Nam thành công theo sách lược “diễn biến hòa bình”, nhưng sau cùng cũng thất bại, Chu Hy buồn đau mà chết. Năm 420 Lưu Dụ buộc Tấn Cung Đế thoái vị và ông ta lập ra triều Lưu Tống tiếp tục cai trị phương Nam. Ở phương Nam Trung Hoa, loại hình nửa đế quốc đã thành công trong việc cai trị từ năm 417 đến tận năm 589 mới chấm dứt, qua các triều Đông Tấn, Lưu Tống, Tề, Lương, Trần, tổng cộng là 172 năm. Càng về sau sự Hoa hóa càng mạnh, đến đời Trần hầu như chính quyền là chính quyền của Trung Hoa, triều Trần đặc biệt với Trần Bá Tiên đã làm nhiều việc ích nước lợi dân, chăm lo cho người dân như là ông vua Trung Hoa chính gốc, mất hẳn chất đế quốc cai trị . xét ý nghĩa Tên các vua mà lịch sử đặt cho triều Trần ta thấy rất có thể họ là người Trung Hoa chứ không phải Đại Hãn như : Trần Bá Tiên chỉ có nghĩa là vị bá thứ nhất của phương Đông, Trần là chữ Đông ghép với chữ A, tương tự như ông Cơ Xương là Tây Bá khi xưa. Kế đến, Trần Thiên, nghĩa là trời đông; rồi Trần Bá Tông là bá phương đông chính dòng V.v… Từ năm 308 trở đi Trung Hoa bị 2 Hãn quốc cai trị: Hoa Nam là chính quyền nửa đế quốc. Phía Bắc sông Dương Tử chịu sự cai trị của Hãn quốc do Lưu Uyên lập nên. Sau đó năm 386 dòng Thác Bạt lập nước Bắc Ngụy rồi Đông Ngụy – Bắc Tề. Tới năm 557 Vũ Văn Giác phục quốc cho Trung Hoa, quốc hiệu là Chu, sử Trung Hoa gọi là Bắc Chu để phân biệt với các triều Chu khác. Trong các đế chế cai trị vùng Hoa Bắc đáng chú ý là dòng Thác Bạt, quốc hiệu là Ngụy, sử Trung Hoa gọi là Bắc Ngụy. Thác Bạt Khuê khi tuyên lập nước Ngụy cho dàng Thác Bạt đã công khai thừa nhận: người Hán và Thác Bạt là anh em cùng gốc, nói theo danh từ khoa học ngày nay họ cùng thuộc loại hình nhân chủng Mongoloit. Như thế như đã nói rõ – người Hán không phải là người Hoa . Dòng Thác Bạt cai trị Bắc Trung Hoa tới đời thứ 6 là Hiếu Văn Đế thì cải họ Thác Bạt thành họ Nguyên, theo Hoa ngữ ‘nguyên’ là mã tin Dịch Lý cùng gốc với chữ nguồn gốc, bản, số 1, khởi đầu, Nước, Giang … Tất cả chỉ có ý nghĩa là phương nam, ngược với phương nóng bức ở hướng xích đạo, Việt ngữ biến âm thành họ Nguyễn. Cùng với việc cải họ, Hiếu Văn Đế nước Bắc Ngụy cũng cải cách toàn diện theo phong tục, lễ giáo của người Trung Hoa. Thác Bạt là quí tộc người Tiên Ty trước khi vào Trung Hoa họ còn là những bộ lạc du mục, cuộc sống còn ít nhiều nét man dã, sau khi chiếm Bắc Trung Hoa họ cảm nhận được cái hay của nền văn minh cao hơn của họ nhiều, vì thế quyết định của Hiếu Văn Đế là quyết định sáng suốt, biếu cho dân Tiên Ty đôi hia 7 dặm, bước nhanh tới văn minh. Thác Bạt theo ngôn ngữ Hoa có nghĩa là Thổ Hậu hay Địa Hoàng còn tên tộc Tiên Ty do các sử gia Trung Hoa đặt. Tiên là khởi đầu, thứ nhất, số 1; Ty là thấp ngược với tôn là cao, là quý – Tiên Ty là mã tin Dịch Lý chỉ vùng Nam hay phương nước. Ngụy là tên nước của dân Man thời sử Trung Hoa gọi là Tam Quốc, tổ của nước Ngụy là Tào Tháo; tới tận ngày nay trong ký ức của người Việt vẫn in đậm thời này và họ thường gọi người phương Bắc (phương hiện nay) là người Tào biến âm thành Tàu, hoặc là Xẫm đúng ra Sẫm tức màu tối. Theo quy luật Dịch Lý chỉ dân sống ở phương Nam hay Huyền phương là đối lập của dân nhiệt hay hỏa còn gọi là Viêm Bang là dân hướng nóng bức . Ngụy Hiếu Văn Đế tên là Thác Bạt Hoằng đổi tên Trung Hoa là Nguyên Hoằng, sau khi “Hoa hóa” nước bắc Ngụy hưng thịnh được 1 thời gian thì vua quan bắt đầu sa đọa, vì đã “Hoa hóa” nên Bắc Ngụy có cái hay là không phân biệt Hãn – Hoa, ai cũng là con dân của Đại Hãn giờ đổi là Hoàng Đế. Do thượng bất chánh hạ tất loạn, quyền hành ở Bắc Ngụy dần dần rơi vào tay 2 đại tướng, đại tướng Vũ Văn Thái là người Hoa chính gốc, trấn nhậm miền tây tức Tứ Xuyên, Thiểm Tây ngày nay. Thời cuộc đã trao vào tay ông cơ hội, ông liền chớp thời cơ cùng con sau 1 thời gian chuẩn bị thấy thế lực đã đầy đủ bèn lật đổ ách thống trị của Thác Bạt khôi phục truyền thống Trung Hoa và nước Chu ra đời, sử Trung Hoa gọi là Bắc Chu để phân biệt với các triều Chu khác. Chính xác phải gọi là triều Chiêu mới phải: Chiêu → Chu nghĩa là phương Tây. Sử Việt Nam gọi quốc gia – Trung Hoa phục hưng đó là triều “Đinh Hoàng”; Đinh là mã tin Dịch Lý chỉ phương tây, là phương không đổi, hay còn là cứng, cương, đứng, tịnh, tĩnh … biểu tượng là con voi hay Tịnh – đấy cũng là đất Chân Định, Chân Đanh của nhà Tần – Hiếu, còn gọi là Xuyên Thục, Chân Định (nay là Tứ Xuyên). Vua khai phá và lập quốc ở vùng này đầu tiên là Tần Thủy Hoàng, tên Việt Nam là Đinh Tiên Hoàng. Nay nước Trung Hoa mới lại ra đời ở đó sử Việt Nam gọi là triều ‘Đinh Hoàn’ hay ‘Đinh Hoàng’, quốc hiệu mới là ‘Đại Cồ Việt’. Qua các triều kế tiếp là Tiền Lê của Lê Hoàn, Lý 1 của Lý Uyên; không thấy sử nói đến việc đổi quốc hiệu, mãi tới triều Lý 2 tức anh em Lý Cung, Lý Ẩn (Lưu Cung, Lưu Ẩn) mới xuất hiện quốc hiệu mới là Đại Việt thay cho Đại Cồ Việt.
  2. 18 . Hùng triều thứ 18: Hùng Duệ . Vua khai sáng : – Huệ (Duệ) Lang Danh hiệu khác trong sử Việt : Danh hiệu khác trong sử Hoa : Vương Mãng , Châu hoàng đế. Niên đại : năm 8 – 23 sau công nguyên. Lịch sử Trung Hoa không có vì vua nào họ Vương Tên Mãng, Vương Mãng thực đúng là Vương Mãn có ý nghĩa là vì vua cuối cùng, chính sử Trung Hoa đã viết thế nhưng không hiểu vì sao, và thời nào đã bẻ quặt thành Vương Mãng khiến mất hết ý nghĩa lịch sử, dân Trung Hoa không hiểu nổi trang sử bi thương số 1 trong lịch sử của dân tộc mình. Vương Mãn là ngoại thích của triều Hiếu, một hiền tài, chính nhân quân tử, học cao hiểu rộng có chí lớn nhưng đánh giá sai thời thế, chỉ 1 vì vua thôi thì không đủ sức xoay chuyển tình hình cả xã hội. Ý tưởng tốt nhưng thực thi bởi 1 guồng máy tồi tệ thì kết quả sẽ ngược lại, chính dân chúng đối tượng mà Vương Mãn muốn cho có cuộc sống tốt đẹp hơn lại trở thành nạn nhân của lũ tham quan ô lại, lợi dụng “phục cổ cái chế’ chính sách của Vương Mãn để hà hiếp bóc lột dân chúng đến tận xương tận tủy. Vương Mãn thất bại vì quá nóng vội, phục cổ cái chế khi chưa xây dựng được bộ máy để thực thi công công việc, dù là đại nhân, đại trí, đại dũng ông cũng thất bại thảm hại vì không biết chữ “thời”. Mệnh lệnh cải cách của Vương Mãn có tác động vô cùng to lớn, ảnh hưởng đến mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, ông thay đổi từ những vấn đề mang tính nhân văn như qui chế các nô tì, “vương hóa” ruộng đất, nghĩa là tất cả các ruộng đất trong thiên hạ đều là vương điền, hiểu theo nghĩa hiện đại là công hữu hóa, sở dĩ Vương Mãn phải quyết định việc này vì hầu hết ruộng đất trong cả nước thực tế nằm trong tay bọn vương công, quan lại; phục cổ cái chế cũng đảo lộn cả những vấn đề thuộc lãnh vực kinh tế, thương mãi, tài chính, tiền tệ … Tóm lại là đảo lộn tất cả. Khi xã hội đang rã rời, quốc lực tàn tạ gần đến số không, thì ngoại xâm đến như 1 sự tất yếu: nào Hung Nô, nào Hồi Hột ở Tây Vực, nào Khang Tạng, dân chúng đã khổ lại càng khổ hơn, quan lại mặc sức hà hiếp bóc lột lấy cớ huy động quốc lực để chống ngoại xâm. Lúc này dân chúng đúng thực là “trên răng dưới khố”. Tình hình bi đát như trên lại bị châm ngòi bởi thiên tai, đói kém do mất mùa, có nơi chết đói cả làng, cả tổng … như thế sự bùng nổ cách mạng là tất yếu. Chính sử Trung Hoa cố ý nhập nhèm ở chương này. Có 2 cuộc khởi nghĩa với 2 chí hướng hoàn toàn khác biệt của 2 thành phần dân tộc khác biệt: 1. Cuộc khởi nghĩa của Phàn Sùng: Phàn Sùng người Hoa, thủ lãnh tôn giáo, chính xác là Đạo giáo, một tôn giáo có gốc là đạo Mẫu phát triển trên cơ sở học thuyết: Hoàng Đế – Lão Tử nên còn gọi tắt là đạo Hoàng Lão, tôn giáo duy nhất của Trung Hoa. Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa là khôi phục lại họ Lý của Trung Hoa. Phàn Sùng chỉ là thủ lãnh cách mạng không gây dựng đế nghiệp cho mình mà tìm kiếm cho được con cháu của Lý Bôn để tôn vương, sau cùng tìm được 1 đứa bé chăn bò 15 tuổi là con cháu chính dòng Lý Bôn tên là “Lưu Bồn Tử” ai đó cố tình nhập nhèm ... chính xác là “Lý Bôn Tử” nghĩa là con cháu của Lý Bôn, là danh hiệu chứ không phải là tên riêng. Vì quân của Phàn Sùng đều nhuộm lông mi đỏ nên được gọi là quân Xích Mi. 2. Cuộc nổi loạn núi Lục Lâm : Lơi dụng quốc lực Trung Hoa suy tàn, người Mongoloit hay các dân tộc bắc Trung Hoa (hiện nay) nổi dậy lập quốc của họ. Nòng cốt lãnh đạo cuộc nổi loạn này là quí tộc người “Lu” hay Liêu, tức giống Man làm chủ lưu vực Hoàng Hà trước đây. Lãnh địa của Hưng Đế Lý Bôn trước đây là miền đất Hãm hay Hiểm tức vùng núi non hiểm trở Tây Bắc Trung Hoa, trong đó có đất Hán tức là đất của dân gọi vua là Hãn, dân chúng sinh sống trên đất khởi nghiệp nhà Hiếu có 3 thành phần rõ rệt: Hoa tộc – Tạng tộc – và người Man phương Bắc (hiện nay) do công trạng của họ trong công cuộc xây đựng đế nghiệp họ Lý, nên nhà Hiếu coi tất cả là con dân của vương triều, thậm chí hoàng tộc họ Lý còn kết thân với thủ lãnh sắc dân Hãn qua các cuộc hôn nhân “chính trị”. Sử Trung Hoa nhập nhèm họ Lý Trung Hoa và họ Lu (Liêu) của dân man thành một và viết thành họ Lưu, Lý Bôn biến ra Lưu bang, Hưng Đế trở thành Hán Đế hay Đại Hãn; chính sử Trung Hoa cũng hé lộ … các thủ lãnh dân Hung Nô đều mang họ Lưu là họ của hoàng tộc Trung Hoa …sự việc đó chính là cái đuôi của thời kỳ lịch sử đặc biệt này. Sử chép: Vương Mãn cấm người họ Lưu làm quan, ta hiểu ý nghĩa sâu xa là Vương Mãn phân biệt chủng tộc … Rạch ròi giữa người cai trị và dân bị thống trị, không có chuyện thủ lãnh dân bị trị lại là quí tộc Trung Hoa … Đế hiệu của Vương Mãn là Chu Hoàng Đế nói lên rất rõ ý nghĩa này; Đặt tên triều đại là ‘Tân’ danh hiệu vị lang cuối cùng nhà Đông chu , chính mình cũng xưng là Châu hòang đế đủ soi rõ tâm can của Vương mãng. Triều Chu là triều đại dài nhất Trung Hoa cả ngàn năm tạo dựng quốc thống Trung Hoa, bản sắc Trung Hoa và văn minh Trung Hoa. Vương Mãn với đế hiệu Chu Hoàng Đế rõ rệt là muốn nối tiếp quốc thống nhà Chu, quốc thống của “Văn Lang” hay Văn Vương. Bọn cường hào họ Lu tập hợp lực lượng chiếm giữ núi Lục Lâm ở Hồ Bắc, ban đầu chỉ là bọn cướp núi, dân Trung Hoa gọi là bọn “Lục Lâm thảo khấu” khinh thường là ‘giặc cỏ’. Trong cơn khốn quẫn cùng cực của Trung Hoa bọn giặc cỏ làm nên sự nghiệp: lập nên Hãn quốc đầu tiên, sử Trung Hoa nhập nhèm không gọi là nước Hán, nhưng quân đội thì quên nên vẫn gọi là Hãn quân....; Ở một bài trước ta đã nói : đế hiệu cũng là quốc hiệu “Tây Hãn” chính xác phải được dùng để xác định thời này, thời Đại Hãn Lưu Huyền lập Tây Hãn Quốc . Lưu chỉ họ Lu hay người Liêu, Huyền là huyền phương, phương màu đen; mã tin Dịch Lý chỉ phương nam, phương nước ngược lại với phương hỏa hay xích đạo. Huyền = Đen = Mun. Lưu Huyền → Lưu Mun → Lưu Manh chỉ với từ dân gian diễu cợt ‘Lưu Manh’ cũng đủ khẳng định không phải là vua Trung Hoa, Tây Hán hay Tây Hãn không phải là 1 triều đại của Trung Hoa đó là tên quốc gia đã xâm chiếm và thống trị Trung Hoa mở đầu cho đế quốc Hãn (viết sai thành Hán). Từ Hãn đã trở thành nổi ám ảnh kinh hoàng của dân Việt-Hoa, trong kho tàng từ ngữ của họ vẽ nên hình ảnh ghê rợn với những chữ: hung-hãn . Phải chăng khi lịch sử sang trang cũng là lúc đất trời đảo lộn , Nam biến ra bắc , bắc lộn ngược thành nam...để Chim lặn dưới nước ngược lại cá bay trên trời... Con số 18 định mệnh của người Việt đã nói lên rất rõ danh hiệu Hùng Vương thứ 18 là Vương Mãn – nghĩa là vua cuối cùng; chữ mãn này nghĩa là đã tràn đầy rồi không thể chứa thêm được nữa , ta thường dùng chỉ sự hết hạn như: mãn hạn, mãn phần …;Ngày đau thương của dân Việt-Hoa là vào 1 ngày năm thứ 23 sau CN khi cùng đường Chu Hoàng Đế ngồi trên long ngai đọc kinh sám hối chờ Lưu Tú, một tướng lãnh của Hãn Quốc tới chặt đầu. Ngày mà đầu của Chu Hoàng Đế lìa khỏi cổ cũng là ngày mà dân Việt-Hoa bắt đầu ngàn năm nô lệ – vong quốc. Sự vong quốc trong thực tế (bỏ qua thời nước Thục, Ngô ngắn ngủi) của dân Trung Hoa đã chấm dứt với thời phục hưng của triều Bắc Chu – Vũ Văn Giác, tức vua: Văn Giác. Nhưng sự vong quốc trong tâm thức thì kéo dài tới tận hôm nay vì chính sử Trung Hoa vẫn nhận các triều Lưu Huyền, Đông Hán, Ngụy, Tấn Nguyên, Thanh là các triều đại Trung Hoa và người Trung Hoa vẫn hãnh diện với “Hán tộc” của mình, vui vẻ làm con dân Đại Hãn …!!!? vẫn gọi những kẻ đã diệt quốc Trung Hoa là tiền nhân …!!!?. Nước Trung Hoa ngày nay thực chất là một hợp chủng quốc đây là chuyện đương nhiên do lịch sử để lại nhưng oái oăm ở chỗ người Hoa không có trong số các tộc người làm thành hợp chủng quốc Trung hoa…; Hán ,Mãn ,Mông , Hồi , Tạng có chữ Hoa nào đâu…? phần dân chính gốc Trung Hoa biến thành các sắc tộc thiểu số ở Hoa nam và số khác lập thành các quốc gia Đông Nam Á ngày nay nhưng vì đã hoàn toàn mất sự liên thông với quá khứ nên không nhận mình là ‘Trung hoa’ thậm chí không biết mình là Trung hoa và tệ hơn nữa là :từ “Trung Hoa” đã trở thành một nỗi ám ảnh đè nặng trong tâm trí họ. 18 Hùng triều là Lịch sử có thật , có gì đau buồn hơn nếu phải làm kẻ thất tộc , thực may mắn cho dân họ HÙNG tiền nhân đã để lại cho chúng ta một qúa khứ rõ ràng và đầy đủ từ khai thiên lập địa đến khi vong quốc , dù trải qua biết bao đắng cay gian khổ cộng lại có đến gần ngàn năm làm thân nô lệ nhưng… sử còn là ta còn …, nhắc chuyện đã qua là để lo việc sắp đến , đấy chính là trách nhiệm phải mang của sử
  3. 17 . Hùng triều thứ 17: Hùng Triệu Vua khai sáng – Cảnh Triệu Lang Danh hiệu khác trong sử Việt:Cảnh Thiều, Triệu Đào hay Thao Danh hiệu khác trong sử Hoa :Nam Việt Vũ , Triệu Đà hay Triệu Tha Quốc hiệu : Nam Việt Niên đại : năm 179 – 111 trước CN Lã Hậu trước khi mất đã sắp sẵn cho 1 cuộc soán đoạt to lớn: chuyển ngôi đế từ họ Lý sanh họ Lữ, mặc dù trước khi mất Hiếu Cao Tổ đã tổ chức cuộc “giết ngựa trắng ăn thề”: Ai không phải họ Lý không được phong Vương. Nhưng khi thực sự nắm quyền, Lữ hậu đã phong hàng loạt tước vương cho con cháu nhà họ Lữ và bố trí vào những địa vị then chốt nơi triều chính, nắm giữ những vùng trọng yếu của đất nước như: Lã Lộc, Lã Sản nắm trọn đại quân ở kinh đô, Khi Lã Hậu mất, họ Lữ định ra tay làm chính biến lật đổ ngôi vua của họ Lý nhưng các trung thần nhà Lý đã nhanh tay hơn 1 bước, kết quả Lữ Lộc, Lữ sản đều thiệt mạng. Quyền hành ở kinh đô vẫn thuộc về họ Lý, con lớn của Lý Bôn là Lý Hằng được tôn làm vua. Nhưng ở đất Đào, nước Nam Việt ra đời đối đầu với chính quyền trung ương của họ Lý. Đất nước trở thành Lưỡng triều: họ Hiếu làm một chủ phương , Lữ gia làm tể tướng nước mới lập trên đất Lĩnh nam tức đất Đào hay Thao thời nhà Hạ danh xưng là Nam việt , lịch sử Việt Nam và Trung Hoa gọi vua Nam Việt là Triệu Đào hay triệu Thao viết sai thành Triệu Đà còn gọi là Triệu Tha...; Lữ gia hoặc nghĩa là ‘nhà họ Lữ’ hoặc là tên riêng của một người cháu Lữ hậu đã được bà phong vương , cổ sử Việt Nam gọi là tể tướng Lữ gia, rất có thể họ Lữ đã tôn người họ Lý con của Lý Bôn và Lữ hậu lên làm vua Nam Việt còn mình chỉ nắm chức tể tướng? Về Lữ gia và nước Nam Việt, còn có nhiều điều không giống nhau trong sử Việt Nam và sử Trung Hoa. Theo chính sử Trung Hoa thì Triệu Đà là quan úy huyện Long Xuyên được sự giúp đỡ của Nhâm Ngao đã chiếm đất Quảng Đông của nhà “Tần” lập nước Nam Việt, sau đó dùng tiền tài bổng lộc mua chuộc những người cầm đầu các vùng đất chung quanh như Mân Việt và tây Âu Lạc để hình thành 1 đế chế không thua kém gì phương bắc (nay) . Sử Việt Nam dựa trên Hán sử nên cũng chép tương tự chỉ khác là Triệu Đà xâm lăng chiếm nước và giết An Dương Vương ở núi Mộ Dạ thuộc Nghệ An. Huyền sử Việt thì nói: An Dương Vương không chết mà cầm sừng văn tê 7 tấc theo thần Kim Qui đi ra biển. Về lãnh thổ ban đầu khi thành lập nước Nam Việt cũng không thống nhất, chính sử xác định là Quảng Đông ngày nay, kinh đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu ) nhưng nhiều sử liệu khác của Trung Hoa lại ghi: “Đà chiếm Lâm Ấp và tượng Quận làm cõi riêng của mình”. Theo chính sử … thì Lâm Ấp và Tượng Quận thuộc miền Trung Việt Nam hiện nay, Lâm Ấp sau chính là nước Chiêm Thành? Vậy nước Nam Việt ở đâu và Triệu Đà hay Úy Đà là ai? Ở đây ta đặt ra 1 sử thuyết dựa trên sự tổng hợp các dữ liệu của lịch sử Việt Nam và Trung Hoa. Triệu Đà không phải là tên mà là danh hiệu của Chúa đất Đào; Lâm Ấp là chữ viết sai của Nam Ấp chỉ vùng Quảng Tây; Tượng Quận nghĩa là đất phía tây trong nước Tây – Âu – Lạc của Cơ Xương khi xưa là Vân Nam ngày nay; Lâm Ấp cũng là đất Âu. Có thể đoán định toàn cõi Nam Trung Hoa đều là lãnh thổ của nước Nam Việt kể cả đất Lạc tức Việt Nam ngày nay, chính vì điều này nên đầu đời Hiếu Vũ Đế đoàn đi sứ phương tây của Trương Khiên mới bị chặn lại ở Côn Minh, Vân nam không đến được Thiên Trúc. Ta có thể đoán nước Nam Việt tồn tại từ năm 179 trước Công Nguyên đến năm Lộ Bác Đức bắt được Kiến Đức – Triệu Dương Vương thu giang san Trung Hoa về 1 mối cho nhà Hiếu (Tây Hán). Sử Việt Nam rất lúng túng khi có sách cho Triệu Đào, hay Triệu Vũ Vương là 1 trang sử chính thống của Việt Nam, các sách đời nay thì coi đó như 1 thời Việt Nam bị Triệu Đà đô hộ (Triệu Đà cũng là người Trung Hoa) Về đất Chân Định quê hương Triệu Đà thì sử Trung Hoa xác định là đất của nhà “Hiếu” nhưng truyền thuyết Việt có tư liệu coi đó là 1 bộ trong 15 bộ của vua Hùng, như vậy là đất Trung Hoa hay đất Việt Nam? Ta đã giải mã: đất Chân Định hay Chân Đanh, Chân Đăng chỉ có nghĩa là đất Tây nam theo phương của Dịch Lý, là tỉnh Tứ Xuyên ngày nay chính là đất trung tâm của đế quốc Tần (hay chưn →chân) thời cổ xưa. Chương nói về Triệu Đà và nước Nam Việt trong sử ký Tư Mã Thiên là giả mạo nhằm làm nhiễu loạn lịch sử phục vụ cho sự bẻ quặt lịch sử Trung Hoa chính thống. Đối chiếu các sự kiện ta tìm ra được các tác giả của việc giả mạo to lớn này đã lấy lịch sử các triều đại nhà Tần làm gốc rồi chế biến sửa đổi thành lịch sử nhà Triệu của Nam Việt. Trước hết ta thấy cả 2 đều họ Triệu, và đều có 5 đời vua. ta có bảng đối chiếu như sau: Tần (họ Triệu)............................ Họ Triệu của Nam Việt Chiêu Tương Vương.................... Triệu Vũ Vương-.ĐÀ Hiếu Văn Vương.......................... Triệu Văn Vương-HỒ Trang Tương Vương..................... Triệu Minh Vương-ANH TỀ Thủy Hoàng Đế – Triệu Chính....... Triệu Ai Đế – Triệu Hưng Nhị Thế Hoàng Đế ....................... Triệu Kiến Đức Còn nếu lấy Tần Thủy Hoàng là Triệu Vũ Vương ta có sự trùng lắp cả 3 đời vua: Tần (họ Triệu)............................... Họ Triệu của Nam Việt Triệu Vũ Tần Thủy Hoàng............... Triệu Vũ – Triệu Đà Triêu Hồ Hợi – Nhị Thế ................... Triệu Hồ Triệu Tử Anh ................................ Triệu Anh Tề Ta chú ý chi tiết: Triệu Chính là con ngoại hôn của Triệu Cơ và Lã Bất Vi. Bên họ Triệu thì Triệu Ai Đế là con của đôi gian phu dâm phụ Cù Thị và An Quốc Thiếu Quí. Sự nhiễu loạn lịch sử thực sự ghê gớm, ngàn năm sau vẫn chưa tìm ra được sự chân xác đích thực, con cháu bơ vơ không bờ không bến, một phần thì gọi giặc làm cha, phần còn lại thì cứ tổ tiên mình mà căm hờn . Do bụi thời gian quá dày, nếu tỉnh táo một chút ta nhìn ra ngay sự lừa bịp này dựa vào giọng điệu và thông tin mang trong nó. Thứ 1: Đoạn sử hư cấu này chủ yếu miệt thị dân Giao Chỉ như: Triệu Đà xưng mình là Man Di Đại Trưởng Lão … Triệu Đà gọi dân Tây Âu Lạc là còn ở truồng. Thứ 2: Chứa đựng sự hư cấu phi lý: Như người Trung Hoa chỉ bán cho Nam Việt những trâu bò giống đực, không bán giống cái. Không bán cho Nam Việt những đồ kim khí … điền khí để làm ruộng. Tất cả chỉ muốn nói lên 1 điều: đất phương Nam (hiện nay) là đất mọi rợ … trong khi khảo cổ học ngày nay xác định thời Triệu Đà ở Giao Chỉ đã bước vào thời đồ sắt, còn xương trâu bò từ lâu đã tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ, và chúng được xác định là giống vật bản địa tiêu biểu. Ngữ cảnh và giọng văn không phải của Tư Mã Thiên mà l mang dấu ấn của những bộ óc bã đậu biến chế ra . Tại sao Hán sử không có dòng nào nói đến cuộc tấn công đất của thiên tử nhà Chu ? có thực là vua Chu đã tự nguyện tự giác nộp đất cho Tần không ...? Qua dòng thơ sử sau sẽ rõ : Quốc Tây cự chấn tráng Chân Đăng . Làm gì có truyện Thiên tử tự nguyện nộp đất cho chư hầu ... Trong Hoa sử triều và quốc là một như Triều Đường cũng là nước đại Đường, triều Tống cũng là nước đại Tống .v.v., như vậy triều Chu cũng là nước Chu hay Chiêu , chiêu là phương tây ngược với mục là phương đông nên nước Chiêu cũng chính là quốc tây trong câu thơ trên . Cự chấn tráng Chân Đăng nghĩa là : chống cự mạnh mẽ làm rung động cả nước Chân đăng hùng mạnh , Nhà Chu thiên tử đã chiến đấu chống lại ai ngoài nước Tần vô đạo thóan nghịch ?, như vậy rõ ràng Chân đăng là tên khác của nước Tần mà trước đến nay sử sách chưa bao giờ nói đến . Sở dĩ như thế vì những trang sử nói về cuộc tấn công của họ Triệu nước Tần đánh nhà Chu đã bị bẻ quẹo thành cuộc đánh chiếm nước Âu –Lạc cuả Triệu Đà vua Nam Việt ...tất cả nhằm giấu đi quận Tam xuyên mà Tư mã Thiên đã chép rành rành trong Sử ký...; vì chỉ với việc xác định được một quận này thôi cũng đã đủ chứng lý để viết lại lịch sử Việt nam và Trung hoa . Ở bài trước chúng ta đã đề cập đến Úy Đà quận úy quận Tam xuyên hay Long xuyên...và Triệu Đào hay Triệu Thao... 2 ông Đà chẳng dính gì với nhau vì thuộc 2 giai đọan lịch sử khác nhau, nhưng khi đã vớ được cái phao.... ‘cùng tên là Đà’ lập tức các sử gia vốn chăn ngựa đã khai thác triệt để chế biến cho luôn cả dòng họ Triệu của Tần thành họ Triệu cuả Nam Việt cho chắc ăn như ta thấy ở trên . Vị quận úy sau cùng của Quận Tam xuyên là Lý Do con của thừa tướng Lý Tư đã tử trận dưới chân Ung thành trong cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn hay Lưu Bang . Khi nghe nói ông Lưu Bang tổ của triều Tây hãn là người Mường ...có thể độc giả phì cười ....nhưng xin bạn tìm đọc cuốn ‘Bách Việt tiên hiền chí’ sẽ thấy tất cả cận thần của Lưu bang như Tiêu Hà, Tào Tham , Hàn Tín đều là người Việt ...như vậy tại sao Lưu bang tên Việt là Lý Bôn lại không thể ..? Nhưng trong sử ký của Tư Mã Thiên, chương Úy Đà Thế Gia, ta cũng lượm được 1 thông tin bổ ích, đó chính là tên sứ giả của triều Hiếu 2 lần đến thuyết phục Triệu Đà: ông ta tên là Lục Giả hay Lạc Giả; Lục chính là tên đất của Triệu Đào, cũng chính là đất Lạc của Lạc Việt, hay Lạc Ấp xưa, Xét tổng thể tới nay ta vẫn còn rất mù mờ về nước Nam việt , cả triều đại lẫn niên đại và các sự kiện lịch sử nổi bật liên quan tới nhà nước này ngay cả phần tối quan trọng là bản chất dân tộc cũng chưa có đủ cơ sở để xác quyết chỉ có thể nói chung chung là thuộc dòng Bách Việt ... riêng đức Trần hưng Đạo thì đã có lời khẳng quyết Triệu Vũ tức Triệu Đào là 1 tiên vương của nước Việt nam ngày nay . Hoa sử và lịch sử các nước Đông nam á ngày nay cho ta cảm giác 2 vùng miền này không có sự ràng buộc về lịch sử cổ đại . Có thực thế không ? Ở phần trên của thiên sử thuyết này đã nói : còn 3 nước của con cháu họ Hùng không bị Hán tộc chiếm đóng là nước Lỗ, Yên và Tề . Dựa vào sự kiện người Thái ồ ạt di cư đến miền đất phía tây Việt nam vào thời điểm 100 năm trước và 100 năm sau công nguyên ta đã đủ dữ kiện để đưa ra ức thuyết : Người Thái chính là dân vùng trung tâm nước Nam Việt ở qủang Đông ,sau khi kinh đô Phiên ngung thất thủ họ đã kịp tổ chức di tản về kinh đô mới ở phía tây lập trong vùng lòng chảo Điện Biên thuộc Việt nam ngày nay , như thế nước Nam việt của Triệu Đà không hề diệt vong mà chỉ mất thủ đô và phần đất phía đông mà thôi . Thông qua trung tâm và cũng là nơi trung chuyển Điện biên này người Thái đã dần dần trong khoảng 200 năm chiếm lĩnh cả vùng đất phía tây Việt nam và nam tỉnh Vân nam trung hoa ở đó nước Nam Việt tồn tại dưới một tên mới là Đốn tốn với cư dân chủ yếu là người nước Lỗ xưa kết hợp với người Thái gốc Nam việt mới di cư đến . Nước Đốn tốn vẫn liên tục tồn tại , thời trung đại đổi quốc hiệu là Nam chiếu , quốc gia này chính là tiền thân của nước Thái Lan và Lào ngày nay , Thái lan cũng gọi là Táy lương hay táy Long , chữ Lương giúp xác định người Thái là dòng Long trong truyền thuyết lịch sử của Việt nam , là con cháu của Động đình quân và Long nữ ở vùng vịnh bắc Việt , với cổ sử Trung hoa thì họ chính là người họ MY. Chữ Tốn ở đây là quẻ Tốn của bát quái chỉ gió bão hoa ngữ là Phong ,như vậy có thể đoán định nước Đốn tốn nằm trên đất Phong châu của cổ sử Việt cũng là đất phong của nhà Chu ,thời chiến quốc là nước Lỗ , sách đời Tấn và Lưu tống bên Tàu cho biết : nước Đốn tốn phía tây giáp Thiên trúc tức Ấn độ , phía đông giáp Giao châu và đương nhiên có mặt giáp đế quốc Đông hãn , ngoài ra Đốn tốn còn có bờ biển hàng ngàn lý ...nếu đúng như thế thì lãnh thổ nước Đốn tốn có lẽ bao trùm cả vùng Đông nam Á lục địa ngày nay ?
  4. 16 . Hùng triều thứ 16: Hùng Trịnh Vua khai sáng – Hưng Đức Lang . Danh hiệu khác trong sử Việt : Lý Bôn , Lý nam đế . Danh hiệu khác trong sử Hoa : Lưu Bang Hán (Hiếu)cao tổ. Quốc hiệu : Vạn xuân . Niên đại : năm 206 – 8 trước CN Hùng Trịnh là vương đất Trịnh nơi khởi phát đế nghiệp của Lý Bôn Hưng Đức Lang có ý nghĩa : Hưng ta đã biết ở phần trên (Hưng – Suy). Đức là biến âm của Đế , Lang cũng có nghĩa là vương, nên gọi là Hưng Đức hay Hưng Lang thì đúng hơn. Đây là sai lầm thường thấy của người Việt như: Núi Thái Sơn, Sông Hương Giang V.v… Phép biến âm phù thủy đã biến ‘Hưng Đức’ thành ‘Hán đế’ tức đại hãn Mông cổ. Sử Trung Hoa không biết vô tình hay hữu ý thường lờ họ Triệu của nhà Tần … thay vào đấy dùng chữ Dinh, như Tần Thủy Hoàng tên là Triệu Chính nhưng sử Trung Hoa thường ghi là Dinh Chính. Thực ra ‘Triệu’ là biến âm của từ ‘Chậu’ trong ngôn ngữ Thái Lào; từ chúa trong tiếng Việt vậy Triệu Chính chỉ có nghĩa là chúa tên Chính chứ không phải họ Triệu tên Chính. Tương tự triều Lý Bôn Hưng Đế cũng thế, theo qui luật về danh xưng các vương triều Trung Hoa thì thời Lý Bôn – Lưu bang phải gọi là triều “Hiếu” mới đúng; tất cả các vua triều này đều có đế hiệu với chữ “Hiếu” đứng đầu như: Hiếu Cao Tổ, , Hiếu Cảnh Đế , Hiếu Vũ Đế V.v… nhưng sử Trung Hoa lại gọi là triều ‘Tây Hán’ hay ‘Tiền Hán’, không hiểu vì lẽ gì? Do hiềm khích giữa Lưu Bang và Hạng Vũ khi phân phong đất đai trước của đế quốc Tần , Hạng Vũ đã đẩy Lưu Bang đến vùng xa xôi hiểm trở nhất là bắc Tứ xuyên –nam Thiểm tây đấy là nơi khỉ ho cò gáy đến nỗi không những quân mà cả tướng ngày nào cũng có người bỏ trốn trong đó có cả Hàn Tín may mà tể tướng Tiêu Hà đuổi kịp dỗ dành nên quay lại . Nói như thế để ta hình dung ra cảnh sinh họat tiêu điều không bóng người...trái ngược với điều Hoa sử nói Thiểm tây là đất trung tâm của nhà Chu tức là chốn phồn hoa đô hội...không lẽ tất cả dân nhà Chu đã chết sạch ?. Khi lên ngôi dù lòng không muốn nhưng Lý Bôn buộc phải phong cho 1 số tướng lãnh, công thần tước vương và cắt đất cho họ làm chư hầu, trong đó: Hàn Tín được phong ở nước Sở – Hồ Nam. Bành Việt được phong ở đất Long, sở Trung Hoa gọi là Lương Vương (ta nhớ lại: Lạc Long → Lục Lương) tức Quảng Đông ngày nay. Anh Bố được phong là Hoài Nam Vương đất Phong ở nam sông Hoài. Về sau các vương này đều bị cáo giác làm phản và bị giết, đất đai bị thu hồi. Sau khi diệt Hoài Nam Vương Anh Bố, Hưng Đế về thăm đất Bái, trong 1 bữa tiệc nơi đất cũ, nơi có núi Muang Đãng thưở xưa, ông vua Trung hoa người dân tộc Mường ngâm 4 câu thơ còn ghi trong sử sách đặc biệt có câu: “Đại phong khởi hề vân phi dương” dịch là ‘gió lớn thổi hề mây bay lên’. Ý nghĩa lịch sử nằm ở chữ ‘phong’ và chữ ‘vân’. Phong chỉ Phong Châu, hay đất Phong nơi sinh ra Lý Bôn, vân là tên cả vùng đất nay là Vân Nam, xưa là đất Văn Lang hay Văn Vương thường được gọi tắt là đất Vân . Việc mở rộng cương vực về miền bắc (phương hiện nay) Hoàng Hà đã được bắt đầu từ thời Trụ Vương nhà Ân Thương, rẻo đất giáp bờ bắc Hoàng Hà ngày nay thuộc Hà Nam là nơi xây Biệt Đô Triều Ca, đất xưa có Biệt Đô tên là Hà Nội, trùng với tên thủ đô Việt Nam ngày nay. Sang đời Tần tướng Mông Điềm đã vượt sông chiếm vùng đất từ Hoàng Hà lên đến Trường Thành lập thành 44 huyện; đấy là đất của người Lu (Liêu) thuộc chủng Mongoloit, trong chiến tranh Hưng – Suy (Hán Sở) vì nội chiến vùng này không có người phòng thủ nên rơi vào tay Hung Nô, Hiếu Cao Tổ sau khi lên ngôi đã toan chiếm lại nhưng Hung Nô lúc ấy đã quá mạnh đành chịu thất bại – phải áp dụng chính sách hòa thân không chiến tranh. Trong cuộc Hán sở tranh hùng quân của Lưu bang có nhiều người Hung nô phương bắc (nay) nên với Lưu bang không có sự phân biệt Hán Hoa , hoàng tộc Trung hoa và dòng thủ lãnh các tộc Hung nô đã có nhiều cuộc hôn nhân , rất có thể trong số các hoàng tử công chúa cũng đã có người mang 2 dòng máu , điều này thể hiện quan điểm chính trị thực dụng của Lưu Bang do thực tế vùng đất ông đứng chân mà ra. Nhưng với vợ ông bà Lữ hậu thì khác : trong cái tầm mắt hạn hẹp nhỏ nhoi của đàn bà lại chứa cái rất to lớn đó là ý thức dân tộc Hoa là Hoa Hán là Hán ...chính vì vậy : khi Hiếu Cao mất, quyền hành thực sự nằm trong tay Lã Hậu, bà là người cứng cỏi và có tham vọng đoạt ngôi vua cho họ Lữ , chúng ta sẽ có 1 chương nói về triều đại họ Lữ mà từ trước đến nay đã bị dấu nhẹm. Từ khi Lưu bang mất thì Hung nô đã thực sự trở thành quốc nạn đối với người Trung hoa , tấn công cướp phá liên miên mãi cho đến đời vua thứ 6 là Hiếu Vũ Đế, Trung Hoa lại phục hưng đánh bại và dồn Hung Nô về tận sa mạc ở tây bắc. Đây là đời thịnh trị huy hoàng của Trung Hoa. Theo sử Việt: Lý Bôn – Lưu Bang là Lý Nam Đế, chữ Nam này đã chỉ rõ vùng kinh đô của triều Hiếu nằm ở phía nam (xưa) Trung Hoa , Triều Hiếu Trung Hoa có văn trị võ công hiển hách, cả vùng đất mênh mông của người Mongoloit ở ngoài Trường Thành phía bắc (hiện nay) Trung Hoa đã bị chinh phục, phông phải chỉ mở rộng lãnh thổ, tầm nhìn Trung Hoa cũng được mở mang rất nhiều qua các chuyến đi sứ về hướng tây của Trương Khiên, Tô Vũ V.v… Tự điển đầu tiên của Hoa tự đã được lập ở thời này, có trên 6.000 từ, đây cũng là tự điển đầu tiên của nhân loại. Từ đời Hán Văn Đế tức năm 163 trước CN, Trung hoa bắt đầu dùng niên hiệu vua làm lịch, từ đó mới có thể xác định thời gian của lịch sử Trung Hoa, trước đây dùng lịch Can Chi, lịch này cứ 60 năm lại trở về từ đầu nên khó biết đích xác các sự kiện lịch sử vì 60 năm lại có 1 năm trùng tên nhưng như thế cũng chưa phải là ổn vì có nhiều niên hiệu trùng nhau . Sau khi Lữ Hậu mất, Trung Hoa chia thành lưỡng triều Bắc và Nam, phải đến đời Hiếu Vũ Đế đánh bại Nam Việt Vũ của nước Nam Việt thống nhất Trung Hoa. Lịch sử mới coi đó là cái mốc chính thức thành lập “Đế quốc Hiếu”, nên Lý Triệt có đế hiệu là Hiếu Vũ Đế, như Hạ Vũ tổ nhà Hạ, Thành Thang Vũ Vương người kiến lập triều Thương, Chu Vũ đế người khởi đầu triều đại Chu, riêng triều Hiếu đã trải 6 đời vua nhưng phải đến Lý Triệt một quân vương hiển hách, thu giang sơn về 1 mối mới được gọi là “Hiếu Vũ”. Chi tiết lịch sử về đoàn đi sứ về phương Tây của Trương Khiên muốn tìm đến nước Thiên Trúc, khi đi đến Côn Minh bị chặn lại, họ phải đi vòng đến nước Điền Việt ở Vân Nam, được vua Điền Việt hết sức giúp đỡ … cho ta thấy đầu đời Hiếu Vũ Đế nhà Hiếu không làm chủ phía nam (hướng hiện nay) Trung Hoa vì đây là vùng ảnh hưởng của nước Nam Việt. Nhà Hiếu từ Hiếu Cao Tổ Lý Bôn đến vua cuối là Nhũ Tử Anh tổng cộng là 13 đời vua, trị vì Trung Hoa từ năm 206 trước CN đến năm 8 sau CN là dấu ấn quan trọng trong lịch sử Trung Hoa, các sử gia Hán tộc đã dùng thủ thuật chữ nghĩa biến Hưng Đế thành Hãn Đế (tức vua Hung Nô); chỉ một động tác nhỏ mà thành công hoàn toàn trong việc thoán đoạt độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Hưng Đế biến thành Hãn Đế, dân tộc họ Hùng hàng chục ngàn năm lịch sử bổng biến thành dân Hãn của Khả Hãn kéo theo hàng loạt từ “biến chất”: (xin đọc bài cây cầu Hoa Hán ở phần trước) Hãn Quốc: nước của Khả Hãn biến thành Hán Quốc. Hãn tộc biến ra Hán tộc. Người họ Hùng còn gọi là người Hoa bổng chốc trở thành người Hán tức Hãn tộc. Sự kiện hy hữu này tới 2.000 năm sau mới nhìn ra; người Trung Hoa ngày nay vẫn vui vẻ nhận mình là người Hán tức con dân Đại Hãn , rất hãnh diện nên cứ mở miệng là Xưng ...nam tử hán...; Dân Họ Hùng là tộc người duy nhất trên trái đất này bị tráo mất tổ tiên, lịch sử và nền văn minh khi triều đại “Hiếu” của Trung Hoa bị biến thành nhà “Tây Hán” hay Tây Hãn Quốc tức nhà nước của dân Mongoloit. Bản thân vương hiệu: Hưng Đức Lang tức Hưng Đế bị bẻ quặt thành Hán Đế từ đó đẻ ra nhà Tây Hán. Thực ra lịch sử Trung Hoa triều Canh Thủy Đế Lưu Huyền là ông tổ của nước Hán hay hãn Quốc là triều Tây Hán mới đúng. Sử Việt đã sai rất lớn khi chép Lý Bôn cũng là Lý Bí rồi dồn các sự kiện lịch sử ở 2 triều thành một khiến hậu thế rối bời mãi đến nay vẫn chưa nhìn ra lịch sử thật của dân tộc mình .
  5. Các cuộc khởi nghĩa chống Tần *** a. Khởi nghĩa làng Đại Trạch – Dạ Trạch Vương Tần Thủy Hoàng huy động dân chúng vào những công trình to lớn vào bậc nhất thế giới lúc bấy giờ như xây Vạn Lý Trường Thành, xây cung A Phòng, và xây lăng mộ cho chính Tần Thủy Hoàng. Chiến quốc kéo dài mấy trăm năm đáng lẽ khi thống nhất thiên hạ họ Triệu phải khoan sức cho dân để quốc lực hồi phục, ngược lại nhà Tần lại vắt kiệt những gì còn lại, khiến nhân dân không còn sức chịu đựng được nữa và họ vùng lên chống lại “sài lang”. Đầu tiên là cuộc khởi nghĩa của Trần Thắng, ông quê ở Dương Thành tức Quảng Châu thuộc Quảng Đông ngày nay. Ông đã cùng Ngô Quảng khởi nghĩa ở làng Đại Trạch thuộc huyện Túc Tỉnh tỉnh An Huy ngày nay, khởi nghĩa nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng và Trần Thắng xưng vương lấy quốc hiệu là Trương Sở có nghĩa là nước Sở mở rộng, chữ Sở chính là biến âm của thủy chỉ phương Nam. Sử Việt Nam chép ông là Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục (quan phục). Dạ Trạch và Đại Trạch là biến âm của nhau, triệu là biến âm của chữ ‘chậu’ tiếng Thái Lào (đã đề cập ở phần trước đây). Triệu Quang Phục nghĩa là ‘Chúa phục hưng phương Nam’ cận nghĩa của vương hiệu ‘Trương Sở Vương’. Vùng đất trung tâm của đế quốc Tần là Quan Trung nghĩa là vùng trung tâm phía nam, thủ đô Tần là thành Hàm Dương nghĩa là thành phía đông của đất Hàm, ,còn Hàm Đan là thành phía nam đất Ham. Chữ Hàm có nghĩa là ‘mặn’ trong ngũ vị, hàm – mặn chỉ phương nước tức phương nam theo Dịch Lý. Trần Thắng không phải là tên riêng mà là hiệu đặt theo nghĩa: ‘Trần’ là chữ ‘đông’ và chữ ‘A’ chỉ phương đông, thắng là thắng lợi; nghĩa là phương đông tất thắng lợi, vì nước tần vào thời điểm này được coi là phương tây. Lần lượt Ngô Quảng và sau đó Trần Thắng lần lượt hy sinh – cuộc khởi nghĩa chống ‘sài lang’ thất bại. b. Cuộc khởi nghĩa của Hạng Lương – Hạng Vũ Hạng Lương là con cháu của Hạng Yến đại tướng nước Sở, Hạng Yến đã tự sát khi Tần đánh bại Sở. Khi hay tin Trần Thắng khởi nghĩa Hạng Lương cùng cháu là Hạng Tịch khởi nghĩa ở quận Cối Kê, nơi thờ vua Hạ Vũ tức Tản Viên Sơn Thánh Quốc Chúa Đại Vương. Chính sử Trung Hoa chỉ định Cối Kê ở Giang Tô Trung Quốc hiện nay, nhưng trong mạch sử chúng ta đang nhiên cứu thì Cối Kê phải ở Phúc Kiến – Chiết Giang là đất Việt của Việt Vương câu Tiển xưa; sử ký Tư Mã Thiên viết: con thứ hai của vua Thành Khang được phong ở đất Cối Kê, ông và những người dân theo mình đã “cắt tóc ngắn, xâm mình khai phá đất”, và đất Cối Kê là nơi được dành riêng để thờ vua Đại Vũ, tổ nhà Hạ. Từ ‘Cối Kê’ không có nghĩa gì trong Trung Hoa ngữ nhưng trong Việt ngữ thì ý nghĩa lịch sử hiện ra rõ ràng: ‘cối’ biến âm của ‘cái’ có nghĩa là cả là đứng đầu. Cơ chính là cô từ mà người thủ lãnh, quân vương tự xưng mình. “Cối Kê” chính xác là ‘cái cô” tức vua cả hay vương đứng đầu đồng nghĩa với ‘tiên hoàng’ hay ‘thủy hoàng’. Dân tộc học xác định … cắt tóc ngắn và xâm mình là tập tính của người Việt chính gốc, dân Đài Loan ngày nay vẫn còn ăn trầu y như người Việt; trong lịch sử Việt vẫn mơ màng nói tới … có sự liên quan nào đó giữa người Việt và con dân của Việt Vương Câu Tiễn …, ở thiên khảo luận này ta thấy là sự liên quan rõ ràng chứ không phải mơ màng nữa. Đất Đào 2, nước Thao tức Hồng Bàng 2 tức nhà Hạ là cái gốc của nước Việt thời Chiến quốc: con dân Hồng bang từ đất Đào tức là Việt Nam với Quảng Đông ngày nay mở nước theo 2 hướng: hướng nam (Dịch Lý) tiến về bờ Trường Giang làm nên Việt Thường Thị; hướng thứ 2 do con cháu Thành Khang tiến về hướng đông lập nên nước Việt, như thế rõ ràng nhiều cành 1 gốc. Không hiểu thực hư ra sao, hay tại sao lại có việc đó nhưng sử sách Trung Hoa còn ghi rõ vào đời Trịnh Thành Công, anh hùng kháng Thanh của dân Trung Hoa thì ấn truyền quốc của nhà Tây Chu là bảo vật vô gía còn cất giữ tại Đài Loan. Hạng Lương và Hạng Tịch nhanh chóng lập được đạo quân khoảng 8.000 người gọi là “Tử Đệ binh”, tiến binh theo hướng tây chiếm được Dương Châu rất có thể Dương Châu là tên cũ của Quảng Châu ngày nay hay Dương Thành xưa; Dương Thành là 1 trong những thành phố cổ xưa bậc nhất của Trung Hoa, nó đã được lập nên trước Công Nguyên, nên ít nhất cũng hơn 2.000 năm tuổi (người Trung hoa tính ra như thế , còn trong thiên khảo luận này Dương thành đã có khoảng 4000 năm) Trung Quốc công nhận thời gian lịch sử của nó nhưng lại gán cho nó 1 nghĩa “quái gỡ”, Dương Thành là thành phố dê (con dê). Dương Thành thật ra mang nghĩa ‘thành phố ở phương đông’ mà các sử gia Trung Hoa cũng không rõ … hay là cố tình gán ghép như thế để tránh tìm ra phần “tương đối của nó theo luật âm dương lưỡng lập của Dịch Lý” Đã có thành phố phía đông thì phải có thành phố phí tây là hạo kinh, thành phố phương nóng là la thành, thành phố ở giữa là ung hay ương thành... Hạng Lương nghe theo mưu thần Phạm Tăng lập cháu Sở Hoài Vương lên làm vương quân Sở, sau Hạng Lương tử trận từ đấy quyền hành và công trạng thực sự thuộc về Lỗ Công Hạng Tịch và Bái Công Lý Bôn (Lưu Bang) c. Cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn (Lưu Bang) Lý Bôn người Phong Châu (đất Phong) khởi binh ở núi Muang Đãng, ban đầu lực lượng chỉ có khoảng vài trăm người. Ở Huyện Bái có 2 viên chức là Tiêu Hà và Tào Tham biết ông là người nghĩa khí nên ngầm cấu kết với ông. Khi Trần Thắng nổi lên và chiếm được Huyện Trần thì Tào Tham và dân đất Bái giết quan huyện và đến núi Muang Đãng mời Lý Bôn về đứng đầu Huyện Bái từ đó gọi ông là Bái Công. Ở những trang trước ta đã xác định đất Phong hay Phong Châu chính là miền tây bắc Việt Nam ngày nay; núi Muang Đãng nơi Lưu bang khởi nghĩa chắc chắn là miền đất của 2 sắc tộc Thái – Mường ,Mường → Muang, sự ký âm này hoàn toàn giống với ký âm tiếng Anh hiện nay. Lý Bôn người đất Phong rất có thể ông tổ triều Hiếu ( tây hán) là người ‘tiền’ Mường , Địa danh có chữ Muang rất nhiều ở Việt Nam, Lào, Thái và Bắc Miến Điện, hy vọng các nhà nghiên cứu sau này xác định được núi Muang Đãng trên bản đồ. Đất Phong là miền tây bắc Việt Nam còn đất Bái là phần lớn miền bắc Việt Nam hiện nay. Điều này được Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh, thế kỷ 14 xác nhận trong 1 câu thơ của ông khi đi sứ Trung Quốc. “Lũng Lại tranh nghênh sứ Bái qua” Sứ Bái là Phạm Sư Mạnh và nước Bái chính là huyện Bái nơi khởi nghĩa của dân chúng và Lưu Bang năm xưa nay là lưu vực sông hồng nà núi rừng Việt bắc. Bái Công và Trương Lương gặp nhau ở Lưu Thành, hai người quyết định đi theo Hạng Lương ‘Lưu Thành’ là viết sai ‘La Thành’ tức Hà Nội hiện nay. Cùng vào thời này sử Trung Hoa cho biết quí tộc các chư hầu nhà Chu cũng nổi lên lập lại “quốc” của mình, cũng Tống, Tề, Yên V.v… nhưng theo hãn sử những nước này lại ở lưu vực Hoàng Hà thế là các nước của người Trung Hoa bỗng chốc biến thành các của người Liêu (Lu), thực không hiểu nỗi, rối rắm cả ngàn năm sau vẫn còn rối rắm. Bái Công vào kinh đô của Tần và ở đây ông tỏ rõ là người nhân đức, dân Tần rất kính phục … nhưng đến khi Hạng Tịch kéo quân vào thì mọi việc đảo ngược, đốt và giết, kinh đô của Tần cháy đến 3 tháng lửa vẫn chưa tắt hẳn. Cũng từ đấy phát sinh mâu thuẫn giữa Lỗ Công và Bái Công đưa đến cuộc Hán Sở tranh hùng về sau. SỬ Việt Nam lầm lẫn lớn khi chép Lý Bôn còn có tên là Lý Bí , thực ra đây là 2 vua của 2 triều đại cách nhau hàng trăm năm, Lý bôn chính là Lưu Bang trong Hoa sử còn Lý Bí là Lưu Bị của nước Thục thời tam quốc . d. Hưng Suy tranh hùng (Hán – Sở) Cặp từ Hán – Sở nếu vận dụng các qui tắc Dịch Lý ta có thể tìm ra gốc nghĩa: Hán – Sở = Hên – Xui = Hơn – Thua = Hưng – Suy. Từng cặp là các mã tin đối lập và sự biến âm cho ta biết chúng chỉ là 1 nhưng khác nhau do âm phát ra mà thôi. Điều này chỉ cho ta: không có ai là Hán Vương và Sở Vương, đây chỉ là tên do sử gia đặt để chép về thời đại ấy, có thể khẳng định thời này chưa có tên riêng, các sử gia phải đặt tên cho đất, cho người thường là dựa vào 4 phương, tám hướng và các mã tin Dịch Lý mà tạo ra 1 danh xưng dùng phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, cũng chính vì việc này mà đời sau khó có thể nhận định chính xác về lịch sử vì có quá nhiều điều trùng nhau, cùng là tên đất phương nam nhưng mỗi thời kỳ lịch sử lại chỉ 1 nơi khác nếu không cẩn thận, xem xét thấu đáo sẽ sa vào trận đồ bát quái không lối ra. Việc định danh do đời sau đặt nên dĩ nhiên: Lý Bôn hay Bái Công là Hán Vương hay Hên, Hơn, Hưng Vương vì ông ta là người thắng trận; ngược lại Lỗ Công là người chiến bại nên có tên với ý nghĩa là Sở Vương, hay Xui, Thua, Suy Vương. Sử Trung Hoa không nói tới nhưng chắc chắn Lỗ Công đã lên ngôi vua, nên sau Hạng Tịch mới có thêm danh hiệu mới là Hạng Vũ. Hành động thực tế của ông cũng chỉ rõ như thế: ông ta tự ý, tự quyền phân đất, phong vương cho những người có công trong việc lật đổ vương triều Tần. Các sử gia cho ông ta là lạm quyền, tự phong không chính thống nên chỉ gọi ông là ‘Tây Sở Bá Vương’ nghĩa là trùm miền đông Sở, chữ ‘Tây’ là ký âm sai của chữ Từ , chữ ‘từ’ dịch chữ Thương của Việt ngữ, 1 mã tin Dịch Lý chỉ phương đông. Vì sẵn hiềm khích Hạng Vũ phong cho Lý Bôn, Bái Công miền đất xa xôi hiểm trở nhất là Xuyên Thục và đất Hãm tức là Nam Thiểm tây bắc Hồ Bắc hiện nay. Ở đấy dân chủ yếu là người Khang, Tạng và người Man gọi vua là Hãn, viết sai thành chữ Hán. Bái Công – Hưng Vương (Hán Vương) phong Tiêu Hà là tể tướng, Hàn Tín làm đại tướng từ tháng 8 năm 206 trước CN bắt đầu cuộc chinh phục lập đế của mình, cuộc chinh phục kết thúc khi Lỗ Công Từ Sở Bá Vương tự sát ở Ô Giang năm 202 trước CN. Lịch sử Trung Hoa chép triều đại của Lý Bôn khởi đầu từ năm 206 trước CN tức năm ông xưng là Hưng Vương ở đất Nam Trịnh và cũng Chính vì điểm này ông có tên là Hùng Trịnh Vương trong Hùng Vương Thập Bát Chi Thế Truyền. Cuộc Hán –Sở tranh hùng được sử Việt thể hiện thành cuộc chiến giữa Lý phật tử tức Lý Bôn và Triệu Việt vương , cuộc chiến kết thúc với việc tự sát của Triệu Việt vương ở Ô giang.
  6. 15 . Hùng Triều thứ 15 : Hùng Định Vua khai sáng : – Chân Lang . Danh hiệu khác trong sử Việt : Đinh tiên Hoàng Danh hiệu khác trong sử Hoa : Tần Thủy Hoàng Quốc hiệu :Đại cồ Việt . Niên đại : năm 221 – 206 trước CN Chứng tích : hiện vật khảo cổ nền văn hóa Đông sơn muộn. Các nhà sử học Trung Hoa cố tình chọn năm 221 trước Công nguyên là năm Triệu Chính lên ngôi hoàng đế, với 1 lãnh thổ là đất đai nhà Chu và 8 chư hầu xưa: Tần – Triệu – Ngụy – Hàn - Sở – Tống – Yên – Tề ;không hiểu sao lại gọi là Tần diệt lục quốc, ta thấy khối Đại Tần vắng bóng 3 nước lớn: Lỗ, Ngô, Việt. Thời Tần Thủy Hoàng, từ ‘đế’ bắt đầu xuất hiện trở lại trong sử sách Trung Hoa, rất có thể đây là sự khởi đầu của ‘đế quốc’ chứ không phải là ‘quốc’ như trước nữa. Nếu gọi là nhà Tần thì phải khởi đầu từ năm 316 trước CN khi Chiêu Tương Vương chiếm đất Thục của nhà Chu. Nhà Tần xưng vương thực sự từ năm này trải qua 2 đời vương nữa mới tới Triệu Chính tức Thần Thủy Hoàng, và năm 256 trước CN, họ Triệu đã diệt quốc Văn Lang tức nhà Đông Chu như thế họ Triệu đã nắm 9 cái đỉnh tượng trưng cho vương quyền Trung Hoa với khí thế này thì các chư hầu khác sụp đổ nhanh chóng là tất yếu. Các sử gia Trung Hoa không biết vì lý do gì nhấn mạnh chữ ‘thủy’ là đầu tiên, tiếp theo là nhị thế, tam thế cho đến vạn thế mà làm lơ chữ Thủy cũng nghĩa là Nước ; thực ra các vì vương Trung Hoa từ đời Thương đã dùng các co số của Thập Can làm vương hiệu rồi, không đợi đến Tần Thủy Hoàng. Sở dĩ họ cố tình như thế để tránh có người hiểu chữ thủy là nước mã tin Dịch Lý chỉ phương Nam hay Huyền phương. Vì khi nhận ra thủy là phương nước thì hỏa theo Dịch Lý bắt buộc phải ở hướng xích đạo như thế … Nhà Hạ hỏa, Thương xanh phương Đông và Chu màu trắng không thể ở Bắc Hoàng Hà được (Xin xem bản đồ Trung Hoa). Chữ thủy này đích thị là mã tin Dịch Lý chỉ phương nước, Huyền phương, huyền thiên vì đi kèm chữ thủy còn có các mã tin khác như: nhà Tần chọn màu đen là màu chủ đạo, số 6 là chủ đạo, ta nhớ trong Hà Thư số 1 – 6 chỉ phương nước đối lập với số 2 – 7 chỉ phương lửa hay hỏa, họp hội thì bắt đầu vào tháng 10 tức tháng bắt đầu mùa Đông cũng là mã tin Dịch Lý ngược với mùa hè là mùa đỏ lửa. Tóm lại chữ thủy trong đế hiệu Tần Thủy Hoàng còn ý nghĩa là nước, phương Nam (Dịch Lý) chứ không phải chỉ có nghĩa là khởi đầu hay đầu tiên. Dựa vào ngữ nghĩa tiếng Việt và mã tin Dịch Lý ta còn biết nhiều điều nữa để đính chính lịch sử. chữ Tần của từ Hán Việt, thổ âm Quảng Đông đọc là ‘Chưn’ cái chân (cùng với tay gọi là tứ chi); gọi đất Tần là ‘Chưn’ trong chỉnh thể Chân và Đầu, đầu = Đào , đất Đào nước Thao tức vương triều Hạ, cũng chính vì lẽ ấy mà đất Việt nam ngày nay xưa còn gọi là đất Sừng biến âm ra Sùng nghĩa là cao . Trong cái thế đối lập: lửa – nước, đầu – chân cũng còn là Quẻ Ly – Quẻ Khảm. Theo Dịch Lý thì tính của Khảm là Hiểm, Hãm và … ký âm sai thành ra đất Hàm với nhiều địa danh như thủ đô Hàm Đan của Triệu, kinh đô Hàm Dương của Tần, cửa Hàm Cốc, V.v… Chân và Hàm như thế chỉ rõ ở phần trên đều có nghĩa là phương Nam, phương nước của Dịch Lý (ngược với phương hướng hiện nay). Tới câu thơ của Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh “Quốc Tây Cự Chấn Tráng Chân Đăng” thì ta xác định được lãnh thổ Tần quốc là tỉnh Tứ Xuyên ngày nay. Chăn Đăng → Chân Đanh, Chân Định cùng 1 nghĩa với Tứ Xuyên, Xuyên Thục chỉ có nghĩa là hướng Tây Nam theo Dịch Lý (hướng Tây Bắc hiện nay). Cũng chính vì ý nghĩa này mà Hùng triều Thế Phổ gọi là triều Hùng Định Vương, Chân Lang có đủ cả Chân và Định. Điều Cần nhấn mạnh ở đây : Dựa vào Ngũ hành ,ngũ sắc và cửu thiên ta khẳng định : khi nhà Tần là hành thuỷ , màu đen , huyền thiên ở Tứ xuyên – Thiểm tây thì đất nhà Hạ Thương Chu không thể nào ở phía bắc( nay) sông Hoàng hà được. Thời Chiến quốc Trung Hoa ta có Tần Thủy Hoàng, thời 12 sứ Việt Nam ta có Đinh Tiên Hoàng. Tiếng Việt ‘Đinh’ cũng là ‘Đanh’ trong Chân Đanh hay Chân Định, tức nước của Tần Thủy Hoàng, 2 dòng sử cho ta 2 đế hiệu của cùng 1 hoàng đế. Sự tàn ác được 2 dòng sử mô tả rất giống nhau. Dân Việt gọi vì vua tàn ác này là sài lang hay lang sói, sau thành câu ‘lòng lang dạ sói’ sở dĩ có câu này vì dân gian nhà Tần thờ con có ‘đại bản’ làm vật tổ; chữ cửu là số 9 chỉ phương Tây theo Hà Thư biến thành chữ ‘cẩu’ là con chó, dân nhà Tần ban đầu là Tạng tộc tức người của cao nguyên Khang – Tạng tràn xuống Tứ Xuyên được sử mô tả là còn ở trình độ văn minh rất thấp so với người Trung Hoa, thậm chí họ chưa biết làm ruộng, trồng lúa. Nhà tần đã phải nhờ nước Tấn sau là Triệu cho dân sang định cư để nâng cao mặt bằng văn hóa, văn minh, chỉ dẫn cho người gốc Tạng cách làm ăn, Xuất phát từ sự bạo ngược của Tần thuỷ hoàng Việt ngữ hình thành các từ kép: Tàn ác, tàn bạo, tàn nhẫn... Ở đây ta dành vài dòng cho vấn đề chủng tộc, phần trên ta đã nói đến tộc Miêu, là con cháu của đế sông Hắc, hay Xuyên Húc, truyền thuyết gọi là Vũ Tiên tổ của Tiên tộc hay Miêu tộc. Họ Miêu hay Tam Miêu theo Bàn canh vượt Trường Giang thành dân Ân Thương ngày nay, hậu duệ là người H’Mông – Dao cũng gọi là người Mèo, Mun. H’Mông hay Tam Miêu là dân chủ lực của nước Tấn, sang Tần hòa huyết do cộng sinh lâu đời với Tạng tộc tạo thành dòng Quì Việt hay Quí Việt. Quí là 1 can của Thập Can chỉ phương Tây, bản thân từ kép: Chân Định mô tả rất chính xác sự hòa huyết này. Chân = H’Mông = phương nước Định = Đanh = phương Tây chỉ Tạng tộc. Trong khối người Đông nam Á thì Hmông là tộc duy nhất bị nhiễm các tập tục của người phương bắc (nay ) có lẽ do tiếp súc lâu ngày nên đã xảy ra sự đan xen các tập tính của nhau . Chân Định tức Tứ Xuyên trở thành vùng đất rất quan trọng trong lịch sử và văn hóa Trung Hoa, vì đó là vùng đất chính, nơi định đô của 2 triều Tần và Hiếu (Tây Hán) là triều đại đặt nền cho văn hóa Trung Hoa về sau. Truyền thuyết Việt còn ghi: Họ Triệu truy bức vua cuối cùng của dòng An Dương Vương tới tận Nghệ An nên ở đây mới có Đền Cuông thờ An Dương Vương, lập ở núi Mộ Dạ. Giai đoạn lịch sử: nhà Tần diệt triều Đông Chu được truyện cổ tích lịch sử Việt Nam phản ảnh trong ‘truyện nỏ thần’. Nhân vật Triệu Đà chính là Chiêu Tương Vương Đinh tắc hay Triệu Tắc và Trọng Thủy là con trai thứ 2 của ông (thái, trọng, quí,); chữ ‘thủy’ xác định dòng giống phương thủy tức phương nam (Dịch Lý.) của Trọng Thủy Thủy đã gạt Mỵ Châu để bia miệng ngàn đời gọi là “sở khanh” (sở biến âm của ‘sủy’ là nước) còn Mỵ Châu là ai? Mỵ là con gái vua Hùng đồng nghĩa với nương (con trai là quân, lang); châu = Chu, nghĩa rất rõ Mỵ Châu là con gái vua Chu không cần phải suy đoán gì nữa cả. Sử Trung Hoa cho biết sau khi chiếm đất Lục Lương (Lạc Long) nhà Tần đặt các quận: Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận … như ở phần trước chúng ta biết đoạn sử này không chính xác vì miền Bắc hộ tức đất trung Việt Nam ngày nay đã thuộc về nhà Tần trước khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi; chắc chắn đoạn này đã bị sửa đổi vì một ý đồ nào đó.; các sách lịch sử Tàu cũng không giống nhau , có sách chép Tần chiếm đất Luđc lương ..., sách khác chép Tần chiếm Lĩnh nam ..., quyển khác lại chép Tần chiếm đất Lục dương lập thành 3 quận ...; ‘Lục dương’ chỉ là biến âm của ‘Lạc dương’ đất trung tâm nhà Đông Chu theo chính sử .(Người Tàu chỉ định Lạc dương nằm bên bờ Hoàng hà ..?) đây là chỉ dẫn rõ ràng nhất về lãnh thổ Đông Chu. Tổng hợp sử Việt Nam và Trung Hoa giai đoạn này ta có thể hiệu chỉnh đoạn sử trên thành: “Họ Triệu chiếm đất Âu Lạc của Văn Vương chia thành 3 quận: Quế lâm – Tượng Quận – Tam Xuyên” a. Quế Lâm là đất Quí Châu, Quí → Quế; Lâm là ký âm sai của lam → nam, chỉ phía Nam của Giao Chỉ tức vùng )Đông-Bắc Quảng tây nơi có Lâm Giang chảy qua (Lâm Giang là sông Tứ, sông Chu ngày nay) b. Tượng Quận là quận phía tây. Tượng = Tịnh = con voi là mã tin Kinh Dịch chỉ phương tây, phương Tịnh, Tĩnh, Định. Quận Tượng chính là nước “Mật Tu” của Cơ Xương là Vân Nam ngày nay. c. Tam Xuyên – Sử ký Tư Mã Thiên chép: Tần chiếm đất của 2 nhà Chu lập quận Tam Xuyên, thủ phủ là Ung khâu . Viết 2 nhà Chu là sai đất Tây Chu đã lập Tượng Quận và phần Quế trong Quế Lâm; như vậy đất Đông Chu mới chính là quận Tam Xuyên, Ung khâu hay Ung Thành là thành phố Nam Ninh ngày nay; Ung Thành thời nhà Lý của Việt Nam được gọi là Ung Châu, 1 trong 3 châu bị Lý Thường Kiệt đánh chiếm trong cuộc chiến Việt-Tống. Chính do quận Tam Xuyên này mà từ đời Đường đất Việt có tên là lộ Tam Giang như ông Phạm Sư Mạnh nhắc đến: “Thiên khai địa tịch lộ Tam Giang”. vùng trung tâm Ung Thành của quận Tam Xuyên đã bị đổi thành huyện Long Xuyên nơi trấn nhậm của Úy Đà . Nhân vật Úy đà bị phù thủy biến thành Triệu Đà hay Triệu Đào nước Nam Việt . Ta đã biết : số 3-tam, con rồng , quẻ Chấn đều là những dịch tượng chỉ phương Đông chúng thường được dùng thay thế lẫn cho nhau nên : Tam xuyên= tam giang =long xuyên chỉ là một . Một dẫn chứng quan trọng : theo quan chế nhà Tần quan cầm đầu 1 quận gọi là quận úy , vì vậy khi đã gọi là Úy Đà thì Long xuyên phải là quận chứ không thể là huyện ,ví dụ như úy Nhâm ngao là quan cầm đầu quận Nam hải... Tại sao Hán sử lại phải mờ ám như vậy ? Chính Vì : Quận Tam xuyên sử ký Tư mã Thiên ghi rõ : Thủy hoàng lấy đất 2 nhà Chu lập quận Tam xuyên , quận trị là Ung khâu...; và chỉ với một quận Tam xuyên hay Long xuyên của Úy Đà này thôi đã đủ để toàn bộ lịch sử Trung hoa phải viết lại. . Tới đây ta có thể định danh những vùng trong lãnh thổ vua Chu: - Vân Nam : Cửu, Định , Tượng (cả 3 đều có nghĩa chỉ phía tây) - Quí Châu : Thục, Quế, Chân. - Quảng tây : Lâm, Nam ,Nam giao sau này mở rộng thành lĩnh nam. - Quảng Đông : Đào 2, Thao (nằm ngoài đất nhà Chu, nhưng trong Giao Châu) - Bắc Việt Nam : đất Đường hay Việt thường , Lạc ấp - Trung Việt Nam : đất Đào 1 , Mân ấp , An ấp, An, Yên. Tần Thủy Hoàng tung 50 vạn quân không phải chiếm đất Lạc Long (Lục Lương) mà là chiếm miền đông nam Trung Hoa hiện nay tức lãnh thổ Ngô và Việt xưa, ở đấy nhà tần lập Ngô Quận, Mân Quận. Tại sao các sử gia Trung Hoa lại phải bẻ quẹo đoạn sử này? Đọc sử ký của Tư Mã Thiên nếu ta có nhận định sâu sắc và xem xét sự kiện một cách lô-gích , cẩn thận sẽ có nhiều điều khiến ta phải suy nghĩ : Tần Thủy Hoàng cho làm 1 con đường bạt ngàn xẻ núi từ đất Cửu Nguyên tới Vân Dương, ở Vân Dương cho đắp đá ở đất Cử làm cửa biển phía đông nhà Tần. Tần Thủy Hoàng còn nói …. giữa 2 kinh đô nhà Chu, Tây và Đông là đất đế vương sẽ là kinh đô nhà Tần, và cho dời 40 ngàn hộ đến Vân Dương, 30 ngàn hộ đến Ly Ấp. Đấy chính là tổ tiên của người Đông Thoán Ô Man và Tây Thoán Bạch Man ngày nay , Người Trung hoa gọi họ là Thoán hay Thóan đoạt có nghĩa là kẻ chiếm đóng không phải dân địa phương, mà thực họ là một nhóm thuộc ngữ hệ Tạng –Miến bỗng dưng không biết tại sao lại lọt vào giữa vùng người thuộc ngữ hệ Nam thái. - Cửu Nguyên hay đất phía tây còn gọi là đất Cảo là Vân Nam ngày nay, đất Vân Dương tức phía đông của Vân Nam chính là Quảng Tây, phần đất giữa 2 kinh đô nhà Chu ý chỉ nhà Tần đã chọn nam Quảng Tây và vùng bắc Việt làm nơi xây kinh đô mới của đế quốc Tần , nơi đất Cử đắp đá làm cửa biển nhà Tần ngày nay gọi là Cửa Ông nơi bờ biển Quảng Ninh Việt Nam; Vân Dương nơi Tần Thủy Hoàng di dân đến chính là Quảng tây, Ly Ấp là Hạo Kinh cũ sau này gọi là Côn Minh … đây là 1 đoạn sử khó hiểu , ý nghĩa thực sự của nó chưa bao giờ được phân tích, xem xét cặn kẽ. Chỉ 1 việc chọn đất Cử làm cửa biển phía đông của nước Tần đã làm đau đầu nhiều lắm rồi; vì theo chính sử nhà Tần ở bên bờ sông Vị, giáp với sa mạc cực tây-bắc (nay) của Trung Hoa thì lấy biển ở đâu ra để làm cửa phía đông? Bình Nguyên Lộc trong “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”: ở Quảng Tây có 1 thành rất lớn gọi là thành nhà Tần, điều này không thấy có đoạn sử nào nói đến cả. Tóm lại chúng ta còn nhiều điều phải làm để tìm ra những gì đích thực đã từng diễn ra trong quá khứ xa xưa. Lại nữa, sử ký Tư Mã Thiên cho biết sau khi lên ngôi Tần Thủy Hoàng sai tướng Mông Điềm đem 30 vạn quân, lần đấu tiên vượt Hà chiếm vùng Hà Sáo lập thành 44 huyện. Trong chữ Hà Sáo, Hà chỉ hoàng Hà của Trung Hoa, Sáo tiếng Việt có nghĩa là nước, Sáo cũng là biến âm của ‘Siu’ thổ âm Quảng Đông của chữ Thủy, Hà sáo chỉ có nghĩa là vùng phía nam Hoàng hà.; Mâu thuẫn trong cổ sử Trung Hoa là : vùng Hà sáo nơi lần đầu tiên nhà Tần chiếm được lập nên 44 huyện lại là đất của nước Triệu, nước Yên … tức là đất của Trung Hoa từ trước; lịch sử Trung Hoa chép những việc không thể xảy ra trên nước Yên, nước Tề được: như chuyện Điền Đan người nước Tề dùng trâu lửa đánh bại quân Yên rửa nhục cho nước Tề, vì con trâu (thủy ngưu) là vật gắn liền với việc làm ruộng nước, mà ruộng nước không hề có ở phía bắc Hoàng Hà vào thời đó. Vây ta giải thích thế nào với những điều ghi chép trong sử? ...hay là Điền đan đã dùng trâu... Yak để đánh Yên...?.
  7. 14- Hùng triều thứ 14: Hùng Tạo Vua khởi đầu : – Đức Quân Lang Danh hiệu khác trong sử Việt : Đức Tân Danh hiệu khác trong sử Hoa : Chu bình vương - nhà Đông Chu Quốc hiệu :Văn lang – Âu lạc Niên đại : 770 – 221 trước CN (Bắt đầu dùng năm chính xác) Chứng tích Vật thể lưu tồn : nền văn hóa Đông sơn rực rỡ Nhà Chu khi dời đô về Lạc Ấp đã rất suy yếu, ngược lại các chư hầu mặc sức mở mang lãnh thổ kể cả thôn tính lẫn nhau, dần dần chỉ còn 5 chư hầu lớn thay nhau làm Bá, đó là các nước: Tấn, Tần, Sở, Tề, Tống, lịch sử gọi là Xuân Thu Ngũ Bá. vương quyền chỉ còn là tượng trưng, quyền hành thực sự nằm trong tay các Bá, chữ ‘Vương đạo’, ‘Bá Đạo’ xuất phát từ thời này. Từ năm 475 trước Công Nguyên, Trung Hoa bước sang thời Chiến Quốc. Các nước Lỗ, Yên, Tề, Tống, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn, Tần, Ngô, Việt … đánh lẫn nhau, thời Xuân Thu Chiến Quốc chiến loạn triền miên khoảng 500 năm, máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Ta nhận thấy việc phân chia thành các “nước” ở thời Xuân Thu Chiến Quốc không qua đi mau chóng theo sự tiêu vong của nhà Chu, mà nó còn ảnh hưởng đến tận ngày nay qua việc phân chia các tỉnh và thổ âm thổ ngữ Trung Hoa, đối với 1 dân tộc, 1 đất nước đã trưởng thành thì cấu trúc của nó là cấu trúc bền vững, theo thời gian và thời cuộc dĩ nhiên có biến đổi nhưng không thể xóa sạch dấu tích, đối với Việt Nam cũng vậy: 2 làng ở cạnh nhau lâu đến vài trăm năm nhưng vẫn có giọng nói khác nhau, cứ đời con nối đời cha, thời gian đành thua không đồng nhất nổi. Có thể nói từ thời Đông Chu cái nếp Trung Hoa đã hình thành bản sắc dân Việt – Hoa đặt trên nền tảng văn minh nhà Chu, vốn cổ Trung Hoa được “siêu nhân” Khổng Phu Tử tổng kết trong Ngũ Kinh, Thư, Thi, Dịch, Lễ, Nhạc. Chính Khổng Tử cũng đã nói rõ “thuật nhi bất tác”, riêng Kinh Lễ là tâm huyết của Khổng Tử với quốc gia xã hội, hy vọng rằng “Lễ trị” sẽ giúp quốc thái dân an, con người có nếp sống văn minh lịch lãm nhưng khổ cho ông sinh vào buổi nhiễu nhương, xã hội toàn là những “mưu bá đồ vương” và phường “giá áo túi cơm” nên Lễ Trị của ông đành ngậm ngùi theo ông xuống lòng đất, nhưng nay chắc ngài cũng cũng mĩm cười khi hậu thế tôn vinh là “vạn thế sư biểu” thật xứng danh, đối với dân Việt-Hoa thì Khổng Tử là 1 siêu vỹ nhân vì không có Khổng Tử thì chưa chắc nhân loại đã biết là có nền văn minh Trung Hoa, và Kinh Dịch siêu phẩm của trí tuệ loài người chưa chắc đã có ai hiểu nổi. Nền văn minh triều Chu còn lưu tồn dấu vết khá phong phú với nền văn hóa khảo cổ Đông Sơn. Sơ kỳ văn hóa Đông Sơn khoảng 1.000 năm trước Công Nguyên là thời Văn Lang Âu Lạc và Tây Chu. Thời rực rỡ là thời Đông Chu từ 770 đến 221 trước Công Nguyên. Hiện vật đồng thau, gốm sứ và đá còn đầy dẫy đủ để phác hoạ cảnh sống, sinh hoạt của con người lúc đó. Tỷ lệ giữa đồ trang sức – công cụ sản xuất và vũ khí cũng chỉ rõ mức tàn khốc của chiến tranh thời Xuân Thu Chiến Quốc, đến thời cuối nhà Đông Chu thì hiện vật thu được chỉ toàn là vũ khí. Sự kiện tên các xã quanh Cổ Loa thành, tương truyền xưa là bãi tập bắn, nơi tướng quân Cao Lỗ rèn quân, có tên dựa trên chữ “nỗ” nghĩa Việt là nổ khiến ta không khỏi liên tưởng tới việc thần Kinh Quy ban cho vua Hùng chiếc móng, vua sai tướng quân Cao Lỗ chế thành nỏ thần và ta mãi ray rứt với câu hỏi không lẽ thời Chu ở Lạc Ấp đã có súng “Thần công”? Chữ nỏ chính là chữ nổ, tên các xã là Uy Nổ, Cường Nổ V.v… đều phản ảnh tiếng nổ, tiếng nổ ở bãi tập bắn “nỏ thần” thì ngoài nghĩa “tiếng nổ” của súng thần công đâu còn ý nghĩa nào khác? Bản thân từ súng cũng là tiếng Việt, súng là biến âm của “sấm” cũng chỉ tiếng nổ …, nếu ta kết luận thuốc nổ và súng thần công hay 1 loại nào đó tương tự còn ở dạng sơ khai, ban đầu đã ra đời ở Việt Nam trước Công Nguyên gần ngàn năm thì có vội vã lắm không? Chữ thần công khi phân tách cũng chỉ có nghĩa là: nỏ thần. Thần: chỉ siêu nhân, vô hình vô ảnh nhưng quyền phép đầy mình. Công là biến âm từ chữ cong, âm Hán là Cung viết sai thành chữ Công. Thần Công chính là Thần Cung hay Nỏ Thần. Sử Việt ghi rõ: nỏ thần là bảo khí trấn quốc, uy lực của nó đủ cho kẻ thù không dám mon men đến gần. Điều này cho thấy sức mạnh vượt bậc của nó so với thời đại. Đối chiếu hiện vật khảo cổ và cái nhìn mới về lịch sử Việt Hoa có thể xác quyết: Trống đồng là siêu phẩm văn hóa nhà Chu, trống đồng rõ ràng được chỉ định bằng Quẻ Lôi Địa Dự trong Kinh Chu Dịch với Đại Tượng Truyện của Khổng Tử: “Sấm nổ trên đất, Tiên Vương dĩ tác nhạc, sùng đức ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo.” Ở 1 phần trước đã nói rõ ý nghĩa lời Tượng này, ở đây ta bàn về những vấn đề của lịch sử do Thần Trống đồng chỉ ra. Việt Nam có truyền thuyết Thần Trống đồng giúp Hùng Vương đánh giặc và sau đó để tưởng nhớ vua Hùng đã phong la “Đồng Cổ Sơn Thần” và đặt đền thờ ở núi Khả Lao. Các nhà nghiên cứu Việt và Hoa còn đang tranh luận về nơi phát tích trống đồng, Việt Nam hay Vân Nam hay Quảng Tây, 3 trung tâm của văn minh trống đồng. Với cái nhìn mới về lịch sử Việt Hoa thì việc này không quan trọng nữa vì Việt Nam, Vân Nam, Quảng Tây chỉ là 3 miền của nước Tây Âu Lạc hay Văn Lang mà thôi. Vân Nam, Quảng tây, Việt Nam chính là Tây – Âu – Lạc xưa. Bản thân chữ Vân Nam cũng chỉ là chữ viết sai của quốc hiệu Văn Lang mà thôi, tương tự Hải Lang biến thành Hải Nam. Ở Quảng tây có di chỉ khảo cổ học Vạn gia bá nổi tiếng vì tại đây tìm được nhiều trống đồng vào hàng xưa nhất ; phải chăng đấy chính là đất Trụ vương ban cho Tây bá hầu Cơ xương . Về di tích lịch sử dân tộc còn nhiều việc phải làm, nhiều nơi phải nghiên cứu lắm, như Hang Bua ở Nghệ An hay Đền Hùng ở Vĩnh Phú. Nơi Đền Hùng linh thiêng có 1 việc tối quan trọng mà ta có thể làm sáng tỏ: Dân gian truyền tụng nơi Đền Hùng có mộ Hùng Vương thứ 6, đây là mộ thật, sau triều Nguyễn tôn tạo thành đền thờ cho đến hôm nay. Hùng Vương thứ 6 không phải là số thứ tự, 6 là Lục, Lạc là Hùng Lạc, kết hợp với ý nghĩa câu : ‘Triệu tổ Nam bang” có thể luận ra Đó là mộ Hùng thuần vương hay Hùng Lạc vương tức là đế Thuấn của Hoa sử. Khảo cổ Việt Nam đang tìm cách lý giải: văn hoá Đông Sơn có 2 dòng chảy chính mà từ chuyên môn gọi là: loại hình Làng Cả và loại hình Thiệu Dương. Cả 2 đồng tồn tại trên đất Việt nhưng rõ ràng có nét khác biệt nhất định. Các hiện vật thu được kể cả trống đồng của loại hình làng Cả phảng phất phong cách Điền, tức phong cách du nhập từ Vân Nam. Chính sự kiện này đã đóng dấu xác nhận thời lịch sử mà Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh viết là: “Kiểu ngoại Bách Man hoàn Cổ Lũy”; thời nhà Chu đời đô từ Hạo Kinh hay Kiểu Kinh về Lạc Ấp- Cổ Loa Thành. Thần Đồng Cổ đã soi sáng cho chúng ta nhiều điều: Thứ nhất là: Hệ kỹ thuật đúc đồng từ tỉ lệ pha trộn kim loại, kỹ thuật đúc, V.v… chỉ rõ không gian thống nhất của chủ nhân đã tạo ra nó là người Đông Nam Á. Thứ hai là: các hoa văn, hình khắc trên đó vừa phản ảnh sinh hoạt lễ hội mà từ các hình ảnh sống động đó khoa học có thể tìm ra nguồn gốc dân tộc và anh em họ hàng, vừa khẳng định dấu ấn của Dịch Lý với đạo Tam Tài: chim – người – nai, nhưng trên hết là tín ngưỡng thờ trời, tượng trưng bởi hình mặt trời và các tia nắng luôn luôn ở trung tâm của mặt trống. Thứ ba; Trống đồng và công dụng của trống đồng giúp ta có thể tìm ra anh em, dòng giống một cách dễ dàng dù lớp bụi thời gian có dày tới đâu khi dùng Thần Đồng Cổ làm tiêu chuẩn người Việt vẫn có thể nhìn anh em ruột thịt. Việc đánh trống đồng trong các lễ tế trời và thờ kính tổ tiên cho chúng ta công thức: - Dân nào sử dụng trống đồng thì đó là anh em ta vì cùng thờ 1 tổ tiên. - Đất nào có trống đồng thì đất đó là lãnh thổ Họ Hùng. Từ đặc tính thể hiện quyền uy và tín ngưỡng mà trống đồng thể hiện ta phải “nhìn lại” lịch sử , trống đồng là loại hình ấn kiếm sắc phong thời cổ nên chỗ nào có trống đồng thì đấy là đất của công thần nhà Hùng . Tương lai Đông Nam Á tùy thuộc rất nhiều vào sự nhìn nhận và vị trí của “Đồng Cổ Sơn Thần” trong nền văn hóa, văn minh của mình. Truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa xuất phát từ việc Chu Công xây đô thành ở Lạc Ấp, tướng quân Cao Lỗ chính là Chu Công, vương của nước Lỗ. Thời Chiến Quốc có mấy điều phải lưu ý: Họ Triệu diệt quốc Văn Lang – Âu Lạc là Tần vương chứ không phải Triệu Đà vua Nam Việt . Nhà Tần họ Triệu, Tần Thủy Hoàng là Triệu Chính ,chúng ta sẽ luận bàn kỹ lưỡng hơn trong chương viết về nhà Tần . Theo sách ‘Tam Phần Thư” thì Trung Hoa có 3 loại Dịch Lý, đó là Liên Sơn, Quy tàng, và Chu Dịch, căn cứ theo mạch văn thì nếu Chu Dịch là Dịch Lý nhà Chu thì Liên Sơn Dịch và Quy Tàng Dịch phải là Dịch Lý của nhà Liên Sơn và nhà Quy Tàng, 2 tên này chưa nghe lịch sử nói đến, nhưng dựa trên ngữ nghĩa ta có thể xác định: Quy tàng Dịch là Dịch Lý của nhà Thương vì Việt Thường ở bờ Trường Giang nơi có loài rùa lớn sinh sống, mai của nó đã được dùng để khắc Dịch Lý hay ít nhất cũng là Hà – Lạc và Bát Quái vì thế có tên là Qui tàng Dịch. Còn Liên Sơn Dịch là Dịch Lý của nhà Hạ, bởi 2 lẽ: - Đấy là Dịch được khắc vào đá núi, có thể là triền núi hay hang động. - Đó là Dịch Lý cuả thời dân Trung Hoa do lụt lội phải sống nơi vùng cao, hình tượng là Liên Sơn tức đồi núi chập chùng, cũng là thời của Sơn Tinh hay Tản Viên Quốc Chúa, tên 1 dãy núi ở miền Bắc Việt Nam mô tả xác thực hình ảnh thời đại này đó là dãy Hoàng Liên Sơn. Ở phần trên đã nói là: diệt quốc Văn Lang là họ Triệu, họ của vua Tần chứ không phải là Triệu Đà của Nam Việt, đó là năm 256 trước Công Nguyên khi nhà tần chiếm đất và diệt nhà Đông Chu. Sự kiện này sử Việt lại chép thành: năm 257 trước Công Nguyên, Văn Lang bị Thục Phán diệt và lập nên nước Âu Lạc. Trọng thủy trong vụ án Tráo đổi nổi tiếng của lịch sử là con của Tần vương triệu Tắc chứ không phải con Triệu Đà vua Nam Việt . Ở những phần trên ta đã thấy Văn Lang và Âu Lạc là 2 tên của cùng một nước . sử Việt Nam còn lầm lẫn rất nhiều, có khi sai lạc cả đến 1.000 năm. Nhà Chu là triều đại dài nhất của Trung Hoa và dấu ấn nhà Chu Mãi mãi không hề phai lạt trong sinh hoạt đời thường cũng như tâm linh của người Việt Hoa., tên Văn Lang đã được sử Việt Nam chính thức coi là quốc hiệu thời lập quốc của mình. Nhà Chu trải qua tổng cộng: Tây Chu với 12 đời vua. Đông Chu với 25 đời vua. lãnh đạo quốc gia tới 1.000 năm và là triều đại dài nhất trong lịch sử Trung Hoa. Chỉ 2 câu thơ của thày Phạm sư Mạnh : Kiểu ngoài Bách Man hoàn Cổ lũy (loa) Quốc tây cự chấn tráng Chân Đăng . Được đặt đúng vào dòng sử nhà CHU, đối chiếu với 2 phong cách của cổ vật Đông sơn là đã đủ chứng lý để viết lại cổ sử Việt nam và Trung hoa. An Dương vương được thờ ở đền Cuông ,núi Mộ Dạ thuộc Nghệ an ngày nay,tương truyền đó là nơi An dương vương mất sau cuộc truy sát của Triệu Đà . Chữ Dạ ở đây khiến liên tưởng tới nước Dạ lang và quẻ lôi địa DỰ , Dạ lang sử Việt chép thành Dã năng . Sấm nổ trên đất là tượng quẻ Dự đích thị chỉ tiếng trống đồng phải chăng ‘dự’ chỉ là ký âm động từ ‘giã’ trong tiếng Việt ?... từ ‘cổ’ nghĩa là cái trống chỉ là ký âm của từ ‘cối’ , cách đánh trố́ng đồng giúp ta khẳng định điều này . Dạ lang hay Dã năng chỉ là từ chép sai của Dã lang đồng nghĩa với Dã Vương nghĩa là vua CHÀY-CỐI tức vua Dịch học , chày cối chính là biểu tượng vật thể của ÂM-DƯƠNG nên DÃ LANG chỉ là tên khác của AN DƯƠNG hay ÂM DƯƠNG vương . Liên kết những mắt xích này đưa đến kết luận hết sức quang trọng cho Việt sử : Dạ lang chính là đất THỤC của AN DƯƠNG VƯƠNG cũng là đất của tây bá XƯƠNG sau là VĂN VƯƠNG vua Dịch lý . Đền Cuông núi Mộ Dạ ...rất có thể là nơi an táng Chu Văn vương vua tổ của nhà CHU Trung hoa và cũng là tác gỉa của Chu Dịch . Văn vương đồng nghĩa với Văn lang sau trở thành quốc hiệu thiêng liêng của người Việt , nước Văn lang nghĩa là : nước của vua Văn . Truyền thuyết Lịch sử ghi chép vắn tắt ...Vua tuốt gươm chém chết con gaí là Mỵ Châu rồi cầm sừng văn tê 7 tấc theo thần Kim quy đi vào biển ...đây có thể là sự huyền thoại hóa việc vua nhà CHU dong thuyền ra khơi....,có nghĩa là dòng dõi nhà Chu không phải đã tuyệt mà vẫn tồn tại ở góc khuất nào đó của lịch sử mà tới nay chưa được biết đến ...? những nơi có thể đến của đoàn thuyền nhân vong quốc chỉ có thể là Phillipin , Mã lai hay Indonesia ? ta cũng đừng ngạc nhiên ngỡ ngàng nếu đâu đó trong vùng đông nam Á phát hiện được những trống đồng to hơn , đẹp hơn những trống ở Việt nam. Nước Đại Việt văn hiến ngàn năm , điều đó khỏi phải bàn nhưng có điều lạ mãi cho tới nay vẫn chưa trả lời được câu hỏi về chữ viết của người Việt cổ Tiền nhân người Việt không coi Hán tự (nói theo ngày nay) là chữ của Tàu. Tại sao người xưa lại gọi là chữ Nho. ? phải chăng ‘nho’ là biến âm của ‘nhỏ’ như ta vẫn dùng trong từ điệp ‘nho-nhỏ’ và chữ ‘nho nhỏ’ chính là kiểu chữ tiểu triện như các nhà khoa bảng đã nói . Nếu Nho là kiểu chữ tiểu triện thì Khoa đẩu chắc chắn là chữ đại triện . Khoa đẩu thực ra là ký âm hán tự của từ Việt , khoa là ký âm chữ khoác tiếng Việt đồng nghĩa với khuếc như trong khuếc đại nghĩa là làm cho lớn ra . Chữ đẩu là ký âm chữ đầu , như thế Khoa đẩu chỉ có nghĩa là loại chữ Đầu lớn mà thôi . Về hình tượng ta thấy rất rõ sự liên quan giữa Khoa đẩu hay to đầu và con nòng nọc . Trong hán tự không hề có điều này . Văn nòng nọc hay Khoa đẩu là manh mối rất quan trọng trong công việc tìm kiếm chữ Việt cổ vì cổ sử Trung hoa có nói đến tích Việt thường cống Nghiêu đế con rùa trên mai có khắc văn khoa đẩu chép từ thời đựng nước... Và Khi đập vách nhà Khổng tử thì tìm được kinh Dịch ...và nhiều kinh văn khác... tất cả chép bằng văn Khoa đẩu... Tiền nhân còn nhắn gửi cho chúng ta 1 thông điệp chỉ dẫn về văn tự xưa đó là bức tranh Đông hồ :Lão oa độc giảng ., tôi không biết chắc chữ độc ở đây nghĩa là duy nhất hay là đọc nhưng điều đó không quan trọng , điểm nhấn là ở chỗ tại sao cổ nhân lại dùng hình ảnh con cóc tượng trưng cho việc truyền đạt văn hóa , chữ nghĩa ...? Cóc đẻ ra Nòng nọc Chữ đẻ ra Văn . Lão Oa đẻ ra Khoa đẩu Oa là con cóc đồng âm với Oa là chứa trữ . Trong tiếng Việt thì : chứa – trữ và giữ chỉ là một và là đồng âm của từ ‘Chữ’, 1 vật thể hay 1 hình ảnh dùng chứa hay mang thông tin thì gọi là CHỮ. -Vật thể hay hình ảnh là phần dương của chữ. - Thông tin chứa ở trong là phần âm của chữ . Đoạn : Oa đẻ ra Khoa đẩu trong ngôn ngữ Việt có thể hiểu là : -Chữ đẻ ra văn Đầu to. Mà ‘Chữ’ là từ Thuần Việt như vậy con của nó là văn Đầu to hay Khoa đẩu phải là của người Việt . Trước đây do bó hẹp lãnh thổ Văn lang trên phần đất bắc và bắc trung Việt nên việc truy tìm chữ cổ của người Việt qúa khó khăn tới nay chưa thu được kết quả cụ thể nào , nay với Sử thuyết họ HÙNG ta có thể mở rộng địa bàn tìm kiếm bao gồm cả : Vân nam –Quý châu và Quảng tây và tây Quảng đông, như thế công việc trở nên khả dĩ ... hơn nhiều -Một hướng truy tìm rất đáng lưu ý là : Dân tộc Bạch ở cực tây tỉnh Vân nam trung quốc vẫn lưu giữ một loại văn tự tượng hình cổ tới nay vẫn chưa đọc được ., các nhà ngôn ngữ học Việt nam sao không thử tìm hiểu và dùng tiếng Việt làm chìa khóa để giải mã... biết đâu sự việc này lại trở thành 1 khám phá chấn động trong thời đại chúng ta ? vì đã khám phá ra văn tự tượng hình cổ đó chính là chữ khoa đẩu hay đầu to của người Văn lang xưa .
  8. -13 . Hùng triều thứ 13 : Hùng Ninh Vua khai sáng : – Thừa Văn Lang Danh hiệu khác trong sử Việt : Thục Phán Danh hiệu khác trong sử Hoa : Ninh vương , Chu Vũ Vương Quốc hiệu : Văn Lang- Âu Lạc Niên đại : cách nay 3.100 – 2770 Lưu tồn vật chất của thời này là những hiện vật của nền văn hoá Đông sơn rực rỡ. Ninh vương là danh tước hiệu của Vũ vương nhà Chu Trung Hoa khi chưa lên ngôi . Thừa Văn lang nghĩa là Vua kế ngôi Văn lang hay Văn vương. Hùng Vương thứ 13 được truyền thuyết Việt Nam nói đến tương đối đầy đủ, rõ ràng. Trong Danh hiệu Hùng Ninh Vương thì chữ ‘Ninh” là mã tin Dịch Lý nghĩa là chắc chắn chỉ phương tây, phương không thay đổi, Việt ngữ có từ kép ‘đinh ninh’ nghĩa là chắc chắn như thế, ninh trong từ kép ‘an ninh’ cũng là nghĩa này, vậy Hùng Ninh Vương là Tây Vương họ Hùng, ‘Ninh Vương’ đồng nghĩa với “Tây Bá” tước hiệu của Cơ Phát . Theo chính sử Trung Hoa thì Chu Vũ Vương trước khi lên ngôi thiên tử có tước hiệu là Ninh Vương, Hùng phả chỉ thêm vào chữ Hùng ...còn Thừa Văn Lang nghĩa là vua kế nghiệp Văn Vương hay Văn Lang ;cơ sự đã qúa rõ;. Cơ Xương sau khi đã chinh phục xong lưu vực Châu Giang hay sông Tứ ngày nay thì qua đời, con là Cơ Phát lên kế nghiệp, sử Việt Nam gọi ông là Thục Phán (truyền thuyết Việt đã lẫn lộn 2 ông Cơ xương và Cơ phát ). Cơ Phát lãnh đạo chư hầu chờ thời cơ chín mùi mới xuất quân phạt Trụ, “Ác Lai” nhanh chóng bị đánh bại chạy về Biệt Đô Triều Ca phóng hỏa Lộc Đài rồi nhảy vào tự thiêu, sử Trung Hoa chép: Vũ Vương tiến chiếm Biệt Đô Triều Ca, chặt đầu Trụ Vương bêu trên cây “Bạch kỳ”, đoạn sử này cho ta thông tin: Nhà Chu lấy màu trắng chỉ phương Tây làm màu chủ tương ứng với đất của “Tây Bá” trên bản đồ Trung Hoa . Trắng là sắc của phương tây theo dịch lý. Cơ Phát lên ngôi hoàng đế Trung Hoa xưng là Chu Vũ Vương, nghĩa là hoàng đế khai sáng triều đại Chu, ông tôn vinh cha là Chu Văn Vương nghĩa là vua tổ triều đại Chu. Từ đấy đất Tây Âu Lạc trở thành “Trung Hoa” của thiên hạ và Thục Phán hay Cơ Phát trở thành Thừa Văn Lang nghĩa là kế nghiệp Văn Vương, Chu Vũ Vương thiên đô về Hạo Kinh hay Cảo Kinh: Hạo là trời Tây tong Cửu Thiên; Cảo, kiểu biến âm của Cửu là số 9 chỉ phương Tây. Theo Hà Thư Cửu Kinh hay Hạo Kinh có nghĩa là thủ đô phía Tây (nằm ở) của đất nước; Hạo Kinh là ở Vân Nam ngày nay, rất có thể là thành phố Côn Minh, thủ phủ của Vân Nam . Tại sao Vũ Vương lại thiên đô về phương Tây? Vì phía Tây của Văn Lang là đất của NINH VƯƠNG, trước khi lên ngôi cũng là vùng biên cảnh tiếp giáp với cường địch là người Khang Tạng. Các nhà hoạch định chiến lược xưa của Trung Hoa có 1 quyết sách hết sức đúng; thủ đô không ở nơi an toàn trong lãnh thổ mà từ đời Tây Chu trở đi luôn ở nơi xung yếu đối mặt với cường địch – có như thế mới huy động được tối đa sức lực của cả nước vào mục đích giữ vững bờ cõi . Trung Hoa từ đời nhà Chu trở thành chế độ phong kiến; vua Chu phân phong cho quí tộc, công thần đi cai trị các vùng, xây dựng các nước “chư hầu”, đầu tiên Chu Công Đán được phong ở nước Lỗ, Chiêu Công Thích được phong ở đất Yên, Thái Khương Công được phong ở đất Tề. Những người đầu tiên được phong này chắc chắn có công trạng và địa vị rất cao và đất phong liền kề với “Trung Hoa” tức lãnh thổ nhà Chu. Chu Công Đán là vương nước Lỗ, lãnh thổ là phần lớn nước Lào và Bắc Thái Lan ngày nay; dân Đông Bắc Thái Lan vẫn nhận mình là người Lào, Lỗ biến âm thành Lão, Hán ngữ gọi là nước Lão Qua, ở liền kề đất Văn Lang. Chiêu Công Thích là vương nước Yên, nước Yên chính là An Ấp xưa, ấp là Ấp Quốc, An là biến âm từ chữ Ôn là nóng, phương Bức, hướng xích đạo; An Ấp thời Viêm Lang là đất của dân Lửa; Lạc Ấp là đất của Lộc Tục hay Lạc Tộc. Nước Yên sau là nước Chiêm Thành hay Chăm Pa, các vua nhà Trần Việt Nam gọi là An Chiêm . Khương Thái Công nghĩa là Đại Công Thần người Khương, tức tổ tiên người Khmer ngày nay ,được phong ở đất Tề là Nam Thái Lan và Cambodia ngày nay. Theo sử Trung Hoa sau khi nhà Chu phong tước kiến địa thì có tới 70 nước chư hầu. Trong đó các nước lớn: Tống ở Quảng Đông, Sở ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Tần ở Tứ Xuyên, Tấn ở Hà Nam, Ngô ở Giang Tây và Việt ở Phúc Kiến. Nhà Chu tỏ thánh đức của mình khi phong cho con vua Trụ là Vũ Canh tước hầu và tiếp tục lưu lại Ân Đô, lại sai 3 em của mình là Quản Thúc, Thái Thúc, và Hoắc Thúc giám sát Vũ Canh gọi là Tam Giám. Vũ Canh không phải là người họ Vũ tên Canh mà có nghĩa là vua phía Nam ; ý chỉ đất của Ân Hầu hay Thương Ân cũ nay ở về phía Nam Trung Hoa. Còn Quản Thúc, Thái Thúc, Hoắc Thúc nghĩa là 3 ông chú của đương kim hoàng đế triều Chu chứ không phải tên riêng. 3 ông chú này ‘giám sát’ thế nào để Vũ Canh cùng các bộ lạc Hoài Di, Từ Nhung khởi loạn; Hoài Di chỉ miền sông Hoài thuộc phía Đông Trung Hoa. Di là mã tin Dịch Lý, biến âm Việt ngữ là dời chỉ phương động; Nhung là biến âm thành Nhâm, can số 8 của Thập Can người Việt có câu “mềm như nhung” xác định Nhâm chỉ phương mềm tức phương Đông. Chữ Từ trong Từ nhung chính là nước của Tào Tháo tức Ngụy thời Tam Quốc. Sau cuộc Đông chinh thắng lợi này Chu Công xây đô thành mới ở Lạc Ấp và đem bọn quí tộc nhà Ân Thương chống đối về ở đấy để giám quản. Đô thành mới ở Lạc Ấp chính là thành Cổ Loa hay Cổ Lũy; biến âm của Cao Lỗ nghĩa là thủ lãnh nước Lỗ chỉ ở đây chỉ Chu Công ,sử Việt Nam gọi là tướng quân Cao Lỗ người đã có công giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa và chế ra nỏ thần . ----*-Thầy Phạm Sư Mạnh thế kỷ 14 viết về thành Cổ Loa: “Kiểu ngoài Bách Man hoàn Cổ Lũy. Quốc Tây cự chấn tráng Chân Đăng.” Trong 2 câu thơ này: Kiểu là Kiểu Kinh hay Hạo Kinh ở ngoài vùng đất Bách Man hay Bách Việt tức vùng Lĩnh nam và Giang nam ở Trung Hoa; ‘hoàn Cổ Lũy’ nghĩa là ‘kinh đô lại trở về thành Cổ Lũy, tức Cổ Loa trên đất Việt, do trước đây Văn vương lập quốc đã đặt quốc đô ở Phong Châu trên đất Việt. Chu Vũ Vương dời sang Hạo Kinh ở đất Kiểu hay Cảo tức Vân Nam ngày nay , tới thời nhà Đông Chu lại thiên đô về đất Phong cũ nên mới có chữ ‘hoàn’. Quốc Tây chỉ triều Tây Chu ở phía Tây hay cũng có nghĩa là nước Thục.. ‘Cự chấn tráng Chân Đăng’ nghĩa là chống lại làm rúng động nước Chân Đăng mạnh mẽ. Chân Đăng chính là tên khác của nước Tần, lần đầu tiên thấy ghi trong lịch sử ; Chân chỉ phương Nam. Đăng chính là Đanh, Đinh, theo Dịch Lý là phương Tây vậy Chân Đăng là phương Tây Nam đồng nghĩa với Tứ Xuyên hay Xuyên Thục như đã biết ở phần trên; Đăng hay Đinh cũng là họ của dòng Tần vương như thế ta xác định được Tần Thủy Hoàng của sử Trung Hoa chính là Đinh Tiên Hoàng của sử Việt Nam . Sách ‘Phong thần Diễn nghĩa’ của Hứa Trọng Lâm cũng viết Tổ của nhà Tần họ Đinh . Khi Chu Bình Vương dời đô sang phía Đông thì đất cũ của nhà Tây Chu chia thành 2 chư hầu mới, phần Vân Nam thành nước Triệu đây là nước đã dành tế điền của nhà Đông chu thời chiến Quốc , Phần Bắc Vân Nam là Tây Quí Châu lập lại nước Thục do Thục hầu cai quản , nước Thục bị Tần diệt năm 306 trước Công Nguyên ; đọan sử này không có sách nào nói tới . Có sự trùng hợp không biết là ngẫu nhiên hay có sự đưa đẩy vô hình nào đó mà Hà Nội ngày nay là chỗ định cư của ‘ngoan dân’ xưa … trùng tên với chính mảnh đất Hà nội nơi có kinh đô triều ca của vua Trụ nhà Ân Thương sát bờ Bắc của Hoàng Hà. Tần là âm Hán Việt, tiếng Quảng Đông đọc là ‘Chin’ cận âm với ‘Chưn’, ‘Chân’ và Chân Đinh cũng là Chân Định là Tứ Xuyên ngày nay. Triều Chu là triều tạo nề nếp cho Trung Hoa, nhiều điển chế còn tác động đến tận hôm nay, đặc biệt là Tông Pháp hiện còn len lỏi vào mọi gia đình Việt Nam , tục phân biệt trưởng thứ, phân biệt nam nữ đều bắt nguồn từ Tông Pháp thời Chu; chế độ phong kiến Trung Hoa cũng xuất phát từ thời này. Năm 841 trước Công Nguyên, Chu Lệ Vương rất bạo ngược, Quốc Nhân tức người trong kinh thành không chịu nổi đã tạo loạn khiến vua phải bỏ chạy và lưu vong ở đất Trệ, Trệ là biến âm của “Trại” chỉ người Mường ở Việt Nam , “Trọ trẹ” là từ chỉ sự phát âm của người Nghệ An – Hà Tĩnh, rất có thể đất Hoà bình là kinh đô mới của Chu lệ vương nhưng sách sử cổ đã bỏ qua không nói đến . Vắng vua các đại thần phải lập ra “Cộng hòa hành chính” để thay quyền vua trị nước, chữ cộng hòa ngày nay bắt nguồn từ đấy. Từ năm 841 trước Công Nguyên, Trung Hoa bắt đầu bước vào lịch sử đầy đủ ghi chép từng năm. Thời Chu U Vương, Khuyển Nhung, 1 rợ phương Tây tấn công và chiếm nhiều đất đai của Trung Hoa, khi Chu Bình Vương lên ngôi đành bỏ Hạo Kinh dời đô sang phương Đông tức đến Lạc Ấp và bắt đầu thời Đông Chu, thủ đô là thành Cổ Loa hay Cổ Lũy. Như đã nói ở trên Cổ Loa hay Cổ Lũy chỉ là biến âm của tên vị tướng quân đã xây dựng nó, đó là Cao Lỗ hay chúa nước Lỗ tức Chu Công, sử Trung Hoa ghi rõ … Chu Công xây đô thành mới dựa trên nền thành cũ, thành cũ ở đây phải chăng là phong kinh thời Văn Vương – tức là thủ đô nước Âu Lạc. Hiện nay thành Cổ Loa ở Đông Anh, Hà Nội vẫn còn nhưng không phải là Cổ Loa thành do Chu Công xây dựng, khi Mặt Ngựa (Mã Diện) hoàn tất việc xâm lược Trung Hoa theo lệnh của Khả hãn Lưu Tú, có xây dựng ở Giao Chỉ một kinh thành gọi là “Kiển Thành”, tới nay giới sử học vẫn tranh luận về thành Cổ Loa, đó thực sự là Cổ Loa thành hay là Kiển Thành của Mã Viện? Theo sự suy đoán của bản thân người viết thì đấy là Kiển Thành do Mã diện xây nên trên nền 1 thành cổ của binh lính nhà Chu trấn đóng để canh chừng đám 'ngoan dân'. Cổ loa , Cổ Lũy , Khả lũ , Cổ Lỗ , Cao lỗ và Đại La chỉ là biến âm của một từ là tên của thành đô nhà Đông Chu và trung tâm của thành này nằm ở Phú thọ gần đền Hùng linh thiêng rất có thể là làng Cả một địa điểm khảo cổ quan trọng hiện đang nghiên cứu . ‘Làng cả’ là từ đồng nghĩa với Đô ấp hay Đô thành ngày nay ta goị là thủ đô. Kinh đô . Ở làng cả người ta đã tìm thấy nhiều hiện vật khảo cổ bằng đồng thau kể cả trống đồng mang phong cách Điền ở Vân nam ; phải chăng đấy chính là phong cách chế tạo của người KIỂU kinh tức kinh đô nhà Tây Chu đúng như câu thơ của Pham sư Mạnh : Kiểu ngoại Bách Man hoàn Cổ Lũy .
  9. 12- Hùng thứ 12: Hùng Chiêu - 1* Nước Cao-Ly hay Cao- Lê của Sùng Lãm. - Hoa văn dịch là nước Sùng , Kinh Thư gọi là nước Lê là phần tây bắc ( xưa) của Hồng bang thời nhà Hạ , cũng là đất Giữa thời lập quốc ngày nay là đất Bắc và bắc trung Việt. - 2 * Nước Đào hay nước Thao., là phần phía đông của Hồng bang thời nhà HẠ còn được gọi là đất Đông Hạ nay là Quảng đông Trung quốc. - 3 * Đất phong của Tây bá Xương thường gọi tắt là đất Bá cổ sử Việt gọi là Âu biến âm của ‘ô’ nghĩa là màu đen , ‘phương Ô’ đồng nghĩa với ‘Huyền phương’ trong cửu thiên tức phương Nam (xưa) nay là tây nam Quảng tây. - 4 * Nước Mật tu ký âm sai của Mặt tây nay là Vân nam Trung quốc. - 5 * Nước Thục còn gọi là đất Quý đất gốc tổ của nhà Chu nay là Quý châu Trung quốc. Hoa sử thường ghép nước Thục với đất Bá ông tây bá Xương thành đất Ba- Thục . - 6 * đất trung tâm của nhà Thương hay ‘trung Hoa’ thời Thương , sử Việt gọi là Việt Thường sau là đất Đường-Ngô nay là Hồ nam và Giang tây Trung quốc. - 7 * Nước Việt , đất dành riêng thờ Sơn tinh quốc chúa hay Hạ vũ nay là Phúc kiến- Chiết giang Trung quốc. - 8 * đất trung tâm của nhà Ân- Thương nay là Hà nam Trung quốc , đây là phần đất cực Nam ( xưa) của Trung –Hoa , nơi có đất Hà nội là mảnh đất duy nhất vượt Hoàng hà về phía bắc (phương hiện nay), nơi đây Trụ vương đã xây biệt đô Triều ca. - 9 * Nước Qủy phương là nước đã được nói đến trong kinh Dịch , chính xác là nước Cửu phương , phương số 9 là phương tây của Hà thư , cửu còn biến âm thành ‘cẩu’ nghĩa là con chó vì dân nhà Tần chọn chó Sói làm thần thú tượng trưng cho tộc mình , Quỷ phương còn được gọi là Xuyên Thục nghĩa là đất tây-nam (xưa) , Hoa sử thường gọi tắt là đất Thục gây ra sự lẫn lộn với Ba thục ;việc này ảnh hưởng rất lớn khi tìm hiểu về lịch sử Trung hoa , đất Qủy phươngnay là Tứ xuyên Trung quốc. ********* Vua khai sáng : – Quốc Tiên Lang Danh hiệu khác trong sử Việt : An dương vương , Thục vương tử. Danh hiệu khác trong sử Hoa : Cơ xương , Chu Văn Vương Quốc hiệu : Văn Lang – Âu Lạc Niên đại : cách đây 3.100 năm Lưu tồn vật chất là những hiện vật khảo cổ thuộc nền văn hóa Đông sơn sớm. Theo truyền thuyết dân gian Quốc tiên lang còn được gọ là : Lang Liêu , Cổ Thục. Văn lang đồng nghĩa với Văn vương ; trong thiên khảo luận này đã nhiều lần ban đến , khi ta nói nước Văn lang tức là nói nước của vua Văn , là danh xưng cổ xưa của nước Việt ngày nay. Quốc tiên lang nghĩa là vua khai quốc. Sử Trung Hoa ghi vua Trụ cực kỳ xa hoa và tàn ác, có những hành động dã man và quái gở. Chú ông ta là Tỉ Can can ngăn cũng bị “thằng cháu trời đánh” mổ bụng moi tim trong khi đó ông Cơ Xương là người có thánh đức rất được lòng dân chúng, theo 1 sử liệu Trung Hoa thì Cơ Xương bị vua Trụ bắt giam vì 1 lời sàm tấu của Sùng Hầu Hổ nghĩa là quí tộc tước hầu đất Sùng tên là Hổ; nơi Cơ Xương bị giam là ngục “Dĩu Lý”, Dĩu Lý không phải là tên riêng mà : ‘Lý’ là luật, lệ; ‘Dĩu’ là tiếng Việt biến âm: Dĩu → giữ, ta có thể hiểu là nơi giam giữ tức nhà tù tương tự ngày nay hay nói là vòng lao lý đúng ra phải là lưu lý , lưu cũng là giữ , sau nhờ sự “chạy chọt” của quí tộc nước Thục dâng rượu ngon, gái đẹp … Trụ mới thả Cơ Xương ra và phong là Tây Bá Hầu cũng gọi là vạn gia bá hay vạn hộ hầu . Được sự phò tá của Thái Công Lã Thượng và sự ủng hộ của dân chúng phía tây, Cơ xương bắt đầu gây dựng đế nghiệp. Đầu tiên ông đánh nước ‘Mật Tu’ vì chúa nước ấy tàn bạo bị dân chúng oán ghét. Mật Tu là nước nào? Mật Tu là từ Việt ký âm bằng Hán ngữ sai đi: Mật Tu = Mặt Tây. Mặt Tây của đất Bá-Thục hay 3 Thục chính là vùng Vân Nam ngày nay. Ở trên ta đã biết thời nhà Thương hay Việt Thường thì Ngũ Lãnh tức trung tâm quốc gia là Hồ nam, phía Tây Hồ Nam là đất Thục phía Đông là đất Dương ;Thục là từ Việt Thụt → Thục , thục cũng nghĩa là chín phản nghĩa với sanh nhưng thục lại là đồng âm với chín -9 là số chỉ phương tây trong Hà thư , tóm lại theo dịch lý thì sanh chỉ phương đông thục chỉ phương tây . Đất Thục chính là Quý châu ngày nay ; Quý là can số 9 trong thập can nên Qúy và Thục là từ đồng nghĩa cùng chỉ đất ở phương tây của thiên hạ . Cha của Văn vương là Vương Qúy , vương Qúy không phải tên mà là tước hiệu của thủ lãnh đất Qúy như vậy cũng đồng nghĩa với Thục vương mà theo truyền thuyết Việt thì Thục Phán – An dương vương là Thục vương tử nghĩa là con của Thục vương suy ra An dương vương cũng chính là Văn vương trong Hoa sử , An dương vương chỉ là biến âm của Âm dương vương hay vua dịch lý điều này hoàn toàn khớp đúng với việc Văn vương tác dịch . Người Việt hay dùng thành ngữ : đen như cổ thục nhưng đoan chắc rất ít người biết Cổ Thục là gì ; Cổ Thục là biến âm của Cả Thục nghĩa là thủ lãnh đất Thục rõ ràng là từ dân gỉa gọi An dương vương hay Văn vương , Kinh Thư cho thông tin : Văn vương người cao và đen cháy... Thông Qua việc tác Dịch ta nối kết được các nhân vật : Cổ Thục , Âm dương vương hay An dương vương , Văn vương và Lang Liêu của Truyền thuyết ‘bánh dầy bánh chưng’ cả bốn chỉ là danh hiệu của một người ; bánh dầy bánh chưng là biến âm của bánh giời bánh giăng hay bánh trời bánh trăng cũng là Âm dương của dịch học , trong truyền thuyết này ta còn thu được thông tin hết sức qúy gía : Lang Liêu đồng nghĩa với Liêu vương hay vua của dân Liêu tên khác của người Di Lão mà ta đã biết , Liêu-Lê-La-Lão... đều là biến âm của từ Lửa ,các tộc này hiện là dân chủ lực vùng tây nam (nay) Trung Hoa và được gọi chung là người Kađai hay tây đồ di. Trung Hoa có 2 đất Thục : - đất Bá Thục gọi sai ra ba Thục là Qúy châu ngày nay; còn Xuyên Thục nghĩa là đất Tây nam (theo Dịch Lý) nay là Tứ Xuyên , Khi phân lập dựa trên mã tin Dịch Lý thì Tứ Xuyên cũng có nghĩa là Tây Nam. Tứ là số 4 phương Tây, Xuyên là sông, chỉ sông nước phương Nam. rất nhiều tư liệu lịch sử chỉ viết có mỗi chữ Thục nên gây ra sự rối bời sau này. Đất Ba Thục là Quí Châu ngày nay, nơi sinh sống chính của người Liêu hay Di Lão còn . Các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện đường thiên di từ phía tây Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh qua tây Bắc Việt Nam lên tới Quí Châu nhưng lại nhận định ngược chiều là từ Quí Châu xuống Việt Nam . Đường thiên cư này chính là con đường của Bá Ích đi ở ẩn và cũng là con đường Cổ Công Đản Phụ dẫn dân di cư sau 5 lần dừng chân, cuối cùng mới ở hẳn Kỳ Sơn. Đất Kỳ Sơn sau là Kỳ Châu . Kỳ Châu → Ký Châu (đất của Tô Hộ cha của Đát Kỷ); Ký Châu → Quí Châu. Quí là Can chỉ số 9 trong Thập Can. Số 9 trong Hà Thư là số chỉ phương tây đồng nghĩa với Thụt – Thục. Tới đây ta có thể xác định: Quí Châu là đất Ký Châu nơi có Kỳ Sơn xưa. Quí Châu cũng là đất Thục trong sử Trung Hoa và Việt Nam, chi tiết quan trọng giúp ta khẳng định điều này la: cha của Văn Vương tên Vương Quí , nghĩa là Vương đất Quí (Châu) như đã nói ở đoạn trên, vương Qúy là cấu trúc Việt ngữ , Hán văn gọi là Quý vương. Một dẫn chứng cho việc xác định đất Bá Thục Nùng trí cao lấy đất phiá nam Đại Việt tự lập làm vua đặt tên nước là Đại Lịch sau đổi là Đại nam , theo chính sử Trung hoa : Trí cao ‘chiếm’ lấy Quảng đông-Quảng tây rồi từ đây tiến đánh Ba thục khiến cả triều đình nhà Tống rung rinh....; thử hỏi nếu Ba thục là Tứ Xuyên thì làm sao Nùng trí cao tiến đánh được ..?. vì Quảng tây ngăn cách với tứ xuyên bởi Quý châu , quân đi ngả nào mà đến đánh Tứ xuyên được .? hay thời ấy Nùng trí cao đã có lính nhảy dù...? mà việc Nùng trí cao đánh Ba thục là việc có thực điều này dẫn đến kết luận : đất Bá thục là Qúy châu ngày nay không thể nào là Tứ xuyên được . Ta cũng khẳng định được người Liêu hay Di Lão chính là nhánh Lửa của Họ Hùng con dân của Đế Nghi trước ở đất Giao –bắc tức đồng bằng Thanh nghệ tĩnh và núi rừng phía tây đã bị Hạ Khải đánh đuổi trở thành tứ di của Hoa sử . Con đường thiên di xuất phát từ phía tây Nghệ An – Hà Tĩnh chính là đường chạy trốn của Hữu Hổ Thị , họ Cơ của Cơ Xương, Cơ Phát cũng cho thấy họ là hậu duệ chính truyền của Hiên Viên, tổ họ Cơ . Hiên Viên, Hiền Vương, Hiền Đức, Hùng Vũ chỉ là 1 vị vua mà cả người Việt và Hoa tôn làm quốc tổ . Ý nghĩa của tên Cơ Xương- Cơ Phát là : Cơ, Cô nghĩa là thủ lãnh ; Xương là từ Việt (Hán ngữ là ‘Cốt’) : ‘Cơ Xương’ là thủ lãnh gây dựng nền tảng. ‘Cơ Phát’ là thủ lãnh mở mang, phát triển. Tất cả là danh hiệu do các sử gia đặt chứ không phải là tên riêng như chúng ta ngày nay. Lạc long quân tức đế Khải hợp nhất dân 2 vùng Lạc và Long lập nên triều Hùng Hoa lấy con rồng làm biểu tượng dân tộc , người Di lão hay hữu Hổ thị trước sống ở vùng sông Cả thuộc hướng xích đạo , quẻ Lửa nên lấy con hổ làm biểu tượng , cuộc đối đầu Hoa –Di trở thành cuộc Long tranh Hổ đấu , long là thần thú hổ cũng không chịu thua và người Di đã thần hóa hổ thành con Ly hay Lân , không hiểu tại sao gọi là con Lân khi tứ linh vẫn là Long-Ly-Quy-Phụng , Lân còn được gọi là Kỳ Lân không hiểu chữ Kỳ nà có liên quan gì với Kỳ sơn hay không ?, long- hổ thường được nói đến trong từ kép Thanh long- Bạch hổ , chính những từ này giúp ta xác định sư thiên di của người Di-lão ; Hổ hay Ly chỉ ra gốc tổ của họ là vùng nóng bức gần xích đạo , bạch là màu trắng sắc của phương tây , từ kép bạch- hổ đã chỉ ra đường thiên di của của người Di lão đi từ phía bắc sang phía tây , phía tây chính là đất Thục , triều Chu của lịch sử. Sử Trung Hoa ghi: 3 năm sau khi chiếm Mật Tu Cơ Xương chiếm nước Sùng, nước lớn nhất miền Tây Trung Hoa, sử không nói đến việc Cơ Xương thành lập quốc gia nhưng lại nói ông xây kinh đô ở đất Sùng và gọi đó là hay đất ‘Phong’. Việc sát nhập vùng đất của Cơ Xương và đất Sùng được truyền thuyết lịch sử Việt Nam gọi là: “Sùng Lãm kết duyên cùng Âu Cơ”. Mẹ Âu Cơ của truyền thuyết Việt Nam chính là Cơ Xương , truyền thuyết Việt Nam có sự lẫn lộn : Lạc Long Quân có trước Sùng Lãm khoảng 1.000 năm, nhưng sử Việt lại ghi đó chỉ là 2 danh hiệu của 1 nhân vật ; ghép thành Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân . Theo Truyền thuyết Hùng vương đóng đô ở Phong châu , đấy cũng chính là đất Phong nơi Chu văn vương lập quốc. Phong Châu là miền Tây Bắc Việt Nam nơi mà nhà Đường sau này đặt Phong Châu Đô Đốc Phủ để trông coi các Châu Ki Mi. Cơ xương đánh chiếm nước Sùng truyền thuyết chép là Sùng lãm kết duyên cùng bà Âu-cơ , chữ Âu là biến âm của Ô là màu đen tên gọi khác của huyền thiên , ngày nay ta gọi là phương nam, đất Ô chính là cõi Nam giao còn có tên khác là đất Lâm hay Lam là Quảng tây –trung quốc ngày nay . Cơ là dòng họ của Hoàng đế hay Hùng Vũ ,cũng là biến âm của ‘Cả’ chỉ người đứng đầu hay thủ lãnh . Âu cơ là danh hiệu của chúa đất Nam hay Lâm với danh hiệu này có thể xác định đất Trụ vương ban cho Tây bá hầu –Cơ xương nằm trong tỉnh quảng tây ngày nay. Theo kết quả nghiên cứu cuả khảo cổ học Việt Nam thì Lào Cai là 1 trung tâm cổ, như thế rất có thể thực ấp của ông Chu Công chúa nước Lỗ. Lào biến âm của từ lửa cũng như Liêu, Lỗ, cai là biến âm của Cô, hay cơ ; Lào Cai nghĩa là chúa đất Lão hay nước Lỗ . Nếu Lào cai là thực ấp của Chu Công do Chu Văn Vương phong khi lập quốc Âu Lạc, thì Chiêu Công Thích cũng có thực ấp là Yên Bái, chính xác là “Yên Bá” vì sau này khi Chu Vũ Vương lên làm thiên tử của Trung Hoa thì ông Chiêu Công Thích được phong là chúa nước Yên với tước bá trong hàng quí tộc gọi tắt là ‘Yên Bá’. ‘Chu công’ đồng nghĩa với ‘Chu lang’ của Việt ngữ , từ Lang người Tàu ký âm cố tình sai thành nam ; Chu lang biến thành Chu nam , tương tự như vậy đất Thiệu nam là thực ấp của Thiệu lang hay Thiệu công Thích , thật bất ngờ khi Chu nam và Thiệu nam hai vùng đất nổi tiếng về phong hoá được chép trong kinh THI lại là đất Lào cai và Yên bái của Việt nam ngày nay. Cơ Xương chính là Thục Vương tử người đã sát nhập đất Thục với đất Sùng lập nên quốc gia Âu Lạc để Sau này Cơ Phát là cháu Thục Vương (sử Việt gọi là Thục Phán) diệt vua Trụ chấm dứt triều Hùng Vỹ – Hoàng Hải Lang, sử Việt Nam gọi là chiếm nước của Hùng Vương . Cơ Xương lên ngôi vương nước Âu Lạc hiệu là An Dương Vương, ở phần Dịch Lý đã nói tới: An Dương vương cũng là Âm Dương vương hay vua Dịch Lý, điều này xác định Cơ Xương và Âm Dương Vương là 1 nhân vật, là Lang Liêu trong cổ tích, cũng chính là Chu Văn Vương. Và 1 điều vô cùng quan trọng đối với lịch sử Việt Nam là xác lập được : -Văn Vương cũng là Văn Lang đều có nghĩa là “vua Văn”. Người Việt Nam ai cũng biết Văn Lang là quốc hiệu thời cổ xưa của nước mình, nhưng chỉ biết sự linh thiêng, là nơi hội tụ anh hồn tổ tiên nhưng không biết Văn Lang cũng chính là Văn vương tổ nhà CHU theo sử Trung hoa, khi ta nói nước Văn Lang là có ý nói : Nước của vua Văn. - Chu Văn Vương là tổ triều đại Chu. - Chu Vũ Vương là hoàng đế sáng lập triều Chu. Văn Lang hay Văn Vương là vua nước Âu Lạc, thời Chu Vũ Vương Âu Lạc trở thành “Trung Hoa” của thiên hạ, chính vì thế mà triều Hùng Ninh vua khai sáng có danh hiệu là ‘Thừa Văn Lang’. Gọi nước Văn Lang là gọi theo tên vua khai sáng. Gọi Âu Lạc là gọi theo tên tộc người và mảnh đất đã tạo thành quốc gia , Lạc là con cháu Lộc Tục, Âu cũng là ‘ô’ là đen, mã tin chỉ vùng phương Nam đất trung tâm ( Giao Chỉ.) Văn Lang - Âu Lạc là 2 tên gọi của 1 nước . Cổ sử Việt Nam đã sai lầm khi viết là Thục Vương đánh bại Hùng vương chiếm nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc, và thủ đô quốc gia là Phong Châu . về Cương vực nước Văn lang hay Âu- Lạc truyền thuyết đã chỉ định hoàn toàn chính xác chỉ bị đổi phương hướng mà thôi ; vì chúng ta đã cột chặt mình vào đường biên quốc gia khỏang ngàn năm trở lại đây , tự giam hãm tâm trí mình không dám thóat ra để nhận một tổ quốc rộng lớn hơn dù đã có lời nhắn gửi chỉ dẫn của tiền nhân qua truyền thuyết lịch sử . Theo truyền thuyết thì nước Văn Lang : Bắc giáp Động đình hồ. Nam giáp nước Hồ tôn tức Chiêm thành xưa. Đông giáp nam hải . Tây giáp nước Thục. Động đình hồ không phải là Động đình hồ ở Trung quốc ngày nay , trong những phần trước đã luận bàn nhiều ; Động đình hồ với nghĩa là biển Đông buộc ta phải chỉnh sửa cổ thư : Nước Văn lang : phía đông giáp biển Đông. Phía tây giáp Xuyên thục tức tỉnh Tứ xuyên Trung quốc ngày nay , thục chỉ có nghĩa là hướng tây. Phía bắc giáp nước Hồ tôn sau là Chiêm thành , Hồ là biến âm của hai tức số 2, tôn là can Tân hay tưng, tênh đi cặp với nhị biến âm của nhẹ thành từ kép ‘nhẹ tênh’, nhẹ tênh là tên của cặp số 2- 7 trấn phương Bắc tức hướng xích đạo theo Hà thư. Phía nam giáp Hồ nam 1 tỉnh của Trung quốc., Hồ nam bị sửa thành Hải nam rồi Nam hải như chép trong truyền thuyết. Cụ thể ta có thể xác định lãnh thổ nước Văn lang xưa là : Quý châu-Vân nam- Quảng tây thuộc Trung quốc ngày nay. Miền Bắc và Bắc trung bộ thuộc Việt nam ngày nay. Quý châu và Vân nam là miền tây Văn lang , Qủang tây và phần đất thuộc Việt nam ngày nay hợp thành Đông Văn lang ; 2 miền đông và tây sau trở thành địa giới của 2 triều Đông Chu và Tây Chu . Lãnh thổ nhà nước Văn lang theo truyền thuyết chính người Hoa đã xác nhận trong khi người Việt lại chối bỏ ...? Sách “Nguyên Hòa Quận Chí” chép: “Quí Châu Cố Tây Âu Lạc Việt chi địa”. Sách “Thông Điển” chép: “Quý Châu bản Tây Âu Lạc Việt chi địa” nghĩa là: “ Quí Châu là đất Tây Âu Lạc Việt xưa”; Truyền thuyết Phù đổng thiên vương chép ...” giặc Ân sang đánh nước ta ...” nhiều sử gia Việt nam đã gạt ngay đi ...Lãnh thổ nhà Ân ở tận đâu đâu ...làm sao đánh nước ta được... Tệ hơn nữa là ở những năm 50 thế kỷ này một nhà nghiên cứu Trung quốc đã gửi cho Việt nam bản dập của tấm ’thẻ ngọc An dương’ mà họ tìm được ở gần qủang châu . Căn cứ vào loại chữ khắc trên đó là loại ‘cổ trựu’ sơ bộ xác định An dương vương sống cách nay khoảng 3000 năm ....vật chứng rành rành như thế mà cũng không thèm đếm xỉa gì tới ...không hiểu các vị làm khoa học kiểu gì đây ....thay vào đấy lại tưởng tượng ra những chuyện như Thục vương trong truyền thuyết Việt là con cháu của Thục vương bên Tàu bị Tần thủy hoàng chiếm mất nước nên chạy qua Việt nam....thật hết biết luôn.... May mắn còn có vị khoa bảng thế kỷ thứ 14 là Phạm Sư Mạnh để lại mấy bài thơ nói về tổ quốc xưa của dòng Hùng Chiêu hay Chu. “Văn Lang Nhật Nguyệt Thục Sơn Hà“ Văn Lang Nhật Nguyệt mà dịch là ‘Ngày tháng Văn Lang’ là trật rồi. Ta nghe chữ ‘Kinh Xuân Thu’ mà hiểu là bộ Kinh về mùa xuân và mùa thu thì chẳng có ý nghĩa gì. Thời cổ chưa dùng chữ lịch sử nên dùng 2 mùa xuân và thu tượng trưng cho thời gian là 4 mùa xoay vần nghĩa là những gì đã trải qua của 1 dân tộc, 1 đất nước, hay 1 con người trong 1 thời gian nào đó, tức là lịch sử vậy. Chữ nhật nguyệt ở câu thơ này cũng vậy; nó chỉ yếu tố động trong quốc gai nghĩa là triều đại. ‘Văn Lang Nhật nguyệt’ phải dịch là ‘Triều đại Văn Lang’ mới đúng. (Lang = Vương) và vế đối trong câu thơ là: sự chỉ định yếu tố tĩnh của quốc gia là lãnh thổ mà người xưa gọi là sông núi, sơn hà ; Câu “Thục Sơn Hà” đã chỉ rõ nước Thục hay Quốc Tây hoàn toàn đúng với truyền thuyết. Tóm tắt: Hùng Chiêu Vương – Quốc Tiên Lang cũng là ông Tây Bá; Cơ Xương , Chu Văn Vương cũng là Lang Liêu, An Dương Vương, cổ Thục và bà Âu Cơ trong truyền thuyết Bọc trăm trứng . Chiêu vương và Chu vương là cận âm rất dễ nhận ra , truyền thuyết chỉ thêm chữ Hùng vào để xác định dòng giống mà thôi. Văn Lang và Âu Lạc là 2 tên của 1 quốc gia và chính là ‘Trung Hoa’ của thiên hạ thời nhà Chu.
  10. 11 . Hùng triều thứ 11: Hùng Uy hay Hùng Vỹ Vua khai sáng : – Hoàng Hải Lang . Danh hiệu khác trong sử Việt : Danh hiệu khác trong sử Hoa : Bàn canh -Triều đại Ân Thương Niên đại : cách nay 3.500 năm Chứng tích vật thể lưu tồn là các hiện vật thuộc nền văn hoá Đồng đậu. Trước hết ta khẳng định là ‘Ân” trong “Ân Thương” có nghĩa là Thứ 2, số 2, số đếm của người Trung Hoa xưa thì số 2 là ‘nhị’ cũng gọi là ‘ơn’, vậy Ân Thương chỉ có nghĩa là triều Thương thứ hai mà thôi. Vua thứ 19 triều đại Thương hay Việt Thường là vua Bàn Canh quyết định dời đô về phía Nam Dương Tử (phương nam Dịch Lý) nhà Thương đã phải dời đô nhiều lần vì lụt lội do sông Dương Tử gây ra vậy Tại sao mãi tới thời vua Bàn Canh mới quyết định dời đô? Vì dân Miêu thời nhà Hạ mới chỉ sinh sống ở Bắc (Dịch Lý) Trường Giang – tức vùng Ngũ Lĩnh sau này gọi là Giang Nam, sang đời Thương dân Miêu mới vượt Trường Giang sinh sống ở bờ bên kia, vài trăm năm sau đã đông đúc lập nên vùng Kinh Man như thế là đủ để Bàn Canh an tâm dời đô, vậy mà vua cũng không thuyết phục nổi tầng lớp quí tộc, sau cùng hoàng gia phải đi một mình cùng với tầng lớp bình dân, vì vậy ta mới có tên triều Ân Thương, không còn tiếp nối bình thường quốc thống nhà Thương, có sách sử ghi chép như là 1 triều đại mới, và có sách vẫn xếp triều Ân Thương là 1 phần của triều đại Thương. Nhà Ân Thương khi mới vượt Trường Giang đóng đô ở An Huy, dựa vào tên tỉnh An Huy ngày nay ta có thể khẳng định như vậy. Triều Thương sử liệu Việt gọi là Hùng Huy – Long Tiên Lang ; An Huy hay Ân Huy có nghĩa là triều Hùng Huy thứ 2 tương tự như Ân Thương ; từ vùng này sau khoảng 300 năm nhà Ân Thương tiến tới bờ Hoàng Hà làm chủ cả 1 vùng rộng lớn gồm các tỉnh ngày nay là An Huy, Hồ Bắc và Hà Nam của Trung hoa . Tới thời vua Trụ dân Trung Hoa bắt đầu vượt Hoàng Hà ở cực bắc Hà Nam hiện nay, Trụ Vương đã xây dựng Biệt Đô Triều Ca và Lộc Đài , Cự kiều ở đấy, từ ‘ biệt đô’ chỉ rõ cho chúng ta: đó là vùng đất tách biệt hẳn với đất truyền thống của Trung hoa , sau này người ta phát hiện những dấu vết của kinh đô Trung Hoa cổ, cũng như thu được rất nhiều Giáp Cốt Văn trên bờ Bắc sông Hoàng Hà và coi đấy như 1 trong những bằng chứng chính để khẳng định quê hương người Hoa là lưu vực Hoàng Hà. Sự thực ra sao? Giới nghiên cứu khoa học đang đặt câu hỏi, sông Hoàng Hà không hề có loài rùa lớn sinh sống vậy những mai rùa khắc chữ lấy ở đâu ra ? các sử gia Tàu gỉai thích : Từ thời nhà Thương đã có sự giao lưu giữa cư dân ở 2 con sông Hoàng Hà và Trường Giang, số mai rùa khắc chữ được mang từ Trường Giang lên. Theo chính sử Trung Hoa thì đời Thương chưa có liên hệ gì đến Trường Giang, phải đến đời Trụ Vương nhà Ân Thương mới đánh dẹp và mở rộng lãnh thổ về hướng sông Hoài và sông Dương Tử “đem văn minh Trung Hoa trải đến vùng đó”. Việc Trụ Vương trước sức tấn công thần kỳ của ông Cơ Phát đã vội vã tha các “lao công tù binh” bắt ở vùng sông Hoài, phát vũ khí biến họ thành chiến binh, kết quả họ đã quay giáo đánh lại quân Trụ … việc này nói lên rất rõ là: Trụ Vương chưa chinh phục xong miền đông để tiến đến biển, như thế sự phát triển của Trung Hoa từ tây sang đông dọc theo Hoàng Hà mãi tới đời Trụ Vương mới tới gần biển mà thôi. Chúng ta nghĩ xem ở Hoàng Hà không có mai rùa thì làm sao nhà Thương có thể phát minh ra cách khắc chữ lên mai rùa? Phải ở nơi có sẵn mai rùa người ta mới có thể nghĩ ra cách sử dụng chúng , về mặt lý luận không thể nào nghĩ khác được là đời Thương không ở Hoàng Hà mà ở Trường Giang nên khi mở rộng từ sông Dương Tử lên Hoàng Hà người ta vẫn tìm về chốn cũ để lấy mai rùa đem về sử dụng. Sử Trung Hoa cho biết vào thời Thọ Tân Hoàng Đế tức Vua Trụ thì Trung Hoa đã có chư hầu ở 4 phía: - Phía Bắc là nước Thao. - Phía Nam là nước Quang. - Phía Đông là nước Từ. - Phía Tây là nước Chu. Ở đây cổ sử Trung Hoa đã dùng đúng phương của Dịch Lý. Ta đã biết: a. Nước Thao chính là đất Đào là đất của triều Hạ hay Hải Lang, về sau còn gọi là vùng Việt hay Nhiệt. b. Nước Quang là viết sai chữ Quan, Quan là dịch từ chữ Nom của Việt ngữ, Nom hay nhìn ta đã lý giải ở phần trước, nó chính là phương nước, Hành Thủy, Huyền Phương. c. Nước Từ cũng là dịch sang Hán ngữ chữ “Thương” của Việt Nam: Theo Dịch Lý Thương hay Tình Thương là phương Đông đối đẳng với phương Tây là phương của lý lẽ. Chính xác là chư hầu của Trung Hoa gọi là Nước phương Đông … dịch thế nào lại thành nước Từ , sau thời Chiến Quốc trở thành nước Tề là vùng Sơn Đông ngày nay. Chữ Từ này lại cận âm với chữ ‘Tà’ (chiều tà), Tư, Tử, Tây, Tề. Tề là 1 nước ở phía Tây Trung Hoa. Như vậy thời Chiến Quốc có tới 2 nước Tề, 1 nước Tề ở phương Đông và 1 ở phương Tây Trung Hoa. Nước Tề phương Tây là nước của nhà Chu phong cho Thái Khương, 1 đại công thần khai quốc. Thái cũng có nghĩa là đại, chỉ ông lớn hay cả, hay thủ lãnh; Khương là biến âm của Khăng, Cang chỉ phương Tây, nó cũng chính là ký âm bằng Hán tự chữ Khmer ngày nay. d. Nước Chu chính là vùng đất gốc của nhà Chu sau này. Thực ra chữ ‘Chu’ cũng là chữ ‘Chiêu’ bên chiêu, ban chiều chỉ phương Tây mặt trời lặn hay thụt xuống, thụt biến thành Thục nghĩa là đất phía Tây. Trong số 4 nước thì 2 nước phía Nam (Dịch Lý) nước Quan, phía Đông nước Từ là ngoại tộc thuộc chủng Mongoloit là giống người khác hẳn người Hoa – Việt. Lịch sử Trung Hoa gọi họ là người Lu tức mờ tối hay phương Nam – Huyền Thiên, sau Lu → Liêu và ta có 2 nước của người Lu. - Nước Quan trở thành nước Quan Lu, tức Quan Liêu là nước Đông Hán sau này. - Nước Từ trở thành nước Tào Lao hay Từ Lu, sau này là “nòng cốt” làm ra nước Ngụy của Tào Tháo. Trụ là vua sau cùng của triều Ân Thương vô cùng tàn ác bị dân chúng nguyền rủa là ‘Ác Lai’, lai là biến âm của ly, lửa nghĩa đen là mặt trời, nghĩa bóng chỉ hoàng đế; Ác lai là ông vua ác, hay bạo chúa. Thực ra Trụ không phải là tên riêng của Thọ Tân Hoàng Đế. Tiếng Thái Lào vua là ‘Chậu’, tiếng Việt là ‘chủ’ ; chậu-chủ biến âm ra Trụ do ký âm Hán ngữ sai biến“chậu” là danh từ chung thành “Trụ” tên riêng. Triều đại Thương, vua khai sáng là Thành Thang, lập đô ở vùng sông Đường hay sông Thường. sang triều Ân Thương lần đầu tiên dân Trung Hoa tiến đến Hoàng Hà và Hoàng Hà lúc đó là cực Nam (Dịch Lý) của Trung Hoa nên lịch sử gọi là triều Hùng Vỹ , Vỹ là cái đuôi chỉ vùng cực Nam, gọi Hoàng Hải Lang vì kinh đô dời về vùng Hà Nam bên bờ Hoàng Hà đồng âm với Hoàng Hải . Đuôi và Đầu là 1 cặp đối , triều Hạ là nước Đào hay đầu ở phương Bắc (xưa) triều ân thương là Hùng vỹ nghĩa là triều Hùng phương nam .
  11. Sử thuyết họ HÙNG. PHẦN I - Khái luận . A - Tản mạn về sự biến âm trong tiếng VIỆT và HOA Một từ luôn có 2 phần: phần thanh và phần tự hay chữ. Trong bài này chỉ nói đến phần thanh không nói đến phần chữ, vì bàn đến phần chữ là đã đi vào lãnh vực chuyên sâu của ngôn ngữ học, đã là phần chuyên thì người ‘thường’ không dám lạm bàn. Cũng như bao sự việc khác, ngôn ngữ phát triển và biến đổi theo thời gian, và vị trí địa lý, nó thay đổi theo từng vùng và dân tộc. Nếu không đi nhiều cũng như không tiếp xúc thừơng với những người ở các nơi khác nhau, ngay chính người Việt ở thời truyền thông hiện đại, giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt cũng chưa chắc đã trọn vẹn . Ta có thể nói là có sự khác nhau, chứ không nên xác định là sai hay đúng; chỉ có thể nói sai hay đúng so với chuẩn quốc gia, mà chuẩn quốc gia cũng là một qui định, cùng nhau qui ước là viết như thế và đọc như vậy cho thống nhất trong một chuẩn để thông tin, chuyển tải ngôn ngữ đạt được sự chính xác – tránh việc ông nói gà bà hiểu ra là vịt. Ta có thể nêu vài sự khác biệt hay thay đổi lớn trong ngôn ngữ Việt ngày nay: - Trước đây khoảng trăm năm, khi được “La Tinh hóa” Quốc ngữ , âm ‘tr’ được viết và đọc là ‘bl’, thí dụ: Blời → Trời; Blu → Trâu Không phải thay đổi rồi thôi mà có nhiều chữ vẫn song hành như: rung rinh → lung linh Vẫn còn nhiều sự biến đổi khác, nếu không hiểu rõ, có thể ta sẽ hiểu sai hay không hiểu nổi nhiều vấn đề, nhiều sự việc của quá khứ xa xôi. Với âm ‘l’ nhiều người miền Bắc phát âm thành âm ‘n’. Thí dụ: phương Nam → phương Lam; làng nước → nàng lước Nếu sự thay đổi âm ‘l’ và ‘n’ lại chồng lên sự thay đổi của âm ‘r’ và ‘l” thì sự khác biệt đi quá xa coi như không có sự liên quan, … nhưng nếu chúng biến đổi qua nhiều tầng nấc trung gian chúng lại có liên quan với nhau. ‘rú’ trong ‘rừng rú’ có nghĩa là ‘núi’, ta xem diễn biến chuyển đổi như sau: rú → lú → lúi → núi r→ l l→ n rừng → lừng → lừm → lùm (bụi) lâm (Hán-Việt) Lần theo từng mắt xích như trên, ta thấy rõ ràng “lâm” đâu có phải là từ ngoại. Còn có nhiều thay đổi nếu không biết sẽ không hiểu nổi nhiều vấn đề của lịch sử như: Âm ‘r’ còn có thể biến âm thành ‘d’ như: râm (bóng râm) → bóng dâm Âm ‘l’ biến âm thành ‘nh’: ló → lú (lên) → nhú (lên), nhô (lên); lớn lao → nhớn nhao Từ kép: siu siu (ngủ) → thiu thiu (ngủ) siêu siêu (ngủ) Cũng có nhiều sự khác biệt rất lớn giữa phương ngữ miền Bắc và phương ngữ Nam bộ, chỉ xin khái quát vài điều rõ ràng mà thôi: - Âm ‘v’ miền Bắc, miền Nam đọc thành ‘d’, ngay trong cách phát âm tên quốc gia cũng có sự khác biệt: Việt Nam → diệc nam (viết theo cách phát âm); nếu nói “Việt” từ gốc Hán có nghĩa là “vượt” thì “diệc” hay “diệt” là gì? Âm ‘h’ ở miền Bắc thì ở miền Nam biến thành ‘gh”; tương tự âm ‘q’ cũng vậy. Thí dụ: đi hoài → đi ghoài (mãi) quốc gia → ghuấc gia hay guốc gia. Nguyên âm tiếng Việt như ‘u’ biến thành ‘o’, như tùng → tòng ‘u’ biến thành ‘âu’, như chu → châu ‘â’ biến thành‘ư’’, như nhất → nhứt, chân → chưn Thời khá xưa chữ ‘khởi’ đọc là ‘khỉ’; chữ ‘mày’ miền Trung đọc là ‘mi’, ‘ông’ → ‘ôn’. Như thế sự khác biệt thực thiên hình vạn trạng. Đó mới chỉ là chuyện trong nhà, còn xét đến những biến âm của từ thuần Việt và Hán Việt thì còn nhiều điều phải bàn lắm như chữ ‘lâm’ và ‘lùm’ ở trên. Ta quen gọi là từ Hán Việt, thực ra chưa chắc như thế, nhiều khi còn ngược lại là đằng khác. Thí dụ: sông và xuyên; sưng và sơn; kênh lạch và kinh lạc Có nhiều từ xét về sự hợp lý theo thời gian cấu thành, tưởng là xuất phát từ Hán tự nay chỉ là từ biến âm theo từ “Nôm”. Thí dụ: người Việt thường nói, họ hàng – hang hốc; nếu nghiệm ra ta thấy đây là cặp từ ghép mang tính giải thích, chú dẫn về nguồn gốc: ‘hàng’ xuất phát từ ‘hang’, ‘họ’ phát xuất từ ‘hốc’. Từ thưở hồng hoang khi con người còn “ăn hang ở lỗ” thì mỗi một hang là nơi cư trú của một thị tộc gồm từ vài chục đến vài trăm người, và nhiều hang như thế hợp thành một bộ tộc hay bộ lạc, trong mỗi hang lại có nhiều ngõ ngách gọi là ‘hốc’, mỗi hốc thường là nơi cư trú của một đại gia đình; sau này dù còn người không còn ở hang nữa nhưng từ ‘hang’ và ‘hốc’ vẫn được dùng để chỉ một tập thể người có liên quan với nhau. Có điều đặc biệt là chúng không dừng lại ở tiếng Việt mà còn biến thành từ Hoa hay từ Hán Việt: hang → hàng (Việt) hương (Hoa) hốc → họ (Việt) hữu (Hoa) Vậy ta có thể quyết định xem nhóm từ hang – hốc → hương – hữu là từ Việt gốc Hán hay là từ Hán gốc Việt? Xét về mặt lịch sử hình thành thì không thể nào nói khác đi: đó là từ Hán gốc Việt. Tương tự như vậy, khi ta xét cặp từ ‘kênh lạch’ và ‘kinh lạc’: ‘kênh lạch’ là đường dẫn truyền nước trong tự nhiên nó có trước cả khi con người có hệ ngôn ngữ , sau được định danh là ‘kênh’ và ‘lạch’; còn ‘kinh lạc’ là đường dẫn truyền khí huyết trong con người; nó là thành tựu tuyệt vời của nền khoa học nói chung, y học Trung Hoa nói riêng tức là lúc con người đã văn minh lắm rồi, nói như vậy chắc chắn từ ‘kinh lạc’ bắt nguồn từ ‘kênh lạc’. Các nhà ngôn ngữ học ngày nay xác định hơn 50% từ Việt là từ Hán Việt – nói như thế có 2 điều phải bàn: 1. Có hơn 50% là từ Hán Việt là mới xem xét đến số lượng từ dùng chung, còn cộng cả số từ biến âm, bắt nguồn từ nhau thì tỉ lệ lẫn lộn Việt – Hoa còn lớn hơn nhiều. 2. Nói từ Hán Việt là từ Việt có nguồn gốc ở ngôn ngữ Hán là thói quen có tính áp đặt; sự áp đặt này xuất phát từ ưu thế số lượng mà ra. Khách quan mà xét thì sự áp đặt trên có nguồn cơn từ lịch sử, qua hàng ngàn năm nước Việt chỉ là một chư hầu của nước Hán (ta cứ tạm gọi như thế), …. nên nói từ ‘Hán Việt’ hay từ Việt gốc Hán là hợp lý và nhiều người mặc nhiên chấp nhận, coi như chuyện bình thường, không ai thắc mắc, từ quan tới dân, từ trí thức tới người tốt nghiệp bình dân giáo dục không ai đặt dấu chấm hỏi. Như đã dẫn ở vài thí dụ ở trên, chuyện không đơn giản như quán tính lịch sử đã tạo nên, 2 ngôn ngữ Hoa Việt quấn quýt vào nhau chặt chẽ hơn ta tưởng, ngay trong Kinh Dịch là linh hồn của văn minh Trung Hoa cũng không phải là thấp thoáng, mà tràn đầy tiếng Việt!? Quẻ Lửa → Ly Sấm → Chấn Tán (Toán) → Tốn Kiềng, Càng→ Kiền, Càn Cả̉n,căn → Cấn Căm hay cóng là tên khác của qủe khảm Khôn thì rõ ràng là từ Việt (khôn ngoan, trí khôn hay khuân vác, khuân mang) Lịch sử và văn minh Trung Hoa cũng rõ ràng kết cấu gằng “gạch” Việt, như: Vàng → hoàng (xuất phát từ màu vàng là màu trung tâm của ngũ sắc } → vương vua → vũ cha, chúa → chu, chiếu, triệu (họ) bản (làng) → bang (quốc) gốc (→ guốc) → quốc, nhà → gia giêng – hai → giang – hồ (hải) lu (mờ) → người Lu hay liêu căm là lạnh → người Kim mun (đen) → mông, minh, Mãn [người hay nước] Đặc biệt 2 từ có mối liên hệ quan trọng đến vận mệnh nước Hán là “quan” và “từ” lại là đích thị dịch từ chữ Nôm: “quan” là dịch chữ ‘nhìn’, chữ ‘nom’; và“từ” dịch chữ ‘thương’ (tình thương). Quan Trung: vùng đất phía nam. Quan thoại: tiếng nói phương nam. Quang Vũ (viết Quan thành Quang): là ông vua phương nam, như vậy ông vua khai sáng triều Đông Hán đâu có phải vuaTrung Hoa.vì chính người Hán nhận mình là Quan tộc. Chữ “từ” là dịch sang hán ngữ chữ “thương” của tiếng Việt. Theo Dịch lý, thì phương đông là phương của tình cảm (quẻ Khảm), nghĩa là phương của sự thương cảm giữa người và người (trong chữ Hán, thương là thương tật, ) ,đồng thời phương đông cũng là phương của màu xanh. xanh → thương – thanh, nên sau này có nhà Thương, nhà Thanh. Như thế: từ = thương = phương đông chỉ vùng Sơn Đông hiện nay, xưa là đất nước Tề (Từ → Tề). là chốn mà lịch sử Trung Hoa gọi là Nam Man và Đông Di; đã là man – di thì vùng Hà Bắc, đất tổ của nhà Đông Hán và Sơn Đông là đất nước Tề (Từ) thời Chiến Quốc, nước Ngụy thời Tam Quốc không thể nào là Trung Hoa được. Về sự thiên biến, vạn hóa trong tiếng Việt giữa xưa và nay, ta đơn cử một đoạn trong sớ tấu của Trần Cương Trung, sứ giả nhà Nguyên (thế kỷ 13) dâng lên vua theo bản dịch của Lê văn Siêu trong Việt Nam Văn Minh Sử như sau: “Tiếng nói của dân Tru Ly gọi ‘trời’ là ‘bột mạt’, ‘mặt trời’ là ‘phù bột mạt’, ‘mặt trăng’ là ‘bột văn’, ‘gió’ là ‘giáo’, ‘mây’ là ‘mai’, ‘núi’ là ‘can ngỗi’, ‘nước’ là ‘lược’, ‘mắt’ là ‘mạt’, ‘mồm’ là ‘mạnh’, ‘cha’ là ‘chá’, ‘mẹ’ là ‘ná’, ‘con trai’ là’can đa’, ‘con gái’ là ‘can ái’, ‘chồng’ là ‘chùng’, ‘vợ’ là ‘đà bị’, ‘tốt’ là ‘lĩnh’, ‘không tốt’ là ‘chương lĩnh’, cả thảy là như thế, tiếng nói gấp mà nổi, phần lớn giống như tiếng chim, …” Chắc chắn phiên âm tiếng Việt bằng chữ Hán có nhiều lệch lạc, nhưng qua đó ta vẫn còn nhận ra: ‘gió’ là ‘giáo’ ‘mây’ là ‘mai’ ‘nước’ là ‘lược’ ‘mặt trăng’ là ‘bột văn’ (âm Nam bộ = dăng = trăng; chữ ‘bột’ không đoán được) ‘mắt’ là ‘mạt’ ‘mồm’ là ‘mạnh’ (miệng) ‘cha’ là ‘chá’ ‘mẹ’ là ‘ná’ (má, nạ) ‘con trai’ là’can đa’ ‘con gái’ là ‘can ái’ ‘chồng’ là ‘chùng’ ‘vợ’ là ‘đà bị’ (đàn bà) ‘tốt’ là ‘lĩnh’ (lành) ‘không tốt’ là ‘chương lĩnh’ (chẳng lành), những chữ còn lại không thể đoán ra được, đặc biệt tên của dân tộc ta viết là ‘Tru Ly’ có thể đoán: ‘Tru’ biến âm của từ ‘chúa’; ‘Ly’ biến âm của từ ‘Lửa’ nghĩa là dân của vua lửa hay vua vùng nhiệt đới. Mới 700 năm mà đã khác xa như thế, nói chi đến 2, 3 ngàn năm trước!? Hỏi còn bao nhiêu từ cổ mà ngày nay chúng ta nhận ra được? Ở đoạn trên, riêng từ ‘núi’ là ‘can ngỗi’ có thể đoán: ‘can’ là ‘cấn’, một quẻ trong Bát Quái, tượng trưng cho ‘núi’ và chúng ta chú ý từ ‘nước’ là ‘lược’ vì nó có liên quan đến quốc hiệu cổ xưa của Việt Nam mà ta sẽ tìm hiểu ở phần sau. Về sự liên quan giữa ngôn ngữ Hán và Việt còn nhiều khía cạnh phải xem xét. Thí dụ: tên Nôm và tên chữ của một số địa danh ở Việt Nam, tên Nôm là tên gọi, nói; tên chữ là tên viết bằng Hoa tự như: Làng Vầy → Làng Sơn Vi Làng Tó → Làng Vũ Đại Vi là Vây (cái vây cá); từ ‘Vầy’ → ‘Vây’, ký âm Hán tự là ‘Vi’ như thế nếu nói ‘Vi’ là từ Hán Việt e không đúng, ‘Vi’, ‘Vây’, ‘Vầy’chỉ là những phương âm của cùng một chữ mà thôi. Còn ‘Tó’ viết thành ‘Vũ Đại’ mới đúng là dịch sang Hán tự; tó là to, to → đại. Việc dịch những danh từ riêng của Việt sang Hán tự cũng gây đau đầu lắm! Như từ ‘Vũng Quýt’, một địa danh ở miền Trung của Việt Nam, nếu hiểu ‘Vũng’ là danh từ chung là một vùng nước sát đất liền tương đối được che chắn kín gió, … như Vũng Tàu, Vũng Rô, thì chữ ‘vũng’ là ‘Vịnh’ trong Hán ngữ. ‘Quýt’ là tên riêng nếu chuyển ngữ thành ‘Quất Vịnh’ thì có thể nhận ra, nhưng phiên âm theo Hán tự để viết thành ‘Dung Quất” thì sai xa lắm, người dân ở Vũng Quýt đọc lên cứ ngỡ là một địa danh nào đó ở bên tầu Việc dùng Hán tự để ký âm các từ gốc La Tinh đôi khi tạo nên những cụm từ … quái dị …, về nghĩa thì không có rồi, và về âm thì chuyển đi xa lắc xa lơ … phải có óc tưởng tượng siêu lắm mới tìm thấy sự liên quan, như: England ký âm thành Anh Cát Lợi. France thành Phú Lãng Sa. Washington → Hoa Thịnh Đốn. (ông) Ghandi → (Thánh) Cam Địa, v.v… Khổ một nổi sự ký âm này là bắt buộc vì 2 hệ thống ngôn ngữ khác nhau hoàn toàn nên không có cách nào khác. Tới đây người đọc có thể thông cảm với người viết và mặc nhiên chấp nhận một độ lệch nào đó của âm ngữ khi dẫn chứng tư liệu lịch sử Việt Nam từ cổ đại cho đến cận đại vì tất cả được viết bằng chữ nho hay nói rõ hơn là những từ Việt được ký âm bằng chữ Hán, sự lệch lạc đôi khi rất xa, nhưng ta có thể nhận ra được nếu nó nằm trong một thể hoàn chỉnh, có đầu có đuôi, có đối chứng V.v… nếu có hẳn một hệ thống xuyên suốt thì trở nên hiển nhiên, rõ ràng không phải bàn nữa, ta có thể khái lược hệ thống “biến từ ” Việt – Hoa trong những từ chĩ người lãnh đạo quốc gia như sau : 1. Cao – cả → cổ nghĩa là người đứng đầu, thủy tổ như ông Bàn Cổ; Cổ Thục; Cổ Tẩu. → cô, cơ: cũng là người đứng đầu như ‘Hiên Viên là tổ họ Cơ; ông Cơ Xương, Cơ Phát. → Cao: ông cao Giao; Thái Cao; Cao Tân; Cao Dương; Cao Sơn. → Câu: Câu Tiễn (Việt Vương) Chữ Tôn viết sai là Tông trở thành đế hiệu của các vua Việt Nam và Trung Hoa từ đời Đường, Lý về sau. Căn cứ vào cấu trúc cụm từ thì rõ ràng ‘Tôn”, ‘Tông’ tương đương với chữ ‘Vương’. Thí dụ: Lý Thái Tôn, Lý Cao Tôn, V.v… 2. Vua → Vũ: chỉ hoàng đế khai quốc như Hạ Vũ, Võ Vương, Chu Vũ Vương, Hán Vũ Đế, Vũ văn Giác, Quách Vu. 3. Cha – chú → chúa, chủ sau biến thành Triệu như họ Triệu: Triệu Chính, Triệu Đà, Triệu Khuông Dẫn, V.v… đặc biệt ngôn ngữ Thái – Lào có từ ‘chậu’ nghĩa là ‘ông hoàng’, khi ký âm bằng Hán tự thì các vua Champa trở thành họ ‘Chế’ như: Chế Củ, Chế Mân, Chế Bồng Nga, V.v… 4. Lửa → Ly (quẻ) là ngọn lửa, mặt trời, nghĩa bóng chỉ ‘hoàng đế’ sau biến thành họ ‘Lý’, họ ‘Lê’ như: Lý Bôn, Lý Bí, Lý Uyên, Lý Công Uẩn; Lê Lợi, Lê Hoàn, (Hán tự ký âm sai thành họ Lưu) 5. Đức: chỉ nhân vật có địa vị cao trọng như: đức Chúa, đức ông, V.v… Hán ngữ ký âm thành Đế đồng nghĩa với vua, chúa; âm Khmer là ‘cham đéc’ nghĩa là ông hoàng. 6. Xuất phát từ ý niệm: ‘trời tròn, đất vuông’, ‘trời là vua, đất là dân’, người ta tạo nên các từ: hòn → hoàn → hoàng nghĩa là vua; ‘viên’ chỉ vật tròn → vương. Trong lịch sử có: Đinh Hoàn, Lê Hoàn, Hiên Viên, Tản Viên, … 7. Các tước vị của quí tộc Trung Hoa: không 0 → công hai 2 → hầu ba 3 → bá tư 4 → tử năm 5 → nam Từ hệ thống “chuyển ngữ” này, ta có thể khẳng định, trước khi Hán tự được dùng để viết sử thì đã có lịch sử Trung Hoa viết bằng một thứ chữ khác với Hán tự, đó chắc chắn là kiểu chữ{văn} “khoa đẩu” của nhà Thương- Chu, Ngũ kinh cũng được chép bằng thứ chữ này. Từ đời Tần người ta mới dùng kiểu chữ “tiểu triện” thay thế, loại chữ tiểu triện qua nhiều lần cách tân về cách viết trở thành Hán tự ngày nay; người Việt không gọi là Hán tự mà gọi là “chữ Nho”, phải chăng ‘Nho’ là biến âm của ‘nhỏ’ đồng nghĩa với ‘tiểu triện’, người Việt ưa dùng điệp ngữ “Nho nhỏ” cũng là một dẫn chứng có giá trị cho hướng suy nghĩ như trên. Bản thân dân du mục phương Bắc khi chiếm đóng Trung Hoa chưa có hệ thống văn tự riêng nên dùng luôn hệ thống văn tự Trung Hoa làm quốc văn vì không có cách nào khác, từ đó chữ tiểu triện biến thành Hãn tự, điều này giải thích sự mâu thuẫn trong tâm thức người Việt. Từ Hán trong Hãn tộc là một nỗi ám ảnh kinh hoàng do những thống khổ người Việt phải chịu thời vong quốc. Nhưng từ ‘Hán’ trong ngôn ngữ Hán, người Việt gọi là chữ Nho thì lại có vị trí trân trọng đặc biệt và được gọi là chữ của “thánh hiền”.
  12. 18 HÙNG triều –Lịch sử. *lịch sử* 9. Hùng triều thứ 9 - Hùng Hoa Vua khai sáng : – Hải Lang Danh hiệu khác trong Việt sử : Linh Lang Dang hiệu khác trong Hoa sử : Khải , Hạ vương Quốc hiệu : Hồng bang 2, nước Thao hay Đào. Niên đại : cách nay 4.000 năm Khi Kinh Dương Vương – Hạ Vũ mất thì con ông là Khải dựa vào những người ủng hộ mình làm cuộc lật đổ để lên ngôi chúa, ông Bá Ích phải bỏ nước đi ẩn ở Kỳ Sơn. Thực ra ông Khải mới chính là người lập ra triều Hạ và ông tôn vua cha coi như người khai sáng triều đại mới, chữ ‘Khải’ là biến âm của từ ‘khởi’ trong tiếng Việt. Khi lịch sử đặt tên cho ông ta là ‘Khởi’ là ý nói ông là người khởi đầu lập ra nhà Hạ; lịch sử không nói nhưng chắc chắn đã có một cuộc tranh giành ngôi vương giữa 3 cộng đồng trong Họ Hùng. Ông Khải là con của Hạ Vũ và Đồ Sơn Thị, (nghĩa là người đàn bà ở Đồ sơn), nay thuộc Hải Phòng sát với Quảng Ninh, nhờ liên kết được 2 cộng đồng bên bố và bên mẹ nên ông Khải đã thắng và Ông Ích phải đi ẩn nhưng thực ra là lưu vong ở Kỳ Sơn. Truyền thuyết Việt nói: “Kinh Dương Vương (Tuấn lang ) kết duyên cùng Long Nữ con gái Động Đình Quân, vua vùng Động Đình Hồ … như ở phần trước ta đã khẳng định, Đồ Sơn Thị và Long Nữ là tên của 1 người viết theo 2 dòng sử khác nhau, ông Khải chính là Lạc Long Quân của truyền thuyết Việt; Lạc là dòng Bố, Long là dòng mẹ, quân là thủ lãnh. Nhiều thần tích, thần phả còn ghi lại: Linh Lang hóa (chết) ở Hồ Tây, Hà Nội thì hồn theo dòng nước ngầm xuôi về Động Đình Hồ … điều này giúp ta thêm khẳng định, Động Đình Hồ trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam là biển Đông chứ không phải Động Đình Hồ của Trung Quốc hiện nay, Linh là biến âm của Lung (Hoa) hay Long (Hán Việt ) nghĩa là con rồng chỉ phương đông trong dịch học, quẻ Chấn, số 3, con rồng ,màu xanh là những dịch tượng chỉ phương đ̣ông . Truyền tích đạo giáo cho biết quê mẹ của Linh Lang là xứ Bồng Lai , cụm từ “Bồng Lai Tiên cảnh” gợi cho ta thắng cảnh Hạ Long ở Vịnh Bắc bộ càng giúp khẳng định đấy chính là Động đình hồ, nền văn hóa Hạ long mà khảo cổ học đã xác định được càng giúp ta cả quyết hơn . Linh lang là vì vua được thờ kính nhiều nhất tại Việt nam khắp nơi đều có đền thờ nhưng tới nay vẫn chưa xác định được ngài là ai trong lịch sử ?.Từ Hạ người Hoa phát âm là Xạ hay Xịa đồng âm với xà là con rắn bản gốc cuả thần thú Rồng, tam xà cũng là chỉ nhà Hạ ở phương đông. Con rồng là thần thú người ta đã tạo ra để làm biểu tượng cho mối lương duyên Lạc và Long tức sự phối hợp của 2 cộng đồng người sống ở lãnh thổ phía nam (xưa) và phía đông, phương Nam loài thú tượng trưng là con sấu , phương đông là con rắn hay xà...’vẽ rắn thêm chân’ ra con rồng , cụ thể rồng là thần thú có đầu,chân và đuôi của cá sấu nhưng mình lại là mình rắn..., chính xác tên là con ‘rung’ tức động sau biến âm ra rồng Hoa ngữ ký âm thành ‘Lung’ Hán Việt đọc là ‘long’ sau này long đã đoạt ngôi của Xà trong cương vị là biểu tượng cho phương đông trong văn hóa Việt –Hoa. Bản thân rồng không thể hiện hữu bên ngoài môi trường vùng vẫy của rồng , nói khác đi là không thể có rồng nếu không có biển Đông hay Chấn trạch, Lôi trạch ; dù có đào được cả trăm chứ đừng nói 1 cái bình có hình rồng ở chốn sa mạc nóng bỏng hay vùng băng gía tuyết dầy thì đấy cũng chỉ là cục đất xét vì rồng là Thần- thìn , mỗi lần Rồng hiện là 1 lần kinh thiên động địa , gío bão sấm sét làm rung động trời đất thì mới xứng với Thìn- thần ; hỏi Thiểm Tây- sơn tây và cả những vùng cận kề có mưa bão sấm sét hay không ? Cổ sử Trung Hoa viết: sau khi lên ngôi ông Khải đã tiến đánh Hữu Hộ Thị vì bất phục lấy đấ́t An ấp của họ làm kinh đô đày dân Hữu hộ thị đi khắp nơi gọi là tứ Di ;nguyên nhân sự bất phục ở trên ta đã biết, Hữu là họ Hộ thực ra là Hổ biến âm của từ Hỏa nghĩa là lửa, vậy Hữu Hộ Thị chỉ nghĩa là tộc họ Hỏa, hay Lửa chính là người La còn gọi là Di-lão . Đế Minh đã chia nước làm 2 miền: Bắc – Nam hay Lửa – Nước, và truyền ngôi cho Đế Nghi là con trưởng, phong Lộc Tục làm vương phương Nam hay phương Nước. Họ Lửa chính là dân của Đế Nghi ở đất Giao-bắc, là Vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh hiện nay, Cao Giao nghĩa là thủ lãnh dân Giao (bắc), ông Cao Giao mất người kế nghiệp ông là Bá Ích, Ích là biến âm của ất hay úp là Can số 2 trong Thập Can, chỉ phương bức (nóng), cùng vị trí với Quẻ Lửa trong Hậu Thiên Bát Quái, và Hành Hỏa trong Ngũ Hành ; La-Lê- Liêu và Lão đều nằm trong cụm từ có gốc là âm Lửa. Cổ sử Trung Hoa chép kinh đô thứ 2 của nhà Hạ là An ấp, an là biến âm của ôn nghĩa là ấm cho biết đó là vùng nhiệt đới, rất có thể kinh đô An ấp triều Hạ là động Hoa lư ở Ninh bình Việt nam , Hoa là tên triều đại Hùng Hoa, lư là biến âm của Ly-Lửa chỉ mặt trời cũng còn dùng chỉ ông vua trong văn hoá Việt-Hoa. Vì đô ấp ở đất Đào nên tên nước trở lại là Hồng bang, để dễ phân biệt ta gọi là Hồng bang 2.,cổ sử Trung Hoa gọi là nước Thao biến âm của Thiêu nghĩa là đốt –cháy. Ông Ích lưu vong đến Kỳ Sơn. Cổ sử Trung Hoa cũng chép: Ông Cổ Công Đản Phụ dẫn dân “ấp” mình sau 5 lần tạm dừng bước, mới định cư hẳn ở Kỳ Sơn, ông Cổ Công Đản Phụ là tổ nhà Chu; liên kết 2 biến cố ta có thể kết luận: ông Cổ Công Đản Phụ chính là Bá Ích, vì 1 vùng Kỳ Sơn không thể có 2 chúa trong lịch sử, thêm bằng chứng nữa là qúy tộc ở vùng Kỳ Sơn mang họ Cơ như Cơ Xương, Cơ Phát, mà họ Cơ phát xuất từ sông Cơ, sông Cả đất Giao-bắc của người Lửa nơi khởi nguồn của dân tộc Hùng , một học giả Trung hoa đã viết rõ hơn trong phần thuyết minh Chu dịch : dân ‘Mân ấp’ đã lũ lượt kéo nhau theo chúa của mình đến Kỳ sơn...sự ràng buộc (giữa chúa và dân) chắc như cột bằng da bò vàng...., Mân ấp khiến ta liên tưởng tới đế Minh tên gọi khác của vua Hùng....cùng với dòng đế Khai Minh của nước Thục sau này ; Mân ấ́p là cách viết gỉan lược cuả ‘đô ấp Mân’ đồng nghĩa với kinh đô Mân hay Mân đô –Minh đô , Kinh Thư nói đến 4 địa danh đánh đấu lãnh thổ quốc gia thời vua Đại vũ là : Dương cốc, Muội cốc , Minh đô và U đô...; có sự tương thông ngữ nghĩa giữa Mân ấp và Minh đô hay không ?; thực ra cả 4 địa danh này đều có gốc là Việt ngữ được chuyển sang Hoa văn hết sức kỳ lạ độc đáo..., 1 phần ký âm còn phần kia dịch nghĩa : -Cốc là biến âm từ Gốc –góc của Việt ngữ tương tự : Kà→gà Cái→gái. Dương cốc hay dương góc nghĩa là ‘góc mặt trời mọc’ Muội cốc là ‘góc mặt trời khuất’ tức lặn . Từ góc này đồng cách với ‘góc trời’ cuả Việt ngữ ngày nay mà chúng ta thường dùng. - Đô là biến âm của ‘đầu’. Minh đô là đầu sáng, u đô là đầu tối. Đầu sáng chỉ hướng xích đạo , đầu tối chỉ hướng địa cực. Rất có thể Dương cốc chính là Dương thành tên xưa của Qủang châu, Muội cốc là Kiểu kinh hay Cửu kinh thời Tây Chu , Minh đô là cố đô Hoa lư ở Ninh bình Việt namvà U đô là kinh đô nước Thục ở Quý châu , chữ U này chính là chữ Âu trong Âu cơ chỉ có nghĩa là phương nam đồng nghĩa với huyền phương mà thôi ; xét như vậy ta thấy Kinh thư không thể có trước đời nhà Chu. Triều Hùng Hoa Vương – Hải Lang, sử Trung Hoa gọi là nhà Hạ hay triều đại Hạ, ta thấy trong vương hiệu: Hùng Hoa – Hải lang đã thấp thoáng bóng ‘Hoa –Hạ’ rồi .. Đất Lạc Long của Lạc Long Quân gồm đất Lạc là Bắc Việt Nam cộng đất Lâm tức Quảng tây ngày nay, đất Long là Nam Quảng tây và Quảng Đông; sử Trung Hoa ký âm sai thành đất ‘Lục Lương’. Những dòng sử trên cho ta xác định: danh xưng Trung Quốc -Hoa Hạ xuất phát từ triều Hùng Hoa này ; Hải Lang và Hạ Vương là 2 cách gọi khác nhau của cùng 1 vua; Hùng Hoa Vương được người Việt gọi là Linh Lang, Linh là biến âm của Lung như ta đã biết; đất của Hải Lang ký âm sai thành đất Hải Nam nay còn chứng tích là Vịnh Hạ Long hay Hạ Lang và đảo Hải Nam Hải Nam là đất của Hải lang – Hạ Vương. Vân Nam là đất của Văn Lang – Văn Vương. Chu nam và Thiệu nam 2 vùng đất nổi tiếng trong Kinh Thi cũng ở dạng ‘cố tình sai’ này ; chính xác là ‘Chu lang’ và ‘ Thiệu lang’ tên thực ấp của 2 đại công thần nhà Chu là Chu công Đán và Thiệu công Thích , Chu lang và Thiệu lang được người Tàu đổi thành Chu công và Thiệu công vì Hoa ngữ không có chữ ‘lang’ còn thực ấp thì đổi ‘lang’ thành ‘nam’, tương tự khi vua Mông cổ gọi dân bắc Trường giang là người Hãn tức dân gọi vua là Hãn, nam Trường giang là người LANG vì gọi vua là Lang ai đó đã cố tình chuyển Hãn ra Hán, Lang ra nam nhằm thủ tiêu những dấu tích lịch sử bất lợi cho ý đồ của họ. Ở phần trước ta đã minh định về 2 thời kỳ: lập quốc và vương quốc của lịch sử họ Hùng .Bước sang giai đoạn đã trở thành vương quốc Cổ sử Trung Hoa viết : xưa Trung Hoa chỉ có 2 Châu: Châu Đào và Châu Đường, gọi tắt là đất Đào - Đường hay Đào – Dương (2), dùng các dịch tượng của Dịch Lý ta xác định: đất Đào , màu đỏ là lãnh thổ nhà Hạ, Đường hay dương là lãnh thổ nhà Thương. Đất khởi phát của nhà Hạ là lưu vực sông Hồng, hay Nhĩ hà, Hồng cũng là màu đỏ người Thái gọi là ‘Nậm tao’ Tao biến âm ra Đào và Thao. Chữ Hồng trong Hồng bang là màu đỏ ↔ Đào. Hồng còn nghĩa là bó đuốc → đốt → thiêu → Thao, Thao là biến âm của thiêu nghĩa là đốt (cháy). Ngày nay ở Việt Nam còn dấu vết: Có 1 khúc sông Hồng vẫn được gọi là sông Thao. Dấu tích của thời nhà Hạ hay Hùng Hoa còn lưu lại ở 3 nền văn hoá cùng thời mà khảo cổ học đã khám phá gọi là nền văn hóa Phùng Nguyên, hay di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên thuộc lưu vực sông Hồng, sơ bộ khảo cổ học Việt Nam nhận định đấy là lưu tồn vật chất của người Tày cổ mà phạm vi phân bố tới tận lưu vực sông Tứ hay Châu Giang; trùng khớp với địa bàn dòng Bách Lộc hay Lạc Tộc như đã biết, nền văn hóa Hạ long và quan trọng hơn cả là nền văn hóa Hoa lộc ở vùng Ninh bình Hoà bình và lưu vực sông Mã ., các hiện vật thu được ở 3 nơi có sự đồng nhất nhưng cũng có những sự khác biệt , điểm khác chỉ ra là có 3 cộng đồng người khác nhau , điểm đồng nhất cho thấy đã có sự hợp nhất để trở thành một dân tộc. Thao và Đào đều là đồng nghĩa của chữ Hồng chính vì vậy mà sau này ta mới có tên vua Nam Việt là Triệu Đà hay Triệu Tha , Lịch sử thời này được minh xác trong bài thơ sử của Phạm sư Mạnh thế kỷ thứ 14 : Nghỉ thuyền hà thạch tố thanh ba Lũng lại tranh nghênh sứ Bái qua LÔ THỦY phân ly THAO tục LẠC VĂN LANG nhật nguyệt THỤC sơn hà. câu : Lô thủy phân ly Thao tục Lạc nghĩa là : Nước và Lửa , bắc và nam tức người Kanh và người La trước là anh em một nhà nay tách biệt ;Lạc liên kết với Long thành Lạc- Long hay Hoa mở ra chiến cuộc Hoa-Di mà tàn cuộc chiến nước Thao ra đời thay cho nước Lạc hay Lạc quốc. Hồng Bàng Thị nghĩa là ‘thời Hồng bang’,. Việt Thường Thị là ‘thời nhà Thương’, hay Việt Thường, cũng là Đường quốc. Đô ấp thứ 2 của nhà Hạ là An ấp, bị Hậu Nghệ cướp ngôi khi phục quốc dời đô về vùng Nam Hải hay Hải Nam tức Quảng Đông ngày nay, cổ sử ghi là Đô Ấp thứ 3 nhà Hạ là Dương Thành, chính là Quảng Châu ngày nay. Thời Hải Lang Hạ Vương, vương triều đầu tiên trong Tam Đại của Trung Hoa là thời đã hoàn tất việc đúc kết dân tộc và kết tinh văn hóa. Bốn dòng : Hồ Động Đình, sông Cả, sông Cương và sông Hắc ; dần theo thời gian cộng sinh và cộng huyết đã dần đúc nên hình nên dáng của dân tộc Việt ngày nay, đó cũng là sự kết tinh văn hóa của 4 phương nên trong người Việt hiện nay là tổng hoà các yếu tố văn hóa các dòng ngôn ngữ : Môn-Khmer, Tày-Thái, Nam đ̣ảo và sau cùng là sản phẩm của lịch sử... người Việt đã buộc phải thêm vào kho ngôn ngữ của mình dòng ngôn ngữ Hán -Tạng. Ngày nay Đông nam Á đã là một Hiệp hội ,tiến tới chắc hẳn có một hiến ước và rồi tất phải có một ngôn ngữ Đông nam á ; ứng cử viên sáng giá nhất cho chiếc ghế này là Việt ngữ vì về ‘hình’ thì Việt ngữ đã cách tân dùng mẫu tự Latinh là loại mẫu tự dễ dàng tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới còn về ‘thanh’ thì bản thân tiếng Việt do lịch sử hình thành đã là ‘tiếng’ Đông nam á từ mấy ngàn năm nay rồi. Con cháu Viêm Đế + con cháu Thiếu Hạo  con cháu Hiền Vương – Hiên Viên, Trên lãnh thổ tây bắc Việt Nam, người La lại hòa huyết với người Miêu, con cháu của tổ phụ Xuyên Húc (sông Hắc) hay Vũ Tiên thành ra người Kanh -Lạc; Bước sau cùng của quá trình đúc kết là thời Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ hay ông Vũ lấy vợ là Đồ Sơn Thị sinh ra Lạc Long Quân mở ra thời kỳ lịch sử Việt Nam gọi là triều Hùng Hoa – Hải lang. Hùng Hoa cho ta dân tộc Hoa. Hải Lang – Hạ Vương cho ta vương triều Hạ. Đất Đào hay Đào Ấp cho ta tổ quốc “Thao” hay Hồng Bang (Hồng Bàng Thị). Tiền nhân người Việt đã hao hơi tổn sức không biết bao nhiêu để sáng tác và lưu truyền hàng ngàn năm truyện sự tích trầu cau, cốt lõi chỉ nhằm giúp con cháu xác định được dòng giống của mình. Trong sự tích trầu cau ta thấy sự hiện diện của 2 ông, 1 bà; 1 ông biến thành cây cau, chính xác là cao, trên cao là thiên, 1 ông biến thành hòn đá là địa, có thiên có địa rồi còn ngôi “nhân” dành cho người nữ, đó chính là hình dạng quẻ Ly theo Dịch Lý họ Hùng (ngược với Dịch Lý của Trung Hoa), 2 ông là 2 vạch liền, 1 bà ở giữa là vạch đứt: đấy chính là ý nghĩa của nước “Xích Qủy” trong truyền thuyết rồng tiên, Xích quẻ tức màu đỏ, quẻ Ly mà ai đó đã cố công biến ‘quẻ” thành “qủy” để che mắt thiên hạ. Khi nhai trầu thì biến ra thứ nước “màu đỏ’ trong tiếng Việt ‘nước’ là 1 thứ vật chất nhưng cũng có nghĩa là quốc gia, nước đỏ chính là “Đào quốc” hay “Hồng Bang”. Ngành khảo cổ học Việt Nam đã có đầy đủ các dữ kiện để xác định trên lãnh thổ Bắc Việt hiện nay thời trước Công Nguyên đã có mặt ít nhất 3 thành phần văn hóa chính thể hiện trên những lưu tồn vật chất mà khảo cổ học đã khai quật được; núi rừng Tây và Bắc mang đậm yếu tố “Tày cổ” đồng dạng với văn minh Tây Giang cùng thời kỳ; chếch về hướng Đông là các yếu tố văn hóa Hạ Long, đồng dạng với các yếu tố văn hóa dọc bờ biển nam Trung Hoa; và sau cùng là các yếu tố văn hóa của người “Thanh – Nghệ” tiến ra khai phá Đồng bằng sông Hồng .. Thời Lạc Long Quân – Hùng Hoa : 2 thành tố Lạc và Long đã tạo ra thành tố Hoa. Thời Hùng Việt → người Việt, dân tộc Việt. Thời Hùng Hoa → người Hoa, dân tộc Hoa. Người Việt Nam cũng rất tự hào về thời quá khứ Hồng Bàng Thị hay Hồng Bang của dân tộc mình. Hồng Bang, đất Đào, quốc gia Thao đều phát xuất từ mã tin Dịch Lý: Quẻ Ly tức ngọn lửa biểu trưng cho ánh sáng và sức mạnh hay nguồn năng lượng của mặt trời chiếu dọi xuống trái đất tạo nên mầm sống. Tương truyền là ông Khải cho đúc 9 cái vạc đồng làm quốc bảo, như thế vào đầu đời Hạ, Trung Hoa đã bước vào thời đồ đồng. Nhà Hạ có 2 thời kỳ: thời lập triều và thời tái lập. Sau ông Khải truyền đến Thái Khang thì bị Hậu Nghệ cướp ngôi; cháu chắt Khải đế phải chạy đến vùng định cư của con cháu ông Thuấn nhờ sự giúp đỡ và ủng hộ của họ Thiếu Khang đã đánh bại Hàn Tróc dành lại ngôi vua, lịch sử gọi là Thiếu Khang Trung Hưng. Cổ sử Trung Hoa chép nhà Hạ có 3 đô ấp: - Thứ nhất là Khang Địch nghĩa là đô ấp ở phía tây đất nước. - Thứ hai là An Ấp đã xác định ở trên. -Đô ấp Thứ ba là Dương Thành, Dương Thành nghĩa là thành phố phía đông, còn gọi là Long Thành chính là thành phố Quảng Châu ngày nay, Dương Thành đã có lịch sử trên 4.000 năm và dứt khoát không phải là thành phố của dê (dương là dê), như ai đó muốn bôi bác nó để chối bỏ lịch sử. Chúng ta xếp vương triều Hạ khởi đầu thời Lịch sử vì đã có đủ thông tin về 17 đời vua và 3 kinh đô. Vương triều Hạ kể cả Hạ Vũ là 17 đời, lãnh đạo đất nước Đào hay Thao trên 400 năm, vua sau cùng là hôn quân bạo chúa tên Kiệt bị Thành Thang đánh bại và nhà Thương thay nhà Hạ. Các vua nhà Hạ, Hồng bang là: 1. Vũ, 2. Khải, 3. Thái Khang, 4. Trọng Khang, 5. Tượng, 6. Thiếu Khang, 7. Trữ, 8. Hòe, 9. Mang, 10. Tiết, 11. Bất Hàng, 12. Quynh, 13. Cẩn, 14. Khổng Giáp, 15. Cảo, 16. Phát, 17. Kiệt. Từ thời Thiếu Khang Trung Hưng, trung tâm Thao Quốc chuyển về Quảng Đông không nằm trên đất Việt nữa, tới thời Kiệt dân chúng thường nguyền rủa: “Mặt trời ơi, hãy tắt đi chúng tao vui lòng chết cùng mày.” Việc này chỉ ra: dân chúng nhà Hạ gọi chúa là mặt trời hay Ly – Lửa (Quẻ Ly cũng chỉ mặt trời, hay nguồn năng lượng), sau Ly biến thành họ Lý, họ Lê ; Con cháu nhà Hạ đã có công khai phá vùng Phúc Kiến-Triết giang lập nên nước “Việt” thời Chiến Quốc vùng này cũng gọi là Mân Ấp – vùng đất dành riêng để thờ cúng các vua nhà Hạ. Trong triều đại Hùng Hoa-Hải lang ; Hậu Nghệ là thủ lãnh tộc Di vì Thái Khang là vua ngu tối không lo chính sự chỉ ham săn bắn, có lần đi săn ở Nam Lạc Thủy cả 100 ngày không về, Hậu Nghệ đem quân chặn ở Bắc (Dịch Lý) Lạc Thủy, thế là Thái Khang đành sống lưu vong. hậu Nghệ tôn em Thái Khang là Trọng Khang lên ngôi nhưng thực quyền đều nằm trong tay Hậu Nghệ, sau khi Trọng Khang chết thì Hậu Nghệ chính thức lên ngôi vua. Lạc Thủy nay chỉ còn là con sông nhỏ chảy qua rừng quốc gia Cúc Phương, thuộc Ninh Bình – Việt nam ngày nay. Sử Trung Hoa viết, thời đó trên trời có tới 10 mặt trời, nóng quá mặt đất khô khan không còn giọt nước, dân chúng kêu than vang trời, Hậu Nghệ dùng cung bắn 9 phát rụng liền 9 mặt trời chỉ để lại 1 mặt trời như ngày nay; truyền thuyết là vậy, sự thực ra sao? Đây chỉ là hiện tượng thời tiết tự nhiên ,qua cơn hồng thủy đến thời hạn hán , khi hạn hán mặt ao đầm khô nước nứt nẻ thì thủy quái thuồng luồng làm sao sống, nhưng truyền thuyết chép là Hậu Nghệ dùng tài bắn cung bách phát bách trúng diệt hết thủy quái cứu dân; điều này chứng tỏ tâm tình của nhân dân rất kính trọng Hậu Nghệ chứ không chê bai khinh thường như 1 kẻ cướp ngôi … vô đạo. Hậu Nghệ là cấu trúc tiếng Việt; còn cấu trúc Hán văn là Nghệ Hậu. Hậu Nghệ là thủ lãnh tộc Di, tộc Di hay Di Lão chính là người La bị Đế Khải đánh đuổi phải di cư lên phía Bắc đến núi Kỳ Sơn; tộc Di Lão còn được gọi là Di Việt sau Hậu Nghệ bị Hàn Tróc giết và cướp ngôi, Thiếu Khang con cháu nhà Hạ được sự ủng hộ của bộ tộc Hữu Ngu dòng Đế Thuấn đã đánh bại hàn Tróc khôi phục vương triều Hạ . Chúng ta thấy truyền thuyết lịch sử đã không công bằng với Hậu Nghệ tuy nói rõ vì vua ngu tối ham hưởng lạc mới đưa đến việc soán ngôi , khi ở ngôi Hậu nghệ đã làm bao điều ićh quốc lợi dân nhưng vẫn không ̣đ̣ược coi là 1 triều đại chính thống .
  13. 8 . Hùng triều thứ : 8- Hùng Việt Vua khai sáng :– Tuấn Lang Danh hiệu khác trong Việt sử : Tản Viên, Sơn tinh, Tản Viên sơn thánh quốc chúa đại vương, Nguyễn Tuấn. Danh hiệu khác trong Hoa sử : Đại vũ, Hạ vũ Niên đại : 2200 trước CN Truyền thuyết về Sơn Tinh thì nhiều vô vàn, nhưng rõ nhất là truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, tổng kết ta có thông tin: Sơn Tinh là người đã chiến thắng Thủy Tinh, ý nói đã thành công trong việc trấn áp cơn hồng thủy khủng khiếp, tái tạo lại quốc gia, được Hùng Vương gả con gái và truyền ngôi, Sơn Tinh Tản Viên lên ngôi cũng lấy hiệu là Hùng Vương, đối chiếu với sử liệu Trung Hoa ta nhận ra Sơn Tinh và ông Hạ Vũ là 1, cũng trị thủy gian lao vất vả, cũng tận tâm tận lực đến 3 lần đi qua nhà nghe tiếng con khóc mà không có thời giờ bước vào nhà. Ngày nay, Sơn Tinh vẫn được dân chúng chung quanh núi Ba Vì thờ với tên hiệu đầy đủ là: Tản Viên Sơn Thánh Quốc Chúa Đại Vương. Trong dân gian, Sơn Tinh còn có rất nhiều tên khác: Sơn Tinh – Tản Viên – Cao Sơn – Quí Minh – Nguyễn Tuấn V. v… với các ‘thần tích’ khác nhau đôi chút. Danh hiệu Tản Viên là rõ nhất về ý nghĩa nối dòng Hùng, dòng Tản Viên tiếp nối dòng Hiên Viên, hay Hiền Vương chuyển tiếp sang Tuấn Vương như thế rất rõ ràng trong việc liên tục quốc thống Họ Hùng : Đế Minh → Đế Nghi → Đế Lai → dòng Tản Viên – Hạ Vũ . vương quyền nay chuyển sang con cháu Lộc Tục ở phương Nam hay cõi Nam Giao…chỉ ” Nguyễn Hồng Sinh công bố trong “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm” một thông tin cũng rất hay: “Kinh Dương Vương ở đây là Hùng Lạc Lâm lang được tôn là ‘Nam Triều Thánh Tổ Ngọc Hoàng Thượng Đế’ và vợ được tôn là ‘Đệ Nhị Thượng Ngàn Thánh Mẫu’. Hùng Vũ Vương – Hiên Viên được tôn là “Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế’ Hùng Việt Vương – Tản Viên được tôn là “Tản viên sơn thánh quốc chúa đại vương” là sự tiếp nối hợp lẽ dòng Hùng. Truyền thuyết Sơn tinh Thuỷ tinh viết :...nước càng dâng lên thì núi càng vượt cao hơn nữa...ta chợt hiểu về ý nghĩa chữ Việt trong danh hiệu Hùng Việt , Việt là ký âm của từ Vượt của Việt ngữ , Vượt lũ ...đợt biển tiến Holosen , một thảm họa khủng khiếp mà cha ông ta đã kiên cường vượt qua sau cùng đã chiến thắng tai trời ách nước tất cả những thông tin về thời bi tráng ấy được cô lắng vào 1 nhân vật đó là Hùng Việt – Tuấn lang; từ Tuấn là ký âm bằng chữ Nho sai làm mất ý nghĩa chữ Tản trong Tản viên, Tản là tán đồng âm với Tốn là 1 quẻ của bát quái nghĩa là gió ,Hoa ngữ là phong chỉ phương tây đối lập với phương động - quẻ Chấn , Tản viên hay Tản vương đồng nghĩa với Tốn lang (không phải Tuấn) nghĩa là vương của đất Phong hay tây vương , Truyền thuyết Việt nói vua Hùng đóng đô ở Phong châu chính là chữ Phong này,đất Phong hay phong kinh của nhà Chu khi mới dựng nước cũng cùng một nghĩa , 2000 năm sau nhà Đường lập Phong châu đô hộ phủ cũng chính là chữ phong này. Chính nghĩa Ngô Việt xuân thu nói: "Vũ đi khắp thiên hạ, trở về ĐẠI VIỆT, lên núi Mao để họp quần thần bốn phương, phong người có công, phong tước người có đức, chết rồi táng ở đây. Vũ là vua Hạ vũ , 2 chữ ‘Đại Việt’ ở đây đã khẳng định sự liên quan giữa danh hiệu Hạ vũ và Hùng Việt vương- Tuấn lang ,núi Mao thực ra là Mưu , mưu-mẹo chỉ phương tây như đã xác định trong bài ‘thập nhị địa chi Việt’ cũng chính là núi Tản , tản biến âm của Tốn , quẻ Tốn là phong –gió trấn hướng tây trong Tiên thiên bát quái .(nhìn trong không gian 3 chiều) Tóm lại Tốn lang là vương của đất Phong tức đất phía tây của quốc gia tương tự như : Viêm lang là vương phương bức (bắc). Lâm lang là vương phương nam hay cõi Nam giao. Sau cùng kế nghiệp Tốn lang là Lung lang hay Linh lang nghĩa là vương phương đông hay động mà ta sẽ kể đến ở chương sau ; như thế đất nước đã trọn đủ 4 cõi. Kinh Dương Vương có nghĩa là vua hay Chúa phương Nam hay phương Nước ngược với Viêm phương (phương Dịch Lý) nên trong lịch sử có nhiều Kinh dương vương như Lâm lang, Tuấn lang.v.v. trong truyền thuyết Đạo Giáo Trung Hoa do không hiểu chữ ‘Hùng’ nghĩa là gì nên thời gian tiếp nối người ta “bịa” ra điều rất ngộ nghĩnh … sự kiện ông Vũ được truyền ngôi và trở thành Hùng Vương … biến ra : ông Vũ hoá thành con gấu … theo Hán ngữ ‘Hùng’ là con gấu; vợ của ông Vũ sợ quá chết hóa ra hòn đá núi, chữ đá núi này chắc chắn có “gốc” là chữ “Đồ Sơn”, tên vợ ông Vũ là “Đồ Sơn Thị”. ‘Đồ’ là biến âm của từ đá, sơn là núi, qua 5, 7 lần dịch và sao chép …. từ Đồ Sơn biến ra ‘Đá núi’ thì cũng không lạ lắm. Vua Vũ đã có lần hội chư hầu ở Côi kê..., hầu hết các sách sử đều chép như thế chỉ riêng có ông Trần trọng Kim trong Việt nam sử lược viết vua Vũ hội chư hầu ở Đồ sơn ; xét kỹ ta thấy ông Trần trọng Kim đúng vì lúc vua Vũ hội chư hầu làm gì đã có đất Cối kê, cả hai ba trăm năm sau khi vua Vũ chết thì Thành vương thời nhà Hạ trung hưng mới phong cho con thứ đất ấy làm chốn riêng thờ vua tổ , sử còn chép rõ..: vua tôi cắt tóc ngắn , xâm mình lội nước lao động cật lực khai phá đất mới...., vì là đất dành riêng thờ vua Vũ hay Hùng Việt nên sau này lập quốc vẫn gọi là nước Việt. Khi hình thành nên tộc Kinh-Lạc dòng máu người họ HÙNG đã là sự hòa huyết của 3 thị tộc gốc: người dòng CẢ của phương bắc, người CỬU_LÊ của phương tây, người MUN hay MIÊU của phương nước hay nam xưa tức phương bắc ngày nay. Truyền thuyết Việt nói : KINH DƯƠNG VƯƠNG kết hôn cùng LONG _NỮ con ĐỘNG ĐÌNH QUÂN; thế là người họ Hùng đã đi hết đoạn đường mà tạo hóa sắp đặt để hòa thêm dòng máu thứ 4 vào huyết thống của mình dòng máu của LONG tộc ở phương ĐÔNG, diễn biến này được Truyền thuyết lịch sử Trung hoa viết :Vua ĐẠI VŨ lấy vợ là ĐỒ SƠN THỊ, Đồ sơn thị là người con gái ở ĐỒ_SƠN ; phải chăng là bãi biển Đồ sơn ở Hải phòng bắc Việt hiện nay ? cổ thư trung hoa có nói đến việc họ KINH XUYÊN và ĐỘNG ĐÌNH đời đời là thông gia.. Hùng Việt Vương – Tuấn Lang vẫn giữ quốc hiệu là Nam bang hay Lạc . Ta nên chú ý về những từ đồng âm dị nghĩa nếu không sẽ không thể hiểu khi đọc lịch sử Trung Hoa vì trong cổ sử chứa rất nhiều Dịch tượng . Thí dụ: cũng là từ Mun hay Man, khi dùng chỉ người Mông Cổ hay Mãn thì có nghĩa là người phương Nam (phương của Dịch Lý), vì phương Nam trong Ngũ Sắc là phương màu Đen là Huyền Thiên. Còn khi dùng để chỉ định sự vật theo màu sắc thật, thì ý nghĩa khác hẳn như gọi người Khmer là người Miên, người Miến Điện là Môn ý nói họ có màu da đen. Mun → Môn → Miên. Núi thờ Tản Viên Sơn thánh là Núi Ba Vì, truyền tích của Việt Nam theo các tư liệu dân gian mới tìm được thì vua Hùng có 3 người con: Nguyễn Nghi Nhân, Nguyễn Minh Khiết và Nguyễn Long Cảnh. Trong bối cảnh cổ sử đó nhiều người cho là: Nguyễn Nghi Nhân là đế Nghi, Nguyễn Minh Khiết là đế Minh như thế thì không ổn, gây ra sự lộn xộn rối rắm vô cùng, Nguyễn Minh Khiết là vua Hùng lại trở thành con vua Hùng …, đế Nghi là con cả vua Hùng lại trở thành anh em sinh đôi của đế Minh tức vua Hùng ...thực không hiểu nổi. Ta có thể hiểu theo cách nhìn mới hợp lý hơn: Nghi Nhân, Minh Khiết, Long Cảnh là 3 cộng động người đã tái lập quốc gia họ Hùng sau cơn hồng thủy Holocene, 2.000 năm trước Công Nguyên. Nghi Nhân là cộng đồng người Lửa là con cháu đế Nghi, Hùng Hy Vương ở An Ấp do ông Cao Giao lãnh đạo. Minh Khiết là cộng đồng người Kinh ở Lạc Ấp, do ông Vũ hay Sơn Tinh (cũng có tên là Cao Sơn, Quí Minh Lãnh đạo). Long Cảnh là cộng đồng người ở nơi sau này là Lương Ấp, là con cháu của Long Nữ – Đồ Sơn Thị là vợ ông Vũ hay Tản Viên. Như thế trong cơn nguy nan do giặc nước gây ra, 3 cộng đồng đã đồng sinh đồng tử vượt thắng thiên tai và Tản Viên được thờ cùng với 2 thủ lãnh dân đất Đào và dân Lương Ấp thành ta có Núi Ba Vì. Dân tộc Việt tồn tại tới tận ngày nay, vẫn gọi tổ quốc mình là “Nước” và nhận định mình là người “Kinh” đủ thấy ấn tượng thời Hùng Việt Vương in đậm trong tâm thức con người đến chừng nào trên 4.000 năm qua bao cơn quốc nạn, sử sách bị tiêu hủy, bị tráo đổi nhưng “bia miệng vẫn còn trơ trơ”. bất chấp sự tàn độc và muôn vàn mưu ma chước qủy ta vẫn là ta thuở nào. Cổ sử Trung Hoa rất coi trọng ông Hạ Vũ thực ra không có ông Hạ Vũ, Hạ Vũ nghĩa là Vua Hạ Khi về già muốn truyền ngôi cho ông Cao giao nhưng ông đã chết trước, điều này cho thấy Hạ Vũ nhận vương quyền từ họ Cơ, họ của Hoàng Đế, nay muốn trao lại cho chính họ Cơ nhưng Cao Giao đã chết, nên ông Vũ muốn truyền ngôi lại cho ông Ích là con ông Cao Giao nối tiếp dòng Hùng Vũ (ông Vũ là con rể) theo đúng quan niệm đạo đức truyền thống. Nhưng sự việc đã diễn biến khác để sau đó có triều Hùng Hoa Vương kế tiếp. Trong việc trị thủy của Hạ Vũ, cổ thư Trung Hoa có nói đến một điển hình “khai sơn phá thạch” đó là ông đã đục bạt cả một phần ngọn núi tên là Long Môn Sơn để khai thông dòng nước chảy ra biển. Hán Thư cũng có đoạn ngắn nhắc đến việc trị thủy: “Ở Giao Chỉ trước Công Nguyên, người Giao Chỉ đã đắp đê ngăn không cho nước sông Long Môn tràn bờ gây lụt lội…” Để chỉ định chính xác Long Môn xưa, nay là con sông nào thì các nhà khoa học còn phải mất nhiều công sức, ở đây ta chỉ có thể liên kết 2 sự kiện: Núi Long Môn chắn dòng sông Long Môn là nơi Hạ Vũ đã “khai sơn phá thạch” khiến thông dòng nước chấm dứt cơn hồng thủy để ức đoán chính là vùng sông Đà núi Tản nơi có đền thờ Sơn tinh quốc chúa, với công trạng như thế đương nhiên ông Vũ trở thành thủ lĩnh của tổ quốc thời phục hưng, sử chép là ông được vua Hùng gả con gái và truyền ngôi , đô ấp của ngài là Khang địch , chữ địch là biến âm của chữ đoạt tên khác của quẻ Đoài cũng dùng chỉ phương tây trong hậu thiên bát quái , Khang hay khăng là phía tây theo Hà thư như vậy đô ấp Khang đoạt đồng nghĩa là Tây đô. Hùng Việt-Tuấn lang đã theo lệnh đế Thuấn tiến đánh Tam miêu nhưng không thành công, sau vua không đánh nữa mà lo mở mang “văn đức” để giáo hoá thiên hạ, chúa Tam miêu đã đến chầu nghĩa là thần phục như xưa. Thời Hùng Việt Vương, Hạ Vũ đã gây ấn tượng rất sâu sắc trong lòng người Việt không bao giờ phai mờ và người Việt coi ông là tổ trực tiếp của quốc gia – dòng giống mình, trong dòng chảy liên tục của lịch sử, triều Hùng Việt Vương – hay Tản Viên Quốc Chúa cũng là thời điểm đặc biệt: là bản lề giữa ngàn năm lập quốc, thời đúc kết các dòng tộc thành một dân tộc thống nhất để sau đó chuyển mình trở thành 1 vương quốc. Về mặt lịch sử cũng chấm dứt thời sơ sử đề bắt đầu thời lịch sử. Dấu tích thời Hùng Việt -Tuấn lang lưu lại trong lòng đất đã được khảo cổ học Việt nam khám phá - khai quật và đặt tên là nền văn hoá Phùng nguyên, tuy còn đang tiếp tục nghiên cứu nhưng sơ bộ xác định các hiện vật thu được có nhiều nét tương đồng với các hiên vật cùng niên đại thuộc về nền văn minh tạm gọi là của người Tày cổ phân bố rộng từ núi rừng bắc Việt nam tới tận bờ Châu giang như vậy là hoàn toàn trùng khớp với đất Nam giao...(chỉ )thời Đường- Nghiêu Mở nước về phương nam xưa.
  14. 7 . Hùng triều thứ 7- Hùng Thuấn Vua khai sáng : Lâm lang. Danh hiệu khác trong Việt sử : Hùng Quốc Vương –Hùng Lạc vương-Nam triều thánh tổ ngọc hoàng thượng đế-Nam bang triệu tổ. Danh hiệu khác trong Hoa sử : Thuấn đế- Ngu thuấn Quốc hiệu là : nam bang ,lạc quốc, Bách Việt đại liên bang Phương Nam (Nam của Dịch Lý là phương ngược với Nam của thời nay), các mã tin Dịch Lý của phương Nam là: màu đen, hành Thủy, phương 1 / 6 của Hà Thư. Nguyễn Hồng Sinh đã viết trong “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm”: danh hiệu Hùng Thuấn Vương còn trong ‘Hùng Vương Thập Bát Chi Thế Truyền’ và các tư liệu khác thì ghi là Hùng Quốc Vương . Trong Việt ngữ chữ Nước có 2 nghĩa : - nước là loại chất lỏng nền tảng cấu tạo nên mọi sinh vật.,dịch lý dùng chỉ phương nam đối nghịch với phương lửa ở hướng xích đạo. -nước là Quốc gia Theo Hà thư : phương nước cũng là phương nam như ngôn ngữ ta dùng ngày nay, Nam bang cũng là Nước bang hay Lạc quốc.; lạc là biến âm của :nước-nác-lạc.(nước vật chất). Hùng quốc vương là chữ dịch lầm của từ Hùng Lạc tức Hùng nước; người dịch đã lẫn lộn nghĩa này sang nghĩa kia. Như vậy từ “Nước” xưa là tên riêng của nước ta khi trung tâm quốc gia chuyển về phương nam, quốc gia Nước cũng là Nam bang hay Lạc quốc. Ban đầu là 1 danh từ riêng về sau người Việt đã biến nước thành danh từ chung đồng nghĩa với quốc gia , như vậy “Hùng quốc vương “hay“Hùng Lạc Vương” nghĩa là vương của quốc gia Nước dòng họ Hùng ., ở Việt nam chỉ thấy có ông Nguyễn Trãi nói đến nước Hùng Lạc này. Ta tìm hiểu chữ ‘thuần’ để xác định danh hiệu của vị vua này. Theo Hà Thư thì phương Nam (hướng Bắc hiện nay) được biểu tượng bằng cặp số 1 / 6, số 1 này cho ta từ ‘thuần khiết’ hay ‘duy nhất’, như thế vua Nam bang phải là Hùng Thuần không phải là Thuấn như sách sử đã chép.. Hùng Thuần Vương còn được gọi là Lâm Lang; lâm là biến âm của nam, phương Nam; nam → lam → lâm; Lâm Lang nghĩa là chúa đất phương Nam . Chính sử Trung Hoa chép: “Kế vị Đế Nghiêu là Đế Thuấn, Đế Thuấn còn được Đế Nghiêu gã 2 công chúa là Nga Hoàng và Nữ Anh làm vợ. Tư liệu của Nguyễn Hồng Sinh nêu tên vợ của Hy Thúc hay Hy Hòa là Nữ Hoàng Anh, kết hợp 2 tư liệu này cho ta kết luận Đế Thuấn hay Thuần (Hùng Thuần Vương) chính là Hy Thúc người đã vâng mệnh vua Nghiêu “trạch Nam Giao” tức mở mang bờ cõi quốc gia về phương Nam (Dịch Lý). Nhưng tại sao lại là Ngu –Thuấn ? chỉ có dịch học mới mở được chữ Ngu này :trong dịch học có cặp đối : con- thằng, cong- thẳng, cong vòng – ngay thẳng, từ kép ngay thẳng biến âm ra: -Thẳng→thàng→đàng→đường. -Ngay→ngây→ngô→ngu. Ta có 2 hình tròn và vuông là biểu tượng của dịch lý, tròn tượng trưng cho trời, vuông tượng trưng cho đất , tròn là nét cong vuông là nét thẳng, luôn luôn tròn hoặc ở trên hoặc ở phương xích đạo tức phương bắc , vuông ở dưới hoặc phương nam (xưa- theo dịch lý); từ Ngu trong hiệu của Lâm lang là biến âm của Ngay trong ngay thẳng chỉ phương Nam. Đất giao nam hay đất Đường hợp với đất mới khai phá là Nam giao (chỉ) thành đất LẠC hay LỤC= số 6 phương nam của Hà thư. Đất Nam giao về sau sử Trung hoa gọi là đất Lâm (Nam→lam→lâm) có vị trí rất đặc biệt nằm giữa 4 vùng đất chính nên trong lịch sử đã nhiều lần bị tách ghép: - ghép với đất Đường hay Việt thường thành “Đường lâm” quê của Ngô Quyền. - ghép với đất Tượng ở phía tây thành “Tượng lâm”. - ghép với Qúy châu thành ra “Quế lâm”.(Quý→Quế) - ghép với Quảng đông thành “Nam hải” (Nam=Lâm) Trong ý nghĩa đất Nam giao (chỉ) ban đầu chỉ là phần đất tây nam quảng tây về sau mở rộng thành cả vùng lĩnh nam . Thủ đô của Nam bang thời Hùng Lạc hay Thuấn đế là Bồ bản ; từ Bản ở đây là danh từ chung chính là chữ bản trong bản làng , Bồ bản đồng nghĩa với làng Cả hay Đô ấp tất cả đều có nghĩa là thủ đô hay kinh đô . Quá tr̀inh mở nước hàng ngàn năm được tóm gọn trong bài thơ 4 câu chưa rõ tác giả : Văn hiến thiên niên quốc Xa thư vạn lý đồ Hồng bàng khai tịch hậu Nam phục nhất Đường Ngu Trong bài thơ này đặc biệt câu : Nam phục nhất Đường Ngu ...nhiều bậc khoa bảng ̣đành chịu không hiểu nổi....không lẽ các vua Đường Nhiêu Ngu Thuấn lại đi mở nước về hướng nam cho người Việt ...? .Riêng chúng ta trong sử thuyết họ Hùng này thì hiểu rất rõ ý nghía câu thơ đó. Đền Hùng là chốn linh thiêng bậc nhất của người Việt tương truyền ngôi mộ ở đấy là mộ thật của Hùng vương thứ sáu ; qua thiên khảo luận này có thể xác định đấy là mộ của HÙNG LẠC VƯƠNG , người đời đã lầm từ Lục là số 6 với từ LẠC là nác hay nước nên cho là mộ của Hùng vương thứ sáu, chính câu “ Nam bang triệu tổ” đã giúp ta khẳng ̣định ; triệu là biến âm của âm gốc là “Chậu” tiếng Thái Lào nghĩa là ông hoàng hay vương, đồng nghĩa với Chủ- chúa trong Việt ngữ., ‘Triệu tổ Nam bang’ nghĩa là vua tổ của nước Nam cùng một ý nghĩa với đạo hiệu :NAM TRIỀU THÁNH TỔ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ của Hùng Thuần vương trong Hùng phả. Thời Hùng Lạc có bộ lạc thuộc tộc Mun bất phục bị Thuấn đế đuổi ra khỏi cõi Nam giao đày đến miền Tam nguy từ đó gọi là Tam miêu , đất Tam nguy nay là đông Qúy châu và tỉnh Hồ bắc Trung quốc. Hán thư có 1 đoạn nói về Lạc Quốc như sau: “ … con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là My Nương, quan văn gọi là Lạc Hầu, quan võ gọi là Lạc Tướng, trăm quan gọi là Bồ Chính, dân khẩn ruộng lạc theo nước triều lên xuống …” Do Hán văn không có dấu chấm, phẩy nên nhiều người vẫn hiểu không đúng đoạn văn này, nay ta thử nhìn theo hướng khác: không có ai là Quan lang cả, giữa Quan và Lang phải có dấu phẩy, chính xác phải hiểu là: con trai vua gọi là Quân, là Lang; Quân và Lang là 2 từ thuộc 2 ngữ hệ nhưng cùng 1 nghĩa; tương tự con gái vua gọi là Mẹ, là Nương chứ không phải là Mỵ Nương. Lạc Hầu là quan văn của quốc gia “Nước”. Còn câu “dân khẩn ruộng lạc …” nghĩa là ruộng nước, nhưng đây là nước vật chất, 2 từ đồng âm nhưng dị nghĩa. Dấu vết vật chất lưu tồn trong lòng đất đã khai quật được từ núi rừng bắc Việt nam tới tận bờ Châu giang và gọi là văn minh của người Tày cổ chính là chứng tích thời Hùng Thuần hay Hùng Lạc này.
  15. 6 . Hùng triều thứ 6 : Hùng Hy Vua khai sáng : – Viêm Lang hay Viên lang Danh hiệu khác trong Việt sử : Hùng anh vương – Đế Nghi Danh hiệu khác trong Hoa sử : Nghiêu đế, Đường Nghiêu ,Giao Thường Quốc hiệu :Hồng bang Niên đại (2879 năm trước CN) Hùng Vũ – Đế Minh truyền ngôi vua cho con trưởng là Đế Nghi và phong cho Lộc Tục là “vương” phương Nam… đó là những thông tin của truyền thuyết lịch sử Việt Nam: Âm ‘Hy’ trong Hùng Hy xuất phát từ âm gốc là số hai - 2 trấn phương Bắc của Hà thư. Hai→ hải-hà-hạ-hè-hồ-hời-hoa-huy Tương tự, âm ‘Lục’ là đất và số 6, cũng có cả 1 hệ biến âm: Lục→ lộc-lạc-lịch-nác-nước . Triều đại Hùng Hy – Viêm Lang có 2 vương được truyền thuyết lịch sử Việt Nam nói tới: Đế Nghi – nối ngôi Đế Minh Đế Lai – con của Đế Nghi, là cha của bà Âu Cơ. Ta có âm Lửa→ -La-ly-lý-lê-lô-lai-lão Trong Hoa ngữ số 2 còn gọi là ƠN hay ÔN và biến âm thành an,ân,yên,anh ... tiếng Việt là ấm nên triều Hùng Hy còn được gọi là Hùng Anh vua khai sáng là Viêm lang, các từ : hy-hai, anh-ấm, viêm-nhiệt ,ly –lai đều liên quan tới chữ LỬA chỉ vùng nhiệt đới-xích đạo tức phương bắc của Hà thư, đất ở đấy tên là đất Đào và khi trung tâm quốc gia ở đất Đào thì quốc hiệu nước ta là Hồng bang, tất cả các từ dùng cho triều Hùng Hy đều là các đặc tính của quẻ LY như : lửa,sáng , nóng bức, màu đỏ.v.v.; người Hời ngày nay là con cháu chính dòng Hùng Hy.; nước lập trên đất ấy thời xuân thu- chiến quốc là nước Yên, cổ sử trung hoa thường gọi con cháu Hùng Hy là người Di-lão, từ lão ta đã biết còn Di chỉ là biến âm chủ chữ nhị-nhì hay số 2 mà thôi, loài thú làm biểu tượng dân tộc là con HỔ, hổ cũng chỉ là biến âm của chữ hoả nghĩa là lửa đúng theo điểu thú văn mà ta đ̣ã từng nói đến. Việt Nam có truyền thuyết Thần Trống đồng giúp Hùng Vương đánh giặc và sau đó để tưởng nhớ vua Hùng đã phong là “Đồng Cổ Sơn Thần” và đặt đền thờ ở núi Khả Lao. Khả Lao thực ra là ‘Cả La’ nghĩa là vua hay chúa của tộc La như vậy núi Khả lão chính là nơi thờ Hùng Hy vương - Viêm lang hay Viên lang cũng chính là vua Công lưu của nhà CHU , sự liên quan huyết thống người La và người Chăm sau này được nhận ra nhờ ‘công thức’ Chứa trong đạo vuông –tròn :‘Viên lang’ đồng nghĩa với ‘Hoàn vương’ .Nước Hoàn vương còn gọi là Lâm ấp – Chiêm Thành chính là nước Yên của Thiệu công ;chính xác là Thiêu (đốt) công Thích , thủ đô là Sa huỳnh địa danh khảo cổ nổi tiếng ở miền trung Việt nam .Từ ‘Thiêu’ ở đây chỉ phương nóng hay Viêm phương tương tự như từ ‘Chu’ trong Chu công là chỉ phương tây . Đế Lai được biết đến là cha của Âu Cơ, trong truyền thuyết Âu Cơ – Sùng Lãm. Về niên đại thời Hùng Hy Vương – Viêm Lang có thể ước đoán là thời kỳ đầu của đợt biển tiến Holocen Trung vào khoảng sau 3.000 năm và trước 2.000 năm trước Công nguyên. Truyền thuyết Việt nói Kinh dương vương không lên ngôi đế vì nhường cho anh....nhưng cổ sử Trung hoa lại nói khác : Sở dĩ đế Nghiêu có hiệu là Đường Nghiêu vì trước khi lên ngôi vua có tước hiệu là Đường vương hay vương đất Việt- thường, ta thấy Đường vương chỉ là cách gọi khác của Kinh dương vương mà thôi...,tên tộc của đế Nghi là Giao thường , Giao thường nghĩa là đất Giao chỉ phía nam ( khác với đất phía nam Giao chỉ còn gọi là đất Nam giao ) Đế Nghi có công rất lớn khi cùng Thuấn đế mở mang bờ cõi về phương nam...chỉ một câu ngắn gọn ... “mệnh hy Thúc trạch Nam giao...” so ra bằng hàng mấy trăm năm mồ hôi đổ và có thể là cả máu để tạo cho con cháu mảnh đất Nam giao ...( ở đây phải thêm vào chữ “chỉ ” mới trọn nghĩa cho câu) tức đất lĩnh nam ngày nay.,ở đây là phương Nam xưa theo dịch lý ngược với hiện nay. Người La như ta đã biết chính là người Chàm hay Chăm còn gọi là Hời hiện vẫn còn giữ cả 2 tập tục cổ xưa của con cháu Hùng vương là nhuộm răng ̣đen và ăn trầu, ăn trầu là đặc điểm rất quan trọng để nhân diện dòng giống khi xét theo ý nghĩa của tập tục này mà ta đã nói đến ở phần trước khi bàn về sự tích trầu cau : đấy là qủe Ly và Hồng bang hay bàng và chính là những dấu tích của cộng đồng người họ Hùng thuở ban sơ đã ghi trong sử sách. Lưu ý : Lịch sử nước ta có 2 thời kỳ khác biệt hẳn nhưng lại trộn lẫn nhiều chi tiết đôi khi người đọc không hiểu nổi : - Thời dựng nước truyền thuyết lấy Hà thư làm chuẩn trong đó số 2 trấn phương Bắc (xích đạo ), số 6 trấn phương Nam . Do tính chất các dịch tượng nên : số 2 gắn liền với các thông tin : qủe Ly, đất Đào, Hồng bang, triều Hùng Hy số 6 gắn liền với : Quẻ khảm hay Cóng, đấ́t Việt thường hay Đường, Nam bang, Kinh dương vương. -qua thời Vương quốc cổ sử dùng Lạc đồ làm chuẩn số 2 chuyển về góc đông –bắc xưa theo dịch lý còn số 6 chuyển về góc đông –nam. Hà thư đặt nằm ngang. Lạc đồ đặt nằm ngang. Nhưng các biểu thị của số 2 và 6 vẫn giữ nguyên nên ta có tới 2 đất Đào, 2 Hồng bang, 2 đất Việt thường hay Đường và 2 Kinh dương vương. Khi gặp các thông tin trên phải cẩn thận xem thuộc thời kỳ nào như : - Hồng bang 1 là tên nước thời lập quốc khi trung tâm quốc gia ở đất Đào , triều Hùng Hy. -Hồng bang 2 là quốc hiệu thời triều Hạ vương hay Hải lang- Linh lang , còn gọi là nước THAO. - An dương vương xây thành ở đất Việt thường thì đó là Việt thường 1 ở bắc Việt ngày nay. - nước Việt thường cống chim trĩ cho nhà Chu là Việt thường 2 ở vùng Trường giang. Nếu không phân định được thì có những tình tiết lịch sử đầy mâu thuẫn khiến ta không tài nào hiểu nổi . Kinh Thư thiên Nghiêu điển còn lưu 1 dấu vết rất quan trọng để xác định về mặt địa lý lãnh thổ Trung hoa thời tối cổ : vua Nghiêu sai Hy Trọng đến đóng ở Ngung Di . gọi là Dương cốc , để định mùa xuân...; Ngung di là gốc cổ của tên thành Phiên ngung tức Quảng châu ngày nay và Dương cốc cũng chính là từ mẹ đẻ ra tên Dương thành nay vẫn còn tồn tại , đây là 2 chỉ dẫn đích xác cực kỳ qúy hiếm và khó có thể phủ nhận của cổ thư Trung hoa.
  16. 18 HÙNG triều – Sơ sử * sơ sử* 5 - Hùng triều thứ 5: Hùng Vũ Vương. Vua khai sáng :– Hiền Đức Lang Danh hiệu khác trong Việt sử : Vua Hùng, đế Minh,Vua cha ngọc hoàng thượng đế Danh hiệu khác trong Hoa sử :– Hoàng đế Hiên Viên Quốc hiệu : Nước họ HÙNG, Hữu HÙNG quốc, Viêm Việt đại hưng bang. Niên đại : (3000 trước CN) Chứng tích còn bảo tồn đến ngày nay : 1-các hiện vật khảo cổ của nền văn hóa Quỳnh văn –sông Cả , Nghệ an là vật chứng về sự tồn tại của người dòng CƠ ,bộ lạc của Hiền vương hay Hiên viên 2- nền văn khảo cổ hóa Đa bút là di tích của bộ lạc dòng Viêm đế . 3- miền đất Cánh đồng chum ở trung Lào chính là nơi cư trú của con dân dòng Xi vưu. Hùng Vũ Vương là quốc tổ của dân Việt Nam và Trung Hoa; Hùng là dòng giống; Vũ và vương là từ kép để dic̣h sang Hoa văn từ Vua của Việt ngữ; Hùng Vũ Vương đồng nghĩa với ‘Vua Hùng”. Trong vương hiệu ‘Hiền Đức Lang’ thì : Đức là biến âm của ‘Đế’ = ‘Vương’→ Hiền Đế = Hiền Vương, Lang =Vương→Hiền lang =Hiền vương, đây là kiểu sai thường gặp trong tiếng Việt như : sông Hương giang , núi Thái sơn..v.v. Hiền vương sử Trung Hoa ký âm thành ‘Hiên Viên’ . Cổ sử Trung Hoa chép: “Hoàng đế tên tộc là Ngu, hiệu là Hiên Viên; bộ tộc sinh tụ tại vùng sông Cơ, sau lấy làm họ Cơ, là vua nước Hữu Hùng …” Đoạn sử tuy ngắn nhưng vô cùng quí giá đối với người Việt Nam và Trung Hoa. a. Hoàng đế tên tộc là Ngu, đây là ký âm sai của chữ ‘Ngũ’, ngũ là số 5, trung cung của cả Hà và Lạc;âm ‘vua’= ‘woo’ ký âm hoa ngữ phân hoá thành ngu hay ngũ và Vũ .Và Vì trung cung của ngũ sắc là màu vàng nên mới có tên là ‘Hoàng Đế’ nghĩa là đế của vùng ‘giữa’ tức vùng ‘Giao-chỉ’ – vùng đất tổ của dân Việt theo chính sử. b. Hiệu là ‘Hiên Viên’; ở trên ta đã chỉ ra là ký âm sai của ‘Hiền Vương’ . Theo tryền thuyết thì Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông Thái Viêm, ở trên đã dẫn Thần Nông Thái Viêm là Hùng Hiển Vương → Hùng Nghị Vương – Hùng Diệp Vương – đến Hiền Vương đế Minh đúng là cháu 3 đời. c. Hoàng Đế là tổ họ Cơ (lấy từ tên sông Cơ):Cơ là ký âm Hoa ngữ của từ Cả nghĩa là lớn nhất hay đứng đầu, Đoạn này cho ta những thông tin: Chữ ‘Cơ” không phải là họ Cơ mà là ‘Cô’. Sử ký của Tư Mã Thiên cho biết Cô là từ mà vua chúa xưng mình trước quần thần trong các buỗi thiết triều; cô là tiếng Việt còn lưu dấu trong thầy-cô, chữ cô này đồng nghĩa với từ ‘mẹ’, chỉ người sinh ra mình. Ở đây chữ ‘cô’ đồng nghĩa với chữ ‘cả’ là số 1, đứng đầu chỉ thủ lãnh. Cổ sử Trung Hoa ghi Hiên Viên là tổ họ Cơ, ta hiểu đó là vị cô đầu tiên trong lịch sử dân tộc hay rõ ràng hơn là hoàng đế khai quốc. Đặc biệt cụm từ có tính chìa khóa ‘HÙNG QUỐC’ không phải mới xuất hiện ở thời Hoàng đế , cố gíao sư Kim Định dẫn Đông chu liệt quốc cho biết ...cả Hoàng đế và Viêm đế đều là con của Thiếu ̣Điển , Thiếu điển còn tên khác là HÙNG QUỐC QUÂN nghĩa là thủ lãnh hay người đứng đầu Hùng quốc , đây là giấy trắng mực đen chứ không phải suy đoán gì cả ..., ở Trung hoa ngày nay vẫn lưu truyền ...người mang họ Hùng là dòng dõi trực hệ của Hoàng đế Xưa ... Tóm lại mối liên hệ giữa Hoàng đế hay đế Hoàng quốc tổ Trung Hoa và họ HÙNG là điều không thể phủ nhận . Về địa bàn sinh tụ của dân tộc thời lập quốc là lưu vực sông Cơ, Cơ = Cả (tư liệu Lịch sử Việt ghi là: vùng đất lập quốc của các vua Hùng là sông “Côi”), chính là sông Cả ở Nghệ An Việt nam hiện nay. Ở đây có một địa điểm rất linh thiêng hàng năm dân chúng vẫn tiến hành lễ tế đó là ‘Hang Bua’, rất có thể đây chính là “hoàng cung’ đầu tiên thời lập quốc. Thực là sức sống của dân tộc vô cùng mãnh liệt, nội việc cung vua là hang núi cũng đủ xác định thời gian rất xa xưa có thể cách nay khoảng 5.000 - 6.000 năm, tức vào thời con người ăn hang ở lỗ (ăn lỗ ở hang), xã hội còn là thị tộc hay liên minh thị tộc, mỗi hang là một cộng đồng nhỏ, là cơ sở của xã hội, sau hang → hương nghĩa là làng. Di tích Hang Bua rất có thể là nơi linh thiêng đánh dấu thời khai quốc của người Việt Nam và Trung Hoa và vị vua đầu tiên là Hùng Vũ Vương hay Hiên Viên trong truyền thuyết. d. Hiên Viên là vua quốc gia Họ Hùng : Đây là phần rất quan trọng để xác định nguồn gốc dân tộc Việt; Hiên Viên hay Hiền Vương là Hoàng đế lập nên quốc gia Họ Hùng, quốc hiệu lưỡng tính này có Ý chỉ thời lập quốc hay thời tiến từ liên minh thị tộc lên quốc gia, giai đoạn đặc biệt khởi đ̣ầu với từ hữu và kết thúc bằng từ quốc . Sử Trung Hoa có quy luật đặt vương hiệu đàng hoàng như Chu Văn Vương hiểu là chúa văn của nước Chu hay nhà Chu; Tần Nhị Thế là chúa đời thứ hai của nước Tần ; Hán Vũ Đế là chúa khai sáng triều Hán hay nước Hán. Riêng với chữ ‘Hùng’ lại rất đặc biệt, Hùng là dòng giống chứ không phải tên nước, tộc danh này bao trùm và ở trên quốc hay gia, thí dụ: dân họ Hùng có thể có nhiều quốc danh như :nước Lạc, nước Thao,nước Thục, nước Đại Cồ Việt; mỗi một nước như thế lại có nhiều nhà như Đinh, Lê, Lý, Trần; … nhưng tất cả vẫn xuyên suốt 1 Họ Hùng hay dòng tộc Hùng, chính vì thế ta mới có Hùng Vương thứ nhất, Hùng Vương thứ 2, V. v… . Những dòng lịch sử này đã minh thị đích xác về Họ Hùng mà người Việt vẫn tôn thờ trong tâm thức mấy ngàn năm qua, cũng như dân tộc Trung Hoa tôn thờ Hoàng Đế Hiên Viên, hai dân tộc tôn thờ 2 danh hiệu của cùng 1 vì vua, và cùng nhận là quốc tổ của mình, khi nhận ra: Hiền Đức hay Hiền Vương và Hiên Viên chỉ là 1 thì đã đến lúc viết lại sử Việt Nam và Trung Hoa đó là việc bắt buộc không thể chần chừ lâu hơn được nữa, vì để càng lâu thì tội bất kính – chửi cha mắng mẹ càng chồng chất. Dựa trên truyền thuyết lịch sử Việt Nam và Trung Hoa ta dựng lại toàn cảnh của thời kỳ lập quốc: 5 bộ lạc đã thống nhất hoà huyết tạo nên dòng giống HÙNG: 1 / bộ lạc CẢ ở lưu vực sông Cả thủ lãnh là Hiên viên thuộc tộc My bắc. 2 / bộ lạc Cửu lê ở vùng cánh đồng chum thuộc trung- hạ nước Lào thủ lãnh là Xuy vưu tộc Khương tây. 3 / bộ lạc Mun hay Miêu ở hạ lưu sông Đà tên xưa là Hắc thủy hay Đơn thủy (đơn =đen) thủ lãnh là Hoan đâu, truyền thuyết Việt gọi là con gái bà Vũ tiên tộc Khương nam. 4 / bộ lạc Long hay thần long còn gọi là Động đình ,cầm đầu là Long nữ con gái Động đình quân tộc My đông. 5 / bộ lạc Viêm ở vùng Hoà bình –Ninh bình thủ lãnh là Viêm đế. Bộ lạc Viêm là sự hòa huyết đầu tiên của 2 đại tộc KHƯƠNG và MY , cổ sử Trung hoa chép : mẹ của Viêm đế cảm Thần long mà sinh ra vương , Thần long là tên khác của đại tộc MY.Cả cổ sử Hoa và Việt đều lẫn lộn Viêm đế và tổ phụ Thái viêm đưa đến nhiều đoạn sử không thể hiểu nổi. Sự tồn tại các tộc người và thời điểm dựng nước lịch sử được chứng thực bởi các hiện vật khảo cổ của các nền văn hóa Quỳnh văn ở sông Cả Nghệ an, Đa bút thuộc Ninh bình - Hoà bình Việt nam và cánh đồng chum ở trung Lào. Tóm lược trang sử dựng nước cùa vua HÙNG : Theo Cổ sử Trung hoa thì Hoàng đế và Viêm đế là hậu duệ của Thái Viêm Thần nông , đây chỉ là sự thể hiện sử tính của những con số thuộc Viêm phương theo Hà thư : 7=2+5 , số 7 chỉ Thái Viêm , số 2 là Viêm đế và số 5 là Hoàng đế hay Hùng Vũ – đế Minh HIỀN VƯƠNG thủ lãnh của bộ lạc CẢ nghĩa là đứng đầu (cổ sử Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ) thuộc dòng MY BẮC sinh trú ở lưu vực sông Cả đánh bại XUY VƯU vua của bộ lạc CỬU LÊ dòng KHƯƠNG ; đoạn sử này xuất phát từ cặp số 4-9 chỉ phương tây của Hà thư, xuy là âm của số 4 còn cửu là số 9. Hiền vương thống nhất 2 bộ lạc sau đó đánh bại Viêm đế ở vùng Ninh Bình- Hoà bình Việt nam và đã đúc 3 bộ lạc thành một dân tộc, dân tộc HÙNG, lập nước họ HÙNG và lên ngôi HÙNG VŨ tức VUA HÙNG , lãnh thổ của nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm Hán ngữ thành YUÊ còn được dịch là GIAO CHỈ, chỉ là chỗ, nơi chốn ý nói nơi giao nhau của 2 đường nam –bắc, đông tây, đất ‘giữa’ nay là đồng bằng Thanh Nhgệ Tĩnh và vùng núi rừng phía tây, người Hoa ký âm chữ giữa thành YUÊ ; Việt nho đọc thành VIỆT ( chưa hiểu tại sao ?). Vua Hùng dạo chơi phương nam gặp và kết hôn với con gái bà Vũ tiên hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là biến âm của lục là số 6 và công thức đã ấn định trong hà thư để sinh ra Lục tộc hay Lạc tộc : Hiên viên hay Hiền vương tên tộc là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở trung tâm của Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra Lộc tục được chỉ bởi số 6;ta có: 5+1=6, sau vua HÙNG truyền ngôi cho con cả lập nên triều đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục được phong là vương phương Nam lấy hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG, Kinh biến âm của cóng nghĩa là lạnh cũng là một tên khác của quẻ Khảm chỉ NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước hay phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh còn dương chỉ là biến âm của Giêng tức số 1 của Hà thư.Giòng con cháu đế NGHI gọi là người LA tượng trưng bởi qủe LY là lửa , qủe của Viêm phương. Cổ sử Trung hoa không ‘thích’ con đường hôn nhân mà nhất định phải đánh , phải có chiến tranh và chiến thắng mới oai ...nên viết HOÀNG ĐẾ tức HÙNG VŨ đánh bại HOAN ĐÂU con của vua XUYÊN HÚC ở ĐAN THỦY, đan là biến âm của đen, Đan thủy hay HẮC THỦY cũng là con ‘sông đen’ mà thôi, HẮC THỦY là tên của sông ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là tổ của người MIÊU hay Hữu Miêu tức họ Miêu, chữ Miêu chỉ là ký âm sai của chữ MUN mà thôi, người Mun nghĩa là người phương nam. Tất cả người tộc Miêu đều nhận mình là người MUN. Thực tế thì chẳng có hôn nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là một lối ám chỉ ,diễn tả việc phát triển dân tộc HÙNG về phương nam ,ở đấy cộng sinh và hoà huyết với1 tộc người mới là người MUN kết qủa là tạo thành giòng tộc HÙNG phương nam gọi là người KINH hay CÓNG tên khác của quẻ Khảm chỉ phương nước ngược với phương lửa. LA và KINH là anh em cùng cha khác mẹ , cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua HÙNG và đất giữa hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay kim chỉ nam còn được gọi là LA-KINH tức cây kim 2 đầu, 1 đầu Bắc và1 đầu Nam nhưng chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi người đều biết là người VIỆT hiện nay còn người LA ? Câu ca dao sau sẽ dẫn dắt chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn: Ai ơi chớ lấy KẺ LA. Cái dưa thì khú cái cà thì thâm. Gạt bỏ ý tứ trong lối chơi chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có được 1 thông tin quan trọng và qúy giá đó là KẺ LA, kẻ nghĩa là người , kẻ La là người La tên người Việt gọi người CHĂM hay CHÀM; thì ra La và Kinh là chỉ người Việt và người Chàm hiện nay..., người Chàm là dòng đế NGHI con cả của vua HÙNG, thật là một bất ngờ to lớn khi biết La là quẻ Ly ;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và quẻ nước biểu thị sự phân cực của một thể thống nhất theo luật lưỡng nghi của dịch học. Người Chàm chỉ là một phần của người La , người La hiện nay có mặt ở nhiều nơi trong vùng đông nam á và trung quốc, Lào và Thái có người LÀO hay LÃO QUA, Trung quốc có người DI LÃO hay CAĐAI và người LÊ, các từ Ly-la- lê-lão-lô..v.v chỉ là những biến âm của 1 từ gốc là LỬA, chữ Di là tàn tích của chữ NHÌ là thứ hai . DI_LÃO có 1 từ kép Đối xứng là KINH_LẠC, qủe Cóng đối với qủe Ly hay Kinh đối với Lão; Lạc biến âm của lục số 6 đối với Di biến âm của nhị số 2, 6 và 2 là 2 số đối phân cực Bắc –Nam của Hà thư. Người KINH- LẠC; ngoài người Kinh ở đất Việt hiện nay còn có dòng Bách-lộc và người Hẹ hay Hacka và người mang họ MẠC ở đất Trung quốc vì Chữ LẠC còn đọc là ḤẠC và MẠC-MẠCH, có điều lạ lùng là không hiểu sao người Tàu lại gọi người Cao ly là Mạch, có 1 sự lẫn lộn nào đó của lịch sử hay không ?. Cổ sử cũng cho biết khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu ĐÀO-ĐƯỜNG hay ĐÀO- DƯƠNG, thông qua các dịch tượng ta hiểu Đào đường hay dương cũng chỉ có nghĩa là bắc - nam hay lửa và nước mà thôi, cổ sử Việt có nói đ̣ến đất Việt thường đấy chính là nói về đất Đường trên, Đường là phát âm hán việt chữ thoòng hay thường mà thôi.Con dân vua HÙNG có người LA người KINH, đất có đất Đào đất Đường hay Việt thường, căn cứ vào thư tịch cổ ta còn thấy vua cũng có 2 dòng, đế KHAI-MINH và đế MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của người Trung hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế Minh Khiết hay MINH + KHIẾT là vua gốc dòng KINH- LẠC do sự hòa huyết của đế MINH và dòng VŨ TIÊN phương nam gọi tên khác là ông KHIẾT như truyền thuyết đã nói ở trên. Khi vua HÙNG truyền ngôi cho đế NGHI ở phương bắc tức đất Đào thì quốc hiệu là nước ‘ĐÀO’ dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG ký âm sai thành HỒNG BÀNG, đấy là quốc hiệu đã được mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công nhận. Những dòng tóm lược về thời khai quốc trên đã cho thấy có sự trùng hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 dòng sử VIỆT và HOA , sự việc này thực kỳ bí buộc ta phải đi sâu thêm để khám phá. Cổ sử cũng nói đến 3 thành tựu khoa học và kỹ thuật của thời này: 1. Khi đánh nhau với Xi Vưu, vua phía Tây, Hiên Viên đã sử dụng kim chỉ nam để dẫn đường, đây là thành tựu tuyệt vời của khoa học kỹ thuật Việt, sau này người Phương tây đã học được và áp dụng để xác định phương hướng mãi cho đến ngày nay; không có kim chỉ nam hay la bàn thì không thể đi xa, không có ngành hàng hải tiến bộ vượt đại dương, bộ mặt của thế giới chắc chắn khác xa ngày nay và chắc chắn lịch sử thế giới không diễn ra như hiện có. Kim chỉ nam là tên Việt gọi la bàn trong đó từ ‘chỉ’ là động từ nên cả đoạn rất rõ nghĩa : là cây kim có đầu luôn chỉ hướng nam....;nhưng trong Hoa ngữ ‘chỉ’ là ngón tay nên tên ‘chỉ nam châm’ không tài nảo hiểu nổi...tương tự còn có ‘chỉ nam xa’ đố ai dịch được nghĩa sang tiếng Việt..?. 2. Hoàng Đế Hiên Viên được tôn là tổ phụ của văn tự Trung Hoa, ý không phải nói hoàng đế chế ra loại chữ Trung Hoa đang dùng ngày nay, mà như đã nói Văn là Dịch và Dịch tức Văn. Nếu tổ thứ nhất của văn tự là Phục Hy với Dịch Lý nút số. Thì Hiền Vương – tổ thứ hai với Dịch Lý vạch – quẻ. Đạo Giáo hay Đạo Lão được xây dựng trên nền tảng học thuyết Hoàng – Lão (Hoàng Đế + Lão Tử). Tinh hoa của triết thuyết Lão Tử nằm trong Đạo Đức Kinh thì người ta đã rõ, còn với Hoàng Đế thì đóng góp gì? Chắc chắn không thể nằm ngoài Bát Quái; về Tiên Thiên Bát Quái thì đa phần học giả Trung Hoa đều đồng thuận với ý kiến này; chỉ còn tranh cãi về Hậu Thiên Bát Quái. Có 2 trường phái: thứ nhất cho rằng Hậu Thiên Bát Quái cũng do Hoàng Đế sáng chế; phái thứ hai cho là Hậu Thiên Bát Quái do Văn Vương tổ của nhà Chu sáng tác. Dù cho do ai sáng tác nó cũng là nền tảng của khoa học truyền thống của Việt Nam và Trung Hoa, ý nghĩa của nó ta đã xét ở phần Dịch Lý. 3. Thành tựu kế tiếp là y học cổ truyền của Việt Nam và Trung Hoa: Tương truyền sách “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn” có từ thời Hoàng Đế, trong đó đã có đầy đủ những nguyên lý của nền y học cổ, nền y học này đã vận dụng các nguyên lý Dịch Lý vào ngành cơ thể học và trị bệnh cho con người, đấy là cuốn sách nền tảng của Đông y còn tác dụng cho đến bây giờ và càng ngày càng có địa vị vững vàng trong thế giới hiện đại, đối với khoa học nó còn đầy những điều không thể hiểu nỗi … nhưng rõ ràng có tác dụng thực sự, dù tự nhận là tiên tiến nhưng người ta vẫn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nào kinh – lạc, nào huyệt đạo rồi châm cứu, châm tê V.v…, chữa bệnh ở nội tạng lại châm ở bàn chân hay vành tai … thực không hiểu nỗi. Trung tâm của tổ quốc Họ Hùng là đất giao (giữa) lấy chuẩn là sông Cả, căn cứ vào sự phân bố các sắc dân ta có thể xác định: đất Giao là vùng đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh và phía thượng nguồn các con sông Cả, Chu, Mã ngày nay. Câu ca dao mà mọi người Việt đều thuộc lòng: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” Người Việt dùng hai câu này sánh công lao cha mẹ như núi, sông nhưng nó còn chứa các thông tin khác. Nói đến cha mẹ không phải chỉ là cha mẹ, người Việt còn có tục đồng hóa vua với cha mẹ như “Bố Cái Đại Vương” chẳng hạn, và dân còn được gọi là ‘con dân’; công cha nghĩa mẹ còn dùng để ca tụng công đức của quốc tổ, cha mẹ chung đã sinh ra cả một dân tộc, dân tộc họ Hùng, địa danh ‘núi Thái Sơn’ (1 trong 2 từ ‘núi’ hay ‘Sơn’ là thừa) cho ta sự liên kết: Thái trong Dịch Lý còn dùng như chữ Đại, Đại Sơn, người Việt thấy ngay là Hán văn chuyển ngữ từ ‘núi Đọ’; và câu ‘nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra’ cung cấp thông tin về con sông, sông Mẹ, sông Mã, Mã ký âm là ‘Mẹ’, cũng như chữ Chu trong sông Chu là Cha, tổng kết :. 3 con sông Cả, Cha, Mẹ (Chu và Mã) cộng với Thái Sơn đủ để ta xác định đấy là vùng đất khởi nguyên của tổ quốc Việt: đấy chính là đất Giao, mà tên gọi còn theo lịch sử in dấu tới tận ngày nay. Đất Giao hay Giữa là vùng đất Trung tâm, ngày nay thường gọi là Trung nguyên chứ không phải lối giải nghĩa vớ vẫn … Giao Chỉ là dân có 2 ngón chân … bẹt ra vì leo núi đá. Lãnh thổ của đất nước chia làm 2 phần Bắc – Nam, dân Họ Hùng cũng chia làm 2 cộng đồng, dân Lửa và dân Nước. Người Lửa còn có các tên khác là: người Lão hay Di -lão, còn gọi là Liêu sống ở An Ấp. Dân Nước còn gọi là dân Kinh hay Kênh-lạch, Trung Hoa gọi là người Bách Lộc,Hạc, Mạc.v.v. lãnh thổ là Lạc Ấp và Lâm ấp. Đế Nghi nối ngôi đế của Hùng Vũ hay Hoàng Đế Hiên Viên mở ra triều đại mới. Tóm lược thời lập quốc: 2 dòng tộc Viêm và Cửu Lê, ngày nay khoa nhân chủng học gọi là Môn-Khmer và Indonesien đúc kết thành người Lửa, Liêu, Lão, La, Lê tụ cư ở vùng đất là Giao-Bắc , nay là đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh và núi rừng phía Tây. Sau đó dân Họ Hùng thiên cư về cõi Nam , cộng cư và cộng huyết với người Miêu (sử Việt gọi là dòng dõi bà Vũ Tiên), tức tổ tiên người Miêu sinh ra Lạc tộc, sử Trung Hoa gọi là người Bách Lộc, Hạc, Mạc . Theo thông tin do Nguyễn Hồng Sinh đưa ra trong “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm” thì Hùng Vũ hay Vua Hùng còn có danh hiệu: Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế và vợ là Đệ Nhất Tiên Thiên Thánh mẫu, dựa trên ngữ văn chắc chắn đây là truyền tích của Đạo Giáo, đặc biệt chi tiết “Thánh Mẫu” cho ta nhận định: Đạo Giáo và Đạo Mẫu ở Việt Nam có sự liên quan, Đạo Mẫu là đạo thờ mẹ, một tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam. Tồn tại từ thời xa xưa đây là biểu hiện của thời mẫu hệ nên gần nhất thì đạo này cũng có từ trước đời nhà Chu, vì nền văn minh Trung Hoa thì cuối đời Ân Thương là thời kỳ chuyển tiếp từ mẫu hệ sang phụ hệ để rồi phụ hệ được khẳng định ở thời nhà Chu. Thông tin quan trọng nữa mà cuốn sách trên nêu lên là quốc hiệu thời Hùng Vũ là: “Viêm Việt Đại Hưng Bang” về sau quốc đô dời về nam (bắc hiên nay) đổi thành “Bách Việt đại liên bang”; trên hành trình tìm về cội nguồn, bất cứ manh mối nào đối với chúng ta cũng quan trọng, đều là thiêng liêng. Nên chi tiết nào cũng rất đáng quan tâm và đào sâu nghiên cứu . Do lẫn lộn không phân biệt giữa Thái viêm Thần nông tổ 3 đời của đế Minh và Viêm đế một thủ lãnh bộ tộc cùng thời với đế Minh hay Hiên viên- Hiền vương đã khiến cổ sử Việt mắc sai lầm cơ bản mang tính quyết định . Vì lầm lẫn Viêm đế là thủy tổ của dòng Việt mà ...Hoàng đế Hiên Viên đã đánh bại Viêm đế...vì vậy các sử gia người Việt đã coi Hiên Viên là kẻ xâm lăng và hủy diệt nước của người Việt . Hoàng đế Hiên Viên đã đánh bại Xuy vưu và Viêm đế thống nhất 3 bô tộc để lập nên nước họ HÙNG thời thái cổ . Chính sự thực lịch sử này khiến Trong dòng con dân của Viêm đế còn truyền tụng cho đến tận ngày nay truyền tích xâm lăng –diệt quốc của Hoàng đế Hiên Viên . Giới sử học Việt đà mắc sai lầm căn bản khi coi Hoàng đế Hiên viên là tổ của Hán tộc ....Hiên Viên chỉ là ký âm hán tự của Hiền vương – Hùng vũ là thủ lãnh của một trong ba bộ tộc đã kết hợp để làm nên họ HÙNG thủy tổ của người VIỆT ngày nay.
  17. 3 -Hùng triều thứ 3 – Hùng Nghị.- Tổ phụ phương Tây. Vua khai sáng : Bảo lang. Dang hiệu khác trong Việt sử : Thái Khang Danh hiệu khác trong Hoa sử : Thiếu Hạo-Kim thiên thị Là thủ lãnh tộc Khương tây. (khoảng Năm 8.000 trước CN) . Thành tựu khoa học kỹ thuật nấc 1 và 2 đã giải quyết cái mặc và cái ăn , nấc thang kế tiếp là nơi ở hay chỗ cư ngụ, định cư cũng là 1 bước tiến vì chỉ khi đã định cư ta mới có xóm giềng rồi bản làng sau nữa đến quốc gia, muốn định cư tức phải có nơi ăn chốn ở ổn định nghĩa là phải có nhà ở ,rời bỏ hang hốc xuống làm nhà quần cư nơi đất trống là cả 1 bước tiến dài Hùng sử tượng trưng giai đoạn này bằng thời Hùng Nghị hay Ngụ , việc quần cư ổn định chỉ có thể diễn ra khi đã biết trồng trọt và chăn nuôi, với việc biết làm nhà để cư ngụ cuộc sống con người đã là cuộc sống văn minh bỏ lại sau lưng thời ăn hang ở lỗ. Phương Tây là phương mặt trời lặn, mặt trời lặn là lúc nghỉ ngơi nên còn có tên là bên siêu hay siu nghĩa là nghỉ ngơi. Trong Tiên Thiên Bát Quái: Quẻ Ly trấn phương Tây ngụ ý là: Ly là ‘ly’́ là chủ đạo chi phối mối tương quan giữa con người và tự nhiên, ‘lý’ là Vĩnh Hằng, không thay đổi, vì là phương của Lý nên từ Việt có từ kép ‘nghỉ ngợi’. Ly = Lý → nghĩ ngợi. Ly = Lìa → nghỉ ngơi. Từ ‘nghị’ cũng là nghĩa của ‘Lý’ chính vì vậy tổ phụ phía Tây mới có danh hiệu là Hùng Nghị Vương. Và bắt đầu từ tổ phụ thứ ba này có thêm danh hiệu thứ 2 dùng chữ ‘Lang’ ;Vậy chữ ‘lang’ nghĩa là gì? Hiện nay từ ‘Lang’ còn dùng ở các dân tộc Thái – Mường chỉ người đứng đầu cộng đồng như Lang phìa, Lang tạo, V.v, Chữ ‘lang’ là biến âm của chữ ‘Long’ nghĩa là con rồng và cũng có thể gọi thay cho chữ ‘hoàng đế, như Tần Thủy Hoàng còn được gọi là: ‘Tổ Long’ trong sử ký của Tư Mã Thiên. Trong thể chế quân chủ của Trung Hoa và Việt Nam từ ‘long’ độc quyền trong việc chỉ về nhà vua và những gì thuộc về vua như ‘long thể’, ‘long ngai’, ‘long sàng’, ‘long bào’, ‘long xa’, V.v… Vậy ta hiểu ‘long’ cũng đồng nghĩa với ‘vương, ‘chúa’ được dùng ở sắc dân thuộc cộng đồng Trung Hoa. Trong Hùng phả Phần danh hiệu dùng chữ lang này là vương hiệu vua khai sáng triều đại. Bảo Lang có nghĩa là chúa phía Tây ,chữ ‘Bảo’ dịch sang Việt ngữ là ‘quí’ như trong quí báu. Với Thập Can thì quí là số 9, số 9 trong Hà Thư chỉ phương Tây ( 4 – 9”. Sách Lã Thị Xuân Thu đặt Thiếu Hạo trong Mạnh Thu Kỷ; số tương ứng là số 9 (quí), lấy đức Kim (cang, cương) mà cai trị, thần tương ứng là Kim Thần Nhục Thu, như thế các mã tin Dịch Lý của kỷ này đều tương ứng với phương Tây, phương của mã nền là “không đổi”, và trong Cửu Thiên, trời Tây được gọi là ‘Hạo Thiên’ trùng với tên Thiếu Hạo của tổ phụ phía Tây cũng như Thần Nông Thái Viêm trùng với Viêm Thiên chỉ trời phương Bắc của Dịch Lý. Thời Thiếu Hạo được cổ sử Trung Hoa gọi là Kim Thiên Thị, chữ Kim là ký âm sai của chữ Cang, cương hay cứng, còn chữ thiên nghĩa là trời; Kim Thiên nghĩa là trời tây.Ngày nay ai đó cố tình gán nghĩa là kim loai cho hành Kim của ngũ hành.... xin thưa ở thời thái cổ khi lập ngũ hành thì làm gì đã biết đến kim loại ....? Phương tây trước đây không được nói tới trong truyền thuyết lập quốc của người Việt nhưng nay đã được bổ sung là THÁI KHANG hay tổ phụ phương tây, từ khang thực ra là khăng , trong tiếng Việt khăng khăng nghĩa là không thay đổi, khăng =cang=cương=cứng là tính chất của phương tây theo dịch học: số 4 là cứng, số 9 là đinh hay tịnh, Lã thị xuân thu viết động vật tiêu biểu là loài lông mao ý nói loài sư tử , đây là cái sai rất điển hình của những người cố ý cạo sửa cổ thư vì sư tử là loài thú xa lạ với cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến sư tử đông á châu bao giờ chưa ?..Động vật tiêu biểu của phương tây phải là con voi vì can số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can: định, tịnh..;.bản thân chữ tịnh đã là con voi rồi vậy mà Có người cố ý nhập nhèm sửa đổi vì lý do phía bắc sông Hòang hà từ cổ chí kim làm gì có voi nên họ thay bằng con sư tử , cả sư và tử đều xuất phát từ âm tsi số 4 mà thôi, Rất có thể sư tử là thần thú của dòng Hung nô ở trung á. Số 4 việt ngữ là bốn, biến âm thành bóng ,sáng bóng hay bóng láng dịch sang Hoa ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây còn gọi là bên Chiêu hay Châu, tổ phụ phương này là THIẾU HẠO; cổ thư trung hoa cũng nói đến sông KHANG hay KHƯƠNG như cái nôi của người cổ, từ Khương ký âm thành Cương cho phép ta liên kết với sông MỄ CƯƠNG tức chính là sông MÊCÔNG ngày nay. Lưu ý cũng là từ KHƯƠNG nhưng dân Khương thời thái cổ hoàn toàn khác với dân khương cuả sử Trung hoa thời trung cổ. Thời này từ Khương hay chi hay thổ phiên là từ chỉ người tây Tạng hiện nay. 4- Hùng triều thứ 4-Hùng Diệp. - Tổ phụ phương nam. Vua khai sáng : - Quan lang (Quang) Danh hiệu khác trong Việt sử :Thái Tiết-Vũ Tiên . Danh hiệu khác trong Hoa sử : - Xuyên Húc –Cao dương thị Là thủ lãnh tộc Khương nam.(Phương nam của dịch lý ngược với hiện nay- khoảng 7000 năm trước công nguyên). Diệp là biến âm của từ dịch nghĩa là di chuyển, thời Hùng Nghị hay Ngụ con người đã tụ cư thành từng địa phận nay nối chúng lại thành thể thống nhất cho con người và sản vật được lưu chuyển khắp nơi , chế tạo được phương tiện giao thông là 1 bước tiến lớn về khoa học kỹ thuật nhờ đó quy mô cộng đồng ngày càng lớn rộng và đến một lúc nào đó đủ tầm vóc để hình thành quốc gia.Trên đồ biểu Hà thư, triều Hùng Diệp nằm ở phương nam, phương của sông nước , kênh lạch khiến ta liên tưởng đến khả năng thủy vận, suy nghĩ một cách hợp lý thì bè- mảng có thể là phương tiện giao thông vận tải đầu tiên của người họ Hùng và rất có thể là của cả nhân loại, bản thân cây tre đã là 1 cái phao, lấy chính những sợi lạt cũng bằng tre để liên kết nhiều cây lại là đã có cái bè đi lại trên sông nước, thực gỉan đơn nhưng lại là cả 1 bước nhảy vọt về khoa học kỹ thuật. Việt ngữ gọi tháng 1 là tháng giêng, hoa ngữ ký âm thành giang đồng nghĩa với con sông thường được dịch thành xuyên, số 1 cũng là đơn biến âm của đen trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên cũng là mun, màu đen trong tiếng Việt để tạo thành nam mun hay man, vị vua của phương này truyền thuyết dân gian Việt gọi là THÁI TIẾT, thực ra là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp; chỗ giao nhau của cũ và mới trước và sau còn là sự bắt đ̣ầu hay trước tiên theo nghĩa chữ giáp là đứng đầu là thứ nhất nên Thái tiết còn có tên là Tiên đế, lĩnh nam trích quái gọi là bà VŨ TIÊN,ta thếy tất cả đều xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ có nghĩa là vua vùng số 1 tức phương nam, vì vua của phương (1-6) này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC, xuyên là con sông như ta đã biết ở trên còn Húc chỉ là ký âm sai của từ hắc nghĩa cũng là màu ̣đen,sông đen chuyển ngữ ký âm sai thành Xuyên húc . Truyền thuyết lịch sử còn cho ta một thông tin khác, Hùng Diệp cũng chính là bà Vũ Tiên hay Vụ Tiên, vũ hay vụ là biến âm của từ vua, tiên là thứ nhất, đầu tiên hay số 1, ta đã biết số 1 chỉ phương Nam hay phương Thủy, Theo Hà Thư : Tiên đồng nghĩa với Thủy, nhưng Thủy còn mang nghĩa khác là nước, phương nước tức phương Nam. ****************** Tóm lại : thời tiền lập quốc người họ Hùng đã dựa trên Hà thư để hư cấu thành 4 vị tổ phụ của 4 phương trời, mượn danh các vua nhưng thực ra để chỉ 4 thị tộc mà sau này cấu thành tộc họ HÙNG. Tổng kết về 4 tổ phụ của 4 phương, tức thời tiền lập quốc của họ Hùng diễn ra trong thời gian mà khảo cổ học gọi là thời Đá giữa, cách nay khoảng 20.000 đến 7.000, đó là lúc biển tiến Phadrian cực đại và rút dần, con người bắt đầu rời hang núi cao xuống các thung lũng, và đi xuống thấp dần theo nhịp nước rút, ở giai đoạn cuối đã đến trung châu chuẩn bị tiến xuống khai phá vùng đầm lầy mà sau này là đồng bằng. Đối chiếu với khảo cổ học, ta xác định: a. Dòng Hùng Dương Vương hay Thái Cao Thị chính là người Bắc Sơn / Soi Nhụ tiền thân của nền văn hóa khảo cổ Hạ Long, Động Đình Hồ là vịnh Bắc Bộ hiện nay, đây là đất khởi nguyên của dòng Nam Đảo Đông hay Indonesien Đông. Các cư dân nhánh Nam Đảo Đông tiến dọc theo bời biển Trung Hoa tới tận Phúc Kiến, Chiết Giang và đảo Đài Loan, nơi họ để lại dấu vết nền văn minh Hà mẫu độ rất nổi tiếng. b. Dòng Hùng Hiển Vương hay Thần Nông Cao Tân Thị mà Dấu vết thời này chính là nền văn hóa mẫu Hòa Bình, gọi là mẫu vì văn hóa này đã được khoa học dùng để chỉ cả một đợt văn minh trên khắp cõi Á Đông. Người Hòa Bình tỏa xuống đồng bằng theo các sông Mã,sông Chu,sông Cả tiến tới bờ biển tạo nên các nền văn hoá khảo cổ lớn ở Thanh – Nghệ và dọc theo miền Trung. c. Dòng Hùng Nghị Vương hay Thiếu Hạo Kim Thiên Thị: Hùng Nghị Vương là tổ tiên của cư dân hệ Môn Khmer mà đã lưu dấu trong các nền văn hóa khảo cổ ở Đông Bắc Thái lấy sông Mêkông làm xương sống , Nonotha và bản Chiềng là nền văn hoá cổ rất nổi tiếng được lấy làm tiêu biểu cho cả một vùng rộng lớn ở phía Tây Việt Nam, ta gọi họ là dòng tộc sông Công hay Cương thuộc hệ Nam Á ngành Môn-Khmer. d. Hùng Diệp Vương hay Xuyên Húc Cao Dương Thị : Hùng Diệp Vương là tổ tiên của dòng H’Mông cổ sử gọi là Hữu Miêu, chắc chắn có một nền văn hóa khảo cổ tiêu biểu cho cả một vùng núi rừng rộng lớn ở Bắc Việt Nam và trung tâm là hạ lưu sông Đà còn chưa được khám phá, hoặc bị chìm lấp, lẫn lộn với 1 nền văn hóa khảo cổ khác hiện nay chưa phân lập được, nhiều khả năng chính là phần văn hóa Hòa Bình ở núi rừng Tây Bắc Việt hiện nay.
  18. 2- Hùng triều thứ 2 – Hùng Hiển. – Tổ phụ phương nóng (Xích đạo) Vua khai sáng : Danh hiệu khác trong Việt sử : –Thái Viêm Thần nông Danh hiệu khác trong Hoa sử : -Viêm đế Thần nông-Cao Tân thị Là thủ lãnh tộc MY_BẮC ở hướng xích đạo (khoảng 10.000 trước CN) ; Với thời Thái Viêm –Thần nông của sử Việt và Hoa , dã sử ghi nhận thời kỳ này là bước tiến lớn lao đưa con người bước đầu thoát khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào thế giới tự nhiên, qua thời hái lượm và săn bắt với việc biết trồng trọt và chăn nuôi con người đã bước sang nền kinh tế sản xuất tức đã góp công cùng tạo hoá,trở thành tài Nhân trong tam tài ngang vế với thiên và địa vì vậy Hùng sử gọi là thời Hùng Hiển, ta ghi nhận : thần nông là cấu trúc Việt ngữ. Phương nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai quản của THÁI VIÊM ;tổ phụ phương lửa hay quẻ LY.sách Lã thị xuân thu và các tư liệu lịch sử Việt nam đều gọi là VIÊM ĐẾ đây là sự khập khễnh đáng tiếc , khi đã xác định là 1 tổ phụ thời tiền lập quốc phải gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn xác và nhất quán;truyền thuyết lich sử Việt nam coi Thái viêm -Thần nông là tổ cao nhất của mình; Đế MINH chắu 3 đời của Viêm đế Thần nông....dã sử Việt đã mở đầu như thế..., còn theo Lã thị xuân thu: Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thưlà số 7 hướng xích đạo cũng là màu đỏ (sất tức số 7 chỉ là biến âm của xích), động vật tiêu biểu là loài lông vũ tức loài chim và nhiều sách cổ của Trung Hoa chỉ định rõ là chim khổng tước tức chim công. Thực tế ta hiểu thị tộc của Viêm đế có địa bàn sinh sống là vùng nóng nhất trong 4 thị tộc thời tiền lập quốc tức gần xích đạo nhất.Trung hoa xưa vẫn gọi miền trung Việt nam là miền bắc hộ ý nói vì đã vượt qúa xích đạo nên cửa mở về hướng bắc để đ̣ón ánh mặt trời. Chúng ta thấy theo dịch lý :số (2-7) của Hà thư luôn gắn với quẻ Ly, màu đỏ , xích đạo và loài chim tức điểu. Vậy mà ai đó đã cố tình cho là : nhất điểu nhì ngư tam xà tứ tượng , phương của Xà và Tượng là Đông và tây là chính xác nhưng Điểu và Ngư thì có phản ứng....; theo dịch học thì : nhất viết thủy...nếu : nhất điểu hóa ra là chim bay dưới nước .?. vì vậy : nhất điểu bị biến thành nhất Đểu....,nhị viết hỏa nếu nhì ngư đúng thì thành ra cá bơi ở trên trời... nên nhì ngư biến thành ...nhì ngu ; chỉ có kẻ vừa đểu vừa ngu mới cho phương Bức hay bắc là vùng tuyết trắng phủ dầy như Bắc cực hiên nay.... Tiếp nối thời Hùng Dương – Bào Hy là thời Hùng Hiền Vương, chữ ‘Hiền’ là ký âm của chữ ‘hiện’ hay ‘hiển’, vì mặt trời sau khi mọc (dương) ta thường nói “vừng dương ló dạng” sau giai đoạn ló dạng là hiển hiện rõ ràng, đầy đủ. Theo “tứ thời” nếu là một ngày thì sau ban sáng tới ban trưa, nếu là mùa thì mùa hạ tiếp nối mùa xuân, nên cổ sử Trung Hoa và Việt Nam gọi tổ phụ Hùng Hiển Vương là Thần Nông Thái Viêm, có sách chép là Viêm Đế nhưng từ Thái Viêm nghĩa là tổ phụ phương nóng bức (bắc) hay hướng xích đạo (phương Sóc) thì sát nghĩa hơn. Mặt trời ở ‘thiên đỉnh’ là lúc nguồn năng lượng tuôn xuống mặt đất nhiều nhất nên cũng là lúc nóng nhất nên cổ sử gọi là Thái Viêm. Trong 4 phương vì Việt Nam và Trung Hoa đều nằm ở Bắc bán cầu nên hướng xích đạo là nóng nhất còn được gọi là viêm phương, theo cổ sử xưa Việt Nam cũng được gọi là Viêm Bang. Truyền thuyết lịch sử của dòng giống Việt chép “Đế Minh (tổ dân Việt) là cháu 3 đời của Viêm đế Thần Nông” cũng là vì lẽ này. Trong dòng thời gian của lịch sử thì Thần Nông không chỉ có nghĩa là 1 vị vua mà còn có nghĩa là 1 thời đại, thời đại con người bước từ nền văn minh hái lượm sang thời văn minh trồng trọt, khai thác kinh tế sản xuất, có gieo – có gặt. Theo các nghiên cứu khoa học thì thời gieo trồng ở Đông Nam Á bắt đầu vào khoảng năm 10.000 trước Công nguyên. Tiêu biểu cho thời này, khảo cổ học gọi chung là thời văn hóa Hòa Bình, theo địa diểm có di chỉ khảo cổ ở tỉnh Hòa Bình của Việt Nam. Hùng Hiển Vương – Thái Viêm – Thần Nông được cổ sử Trung Hoa gọi là Hoàng đế Thần Nông – Cao Tân Thị (chính chữ ‘Hoàng đế’ này gây nhiều rắc rối, lầm lẫn cho các sử gia vì trùng với ‘Hoàng Đế’ tên riêng của quốc tổ Trung Hoa ở đời sau). Từ ‘Cao Tân Thị” thực ra là từ thuần Việt; Cao = cả nghĩa là thủ lĩnh, Tân là 1 trong Thập can nghĩa tiếng Việt là tâng (bốc), tung (lên), biến âm của tân là tôn: cao, hay là bề trên. Sở dĩ có tên như vậy là do Hà Thư đặt theo chiều đứng: số 2-7 chỉ trên cao, ngược với 1-6 chỉ dưới sâu, sâu → sáu → sáo = nước. Nông dân Việt rất kính trọng ‘Tiên Nông”, ngày xưa mỗi khi khai vụ đều có lễ tế Tiên Nông xin cho được ‘mưa thuận gió hòa’ để mùa màng tốt tươi. Cổ sử Trung Hoa còn gọi Thần Nông với tên khác là Đế Cốc (có sách viết sai là Đế Khốc), ‘cốc’ là lương thực.. Theo Kinh Thi thì thời cổ dân Trung Hoa trồng 2 loại lúa là lúa ‘Tắc’ và ‘Thử”, “hoà, đao, chiêm, mạch” là tên 4 loại lúa chỉ xuất hiện sau cả ngàn năm so với tắc và thử. Tắc chính là lúa nếp ngày nay. Tắc → đắc → đất; nghĩa là loại lúa trồng trên cạn (Xin lưu ý là người Hoa không có âm /đ/) ông tổ của lúa tắc là Hậu tắc, Thử là lúa tẻ ngày nay. Thử là biến âm của thủy (= nước), loại lúa trồng trong ruộng nước, thông tin tìm được ở đây cho ta nhận định : rất có thể lúa nước có trước lúa trồng trên cạn tức lúa nếp vì ông Hậu Tắc tổ nhà Chu chỉ là con cháu xa xăm lắm của Thần nông. Đáng lưu ý “Hậu Tắc” là theo qui tắc ngôn ngữ Việt, nếu viết theo Hoa ngữ phải là: Tắc Hậu cũng như Thần Nông phải là Nông Thần. Và điểm đáng lưu ý nữa là: thời xưa do đặc điểm khí hậu ở khu vực bắc Hoàng Hà không thuận lợi cho cây lúa cả tắc lẫn thử vì cây lúa là giống ở miền nhiệt đới đòi hỏi cường độ ánh sáng cao và không khí ẩm, mà khí hậu vùng Hoàng Hà thì lại lạnh và khô. Trở lại với Lã Thị Xuân Thu, ta có các thông tin: Viêm Đế tương ứng với số 7; số 7 theo Hà Thư là mùa hạ và phương viêm (nóng bức); Viêm Đế lấy Hỏa đức mà cai trị, vị thần tương ứng là Hoả Thần Chúc Dung. Chữ Viêm này cũng là chữ Viêm trong ‘Viêm thiên’ trong Cửu Thiên của Trung Hoa cổ. Nói tóm lại ý nghĩa các thông tin đều qui kết về vùng nhiệt đới, như thế thời Thần Nông không thể diễn ra trên lãnh thổ Trung Hoa hiện nay được vì vùng cực nam Trung Hoa cũng không thuộc vùng nhiệt đới. Lưu ý theo sử thuyết họ Hùng thì có tới 3 vì vua liên quan tới chữ Viêm. -Thái viêm là tổ phụ phương nóng bức hay viêm nhiệt của người họ Hùng. - Viêm đế là vị vua đồng thời với Hùng Vũ ở thời lập quốc. - Viêm lang là đế Nghi trong sử Việt hay Nghiêu đế trong cổ sử Trung hoa.
  19. B - 18 Hùng triều-dã sử 1 – Hùng triều thứ 1 - .Hùng Dương – Tổ phụ phương Đông Vua khai sáng: Danh hiệu khác trong Việt sử :Động đình quân – Vua Cả Phục hy Danh hiệu khác trong Hoa sử : Thái Cao thị –Bào Hy Là thủ lãnh của tộc MY-ĐÔNG; (khoảng 20.000 – 17.000 trước CN) . Dương là phương mặt trời mọc, nghĩa là đi lên, ngược với phương thụt (ký âm sai thành Thục), giống như trong đánh bài: dương (ngữa lên, đưa lên), thiệp (úp xuống). Dương biến âm thành ‘dâng’ (như nước dâng lên, dâng cúng…). Hùng Dương Vương là thủy tổ vì buổi bình minh mang ý nghĩa sự khởi đầu, sự khai sinh ra dân tộc. Đây là thời Cổ sử Trung hoa gọi là thời Thái cao Bào hy hay Phục Hy, chữ Hy chính xác là Y, Bào -Y hay Phục- Y , chỉ là ký âm từ bao- áo của Việt ngữ, phục hy nếu viết lại là y- phục sẽ dễ dàng nhận ra chỉ là áo quần hay vật che thân nói chung .Đây là 1 bước trên đường văn minh của con người ; loài vật có bộ lông tự nhiên che phủ, còn loài người phải sáng tạo ra cách bảo vệ và điều hoà thân nhiệt bằng quần áo, có lẽ ban đầu chỉ là dây và lá cây ,sau là da thú ..., tiến thêm 1 bước là dùng các cây có sợi . .Giải quyết cái che thân là thành tựu khoa học kỹ thuật đầu tiên của loài người nên dã sử Việt gọi là Dương coi như là lúc mặt trời văn minh mới mọc. Truyền thuyết lập quốc người Việt gọi vị tổ phụ phương đông là ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vua vùng Động đình hồ. Mới đây các nhà nghiên cứu Việt nam đã sưu tập được trong truyền thuyết dân gian tên 4 vì vua đầu của họ HÙNG là : VUA CẢ- THÁI CAO, THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) , THÁI KHANG VÀ THÁI TIẾT;THÁI CAO chỉ là tên chữ nho của VUA CẢ mà thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với THÁI CAO- BÀO HY của cổ sử Trung hoa, theo 1 trật tự hợp lý thì THÁI CAO chỉ là tên khác của ĐỘNG ĐÌNH QUÂN cả 2 đều mang tính biểu thị cho phương đông; chính xác phải gọi là phương động là tính chất của can BÍNH- BẤN tượng số (8) trong thập can, còn Thái cao hay Vua cả chỉ sự khởi đầu của các vua hay buổi bình minh của dân tộc.phương đông cũng là phương của màu xanh và tình thương,sách Lã thị xuân thu chép vua dựa vào mộc đức mà cai trị, số ứng là số 8 là số chỉ phương đông trong Hà thư, động vật tiêu biểu là loài có vảy tức loài rồng –rắn , kỷ cuả ngài gọi là mạnh xuân kỷ. Động đình hồ ở đâu ? phần lớn những nhà nghiên cứu sử đều bị mê hoặc bởi đầm Vân mộng ở Hồ nam và xác định đấy là Động đình hồ của cổ thư, trong sách cổ của Trung hoa nói nhiều đến Chấn trạch hay Lôi trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở phương đông ta thấy đầm Vân mộng không đủ các yếu tố theo chỉ định của ngôn ngữ vì nó nằm ở khoảng giữa đất Trung hoa..;Đình hồ nghĩa là cái hồ lớn có thể hiểu là biển nên động đình hồ phải dịch sang Việt ngữ là Biển đông mới đúng, Động đình quân là vua vùng biển đông, căn cứ vào năng lực con người vào thời đại ấy thì biển đông chỉ có thể gom vào vùng vịnh bắc bộ ngày nay là hợp lý, truyền thuyết Việt nam nói Linh lang một vì vua được thờ rất nhiều đã hoá tức chết ở hồ Tây và hồn suôi về Động đình hồ ,điều này kiện chứng thêm cho sự chỉ định trên vì đầm Vân mộng ở quá xa và không có lý do để hồn Linh Lang suôi về chốn ấy. Sách Lã Thị Xuân Thu của Lã Bất Vi đã trích ở trên cho ta biết: Thời Thái Cao ứng với số 8 – mùa xuân, Hành Mộc, thần tương ứng là Mộc Thần Câu Mang chính là dùng mã tin của Dịch Lý. Sự tương ứng các vì tổ phụ và các con số của Hà Thư, người xưa đã kết cấu thời khởi thủy của dân tộc theo 2 ý chỉ định của Hà Thư. Các số 6, 7, 8, 9 vừa chỉ 4 phương vừa chỉ 4 mùa, như thế ta có 4 địa phương của 4 thủy tổ đồng thời cũng có thứ tự thời gian 4 thủy tổ tiếp nối nhau; Thái Cao – Bào Hy hay Hùng Dương Vương là thủy tổ đầu tiên và ở phương Đông. Sách cổ Trung Hoa viết “Mẹ Bào Hy sống ở vùng đầm Hoa My, nhân đạp dấu chân người khổng lồ mà sinh ra ông, lớn lên có thánh đức và khi ở ngôi lấy Mộc Đức mà cai trị”: từ nơi ở là đầm Hoa My ta có thể rút ra các thông tin: Hoa chính là tộc Hoa sau này. My hay Mỵ theo cổ thư Trung Hoa là Họ của dân Việt và Sở, Động cũng là Đông (đã dẫn ở phần trước) Đình là to lớn. Động Đình Hồ là hồ lớn ở phương Đông như thể Đầm Hoa My và Động đình Hồ chỉ là một , nơi có nền văn hóa khảo cổ Soi Nhụ – Cái Bèo sau là Vịnh Hạ Long, vì chỉ ở đấy mới có thể liên quan tới dân nước Việt (Bắc Việt ngày nay) và dân Sở ở Hồ Nam Trung Hoa. Vòng cung – bờ biển Việt Nam, bờ biển Quảng Đông và đảo Hải Nam cho ta hình ảnh một cái hồ lớn ở phương Đông nước Việt. Thủy tổ phương Đông là Hùng Dương, Bào Hy Thái Cao Thị cũng là Động Đình Quân. Còn niên đại thời Hùng Dương – Bào Hy? Chữ Bào cho ta 2 nghĩa: - Bào là cái bọc nơi thai nghén 100 trứng sau là 100 họ vì thế người Việt Nam thường gọi nhau là ‘đồng bào’. - Bào biến âm là ‘Bầu’, bầu là khối tròn, tiếng Việt chỉ sự mang thai, người có bầu thì sinh con, còn Đế Bầu (Bào Hy) thì sinh ra dân tộc của mình. ‘Bầu’ còn có nghĩa đặc biệt khi liên kết với truyền thuyết quả bầu và cơn ‘hồng thủy’, truyền thuyết lưu truyền ở hầu hết các dân tộc sinh sống ở Đông nam Á, nhưng hoàn toàn vắng bóng ở cư dân Hoàng Hà. Tuy có điểm khác biệt, nhưng thống nhất trong ý : cơn hồng thủy tiêu diệt loài người, và loài người được tái sinh từ quả bầu, sau thành các dòng tộc chia nhau đi khắp 4 phương, về ý nghĩa cũng tương tự bọc 100 trứng nhưng ở đây ta có được một thông tin quan trọng xác định mốc thời gian mà câu chuyện tồn tại, đó là một cơn hồng thủy, nước dâng lên tràn núi lấp gò. Trong quá khứ ở Việt Nam khoa học ghi nhận có 2 đợt biển tiến: - Đợt biển tiến Phlandrian cực đại vào khoảng 20.000 năm trước. - Đợt biển tiến Holocene, trung điểm cực đại cách nay hơn 4.000 năm. Đợt biển tiến Phladrian tức cơn đại hồng thủy xãy ra ở Thời Đá giữa chính là niên đại của thủy tổ phương Động Bào Hy. Ta có thể kết luận niên đại thời Hùng Dương Bào Hy cách ngày nay khoảng 20.000 năm. Cũng trong ý nghĩa “sự khởi đầu” như ban sớm, mùa xuân; Hùng Dương Vương – Bào Hy được coi là tổ của Dịch Lý hay rõ hơn là Dịch nút số (Hoàng Đế là tổ của Dịch Lý Vạch Quẻ). Ở Trung hoa trước đời Tống không ai biết gì về dịch học nút số, ngược lại ở Việt nam chỉ với câu “tam khoanh-tứ đốm” đủ xác định người Việt từ xa xưa rất rành về dịch học nút số, rành tới mức mà nó đã trở thành của dân gian , ai cũng biết cũng dùng . -Khoanh biến âm là khuyên hay khoẻn ngày nay là chiếc nhẫn đeo tay hay đôi vòng đeo tai ta có thể hình dung ra ngay được đó chính là hình ảnh của nút trắng trong các nút số của Hà lạc.O -Đốm trong việt ngữ thường đi đôi thành từ kép : “đốm đen” nghĩa rất rõ ràng chỉ các nút số đen cuả Hà lạc.● Tam và tứ là 2 số trấn phương đông và phương tây của Hà thư. Thành ngữ “đổi trắng thay đen” khiến ta còn phải suy nghĩ nhiều lắm, chắc chắn đây là 1 lời nhắn gửi của người xưa chỉ vẽ cho con cháu về hà thư-lạc đồ nhưng chúng ta vẫn phải tìm hiểu suy nghĩ thêm chưa vội kết luận về bất cứ điều gì. Thời kỳ này là thời Homo sapien sapien tức ‘người hiện đại’; dưới ánh sáng Dịch Lý đúng nghĩa là ‘người văn minh’ và dịch cũng chính là ‘văn’, như đã biết ở phần Dịch Lý, Thập can hay ‘chục con’ chính là 10 con số , là những dấu hiệu nguyên khởi của văn minh khi người ta dùng nó như là một thứ văn tự.
  20. Sử thuyết họ HÙNG PHẦN 2 - Sử thuyết. Phân kỳ lịch sử của sử thuyết họ HÙNG: A- Thần thoại Trung- Hoa B- 18 Hùng triều C- Lịch sử họ Hùng- cổ và trung đại D- Phụ chương . A 1. Thần thoại Trung Hoa . Khi cứ suy tưởng mãi về quá khứ, đến một điểm nào đó con người bươc phải dừng lại, điểm dừng này sẽ trùng theo trình độ khoa học và trí tưởng tượng của con người. Ngày nay với khoa học tiên tiến, quá khứ hình thành loài người được đẩy ra tới 4 hay 5 triệu năm trước đây. Thần thoại Trung Hoa thể hiện vai trò to lớn của con ngưòi sánh ngang thiên địa qua chuyện ông Bàn Cổ. 1. Thời Bản Cả – Tựu Nhân: (4,5 triệu – 500.000 trước CN) Sách vở ghi là ông Bàn Cổ, nhưng Trong Hoa ngữ chử Bản Cổ chẳng có một ý nghĩa nào … không lẽ hiểu thủy tổ của Trung Hoa là ‘Cái bàn cũ’? Bản Cổ là ký âm sai của chữ Bản Cả trong tiếng Việt, về mặt ngữ nghĩa Bản Cả tương đương với ‘Hương Cả’ trong ngôn ngữ hiện nay. Bản là đơn vị hành chánh cơ sở có gốc từ Khmer: Phum, sóc. Sóc biến âm Hoa – Việt là ‘Sách’, ‘Xá’, ‘Xã’, Phum biến thành buôn, ban ở các dân tộc thuộc ngữ hệ Khmer trên cao nguyên Việt Nam. Qua miền Thượng du Bắc Việt thì biến thành bản. Bản làng là từ ghép ta hay gặp. Bản nghĩa thông thường là ‘gốc’. Bản theo hành chánh là đơn vị cơ sở. ‘Cả’ từ Việt là thứ nhất, đứng đầu, “Bản Cả” dịch với ý nghĩa lịch sử là : “Thủy tổ của cộng đồng” . Người Á Đông quan niệm rằng người tức là: Đầu đội trời chân đạp đất; hoàn toàn trùng khớp với chữ “homo erectus” của khoa học hiện đại tức người đứng thẳng, hay người đi bằng đôi chân, nếu ta đem định nghĩa theo khoa học áp dụng vào thủy tổ Bản Cả thì Bản Cả mới xuất hiện trên trái đất khoảng 4 hay 5 triệu năm; nhưng trong thần thoại thì thủy tổ con người xuất hiện cùng lúc với trời đất, vũ trụ. Ông Bản Cả xuất hiện từ “Thái hoang khi trời đất còn là một khối hỗn mang, trong đó chưa có âm thanh và ánh sáng, ông lấy cái rìu bổ vào khối hỗn mang đó, lúc lưỡi rìu chạm vào khối hỗn mang chính là vụ nổ “Big bang” thế là chất nhẹ , trong bay lên thành trời; chất đục, nặng chìm (lắng) xuống thành đất … (trong thần thoại đã thấp thoáng bóng khoa học), và vũ trụ được hình thành, ông Bản Cả chính là thủy tổ loài người.” Ta thấy Sáng thế ký Trung Hoa đã vận dụng ý niệm cơ bản của Dịch Lý trong việc tạo lập vũ trụ. Vũ trụ quan chứa trong Dịch Lý là: trời đất cùng một thể gọi là khí, sau đó khí nhẹ, trong bay lên thành Hà (trời cao), chất đục nặng trầm xuống thành Lục (đất dày). Ngay từ khởi nguyên, Dịch Lý đã gắn liền với lịch sử Trung Hoa và lịch sử Việt Nam ; hiện nay chính các học gỉa Trung quốc cũng thừa nhận tích Bàn Cổ sáng thế bắt nguồn từ truyện Bàn Hồ của các dân tộc ớ phía nam trường giang ;nói như thế chẳng khác nào đã thừa nhận dịch lý không ra đời ở cái nôi Hoàng hà của Hán tộc . Thời điểm này chỉ là lúc vượn người nhảy vọt thành người vượn, tức là người nguyên thủy, dần dần họ hoàn chỉnh hệ thống tín hiệu âm thanh tức tiếng nói và trung khu thần kinh Tiếng nói trong não bộ con người,con người đã tiến từ con người riêng rẽ hay cá thể thành con người của cộng đồng tức là hình thành xã hội nguyên thủy. Đây là bước tiến vô cùng lớn lao vì thông qua ngôn ngữ, tri thức cá nhân biến thành tri thức cộng đồng do sự truyền đạt lẫn cho nhau, khối tri thức của mỗi người lớn nhanh lên gấp ngàn lần, não bộ cũng phát triển để thích ứng, do đó tăng từ 1.000 cm3 lên 1.300 cm3, tức thể tích não của con người cận đại ‘homo sapien’. Thời kỳ này cũng được đánh dấu bằng việc con người biết chế tác và sử dụng công cụ đá đẽo, nhưng phải đợi đến khi con người có một thành tựu tuyệt vời không loài động vật nào có được đó là việc biết dùng lửa thì con người mới chính thức mới vượt qua thời “nguyên thủy”. Đó cũng chính là lúc mà Dịch gọi là: ‘Thái Cực sinh Lưỡng Nghi’, vật chất có hình thể có thể cầm nắm được là Dương; vật chất trừu tượng và không nắm bắt được gọi là Âm, lúc đó con người mới trở thành sáng suốt hay homo sapien, người cận đại. Con người hội đủ những đặc trưng trên vào khoảng cách đây 500.000 năm và trở nên con người sáng suốt. Thần thoại Trung Hoa gọi là Tựu nhân tức đạt ‘danh hiệu’ người đúng nghĩa ; còn toại nhân nghĩa là “khoan cây lấy lửa” như ghi trong sách vở không đáng để đánh dấu một giai đoạn trên bước đường trở thành người đúng nghĩa. Ý nghĩa dịch lý của thời kỳ này là con người hình thành khái niệm về bản chất của thế giới mình đang sống; chung qui cấu tạo chỉ bởi 2 chất : chắc và óp, chất chắc thì đục và nặng, chất óp thì nhẹ và trong,vật lý hiện đại gọi là vật chất và năng lượng. 2. Thời Vũ Võng – Đế họ Sào (500.000 – 20.000 trước CN) Thời Homo sapien phương Đông tiếp thời Bản Cả – Tựu nhân khoảng nữa triệu năm trước và kéo dài đến 20.000 năm, thời gian này khảo cổ học gọi là thời chuyển tiếp từ đá cũ sang đá giữa. Nguyên văn cổ thư ghi là thời dũ võng, võng là cái lưới, ngư võng là cái lưới cá. Người Việt dùng chữ ‘võng’ để chỉ vật dụng đan bằng dây, mắt lớn dùng để nằm vì hình dáng giống như cái lưới nhưng công dụng thì khác. ‘Dũ Võng’ chẳng có nghĩa gì cả, nhưng khi ta ký âm lại: Dũ → Vũ (Vũ = Vua) loài người tiến lên một bước trên đường đến văn minh, cộng đồng người từ cách sống bầy đàn chuyển sang xã hội. Bước sang xã hội loài người thì một từ mới xuất hiện, vua, Vua Võng là vị vua đầu tiên đánh dấu bước tiến con người biết chế tạo công cụ, thời đồ đá cũ chỉ có thể gọi là chế tác … vì sự gia công rất ít, bản thân vật thể đã là một công cụ, sự chế tác chỉ tăng thêm chức năng khi sử dụng, còn sang thời Vũ Võng đã là chế tạo vì bản thân tự nhiên không sinh ra thứ đó để làm công cụ cho loài người, với sự thông minh của đầu óc, đứng trước một nhu cầu và với vật liệu có sẵn trong thiên nhiên, với đôi tay khéo léo con người đã biến thứ vô dụng thành hữu dụng, đây là khả năng chỉ có nơi có người, khi chế tạo võng để bắt thú, lưới cá làm thức ăn cho mình dần dần các ý niệm, sợi ngang, sợi dọc (kinh và vỹ), khoảng trống, khoảng liền, sự nối kết bằng nút thắt, những ấn tượng ban đầu đó chính là sự khởi đầu của các dấu hiệu, nền tảng của tư duy khoa học sẽ dần hình thành về sau. Qua giai đoạn này, con người đã bước hẳn sang là con người xã hội; nếp sống và nếp nghĩ, tâm tư – tình cảm, sự suy tưởng đều mang dấu ấn của cộng đồng, đời sống hàng ngày trở thành sinh hoạt xã hội, mà mỗi cá nhân không thể tách biệt được, như thế ngoài môi trường tự nhiên từ nay con người có một môi trường khác đó là xã hội, cuộc sống không chỉ là sự tương tác giữa cá thể và tự nhiên mà có thêm tương tác mới: tương tác con người và môi trường xã hội; tương tác là tác động hai chiều trong đó bản thân con người chịu sự “uốn nắn” của xã hội và ngược lại chính xã hội cũng chịu sự cải tạo của con người, cứ như thế mà tiệm tiến từng bước một. Tương tác giữa người – tự nhiên cũng tác động đến tương tác người – xã hội và ngược lại – kết quả tổng hợp của 2 mối quan hệ là sự tiến bộ. Đấy là cơ chế vận hành: Tam Tài: Thiên – Nhân – Địa trong Dịch Lý. Tiếp theo bước tiến thời Vũ Võng đến nấc thang: Đế họ Sào. Sách sử Trung Hoa ghi là: Đế họ Sào và giải thích: Sào là cái tổ chim … con người bắt chước chim làm tổ trên cây để cư trú tránh bị thú dữ làm hại, Hữu Sào là đễ chỉ giai đoạn con người có Tổ, hữu sào là có tổ; trên đường tới văn minh của con người không thấy có đề cập đến thời làm tổ ở trên cây, đó chỉ là sự tưởng tượng để cố lý giải nghĩa đen theo mặt chữ đã được ghi trong cổ thư Trung Hoa. Có cách “giải” khác hợp với lịch sử hơn nhiều: - Hữu là ký âm sai của chữ ‘họ’ trong tiếng Việt. - sào là cây sào, 1 đoạn cây bằng tre (từ thuần Việt) Chữ ‘hữu’ = ‘họ’ chỉ thị tộc. Sào là cái cây gậy bằng tre mà các nhà thiên văn học, tiền bối người Việt dựng nên đo bóng nắng xác định thời khắc trong một ngày. Đúng y như hình khắc trên trống đồng. Dựa theo bóng nắng đổ con người xác định phương Đông và Tây tức phân chia không gian, và so với các vạch (khắc) được vạch sẵn trên mặt đất mà phân chia thời gian. Ý nghĩa dịch lý Thời Họ Sào là thời con người hình thành khái niệm về vũ trụ- Thời gian và Không gian, đánh dấu việc con người bắt đầu biết “tư duy trừu tượng” với chữ Thời vì thời gian đâu có hình tích gì, cứ hết ngày lại đêm, sáng trưa chiều tối rồi lại sáng trưa chiều tối… ý niệm về sự tuần hoàn của vũ trụ và ý niệm chu kỳ được nảy sinh: sau này là nền tảng của Dịch Lý. So sánh vị trí của mặt trời và mặt đất con người tổng hợp thành 4 ban và 4 bên. - ban sáng, ban trưa, ban chiều, và ban đêm. - bên mọc (mục), bên trên, bên chiều (chiêu) và bên dưới. Động từ mọc được chữ Nho ký âm thành ‘mục’, bên mục, Hành Mộc, tiếng Việt biến thành bên mặt còn gọi là bên phải. Chữ chiều viết thành chiêu – siêu, còn có nghĩa là bên trái, Hoa ngữ chiêu là nghỉ ngơi, ngủ nghỉ. Khi ta để tay mặt hướng về hướng Mọc (mặt trời), tay chiêu về hướng Siêu thì mắt ta nhìn về hương Nom, nom chữ Nho ký âm thành Nam. Từ xa xưa với Hà Thư (Đồ), tổ tiên người Việt đã chỉ rõ không gian 3 chiều và thời gian 1 chiều, cùng kết hợp để trở thành vũ trụ, đó là thế giới quan không khác gì với thế giới quan ngày nay theo thuyết tương đối. Chữ ‘thời khắc’ nghĩa là ‘vạch thời gian’ về nghĩa có sự cộng hưởng với cảnh đo bóng nắng được khắc trên trống đồng. Ban ngày 5 vạch gọi là 5 mồng hay mùng; tưởng tượng ra 5 vạch cho ban đêm gọi là 5 canh. 5 + 5 = 10 gọi là Thập Can hay theo từ Việt là “chục con”, con đây là con số hay con chữ, chính 10 con số là những chữ đầu tiên trong “kho chữ” của loài người sau này. Hà Thư cũng cho ta biết: ngày xưa người Việt dùng cơ số 5 chứ không phải cơ số 10 như ngày này. 4 số sinh: 1, 2, 3, 4, và một số mẹ là số 5; tạo ra (5+1) = 6; (5+2) = 7; … Hiện nay người Khmer vẫn dùng cơ số 5 này. Tóm tắt: Cổ thư Trung Hoa gọi là Vũ Võng, Hữu Sào chỉ thời con người tiến từ người nguyên thủy thành người sáng suốt thời khoa học gọi là “homo sapien”, theo niên đại khảo cổ học là giai đoạn kết thúc thời đồ đá cũ bước sang thời đồ đá giữa, cách nay khoảng 20.000 năm, khảo cổ học Việt Nam gọi là thời văn hoá Sơn Vi lấy tên một địa điểm khảo cổ ở tỉnh Phú Thọ, phiá Bắc Việt Nam. Vũ Võng, Họ Sào cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quí giá trong việc xác định địa bàn cư trú lúc loài còn sơ khai, đó chắc chắn là vùng nhiệt đới vì cái võng lưới ban đầu chỉ có thể được đan bằng những sợi dây leo, và dây leo là sản vật của rừng nhiệt đới. Cây sào cũng là sản phẩm miền nhiệt đới, nơi có những cây tre cao tới 10 – 15m, và cây tre rất thân thiết với người Việt, người Việt có thể tạo ra mọi vật dụng hàng ngày bằng tre, từ nhà ở, thay thế cho cái nồi để nấu cơm, ghế, bàn, cho đến cái thúng, cái rổ và cây bút ban đầu chác cũng làm bằng tre vót nhọn đầu, cũng có thể chẻ tre làm lạt buộc, nối kết các vật lại với nhau, chắc chắn phương tiện thủy vận đầu tiên là bè, mảng kết bằng tre, vì cấu tạo bản thân cây tre lớn đã là cái phao tự nhiên, chỉ dân tộc thân thiết với cây tre như thế mới có thể phát sinh ra “sách thẻ tre” hay trúc thư. Tre lớn trong tự nhiên chỉ mọc ở vùng nhiệt đới, càng lên phía bắc tre càng nhỏ lại vượt qua Tứ Xuyên, Dương Tử tre chỉ to bằng cẳng tay, xa hơn về hướng bắc (hiện nay) tre chỉ bằng cỡ ngón tay người Hoa gọi là trúc. Sau này người ta đã thành công trong việc di thực tre lên phía Bắc nhưng cũng không thể có loại tre lớn được. Việc dựng cây sào đo bóng nắng để phân chia thời gian và định phương hướng vẫn còn lưu dấu trong tục dựng cây nêu ngày tết của người Việt, khoa dân tộc học đã cho thấy những điều này không hề có trong phong tục cư dân vùng Hoàng Hà – tức Hãn tộc. A 2 - thần thoại - nước họ HÙNG Nhân chủng học xác định người họ Hùng thuộc chủng Monggoloit nhánh phương nam. - Tiểu chủng Mongoloit Sống ở Bắc Trung Hoa, Mông Cổ, Siberia, và Eskimo. Riêng Triều Tiên và Nhật Bản ít nhiều đã hỗn chủng với những chủng tộc khác. - Tiểu chủng Mongoloit phương Nam quần tụ ở bờ Nam Dương Tử và ĐôngNamÁ.. gồm có 2 nhánh: + Nam Á + Nam Đảo: hay Indonesien Người Việt mang đặc trưng của cả 2 nhóm Nam Á và Nam Đảo, ở bất cứ nơi nào trên đất nước đều có mặt cả 2 nhóm trên. Sự kết hợp lâu đời và nhuần nhuyễn tới độ khó có thể phân biệt, Ngay trong một gia đình cũng có thể có mặt cả 2 loại hình Nam Á, và Nam Đảo, chuyện anh da trắng tóc thẳng (đặc điểm Nam Á), em da ngăm tóc quăn (đặc điểm Nam Đảo) là chuyện không hiếm ở Việt Nam. Nhóm Mongoloit Trung Hoa (tạm gọi như thế) sống dọc theo Hoàng Hà, từ Tây sang Đông từ khoảng thời gian cách đây từ 8.000 đến 6.000 năm, họ để lại các di tích khảo cổ học gọi là văn hoá gốm đỏ, gốm đen và sau cùng là gốm xám được phát hiện ở Hà Nam. Cách đây khoảng 6.000 năm. Phía Nam Trường Giang là nơi sinh sống của 2 nhánh thuộc tiểu chủng Nam Á và Nam Đảo, nhánh Nam Đảo đã để lại dấu ấn văn hoá dọc duyên hải Hoa Nam, nổi tiếng nhất là văn hoá khảo cổ Hà Mẫu Độ ở Phúc Kiến – Chiết Giang. Khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật còn tồn trong lòng đất của 5 nền văn hoá cổ lớn ở Đông Dương và vùng liền kề mang dấu ấn niên đại từ khoảng trước 10.000 năm đến 7.000 năm trước Công Nguyên. 1. Văn hoá khảo cổ Soi Nhụ – Cái Bèo là tiền thân văn hoá Hạ Long. 2. Văn hoá Hòa Bình, nổi tiếng khắp thế giới và được các nhà khảo cổ coi như tiêu biểu cho toàn vùng Đông Nam Á. 3. Văn hóa Bắc Sơn và vùng núi phía Bắc Việt Nam, nền văn hóa này đã để lại 2 mốc của lịch sử tiến hóa của toàn vùng: đó là cái rìu bằng đá mài đầu tiên, và những mảnh gốm đầu tiên. 4. Văn hóa cổ tiêu biểu cho Miền Trung và Nam Việt bước đầu đã có những khám phá quan trọng, các nhà khảo cổ đang tiếp tục đào bới tìm kiếm, kết quả ban đầu tuy chưa nhiều lắm nhưng cũng đủ để khẳng định một nền văn hóa cổ. 5. Nền văn hóa Trung và hạ Mekong hay sông Cửu Long: chủ yếu ở vùng Đông Bắc Thái Lan và trung-nam Lào Vượt qua Sơn Vi lùi về quá khứ đến tận thời đồ đá cũ ở Việt Nam có các di chỉ Núi Đọ nổi tiếng và linh thiêng. Khi ấy con người ở chế độ thị tộc mẫu hệ, loại hình xã hội đầu của con người khi vừa bỏ qua loại hình bầy đàn và xa hơn nữa cũng có những vết tích của con người… chứng tỏ con người đã có mặt ở vùng đất này từ thời Thái cổ và liên tục phát triển cho đến tận hôm nay. Từ những câu truyện truyền miệng sau này được ghi lại ở Việt Nam và Trung Hoa, ta có thể tổng hợp để viết truyền thuyết lịch sử tức là loại hình nửa truyện nửa sử, nửa thực nửa hư . Chuyện thần tiên và con người quấn chặt vào nhau nhưng nếu khéo gở ta có thể thu lượm được những thông tin tương đối chính xác, gọi là tương đối vì dù khoa học tiên tiến đi chăng nữa thì cũng phải chấp nhận 1 sai số thời gian, chỉ đến thời Lịch Sử thì sai số này mới bằng không. Truyền thuyết lịch sử Việt Nam chủ yếu dựa trên 2 tác phẩm “Lĩnh Nam Chích Quái” và Việt Điện U Linh” được biên soạn từ thế kỷ 13 và 15 không nhắc tới thần thoại, vì vua xa nhất được biết đến là Thần Nông, mãi tới năm 2003 Nguyễn Hồng Sinh mới công bố trong cuốn “Kinh Dịch Huyền Diệu và Ứng Nghiệm” 2 vì vua trước Thần Nông: đó là Đế Hòa thường gọi Hy Thúc hay Hy Hòa, vua của Lịch pháp … đáng chú ý là tổ bà tên là NỮ HOÀNG ANH. Kế tiếp là Phục Hy hay Bào Hy có tên Việt là Vua Cả – tổ của Hư không giáo, và tác giả cho Hư không giáo chính là Dịch Lý. Đối chiếu với truyền thuyết Trung Hoa có sự trùng khớp – trước Viêm Đế Thần Nông là Bào Hy hay Phục Hy tổ của Dịch Lý. Thuyết Quái ghi: “Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xem nét đất, quan điểu thú chi văn, gần thì thấy chính mình… để tác dịch” chữ Vua Cả đích thị là từ dịch của Thái cao (Chữ Nho) . Trước Bào Hy là Đế Hòa hay Hy Hòa, Đế Hy Hòa làm lịch đã được ca dao Việt Nam xác nhận: “Ai về nhắn họ Hy Hòa Nhuận đêm sao chẳng nhuận vài trống canh” Sự than thở của đôi trái gái mới cưới tiếc đêm qua mau quá… 2 câu này rõ ràng nói Hy Hòa là tổ của Lịch pháp. Ở phần mới công bố này ta có được thông tin vô cùng quí giá: Tổ bà là Nữ Hoàng Anh trùng tên với 2 bà vợ công chúa con Đế Nghiêu gả cho Đế Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh … cũng trùng hợp với thông tin Vua Nghiêu lệnh cho Hy Thúc … Trạch Nam Giao … từ mắt xích này ta lần ra một chuỗi sự kiện tiếp nối: Bào Hy – Thần Nông – cách 2 đời – Hoàng đế-Đế Nghiêu – Đế Thuấn – Đại Vũ. Nguyễn Hồng Sinh dựa vào tư liệu dân gian có chút lầm lẫn, Đế Hòa tức Hy Hòa không thể có trước Thần Nông và Bào Hy được, Qua 2 thông tin trên ta có thể khẳng định: Hy Hòa hay Hy Thúc chính là Đế Thuấn hay Ngu Thuấn là vị vua đã truyền ngôi cho ông Vũ, và đất Nam Giao nơi Hy Thúc đến theo lệnh vua Nghiêu chính là đất Quảng tây thuộc Lĩnh nam sau này. Nam giao là một địa danh được viết theo cấu trúc Việt văn nghĩa là vùng đất ở phía nam Giao chỉ vì thời Nghiêu Thuấn cách nay khoảng 6000 năm thì Trung hoa cổ ở tận Sơn tây không thể nào với tới đất Giao chỉ để có một Giao chỉ ở phương nam (nếu hiểu Nam giao theo cấu trúc Hán văn). Đã có Nam giao tất phải có Giao chỉ vậy Giao chỉ ở đâu ? Thực ra Giao chỉ là từ chuyển ngữ từ Việt sang Hán , nguyên gốc là Giữa hay vùng đất ở giữa thiên hạ khi dịch sang hán ngữ buộc phải tạo từ bằng cách ghép 2 chữ :giao nghĩa là giao cắt,gặp gỡ và chỉ là ký âm từ chỗ của tiếng Việt, trọn nghĩa từ ghép này là : nơi hay chỗ bốn phương giao hội vậy đã rõ Giao chỉ là 1 địa danh nên từ nay xin chấm dứt lối giải thích vớ vẩn ....2 ngón chân cai bè ra nên khi đứng chạm nhau ....,Giao chỉ hay đất Giữa là quốc thổ của người Việt từ ngàn xưa tương đương với vùng bắc –trung và bắc Việt ngày nay, người Hoa còn 1 cách gọi khác :đất Việt là đất YUÊ thực ra Yuê chỉ là thổ âm của từ Giữa mà thôi có điều lạ không hiểu tại sao Việt nho lại đọc chữ Yuê thành Việt như hiện nay phải chăng đây là 1 kiểu đi tắt...nhấn mạnh Giao là Việt và Việt cũng là Giao-Giữa.... Sử thuyết họ Hùng đặt chương thần thọai lên đầu vì đấy là thời ông Bành tổ xa xưa lắm , chuyện hoàn tòan do tưởng tượng nên ‘phi’ không và thời gian , vậy bạn đọc đừng bao giờ đặt câu hỏi ...ở đâu,lúc nào ...sẽ không có câu trả lời về nơi sinh trú của ông bàn cổ cho đến đế Hữu sào vì chỉ là thần thoại ..., huyền sử Việt không có phần này nhưng thực kỳ lạ nếu xét danh hiệu các vua thái cổ của thần thoại Trung hoa theo nghĩa trong Hoa ngữ thì chẳng có gì liên quan tới lịch sử thâm chí ngớ ngẩn ... không lẽ thuỷ tổ Bàn cổ của Trung hoa là ... cái bàn cũ ?...đế Hữu Sào là vị vua phát minh ra cách làm nhà trên ngọn cây như loài chim...?nhưng khi biên tập lại lấy Việt ngữ làm gốc như đã trình bày thì đúng là những dòng sử sâu thăm thẳm tương đương sách sáng thế ký của phương tây. Tiếp nối thần thọai là phần dã sử, dã sử được viết dựa trên truyền thuyết lịch sử tức đã có 1 phần sự thật làm nòng cốt từ đó mới hư cấu thành truyện, thêm vào những nhân vật những địa danh những tình tiết khiến câu truyện trở nên mạch lạc hấp dẫn và có ý nghĩa. Đặc biệt truyền thuyết lịch sử Việt ở thời giáp công nguyên đã được xử dựng như một phương thức đặc thù truyền lưu lịch sử đích thực cho hậu thế, đấy là những bức thông điệp nhắn gửi cho con cháu về những bất thường của lịch sử dân tộc được ngụy trang dưới lớp vỏ bọc là những chuyện hoang đường trâu ma rắn thần..., nay nếu chúng ta khéo chắt lọc sẽ thấy được những lời nhắn nhủ đó, chắc chắn là những điều vô cùng quan trọng vì nếu không thì tiền nhân chúng ta đâu phải khổ công để truyền đời như vậy, đời cha học thuộc lòng rồi kể cho đời con ... cứ như thế truyền đến ngàn năm...mong mỏi rằng sẽ có ngày dân tộc qua cơn bĩ cực con cháu sẽ giải mã được những thông điệp của quá khứ tìm lại được nguồn gốc đích thực của dòng giống mình. Trước khi đi vào phần dã sử cần thiết phải minh định ý nghĩa 1 số từ. Ở trên ta đã biết :Lãnh thổ của Hữu Hùng quốc là đất GIỮA còn dân tộc ? , theo truyền thuyết họ Hồng bàng thì Kinh dương vương đặt tên nước là “xích qủy” nghĩa là nước... quỷ đỏ ?,thực ra đó chỉ là sản phẩm của ...tam sao thất bản mà thôi, chữ quẻ đã biến thành chữ quỷ nên mất hết ý nghĩa, ‘xích quẻ’ hay ‘xích quái’ nghĩa là quẻ màu đỏ tức quẻ Ly trong bát quái của dịch lý , ly là biến âm của lửa tượng trưng cho mặt trời, ánh sáng hay sự văn minh, ý nghĩa này được kiện chứng ngay trong từ họ HỒNG bàng chính xác là ‘Hồng bang’ , chữ hồng trong Việt ngữ ngoài sự đồng nghĩa với đỏ còn có nghĩa là ngọn lửa đuốc ;cả 2 nghĩa đều có gốc từ quẻ LY. Đặc biệt người xưa đã dành hẳn 1 truyền thuyết để chỉ bảo chúng ta về điều này đó là sự tích trầu cau, 2 anh em tức 2 vạch liền biến thành cây cau ở trên và hòn đá vôi ở dưới, còn 1 nữ là vạch đứt ở giữa làm cây trầu không ..., đó chính là hình tượng qủe LY, khi phối hợp cả 3 thì tạo thành chất nước màu đỏ....trong tiếng Việt từ nước ngoài nghĩa là 1 loại vật chất còn có nghĩa là quốc gia, qủe LY và màu ĐỎ...ở đây là lần nhấn mạnh thứ 3 cốt chỉ nói một điều : chúng ta là 1 quốc gia Văn minh hay quốc gia của những người văn minh., chính 2 thành tố : chính giữa và ngọn lửa đã tạo nên từ TRUNG –HOA sau này, chính xác là TRUNG_HOẢ, trung là dịch từ giữa ,còn hoả là lửa. Đất là trung tâm của thiên hạ, và con người là người văn minh , Dân tộc ta là ánh đuốc soi đường cho thiên hạ, đấy là những gì tiền nhân nhắn bảo chúng ta về qúa khứ dòng họ Hùng. Trung hoa chỉ trở thành 1 quốc hiệu từ cuộc cách mạng Tân hợi 1911 khi ông Tôn dật Tiên tuyên bố lập nước ‘Trung hoa dân quốc’, trước đó trung hoa là từ dịch của Giữa và Lửa dùng để chỉ nước do vua trực tiếp cai trị tức nơi cầm đầu cả thiên hạ, ‘Trung hoa’ ở đây là vế đối của ‘chư hầu’ để tạo thành thiên hạ vì vậy với mỗi triều đại ta lại có 1 trung hoa khác, trung hoa nhà Chu không phải là trung hoa thời nhà Thương.v.v., ở Việt nam các vua nhà Trần cũng có khi xưng mình là Trung hoa (Việt nam sử lược- Trần trọng Kim) nên khi ta dùng các từ như trung hoa xưa hay cổ sử Trung hoa... là hoàn toàn do thói quen và không chính xác vì thời xưa làm gì có nước Trung hoa và dân tộc Trung Hoa. Ta đi vào phần dã sử của nước họ Hùng dưới ánh sáng Dịch Lý. Người họ Hùng lập quốc chính thức vào đời Hùng vương thứ 5 , triều HÙNG VŨ tức vua HÙNG , người Hoa đã tạo ra từ kép VŨ_VƯƠNG để chuyển ngữ từ VUA cuả Việt ngữ ; Vũ là mượn âm vương để chỉ ý . Đã là người thì phải có tổ có tiên nên Hùng sử có 4 triều đại tiền lập quốc tượng trưng cho cả quãng thời gian từ khi thành người đến ngày trọng đại ấy. Trên vùng đất ngày nay là đông dương cách nay 20.000 cho đến khoảng 6.000 năm là nơi sinh trú của 2 đại tộc : -Đại tộc Khương sống ở Vùng trung và hạ lưu sông mêkông hay Mễ cương. Khương là biến âm của khăng nghĩa là không đổi, đặc tính của phương tây theo dịch học, Khương→Cương.→cứng. Khăng →cang→cứng. - Đại tộc Mi sinh trú dọc theo ven biển trung - bắc Việt nam và vùng biển liền kề . Mi là biến âm của Mơi-mai ; sớm mai là lúc mặt trời mọc ở phương Đông. Phương đông còn gọi là bên mục-hành mộc người Hoa độc là mô; tất cả chỉ là biến âm cùa từ gốc là mọc trong Việt ngữ đồng nghĩa với lên hay thăng Đại tộc Khương phân hoá thành tộc Khương tây và Khương nam tức Cửu lê và Tam miêu sau này . Đại tộc Mi cũng chia thành Mi đông và Mi bắc (bắc của dịch lý tức hướng xích đạo) tức họ Thần long hay Động đình và họ Cơ của Hoàng đế sau này . Bốn tộc người thời xa xưa này được dã sử Việt coi như tổ phụ thuộc 4 phương trời về sau hợp nhất để thành dòng họ Hùng tức tổ tiên người Việt . Có thể nói tất cả người Đông nam Á ngày nay ;tùy theo sự đậm lạt của 4 dòng huyết thống kể trên mà hình thành các sắc tộc với Hình sắc bên ngoài có thể hơi khác nhau nhưng trong huyết quản thì chỉ là 1 giòng giống chung , Câu: thống nhất trong đa dạng dùng mô tả cư dân Đông nam á là hoàn toàn chính xác .
  21. Dịch học họ HÙNG . bài 3 **3** 3 . Dic̣h học hình tượng. Con người chúng ta tư duy bằng 2 hệ thống dấu hiệu chính : Hệ thống dấu hiệu âm thanh và hệ thống dấu hiệu hình ảnh. Đơn vị của hệ thống dấu hiệu hình ảnh là tự hay chữ, tự nối kết với nhau thành : văn; còn đơn vị của hệ thống dấu hiệu âm thanh là tiếng,nối kết nhau thành : điều , ta hay dùng như một từ kép ‘điều tiếng’. Gọi là 2 hệ chính vì còn các hệ thống dấu hiệu cá biệt khác như : hệ thống chữ nổi của người mù được cảm nhận bằng xúc giác và hệ thống dấu hiệu cử chỉ dành cho người câm . Trước khi có văn tự con người vẫn có tư duy ,khám phá và chuyển giao thành qủa tức vẫn có tiến bộ.Như đã trình bày ;dịch học tuần tự có 3 hệ thống: - Dịch lý nút số. - Dịch lý vạch qủe . - Dịch lý bằng văn tự. Dịch học là tư duy của người họ HÙNG vậy khi chưa có dịch nút số con người suy nghĩ dựa trên cơ sở nào ? Trước dịch học nút số đã có 1 nền dịch học khác , đó là dịch lý “hình tượng” tức lấy chính các hình ảnh và hiện tượng tự nhiên làm dịch tượng ̣để tư duy. Dịch lý thô sơ dựa trên các hình tượng đã hệ thống hóa sau: Khi tìm hiểu về dịch lý ta thường nói : Càn là trời, khôn là đất, ly là lửa ...,như thế là đã đi ngược tiến trình của dịch học , đúng ra ta phải nói : trời là càn , khôn là đất...., vì từ những hình tượng có thực trong cuộc sống người ta mới nén thông tin vào trong các dịch tượng tạo thành hệ thống dấu hiệu làm công cụ cho tư duy . Dịch học hình tượng lấy trời và đất hay bầu trời và qủa đất để biểu thị cho không gian . Lấy mặt trời và mặt trăng để biểu thị cho ngày và đêm tức chỉ thời gian. Bốn hình tượng này được đặt nằm trên giao điểm của 2 hình tròn và vuông ý ch̉i vũ trụ bao la không bờ bến . 4 qủe còn lại biểu diễn cho cái không gian hẹp tức khuôn khổ trong đó con người ta sinh sống. - Dich học nói :tại thiên thành tượng tại địa thành hình . Hình ảnh biển cả và đất liền được dùng để tượng trưng cho mặt địa cầu là cái nền chở đỡ và dưỡng nuôi loài người , Đất và nước luôn đi đôi trở thành từ kép ‘đất nước’đồng nghĩa với tổ quốc của mỗi người.Hiện nay người ta cho là quẻ Đoài là cái hồ thực ra không phải vậy ; khi nói Đoài là hồ cấn là núi là đã giảm tầm cỡ của dịch lý xuống rồi đấy ; kích cỡ của cái hồ hay qủa núi có thấm tháp gì so với sự mênh mông của mặt địa cầu nên không thể nào trở thành một nguyên tố của dịch học , chỉ có biển cả hay đại dương, đất liền hay đại lục mới đủ tư cách gánh vác trách nhiệm đại biểu đó. Tại thiên thành tượng . Hai hiện tượng tự nhiên trên bầu trời có ấn tượng sâu sắc trong đầu thánh nhân khi tác dịch là : sấm sét và bão gió. Trời thì trong suốt đâu có nhìn thấy gì đâu ? nhưng qua các hiện tượng chúng ta biết vật chất vẫn tồn tại ở đó, thứ vật chất mà dịch học gọi là nhẹ và trong, nhận định có 2 thể loại vật chất , một là chất đục và nặng có thể nhân biết dễ dàng còn một thứ trong suốt nên chỉ có thể nhận biết một cách gián tiếp thông qua các hiện tượng , ở đây dịch học chọn sấm sét và gió bão chỉ cái không gian bao la trên đầu con người. Bốn hình tượng : biển- đất và sấm- gió đủ để vẽ nên sinh cảnh của con người lúc ấy. Từ 8 hình tượng của tự nhiên người xưa đã nén thông tin tạo thành 8 quẻ của dịch học “tự nhiên” tức dịch học tiên khởi trước cả dic̣h học nút số, dịch học tự nhiên là tư duy của người Việt cổ hàng chục vạn năm cho tới khi được dịch học nút số thay thế. Hình tượng của dịch lý tự nhiên sau đã tạo thành 8 quẻ: - Trời tạo thành quẻ Kiền hay Kiện. - Đất tạo thành quẻ Khôn hay Xuyên. - Mặt trời hay ban ngày tạo thành qủe Ly hay La. - Mặt trăng hay ban đêm tạo thành quẻ Khảm hay cống. - Biển cả tạo thành quẻ Đoài hay Đoạt. - Đất liền hay đại lục tạo thành qủe Cấn hay Căn. - Sấm sét tạo thành quẻ Chấn hay Thìn. - Bão gió tạo thành qủe Tốn hay Toán. Dịch học hình tượng là dịch học thô sơ, sau này khi khối tri thức lớn thêm , đầu óc càng ngày càng mở mang và khi con người đã ‘chất biến’ thì dịch học cũng đổi thay : dịch học nút số thay thế dịch học tự nhiên , hình tượng trở thành dịch tượng với các thông tin chứa ở trong sâu xa và trừu tượng hơn. Các hình tượng của dịch lý tự nhiên đã cho chúng ta các thông tin về sinh cảnh lúc ấy : - 1 / Nơi sinh sống của cộng đồng người đã phát minh ra dịch học là vùng ven biển nơi đất liền với biển, từ cảnh quan cho đến sự cung ứng thực phẩm hàng ngày ̣đều đến từ một môi trường kép ‘biển và đất’ từ đó mới sinh ra lưỡng nghi ‘ Đoài và Cấn’, quẻ Cấn còn được coi là tượng trưng cho ‘núi’ Việt ngữ có từ kép ‘khuất núi’̣để chỉ sự chết , ý nghĩa này bắt nguồn từ việc mặt trời lặn ở hướng tây;với ý này ta thu được thông tin : người “tác”dịch sống ở nơi phía tây là núi và phía đông là biển. Thực vậy chỉ có sống ở nơi ven biển mới có thể nhìn thấy đường “chân trời” nơi mút tầm mắt từ đó nảy ra ý niệm: trời như cái bát úp trên mặt đất, chân trời là nơi cái miệng chén đặt trên mặt đất,vũ trụ quan đơn sơ này chính là khởi nguyên của ‘ trời tròn đất vuông’ là ý niệm cơ bản trong dịch học. Xét như thế ta khẳng định : dịch học không thể ra đời ở vùng Thiểm tây-Sơn tây cái nôi của Hán tộc vì đấy là vùng đất nằm sâu trong đất liền ., ở nơi mà chỉ có cát với cỏ thì làm sao có thể tưởng tượng ra cặp lưỡng nghi Đoài và Cấn....? - 2 / Cặp hình tượng ‘ sấm sét và gió bão’ chỉ ra : cộng đồng người đã sản sinh ra dịch học sống ở nơi mà mưa bão- sấm sét là chu kỳ lập đi lập lại hàng năm , 2 ‘thiên tượng’ này phải là một nếp hằn sâu đậm trong đầu óc người cổ thì nó mới có thể được cấp cho ‘tính đại biểu’ của phần không gian hẹp trên đầu con người tức là 1 lưỡng nghi của dịch học. Sấm và bão ngoài sự hoành tráng vốn có nó còn là sống còn của cư dân nông nghiệp sau này vì sấm luôn kèm với mưa mà mưa là yếu tố quyết định của canh tác lúa nước, người Việt đã tổng kết “nước-phân-cần-giống”đủ biết mưa quan trọng như thế nào trong đời sống .Mưa bão sấm sét là một sự liên hoàn luôn đi với nhau nên thành 1 lưỡng nghi của dịch học: Chấn và Tốn. Lại thêm một khẳng định : quê hương của dịch học không thể ở ngòai vùng “Châu á gío mùa” vì chỉ ở vùng này Chấn và Tốn mới có tính chu kỳ và ảnh hưởng sâu sắc trên cuộc sống con người, Sơn tây-Thiểm tây cái nôi của Hán tộc rất ít mưa và hầu như không có sấm sét là hiện tượng sinh đôi của mưa bão thử hỏi làm sao có thể tưởng tượng ra Chấn với Tốn...? Tổng kết thông tin trong bài viết này và bài ‘trống đ̣ồng và quê hương dịch lý” trước đ̣ây ta xác định :Dịch học đã ra đời ở Việt nam ,cụ thể hơn là ở vùng đồng bằng ‘Thanh nghệ tĩnh’; nơi mà phía đông là biển phía tây là núi, nơi mà hằng năm ghánh không biết bao nhiêu là bão gío- sấm sét,nơi mà bên đông có rồng bên tây có tịnh, hướng bắc ( hướng của dịch lý tức hướng xích đạo) có Hổ và hướng nam (xưa) có đầy Thuồng luồng như đã chép trong truyền thuyết và Trên trời nhiều hạc mặt đất đầy hươu nai. Riêng về loài nai thống kê khảo cổ học cho biết ở đất Việt cách nay vài ngàn năm hươu nai là loài thú săn chiếm tới trên 50% trong tổng số thú bắt được cá biệt có nơi xương hươu nai chiếm tới trên 75%, vì điều này chúng ta hiểu được tại sao dịch học nút số dùng số 6 là lục hay lộc tức con nai tượng trưng cho mặt đất nơi mình sinh sống; ở Thiểm tây –Sơn tây có nai hay lộc nhiều như thế hay không ? Tơí đây ta có thể tạm kết về dịch học hình tượng : Dịch học HÌNH TƯỢNG là một hệ thống gồm : - 8 hình tượng tự nhiên : Trời-đất-mặt trời-mật trăng-biển cả-đất liền và sấm sét-gío bão. - 6 chữ Điểu thú văn : Hạc-lộc-hổ-sấu-long-tịnh. Và các hình tượng Đặc biệt : - Mặt trời ;là nguồn sáng cũng là nguồn sống được coi như biểu tượng của đấng tối cao và được nhân cách hóa thành ông trời. - Con người ; là trung tâm của vũ trụ nơi xuất phát mọi giá trị. - Biểu tượng bộ phận sinh dục nam, người Viêt gọi là ‘nõn’ hay ‘lõ’, người Chăm theo đạo Hindu gọi là ‘Linhga’. - Biểu tượng bộ phận sinh dục nữ , gọi là ‘nường’ hay ‘lường’ , người Chăm gọi là ‘Yoni’. Linhga và Yoni chính là biểu tượng xưa nhất của Âm và Dương , được coi như 1 biểu tượng tôn giáo trong các nền văn hoá Chăm và Khơme cổ , người Việt xưa vẫn có tục rước ‘nõn- nường’ , sử sách trung hoa chép : Chu công đã cấm tục thờ ‘sinh thực khí’ tức ‘nõn-nường’.,trong ngôn ngữ Việt hiện nay linhga và yony đã được xác định chính là Âm và Dương trong 2 danh từ “âm hộ và dương vật” tức bộ phận sinh dục nữ và nam. Trong loạt bài đã viết tôi đã nêu ra thứ tự theo thời gian của các hệ thống dịch học : - Dịch học nút số. - Dịch học vạch quẻ. - Dich học bằng văn tự. Nay qua bài viết này ta thấy Dịch học hình tượng mới là khởi nguyên của dịch học , nền dịch học ra đời từ khi con người còn chưa biết đến chữ dù là loại chữ kết thằng cổ xưa là gì và nó đã đồng hành cùng con người cả trăm ngàn năm , cùng với tiếng nói hay ‘điều –tiếng’ dịch học tự nhiên đã trở thành cái nền của : tư duy , khám phá, ứng dụng và truyền thông .. ;tóm lại dịch học hình tượng là căn đế của 1 nền văn minh vô cùng rực rỡ nhưng đang tạm thời bị vùi lấp và cũng đang dần toả sáng.
  22. G - Dịch lý và thời lập quốc họ HÙNG. Dịch học là ánh sáng của người họ HÙNG nên không có gì nằm ngoài nó,lịch sử cũng vậy, người họ Hùng đã kiến taọ lịch sử của mình trên cơ sở HÀ THƯ và NGŨ HÀNH, ta nhìn lại Hà thư và những vận dụng của ngũ hành: 1 - Thời tiền lập quốc. Tóm lược những thông tin rút ra được từ sách Lã thị xuân thu của Lã bất vi: -Phương số 3-8 Hà thư là :Thái cao –Bào hy vua của phương đông ứng với màu xanh hành mộc - Phương số 2-7 Hà thư là : Viêm đế- thần nông vua của phương viêm nhiệt ứng với màu đỏ hành hoả. - Phương số 4-9 Hà thư là : Thái hạo vua của phương tây ứng với màu trắng hành thổ. - Phương số 1-6 Hà thư là :xuyên húc vua của phương u huyền ứng với màu đen hành thủy. Ta thấy ngay cổ nhân Trung hoa đã kiến lập lịch sử buổi ban đầu của dân tộc mình theo HÀ THƯ. Ở đây 2 phương đông và tây đã rõ ràng chỉ cần minh định 2 phương bắc và nam; theo Lã thị xuân thu phương viêm nhiệt là phương nam là sai ; viêm nhiệt là nóng bức, bức =bắc qúa rõ, liên quan tới nóng và lửa ta còn nhiều từ khác như : hỏa viêm thượng nghĩa là lửa thì bốc lên ; ta lưu ý từ viêm và bốc, nhẹ như bấc; số 2 trong hà thư đọc là nhị chính là biến âm của nhẹ từ Việt như vậy ta thấy từ bắc nằm trong cụm từ bắc-bức- bấc-bốc là những biến âm dùng diễn tả những gì liên quan tới ngọn lửa. Vùng trời này được gọi là Viêm thiên trong cửu thiên và trên thực địa thì không thể có sự chỉ định nào khác ngoài vùng nhiệt đới hay cận xích đới, ngược với viêm thiên là huyền thiên hay phương nam,phương màu đen tiếng Việt còn gọi là Mun, người Tàu ký âm thành Man và chính người Tàu củng đã xác định đấy là phương nam qua từ kép NAM MAN tức nam mun. Một chứng lý nữa : trong vương chế Trung hoa vua luôn luôn quay mặt về hướng nam nếu là buổi thiết triều thì để nghe lời của hiền thần còn noí chung là để lắng nghe nguyện vọng của dân chúng; như vậy khi vua nhìn về hướng nam thì bản thân vua phải ở hướng bắc, quần thần và dân chúng chầu về hướng bắc, ở Trung hoa xưa vua được xem như mặt trời vậy, nên chầu vua tức chầu mặt trời tức là quay mặt về hướng xích đạo tóm lại hướng mặt trời là hướng Bắc. Tới đây đã đủ bằng chứng để kết luận : phương bắc và nam đã bị lật ngược đây là việc làm có chủ đích , có hệ thống vì không phải chỉ có phương nam bắc mà toàn bộ những thông tin cơ bản của dịch lý đều bị đảo lộn như âm dương, vạch đứt -vạch liền, các phương vị của Hà Lạc và bát quái, ngũ hành cũng cùng chung số phận; nói chung CÀN KHÔN đã bị người Hán phá nát, những điều này dần dần khi đi sâu tìm hiểu địch học họ HÙNG chúng ta sẽ nhận ra. Các cặp số của Hà thư cho ta 4 phương và trung tâm hay trung nguyên. 4 phương tượng trưng cho 4 thị tộc hay bộ lạc thời tiền lập quốc và trung nguyên là nơi hoà hợp –thống nhất các thị tộc thành dân tộc, thời gian này là thời lưỡng tính, khởi đầu là liên minh thị tộc và kết thúc là hình thành quốc gia. Quốc hiệu đầu tiên của dòng giống HÙNG là Quốc gia họ HÙNG hay HỮU HÙNG QUỐC, chữ hữu ở đây là ký âm chữ họ , quốc hiệu này biểu thị rất rõ thời lưỡng tính trên vì mang trong bản thân cả hữu lẫn quốc . - căp số ( 3-8 ) Trong hà thư chỉ phương đông phương mặt trời mọc hay mùa xuân; ý chỉ buổi bình minh của dân tộc. Truyền thuyết lập quốc người Việt gọi vị tổ phụ phương đông là ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vua vùng Động đình hồ. Mới đây các nhà nghiên cứu Việt nam đã sưu tập được trong truyền thuyết dân gian tên 4 vì vua đầu của họ HÙNG là : VUA CẢ- THÁI CAO, THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) , THÁI KHANG VÀ THÁI TIẾT;THÁI CAO chỉ là tên chữ nho của VUA CẢ mà thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với THÁI CAO- BÀO HY của cổ sử Trung hoa, theo 1 trật tự hợp lý thì THÁI CAO chỉ là tên khác của ĐỘNG ĐÌNH QUÂN cả 2 đều mang tính biểu thị cho phương đông; chính xác phải gọi là phương động là tính chất của can BÍNH- BẤN tượng số (8) trong thập can, còn Thái cao hay Vua cả chỉ sự khởi đầu của các vua hay buổi bình minh của dân tộc.phương đông củng là phương của màu xanh và tình thương.sách Lã thị xuân thu chép vua dựa vào mộc đức mà cai trị, số ứng là số 8 là số chỉ phương đông trong Hà thư, động vật tiêu biểu là loài có vảy tức loài rồng –rắn , kỷ cuả ngài gọi là mạnh xuân kỷ. Động đình hồ ở đâu ? phần lớn những nhà nghiên cứu sử đều bị mê hoặc bởi đầm Vân mộng ở Hồ nam và xác định đấy là Động đình hồ của cổ thư, trong sách cổ của Trung hoa nói nhiều đến Chấn trạch hay Lôi trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở phương đông ta thấy đầm Vân mộng không đủ các yếu tố theo chỉ định của ngôn ngữ vì nó nằm ở khoảng giữa đất Trung hoa..Đình hồ nghĩa là cái hồ lớn có thể hiểu là biển nên động đình hồ phải dịch sang Việt ngữ là Biển đông mới đúng, Động đình quân là vua vùng biển đông, căn cứ vào năng lực con người vào thời đại ấy thì biển đông chỉ có thể gom vào vùng vịnh bắc bộ ngày nay là hợp lý, truyền thuyết Việt nam nói Linh lang một vì vua được thờ rất nhiều đã hoá tức chết ở hồ Tây và hồn suôi về Động đình hồ ,điều này kiện chứng thêm cho sự ấn định trên. - cặp số ( 2-7 ) Số( 2-7) chỉ phương nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai quản của THÁI VIÊM ;tổ phụ phương lửa hay quẻ LY.sách Lã thị xuân thu và các tư liệu lịch sử Việt nam đều gọi là VIÊM ĐẾ đây là sự khập khễnh đáng tiếc , khi đã xác định là 1 tổ phụ thời tiền lập quốc phải gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn xác và nhất quán;truyền thuyết lich sử Việt coi Thái viêm Thần nông là tổ cao nhất của mình; Đế MINH chắu 3 đời của Viêm đế Thần nông....dã sử Việt đả mở đầu như thế..., còn theo Lã thị xuân thu: Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thưlà số 7 hướng xích đạo cũng là màu đỏ, động vật tiêu biểu là loài lông vũ tức loài chim và nhiều sách cổ của Trung Hoa chỉ định rõ là chim khổng tước tức chim công. Thực tế ta hiểu thị tộc của Viêm đế có địa bàn sinh sống là vùng nóng nhất trong 4 thị tộc thời tiền lập quốc tức gần xích đạo nhất.Trung hoa xưa vẫn gọi miền trung Việt nam là miền bắc hộ ý nói vì đã vượt qúa xích đạo nên cửa mở về hướng bắc để đ̣ón ańh mặt trời. - cặp số (4-9) Phương tây trước đây không được nói tới trong truyền thuyết lập quốc nhưng nay đã được bổ sung là THÁI KHANG hay tổ phụ phương tây, từ khang thực ra là khăng hay khăng khăng nghĩa là không thay đổi, khăng =cang=cương=cứng là tính chất của phương tây theo dịch học: số 4 là cứng, số 9 là đinh hay tịnh, Lã thị xuân thu viết động vật tiêu biểu là loài lông mao ý nói loài sư tử , đây là cái sai rất điển hình của những người cố ý cạo sửa cổ thư vì sư tử là loài thú xa lạ với cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến sư tử á châu bao giờ chưa ?..Động vật tiêu biểu của phương tây phải là con voi vì can số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can: định, tịnh..;.bản thân chữ tịnh đã là con voi rồi vậy mà Có người cố ý nhập nhèm sửa đổi vì phía bắc sông Hòang hà từ cổ chí kim làm gì có voi nên họ thay bằng con sư tử , cả sư và tử đều xuất phát từ âm tsi số 4 mà thôi, số 4 việt ngữ là bốn, biến âm thành bóng ,sáng bóng hay bóng láng dịch sang Hoa ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây còn gọi là phương Chiêu, tổ phụ phương này là THIẾU HẠO. Ở trên ta đã biết khương hay cương có nghĩa là cứng rắn không thay đổi, đấy là đặc tính của phương tây cổ thư trung hoa cũng nói đến sông KHANG hay KHƯƠNG như cái nôi của người cổ, từ Khương ký âm thành Cương cho phép ta liên kết với sông MỄ CƯƠNG tức sông MÊCÔNG ngày nay. _ Cặp số ( 1-6) Việt ngữ gọi tháng 1 là tháng giêng, hoa ngữ ký âm thành giang đồng nghĩa với con sông thường được dịch thành xuyên, số 1 cũng là đơn biến âm của đen trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên cũng là mun màu đen tiếng Việt để tạo thành nam mun hay man, vị vua của phương này truyền thuyết dân gian Việt gọi là THÁI TIẾT, thực ra là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp chỗ giao nhau của cũ và mới trước và sau là sự bắt đ̣ầu hay trước tiên theo nghĩa chữ giáp là đứng đầu là thứ nhất nên Thái tiết còn có tên là tiên đế, lĩnh nam trích quái gọi là bà VŨ TIÊN,ta thếy tất cả đều xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ có nghĩa là vua vùng số 1 tức phương nam, vì vua của phương 1-6 này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC, xuyên là con sông như ta đã biết ở trên còn Húc chỉ là ký âm sai của từ hắc nghĩa cũng là màu ̣đen.sông đen chuyển ngữ thành Xuyên húc hay Hắc Tóm lại : thời tiền lập quốc người xưa đã dựa trên Hà thư để hư cấu thành 4 vị tổ phụ của 4 phương trời, mượn danh các vua nhưng thực ra để chỉ 4 thị tộc mà sau này đã tham gia vào việc cấu thành dân tộc họ HÙNG. 2 - Thời lập quốc. Theo Cổ sử Trung hoa thì Hoàng đế và Viêm đế là hậu duệ của Thái Viêm Thần nông , đây chỉ là sự thể hiện sử tính của những con số thuộc Viêm phương theo Hà thư : 7=2+5 , số 7 chỉ Thái Viêm , số 2 là Viêm đế và số 5 là Hoàng đế hay Hùng Vũ – đế Minh HIỀN VƯƠNG vua của thị tộc CẢ nghĩa là tộc đứng đầu cổ sử Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ đánh bại XUY VƯU vua của thị tộc CỬU LÊ ; đoạn sử này xuất phát từ cặp số 4-9 chỉ phương tây của Hà thư, xuy là âm số 4 còn cửu là số 9.Sau đó ở trận Trác Lộc Hiền vương đánh bại VIÊM ĐẾ thủ lãnh thị tộc phương ‘nóng’ thống nhất 3 tḥị tộc thành một dân tộc, dân tộc HÙNG, lập nước họ HÙNG và lên ngôi HÙNG VŨ tức VUA HÙNG , vũ chỉ là ký âm hán tự chữ vua của việt ngữ, lãnh thổ của nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm Hán ngữ thành YUÊ còn được dịch thành GIAO CHỈ, chỉ là chỗ, nơi chốn ý nói nơi giao nhau của 2 đường nam –bắc, đông tây, chữ giữa ký âm YUÊ không hiểu sao Việt nho đọc thành VIỆT. Vua Hùng dạo chơi phương nam gặp và kết hôn với con gái bà Vũ tiên hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là biến âm của lục là số 6 và công thức đả ấn định trong hà thư để sinh ra Lục tộc hay Lạc tộc ; Hiên viên hay Hiền vương tên tộc là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở trung tâm của Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra Lộc tục được chỉ bởi số 6;ta có: 5+1=6, sau vua HÙNG truyền ngôi cho con cả lập nên triều đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục được phong là vương phương Nam lấy hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG, Kinh biến âm của cóng nghĩa là lạnh cũng là một tên khác của quẻ Khảm chỉ NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước hay phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh còn dương chỉ là biến âm của Giêng tức số 1 của Hà thư.Giòng con cháu đế NGHI gọi là người LA tượng trưng bởi qủe LY là lửa , qủe của Viêm phương. Cổ sử Trung hoa không ‘thích’ con đường hôn nhân mà nhất định phải đánh , phải có chiến tranh và chiến thắng mới oai ...nên viết HOÀNG ĐẾ tức HÙNG VŨ đánh bại HOAN ĐÂU con của vua XUYÊN HÚC ở ĐAN THỦY, đan là biến âm của đen, Đan thủy hay HẮC THỦY cũng là con ‘sông đen’ mà thôi, HẮC THỦY là tên của sông ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là tổ của người MIÊU hay Hữu Miêu tức họ Miêu, chữ Miêu chỉ là ký âm sai của chữ MUN mà thôi, người Mun nghĩa là người phương nam. Tất cả người tộc Miêu đều nhận mình là người MUN. Thực tế thì chẳng có hôn nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là một lối ám chỉ ,diễn tả việc phát triển dân tộc HÙNG về phương nam ,ở đấy cộng sinh và hoà huyết với1 tộc người mới là người MUN kết qủa là tạo thành giòng tộc HÙNG phương nam gọi là người KINH hay CÓNG tên khác của quẻ Khảm chỉ phương nước ngược với phương lửa. LA và KINH là anh em cùng cha khác mẹ , cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua HÙNG và đất giữa hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay kim chỉ nam còn được gọi là LA-KINH tức cây kim 2 đầu, 1 đầu Bắc và1 đầu Nam nhưng chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi người đều biết là người VIỆT hiện nay còn người LA ? Câu ca dao sau sẽ dẫn dắt chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn: Ai ơi chớ lấy KẺ LA. Cái dưa thì khú cái cà thì thâm. Gạt bỏ ý tứ trong lối chơi chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có được 1 thông tin quan trọng và qúy giá đó là KẺ LA, kẻ nghĩa là người , kẻ La là người La tên người Việt gọi người CHĂM hay CHÀM; thì ra La và Kinh là chỉ người Việt và người Chàm hiện nay..., người Chàm là dòng đế NGHI con cả của vua HÙNG, thật là một bất ngờ to lớn khi biết La là quẻ Ly ;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và quẻ nước biểu thị sự phân cực của một thể thống nhất theo luật lưỡng nghi của dịch học. Người Chàm chỉ là một phần của người La , người La hiện nay có mặt ở nhiều nơi trong vùng đông nam á và trung quốc, Lào và Thái có người LÀO hay LÃO QUA, Trung quốc có người DI LÃO hay CAĐAI và người LÊ, các từ Ly-la- lê-lão-lô..v.v chỉ là những biến âm của 1 từ gốc là LỬA, chữ Di là tàn tích của chữ NHÌ là thứ hai . DI_LÃO có 1 từ kép Đối xứng là KINH_LẠC, qủe Cóng đối với qủe Ly hay Kinh đối với Lão; Lạc biến âm của lục số 6 đối với Di biến âm của nhị số 2, 6 và 2 là 2 số đối phân cực Bắc –Nam của Hà thư. Người KINH- LẠC; ngoài người Kinh ở đất Việt hiện nay còn có dòng Bách-lộc và người Hẹ hay Hacka và người mang họ MẠC ở đất Trung quốc vì Chữ LẠC còn đọc là ḤẠC và MẠC-MẠCH, có điều lạ lùng là không hiểu sao người Tàu lại gọi người Cao ly là Mạch, có 1 sự lẫn lộn nào đó của lịch sử hay không ?. Khi hình thành nên tộc Kinh-Lạc dòng máu người họ HÙNG đã là sự hòa huyết của 3 thị tộc gốc: người dòng CẢ của phương bắc, người CỬU_LÊ của phương tây, người MUN hay MIÊU của phương nước hay nam xưa tức phương bắc ngày nay. Truyền thuyết Việt nói : KINH DƯƠNG VƯƠNG kết hôn cùng LONG _NỮ con ĐỘNG ĐÌNH QUÂN; thế là người họ Hùng đã đi hết đoạn đường mà tạo hóa sắp đặt để hòa thêm dòng máu thứ 4 vào huyết thống của mình dòng máu của LONG tộc ở phương ĐÔNG, diễn biến này được Truyền thuyết lịch sử Trung hoa viết :Vua ĐẠI VŨ lấy vợ là ĐỒ SƠN THỊ, Đồ sơn thị là người con gái ở ĐỒ_SƠN ; phải chăng là bãi biển Đồ sơn ở Hải phòng bắc Việt hiện nay ? cổ thư trung hoa có nói đến việc họ KINH XUYÊN và ĐỘNG ĐÌNH đời đời là thông gia... Cổ sử cũng cho biết khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu ĐÀO-ĐƯỜNG hay ĐÀO- DƯƠNG, thông qua các dịch tượng ta hiểu Đào đường hay dương cũng chỉ có nghĩa là bắc - nam hay lửa và nước mà thôi, cổ sử Việt có nói đ̣ến đất Việt thường đấy chính là nói về đất Đường trên, Đường là phát âm hán việt chữ thoòng hay thường mà thôi.Con dân vua HÙNG có người LA người KINH, đất có đất Đào đất Đường hay Việt thường, căn cứ vào thư tịch cổ ta còn thấy vua cũng có 2 dòng, đế KHAI-MINH và đế MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của người Trung hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế Minh Khiết hay MINH + KHIẾT là vua gốc dòng KINH- LẠC do sự hòa huyết của đế MINH và dòng VŨ TIÊN phương nam gọi tên khác là ông KHIẾT như truyền thuyết đã nói ở trên. Khi vua HÙNG truyền ngôi cho đế NGHI ở phương bắc tức đất Đào thì quốc hiệu là nước ‘ĐÀO’ dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG ký âm sai thành HỒNG BÀNG, đấy là quốc hiệu đã được mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công nhận. Những dòng tóm lược về thời khai quốc trên đã cho thấy có sự trùng hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 dòng sử VIỆT và HOA , sự việc này thực kỳ bí buộc ta phải đi sâu thêm để khám phá. Do lẫn lộn không phân biệt giữa Thái viêm Thần nông tổ 3 đời của đế Minh và Viêm đế một thủ lãnh bộ tộc cùng thời với đế Minh hay Hiên viên- Hiền vương đã khiến cổ sử Việt mắc sai lầm cơ bản mang tính quyết định . Vì lầm lẫn Viêm đế là thủy tổ của dòng Việt mà ...Hoàng đế Hiên Viên đã đánh bại Viêm đế...nên các sử gia người Việt đã coi Hiên Viên là kẻ xâm lăng và hủy diệt nước của người Việt . Hoàng đế Hiên Viên đã đánh bại Xuy vưu và Viêm đế thống nhất 3 bô tộc để lập nên nước họ HÙNG thời thái cổ . Chính sự thực lịch sử này khiến Trong dòng con dân của Viêm đế còn truyền tụng cho đến tận ngày nay truyền tích xâm lăng –diệt quốc của Hoàng đế Hiên Viên . Giới sử học Việt đà mắc sai lầm căn bản khi coi Hoàng đế Hiên viên là tổ của Hán tộc ....Hiên Viên chỉ là ký âm hán tự của Hiền vương – Hùng vũ là thủ lãnh của một trong ba bộ tộc đã kết hợp để làm nên họ HÙNG thủy tổ của người VIỆT ngày nay.
  23. D - Cây cầu HOA-HÁN Người Hán nhận mình là “Quan Tộc”...;.quan tộc ngài là ai...? Ở Trung Hoa ngày nay tiếng Bắc Kinh còn gọi là Quan Thoại được coi là tiếng phổ thông, chữ Quan này được hiểu là Quan Quyền, Quan là ông Quan người cai trị dân, là tiếng nói giới cầm đầu cầm cổ người dân, trong một giai đoạn lịch sử nào đó mà Quan và dân không cùng chung một ngôn ngữ, có tiếng nói của người cai trị “Quan Thoại” thì cũng có “Chúng thoại” của giới bị trị, sự kiện này nói lên điều gì? Rõ ràng đây là tình cảnh của một dân tộc đang bị ngoại nhân xâm chiếm, Quan Tộc là tộc người cai trị thì kẻ bị trị là ai? Trong bối cảnh lịch sử ta đang xem xét thì chỉ có thể là người Trung Hoa mà thôi. Quan Thoại là tiếng nói của vùng Sơn Tây Hà Bắc, Bắc Kinh xưa là đất khởi phát đế nghiệp của vua Quang Vũ nhà Đông hay Hậu Hán. Vậy là ta rõ tại sao người Hán nhận mình là Quan Tộc, chữ Quang trong Quang Vũ là sai, không biết vô tình hay hữu ý, chữ Quang phải đối thành “Quan” mới đúng. Quan Vũ là Vua nước Quan, Vũ chỉ là từ ký âm của chữ Vua. Trong Việt ngữ. (Tại sao vậy? Chúng ta sẽ có dịp bàn kỹ hơn tong một bài khác); Ta có sự liên kết hòan chỉnh: Quan Tộc, Quan Thoại và Quan Vũ, và cũng đã rõ sự liên hệ giữa Quan Tộc và người Hán. Tiếp tục với câu hỏi: Quan tộc ngài là ai?. Ngược dòng lịch sử tới thời Ân Thương thời cưc thịnh của triều đại Ân Thương Trung Hoa đã có 4 thuộc Quốc: Phương Nam là nước Quan Phương Đông là nước Từ Phương Tây là nước Châu (Chu) Phương Bắc là nước Thao Ta khoan tìm hiểu về nước Thao vì để xác định được phải mất cả một chương dài mới có thể thấu đáo, xin hẹn trong một bài khác. - Phương Tây là nứơc Châu dễ xác định nhất đó chính là vương triều kế sau nhà Ân Thương. Đứng về mặt ngữ nghĩa ta thấy đoạn văn trên hơi kỳ lạ: Thuộc Quốc Phía Tây cuả Trung Hoa là nước… Phương tây ….; Châu, Chu chỉ là biến âm của chữ “CHiêu” là phương Tây, ngược với bên Mục Tức Phương Đông mặt trời mọc. - Tương tự: Thuộc quốc Phương Đông là nước Từ. Theo dịch lý thì Phương Đông màu xanh, là phương của tình cảm ngược với Phương Tây là Phương của Lý lẽ dịch Tượng là Quê Ly(Tiên Thiên Bát Quái). Màu xanh từ Hán Việt là: Thanh, Thương, nhưng Thương trong Việt ngữ cũng là Thương yêu; Phương “Thương yêu” dịch sang Hoa ngữ là “Từ Ái”, như thế nước Từ cũng chỉ nghĩa là nước.. Phương Đông…, Ta có thể xác định nước “Từ” là nước ở vùng Từ Châu, Tỉnh Sơn Đông ngày nay, Thời Chiến Quốc là nước Tề (Tề là biến âm của Từ). - Thuộc Quốc Phương Nam là nước Quan, cùng một mạch suy luận ta nhận ra ngay: Quan là từ dịch sang Hoa ngữ của chữ Nom, nhìn của Tiếng việt: Trời đất có phương Mục, Phương Chiêu, tức Phương mặt trời mọc và lặn, con người có Tay Mục (Mặt), Tay Chiêu (trái); nếu để tay chiêu ở Phương Chiêu; Tay Mục ở phương Mục thì hướng mắt ta nhìn là hướng Nom; Biến âm Thành Nam. Thực a cả hai phương Bắc và Nam đều là ký âm của Việt Ngữ: Bức (nóng) = Bắc; Nom (nhìn) = Nam. Như vậy thuộc Quốc “Quan” cũng nghĩa là nước ở phía Nam mà thôi. Ở đây ta có được thông tin rõ ràng dứt khoát: nước Quan chỉ là thuộc quốc phía Nam Trung Hoa. Quan là thuộc Quốc của Trung Hoa thì Hán không thể nào là Trung Hoa được vì Hán = Quan Khi dùng phương hướng bắc Nam như hiện nay sẽ xảy ra điều không thể có: Nếu nước Quan đã xác định là vùng Sơn Tây – Hà Bắc – Bắc Kinh thì đất của nhà Ân Thương phải là đất Mông Cổ…, không lẻ Mông Cổ là Trung Hoa? Vì nước Quan là nước Phía Nam Trung Hoa, kiểu này người eskimo… đất Tây Bá Lợi Á là nước THAO và nước Từ không thể ở Tứ Châu, Sơn Đông được mà là nước của người Kim, người Mãn… ở bán đảo Liêu Đông. Những điều trên là không thể thì ta chỉ có thể hiểu được nếu khẳng định là: Trong quá khứ đã có lần đảo ngược hướng Bắc Nam, chỉ khi đất của nhà Ân Thương ở Hà Nam; Hồ Bắc, An Huy thì đất của Quan Tộc mới là Sơn Tây – Hà Bắc và nước “Từ” mới ở Từ Châu, Sơn Đông. - Qua thời nhà Châu, xin trích một đoạn trong Sách Lộ Sử của La Bí đời Tống. “Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu ” Thông tin trong đoạn trích trên xác định “Quan Tộc” vẫn ở Bờ bắc Hoàng Hà, vùng Sơn Tây Hà Bắc và nếu liên kết thông tin với địa lý- lịch sử thời “Ân Thương” thì ta buộc phải hiểu những dân mà Lộ sử gọi là Man là địch mới đích thị là người Trung Hoa, là hậu duệ của người Thời Ân Thương. Xét kỹ hơn trong lịch sử Trung Hoa, ít ra từ thời Ân Thương ; chưa bao giờ Trung hoa làm chủ được phần đất bắc Hoàng Hà một cách ổn định và lâu dài. - Thời: ân thương và chu ta đã biết ở phần trên. -- Thời Tần: Sau khi thống nhất Lục Quốc thì Rợ đã lấn tới đất Hà Nam. - Thời Tây hán: sau cuộc Hán Sở Tranh Hùng, Lưu bang lên ngôi Hoàng Đế thì Rợ lại cũng lấn tới đất Hà Nam, lưu bang đem quân lên đánh xuýt mất mạng ở Sơn Tây… đành phải rút lui..., tới thời Hán Vũ Đế. khi mới lên ngôi thì Rợ cũng đã lấn xuống phía Nam Hoàng Hà… - Từ thời nổi dậy của “Lục Lâm Thảo Khấu” người Hán tức Quan Tộc xuất phát từ Sơn Tây, hà Bắc nuốt dần Trung Hoa từ Bắc xuống Nam đặt đất Trung Hoa vào vòng nô lệ hơn 500 năm. Mãi tới thơì Nhà Đường Trung Hoa mới làm chủ vùng Bắc Hoàng Hà được một thời gian nhưng cũng không lâu dài và ổn định vì biến loạn an lộc sơn mấy mươi năm, An Lộc Sơn cũng là Rợ … Phương Bắc mà thôi . Càng về sau Trung Hoa càng khốn khổ hơn; hết Tây Hạ tới Liêu, hết Liêu tới Kim, hết Kim tới Mông Cổ… và sau cùng là Mãn Thanh, Trung Hoa bị khai tử mấy trăm năm và chỉ phục sinh từ cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, nhưng cũng từ đó mang một vóc hình khác: Hợp chủng Quốc Trung Hoa. Đó là thực trạng Trung Hoa ngày nay không thể nói khác được, từ góc nhìn hợp chủng Quốc Trung Hoa thì quá khứ xa xôi không còn nguyên trạng của lịch sử dân tộc Trung Hoa nữa, chính vì vậy mới có chuyện những người xâm chiếm Trung Hoa đặt Trung Hoa dưới móng ngựa của họ cũng trở thành một triều đại chính thống của lịch sử Trung Hoa, nào Hán, nào Mông rồi Mãn.. hết thảy đều là một triều đại, một thời kỳ lịch sử của Trung Hoa, bất chấp thời ấy dân Trung Hoa phải cạo nữa đầu và kết tóc đuôi sam, 10 nhà mới được giữ 1 con dao, thời mà văn hóa Trung Hoa bị chôn dưới bùn… nhà nho chỉ được xếp đứng trên ăn mày trong 10 bậc dân của đế quốc Mông Cổ. Quan đi với liêu Thành từ kép: “Quan – Liêu” người việt ghép thêm chữ thành ra “Quan Liêu Hống hách” để chỉ thái độ của các bậc Quan đế quốc coi dân như cỏ rác, câu trên cũng giúp ta xác định Quan và Liêu chỉ là một; chính xác phải nói là: Nước Quan Người Liêu. “Liêu ” là từ Hán ký âm chữ “Lu” Tiếng Việt, Lu là mờ tối dịch tượng chỉ phương Nam, nhỏ, đen, mờ, lạnh, thấp, là những tính chất của Phương Nam theo dịch lý. “Quan” ban đầu chỉ có nghĩa là Phương Nam nhưng do thực tế lịch sử thời Trung Hoa bị chiếm đóng… tất cả người cầm đâu cổ dân từ thấp lên cao đều thuộc “Quan Tộc” nên chữ Quan phải gánh thêm nghĩa mới: “Kẻ cai trị” tức Quan Quyền như ta hiểu ngày nay. Hán Tộc, Quan Tộc, Liêu Tộc có phải là Trung Hoa hay không? Thêm một bằng chứng lịch sử nữa: Liêu chiếm đất Bắc Hoàng Hà của Trung Hoa, Kim diệt Liêu và chiếm hết đất của Liêu, sau đó tiến thêm chiếm hết miền hoa bắc, Mông Cổ chiếm hết đất của người Kim rồi xua quân chiếm luôn Nam Tống ở bờ Nam Trường Giang. Mông Cổ chia: dân trên đất kim cũ gọi là Người Hán, trên đất Nam Tống gọi là Người Nam. Như vậy với vua Mông Cổ thì Kim hay Liêu gì cũng là Hán, Trung Hoa mới là giống khác. Nếu ta đặt câu hỏi người Hán là Trung Hoa hay người Nam là Trung Hoa thì em bé mới cắp sách đến trường cũng trả lời ngay được.: Người Nam của nước Tống mới là người Trung Hoa, và còn hơn thế nữa ở Trung Hoa từ “Hán nhân” có thời được dùng như một câu chửi người (Sách cội nguồn văn hóa Trung Hoa do Đường Đắc Dương chủ Biên, biên dịch Việt ngữ năm 2003). Vậy tại sao mãi tới nay người ta vẫn còn lầm hẫn: Hán là Hoa hay Hoa và Hán chỉ là một? Hoa và Hán không những là hai dân tộc khác mà họ còn khác biệt cả về chủng tộc, người Hán tức Quan Tộc thụôc dòng Mongoliot còn người Hoa thụôc dòng Monglóit phương nam với 2 chi là : Nam Á và Nam Đảo (Lộ sử gọi là man và Địch) Sự lầm lẫn này không phải do vô ý, trái lại đã có một sự sắp xếp rất bài bản và tinh vi, Chúng ta xem lại lịch sử Trung Hoa thời trước và thời sau năm số “không” của Tây Lịch, thời kỳ Hán biến thành Hoa nhờ 1 cây cầu nối … lịch sử. Vương Mãng với quyết sách cải tổ toàn diện và triệt để đã làm rối loạn toàn xã hội Trung Hoa, sự đảo lộn ấy cộng hưởng với ngoại xâm và thiên tai trong một thời gian ngắn đã đẩy Trung Hoa đến bên bờ vực thẳm, Quốc lực hầu như bằng không … tất nhiên loạn lạc nổi lên khắp nơi. Đòn quyết định vận mệnh Trung Hoa là việc vương Mãng Giáng vua các thụôc quốc từ tứơc ‘vương’ xuống tước ‘hầu’, cấm họ Lưu không đựơc làm quan, chính sử nói như thế nhưng ở đây ta có thể hiểu là: vương mãn áp dụng đừơng lối phân biệt chủng tộc, cấm ngừơi họ Lưu tức là cấm người LiÊU không đựơc tham dự vào bộ máy lãnh đạo Trung Hoa, phân biệt rõ Trung Hoa và ngoại nhân , chính quốc và thụôc quốc Việc tự xưng là “Châu Hoàng Đế” chỉ rõ ý muốn tiếp nối quốc thống nhà “Châu” của vương mãng. Chính sử không nói nhưng nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra Trong Quân của lưu bang thời Hán sở tranh hùng có rất nhiều người Hungnô tức rợ phương bắc nói chung, vì ơn nghĩa ấy sau khi lên ngôi … Thực chất quốc gia của Lưu Bang là một cộng đồng đa tộc, Hoàng tộc Trung Hoa còn củng cố mối liên hệ với các tộc phương bắc bằng nhiều cụôc hôn nhân vì vậy nhiều người gốc Hungnô đã trở thành quý tộc trong triều đại Lưu Bang. Hai anh em Lưu Dần và Lưu Tú ở trong số quý tộc dị chủng ấy, khi bị vương mãng tước Vương tộc lập tức phản ứng, tụ tập đồng bọn, những kẻ đồng hội đồng thuyền chiếm núi Lục Lâm ở Hồ Bắc, ban đầu chỉ là một bọn cướp núi dân Trung Hoa khinh thường gọi là “Lục lâm thảo khấu”... nhưng khi vận nước đã đến hồi tối tăm thì lũ “giặc cỏ” cũng làm nên cơ nghiệp, Trung Hoa rả rời và mong manh chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ sụp đổ tan tành, ban đầu bọn “giặc cỏ” lập Lưu Huyền lên làm vua, niên hiệu là Cánh Thủy có điều lạ: không thấy lịch sử nói đến tên triều đại mà chỉ lấy niên hiệu để gọi vua là Cánh Thủy Đế, nhưng Quân của ông ta thì lại gọi đích danh là “Hán Quân” Cánh Thủy Đế chì làm vua được 3 năm thì bị quân Xích My của những người Trung Hoa theo Lão Giáo nổi lên nhằm khôi phục triều đại Lưu bang diệt quốc. Lưu Tú là tay Đại Hùng lược, anh hùng khai quốc của người hán, chính đám quân của ông đã chặt đầu “Châu hoàng đế” khi đang ngồi cầu kinh trên ngai vàng vì còn tin là số mình chưa tận. Nhưng dưới triều Cánh Thủy Dế thì Lưu Tú lại bị vua lưu Huyền Nghi kỵ nên đày đi tuốt vùng sâu vùng xa… Ở Hà Bắc (Trước đó do Tranh dành Lưu Huỳền đã giết Lưu Dần anh của Lưu Tú) Lưu Tú đã tỏ rõ bản lĩnh của mình, sau mấy năm trời âm thầm gây dựng lực lượng đến năm 25 sau Công nguyên thì chính thức lập quốc và xưng đế hiệu là Quang Vũ tên nước và triều đại là Đông Hán hay Hậu hán. Từ năm26 Quan VŨ diệt quân XÍch My và rồi Tuần tự chiếm trọn đất Trung Hoa 4 triều đại nối tiếp nhau của thời kỳ này là:  Triều đại của Lưu Bang – Hiếu Cao Tổ  Triều đại của Vương Mãng –Châu Hoàng Đế  Tiều đại của Lưu Huyền - Cánh Thủy Đế  Triều đại cua Lưư Tú – Quang Vũ Đế Trong số này có sự “bất thường” của lịch sử với 2 triều: Lưu bang – Hiếu Cao và Lưu Huyền – Cánh Thủy Đế. Ở triều đại do Lưu Bang dựng nên tất cả các vua đều có đế hiệu là “Hiếu”…; như Hiếu Cao Tổ, Hiếu Huệ Đế, Hiếu Văn Đế, Hiếu Cảnh Đế,v.v… theo quy tắc của sử học Trung Hoa thì triều này bắt buộc phải gọi là triều “Hiếu”… nhưng trong sách sử Trung Hoa ta không hề thấy tên triều này mà thay vào đấy là triều “Tây Hán” Triều Cánh Thủy Đế còn đặc biệt hơn, không có cả Đế hiệu và quốc hiệu…. Không lẽ là nước “Cánh” .. , có thấy lịch sử viết gì đâu? Nhưng quân đội lại ghi rõ là Hán Quân. Tại sao vậy? Liên kết sự kiện của 2 triều đạị ta tìm ra sự bí ẩn của lịch sử Trung Hoa. Suy luận 1 cách hợp lý ta thấy: Cuộc nổi dậy của họ “Lưu” ở núi Lục Lâm đưa đến việc thành lập 2 triều đại của “Hán Nhân” triều của Lưu Huyền ở Thiểm Tây và Lưu Tú ở Hà Bắc – Bắc Kinh; nếu triều của Lưu Tú là đông Hán thì triều của Lưu Huyền phải là Tây hán hay Tiền Hán, lịch sử đã chỉ rõ quân của Lưu Huyền là “Hán QUân”. Tại sao lại tước đi đế hiệu hay Quốc hiệu ấy rồi đem gắn vào triều đại của Lưu Bang? Khi triều đại của Lưu bang được gắn tên mới là Tây Hán dĩ nhiên Đế Hiệu “Chính Thống” là triều Hiếu phải bị chôn vùi đi để cho dòng chảy lịch sử vẫn bình thường từ Tiền Hán sang Hậu hán… đúng là cây cầu lịch sử nối đôi bờ Hoa-Hán, nhờ cây cầu này người Hán đương nhiên tiếp thu toàn bộ lịch sử của Trung Hoa , di sản ấy là toàn bộ nền văn hóa văn minh Trung Hoa và rất đặc biệt... ‘sang đoạt’ luôn cả tổ tiên của người Trung Hoa , đây là trường hợp đặc biệt “Độc nhất vô nhị” trong lịch sử nhân loại. Việc “Hoán chuyển” này được sắp đặt hết sức công phu và tinh vi. Lưu Bang được gọi là Bái Công, trong cuộc Hán Sở Tranh Hùng ông có thêm tên mới là Hán Vương. Từ “Hán” chỉ là ký âm hoa ngữ của chữ Hơn hay Hưng mà thôi, Hán –Sở chỉ là một cặp lưỡng nghi hình thành trên quy tắc của dịch lý. Hán – Sở -: Hên – Sui Hơn – Thua Hưng – Suy Vì Lưu Bang là người chiến thắng nên dĩ nhiêm là Hưng đế, còn Hạng tịch là suy đế hay sở đế.... phép kỳ âm phù thủy đã biến. : Hưng = Hán = Hãn “Hưng đế” của Trung Hoa qua trung gian của từ “Hán” đã biến thành “ Đại Hãn” của Rợ Phương Bắc. Họ Lưu của Lưu Bang là sự cố tình nhập nhèm, khi khởi nghĩa ở đất Bái ông ta đã Tế Hoàng Đế và xi vưu Chứng Tỏ ông là Trung Hoa thuần túy. Ông chọn phẩm phục, cờ xí đều là mầu đỏ, chứng tỏ ông là gốc người miền nhiệt đới được tượng trưng bằng Quẻ Ly – hay lửa và màu đỏ. Như vậy ông phải mang họ Lý không thể nào mang họ Lưu được, Lưu là biến âm của “Lu, mờ” là tính chất của Phương Nam theo dịch lý (ngược với Phương hiện này). Lu  Liêu – Lưu. Lửa  Lý – Lưu. CHỉ với chút Tiểu xảo ngôn ngữ một ông vua gốc Nhiệt đới biến ngay thành vị khả hãn của xứ lạnh giá băng tuyết. Từ Hán cũng là ký âm của “Hãn” trong ngôn ngữ Bắc Phương (Phương hiệu nay) tức phương Nam xưa (theo dịch ký) Hãn là Vua, nước của Hãn là Hãn Quốc, Quân đội của Hãn là Hãn Quân; Tây Phương Lý âm La Tinh: Hãn thành Khan, người Tàu ký âm là khả hãn rồi Đại Hãn sau cùng thành Hán đế. Điều này được lịch sử Trung Hoa minh chứng là có cả đống nước gọi là “Hán Quốc” Chứ không phải chỉ có triều tiền và Hậu Hán. Tóm Lại: Trong Lịch sử Trung Hoa Từ “Hán” hay “Hán Tộc” là tên chung của các tộc du mục phương Bắc chính yếu chỉ 2 tộc Khiết Đan hay Liêu và Tiên Ty hay Kim –Mãn, Quan Tộc chỉ là một thành phần của Tộc Liêu. Mà thôi Người Hán không phải là người Hoa, Hán Quốc không bao giờ là Trung Hoa (theo Quan điểm Trung Hoa thuần khiết và chính thống) Triều Hiếu do Lưu Bang lập nên không có một chút liên hệ gì về huyết thống với Quan Vũ nước Đông Hán; Đông Hán chính xác phải gọi là Đông Hãn Quốc, cùng với Tây Hãn Quốc. Tương tự Khâm Sát – Hãn Quốc; A hoạt đài Hãn Quốc…. Của người Mông Cổ. Vương Mãng viết đúng là: Vương Mãn, nghĩa là Vua cuối cùng, Mãn là đã đầy tràn hết chỗ chứa rồi không thể thêm được nữa, tiếng việt dùng chữ Mãn với nghĩa đã xong rồi như Mãn Nhiệm, Mãn khóa, mãn phần,v.v… do hoàn cảnh lịch sử nên các sử gia chỉ có thể viết một cách bóng gió: triều Vương Mãn và ta phải hiểu rõ ý nghĩa là: Vận số của Vương triều Trung Hoa tới đây đã tận. So sánh với Hùng Triều thế phổ thì Vương Mãn là triều Hùng Vương thứ 18…, Tên Vương Mãn nói lên một điều rất rõ ràng đây là Vương Triều sau cùng của Trung Hoa, sau đấy là chuỗi ngày Vong Quốc, con dân Trung Hoa làm thân nô lệ và kẻ xâm chiếm thống trị Trung Hoa chính là Quan Tộc với 2 Hãn Quốc Tiền và Hậu. Việc Lưu tú nhận là cháu 5 đời của Cảnh đế triều Hiếu là giả mạo và bị dân gian diễu cợt bằng câu : “mập mờ đánh lận con đen..”.... cả huyền và tú-tối đều là con đen... theo nghĩa này. Việc có rất nhiều từ hán gốc Việt trong sử Trung hoa là 1 hiện tượng ngôn ngữ chưa lý giải được..., rất có thể là lịch sử trung hoa hiện nay đã viết dựa trên những tư liệu gốc không phải bằng hán văn nên với những từ hay cụm từ được cho là “danh từ riêng” thì ký âm chứ không dịch, loại văn tự này chỉ có thể là Việt văn cổ hoặc Nếu không thì cũng là văn tự của dân tộc nào đó rất gần gũi với người Việt hiện nay.
  24. C – Không thể . I. Những điều không thể xảy ra: Trung Hoa lập quốc bên bờ Hoàng Hà, mãi tới thời CHU mới tiến đến Trường Giang như thế: 1. các vua từ Thần Nông, Xuyên Húc … đến Hạ Vũ và nhà Thương không thể biết đến đất “Giao” tận xích đạo được. 2. Vua Thuấn không thể tuần du và chết ở Thương Ngô thuộc quảng Tây được. 3. Không thể có châu Kinh và châu Dương trong cửu châu nhà Hạ ở Nam Trường Giang. 4. Không thể có chuyện con cháu nhà Hạ lập nước Việt ở Cối Kê – Triết Giang 5. Xét kỹ thì các cống phẩm của 9 châu đời Hạ Vũ đều là sản vật vùng nhiệt đới, như vậy 9 châu này không thể ở bắc Hoàng Hà. II. Ngũ Man Trung Hoa (bị lộn ngược thành Ngũ Hồ) Phía nam theo Dịch Lý tức phía bắc Trung Hoa hiện nay là nơi tụ cư của các Man tộc, vói 5 dòng: 1. Phương Tây: người Tạng biến âm của chữ tịnh còn gọi là Khương biến âm của chữ cương – căng hay khăng nghĩa là phương cứng, không đổi. Người Chi biến âm tsi = tư, số 4 còn được gọi tên chung là Thổ. 2. Phía Tây Nam: tức Tây Bắc hiện nay, là nơi sinh sống của người Đột Quyết, ‘Đột’ biến âm của chữ độc là số 1 chỉ phương Nam, ‘Quyết’ trong Dịch lý là phương tây (quyết định – định đoạt), Đột Quyết nghĩa là phía Tây nam mà thôi, tên chỉ chung các dân tộc vùng Trung Á vì tóc râu của họ màu nâu đỏ, nên còn được gọi là dân Hung (hung trong tiếng Việt là màu nâu đỏ), người Mông Cổ gọi sắc dân này là dân Sắc Mục. 3. Phía chánh Nam: đất của tộc Mông – Nguyên, cả mông và nguyên đều có nghĩa là phía Nam của Dịch Lý 4. Phía Nam: người Khiết Đan hay người Liêu, Khiết là thuần khiết hay đơn nhất, ý chỉ số 1, phương nước trong Dịch Lý, đan là đơn: số 1 cũng là màu đen là lu, mờ, tối. 5. Phía cực Nam: người Tiên Ty hay Nữ Chân, tiên là số 1, ty là thấp chỉ phương Nam ngược với vương, cao, tôn, Tiên Ty chia thành 2 dòng: người Kăm hay Kim và Mãn hay Man. Ban đầu từ “Hán nhân” là 1 câu chửi chỉ dùng cho người Khiết Đan, sau này đồng hóa với người Tiên Ty cũng coi là người Hán. Thời Mông – Nguyên: Từ người Hán là tên, chỉ 2 sắc dân này, người Trung Hoa chính gốc được gọi là người Nam. Người Lu có 3 chi: Tây Lu hay Thủy Cốc Hồn, Nam Lu hay Quan Liêu ở Sơn Tây và Hà Bắc, Đông Lu hay Từ Liêu ở Sơn Đông và tên chính thức của họ trong lịch sử là Hán Tộc. Ba triều đại lớn họ đã dựng nên được sử Trung Hoa ghi nhận là: -Nhà Hán Tây và Đông + nhà Ngụy. -Người Tiên Ty thì tạo hẳn thành 2 nước: -Nước Kim -Nước Mãn Thanh III. Chủ nhân nền văn hóa, văn minh Trung Hoa Hai cộng đồng người thuộc 2 loại hình nhân chủng khác nhau, sinh trú trên 2 địa bàn khác nhau, dĩ nhiên sẽ hình thành 2 nền văn hóa, văn minh khác nhau nhưng văn minh cổ của Trung Hoa chỉ có một, vậy cộng đồng nào đã tạo nên nền văn hóa, văn minh Trung Hoa cổ? •Mongoloit: Hoa Bắc; hay Nam Á, Nam Đảo, Đông Nam Á. Ngoại trừ những tư liệu thành văn mô tả những gì không thể có ở Hoa Bắc vào thời thượng cổ , ta có thể điểm thêm vài nét đặc trưng cấu thành văn hóa Trung Hoa: 1. cái ăn: lương thực chủ yếu của dân Trung Hoa là lúa gạo, lúa gạo không thể trồng ở miền Bắc Trung Hoa vào thời cổ. 2. cái mặc: trang phục cho giới bình dân gọi là “bố” làm từ sợi đay … nhưng đay là cây á nhiệt đới thì Hoa Bắc làm sao có được …, trang phục cao cấp may bằng lụa do “lụy tổ” vợ của Hoàng Đế sáng chế (theo truyền thuyết) … cũng không có được ở bờ bắc Hoàng Hà, ví cây dâu tằm chỉ mọc được khi nhiệt độ trên 170C, như vậy “Lụy tổ” không thể ra đờiở bắc Hoàng Hà.do điều kiện khí hậu cây dâu không thể mọc tự nhiên Có chi tiết cần bàn thêm, dân Trung Hoa thờ “Tiên Tàm” coi như tổ ngành dệt lụa, sao lại là Tiên Tàm? vì Tiên Tàm là cấu trúc Việt ngữ tương tự như cấu trúc Thần Nông vậy. 3. Chỗ ở: Truyền thuyết Trung Hoa nhất là truyền thuyết liên quan tới Dịch Lý… đều cho biết thời Thái cổ người Trung Hoa dựa trên hình tượng con rùa để làm ra nhà ở: * mai rùa là mái nhà. * yếm rùa là sàn nhà . * 4 chân là 4 cột nhà. Như vậy là mô tả cái nhà sàn, vì nhà sàn mới có sàn nhà và 4 cột chống sàn hổng cao lên khỏi mặt đất. Nhà sàn là loại hình cư trú đặc trưng của dân Đông Nam Á và dân thiểu số Trung Hoa ở Hoa Nam. Dân miền bắc Trung Hoa hoàn toàn xa lạ với loại nhà này. 4. về vận chuyển: cổ thư Trung Hoa đều mô tả việc thủy vận là phương tiện chính, nhưng thủy vận không hề phát triển ở Hoa Bắc thời trước Công nguyên, việc này cũng dễ hiểu vì phưong tiện của thủy vận là thuyền và bè làm bằng tre kết lại. Miền bắc Trung Hoa không có tre đủ lớn để kết thành bè còn thuyền thì thời cổ chỉ có thuyền độc mộc mà cả miền Hoa Bắc chắc không có nổi 1 cây đủ lớn để làm thành 1 con thuyền. 5. về văn hóa: trong suốt khảo luận này ta đã nói nhiều, ở đây chỉ bàn thêm: thời Hạ Vũ có lệnh cho vùng “Cửu Giang” phải cống rùa lớn, cống rùa lớn để làm gì ta đã biết nhưng “Cửu Giang” là vùng nào? dựa trên chữ Củu có thể đoán là “Trường Giang” ngày nay. Miền Hoa Bắc không có rùa lớn thì lấy gì mà phát minh ra chữ khắc, từ đời Chu thì Sơn tây, Thiểm tây làm gì có tre lớn để làm trúc thư? 5 yếu tố văn hóa trên xác định nền văn hóa, văn minh Trung Hoa cổ là của phương Nam hoàn toàn. Từ đời Ân Thương trở đi Hoa Bắc mới đóng góp thêm yếu tố “ngựa” vào văn hóa, văn minh chung của Trung Hoa
  25. B - Cổ sử Trung Hoa và những dấu? Sai lầm lớn nhất của các sử gia Hán tộc là kết cấu lịch sử dân tộc – quốc gia mình một cách máy móc thiếu biện chứng, bỏ quên yếu tố thời gian. Lãnh thổ Trung Hoa tới điểm “hạn” khoảng 1200 năm trước công nguyên, tức là mốc thời gian mà lãnh thổ không thể trương nở tự do được vì nó tiến đến một đường biên với các dân tộc, quốc gia khác, từ điểm này sự xê dịch biên giới luôn là kế quả của một cuộc chiến, với Trung Hoa từ mốc lịch sử này các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa Hán tộc và lân bang đều được ghi vào sách sử. Ta thử làm một con tính đơn giản, dân số Trung Hoa đời Tần khoảng 20 triệu người, 2000 năm sau là 1.200 triệu người tức tăng 60 lần, lấy tỉ lệ này ước tính dân số nhà Hạ trước Tần 2.000 năm, vương triều đầu tiên trong Tam Đại của Trung Hoa, thì dân số Trung hoa liệu được bao nhiêu người; với số dân như vậy dàn trải trên diện tích gần bằng diện tích Trung Hoa ngày nay là điều không thể có. Lý do rất đơn giản là điều kiện vật chất kỹ thuật không cho phép, với phương tiện lưu thông chính là đôi chân thì không thể có một nhà nước mà lãnh thổ rộng tới vài triệu ki-lô mét vuông bao gồm 9 châu: Duyện, Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Lương, U như đã ấn định trên bản đồ Trung Hoa cổ; các sử gia Hán tộc đều thành thực tin rằng lãnh thổ Trung Hoa to lớn như thế vì cổ sử Trung Hoa từ thời vua Chuyên Húc (2513 –n 2345 trước CN), đời vua Nghiêu (2357 trước CN) thậm chí cả đến đời Thần Nông, một vì vua của truyền thuyêt xa xôi lắm, lãnh thổ Trung Hoa đã tiếp giáp với Giao Chỉ hay Giao Châu, cũng có sách chép là Nam Giao tức lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Sử gia Hán tộc đã sai lầm khi tạo nên một lịch sử không có sự phát triển, quốc gia cũng chỉ là một cơ thể sống, có sinh ra, có lớn lên rồi tới điểm dừng hay hạn. Cũng như con người sinh ra chỉ khoảng 2 – 3 kg lớn lên tới độ 23 – 25 tuổi là điểm dừng thì nặng khoảng 50 – 60 kg, còn “Hán Quốc” mới khai sinh đã to bằng tuổi 20 – 25, đã có 9 châu mênh mông thiên địa …. đúng là thần nhân trong thần thoại…. Như vậy làm sao ta có thể lý giải một việc rất nhất quán trong cổ sử Trung Hoa. Liên tiếp từ thời Thần Nông tới Chuyên Húc và sau là vua Nghiêu …, kinh Thư, Thiên Nghiêu Điển viết: “vua Nghiêu mệnh hy thúc trạch Nam Giao…” Nam Giao, Giao Chỉ là một địa danh, một vùng đất đã có từ thời Thái cổ trong lịch sử Trung Hoa và liên tục cho đến đời Tống; vua Tống vẫn phong cho vua Đại Việt là: “Giao Chỉ Quận Vương” trước khi nâng cấp lên “An Nam Quốc Vương”, sự việc đó chỉ cách nay một ngàn năm và được ghi chép rõ ràng trong sách sử. Tìm lời giải đáp cho câu hỏi hóc búa nhưng kỳ thú này dẫn dắt đến một sử thuyết, và khi sử thuyết này được minh chứng sẽ làm đảo lộn toàn bộ lịch sử Trung Hoa, Việt Nam và Đông Nam Á. Chính sử Trung Hoa đều cho rằng thủy tổ dân tộc mình là Bào Hy, Thần Nông. Thần Nông là kết cấu ngôn ngữ Việt, nếu theo Hán ngữ phải viết là Nông Thần; đây không phải là trường hợp duy nhất vì ta gặp nhiều trường hợp như thế trong Ngũ Kinh, như: Đế Ất, Hậu Tắc,… Hậu Nghệ, V.v… Vậy các vua này là vua Việt hay vua Hán? Thêm vào đó các địa danh của Trung Hoa đầy dẫy ngôn ngữ Việt, như: Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây, … Hán tự dùng ‘sơn hà’ là ‘núi’ và ‘sông’ để chỉ lãnh thổ quốc gia, như sông phương bắc, sông phương nam, núi phương tây, núi phương đông, … vậy theo Hán ngữ phải ghi là Bắc Hà, Nam Hà, Đông Sơn, Tây Sơn …, còn Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Sơn Tây là kết cấu theo Việt ngữ? Xuất phát từ dịch học với 2 quẻ Đoài –hồ cấn – núi tượng trưng cho cái nền đất chở đỡ con người nền địa lý Trung hoa lấy sơn - hà , người Việt gọi là núi-sông để chỉ lãnh thổ quốc gia , hà là trục dọc bắc-nam nên có đất Hà bắc - Hà nam , sơn là trục ngang đông tây nên có đất Sơn đông -Sơn tây , cả Việt và Hoa đều nằm trong nền văn hóa dịch học nên đều có các tỉnh Hà bắc , Hà nam và Sơn tây ...theo ý nghĩa này , Ngặt một nỗi ...cấu trúc Hà bắc-sơn tây V.v..là cấu trúc tiếng Việt , người Tàu hiện có giải thích khác đi : Hà nam Hà bắc là 2 vùng ̣̣̣đất nằm ở bắc và nam Hoàng hà , Sơn đông Sơn tây là đất phía đông và tây của Hằng sơn như vậy ....đúng là cấu trúc Hán ngữ...., nhưng nếu đã đọc kinh thư và kinh thi ta sẽ thấy : đất phía bắc và nam Hoàng hà người Trung hoa sẽ gọi là Hoàng bắc và Hoàng nam chứ không dùng Hà bắc -Hà nam , gọi đích danh sông Hoàng để xác định vị trí chứ không dùng chữ ‘hà’ chung chung , tương tự ta có đất Hằng đông -Hằng tây chứ không có sơn đông -sơn tây , vì chỉ với chữ sơn không thì biết là sơn nào? Trung hoa có tới 5 ngọn núi thiêng còn núi không thiêng thì cả đống ...hỏi làm sao định vị ? tóm lại cũng giống như cách diễn giải .... Thần nông là người nông dân làm ruộng giỏi như thần .... đây chỉ là lối giải thích chữa cháy cho 1 sự việc không hiểu nổi mà thôi . Chỉ với hình ảnh 2 tỉnh Hà và 2 tỉnh Sơn đan chéo nhau trong 1 hình vuông ta thấy ngay việc định danh các tỉnh trên là xuất phát từ nền tảng văn hóa chứ không phải là dựa vào địa hình . Lịch sử về văn minh Trung Hoa cũng có một số điểm mà ta không hiểu nỗi. “Thời nhà Hạ (2200 trước CN) người dân đã biết ‘tát nước vào ruộng’…” rõ ràng câu này chỉ sự canh tác lúa nước; nước là điều kiện đầu tiên trong: “nước, phân, cần, giống” mà nền khoa học nông nghiệp Việt Nam đã tổng kết từ xa xưa; nước quan trọng đến nỗi “việc dẫn thủy nhập điền” được coi như một thành tựu khoa học, phản ánh trình độ văn minh của một dân tộc. Sự việc này khó hiểu ở chỗ: lãnh thổ nhà Hạ ở vùng Hoàng Hà (theo chính sử Trung Hoa) đâu có trồng được lúa nước … cây được trồng chính ở miền Bắc Trung Hoa là kê và lúa mì. Các chứng cứ về khảo cổ học và các ngành khoa học khác như nông học, thổ nhưỡng đã xác định như vậy. Ngày nay qua các di chỉ trong lòng đất, ngành khảo cổ học đã xác định được nơi sinh tụ thời cổ xưa của Hán tộc là bờ sông Hoàng Hà. Hán tộc là tộc người xây dựng được nền văn minh rất sớm, họ đã bước vào thời gọi là văn hóa gốm đỏ cách đây khoảng 8.000 năm, địa bàn của họ dịch chuyển từ tây sang đông dọc theo sông Hoàng Hà với các nền văn hoá gốm đỏ, gốm đen, rồi gốm xám. Vùng đất từ Thiểm Tây tới Hà Nam ngày nay. Vào đời Thương lãnh thổ Trung Hoa là vùng đất nằm ởgiữa 4 tỉnh: Hà Nam – Hà Bắc – Sơn Đông – Sơn Tây. Qua đời Chu thì chuyển về vùng Sơn Tây ngày nay, theo đó ta có thể xác định Hán Quốc cổ là quốc gia lục địa chưa tiến đến bờ biển; nhưng sử Trung Hoa lại ghi: “Từ đời Thương dân Trung Hoa đã biết dùng vỏ sò làm tiền để trao đổi hàng hóa…”, nên trong Hán tự đã cấu thành bộ ‘bối’ nghĩa là ‘vỏ sò’, ‘vỏ hến’ để tạo nên các từ liên quan đến việc giao thương, buôn bán … nhưng dân sinh sống sâu trong lục địa thì lấy vỏ hến, vỏ sò ở đâu ra? Sử Trung Hoa cũng ghi là vào đời Thương đã biết dùng voi trong chiến trận …, nhưng lãnh thổ nhà Thương ở vùng sông Hoàng Hà thì làm gì có voi, voi Á Châu chỉ sống ở miền xích đạo và nhiệt đới, … không lẽ sử Trung Hoa sai lầm lớn đến thế? Hai loại “vật liệu” nền tảng của văn hóa Trung Hoa là mai rùa và tre đều không phải là sản vật tự nhiên của miền Bắc Hoàng Hà. Người ta đã đào được ở An Dương thuộc phần Bắc Hoàng Hà thuộc tỉnh Hà Nam, hàng vạn mai rùa và xương thú có khắc “Hoa tự” cổ và coi đây là căn cứ để xác định trung tâm văn minh Trung Hoa … nhưng ở miền Bắc Hoàng Hà không hề có loại rùa lớn đó sinh sống, khoa học đã chỉ rõ như thế; loại rùa có mai lớn để khắc chữ chỉ sinh sống ở sông Dương Tử hay Trường Giang. Lại nữa, Dịch Lý vào đời nhà Thương được gọi là Qui Tàng Dịch là sách dịch được khắc trên mai rùa (qui = rùa; tàng = chứa). ta có thể giải thích hợp lý sự việc trên là nhà Thương trước khi chuyển về lưu vực Hoàng Hà đã có thời gian sinh tụ ở lưu vực Dương Tử hay Trường Giang và chính là ở đấy đã phát minh ra “kỹ thuật” khắc chữ trên mai rùa; sau này dù di chuyển đến địa điểm mới vẫn về chốn cũ đem mai rùa đi để sử dụng. Tương tự, tre có hàng trăm loại khác nhau; nhưng tre lớn, bản đủ rộng làm thành các thẻ để viết chữ và kết thành sách chỉ có ở vùng xích đạo và nhiệt đới, ngay cả ở Tứ Xuyên nằm trong vùng bình đới, cũng chỉ có loại tre lớn nhất gọi là tre đực hay tầm vông; thì nhà Chu ở Sơn Tây làm gì có tre lớn để làm sách, viết chữ? Đối chiếu sinh cảnh thực sự cộng thêm nghiên cứu qua ghi chép trong Kinh Thư, Kinh Thi, và Kinh Dịch ta thấy không thể xaỊ̃y ra được. Thí dụ: Đại Tượng Truyện của Quẻ Dự trong Kinh Dịch chép: “Sấm nổ trên đất, Tiên Vương dĩ tác nhạc, Sùng Đức ân tiến chi Thượng Đế dĩ phối tổ khảo…” Quẻ Dự là Quẻ Chấn chồng trên Quẻ Khôn trong quẻ gọi là Địa; Quẻ Chấn là sấm, sấm nổ trên đất là chỉ dẫn Chấn trên Khôn, nhưng cũng giúp ta hình dung cảnh đánh trống đồng. Trống đồng còn gọi là trống sấm, Quẻ Lôi, khi đánh úp trên mặt đất là Địa, âm thanh trống đồng là nhạc tế lễ, ở đây nói rõ là tế Thượng đế và sùng kính tổ tiên. Một quẻ nữa là Quẻ Tiệm nói đến ‘vũ nghi”, một nghi thức mà người tham gia lễ hội hóa trang bằng lông chim, một cảnh được khắc hoạ rõ nét trên trống đồng. Dựa trên chính sử thì chắc chắn nhà Chu chưa hề biết đến trống đồng, vì trống đồng loai I Heger chỉ tìm thấy ở Việt Nam và 2 tỉnh Vân Nam – Quảng Châu của Trung Hoa, cách Sơn Tây xa lắm. Hiện nay cách nhà nghiên cứu Trung Hoa đã phải công nhận trống đồng là vật phẩm văn hoá phi Hán, vậy tại sao hơn 2.000 năm Kinh Dịch đã biết về trống đồng, chỉ dẫn cho ta về mục đích sử dụng trống đồng (tế Thượng đế)? Cũng như đề cập đến tục hoá trang được khắc trên trống đồng? Dù vua Càn Long nhà Thanh đã tốn không biết bao nhiêu tiền để mua sách và bản đồ, mất bao công sức để tịch thu sách và bản đồ trong thiên hạ và hơn 300 quan “bác sĩ” cạo sửa suốt 10 năm trời, sửa không nỗi thì đốt cho phi tang tích, nhưng vẫn bị lọt sổ: Sách Ngự phê Thông giám Tập Lãm và Thiếu vi Thông giám, quyển Chu Ngoại Kỷ có đoạn chép (Lê Văn Siêu dịch – Việt Nam Văn Minh Sử) như sau: “Cách 1.000 năm, đến năm Tân Mão là năm thứ 6 đời vua Thành Vương nhà Chu, phía nam Giao Chỉ có người ‘Việt Thường’ sang Trung Hoa dâng bạch trĩ, qua 2, 3 lần thông ngôn nói rằng ‘đường xá xa xôi, non sông cách trở sợ rằng một lần thông sứ không hiểu tiếng nhau cho nên phải qua 3 lần thông ngôn để sang chầu’. Chu Công đáp lời: ‘Đức trạch không khắp tới nơi, người quân tử không nhận lễ sơ kiến, chính lịch không khắp tới nơi, người quân tử không nhận người ấy xưng thần.’ Người thông ngôn nói: ‘Tôi vâng mệnh những ông già (bô lão) nước tôi bảo: ‘Trời không gió dữ, mưa dầm, bể không sóng nổi đã 3 năm, hẳn là Trung Hoa có thánh nhân, sao không sang chầu.’ Chu Công đem dâng cho vua nhà Chu, để dâng lên thần linh của tiên vương, rồi đem dâng Cung điều. Đến khi sứ giả về, quên mất đường, Chu Công cho 5 cỗ biền xa, bốn mặt có diềm che đều làm cách thức chỉ nam, sứ giả đi xe ấy từ đường bể (sau này) là nước Phù Nam ở cõi đất Cao Miên, thời xưa là Lâm Ấp, đầy năm trời mới về đến nước (Việt Thường)”. Sách Thiếu Vi Thống Giám, chú giải: “Việt Thường là ‘Nam phương quốc danh, tại Giao Chỉ nam’”, có thể dịch là “tên nước nam phương, (một nước) ở phiá nam Giao Chỉ” Trong đoạn trích dẫn trên có nhiều điều phải bàn như tên nước, phương hướng nhưng điểm chính yếu thứ nhất ta cần xem xét: nhà Chu ở đâu mà sứ lại xuống thuyền về nước ở biển (sau này là) Phù Nam, Cao Miên? Rõ ràng là nhà Chu không thể ở Sơn Tây cách xa biển Phù Nam ít nhất 3.000 km. Thứ hai ta xét: nước Việt Thường không thể ở gần Cao Miên mà ở rất xa vì đi thuyền một năm mới tới. (Sách sử hiện nay cho là miền Trung Việt Nam trước đây là Việt Thường). Tới đây ta lại phải thêm một câu hỏi: Việt Thường là nước nào và ở đâu? Thêm một vấn đề nữa: Sử Trung Hoa viết về nhà Tần như sau: Nhà Tần chọn cho mình đức Thủy là đức đã thắng nhà Chu đức Hoả, màu đỏ, và nhà Tần chọn cho mình màu đen, từ ngựa tới cờ quạt đều màu đen. - Số 6: cái gì cũng số 6, trục xe 6 tấc, xe vua do 6 ngựa kéo. Tháng chọn là tháng 10, bắt đầu mùa đông, ở đây rõ ràng sử gia Trung Hoa đã vận dụng Dịch Lý vào sử, ta hãy xem: Nếu nhà Tần chọn Hành Thủy, màu đen, số 6, mà ở Thiểm Tây, Tứ Xuyên, nhà Chu không thể ở nơi nào khác ngoài Vân Nam – Quí Châu – Quảng Tây (xin xem bản đồ) tức là ở phía nam Tứ Xuyên, Thiểm Tây vì sử ghi rõ nhà Chu: đức Hoả, màu đỏ (Thực ra thì nhà Chu không phải đức Hoả và màu đỏ; sử học Trung Hoa đã cố gán ép các nguyên lý của Dịch học vào lịch sử đời Tần để phục vụ cho mục đích của họ, về mục đích của họ sẽ có phần xem xét ở phần sau; còn về nhà Chu thì đích thực ở phương Tây nên thuộc hành Kim, màu trắng). Bản đồ Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc chắc chắn không phải do người Trung Hoa lập, lý do đơn giản trong bản đồ thời này ngoài: Vị Thủy, Hoài Thủy, Kỳ Thủy, V.v…(tức là Sông Vị, Sông Hoài, Sông Kỳ, V.v…) lại còn có cả: Hà Thủy và Giang Thủy … 2 con sông chính của Trung Hoa. Hà và Giang là gì? Không lẽ người Trung Hoa không biết điều rất ư là đơn giản đó mà còn thêm chử Thủy vào; chỉ có người không phải là người Trung Hoa tưởng là tên riêng nên mới thêm chữ Thủy vào để chỉ con sông, hay do bởi không phải là tiếng mẹ đẻ của mình nên họ mới sơ xuất do quán tính và cẩu thả khi định danh nên mới có tên 2 con sông kỳ khôi là: “Sông …… Sông” (Giang = sông và Hà = sông). Còn một thực tế khó giải thích nữa: Sông Dương Tử hay Trường Giang được coi là mốc phân ranh Bắc – Nam của Trung Hoa, theo chính sử thì trước thời Xuân Thu Chiến Quốc Trung Hoa chưa biết đến miền Nam, khảo cổ học đã xác định dân miền Hoa Bắc thuộc về chủng Mongoloit, còn Hoa Nam thuộc ngành Mongoloit phương Nam, cứ theo lịch sử thì từ Bào Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Hạ Vũ, Thành Thang … tất cả là người Mongoloit cùng chủng với Mãn, Mông, Kim, Liêu V.v… Như thế sẽ có một hệ quả là: những người mang đặc điểm nhân chủng nam Mongoloit không phải là người Trung Hoa? hay, họ bị diệt quốc và bị đồng hoá thành người Trung Hoa? Điều này thật khó nói vì chính họ lại là dân “đa số” ở Trung Hoa hiện nay, và đối với người Trung Hoa huyết thống là điều cực kỳ quan trọng, không có chuyện họ gọi người khác giống là tổ tiên được; ở đây cũng không thể có sự lầm lẫn, sự thực này không thể lý giải cách nào khác hơn là lịch sử Trung Hoa hiện nay là sai. Đọc sử Trung Hoa ta thấy còn nhiều bất hợp lý: Sau khi thống nhất Trung Hoa và lên ngôi, Tần Thủy Hoàng phái đại tướng Mông Điềm đem 30 vạn quân vượt Hoàng Hà chiếm vùng Hà Sáo lập thành 44 huyện; Hà Sáo là phương bắc của Hoàng Hà, theo chính sử là đất của 2 nước Yên và Triệu, mà Yên và Triệu đã bị Tần diệt quốc có nghĩa là đất của Tần; thì Hung Nô đi lối nào mà vào tận Hà Nam. Thời Chiến Quốc không có một dòng sử nào nói đến việc Hung Nô đánh và chiếm được nước Yên nước Triệu , một chi tiết nhỏ nữa trong sử ký của Tư Mã Thiên là tướng Mông Điềm sau khi chiếm được Hà Sáo đã cấm dân ở đấy thờ ….. (1 chữ đã bị xóa), dù chữ bị xóa là chữ “Phật” hay là gì đi nữa thì cũng nói đến một điều: dân ở Hà Sáo có tôn giáo khác với dân Trung Hoa nên Mông Điềm cấm; như thế họ không thể là dân nước Yên hay nước Triệu được, hay nói khác đi họ là ngoại nhân, hay là vùng bắc Hoàng Hà mà Tư Mã Thiên gọi là Hà Sáo đó không phải là đất của Yên, Triệu; suy rộng ra là trước thời Chiến Quốc, bắc Hoàng Hà không thuộc về Trung Hoa. Sử ký của Tư Mã Thiên còn ghi một việc nữa khiến người đọc không hiểu được: “Tần Thủy Hoàng sai làm một con đường từ ‘Cửu Nguyên’ chạy suốt đến ‘Vân Dương’ … sau đó sai đắp đá ở đất ‘Cử ’ thuộc Đông Hải làm cửa phía đông của Tần. Kinh đô của Tần ở tận Thiểm Tây bên bờ sông Vị gần với sa mạc tây bắc Trung Hoa, thì lấy biển ở đâu ra mà đắp đá làm cửa biển phía đông? Liên quan đến lãnh thổ Việt Nam sử ký cũng có một đoạn không thể hiểu nỗi: Lãnh thổ của Tần khi thống nhất Lục Quốc thì phía Nam đã đến miền “Bắc Hộ”… tức là miền nhà có cửa quay về hướng Bắc ý nói đã vượt qua xích đạo quá về phương Nam nên nhà mở cửa quay về hướng Bắc để đón ánh mặt trời. Các nhà nghiên cứu đều đồng nhận: miền “Bắc Hộ” là miền Trung Việt Nam ngày nay; như thế Việt Nam đã nằm trong lãnh thổ của Tần, vậy sao còn phái tới 50 vạn quân … đánh chiếm và lập thành 3 quận: Nam Hải, Quế Lâm, và Tượng Quận? Qua rất nhiều sự việc trên đã đến lúc ta mượn kết luận của những nhà nghiên cứu khoa học lịch sử và khảo cổ học Trung Hoa đưa ra một hướng nhìn mới rất táo bạo về đất nước và dân tộc Trung Hoa. Những hình khắc cảnh lễ hội, sinh hoạt trên trống đồng hoàn toàn đồng nhất với những gì mô tả trong Cửu Ca, có nghĩa là dân tộc có cảnh lễ hội được khắc trên trống đồng và được mô tả trong Cửu Ca là 1, nếu Cửu Ca, Sở Từ của dân “trống đồng” thì đương nhiên Kinh Thi và Ngũ Kinh cũng của dân “trống đồng”. Và cũng chính những nhà khoa học Trung Hoa này đã xác định: “Trống đồng là vật phẩm văn hoá phi Hoa (Hán) và là sản phẩm của những dân tộc ít người ở cực nam Trung Hoa”, đó là các dân tộc Tày, Thái, Liêu, hay Di Lão và vài dân khác… như vậy là đã thừa nhận chính những dân tộc ít người này mới là chủ nhân của Kinh Thi, mà đã là chủ nhân của Kinh Thi thì dĩ nhiên cũng là chủ nhân của Ngũ Kinh đồng nghĩa là chủ nhân của toàn bộ văn minh cổ của Trung Hoa. Chúng ta ai cũng biết Việt Nam là 1 trong 3 trung tâm của nền văn minh trống đồng, thậm chí có thể là trung tâm lớn nhất nữa. kết luận như vậy có quá vội vã không? Không đâu, cách đây vài chục năm học giả Henre Maspréso khi nghiên cứu về sinh hoạt lễ hội và phong tục tập quán của người Thái ở Việt Nam phải thốt lên: chắc chắn tổ tiên người Thái và người Trung Hoa cổ là một. Chỉ tiếc là nhận định của ông không được quan tâm và đào sâu thêm. Trước năm 1975, có một người dũng cảm lội ngược dòng đó là Linh mục Giáo sư Lương Kim Định, bằng kiến thức uyên bác và trực giác vô cùng bén nhạy ông đã dày công nghiên cứu và xuất bản cả một tủ sách về văn minh và nguồn gốc người Việt Nam… nhưng cũng chỉ là tiếng kêu trong hoang mạc… Thực may mắn trong 10 năm gần đây ngày càng nhiều người can đảm làm việc “đội đá vá trời” đó là Nguyễn Hồng Sinh với “Kinh Dịch Phục Hy huyền diệu và ứng nghiệm” xuất bản năm 2003, là Nguyễn Vũ Tuấn Anh với “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” xuất bản năm 2002, là Nguyễn Thiếu Dũng, là Trương Thái Du với hàng loạt bài viết ngắn …,ở ngoài nước cũng có nhiều nhà nghiên cứu đang chú ý tới vấn đề này Tất cả nhằm tìm ra nguồn gốc đích thực của người Việt Nam và văn minh Việt Nam, dù còn nhiều nhận định, kiến giải khác nhau, nhiều chứng lý chưa đủ trọng lượng, kết luận chưa hiển nhiên, chưa đủ sức thuyết phục, nhưng ít nhất công sức của các vị trên cũng đã có kết quả, tạo nên sự khởi động để nhiều người vào cuộc, số người tham gia việc “đội đá vá trời” ngày càng tăng, cứ như thế tăng lên mãi thì chắc chắn có ngày “vá được trời”.